H A R U K I MURAKAMI Trương Thùy lan dịch NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRÊN GỐI ĐÁ 7 Tôi muốn kể về một người phụ nữ. Vấn đề là, tôi hầu như chẳng biết gì về nàng. Tôi thậm chí còn không thể nhớ rõ tên hay khuôn mặt nàng. Mà chính tôi cũng vậy đấy, tôi cược rằng nàng cũng chả nhớ tôi đâu. Lần đầu gặp nàng, lúc ấy tôi đang là sinh viên năm thứ hai đại học, tôi đoán nàng cỡ hai mươi tuổi. Cả hai chúng tôi đều làm công việc bán thời gian tại cùng một địa điểm, cùng một khung giờ. Hoàn toàn không có kế hoạch trước, nhưng rốt cuộc chúng tôi đã trải qua một đêm với nhau. Và rồi chẳng bao giờ còn gặp lại nữa. Ở tuổi mười chín, tôi không biết gì về hoạt động bên trong của trái tim mình, chứ đừng nói đến trái tim của người khác. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tôi đã nắm bắt khá tốt cách thức hoạt động của hạnh phúc và nỗi buồn. Những gì tôi chưa thể nắm bắt đều là vô số hiện tượng kì lạ không nằm ở khoảng cách giữa hạnh phúc và nỗi buồn, cách chúng liên hệ với nhau như thế nào. Bởi thế mà tôi thường cảm thấy bực bội và bất lực. Điều đó có nghĩa là, tôi vẫn muốn nói về nàng. Những gì tôi biết về nàng là nàng có sáng tác thơ Tanka và đã xuất bản một tập thơ. Tuy nói là đã xuất bản, nhưng thực ra chỉ là một cuốn sách nhỏ, giống như một tập giấy, hầu như còn không đạt đến mức của một cuốn sách tự xuất bản, bao gồm các trang in được buộc bằng dây và một tấm bìa đơn giản đính kèm. Nhưng có vài bài thơ trong tuyển tập của nàng lại khó quên một cách kì lạ. Hầu hết các bài thơ nàng viết đều là về tình yêu nam nữ, hoặc về cái chết. Gần như để thể hiện rằng tình yêu và cái chết là những khái niệm không thể chia cắt hay tách rời. Trên gối đá
8 HARUKI MURAKAMI “Anh và em thực sự chúng ta đang ở rất xa nhau? Hay liệu em có nên nhảy tàu ở hành tinh Jupiter không? Khi em áp tai vào chiếc gối đá Tiếng mạch máu đang chảy Bỗng ngắt, ngừng, ngắt, ngừng” - “Ê, tớ sẽ hét tên gã đàn ông khác khi tớ lên đỉnh đấy, cậu có thấy ô kê với chuyện đó không nào?”, nàng hỏi tôi khi chúng tôi đang trần truồng như nhộng dưới lớp chăn. - “Tớ không có vấn đề gì với chuyện đó cả, tớ nghĩ thế.” Tôi bảo với nàng, tôi cũng không hoàn toàn chắc cho lắm nhưng tôi e là mấy thứ đó cũng chả phiền phức gì. Ý tôi là, dù sao cũng chỉ là một cái tên thôi mà. Đâu có gì thay đổi chỉ vì một cái tên. - “Tớ có thể hét lên khá lớn đấy.” - “Chà, đó lại là một vấn đề đấy,” tôi vội nói. Căn hộ bằng gỗ cổ kính mà tôi đang sống dát những bức tường mỏng và giòn như cái bánh quế hồi nhỏ tôi hay ăn. Lúc đó đã khuya rồi, và nếu nàng thực sự hét lên, thì những người ở bên cạnh sẽ nghe thấy chúng ta mất. - “Vậy thì tớ sẽ cắn khăn tắm nhé”, nàng nói. Tôi rút chiếc khăn sạch và dày nhất trong nhà tắm, cuộn nó lại và đặt bên cạnh gối. - “Cái này ổn chứ?” Nàng cắn xuống chiếc khăn, giống như một con ngựa đang thử dây cương mới. Gật gật đầu. Chiếc khăn rõ ràng đã vượt mức tiêu chuẩn. Ấy hoàn toàn là một chuyến qua đêm tình cờ. Tôi chưa bao giờ mong đợi việc chúng tôi sẽ ở bên nhau, và tôi không nghĩ nàng cũng muốn vậy. Chúng tôi đã làm việc ở cùng một nơi trong vài