The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

VBVNHN Tam Cá Nguyệt San Kỳ 2 Tập Một

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2024-05-13 15:02:06

VBVNHN Tam Cá Nguyệt San Kỳ 2 Tập Một

VBVNHN Tam Cá Nguyệt San Kỳ 2 Tập Một

1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 251 Bà Ơi, sống ở đâu bà thấy hạnh phúc nhất? (Wo fühlst du dich am glücklichsten?) Bà có nhớ nhà không? (Vermisst du deine Heimat?) Ben là đứa cháu ngoại nay được 6 tuổi, Tết Giáp Thìn 2024 gia đình chúng tôi đi chung về Việt Nam thăm gia đình lần đầu tiên, có lẽ Ben quan sát quang cảnh đầm ấm, nhộn nhịp của anh chị em, cháu quây quần bên tôi vào dịp Tết truyền thống sau hơn 20 năm tôi mới quay lại. Cảnh đó có lẽ đứa bé lên 6 như Ben bên Đức chưa từng thấy. Nên nó so sánh giữa sự lạnh giá, không có gia đình họ hàng đoàn tụ gần gũi như bên Việt Nam và sự nóng chảy mỡ, ồn ào, náo nhiệt, đồ ăn rất ngon, đâu đâu cũng gặp người đồng hương cùng nói tiếng Việt. Một thứ tiếng „Mẹ đẻ“ mà nó không hiểu!! Ben sinh ra mang 2 dòng máu Đức Việt, mẹ là người Việt Nam, bố là người Đức. Vì cuộc sống bận rộn nên mẹ của Ben chỉ nói tiếng Đức với các con. Nghe Ben đặt 2 câu hỏi với Bà, tôi vô cùng ngạc nhiên và không khỏi tránh được xúc động. Bà Ơi, sống ở Đức hay ở Việt Nam, ở đâu bà thấy hạnh phúc nhất? Và, bà sống xa quê bà có nhớ nhà không? Chỉ cần nghe 2 câu hỏi này thôi là tôi đã nghẹn ngào, và muốn giải thích cho cháu ngoại nhiều hơn nữa, nhưng có lẽ sự thông minh nhạy bén của cháu, có lẽ cháu cũng hiểu được tâm trạng của bá rồi. Năm 2022 chiến tranh Nga Ukraine bùng nổ, nước Đức cũng xôn xao vì cuộc chiến này không xa xôi gì, mà nó sát ngay biên giới Ba Lan. Cũng Ben, đến cạnh bà thỏ thẻ: -Con cầu mong cho chiến tranh sớm chấm dứt để Ba con không phải đi lính!! Trời Ơi ai đã gieo hai chữ „Chiến tranh„ vô đầu đứa bé ngây thơ như cháu tôi, và từ đâu nó lo sợ ba nó sẽ bị bắt đi thi hành nghĩa vụ quân sự khi đất nước lâm nguy? Ôi Chiến Tranh đã cướp mất đi sự vô tư của đứa bé như Ben. Tôi, bà ngoại lợi dụng thời gian gần cháu dù rất ít để chơi với chúng, vẽ hoạt họa với chúng, hầu mang chút không khí một gia đình Việt tại Đức, còn tham vọng truyền cho 2 cháu ngoại nói-viết-đọc được tiếng „mẹ đẻ“ như tôi đã từng dạy cho 2 con tôi khi xưa, sao tôi thấy khó khăn quá.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 252 Hôm bà sắp có Birthday. Trước ngày SN bà nói với Ben: - Món quà Sinh Nhật mà bà thích nhất mà Ben có thể tặng bà là gì con biết không? Ben ngước mắt nhìn chờ đợi. Bà nói: Bà ước là ngày Sinh Nhật của bà Ben sẽ không chơi bấm máy- Không vào Internet mà sẽ học viết, học vẽ với bà. Mình chơi chung với nhau.Okay? Ben trố mắt: Ồ học viết. Học vẽ cả ngày hả bà? Bà cười: Không, chỉ chút xíu thôi... Thế là như đã hẹn trước ngày bà có SN Ben phập phồng cầm giấy bút chạy khắp nhà tìm bà. Nói: Mình học trên phòng con nha bà. Ừ. Hình như có điều gì rất mới mẽ với nó. Bà cứ hí hoáy vẽ linh tinh mà con nít nó khoái, hình như có gì khác với bấm máy điện tử chơi 1 mình trong phòng. Võ Thị Trúc Giang Lúa 9 21.04.2024


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 253 • Bà ước là ngày Sinh Nhật của bà Ben sẽ không chơi bấm máy- Không vào Internet mà sẽ học viết, học vẽ với bà. Mình chơi chung với nhau. Okay?


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 254 Bà cứ hí hoáy vẽ linh tinh mà con nít nó khoái, hình như có gì khác với bấm máy điện tử chơi 1 mình trong phòng.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 255 CHỊ TÔI - Ngọc Hạnh Chị yêu thương, Hôm nay vùng HoaThinh Đốn nắng vàng rực rỡ, ấm so với tuần trước trời am u và lạnh, chẳng ai muốn ra khỏi nhà nếu không có việc cần.Những khóm hoa daffodill khoe màu vàng tươi hay màu trắng xinh đẹp.Đào, mai, các loại hoa khác trong xóm và dọc theo đường đi đầy hoa, chẳng thấy lá. TV cho biết hoa đào ở Tidal Basin, thủ đô Hoa Kỳ đang nở rộ. Năm nay đào ra hoa sớm có lẻ nhờ mấy hôm trời ấm. Cây trong vườn bắt đầu nhú nụ và lá non. Cảnh vật thật dễ thương và khí hâu ôn hòa. Ra đường không cần phải mặc áo khoác dày hay mang ủng cao nữa. Em càng vui hơn khi vào nhà mở laptop thấy điện thư chị. Đã lâu không thấy chị xuất hiện trên diễn đàn mọi người cũng lo. Niềm vui không kéo dài và em ngạc nhiên khi chị cho biết không được khỏe, hay phiền muộn và mắc bệnh trầm cảm dù có anh ân cần yêu thương săn sóc. Thưa chị vào tuổi chị ốm đau chút ít không sao tránh khỏi nhưng em không hiểu được khi chị cho biết chị bị bệnh "trầm cảm". Em đồng ý với chị em là chị được Thượng Đế ưu đãi, có mọi thứ người đời ước mơ: xinh đẹp, tiền tài, có người bạn đời hết lòng yêu thương chiều chuộng, các con thành đạt và hiếu thảo... Thưa chị theo em có người ao ước được một phần của chị là hạnh phúc rồi thi dụ như nhan sắc hay tiền tài. Ngoài ra chị còn sáng tác văn, thơ, được anh chị em hết lòng thương mến vi chị dịu dàng, hòa nhã với mọi người. Theo em chị không có lý do để "trầm cảm" , chị được rất nhiều ơn phước so với những người cùng tuổi, cùng trình độ với chị. Không cần đâu xa trong nhóm 9 anh chi em chúng ta, 4 ngườì phải sống lẻ loi do bạn đời sớm ra đi, có người mới góa bụa, có người một nửa ra đi hàng mấy chục năm trước. Nếu chị hắt hơi sổ mũi có anh quan tâm thăm hỏi nhưng những người không có bạn đời bên cạnh, con cháu ở xa thì ai là chăm nom khi đau ốm. Quý vị ấy phải tự lo cho bản thân mà thôi. Có người còn phải chăm sóc chồng ốm đau bệnh tật. Chị tưởng tượng những người đơn thân, sống cu ky một mình, dù con cháu bên cạnh, cũng lẻ loi. Con cháu đâu có thì giờ nghe bà già tỉ tê tâm sự. Ai là người cùng "xem hoa nở hay chờ trăng lên". Khi các con trưởng thành


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 256 có gia đình, có tổ ấm riêng tư, không mấy cô, cậu chịu sống chung với cha mẹ nhất là ở các xứ tự do. Vả lại cha mẹ cũng không muốn ở chung với con, mất tư do của người trẻ tuổi. Thường xuyên thăm viếng nếu ở gần, điện thọai trò chuyện nếu vì công việc làm ăn cô cậu phải định cư tiểu bang khác. Sống tử tế,có nghề nghiệp tốt đẹp cũng đủ làm cha me vui lòng rồi. Em như các anh chị em khác, mong chị mãi binh an và hạnh phúc. Ước chi em là chuyên gia tâm lý hay bác sĩ để giúp chị khỏi bệnh trầm cảm hoặc khi đau ốm. Nhân tháng tư sắp đến, ngày đổi đời của đồng bào miền Nam, em xin kể chuyện ngày xưa của người quen thân trong gia đình, mong chị giải trí, khuây khỏa chốc lát. Nếu nói tên có thể chị biết vì chị X cũng là dược sĩ như chị, tuy it tuổi hơn, nên em không cho biết tên thật. Anh X chồng chị ấy là Y sĩ trưởng bệnh viện miền Tây. Chị X bỏ việc ở Saigon , theo chồng về miền Tây, đứng tên cho nhà thuốc trong thành phố gần bệnh viện. Dân chúng miền Tây hiền lành,chất phác, đời sống dễ dàng, thực phẩm, trái cây tươi ngon, tôm cá dồi dào, trường học tốt. Lúc đầu anh chị định sống tạm, làm việc ít lâu rồi trở về thủ đô, nơi có ông bà Nội, Ngoại các cháu cư ngụ. Nhưng sau thời gian làm việc với các bác sĩ, nhân viên y tế và văn phòng, sự chân thật, khả năng, tinh thần trách nhiêm của họ làm anh cảm tình và quyết định chọn miền Tâynước ngọt, đất đai phi nhiêu làm quê hương. Anh chị mua ngôi nhà xinh đẹp từ cuối nắm 1973. Cuộc sống yên lành cho đến tháng 4 năm 1975 mọi việc thay đổi. Anh bị đi cải tạo, nhà nước đổi tiền, ai cũng nghèo, bo bo thay cho cơm trắng gạo ngon, thịt cá hiếm hoi trong bữa cơm hằng ngày: Đang là Bác sĩ thành tù nhân Chuyên khoa tài giỏi chẳng ai cần Xa đàn con dại vợ thân mến Đốn củi chặt tre phải thực hành… Khi tình hình đổi thay nghiêm trọng, các cố vấn Mỹ cho biết họ đã dành chỗ gia đinh anh nếu anh muốn đi Mỹ. Bố Mẹ anh chị đều là người Bắc di cư, nhưng các cụ tùy anh quyết đinh. Anh nghĩ thời đại nào cũng cần thày thuốc nhất là những năm chiến tranh, miền Bắc không có thì giờ và phương tiện đào tạo những bác sĩ chuyên khoa nhưng anh lầm. Sau khi bệnh viện bị tiếp thu, anh và một số đồng nghiệp bị đưa đi cải tạo. Nhà thuốc chị đứng tên cũng bị nhà nước tiếp thu. Chị vẫn làm việc nhưng là công nhân viên, lương mấy chục


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 257 một tháng. Anh chị 6 con, đứa bé nhất khoảng 2 tuổi. Các cháu cách nhau vài tuổi nên trước kia nhà có 3 người giúp việc kể cả chị bếp. Anh đi cải tạo, chị đi làm việc, các con nhỏ cần người đưa đi học và trông nom săn sóc. May mắn anh chị có chị bếp lâu năm,siêng năng trung hậu,rất thương mến các em. Lương chị X vài chục một tháng nên chị cho người giúp việc nghỉ bớt. Chị bếp tình nguyện ở lại đến khi ở cải tạo anh về rồi tính sau. Với mọi người chị bếp là bà con. Thời gian ấy không ai dám thuê người làm. Vì là công nhân viên nhà nước nên cái nhà to, đẹp anh chị không bị tịch thâu nhưng các vật dụng , bàn ghế, món gì có giá đều bán đi dần để có tiền đi chợ... Gần 2 năm sau anh được thả nhưng không được trở về nhiệm sở cũ. Bằng mọi giá anh vượt biên dù các con còn nhỏ. Anh chị mang hết các con theo tuy biết cuộc hành trình nhiều nguy hiểm. Nếu chết thì cả nhà cùng chết. Chiếc thuyền nhỏ chở khoảng hơn 40 người gồm gia đình các y, dược sĩ và số ít sĩ quan, toàn những người liều mạng, đi tìm tự do..Có một người chỉ là hạ sĩ quan nhưng giỏi máy móc và đáng tin cậy đươc đi để trông coi máy tàu. Anh mang vợ con theo miễn phí, khỏi đóng góp tiền bạc chi cả. Chuyến đi tưởng là nằm trong bụng cá nhưng may mắn thành công, đến Thái Lan. Sau cùng anh chị được định cư ở Mỹ nhờ có người bà con bảo lãnh. Mới đến Mỹ chị X đi làm teller toàn thời gian bằng xe bus ở ngân hàng, về nhà còn lo cơm nước để anh đi học lại lấy bằng Bác sĩ. Các con đi học về đứa lớn trông đứa nhỏ, em bé nhất đi mẫu giáo. Cả nhà ở chung với bà chi thời gian đầu. Khi anh học xong và xin được việc làm, chị đi học lại để lấy bằng hành nghề Dược Sĩ. Trường cách nhà 3 tiếng, chị phải ở trọ chỉ về nhà những ngày cuối tuần. Chị gầy đi nhưng không bệnh và cũng chẳng phàn nàn. Tuy cực thân như khỏe cái đầu, anh nói thế. Anh chỉ tiếc là do quyết định sai lầm làm khổ lây vợ con. Tuy nhiên trời thương, gia đinh còn đầy đủ trong cuộc hành trình khó khăn, thiếu thốn và nguy hiểm. Cậu Út bé nhất cũng bình an khi đi đường.Anh cho biêt tuy cực nhưng so với lúc đi cải tạo thật chẳng thấm vào đâu. Thưa chị, cùng là dược sĩ nhưng chị thong dong ở ngoại quốc,của cải không bị mất vì anh làm việc nước ngoài trước năm 1975. Ngoài ra lúc nào anh cũng bên cạnh chị còn người quen em thì phải nuôi chồng trong tù. Đến xứ tự do


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 258 phải đi còn học dược trở lại tuy thời gian ngắn hơn, mới được hành nghề. Có thể chị chưa bao giờ đi học đi làm bằng xe bus lúc trời nắng nóng nực hay khi tuyết rơi lạnh lẽo như bạn em và chưa bao giờ nuôi người thân bị tù. Chị yêu thương, theo em so với người cùng học lực, chị thật khỏe như thần tiên, dù ngày nay các con của anh chị X đều thành đạt nhờ nhà nước Hoa Kỳ tạo điều kiện dễ dàng. Sáu người con đã có 5 người theo nghiệp cha làm bác sĩ, chỉ một người theo nghề Mẹ làm dược sĩ. Các cháu học giỏi nên được học bổng, anh chị không tốn kém nhiều. Tuy nhiên anh X đã qua đời hơn 10 năm rồi. Chị X sống mình một dù các con đều nhà cao cửa rộng. Chị không muốn phiền các con nên chỉ ở gần mà không ở chung.Tiếc là quê hương chúng ta lại mất thêm những người trẻ tuổi thông minh, ưu tú… Thưa chị mấy ai sống đời đời và có bao nhiêu người tránh khỏi phiền muộn trên thế gian. Theo em chị là con cưng của gia đinh và của…ôngTrời luôn. Mong chị quẳng gánh lo đi, sống vui và sống khỏe để anh và những yêu mến chị được an lòng. Cầu xin ơn trên ban phước lành cho anh chị và tất cả đồng bào chúng ta, ở quê hương cũng như hải ngoại... Thương chi rất nhiều. TB: Em có mấy câu văn vần tặng chị và quý độc giả: CHỊ TÔI Xuân về nắng ấm xuyên cành lá Mai, đào nở rộ trước sân nhà Chị hiền thân mến than đau ốm Trầm cảm không vui lúc tuổi già Cao tuổi chị tôi vẫn mặn mà Đẹp xinh, quyến rũ và duyên dáng Chồng yêu bạn quý con thương mến Chúc chị an vui, hạnh phúc nha Ngọc Hạnh


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 259 GÀ TRỐNG CHĂM CON Nói đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 hầu hết những người dân miền Nam Việt Nam đều biết và nhớ mãi, cái ngày thống khổ đổ ập xuống như một cơn cuồng phong. Vào khoảng đầu tháng sáu, theo lệnh của Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn, Gia Định, kêu gọi tất cả Quân, Cán, Chính các cấp phải mang theo vật dụng cá nhân và lương thực trong 10 ngày hoặc một tháng. Ông Chu cùng hàng trăm, hàng ngàn người lũ lượt đi trình diện, xếp hàng rồng rắn trước các trường trung, tiểu học để được ghi danh “học tập chính sách của đảng và nhà nước”. Một tháng trôi qua nhanh, không thấy ai trong số những người tập trung “học tập” trở về. Tất cả đã vào tròng, Cộng Sản lộ nguyên hình con cáo già. Vào một đêm không trăng sao, ông Chu cùng bạn bè được đưa lên những chiếc xe bịt bùng, chở đến Long Khánh, tại căn cứ Sư Đoàn 18 Bộ Binh cũ được vài tháng. Rồi chuyển qua Long Giao chờ thanh lọc đưa ra Bắc. Sau những năm tù đày, từ Sơn La đến Vĩnh Phú, cái đói, cái rét của núi rừng nó hành hạ người tù, thật khủng khiếp không tả nổi. Ông Chu lại được đưa trở về miền Nam ở GiaRay một thời gian nữa, nhưng dù sao khí hậu trong Nam cũng ấm áp và được gần gia đình hơn. Thế rồi ông được thả về vào một buổi sáng mùa đông năm 1982, trên chuyến xe đò về Saigon ông đi cùng vài người bạn. Nhưng mỗi người một ngả, người thì về Thị Nghè, kẻ về Khánh Hội, còn ông về xứ đạo Nghĩa Hoà gần khu Ông Tạ. Các bạn đồng hành vui vẻ, háo hức vì sắp được đoàn tụ với gia đình vợ con. Riêng ông Chu vẻ mặt buồn hiu, lơ đãng nhìn cảnh vật lướt qua bên đường. Chiếc xe ôm rẽ vào con đường chính của xứ đạo, đến gần cổng nhà thờ thì thả ông xuống trước căn nhà lầu xây xinh xắn, lớp vôi trắng đã ố vàng theo thời gian. Chưa gõ cửa vội, ông đứng lặng nhìn căn nhà thân yêu, sau bao năm xa cách. Ra mở cửa chỉ có Hường, đứa cháu gọi ông bằng cậu. Không khí trong nhà ngột ngạt, yên lặng nặng nề. Ông bỏ chiếc ba lô đã bạc mầu xuống đất. Đứng nhìn những đồ vật quen thuộc, chiếc bàn, chiếc ghế, tủ chè, tủ đứng, đã từng ghi lại bao nỗi thăng trầm của gia đình, vẫn còn nguyên vẹn. Có tiếng mẹ ho trong buồng ngủ vọng ra, làm ông nhớ đến người cha đã mất hồi ông đang bị lưu đày biệt xứ, không thể về chịu tang được, ông buồn lắm.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 260 Vài người hàng xóm đến hỏi thăm và chúc mừng. Nhưng ông Chu không vui, mẹ biết ý bảo ông nghỉ ngơi vài ngày, rồi con Hường đến nhà người em họ để hỏi địa chỉ đi kiếm vợ con, nghe đâu mẹ con nó về quê tuốt ở Lâm Đồng Đà Lạt. Ông đưa mắt nhìn con Hường đang đứng trước mặt, to xác nhưng đầu óc nó như đứa trẻ con. Hường là đứa cháu ngoại mẹ ông nuôi từ nhỏ. Khoảng đầu thập niên sáu mươi, lúc ông đang ôn thi trung học, thì nghe tin người chị lớn nhất, sanh ra một đứa con gái bị sứt môi xấu xí, sợ xóm làng bà con chê cười chị lén đem vào gửi trong cô nhi viện, mẹ ông biết được đến rước về như nhận một đứa con nuôi, bà đưa nó đi vá môi coi cũng đỡ hơn, nhưng nói còn hơi ngọng. Hường rất ngoan nên ông Chu thương nó như con. Sau này đã làm cho vợ ông ghen tức và ghét nó vô cùng, vì lòng ganh tỵ ấy đã để lại hậu qủa mà đứa con gái nhỏ của ông phải gánh chịu. Đó là bé Liên, con bé mũm mĩm thật dễ thương, nhưng trong xóm ai cũng lấy làm lạ vì “cái môi vá tự nhiên” của nó, hỏi ra thì bà Uyên vợ ông Chu bực tức kể về một điều kỳ diệu và huyền bí. Vào cuối năm 1974 bà sinh con bé Liên, ông Chu đã nhờ một vị Bác Sĩ là bạn thân của ông đỡ đặc biệt cho bà, nhưng khi con bé vừa lọt lòng mẹ, đã làm cho các Bác Sĩ tại nhà thương ngạc nhiên, môi trên của nó có một cái sẹo dài ở gần nhân trung kéo từ lỗ mũi xuống môi, còn rõ những mũi chỉ khâu như người sứt môi được vá lại, bà vừa chỉ cho mọi người xem, vừa phân bua là từ lúc sinh ra môi nó đã như vậy. Trước kia vợ chồng ông Chu sống chung với cha mẹ, vì ông Chu là con út, các anh chị ông đã có gia đình và đều ở riêng. Rồi sau ngày đổi đời, bà Uyên mất việc trong Ngân hàng, chồng đi tù cải tạo, một nách ba đứa con dại, bà không biết làm gì để sống, may nhờ mẹ chồng cũng có của ăn của để, nên thoạt đầu bà không phải vất vả buôn đầu chợ bán cuối chợ, chạy bữa sáng mất bữa tối, như các bạn cùng hoàn cảnh. Nhưng rồi “miệng ăn núi lở” dần dần tiền dành dụm cũng vơi, mẹ chồng con dâu đâm ra xích mích. Vốn dĩ ngày trước mẹ chồng đã không ưa gì nàng dâu này, vì cụ là người Bắc di cư ngoan đạo, còn bà Uyên người Đà Lạt bổn đạo mới. Mỗi sáng Chúa Nhật, ông Chu đi lễ thường đến trễ về sớm, nên cụ gọi dậy và mắng: “Mày cứ nằm ôm mãi cái hũ hèm à, dậy ngay đi lễ không thì muộn rồi!.!..” thế là bà Uyên chọc tức cụ, không trả lời, nằm ôm chặt chồng hơn. Đi đâu bà Uyên cũng kể như vậy rồi còn thêm: “Uyên rất ác cảm với mấy bà Bắc đội khăn mỏ quạ, đi xe buýt mà gặp mấy bà đó, không bao giờ tôi nhường chỗ”. Rồi bà nói như oán trách: “tiền của cụ còn nhiều mà bây giờ cho mẹ con tôi ăn riêng, mỗi


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 261 tháng chỉ đong cho một bao gạo và một chai nước mắm”. Thế rồi bà lấy cớ là cụ không đưa tiền, nên từ đó bà không đi thăm chồng nữa. Lại nói về Hường. Nó rất được việc, thỉnh thoảng có giấy báo thăm nuôi gửi về mà mợ nó lờ đi, thì bà ngoại mua đường, đậu, thịt chà bông, mắm ruốc, cá khô….Lên phường xin giấy phép đi đường, rồi gửi nó theo mấy người quen có chồng tù cải tạo cùng địa chỉ với ông Chu, để đi tiếp tế cho cậu. Thế nhưng khi con Hường đi thăm ông Chu về, bà Uyên đến tận nhà người dẫn nó theo để chì chiết trách móc: “Tại sao chị lại chỉ đường, chỉ lối cho nó đi thăm chồng của tôi”. Thật là trớ trêu! Cứ thế cơm không lành canh không ngọt, không khí trong nhà như địa ngục. Rồi một hôm, bà Uyên đòi mẹ chồng cho một số tiền để về quê làm ăn. Cụ sẵn lòng nhưng bảo với bà: “Chị đi đâu thì đi, để các đứa cháu lại cho tôi nuôi”. Bà Uyên biết cụ rất thương cháu, nhưng phớt lờ cứ dẫn con theo. Quê bà Uyên ở vùng Đa Thiện Đà lạt, nơi đây sống bằng nghề trồng rau và cây ăn trái như: Dâu, bơ, hồng, đào, đặc biệt là atiso một loại đặc sản nổi tiếng ở Đà lạt. Cha mẹ bà gốc người Phan Rang vào làm ăn tại đây đã mấy đời. Nhưng song thân bà mất đã lâu, bây giờ chỉ còn người bác già yếu. Bà Uyên không quen việc trồng cấy, ra thuê căn nhà nhỏ gần phố để dễ làm ăn hơn. Bà để liều đứa lớn trông đứa bé, rồi đi kiếm việc làm. Mới đầu bà xin làm ở tiệm chuyên may quần áo bỏ mối, dễ nhưng không làm được vì chân tay vụng về. Bà đổi qua luộc khoai lang bán dạo, nhưng không biết cách luộc, củ khoai quả chuối vớt ra, thâm đen không ai mua, lại bưng về mẹ con ăn trừ bữa. Sau này bà theo bạn bè buôn hàng chuyến, lúc thì xuống miền Tây mua gạo về bỏ mối, lúc thì ra tận miền Trung buôn thuốc tây, toàn đồ quốc cấm. Không quen tính toán suýt mất vốn mấy lần. Sau cùng bà Uyên đành hùn hạp với một gã chuyên mánh mung, vì “đi buôn có bạn, bán có phường”. Bà Uyên đi từ sáng tới chiều tối mới về, để lũ con nheo nhóc. Thằng Chiến lớn nhất hơn mười tuổi, đã hiểu chuyện, nó luôn tỏ ra bất mãn với mẹ. Một bữa gã đàn ông hùn hạp khoảng ngoài năm mươi, đậm nét phong trần, theo mẹ nó về nhà ở. Nó chống đối ra mặt, sau một hồi cãi vã bị ăn hai cái tát, nó liền bỏ nhà ra đi! Thằng Chiến lang thang mấy ngày bụng đói meo. Nó lần mò đến những quán ăn ngoài chợ xin rửa chén và dọn dẹp. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp lại chịu khó làm việc, bà chủ trả công, còn cho chén cơm, nó ngồi chồm hổm ở góc bếp ăn lấy ăn để. Đêm đến nó ngủ ngoài hiên các cửa hàng có mái nhô ra, mặt nó lúc nào cũng gườm gườm không cười không nói. Mỗi lần nó đi ngang quán cà-


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 262 phê đầu đường, mấy anh thanh niên vô công rỗi nghề, chỉ chỏ bàn tán: “Thằng nhỏ đó, nghe nói ba nó đi ‘cải tạo’ ngoài Bắc, má nó cặp với thằng cha trùm buôn lậu”. Chiến giả bộ không nghe, đầu cúi gằm lủi nhanh như ma đuổi. Nhưng rồi ít lâu sau, những thằng bạn xấu, đã rủ nó đi xa nơi quen biết, đến bến xe hành nghề móc túi, rạch giỏ, lúc ẩn lúc hiện trong các chợ búa, rạp hát đông người qua lại. Mới có mấy tháng mà thằng Chiến khác hẳn, mấy thằng bạn nó trông mới ghê, mặt mũi lem luốc, đen đủi, con mắt lấm lét láo liên, đầy gian manh. Chúng luôn thay đổi địa bàn để tránh công an truy lùng. Dù đi đâu, thỉnh thoảng thằng Chiến cũng quay về xóm lao động, nơi căn nhà có má và em nó, để nghe ngóng tin tức ba. Vì nó nghe người ta đồn, dạo này tù cải tạo được thả về nhiều lắm, nó hy vọng một ngày rất gần ba sẽ đón anh em nó về nuôi. Sau này nó ghé về thường xuyên hơn, rồi dặn em khi nào ba về thì cho nó biết ngay. Mấy bà hàng xóm tốt bụng an ủi, Tết này thế nào ba mày cũng về. Nghe thế anh em nó mừng ra mặt. Chiến tưởng tượng ra cảnh gia đình xum họp cùng nhau ăn một cái Tết đoàn tụ. Ba nó sẽ mua nhiều bánh mứt ngon, quần áo mới cho chúng. Nó lại được cắp sách đến trường, không bị những cặp mắt tò mò khinh rẻ của những người hàng xóm nhiều chuyện. * Theo lời chỉ dẫn của một người bà con bên vợ, ông Chu bắt chuyến xe đò sớm nhất. Từ Saigon lên Đà Lạt khoảng ba trăm cây số, ngồi trên xe đò bảy, tám tiếng đồng hồ mỏi lưng chùn gối. Đến nơi vào một buổi chiều lãng đãng sương mù, thời tiết nơi đây thật mát mẻ dễ chịu, đã làm nỗi nôn nóng gặp vợ con của ông dịu xuống. Những cây hoa anh đào đang nghỉ đông, bất động bên đường, lá rụng hết, chồi cũng ngủ yên, chỉ còn trơ lại cành khô như những cánh tay gầy vươn xa. Tìm địa chỉ nằm sau nhà thờ Chính Toà Đà Lạt. Từ chợ Đà Lạt ông đi qua cầu Ông Đạo, rồi rẽ phải đi đến cuối đường Lê Đại Hành sẽ tiếp tục rẽ vào đường Trần Phú (trước là tên BS Yersin) nhìn lên ông đã thấy tượng con gà được đúc trên đỉnh tháp chuông cao chót vót, nên người ta còn gọi là Nhà Thờ Con Gà. Đi qua khuôn viên nhà thờ, ông xuống hết con dốc dài rồi quẹo phải men theo đường mòn, đi qua vườn mận nương theo triền đồi, tìm mãi mới thấy số nhà đã mờ nhạt. Cánh cửa khép hờ, ông gõ nhẹ rồi đứng chờ. Đứa con gái lớn đang ngồi viết bài đứng dậy ra mở cửa, khi thấy người lạ nó lễ phép chào. Đứa em đang chơi sau bếp cũng chạy lên ngơ ngác nhìn. Ông Chu bùi ngùi nhận ra chúng ngay, giang hai tay như muốn ôm các con vào lòng, giọng xúc động run run : “Thằng Chiến đâu? Con Bích, con Liên phải không? Ba đã về với các con