tuần, nhưng vì công việc hai đứa làm hơi khác một chút, nên hầu như không có cơ hội trò chuyện đàng hoàng. Mùa đông năm đó, tôi đang rửa bát và giúp việc trong nhà bếp của một nhà hàng Ý bình dân gần ga Yotsuya, còn nàng làm phục vụ bàn ở đó. Tất cả những người làm công việc bán thời gian đều là sinh viên đại học, ngoại trừ nàng ra. Có lẽ vì vậy mà nàng thoạt trông có vẻ hơi xa cách. Nàng quyết định bỏ công việc đó vào giữa tháng 12, vào một ngày sau khi tan làm, mấy anh em nhân viên đã đến một quán rượu gần đó để uống vài ly. Tôi được mời tham gia cùng họ. Đó hoàn toàn không phải là một bữa tiệc chia tay đao to búa lớn gì, chúng tôi chỉ uống bia tươi, ăn nhẹ, tán gẫu về nhiều thứ. Tôi nghe kể là trước khi
TRÊN GỐI ĐÁ 9 làm công việc này, nàng đã làm việc tại một công ty bất động sản nhỏ và một hiệu sách. Nàng giải thích, ở tất cả những nơi nàng làm việc, nàng không bao giờ có thiện cảm với những người quản lý hoặc chủ sở hữu. Khi làm ở nhà hàng, nàng cũng chả cãi nhau với ai cả, nàng nói, nhưng lương quá thấp khiến nàng không thể sống được lâu nên phải tìm công việc khác. Có điều hầu như nàng đều không ưng ý. - “Thế cậu muốn nhận công việc gì?” Có ai đó hỏi. “Tôi không quan tâm lắm,” nàng nói, xoa xoa cánh mũi. (Bên cạnh mũi của nàng có hai nốt ruồi nhỏ, xếp thành hàng như một chòm sao.) “Ý tôi là dù sao thì bất cứ công việc gì tôi vớ phải cũng sẽ không tuyệt vời như vậy đâu.” Tôi sống ở Asagaya vào thời điểm đó, và nơi nàng ở nằm ở Koganei. Vì vậy, chúng tôi cùng nhau đi tàu cao tốc trên tuyến Chuo ra khỏi Yotsuya. Cả hai ngồi cạnh nhau trong toa tàu. Đã hơn mười một giờ tối, là một đêm lạnh buốt, với gió lùa qua. Trước khi biết điều đó, chúng tôi đã ở trong cái mùa cần găng tay và khăn quàng cổ rồi. Khi tàu đến gần Asagaya, tôi đứng dậy chuẩn bị xuống, thì nàng ngước nhìn tôi và nói với giọng trầm, “Nếu ổn thì cậu có để tôi ở lại chỗ của cậu tối nay không?” - “Được chứ, nhưng sao thế?” - “Còn quá xa để quay trở lại Koganei.” - “Tôi phải cảnh báo với cậu, đó là một căn hộ nhỏ và là một mớ hỗn độn thực sự,” tôi nói. - “Ít nhất thì điều đó cũng không làm phiền tôi,” nàng nói và nắm lấy tay áo khoác của tôi. Thế là nàng đã đến nơi ở chật chội, tồi tàn của tôi, và chúng tôi uống vài lon bia. Chúng tôi đã dành thời gian của mình với đám bia, và sau đó, giống như một bước tự nhiên tiếp theo, nàng cởi bỏ từng lớp y phục ngay trước mặt tôi. Cứ như vậy, nàng trần truồng rúc vào tấm nệm lót của tôi. Theo sự dẫn dắt của nàng, tôi cởi hết quần áo và cùng nàng lên giường. Tôi đã tắt đèn, nhưng ánh sáng từ bếp ga vẫn giữ cho căn phòng khá sáng. Trên giường, chúng tôi lúng túng sưởi ấm cho nhau. Trong một lúc, không ai trong chúng tôi nói với nhau lời nào. Nhanh chóng khỏa thân với nhau như vậy, thật khó biết nói chuyện gì. Nhưng khi cơ thể cả hai dần dần ấm lên, chúng tôi thực sự cảm thấy làn da của nhau và cảm thấy ngượng ngùng. Ấy là một cảm giác thân mật kỳ lạ. Đó là khi nàng hỏi, “Tớ có thể hét tên người đàn ông khác khi tớ lên đỉnh đấy, cậu có thấy ổn không?” - “Cậu có yêu anh ta không?” Tôi hỏi nàng, sau khi đã chuẩn bị xong khăn tắm.