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 263 đây” chúng mở lớn mắt ngỡ ngàng nhìn ông một lúc, rồi cũng chạy ùa đến ôm lấy ba. Vì chúng được coi hình và lúc trước bà nội hay nhắc nhở đến ba chúng nó. Không thấy thằng Chiến đâu, ông Chu đang hỏi các con, thì nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, quay lại, chợt vợ ông xuất hiện trước cửa, chắc vừa đi đâu về ăn mặc tươm tất đẹp đẽ, tay bế đứa con chừng một tuổi. Bà Uyên khựng lại không bước đến, chỉ nhìn ông không nói được gì. Mấy đứa con mải chia nhau hộp bánh kẹo ông vừa đem từ Saigon lên, không để ý gì đến cha mẹ. Bà Uyên ngồi vào bàn đối diện, nước mắt chảy ra nghẹn ngào. Ông Chu cúi đầu lặng lẽ, nuốt lệ vào tim, bằng lòng với sự im lặng của mình. Ngước đôi mắt u buồn bà Uyên lúng túng nhìn ông như muốn nói gì rồi lại thôi. Một cảm giác ân hận muộn màng, lỡ bước sa chân rồi, như người lỡ tay làm vỡ chiếc bình pha lê hạnh phúc, một báu vật thiêng liêng quý giá của đời mình. Chồng ngồi đây, con ngồi đó, mà bà không dám nhìn, bao năm xa cách, ngày gặp lại chính ra phải mừng thì bà lại khóc! Ông Chu hứa bỏ qua những lỗi lầm, khuyên bà hãy bỏ tất cả, trả đứa con ngoại tình cho cha nó, rồi về Saigon với ông và các con. Đúng ra ông không thể tha thứ cho vợ được, nhưng ông nghĩ đến con cái chúng cần phải có tình thương của người mẹ. Ông xót xa bảo vợ : - Tôi đã biết hết mọi chuyện nhưng sẽ tha thứ cho mình! Hãy trở về cùng tôi lo cho các con. Dù ông Chu hứa bỏ qua, nhưng bà không đành lòng bỏ lại đứa con vô tội còn nhỏ dại, chỉ trả lời: -Thôi, đã phóng lao thì phải theo lao, em không về ngôi nhà đó đâu!.…Mong anh hiểu và thông cảm. Nghe bà trả lời dứt khoát vậy, ông không biết nói gì hơn chỉ hứa hẹn khi nào bà cần ông giúp đỡ, hoặc muốn quay về với gia đình ông cũng sẵn sàng. Sau bao năm tù đày gian khổ trong địa ngục trần gian, đã nếm đủ đắng cay của cuộc đời, bây giờ với thân phận một kẻ đang bị quản chế, mà chính sách hộ khẩu khắc nghiệt không thể đi hoặc đến những nơi mình muốn, nên sau khi thỏa thuận với vợ, phải đi tìm đứa con trai đầu lòng của ông ngay. Ông về thu xếp, đợi vào đầu niên học tới, sẽ đến bắt lại ba đứa con. Rồi ông thất thểu quay về một mình. Chán ngán cảnh đời đen lẫn trắng. Hận người phụ nghĩa bạc như vôi. Cúi mặt đất dày đành im tiếng.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 264 Ngẩng đầu mây trắng ngạo nghễ trôi. ( ST ) Nhớ ngày ông mới về nhìn nhà cửa lạnh lẽo điêu tàn, gia đình tản mát, cha đã mất, mẹ thì già yếu, tại địa phương ông luôn bị theo dõi, đối xử phân biệt, lúc lên phường trình diện vừa chạm mặt công an khu vực ông lại phải nghe những câu nói quen thuộc nhàm chán: “Anh đã được Cách Mạng khoan hồng cho về địa phương tiếp tục được giáo dục, để mau chóng trở thành con người của Xã Hội Chủ Nghĩa?..!.”. Rồi họ nói về điều kiện quy định của phường, trong vòng sáu tháng muốn có hộ khẩu thường trú thì phải có việc làm, nếu không thì ông buộc phải đi kinh tế mới. * Từ lúc đón các con về bao nhiêu thứ phải lo lắng, nhìn đàn con xanh xao, gầy còm lòng ông đau như thắt. Đã mấy tháng rồi ông Chu vẫn chưa tìm được việc làm, phần vì chưa có hộ khẩu, lý lịch lại quá tệ vì thế các xí nghiệp nhà nước không nơi nào nhận. Con Hường nấu nồi cháo lòng cho ông ngồi bán trước cửa nhà, kẻ đi qua người đi lại thương hại, bảo nhau ghé vào ăn ủng hộ cho ông, nên khoảng xế trưa là nồi cháo hết sạch bách, nhưng công an khu vực đến cảnh cáo ông không được buôn bán, phải đi lao động, vì buôn bán là ăn bám. Ông nghĩ ở thành phố mà không buôn bán thì làm gì có đất mà lao động, sau nhà ông chỉ còn miếng đất lộ thiên bằng manh chiếu để phơi quần áo, chứ trồng cấy được gì? Ông lại thất thểu đi tìm việc, thì may thay vào một buổi sáng đẹp trời vừa vào quán cà phê đầu lối ngồi chưa ấm chỗ, ông gặp một bạn học hồi xưa cũng đi tù “cải tạo” về, đang dựng chiếc xích lô trước quán bước vào, nhận ra nhau vồn vã hỏi thăm, sau khi biết gia cảnh, người bạn liền chỉ cách và dẫn ông đến giới thiệu chủ quen cho ông thuê một chiếc xe xích lô. Ông mừng quá, sau khi ký giao kèo thuê xe, ông về nhà lấy tiền đặt cọc luôn. Sáng hôm sau ông thức dậy sớm hơn thường lệ, khoác vội chiếc áo đã sờn vai, cho hợp với chiếc mũ bạc màu, ngồi lên chiếc xe đạp cũ lặng lẽ đến nhận xe. Ông đẩy chiếc xích lô còn khá tốt, đến một con đường vắng mới dám leo lên yên xe cao quá tầm, vừa tập lái, tập đạp cho quen chân, chiếc xe lắc qua lắc lại, có lúc leo lên lề, rồi lật ngang làm ông té xuống đất đau điếng, ông không nản tập đi, tập lại, bẻ tay lái qua trái, qua phải nhiều lần thì ông quen dần. Hôm sau ông vừa đón khách vừa thực hành và học hỏi thêm kinh nghiệm điều khiển xe.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 265 Nhưng có một điều lấn cấn đối với ông là tên những con đường cũ đã bị đổi theo vận nước, mà Cộng Sản Việt Nam muốn xoá đi những kỷ niệm của VNCH ngày xưa, như bài hát “Saigon Niềm Nhớ Không Tên” của NS Nguyễn Đình Toàn: “Saigon ơi! Ta mất người như người đã mất tên, như giòng sông nước quẩn quanh buồn, như người đi cách mặt xa lòng! Ta nhủ thầm em có nhớ không? Saigon ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao, trong niềm vui tiếng hỏi câu chào, sáng đời tươi thắm vạn sắc mầu, nay còn gì đâu.?.!….” Mặc dù thời còn đi học, ông Chu và các bạn cùng trang lứa thường lang thang rong chơi trên khắp các con đường của Thủ Đô Saigon, không con đường nào mà không biết. Vậy mà bây giờ đã bị thay đổi thành những tên xa lạ. Tệ hơn nữa khi lấy tên Hồ Chí Minh là tội đồ dân tộc, thủ phạm bán nước! Để thay cho một tên Saigon thân thương đã có tự bao đời, đã ăn sâu trong lòng những người miền Nam. Phải mất một thời gian ông mới quen được những tên đường mới khi người khách bất chợt phán: “Ông cho tôi đến đường Nguyễn thị nhỏ?.!..”, hay có lần: “Bác xích lô ơi làm ơn chở tôi đến đường Hồ Tùng Mậu?.!” Ông phải mất vài phút gạn hỏi khách, đường đó thuộc quận mấy, ở hướng nào? Thì ra Nguyễn thị Nhỏ trước là đường Dương Công Trừng. Đường Hồ Tùng Mậu là đường Võ Di Nguy cũ. Ông thường đón khách tại những địa điểm xa nhà, không phải ông sợ người ta khi dể, vì ông nghĩ trên đời này không có nghề nào hèn, khi mình đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng cơm. Nhưng ông sợ bọn công an địa phương tìm cách làm khó dễ. Cũng nhờ ông có người anh họ là Chủ nhiệm Hợp Tác Xã tổ hợp dệt mền chỉ ở ấp Bùi Môn, Hốc Môn cấp cho ông tờ giấy chứng nhận ông là xã viên của HTX. Nên ông đạp xích lô cả mấy tháng mà cán bộ trên phường vẫn chưa biết, họ tưởng ông là công nhân đi dệt gia công. Dù khó khăn vất vả làm vậy, nhưng ông Chu không còn lo phải đuổi đi “kinh tế mới”. Ban ngày thì còng lưng đạp xe, hôm nào xui gặp phải cuốc hàng nặng cả trăm ký, hay bà khách “ăn gì to béo đẫy đà” thì ông đạp đổ mồ hôi trên vã mồ hôi dưới mà về đến nhà còn phải vào bếp nấu cơm, bỏ hộp sẵn sáng mai đem theo ăn, đỡ tốn tiền cơm hàng cháo chợ, rồi quay qua giặt bộ quần áo dầy cộm bám đầy bụi đường. Tối đến lại phải dạy kèm cho các con. Điều an ủi cho ông Chu là Con Bích, con Liên vừa ngoan vừa chăm học, chúng biết thân biết phận sáng ra chẳng đợi ông gọi, chúng dậy sớm tự đi lấy cơm nguội ăn với dưa cải chua, rồi mặc quần áo đeo cặp đi học, con nhà nghèo vậy mà năm nào cũng được giấy khen học sinh giỏi, đem về khoe ba. Chỉ tội thỉnh thoảng con Liên lại nhắc đến mẹ, nó khóc hưng hức nước mắt nước mũi


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 266 tèm lem rồi cong cái môi có vết sẹo bẩm sinh oan nghiệt, nấc lên: “Con nhớ mẹ quá ba ơi!”. Ông Chu ôm con vào lòng dỗ dành: “Nín đi con! Mai mốt mẹ nghĩ lại sẽ trở về với con mà”. An ủi con như đang an ủi mình, bởi lòng ông vẫn thầm mong chờ một bóng người, trong giấc ngủ ông thường mơ thấy vợ về gương mặt mang một vẻ buồn hắt hiu. Có hôm giật mình thức giấc, nửa đêm về sáng căn nhà yên ắng nghe rõ từng tiếng thở của các con. Không ngủ được, ông lần bước xuống cầu thang, ở nhà dưới mẹ ông cũng khó ngủ đang ngồi trong màn, tay cầm cỗ tràng hạt, vài sợi tóc bạc loà xoà rũ xuống khuôn mặt khắc khổ, hiền lành. Ông muốn đến nói chuyện với mẹ, nhưng thấy cụ đang lâm râm đọc kinh, ông im lặng ngồi bệt xuống bậc cầu thang, tay đập lia lịa lũ muỗi đói vo ve bâu quanh mình. Nhìn cảnh “phòng không nhà trống” nơi nào ông cũng thấy hình ảnh vợ, từ trong nhà bếp ra tới phòng khách, đến chiếc ghế sofa hai vợ chồng hay ngồi xem TV sau bữa cơm chiều. Đã mấy mùa mưa nắng kể từ ngày ông thoát khỏi ngục tù, mà vợ ông vẫn biền biệt tin tức, không biết giờ này người vợ vô tâm ấy đang làm gì và ở đâu?....Bỏ lại cha con ông một khoảng trống vắng không gì lấp nổi. Ước mơ đơn sơ của ông là mong có một cuộc sống đủ vợ đủ chồng lo cho con cái, mà sao xa vời quá!. Ông dạy các con từ tri thức đến lễ nghĩa. Nhưng thằng Chiến vì bỏ học dở dang nên sức học yếu hẳn không theo kịp các bạn trong lớp dù ông luôn kiên nhẫn kèm cặp. Tội nghiệp nó đã phải trải qua khoảng thời gian thiếu thốn tình cảm, và chịu đựng sự tổn thương về tinh thần quá lớn, nó cứ tưởng ba về sẽ có cha mẹ bên cạnh yêu thương, mà đã lâu nó thèm cái hạnh phúc của mái ấm gia đình, nhưng rồi mơ ước không thành, nó bị khủng hoảng tinh thần. Ông Chu lại không hiểu con, ông thường đề ra các nguyên tắc mà ông cho là chuẩn mực và bắt các con theo, như lúc nào cũng chăm chú, không học bài thì đọc sách. Đi đâu phải xin phép, lúc về phải đúng giờ. Nguyên tắc ấy không phù hợp với một đứa trẻ có cá tính như thằng Chiến, luôn có suy nghĩ và hành động muốn vượt ra ngoài khuôn khổ, như con ngựa bất kham, không thể sống theo khuôn phép, rồi đột nhiên nó thay đổi tâm tánh, đâm ra quậy phá. Thầy chủ nhiệm phải gửi giấy về thông báo và mời phụ huynh lên văn phòng liên tục. Ông Chu bực lắm đã phải đầu tắt mặt tối kiếm tiền về lo cho lũ con từ miếng cơm, manh áo, lại phải đối diện với một xã hội nhiễu nhương. Cuộc sống vào những năm đầu thập niên tám mươi rất khó khăn, lương lãnh đạo, đảng viên cấp cao cấp thấp không đủ làm giầu, phải tham ô hối lộ. Lương cán bộ, công nhân không đủ sống phải mánh mung ăn cắp, ăn chặn. Thầy cô giáo còn thê thảm hơn, vì nhìn trước ngó sau toàn là giấy với bút đâu


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 267 có ăn được, phải làm thêm nghề tay trái, chạy ngược chạy xuôi, buôn chui bán lậu, mới đủ nuôi gia đình, không còn thì giờ dành cho công việc đào tạo các mầm non của đất nước. Thực phẩm như bo bo, gạo mốc, phải mua bằng tem phiếu. Đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của nhiều tầng lớp con người trong xã hội, khiến cách hành xử không khôn khéo, như ông Chu đã răn đe con bằng những lời gay gắt thậm chí nhiều lần còn dùng đến roi vọt, khiến thằng Chiến luôn trong tình trạng căng thẳng, cố gắng học, không thiết ăn uống, mỏi mệt vì thiếu ngủ, người nó càng ngày càng gầy rộc, rồi một hôm nó gục xuống không dậy nổi. Ông Chu phải đưa con đi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán nó bị trầm cảm, rối loạn tâm thần vì áp lực học tập quá sức. Sau một thời gian Bác sĩ cho uống thuốc thì bệnh khá hơn, nhưng thằng Chiến trở lên đờ đẫn, nói những câu không tự chủ. Có nhiều lần đi học không nhớ đường về, bố phải đi đến nhà bạn bè hỏi thăm và tìm nó. Thế rồi một buổi tối cuối năm vì nhiều mối hàng, ông Chu về đến nhà đã khuya mà không thấy con đâu, ông đến nhà vài người quen hỏi cũng không thấy, rồi vì mỏi mệt quá ông đã ngủ quên, đến sáng cũng không thấy con về, ông bỏ việc đi tìm nó khắp những nơi quen biết mà con hay đến, ai cũng lắc đầu nhìn ông ái ngại. Nghe mấy người hàng xóm nói, hôm trước có người nhìn thấy nó theo đoàn múa lân đi ngang chợ. Mẹ ông thương cháu bảo con Hường đi đăng báo tìm, tả hình dáng cao thấp, mặc quần áo màu gì, trạc bao nhiêu tuổi, nếu ai nhìn thấy làm ơn chỉ giùm, xin hâu tạ. Rồi một hôm nhận được tin, có người báo thấy nó ở bến xe Cần Thơ, liên lạc với địa chỉ theo sự hướng dẫn. Cụ sai con Hường xuống tới nơi, thì họ bảo nó đưa tiền trước rồi đứng chờ ngoài đầu hẻm, con Hường đứng chờ cả ngày không thấy gì, đành trở về. Cứ như thế từ Vĩnh Long đến Cà Mau Hường cũng tìm tới, nhưng “tiền mất tật mang”. Bà nội thương nhớ cháu moi hết những đồng tiền cuối cùng, cũng không thấy cháu đâu, cụ buồn đến phát bệnh ở tuổi tám mươi, nên đã bỏ con cháu ra đi vào mùa đông năm ấy, khi những chiếc lá khô đã rời khỏi cành. Sau bao đau thương dồn dập đến, ông Chu không còn nước mắt để mà khóc, có lẽ bây giờ mới thấm câu “nước mất nhà tan” khóc lóc than van được ích lợi chi! Chỉ làm kẻ chiến thắng say men và cười nhạo thêm mà thôi. Mới ngoài năm mươi mà gương mặt ông trông nhăn nhúm âu sầu, bà con thấy cảnh gà trống chăm con của ông không suông sẻ, bởi: Nuôi con là thiên chức đàn bà/ Làm nhà là việc của đàn ông. Nên hè nhau mai mối, nhưng ông nghĩ các con đã xa mình từ nhỏ, giờ lại không có mẹ, nếu chẳng may gặp phải bà mẹ kế khắc nghiệt chúng sẽ khổ hơn, vì thế ông không thiết tha gì, cứ lầm


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 268 lũi đi sớm về khuya quần quật quanh năm mà chỉ kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa mắm. * Sau biết bao khó khăn, chạy vạy, vay mượn mới đủ tiền làm hồ sơ xin xuất cảnh. Bố con ông Chu đến Mỹ đầu hè năm 1993 theo diện H.O. Ngày lên đường ba bố con mà hành lý vỏn vẹn có 2 chiếc va-ly kéo tay, không đến một nửa trọng lượng theo tiêu chuẩn cho phép. Nhưng lòng ông Chu thì nặng trĩu những ưu tư phiền muộn, vì ra đi khi chưa thực hiện ước nguyện tìm lại đứa con trai bị thất lạc. Gia đình nhỏ bé của ông được một nhà thờ bảo trợ về California. Người trong hội thiện nguyện đưa đi làm giấy tờ thủ tục nhập gia, rồi giúp thuê một căn apartment hai phòng đầy đủ tiện nghi. Ngay tháng đầu ông đã trở lại “kiếp con trâu kéo cày” để kiếm tiền gửi về Việt Nam trả nợ tiền mượn làm hồ sơ. Hai đứa con ông chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh xã hội mới, chịu khó, siêng năng vừa học vừa làm. Thời gian qua mau chúng đã thành công, thành danh trên xứ sở văn minh đầy cơ hội này. Đến tuổi nghỉ hưu, ông Chu sống cô độc trong căn phòng Housing ở khu Senior Apartment. Các con đều đã có gia đình, có cơ ngơi riêng, con gái út mời ông về ở chung. Nhưng ban ngày ông đến coi cháu và chăm sóc sân trước vườn sau cho con, rồi lại về phòng riêng của ông trong villa (con gái ông gọi đùa như vậy) Đã bao năm rồi ông Chu vẫn không thể quên được nỗi đau vì để lạc mất đứa con trai duy nhất. Sự hối hận Đã gặm nhấm ông từng ngày, đã ám ảnh ông suốt đời..!.!..Người ta thường nói : “Sống với một trái tim tan vỡ, còn đau khổ hơn cái chết”. Những năm cuối đời ông chán nản vì già cả bệnh hoạn đã đành, tinh thần cũng suy xụp theo ký ức đau buồn!. NĂNG KHIẾU


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 269 THẰNG ĂN CẮP XE ĐẠP Mùa này trời tối nhanh, Tết sắp đến, trên con đường làng vắng vẻ, hai bên là những mái tranh nghèo xơ xác, thấp thoáng vài ngọn đèn dầu tù mù, nhìn xa như những đốm ma trơi thoắt ẩn hiện sau những hàng rào tre, càng làm tăng cái vẻ đìu hiu, quạnh quẽ. Ở đây, người dân lo ăn cơm cho nhanh trước khi mặt trời đi ngủ để còn thấy đường dọn dẹp và rửa chén; hơn nữa là để tiết kiệm nhiên liệu vì tiêu chuẩn mỗi gia đình một tháng, chỉ mua được 1 lít dầu hôi thắp đèn. Trong bóng đêm, hai bóng đen đang bước đều bên nhau, người cao lớn hơn đang hăng say vừa vung tay vừa thuyết phục người kế bên làm một việc gì đó, người kia vừa lắc đầu vừa thoái thác. Những căn nhà tranh đang nằm im lìm trong đêm đen như không còn sức sống vì chẳng mấy nhà còn để đèn sáng. Chợt người nhỏ con hơn lên tiếng: - Tao run quá mày ơi. Thôi tao về. - ĐM, sao mày nhát như thỏ đế. Muốn có tiền mà sợ. - Từ nhỏ tới lớn, tao chưa bao giờ làm chuyện này. - Tao làm chứ mày có làm đâu. Mày chỉ việc canh chừng bên ngoài thôi.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 270 - Nhưng tao là đồng lõa. Nói xong, người kia quay đầu lại, dứt khoát bỏ về, để người cao lớn đứng giữa con đường đất lẩm bẩm chửi thề trong miệng. Hắn ta tiếp tục bước đi trong đêm đen, những bước chân nặng nề như tâm hồn của hắn. Từ lúc bỏ lại thằng bạn một mình trên đường, thằng nhỏ con vội vàng quay về túp lều tranh trên miếng đất rẫy, rất xa xóm làng, nơi người vợ yêu dấu và đứa con trai mới chào đời được vài ngày. Lòng nó ngổn ngang bao suy nghĩ giằng co. Những bước chân hoang mang bước xiêu vẹo ngang qua khu nghĩa trang của làng. Bụng nó đói meo, cái bao tử cứ sôi lên òng ọc vì từ sáng đến giờ chỉ vài miếng khoai mì luộc trong bụng, còn toàn nước và nước. Nó cứ lê những bước chân vô hồn như thế đến trước căn chòi ọp ẹp lúc nào không hay. Nó nhìn cánh cửa xiêu vẹo được làm tạm bợ bằng tre, rồi nhìn chung quanh, những cây khoai mì mới cao đến thắt lưng, còn nhỏ lắm, chưa đến ngày nhổ, mờ mờ ẩn hiện trên những vồng đất thẳng tắp. Tết sắp đến rồi mà giờ này trong nhà nó không còn một chút gì để ăn. Nó không dám mơ đến một miếng thịt hay một miếng mứt tết. Nó chỉ mong có thêm vài lít gạo trong nhà. Nó có thể cải thiện bữa ăn bằng cách bắt rắn, thằn lằn, kỳ nhông hay bất cứ một con vật gì sống trên rẫy; rau là những loại rau dại mọc khắp nơi và đọt giây khoai lang, lá khoai mì mà nó trồng chung quanh nhà. Nâng nhẹ cánh cửa, nó bước vào bên trong. Căn chòi chỉ độc nhất cái đèn hột vịt còn leo lét chút ánh sáng sáng chập chờn trên cái bàn ở góc nhà, soi lên vách cái ánh sáng vàng vọt. Vợ và đứa con sơ sinh đắp mền, đang say ngủ trên cái chõng tre. Không một tiếng động, chỉ thỉnh thoảng tiếng cựa mình của đứa bé kiếm đòi vú mẹ. Vợ nó đang kiệt sức lắm, sinh nở xong, không có cái gì tẩm bổ, chỉ toàn sắn khoai, nên mệt mỏi, ngủ vùi như chết. Nhìn cảnh này, nó cố nuốt ngược nỗi đau vào lòng, thẹn vì mình bất tài, hận vì chung quanh mình ai cũng đói như nhau. Nó nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh giường và đưa bàn tay chai sạm rờ vào đầu tóc rối bù và khuôn mặt gầy gò của vợ. Nó cảm giác ướt dưới mấy ngón tay, hình như vợ nó đang khóc trong giấc ngủ mỏi mệt. Vợ nó trở mình, qua ánh đèn vàng vọt, nó vẫn thấy được những giọt lệ long lanh còn sót lại trong mắt nàng, đứa con trong lòng chợt cựa quậy, khóc đòi bú. Thằng bé đang nhai vú mẹ cố tìm những giọt sữa cuối cùng. Giọng vợ nó yếu ớt: - Anh về hồi nào? - Về nãy giờ rồi.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 271 - Có kiếm được cái gì không anh? - Bữa nay không ai dám đi nhổ trộm khoai mì nữa vì nghe đâu tụi du kích, công an nó đi lùng dữ lắm. Anh tới nhà thằng bạn ngồi chơi hút vài điếu thuốc rồi về. - Thôi vậy cũng đành. - Để anh đi nấu cho em nồi cháo nóng, húp cho khỏe. Tiếng lon sữa bò quẹt vào đáy cái hộp nhựa đựng gạo nhỏ xíu vang lên trong đêm nghe não lòng như những tiếng thở dài hằng đêm của hai thân phận khốn cùng. Vợ chồng nó đã kiếm hết cách rồi, từ đi rừng, bắt cua còng, làm thuê, mót lúa, kể cả đi kéo xe cải tiến, chồng kéo, vợ đẩy cả xe củi, đổ mồ hôi sôi con mắt. Không còn việc gì mà hai vợ chồng không làm. Sắp đến ngày sinh, vợ nó phải nghỉ ở nhà, chỉ mình nó bương chải nhưng vẫn không đủ ăn. Vốn là thằng học trò từ thành phố, đi kinh tế mới về vùng quê vài năm nay, nó đâu biết việc gì mà làm. Căn chòi hai vợ chồng đang ở là do mấy thằng bạn phụ một tay, cất tạm bợ trên miếng đất rẫy của người bà con xa bên vợ, người ta thương tình cho nó vừa ở vừa trông coi vườn khoai mì của họ. Thời buổi mà con người lúc nào cũng đói, lúc nào cũng nghĩ đến ăn, làm sao để lấp đầy cái bụng; nhận thức không cao hơn bao tử, cuộc sống không bằng một con vật nên hở cái gì là mất cái đó. Người người ăn cắp lẫn nhau để sống còn. Ăn cháo xong, vợ nó trở lại giường nằm bên con, nó cũng ra nằm trên chiếc giường tre, gian bên ngoài. Cứ lăn qua trở lại cả đêm mà không sao nhắm mắt được. Lúc vừa thiu thiu ngủ thì có tiếng đập cửa, một giọng nói cất lên: - Công an ấp. Mở cửa ra. Nó vùng dậy, kéo chốt và nâng cánh cửa qua một bên. Một đám người võ trang súng ống, đèn pin, rọi thẳng vô mặt nó. Vài ba cánh tay xúm lại trói quặt hai cánh tay nó ra sau. Tên công an ấp nói to: - Mày bị bắt vì tội đồng lõa ăn cắp xe đạp. Chưa kịp định thần thì đám người đã kéo nó đi ra khỏi căn chòi. Quay lại, nó chỉ còn thấy mờ mờ bóng dáng vợ nó đứng vịn cửa nhìn theo, tiếng đứa con trai khóc ngằn ngặt sau lưng. Đó là hình ảnh và âm thanh cuối cùng nó mang theo trong những năm tháng tù đày. Khi bị chuyển lên công an huyện hỏi cung, nó mới biết rằng, đêm hôm đó, thằng bạn cao lớn đi chung với nó, ăn trộm một chiếc xe đạp, bị người ta phát