10 HARUKI MURAKAMI - “Có. Có rất nhiều,” nàng nói. “Tớ yêu anh ấy rất nhiều. Từng phút từng giây tớ vẫn luôn nghĩ về anh ấy. Nhưng anh ấy không yêu tớ nhiều như vậy. Chà, anh ấy đã có bạn gái.” - “Nhưng cậu đang qua lại với anh ta?” - “Ừa. Anh ấy gọi cho tớ bất cứ khi nào anh ấy muốn cơ thể của tớ, “ nàng nói. “Giống như gọi đồ ăn ship qua điện thoại ấy.” Tôi không biết phải trả lời như thế nào, nên tôi im lặng. Nàng đã lần mò một con số trên lưng tôi với đầu ngón tay của mình. Hoặc có thể nàng đang viết gì đó, bằng nét chữ láu. - “Anh ấy nói với tớ rằng khuôn mặt tớ đơn giản lắm nhưng cơ thể của tớ thì tuyệt vời không gì bì kịp!” Tôi không nghĩ rằng khuôn mặt của nàng đặc biệt đơn giản, mặc dù việc gọi nàng là xinh đẹp thì cũng quá xa. Bây giờ nhìn lại, tôi không thể nhớ chính xác khuôn mặt của nàng, hay có thể mô tả chi tiết về nó. - “Nhưng nếu anh ta gọi thì cậu sẽ liền tới?” - “Tớ yêu anh ấy nên có thể làm gì khác đây?” Nàng nói, như thể không có gì tự nhiên hơn. “Dù cho anh ấy có nói gì với tớ, đó là những lúc tớ sướng phát điên khi được một người đàn ông làm tình với mình.” Tôi có cân nhắc điều này. Nhưng hồi đó tôi không thể tưởng tượng nổi cảm giác này kéo theo những gì, đối với một người phụ nữ muốn một người đàn ông làm tình với mình. (Và thậm chí bây giờ, nghĩ lại, tôi không hoàn toàn hiểu nó.) - “Yêu một người giống như bị bệnh tâm thần mà không được bảo hiểm y tế chi trả,” nàng nói, giọng đều đều, giống như nàng đang đọc lại điều gì đó được viết trên tường. - “Tớ hiểu rồi,” tôi nói, xúc động trước lời nói của nàng. - “Vậy nên, sẽ không sao đâu nếu cậu nghĩ về một người phụ nữ khác thay vì tớ,” nàng nói. - “Cậu không đang thích cô nào ư?” - “Có chứ.” - “Thế nên tớ sẽ không phiền nếu cậu rú tên cô ấy khi cậu xuất tinh đâu. Không phiền chút nào.” Lúc đó tôi cũng có thích một cô, nhưng hoàn cảnh khiến chúng tôi không thể gắn bó sâu sắc hơn, và khi lên đỉnh, tôi đã không gọi tên cô ấy. Ý nghĩ đó có thoáng qua