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 272 giác và đuổi theo, phang cho một đòn gánh té lăn xuống đường. Bị đánh đau quá, hắn hèn nhát khai bậy ra nó là đồng lõa, mong người ta thương tình mà bớt đánh đập. Ngay trong đêm, công an xã, ấp đến tận căn chòi bắt nó đi dù thật sự nó không hề đi ăn trộm. Sau một ngày bị hỏi cung, bị đánh bầm dập, dù không nhận, nó cũng bị bắt ép phải ký giấy nhận tội, còn không thì bị tra tấn dã man. Nó bị tống vào một phòng tạm giam ẩm ướt, hôi hám, nóng bức, nhung nhúc những người tù khác, đủ thành phần. Nó nghĩ chắc đây là đoạn cuối của cuộc đời mình. Vợ con nó sẽ ra sao? Nó không dám nghĩ tới. Trời ơi là trời! Muốn khóc mà không khóc được. Muốn gào to lên để trời cao đất thấp hiểu được nỗi lòng nó. Quá tuyệt vọng, nhìn quanh, nó thấy một chai cồn xức ghẻ của một bạn tù vừa được người nhà thăm nuôi. Nó chộp lấy, mở nút chai, uống liền một hơi cạn sạch. Nó lăn ra nền phòng giam, tay chân co giật, dãy dụa, đau đớn, la hét kinh hoàng, mũi, miệng sùi bọt trắng, mắt trợn trừng như con chó ăn phải bã thuốc độc. Có tiếng la kêu cứu, tiếng cửa phòng giam bật mở, người ta khiêng nó ra ngoài và vất nó nằm cạnh phòng hỏi cung. Người ta cậy miệng và đổ nước vào. Nó sặc sụa, vừa ho vừa khóc, nước mắt lẫn nước bọt dàn dụa ướt cả khuôn mặt. Nó cảm thấy ruột gan bị thiêu đốt, như đứt ra từng đoạn, đau đớn oằn oại; một cảm giác nóng kinh khủng chưa bao giờ nó trải qua, vẫn cứ chạy rần rật toàn thân. Người ta để mặc cái thân hình gầy gò của nó nằm rên la thê thảm như vậy cho đến lúc kiệt sức, nó chỉ còn thều thào qua hơi thở yếu ớt. Bọt nước miếng vẫn tràn ra hai bên khóe mép như bọt xà bông. Nó ước ao, nó van lạy, nó cầu xin cho được chết ngay lập tức để khỏi phải kéo dài cực hình khủng khiếp này, để nó không còn phải nghĩ đến tình cảnh vợ con nó hiện giờ ra sao. Đầu óc nó mê đi, lẫn lộn mơ với thực. Những hình ảnh hỗn độn, lần lượt lướt qua tâm thức nó trong im lặng sâu thẵm. Một tấm màn đen sụp xuống. Nó chìm vào hôn mê. Lúc mở mắt, nó thấy mình nằm ở góc phòng giam cũ. Tiếng ngáy đều của các bạn tù lẫn tiếng ho khan của ai đó. Nó biết mình còn sống. Ruột gan nó vẫn còn buốt rát như ai xát muối bên trong, tuy không còn nóng bỏng, nhưng nó thấy cồn cào, nhộn nhạo như có ai vẫn đang cào cấu trong bao tử. Nó muốn ngồi dậy, nhưng cơ thể không còn sức. Cuối cùng nó lấy hết sức bình sinh, chống hai tay ngồi dựa vào tường, mắt nhắm nghiền. Người ta đưa nó ra trại cưỡng bức lao động. Nó không biết tin tức gì của vợ con và cũng chẳng ai đi thăm nuôi nó. Nó sống như một cái xác không hồn.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 273 Ngày đi phá rừng làm rẫy, tối về nó không nói chuyện và không kết bạn với ai cả. Người ta thấy nó hay ngổi nói lảm nhảm một mình, cặp mắt nhìn thẳng phía trước nhưng không thấy ai. Được cái nó rất hiền lành, chẳng làm phiền ai; người nào được thăm nuôi, cho nó miếng đường, cục kẹo, nó nhận và cười hiền lành nói lời cám ơn. Rồi hai năm trôi qua. Người ta kêu tên nó, đọc lệnh tha. Hờ hững cầm tờ giấy, nó không vui mà cũng chẳng biểu lộ một nét gì trên khuôn mặt đã già đi trước tuổi. Nó bước ra khỏi cổng trại, cái bị cói trên vai, ngơ ngác nhìn quanh, đứng thẫn thờ suy nghĩ hồi lâu, rồi chậm rãi bước đi. Tiền không có để đón xe, nó đi bộ. Hai ngày sau, về đến làng cũ, nó đứng trước miếng đất rẫy ngày xưa, bây giờ um tùm một màu xanh cây khoai mì và cây Điều, cặp mắt lạc thần ngơ ngác. Nó không thấy nhà cũ, không thấy bóng dáng vợ con mình. Nó ngồi thụp xuống đất, khóc nức nở, khuôn mặt nhòe đi, lấm lem vì nước mắt và bụi đường. Dân làng dẫn nó đến trước một ngôi mộ đất không ai chăm sóc, mọc đầy cỏ hoang. Người ta kể cho nó nghe, một người đi làm rẫy gần đó, nghe mùi hôi thúi xông lên nặng nề, ông tìm đến căn chòi và thấy hai mẹ con chết nằm kề bên nhau, đứa con trai vẫn còn ngậm vú mẹ. Người ta thương tình, bó chiếu, chôn hai mẹ con cùng một huyệt mồ. Nó ngã vật xuống đất, ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh dậy, cặp mắt nó khô queo, đỏ ngầu những đường gân máu. Nó không còn nước mắt để khóc nữa. Hôm sau, nó trở lại với một cái cuốc, một cây thánh giá nhỏ, và một bó nhang. Khói hương nghi ngút bên nấm mộ đã được dọn dẹp sạch cỏ và vun đất ngay ngắn. Nó ngồi kế bên, từ sáng cho đến tối mịt, mắt vẫn ráo hoảnh. Nó thì thầm tâm sự, nó nói nhiều lắm, khi cười, khi nức nở, rồi nó nằm ôm ngôi mộ vào lòng. Sau ngày đó, không một ai trong làng biết nó đi đâu và không một ai thấy nó trở về thăm nấm mộ đất đìu hiu, giờ cỏ đã xanh rêu phủ đầy. Nguyễn Văn Tới 1/2024


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 274


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 275 NGƯỜI LÍNH GIÀ NHỚ THƯƠNG CHIẾN HỮU. (Kính dâng hương linh cố Trung Tá Thiết giáp Châu Văn Quan) Quan ơi! Thời khói lửa về trên đất nước Bạn và tôi dấn bước chiến chinh Chung Tiểu Đoàn lưu động khinh binh Lăn lội khắp bốn Vùng chiến thuật. Đời chiến binh vô cùng khổ cực Nhưng chúng mình vì nước xả thân. Bạn và tôi thoát chết mấy lần Trong những trận Lai Khê, Long Mỹ. Tình chiến hữu có chung, có thủy Hai chúng mình chiến đấu bên nhau Nguyền sinh tử cùng chung số phân. Hai chiến hữu bên trời lận đận Đêm bên nhau, gối súng tâm tình. Có lắm khi vì bạn quên mình Bát nước chia hai cùng đỡ khát. Đêm sương lạnh núi rừng bát ngát Điếu thuốc bẻ đôi sưởi ấm lòng. Rồi đến ngày hai đứa chia tay Bạn và tôi đổi thay binh chũng Tôi Hiến Binh, bạn ngành thiết kỵ Súng đại liên, (xe) thiết giáp tung hoành Khắp chiến trường núi lớn, rừng xanh Đánh đuổi giặc, cứu dân giữ nước. Tàn cuộc chiến giã từ vũ khí Nuốt căm hờn chịu cảnh lao tù Từ giã đời miền núi thượng vu


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 276 Xong một kiếp người trai yêu nước! Bạn an nghĩ trên miền sơn cước Tôi lìa quê, đất khách lưu vong Trên xứ người tôi lắm long đong Rừng Bắc Việt bạn yên giấc ngủ. Ngủ đi Quan, ngủ giấc ngàn Thu Trên Thiên đàng, hồn bạn viễn du Dước trần thế , quê hương cơ cực. Cứ mỗi Năm đến ngày mất nước (30-4) Kỷ niệm xưa về lại với tôi, Người Lính Già Nhớ Thương Chiến Hữu Nén hương lòng, khói bốc lên khơi. Hoa Đô(Lockwood House),mùa quốc hận. Trần Công/Lão Mã Sơn


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 277 Đoản khúc : TAN HÀNG Trưa ngày 30 tháng tư năm ấy , sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân CSBV , Thắng đã phóng xe gắn máy một mạch từ ký túc xá về nhà. Tới nhà thì thân mẫu Thắng nói thân phụ anh còn đang ở bên Hội đồng Xã cách nhà mấy trăm thước. Anh vội chụp cây súng Carbine M2, súng riêng của gia đình, ráp băng đạn mới vào rồi chạy ngay qua Hội đồng Xã vì anh lo sợ tụi VC gặp ông già anh sẽ "xử" Cụ như chúng đã từng ám sát hụt Cụ rất nhiều lần. Tại văn phòng Hội đồng Xã , VC vẫn chưa vào tiếp quản. Có thể chúng bị ám ảnh bởi những lần đem nguyên cả tiểu đoàn Tây Đô tấn công mấy đồn Nghĩa Quân của dân Bắc Kỳ chín nút ( 1954 ) nhưng vẫn không chiếm được đồn nên vẫn còn núp ló mé bên kia sông đối diện Hội đồng Xã . Bầu không khí ảm đạm thê lương bao trùm văn phòng Xã. Lính tráng của Liên Đội Địa Phương Quân và lính Nghĩa Quân của Xã đã bỏ về nhà hết để lo cho vợ con. Ngồi chờ VC chỉ còn Đại Úy Lý, chi khu phó , Trung Úy Minh, phân chi khu trưởng , Chuẩn Úy Khải, phân chi khu phó , hai ông Xã Trưởng và Phó Xã Trưởng cùng thân phụ của Thắng lúc đó đang còn là chủ tịch Hội đồng Nhân dân của Xã. Mãi đến hai giờ chiều thì Hai Bản, một tay NDTV của Xã đã bỏ vào "bưng" theo VC mới được vài tháng, từ bên kia sông bước xuống xuồng một tay cầm lá cờ "tam tài" nửa xanh nửa đỏ chính giữa có ngôi sao vàng, một tay cầm khẩu AK và miệng quát oang oang : " Yêu cầu các anh em binh lính trong đồn buông súng xuống chờ cán bộ Mặt Trận vào tiếp quản Xã !" Tay cá mặn ba mươi này là học trò cũ của thân phụ Thắng nên hắn biết Thắng. Lúc xuồng sắp tới bờ ,khi nhìn thấy NDTV Thắng vẫn còn cầm cây Carbine M2 trên tay chĩa về hắn, hắn đã la lớn : " Ê Thắng! Đừng nổ tầm bậy chết tao ! " nên Thắng vội hạ nòng súng xuống và liệng khẩu súng xuống đất. Từ lúc đó nước mắt Thắng bắt đầu tuôn rơi làm tên cá


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 278 mặn ba mươi lẩm bẩm chửi thề : " Đ.M. nước nhà độc lập rồi mày phải vui lên chớ tại sao lại khóc? " Sau đó Hai Bản đã dùng giây tim đèn lấy từ tiệm tạp hóa thay cho giây thừng để trói tất cả các vị sĩ quan VNCH và các viên chức Xã lại rồi đẩy họ xuồng xuồng sang sông cho các cán bộ "Mặt Trận" làm việc và cấp giấy đi đường để trở về quê quán. Đến gần bốn giờ chiều thì bọn VC đã thả các vị sĩ quan cùng các viên chức Xã về bên này sông rồi sau đó bọn chúng mới ung dung bước vào tiếp thu văn phòng Hội đồng Xã. Tội nghiệp ba vị cựu sĩ quan VNCH ôm bụng đói đi bộ dọc các hàng quán ven quốc lộ nhưng chẳng có một quán nào dám mở cửa cho họ vào ăn. Ngày thường gặp nhau thì tay bắt mặt mừng vồn vã "Má Má Con Con" hoặc "Chị Chị Em Em" ngon lành nhưng giờ thì "gió đã xoay chiều" nên đành ngậm ngùi hát bài... "gặp nhau cứ ... làm ngơ" . Thấy cảnh cay đắng "thế Xuân Thu , thế Chiến Quộc thế thời phải thế " chua chát quá nên thân phụ Thắng đã sai anh đi mời cả ba vị sĩ quan tới nhà anh để dùng bữa " Tiệc Ly Cuối Cùng ". Cụ đã biểu Thắng bắt con ngan béo nhất rồi chính tay Cụ đánh tiết canh để đãi các chiến hữu. Chính tay Cụ đã khui chai rượu Napoléon cuối cùng, của ngưòi Dì Thắng đem từ Paris về biếu năm 1973, rồi ngậm ngùi rớt nước mắt nâng ly rượu chia ly cùng những người chiến hữu vừa ngã ngựa. Cơm nước xong hai người cô ruột của Thắng và một vài người cô họ nữa, tất cả đều là những người quả phụ VNCH có chồng là sĩ quan Tổng trừ bị đã tử trận bởi họng súng của CSBV , đã đáp lời kêu gọi của thân phụ Thắng , đem hết số tiền tử tuất vừa lãnh tháng cuối cùng biếu các chú Lý, chú Minh và chú Khải để các chú có đủ lộ phí trở về quê quán . Các chú đều khóc không dám nhận nhưng các cô của Thắng đã khéo léo giải thích: "Các chị còn có ruộng rẫy nuôi sống con cái. Còn các em mai này con cái chắc sẽ khổ lắm . " Chú Lý và chú Khải chỉ giữ vừa đủ tiền đi xe đò còn bao nhiêu tiền nhét hết vào túi cho chú Minh vì nhà chú Minh ở mãi tận ngoài Quảng Nam.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 279 Trước lúc các chú rời nhà Thắng , chú Lý đã bùi ngùi đứng lặng rất lâu như "người chết rồi". Thắng còn nhớ những buổi tập " Quân sự học đường " cho sinh viên Đại học, mỗi khi tập xong vị sĩ quan huấn luyện viên thường tập họp anh em lại rồi hô lớn khẩu hiệu " TAN HÀNG ". Rồi kế đó anh em đã trả lời " CỐ GẮNG " thật lớn trước khi túa đi các huớng kiếm cái gì ăn. Thắng rất hiểu trong giây phút lặng người như chết rồi, chú Lý như ngầm nói câu " TAN HÀNG " trong tình cảnh đất nước tan hoang vì vừa bị Đồng Minh phản bội bán đứng miền Nam cho quân CSBV xâm lăng. Còn những người dân miền Nam "chả biết quái gì về CS". Như anh chàng NDTV cá mặn ba mươi Hai Bản từng vác AK đi trói Thầy cũ của hắn nhung sau đó dù được "trên" ban cho chức "Trưởng trạm Y tế Xã "rồi sau đó cũng hối hận là đã trót dại lầm lỡ theo CS và bỏ về nhà giữ tiệm may cho vợ. Anh chàng này mới qua đời không lâu vì bị ung thư gan do uống rượu quá độ. Vào thập niên 90 của thế kỷ trước , khi chú Sáu của Thắng chuẩn bị qua Mỹ diện H.O. đã về nhà thăm thân phụ của Thắng thì tình cờ gặp Hai Bản, hắn đã ôm chú Sáu khóc nức nở nói : " Chú qua Mỹ có gặp thằng Thắng nói nó hôm 30 tháng tư nó từng tí nữa bắn con chết nên mơi mốt chú với nó có trở dìa chú nhớ cứu con với kẻo nó bắn con chết đó chú Sáu ui ! " Thắng nghe chú Sáu kể mà phát phì cười. Tụi bộ đội chính quy CSBV đã mỉa mai gọi lũ VC theo MTGPMN là cái lũ ngu như mấy thằng Tây mới qua VN. Hình như điều này RẤT CHÍ PHẢI ! Đoản khúc này được viết ra như một nén hương lòng dâng lên hương linh người Cha kính yêu của Thắng kèm theo một lời khấn nguyện : "Ba ơi ! Dù cho anh em chúng con đã TAN HÀNG và đang sống tản lạc khắp năm châu bốn biển, chúng con vẫn còn đang CỐ GẮNG sống như một người Việt Quốc Gia chân chính sống có trước có sau, có nghĩa có tình như Cha Mẹ đã từng sống ! " Hoàng Linh- Nông gia hai lúa NJ April 30, 2017 Để dâng lên hương linh Cha Mẹ kính yêu nhân ngày giỗ thứ 42 của nước VNCH