TRÊN GỐI ĐÁ 11 trong đầu tôi, nhưng trong lúc quan hệ tình dục thì nó có vẻ hơi ngu ngốc, và tôi xuất tinh vào bên trong nàng mà không nói một lời. Nàng định hét tên một gã đàn ông, giống như đã cảnh báo, nên tôi phải vội vàng nhét khăn vào giữa hai hàm răng của nàng. Nàng có một hàm răng trông rất chắc khỏe. Bất kỳ tay nha sĩ nào cũng sẽ bị ấn tượng. Tôi thậm chí không nhớ nàng đã hét tên gì. Tất cả những gì tôi nhớ lại là nó chẳng là gì cả, chẳng qua chỉ là một cái tên tầm thường, và tôi rất ấn tượng rằng một cái tên nhạt nhẽo như vậy, đối với nàng, lại quý giá và hấp dẫn đến mức ấy. Một cái tên đơn giản thế thôi nhưng đôi khi lại có thể thực sự làm rung động trái tim của một con người. Buổi sáng tiếp theo, tôi có một buổi học sớm phải nộp bản báo cáo chính thay cho bài báo cáo giữa kỳ, nhưng như tưởng tượng, tôi đã cúp nó luôn. (Điều này dẫn đến một số vấn đề lớn sau đó, nhưng đó là một câu chuyện khác.) Cuối cùng chúng tôi cũng thức dậy vào buổi sáng muộn, đun sôi nước pha cà phê hòa tan và ăn một chút bánh mì nướng. Có vài quả trứng trong tủ lạnh, nên tôi đã luộc để hai người ăn. Bầu trời trong xanh không một gợn mây, ánh nắng ban mai chói chang, và tôi cảm thấy lười biếng. Khi nàng nhai bánh mì nướng bơ, nàng hỏi tôi rằng tôi đang học chuyên ngành gì ở trường đại học. Tôi nói tôi đang ở trong lĩnh vực văn học. - “Cậu có muốn trở thành một tiểu thuyết gia không?” Nàng hỏi. Tớ không thực sự tính chuyện ấy, tôi trả lời thành thật. Tôi không có kế hoạch gì vào thời điểm trở thành một tiểu thuyết gia. Tôi thậm chí chưa bao giờ xem xét nó (mặc dù có rất nhiều người trong lớp của tôi đã thông báo rằng họ đang có kế hoạch trở thành tiểu thuyết gia). Nghe thế, nàng dường như mất hẳn hứng thú với tôi. Dù không hẳn là nàng có nhiều hứng thú khi bắt đầu. Nhưng vẫn tụt hứng. Trong ánh sáng ban ngày, tôi có thể thấy dấu răng của nàng in trên khăn tắm, và điều đó làm tôi thấy hơi kì quái. Hẳn là nàng phải cắn nó mạnh lắm. Trong ánh sáng ban ngày, nàng dường như lạc lõng. Thật khó tin rằng cô gái - nhỏ nhắn, xương xẩu, với nước da không - đẹp - lại chính là cô gái mà đêm hôm trước, đã hét lên say đắm trong vòng tay tôi, dưới ánh trăng mùa đông. - “Tớ có viết thơ Tanka,” nàng nói bất ngờ. - “Tanka á?” - “Cậu biết Tanka phải không?” - “Chắc chắn rồi,” tôi nói. Ngay cả một người ngây thơ như tôi cũng biết. “Nhưng đây là lần đầu tiên tớ gặp một người thực sự viết Tanka.”