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 280 TỪ THÁNG TƯ NĂM ẤY Gã phải sống cũng như từng sém chết, Nhá cây rừng tựa như thuở hoang sơ. Thân tù tội ngỡ đời mình đã hết, Chân tay run run bụng đói mắt mờ. Tiếng cuốc gọi những chiều tà nắng tắt, Bìm bịp kêu chờ con nước tràn lên. Tay bứt vội đủ các loài đỉa vắt, Lại thêm một ngày đói khát triền miên. Thoát lao tù sống gầm cầu xó chợ, Xin Ơn Trên sớm thoát cảnh lầm than. Ở lại quê hương càng thêm nặng nợ, Mẹ Cha mang khi nước mất nhà tan. Biển mênh mông nhìn phong ba gào thét, Tám ngày trôi chẳng thấy bến bờ đâu. Nước mắt rơi nhìn bạn hiền giãy chết Tàu đủ cờ chỉ ngó... nhấn ga mau Yes! No! Sáu tháng cũng "go" qua Mỹ, Vốn Ăng Lê chỉ một bụm tay đầy. Nói tiếng địa phương tay quơ như khỉ, Vẫn mơ ngày ăn ..."hot dog" học hay. Vợ nhắc: "Sao không về thăm đất Tổ, Mồ Mẹ Cha còn giãi nắng dầm mưa." Gã khóc: "Trời Nam không còn giặc đỏ, Sẽ quay về tắm lại giòng sông xưa..." Hoàng Linh Nông gia hai lúa NJ


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 281 Tháng Tư Bỏ Lại Quê Hương Hôm nay ngày Quốc Hân Ngày bốn mươi lăm năm xa xứ Ngày bỏ lại quê hương Ngày ra đi tìm đường Tự do ở phương trời vô định Đêm tối trời năm ấy Hỏa châu rực sáng súng rền vang Theo đoàn người bỏ chạy Bế con thơ lệ đẫm Mẹ hiền ơi ở lại con đi Chốn viễn xứ lòng đau Nhớ quê thương Mẹ miên man sầu Ôi lòng đau đứt đoạn Nhìn cây tưởng tre nhà Nhìn mây tưởng như là Mẹ yêu Mơ mai về cố quận Nhìn dáng Mẹ thấp thoáng vườn trầu Ăn bát canh Mẹ nấu Mơ vẫn chỉ là mơ Bốn lăm năm đợi chờ mòn mỏi Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Ôm vào lờng tim đau lệ nhỏ Ôi quê hương dấu yêu Bao giờ được trở lại Nằm trong lòng mảnh đất tự do phamphanlang Đất Hạ 30-4-2020


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 282 Fleeing The Motherland In April Today’s Black April Day, The day when I left my motherland 45 years ago. The day of leaving my country to seek Freedom in some unknown land. In the night of that year, grenade flares lighting up the sky, and sounds of gunfire following the people frantically running … everywhere. Holding my baby in my arms, my eyes filled with tears. Farewell Mother. O Dear Mother, I have to leave you now. Living in a foreign land with a pained heart, I long for my homeland and Mother. Alas! Feels like my heart’s being cut into pieces. See the trees and think of my home village’s bamboo trees. See the clouds and think of my Beloved Mother. I dream of returning to my old home town. Watch Mother’s going in and out of the betel garden. Eat a bowl of soup that Mother just cooked. But alas! A dream is only a dream! Forty five years of waiting in languish for the Yellow Flag With Three Red Stripes, to hold against my tear-filled heart. O My Beloved Motherland! When will I ever return? To lie in a liberated land. Poet phamphanlang Translated by Vương Thanh


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 283


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 284 Nhớ Ngày Giỗ Tổ * Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ Mồng Mười Tháng Ba Gìỗ Tổ Hùng Vương nước Việt ta Dù cho cách biệt mấy quan hà Thương về đất mẹ thời thân ái Vọng đến làng cha thuở thuận hòa Nghĩa tựa trầu cay thêm quấn quýt Tình như vôi thắm khó phôi pha Con Hồng cháu Lạc thề chung sức Bảo vệ giang sơn biển đảo nhà ThanhSong ntkp-Họa CA.Apr/17/2024 (Nhằm ngày Mồng 9 Tháng Ba Âm lịch)


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 285 TẢN MẠN NHÂN NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG… Lâu lắm rồi KimPhú từng có nghe: "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ Mồng Mười Tháng Ba…” Nghe câu nhắc nhở từ dân gian, KimPhú cũng ước ao có dịp được về thăm viếng nơi di tích thiêng liêng của Việt Nam, để lắng nghe được cảm xúc dâng lên từ trái tim mình khi đứng trên mảnh đất mà xưa kia, tiền nhân đã lưu lại biết bao dấu ấn cho đàn con cháu chúng ta. KimPhú từng mang ba lô đi khắp nẻo đường đất nước, từ Mũi Cà Mau mênh mông sóng biển, đến biên giới Lạng Sơn heo hút xuyên qua hằng trăm di tích lịch sử, những thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam đã quyến rũ biết bao khách du lịch trong nước lẫn nước ngoài…vậy mà ước mơ thăm viếng Đền Hùng đúng vào dịp Giỗ Mồng Mười Tháng Ba Âm lịch…KimPhú chưa kịp thực hiện hoài bão của mình, thì đã đi định cư ở Mỹ 17 năm nay rồi…Thật là tiếc lắm, bởi vì hiện tại với tuổi đời chỉ năm sau là đến tám mươi, mấp mé bờ sanh tử, chắc không có dịp và còn sức để thực hiện giấc mơ về thăm nguồn cội của tiền nhân cho thỏa chí phiêu bồng… Nên hôm nay, xin kính mời quý tiền bối, quý anh chị em thương yêu, dành chút thì giờ vui lòng đọc bài KimPhú góp nhặt trên Internet, gom lại thành bài viết cộng thêm truyền thuyết của dân gian, kể lại các vị Tổ của chúng ta, dù không đầy đủ lắm so với thời gian hằng mấy ngàn năm trị nước của các Ngài, ngoài tập tục thờ cúng, tín ngưỡng, cưới xin, ma chay, trồng lúa, làm hèm, và bánh chưng bánh dày được truyền lại từ đời nầy sang đời khác trong Tế Lễ Đền Thờ các vị Vua Hùng, Miếu, Chùa của người sau thờ cúng các bậc tiền nhân cùng một số vật tìm được do khảo cổ như Trống Đồng Đông Sơn, mũi


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 286 tên sắt, rìu, giáo, dao găm, trống đồng minh khí, các vật dụng bằng đồng thau, trang sức, thạp, thố, âu…cũng khá đủ khiến cho ta không khỏi ngậm ngùi nhớ về mấy ngàn năm từ xa xưa mà các Ngài đã để lại cho ngàn sau, nhất là các lớp cháu con vẫn không thiếu lòng trung kiên nghĩa khí, vốn tinh thần quý giá của tiền nhân, cùng việc trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ mà tổ tiên ta cũng giữ lại được tiếng nói cho người dân Nước Việt từ xưa đến giờ, không để bị đồng hóa bởi Tàu, thật cũng đáng cho hậu sinh chúng ta vô cùng kính phục... Truyền thuyết Nước Việt từ thuở hồng hoang… (Kính mời đọc giải buồn, nếu có chi thất thố hay thiếu sót, mong quý vị vui lòng miễn thứ, xin đa tạ.) - Cháu 3 đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh, sanh ra Đế Nghi. Đế Minh đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sanh ra Lộc Tục. Lộc Tục Thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục không dám vâng mệnh mà cố nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi cai quản phương Bắc, và phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản phương Nam, Lộc Tục đặt tên nước là Xích Quỷ. - Kinh Dương Vương Lộc Tục xuống Thủy phủ, lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sanh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị trước, Kinh Dương Vương không biết đi nơi đâu, không để lại vết tích. - Đế Nghi ở phương Bắc, truyền ngôi cho Đế Lai, Đế Lai nhân Thiên hạ vô sự, mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái mình là Âu Cơ ở lại đó. - Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến mình là chàng trai phong tú mỹ lệ, nên Âu Cơ ưng theo, Lạc Long Quân rước nàng về núi Long Trang. Sống với nhau được 1 năm sinh 1 bọc 100 trứng


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 287 nở ra 100 trai anh dũng phi thường, Lạc Long Quân về ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ là người Bắc quốc, nhớ nhà gọi Lạc Long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:… "Thiếp vốn người Bắc quốc cùng ở một nơi với Quân, sinh 100 con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, đã khiến ta người không chồng không vợ vò võ một mình…" Lạc Long Quân bảo…"Ta là loài Rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy là khí âm dương tương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, Thủy Hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem 50 con trai về Thủy phủ, phân trị các xứ, 50 con trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau.” - Âu Cơ cùng 50 con trai ở lại Phong Châu, tự suy tôn người Hùng Trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương. - Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh, lấy con gái Vụ Tiên mà sanh Kinh Dương Vương Lộc Tục, tức thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Động Đình Quân là Thần Long sanh ra Lạc Long Quân (Rồng). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai (Âu Cơ), có phước lành sanh ra 100 con trai…đó chẳng phải là đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?… - Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì tính thời điểm Kinh Dương Vương Lộc Tục lên ngôi năm Nhâm Tuất (năm 2879 trước CN) đến năm Qúy Mão (năm 258 trước CN) truyền được 18 đời. Các vua Hùng nối ngôi nhau trị vì 2622 năm. Nước Văn Lang tồn tại cho đến 258 trước CN bị Thục Phán An Dương Vương thôn tính. - Hùng Vương đời thứ III là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi đặt Quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 Bộ là : (1) Văn Lang, (9) Lục Hải, (2) Giao Chỉ, (10) Vũ Định, (3) Chu Diên, (11) Hoài Hoan,


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 288 (4) Vũ Ninh, (12) Cửu Chân, (5) Phúc Lộc, (13) Bình Văn, (6) Việt Thường, (14) Tân Hưng, (7) Ninh Hải, (15) Cửu Đức, (8) Dương Tuyền, và đóng đô ở Bộ Văn Lang, Phong Châu. - Đường bờ cõi : Đông giáp Biển Đông - Tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên,Trung quốc) - Bắc đến Hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc) - Nam giáp Hồ Tôn, tức Chiêm Thành. - Hùng Vương sai các em phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, gọi Lạc Tướng, Tướng văn là Lạc Hầu. Con trai vua gọi Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bố Chính, thần bộc, nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, cha truyền con nối gọi Phụ đạo, thay đời truyền nhau, giữ hiệu Hùng Vương không đổi. - Theo ý kiến của 1 số nhà Sử học, và có sự đồng thuận tạm chấp nhận 18 đời vua Hùng, không phải là 18 người, mà là 18 chi / nhánh / ngành, mỗi chi nầy có nhiều vị vua, thay nhau trị vì, dùng chung Vương hiệu là : (1) Kinh Dương Vương, (2) Hùng Hiền Vương Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm, (3) Hùng Lân Vương, (4) Hùng Diệp Vương, (5) Hùng Hi Vương, (6) Hùng Huy Vương, (7) Hùng Chiêu Vương, (8) Hùng Vĩ Vương, (9) Hùng Định Vương, (10) Hùng Hi Vương *( Chữ Hi của vị Vương nầy khác với chữ Hi của vị Vương trên bởi khác về tự dạng và ý nghĩa), (11) Hùng Trinh Vương, (12) Hùng Vũ Vương,


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 289 (13) Hùng Việt Vương, (14) Hùng Anh Vương, (15) Hùng Triêu Vương, (16) Hùng Tạo Vương, (17) Hùng Nghị Vương, (18) Hùng Duệ Vương (Vị Hùng Duệ Vương là vị sau cùng của họ Hùng, cuối cùng bị Thục Phán cướp mất nước Văn Lang. - Nếu xét theo thời gian trị vì kéo dài đến 2622 năm cho 18 đời vua thì con số nầy khó thuyết phục, Nhà Sử học Ngô Thì Sĩ đã viết trong "Việt Sử Tiên Án" …"Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được." - Như đã nói trên, 18 đời nầy không phải là 18 người, mà là 18 chi / ngành / nhánh. Mỗi ngành gồm nhiều đời vua mang cùng Vương hiệu, khi dứt 1 ngành, thì mới đặt Vương hiệu mới cho ngành mới. Thời gian trị vì cũng như tuổi thọ của Vương vị vua, có thể hiểu là tuổi của nhiều đời vua và số năm trị vì của nhiều đời vua cộng lại, nên với thời gian là 2622 năm của các vua Hùng theo cách giải thích nầy thì cũng không có gì là hoang đường. - Vì vậy mới có câu : Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương Nhất thống sơn hà thập bát Vương Dư bách hệ truyền thiên cổ tại Ức niên hương hỏa ức niên phương - Nghĩa là: Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương Mười tám ngành vua mười tám chương Bách Việt sơn hà muôn thuở đó Đời đời đèn nến nức thơm hương - Mặc dù với thời gian 2622 năm trị vì của 18 đời vua Hùng đã gây ra không ít hoài nghi, tuy nhiên trong các bản Ngọc Phả, Thần Tích như bản Ngọc Phả Hùng Vương được soạn năm Thiên Phúc nguyên


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 290 niên (980) đời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nhà Tiền Lê, thì ghi không phải 18 đời vua Hùng mà là 18 nhành / ngành, tổng cộng 180 vị vua : * "Dĩ thượng Hùng đồ thập bát diệp, tỷ phú truyền cơ thái bảo Nhất bách bát thập đại đế vương tôn vị nhất thống sơn hà" Nghĩa là: Mười tám nhành nhà Hùng, ngọc tỷ và ấn tín truyền quyền đại bảo trong khoảng 180 đời nhường ngôi đế vương, một mối non sông xa thư trị nước” Nhiều tác phẩm khác như Tân Đính Lĩnh Nam Chích Quái của nhà Sử học thời Hậu Lê là ông Vũ Quỳnh cũng viết là 18 ngành vua Hùng. - Trong Ngọc Phả Hùng Vương thì chữ "Đời" phải hiểu là chữ "Thế" trong Hán Tự, có nghĩa không phải là 1 đời người mà là "1 dòng gồm nhiều đời ". Hiện ở Đình Tân Đằng, huyện Ba Vì Hà Nội, còn Bài vị : "Tam Vị Quốc Chúa" thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế / chi / nhành Hùng Vương thứ 18. - Bản Thần Tích xã Vi Cương (Phú Thọ) ghi chép khá rõ về các đời vua với những chi tiết liên quan, theo đó 18 ngành vua tổng cộng 180 đời nối nhau trị vì. - Tính trong 18 Chi đời vua Hùng truyền ngôi đại bảo cho 180 đời đế vương, sơn hà quy về một mối, kiến lập được 122 thành điện. Tổng cộng các năm của 18 đời Thánh Vương di truyền ngôi cho các triều Thánh Tử Thần Tôn là 2622, thọ tất cả 8678 tuổi, sinh được 986 chi…” * Trước đây, người dân không có tục đi Lễ ngày Mồng 10 Tháng 3 Âm lịch, họ thường chọn ngày tốt theo từng bản mệnh của mỗi người và nô nức đến Lễ Bái các vua Hùng suốt năm, đông nhất là vào các ngày của mùa Xuân, Thu, chớ không định rõ ngày nào. - Lễ Cúng Tổ ở địa phương thì được cử hành vào 12 Tháng 3 Âm lịch, kết hợp với thờ Thổ Kỳ. Con cháu ở xa về sẽ làm Giỗ trước 1 ngày chớ không mở Hội lớn trên toàn quốc.


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 291 - Nhận thấy điều nầy gây bất lợi vì người ta cứ lo đi cúng Giỗ quanh năm…Tuần Phủ Phú Thọ là ông Lê Trung Ngọc, vào năm 1917, niên hiệu Khải Định năm thứ nhất, đã làm bản tấu trình lên Bộ Lễ, xin định Lệ lấy ngày Mồng 10 Tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Quốc Lễ. Từ đó về sau, vào ngày Mồng 10 Tháng 3, người dân cả nước tựu về vùng đất cội nguồn, Xã Hy Lương, Lâm Thao, Phú Thọ hiện nay, để tôn vinh công lao của các vị vua Hùng./-


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 292 Câu chuyện của cô giáo Việt Nam tỵ nạn Lê Mộng Hoàng- Lê Tống MộngHoa Chỉ còn đúng một tuần nữa là đến ngày 30 THÁNG 4 ĐEN, tuy đã trải qua 49 năm rồi mà sao gần đến ngày ấy tôi cứ như người vừa trải qua một trận ốm nặng hoặc một cuộc giải phẩu lớn: thẩn thờ, ngu ngơ, hễ đứng trước bàn thờ thắp nhang là nước mắt âm thầm chảy ra? Lâu lắm rồi ( năm2000) ở sở MH làm ( IRS-INTERNAL REVENUE SERVICES-WASHINGTON DC) nhóm ASIAN PACIFIC AMERICANS ( Người Mỹ gốc Á CHÂU THÁI BÌNH DƯƠNG) có tổ chức một cuộc họp mặt tất cả công chức người MỸ thuôc gốc ASIAN PACIFIC AMERICANS và MH đươc đề cỬ "Kể lại cuộc hành trình "Đến Miền Đất TỰ DO" ( TELL US ABOUT YOUR JOURNEY TO THE LAND OF FREEDOM) Mộng Hoa cứ thành thật kể lại tình tự của chuyến di tản từ SAIGON đến đảo GUAM, đến FORT CHAFFEE ARKANSAS, và thay nghề đổi dạng trở nên VÚ EM giữ một bé trai 4 tuổi và cũng làm BÀ BẾP cho gia đình Ông Bà BAKER Ở CALIFORNIA với chấp thuận "Ban ngày tôi làm việc cho ông bà không tính thù lao, nhưng buổi tối phải cho tôi đi học ỏ trường Đai Học." Tuy nhiên dự đinh này không thành, vì nhà ông bà BAKER ở quá xa với trường đai học BERKELEY của CALIFORNIA! Sau này nhờ một người bạn của gia đình mà hai mẹ con tôi bay sang LOUISANA-BATON ROUGE- ban ngày làm bồi bàn cho tiệm IHOP ( INTERNATIONAL HOUSE OF PANCAKE) buổi tối đi học ở đại học LSU. Xin gởi đến anh và các bạn Diễn Đàn Thân Hữu thân mến " Câu Chuyên Cô Giáo Việt Nam Tỵ Nạn" chuyển dịch sang Tiêng Việt từ bản gốc tiếng Mỹ. CÂU CHUYỆN CỦA CÔ GIÁO VIỆT NAM TỴ NẠN Tôi sinh ra tại một thành phố nhỏ mang tên Hội An, thuộc miền Trung nước Việt Nam. Ba Mẹ tôi đều là nhà giáo, chị Cả của tôi, các em tôi và tôi cũng đều dạy học. Tôi là giáo sư trường Trung Học trước năm 1975, sau khi tốt nghiệp Cử nhân tại Đại Học Đà Lạt năm 1966, tôi trở về quê cũ và dạy học cùng trường với


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 293 ba tôi. Từ năm 1966 đến 1969, nhiều học sinh lớp 11 và lớp 12 của tôi đã chết hoặc mất tích. Có vài em rời ghế nhà trường để gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau đó thì tôi nghe tin các em đã tử thương! Đối với tôi đây là giai đoạn kinh khủng và đau buồn lắm! Mỗi đêm khi nghe tiếng súng hoặc tiếng đại pháo “canh nông” gia đình tôi phải thức giấc và chạy vội xuống hầm trú ẩn. Tôi lấy chồng năm 1969 và trở thành giáo sư trường Trung Học dạy con em của Cảnh Sát viên vì chồng tôi đang dạy tại trường Cao Đẳng Quốc Phòng ở Sài Gòn. Năm 1970 tôi sinh con gái đầu lòng, nhưng chỉ 4 tháng sau thì ba cháu qua đời sau một tai nạn xe trên đường đi công tác từ Sài Gòn đến Biên Hòa, một lộ trình ngắn chỉ có hai muoi dặm (20 miles.) Tôi bị khủng hoảng tâm thần vì sự ra đi đột ngột của chồng. Tôi mất hết niềm hy vọng, nghị lực và ngay cả ước muốn sống còn! Tôi mất ngủ suốt nhiều tháng, rồi nhiều năm. Tại trường Trung học nơi tôi đang dạy, mỗi khi tôi giảng bài có liên quan đến Hạnh Phúc gia đình hoặc Tình Yêu, tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc còn học trò của tôi thì cười. Để giữ cho khỏi mất quân bình, tôi cố gắng làm nhiều việc để luôn bận rộn. Ban ngày tôi dạy ở trường công lập, buổi chiều tôi dạy ở trường tư thục và ban đêm tôi đi học ban Cao học về Văn Chương Việt Nam. Tôi làm việc 16 tiếng mỗi ngày để kiếm tiền nuôi con và em trai và các em gái của tôi đang sống chung nhà với tôi và theo học tại Đại Học Sài Gòn. Rồi thì xảy ra biến cố chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ, Ba Mẹ tôi muốn tôi đi vượt biển vì có tin đồn rằng Thương Phế Binh Cộng Sản sẽ ép buộc những góa phụ như tôi phải lấy họ, nếu không tôi sẽ bị đi tù “Cải Tạo” vì tôi đã làm giáo sư cho trường dạy con em Cảnh Sát viên. Vì thế, ngày 28 tháng 4 năm 1975 con gái đầu của tôi Lina và tôi đã may mắn trốn thoát cùng với gia đình người chị bên chồng tôi để đến Fort Chaffee, Arkansas. Khi máy bay cất cánh khỏi thành phố Sài Gòn, mọị người trên chuyến bay đều khóc! Chúng tôi ai ai cũng nghỉ rằng mình sẽ chẳng bao giờ nhìn lạị được Sài Gòn nữa! Nỗi buồn mất nước, mất phong tục văn hóa và mất gia đình thân yêu đè nặng trong tim tôi ngay cả khi tôi đến nước Mỹ và bắt đầu cuộc sống mới với bé Lina bốn tuổi rưỡi. Tại trại Fort Chaffee, tôi tình nguyện làm thông dịch viên cho đồng bào tị nạn vừa mới nhập trại. Có một số người không nói được tiếng Mỹ. Họ không biết phải làm gì khi bác sĩ khám sức khỏe cho họ và không hiểu khi tham dự các lớp dạy về Dinh Dưỡng mà ban điều hành trại Tỵ Nạn buộc họ phải theo học. Một buổi trưa mùa Hè tôi tình cờ gặp anh H, nay là “ông xã” tôi. Tôi đã biết anh ấy lúc anh đang dạy Toán tại cùng trường Trung Thu ở Sài Gòn. H vui mừng


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 294 khi gặp lại tôi và anh tỏ ra dịu dàng thân thiện với bé Lina. Tôi vẫn còn nhớ lúc nhìn H và Lina dắt nhau đến vòi nước để uống, tôi thầm nghĩ “chắc anh ấy sẽ là cha hiền cho con mình” mà quả thật đúng như thế! Sau hai tháng sống tại trại tỵ nạn Fort Chaffee, bé Lina và tôi được gặp một cặp vợ chồng Mỹ bảo trợ. Họ muốn tôi giữ nhà và giữ trẻ cho họ. Tôi bảo họ: “Tôi sẽ làm mọi việc không lấy tiền - miễn phí - nếu họ bằng lòng cho tôi đi học Đại Học ban đêm để sau nầy tôi có thể tiếp tục đường học vấn.” Họ chấp nhận điều kiện của tôi, nhưng khi tôi nhận công việc quản gia và giữ em ở Dallas, Texas rồi, thì họ thuyên chuyển sang California. Nhà của họ ở rất xa trường Đại Học nên tôi không thể tiếp tục việc học được. Ba tháng sau tôi bay sang Baton Rouge, Louisana thuê nhà chung với một cặp vợ chồng bạn của gia đình tôi; ban ngày tôi làm hầu bàn cho tiệm Pan Cake IHOP và ban đêm tôi đi học tại Đại Học Louisana. H vẫn tiếp tục liên lạc với tôi từ khi tôi rời trại Fort Chaffee. Thời gian tôi đang ở Baton Rouge anh ấy viết thư cho hay đã kiếm được việc làm ở Virginia và muốn tôi cùng bé Lina đến sống chung với anh. Chúng tôi kết hôn tháng 11 năm 1976. Hai năm đầu rất gian nan. Tôi không thích trở thành gánh nặng cho H nên tôi không theo học Đại Học, thay vào đó tôi học lớp Kế Toán một năm tại một trường daỵ về Thương Mại với hy vọng sẽ kiếm được việc làm khi ra trường. Tuy nhiên thực tại thì khác hẳn: “Không có kinh nghiệm về Kế Toán, không có việc làm.” Cuối cùng tôi xin được việc làm Thâu Ngân Viên ở Ngân hàng quận Arlington, Virginia. Cuộc sống của tôi giờ đây dễ thở hơn chút đỉnh. Trong giai đoạn làm việc tại Sovran Bank nay đổi tên là Bank of America, tôi theo học nhiều lớp tại American Institute of Banking, nhờ vậy tôi được thăng chức lên làm “giao tiếp viên” để tiếp khách hàng rồi lên làm Thâu Ngân Trưởng (Head Teller). Nhưng sau một vụ cướp ngân hàng mà một cảnh sát viên đã bị bắn chết trước mắt tôi, tôi thường có những cơn ác mộng về vụ bắn giết đó nhiều đêm. Tôi dự trù thôi công việc làm Head Teller nguy hiểm nầy bằng cách theo học các lớp về Kiến Trúc Điện Toán (Computer Information System) Tôi vẫn còn yêu thích nghề dạy học nên tôi nạp đơn xin một chân dạy học ở trường tiểu học công lập Glen Carlyn thuộc quận Arlington. Đơn của tôi được chấp nhận, tôi thích công việc trong ngành Giáo Dục nầy lắm, nhưng thật vất vả. Tôi sinh một cháu trai đặt tên Sam tháng 7 năm 1980. Buổi sáng từ 8 giờ sáng đến trưa tôi dạy học tại trường Glen Carlyn chương trình ESL (Tiếng Anh là ngôn ngữ Thứ Hai – English As Second Language) Buổi trưa tôi chạy đến nhà người trông coi bé Sâm để cho con bú, Sâm chỉ mới được 2 tháng tuổi. Rồi đến