12 HARUKI MURAKAMI Nàng cười hạnh phúc. “Nhưng có những người như thế trên đời, cậu biết đấy.” - “Cậu đang ở trong câu lạc bộ thơ hay sao?” - “Không, không phải thế đâu,” nàng nói, khẽ nhún vai. “Tanka là thứ do cậu viết từ tận đáy lòng chứ không giống như chơi bóng rổ đâu.” - “Nhưng là thể loại Tanka như thế nào?” - “Cậu có muốn nghe chút không?” Tôi gật đầu. - “Thật chứ? Cậu không chỉ nói đãi bôi thôi phải không?” - “Thật mà,” tôi đáp. Và đó là sự thật. Tôi tò mò. Ý tôi là nàng sẽ viết những bài thơ gì, cô gái này, người mà vài giờ trước đó, đã rên rỉ trong vòng tay tôi và hét lên tên một người đàn ông khác? Nàng do dự. “Tớ không nghĩ mình có thể đọc lại bất kỳ câu nào ở đây. Xấu hổ lắm. Trời vẫn còn sáng nữa. Nhưng tớ đã xuất bản một tuyển tập, vì vậy nếu cậu thực sự muốn đọc chúng, hãy cho tớ biết tên của cậu và địa chỉ nữa?” Tôi ghi nhanh địa chỉ của tôi vào một mảnh giấy ghi nhớ và đưa nó cho nàng. Nàng liếc nhìn nó, gấp lại làm bốn, rồi nhét vào túi áo khoác. Một chiếc áo khoác màu xanh lá cây nhạt như có từ xưa xửa xừa xưa. Trên cổ áo tròn là một cây trâm bạc hình hoa linh lan. Tôi nhớ nó lấp lánh như thế nào dưới ánh nắng chiếu xuyên qua cửa sổ hướng Nam. Tôi không biết gì về hoa, nhưng chẳng hiểu vì cớ gì mà tôi vẫn luôn thích hoa linh lan. - “Cảm ơn vì đã cho tớ ở lại. Tớ thực sự không muốn một mình khi quay trở lại Koganei”, nàng nói khi bước vào chỗ của tôi. “Điều đó đôi khi vẫn xảy ra với mấy đứa con gái ấy mà.” Cả hai chúng tôi đều nhận thức rõ điều đó. Rằng cả hai có thể sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Đêm đó nàng chỉ đơn giản không muốn đi tàu suốt quãng đường trở về Một tuần sau, tập thơ của nàng đã được gửi qua đường bưu điện. Nói thật, tôi thực sự không mong đợi nàng giữ lời và gửi thơ cho tôi. Tôi nghĩ rằng nàng đã hoàn toàn quên mất tôi vào thời điểm nàng quay trở lại nơi ở của mình ở Koganei (hoặc có lẽ
TRÊN GỐI ĐÁ Một chiếc áo khoác màu xanh lá cây nhạt như có từ xưa xửa xừa xưa. Trên cổ áo tròn là một cây trâm bạc hình hoa huệ tây. Tôi nhớ nó lấp lánh như thế nào dưới ánh nắng chiếu xuyên qua cửa sổ hướng Nam. Tuy không am hiểu về hoa nhưng không hiểu sao riêng hoa huệ tây thì từ bé tôi đã thích. Cả hai chúng tôi đều nhận thức rõ điều đó. Rằng cả hai có thể sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Đêm đó nàng chỉ đơn giản không muốn đi tàu suốt quãng đường trở về Koganei... ...Chỉ thế thôi. “Cảm ơn vì đã cho tớ ở lại. Tớ thực sự không muốn một mình khi quay trở lại Koganei”, nàng nói khi bước vào chỗ của tôi. “Điều đó đôi khi vẫn xảy ra với mấy đứa con gái ấy mà.”