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 295 2 giờ trưa tôi bắt đầu làm việc tại Sovran Bank với chức vụ Head Teller ở khu vực Dịch Vụ Ngân Hàng cho người lái xe (Drive-Thru Banking) Công việc nầy xong vào lúc 8 giờ tối, tôi không dám nghỉ việc ở ngân hàng vì chưa biết rõ công việc dạy học của tôi có được bền chăng? Sau một năm dạy học, kết quả thẩm định việc làm (Perfomance Review) của tôi rất hoàn hảo, ông Hiệu Trưởng giới thiệu tôi với Nha Học Chánh. Ông Giám Đốc Nha Học Chánh tử tế lắm, ông ấy cho tôi một chân dạy học năm kế tiếp và đề nghị tôi nên học vài lớp về ngành Giáo Dục để trở nên Giáo Viên Thực Thụ (Certified Teacher). Đó là năm 1980, tình trạng kinh tế khủng hoảng. Chồng tôi khuyên tôi nên ở lại làm việc với ngân hàng thay vì đổi sang nghề dạy học. Anh ấy nói: “Dạy học dễ bị cho nghỉ việc hơn và hiện nay chúng ta đang có hai con dại cần nuôi nấng, Lina được 11 tuổi và bé Sâm mới 14 tháng. Tôi nghe theo lời khuyên của chồng nhưng vẫn tiếp tục học Đại Học để có thể đạt được mảnh bằng về Computer Information System (CIS) mong ước một ngày kia tôi sẽ rời khỏi ngân hàng. Vào năm 1977 lúc Lina lên 7 tuổi tôi tham gia Hội GiáoDục Trẻ Em Việt Nam với gia đình ông Chử để tổ chức các lớp vào mùa Hè dạy tiếng Việt cho trẻ em Mỹ gốc Việt từ 4 tuổi đến 18 tuổi biết đọc, viết, và nói tiếng Mẹ. Năm ngoái 2008, tất cả các lớp tiếng Việt bắt đầu vào tuần thứ nhì của tháng 6 cho đến tuần đầu của tháng 8, với sĩ số là 350 học sinh. Nhờ công tác thiện nguyện nầy tôi có thể thỏa mãn lòng yêu thích nghề dạy học của mình. Tôi có hai sở thích: Dạy và Học. Từ ngày đầu tiên tôi đặt chân đến vùng đất của Tự Do và Cơ Hội nầy, tôi không ngừng Học Hỏi. Tôi học từ người Bảo Trợ, từ bạn đồng lớp, từ bạn đồng nghiệp, từ bằng hữu, từ sách vở, báo chí. Việc đến trường để học khiến tôi cảm thấy mình trẻ lại. Tôi tin tưởng rằng “Tuổi Tác là một thái độ không phải là một sự kiện thực tại.” Nhờ việc tốt nghiệp trường Đại Học năm 1987, tôi đã đạt đến mục tiêu tôi mong ước là có một công việc bảo đảm với Chính Phủ Liên Bang: làm chuyên viên Điện Toán (Computer Specialist) với sở Thuế Vụ (IRS). Ngoài công việc ở sở làm, tôi dành thì giờ đọc sách báo liên quan đến Hạnh Phúc Gia Đình và viết bài về vấn đề nấy cho Nguyệt San Phụ Nữ Diễn Đàn ở Los Angeles và vài tờ báo khác. Bởi vì nền văn hóa Việt Nam rất khác với văn hóa Mỹ, vai trò của người phụ nữ Mỹ gốc Việt cũng thay đổi. Nhiều cặp vợ chồng Việt Nam không thể điều chỉnh với tình trạng hiện tại nên có nhiều cặp đã đưa đến việc ly dị hoặc ly thân. Hầu hết các bài viết của tôi đề cập đến việc An Hưởng giờ phút hiện tại với người phối ngẫu và khiến chàng hợp tác với chị trong công việc lặt vặt hàng ngày cũng như những việc “đại sự”. Sau 7 năm viết


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 296 trên các báo, với sự giúp đỡ của “ông xã” tôi đã thu góp một số lớn các bài viết nầy và in thành sách “Chìa Khóa Mở Cửa Hạnh Phúc Gia Đình” năm 1996. Tôi vẫn tiếp tục tham gia vào các công tác xã hội cộng đồng như giúp đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại, Ủy Ban Giáo Dục quận Fairfax. Tôi cũng tình nguyện làm việc tại trường học của hai con tôi. Nhờ sự tiếp tay, đóng góp của các người thân trong gia đình và một số bạn tốt, tôi đã tổ chức đưọc một nhóm Từ Thiện với tên “Nhóm Từ Thiện Tình Thương Virginia (Charity Group of VA-Affection) vào năm 2005 để giúp đở các thiếu niên Khuyết Tật tại Đà Nẵng, Quảng Nam trong lãnh vực Huấn Nghệ; cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo tại Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Vĩnh Long để các em có thể tiếp tục con đường học vấn; dạy Anh Ngữ cho các thanh thiếu niên nghèo ở Hội An ban đêm để tạo cơ hội cho các em kiếm được việc làm trong địa hạt tiệm ăn, khách sạn, và gởi áo quần, bịch gạo làm Quà Tết cho các cụ già neo đơn đói khổ. Lâu nay Nhóm Từ Thiện Tình Thương-VA đã hoạt động đều đặn hữu hiệu nhờ vào tấm lòng nhân ái của các Ni Sư Phật Giáo và các Xơ Công Giáo ở Việt Nam cũng như sự đóng góp rộng lượng của các thành viên gia đình tôi và các người bạn “tốt bụng” của tôi. Sau 34 năm sống tại Hoa Kỳ, tôi yêu thích và ngưỡng mộ tính Vui Cười và Thân Thiện của người Mỹ. Tính này biến cuộc sống trở nên dễ dàng hơn và ban cho tôi thái độ lạc quan trong đời. Tính cách đa dạng của xã hội văn minh nầy khiến tôi cảm nhận rằng tôi đã được hội nhập vào quốc gia nầy do chính con người tôi và do những việc tôi đã làm. Tôi đã tìm được Hạnh Phúc thật sự tại Mỹ Châu. Tôi cũng đã được đoàn tụ với gia đình tôi. Năm 1989, tôi đã bảo lãnh 12 người trong gia đình tôi gồm Mẹ tôi, em trai tôi, 3 người em gái và 3 em rễ, các cháu gái và cháu trai của tôi. Mọi người sống chung cùng một mái nhà trong 6 tháng đầu. Sau giai đoạn đầu định cư, ai nấy đều cố gắng làm việc lao động như lau chùi văn phòng, làm vườn dọn dẹp hoặc làm thâu ngân viên ban ngày và đi học Đại Học ban đêm. Ngày nay họ đã đạt đến bến bờ thành danh và đã đóng góp một phần cho quê hương thứ hai nầy như là những công dân ưu tú. Họ đang hành nghề Nha Sĩ, Bác Sĩ, Kiến Trúc Sư, Kỹ Sư Điện Toán. Người nhỏ tuổi nhất trong gia đình tôi vừa mới tốt nghiệp danh dự tại trường Đại Học Virginia (UVA) và đang theo học trường Y Khoa tại Đại Học Harvard. Con gái tôi Lina đã lập gia đình từ năm 1999 và đang làm Editor (Biên Tập Viên) tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ - Lina tốt nghiệp Cao Học về Anh Ngữ năm 2000 tại Đại Học John Hopkins. Tháng 11 năm 2006 Lina sinh một cháu


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 297 gái rất xinh, hiền lành tên Serena (An Bình). Serena nay đã được 2 tuổi và nói thỏ thẻ dễ thương lắm! Con trai út của tôi Sam đã tốt nghiệp trường Luật Đại Học Virginia (UVA) ở Charlottesville vào tháng 5 năm 2005. Sam thành hôn với cô bạn thân cùng trường UVA tên Rachel Alberico vào tháng 8 năm 2005. Sam rất vui với công việc mới tại Small Business Administration ở Washington DC của chính phủ Liên Bang và Rachel đang dạy học tại trường Trung Học West Springfield. Gia đình tôi đều vui vẻ và tôi cũng vui lây. Tôi là người tỵ nạn gặp may mắn đã có thể chạy trốn khỏi chế độ Cộng Sản và đến bến bờ Tự Do an toàn, nhưng còn hàng ngàn người khác: các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, các công chức của Chính Phủ VNCH, ngay cả các nhà giáo đã chết trong các trại giam của Cộng Sảm hoặc bị đày dọa, hành hạ từ đầu đến chân, mất hết cả quyền làm người. (Dịch từ Nguyên Bản tiếng Mỹ) Để tưởng nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975 với Lòng Biết ơn nhân dân Hoa Kỳ 4/2009 THE STORY of


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 298 A VIETNAMESE REFUGEE TEACHER I was born in a very small and ancient town named Hoi An, which is in the central region of Vietnam. My parents were both teachers, as were my oldest sister, my younger sisters, and I. I was a high school teacher before 1975. After graduating from Dalat University in 1966, I came back to my hometown and taught at the same high school where my father was still teaching. From 1966 to 1969, many of the eleventh and twelfth grade students that I taught had either died or disappeared. Some of the students would leave school to join the Vietnamese army. Later I would hear that they had been killed. For me, it was a terribly frightening and sad time. Every night, when my family heard the gunshots or the noise of cannons, we would wake up and run downstairs to the safety cave. I got married in 1969 and began teaching at the high school for police officers' children in Saigon because my husband was a professor at a Vietnamese military college in Saigon. In 1970, my daughter Lina was born, but four months later, her father was killed in an accident while he was on a short business trip from Saigon to Bien Hoa, a journey of only twenty miles. I was totally devastated by his death. I lost all hope, energy, and desire to live. I was unable to sleep for countless nights. At the high school where I was teaching, whenever I taught lessons related to family happiness or love, I could not hold back my tears. I cried, and my students laughed. To keep my mind off my troubles, I tried to keep myself as busy as possible. During the day I taught at the public high school. In the afternoon, I taught at a private high school, and at night I went to college to complete a M.A. in Vietnamese literature. I worked 16 hours every day to earn enough money to raise my child and support my brother and sisters living with me, so that they might attend college in Saigon. Then came the terrible collapse of South Vietnam. My parents wanted me to flee overseas because there was a rumor that handicapped communists were going to force widows like me to marry them; otherwise, I would be sent to a Reeducation camp because I was a teacher of police officers’ children. So, on April 28, 1975, my baby Lina and I had a chance to escape with my sister-inlaw's family to Fort Chaffee, Arkansas. When the airplane took off from Saigon everybody on board cried at the same moment. We all thought that we would never see Saigon again. The sadness of losing my homeland, my culture, and my


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 299 family overwheld me, even as we docked in the States and I began a new life here with my child. At Fort Chaffee, I volunteered to be the interpreter for Vietnamese refugees who had just arrived to the camp. Some of the new refugees could not speak English. They did not understand how to take the physical exams and nutrition classes that they were required to take at Fort Chaffee. One summer afternoon at Fort Chaffee, I ran into H, my current husband. I had known H from when he was a math teacher at the same high school where I had taught in Saigon. H was glad to see me again and was very kind and sweet to my daughter Lina. I still remember thinking, as I watched H and Lina together, that he would be a good father for my child. Indeed, he is a wonderful father! After two months of living at Fort Chaffee, my daughter Lina and I were sponsored by an American couple. They wanted me to be their housekeeper and baby-sitter. I told them I would do everything for free if they agreed to let me go back to college at night so I could go on with my life later. They accepted my condition, but, after I took the baby-sitting and housekeeping job in Dallas, Texas, they moved to California. Their house was far away from my college, so I could not continue my studies and fulfill my dream. Three months later, I moved to Baton Rouge, Louisiana, with one of my family friends and worked as a waitress at an IHOP restaurant during the day and went to Louisiana State University at night. H had kept in touch with me from the time I left Fort Chaffee. While I was in Baton Rouge he wrote to tell me that he had gotten a job in Virginia. He wanted my four-and-a-half year-old daughter and me to come to live with him. We got married in November 1976. The first two years were very rough. I did not want to be a burden for H, so I did not go back to college. Instead, I took a one-year accounting course at a business school, hoping that I could find a job after its completion. But the fact of life was different. "No accounting experience, no job." I went to many interviews but could not find any positions as an accountant. At last, I got a teller job with a bank in Arlington, Virginia. My life was a little bit easier with this job. While working at Sovran Bank, now called the Bank of America, I took many courses at the American Institute of Banking, and, as a result, was promoted from teller to branch customer representative and then to head-teller. But, after a bank robbery in which a police officer was killed before my eyes, I had continuing nightmares of the shooting scene. I prepared to leave this frightening head teller


1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 300 job by taking college courses in Computer Information Systems. I was still in love with teaching, so I applied for a teaching job at a public elementary school, Glen Carlyn Elementary in Arlington County. I was accepted, and I really did have a good time working in education, but it was too hard. My son Sam was born in July 1980. In the morning, from 8 A.M. to noon, I taught first grade at Glen Carlyn in the ESL program. At noon, I went to the baby-sitter's house to breast feed my two-month-old baby boy Sam. Then, at 2 P.M.,I started working as the drive-thru head teller at Sovran Bank. This ended at 8 P.M. I did not quit the teller job because I did not know how stable my teaching job was. After one year, my performance review was excellent, and the principal referred me to the Educational Center director. This kind man offered me a position for next year and suggested that I should take some college courses to make me a certified teacher. That year, 1980, the economic situation was scary. My husband advised me that I should stay with the bank instead of going back to my teaching job. “It was easy to be laid off,” he said, and we now had two children to take care of; Lina was 11 and Sam was 14 months. I listened to my husband but continued to study for my CIS degree so that some day I could leave the bank. In 1977, when my daughter Lina was seven years old, I joined the Vietnamese Youth Educational Association (VYEA) with Mr. Chu's family to organize classes during the summer to teach American Vietnamese children from four to 18 years old how to read, write, and speak Vietnamese. This nonprofit organization has sponsored classes every summer since 1977. Last year 2008, all the VietnaMẹse classes started from June the 2nd week to August the first week with 350 students. Through this volunteer position, I was able to go on with my passion for teaching. I have two passions: teaching and learning. Since the first day I arrived to this land of freedom and of opportunity, I have never stopped learning. I learned from my sponsors, from my classmates, from my coworkers, from my friends, and from books and magazines. Going to school makes me feel young. I believe that ” age is an attitude, not a fact.” With my graduation from college in 1987, I reached my goal to find a good job as a computer specialist with the Federal government (IRS). In addition to my current job, I have spent time reading books and articles about family happiness and writing columns for the Vietnamese Women's Magazine in Los Angeles and some other Vietnamese newspapers. Because the


Click to View FlipBook Version