14 HARUKI MURAKAMI nàng đã cố gắng quên tôi ngay khi có thể), và không bao giờ tưởng tượng rằng nàng sẽ chịu mọi phiền phức để đặt bản sao của cuốn sách vào phong bì, viết tên và địa chỉ của tôi, dán tem, và ném vào hộp thư, thậm chí có thể đến tận bưu điện, là tất cả những gì tôi biết. Thế nên, vào một buổi sáng, khi tôi thấy gói hàng đó trong hộp thư của mình trong căn hộ, tôi đã rất ngạc nhiên. Tựa đề của tập thơ là “Trên Gối Đá”. Tác giả được đề tên Chiho. Không rõ đây là tên thật hay bút hiệu của nàng. Ở nhà hàng, tôi chắc đã nghe tên nàng nhiều lần, nhưng tôi không thể nhớ ra. Tuy nhiên, không ai gọi nàng là Chiho, điều đó tôi biết. Tập thơ được đựng trong một phong bì màu nâu trơn, không có tên hoặc địa chỉ trả lại, và không có thẻ hoặc thư. Chỉ gồm những trang chép lại của một tập thơ mỏng, được buộc lại với nhau bằng sợi dây trắng, lặng lẽ nằm yên bên trong. Nó không hề rẻ theo đơn đặt hàng, chữ in, nhưng được in độc đáo trên loại giấy dày, chất lượng cao. Tôi đoán là tác giả đã sắp xếp bìa cứng đính kèm, và đóng gáy cẩn thận bản sao bằng kim và dây để tiết kiệm chi phí đóng sách. Tôi đã thử tưởng tượng nàng làm công việc đó, nhưng không thể hình dung được. Số 28 được đóng dấu trên trang đầu tiên. Chắc là bản thứ hai mươi tám trong một phiên bản giới hạn. Tổng cộng có bao nhiêu người? Không có giá tiền niêm yết ở bất cứ đâu. Có lẽ sẽ không bao giờ có giá. Tôi không mở ngay tập thơ. Tôi để nó trên bàn làm việc, thỉnh thoảng liếc nhìn vào trang bìa. Không phải tôi không hứng thú, chỉ là tôi cảm thấy việc đọc một tập thơ mà ai đó tập hợp lại, đặc biệt là một người, một tuần trước, đã khỏa thân trong vòng tay tôi, cần phải chuẩn bị tinh thần một chút. Tôi dành một sự tôn trọng đối với nó. Cuối cùng, cuối tuần đó, vào buổi tối, tôi đã mở cuốn sách. Tôi tựa lưng vào bức tường cạnh cửa sổ và đọc nó trong hoàng hôn mùa đông. Có bốn mươi hai bài thơ trong tuyển tập. Một bài Tanka trên mỗi trang. Không phải là một con số đặc biệt lớn. Không có lời bạt, thậm chí không ghi ngày xuất bản. Chỉ in thơ Tanka bằng kiểu chữ đen đơn giản trên các trang trắng với lề rộng rãi. Tôi chắc chắn không mong đợi một tác phẩm văn học hoành tráng hay bất cứ điều gì. Như tôi đã nói, tôi chỉ đơn giản là tò mò. Những bài thơ nào sẽ đến từ một người phụ nữ đã hét vào tai tôi tên một gã trai nào đó khi cô ấy cắn vào một chiếc khăn tắm? Điều tôi tìm thấy khi đọc qua bộ sưu tập là một số bài thơ thực sự chạm đến tôi. Tanka về cơ bản là một bí ẩn đối với tôi (và thậm chí bây giờ vẫn còn). Vì vậy, tôi chắc chắn không thể đưa ra ý kiến phản đối về việc loại Tanka nào được coi là tuyệt vời và loại nào không. Nhưng ngoài bất kỳ đánh giá nào về giá trị văn học, một số bài Thơ Tanka mà nàng viết, cụ thể là tám bài, đã đánh động tận nơi sâu thẳm trong tôi. Ví dụ như bài này: “Thời điểm hiện tại
TRÊN GỐI ĐÁ 15 nếu nó là thời điểm hiện tại chỉ có thể được coi là hiện tại không thể tránh khỏi Trong luồng gió núi Chiếc đầu cắt đứt không một từ Nước tháng sáu ở gốc hoa cẩm tú cầu” Lạ lùng thay, khi tôi mở từng trang tuyển tập, nhìn theo dòng chữ in đen lớn, mắt tôi đọc to, thân hình của nàng tôi được thấy đêm đó hiện về trong tâm trí tôi, đúng như những gì đã xảy ra. Không phải là bóng dáng ấn tượng mà tôi nhìn thấy trong ánh ban mai, mà là cách nàng ôm lấy cơ thể mình, được bao bọc bởi làn da mịn màng, trong đêm trăng sáng đó. Bộ ngực tròn trịa tuyệt đẹp, núm vú nhỏ cứng, lông mu thưa thớt, âm đạo ẩm ướt của nàng. Khi đạt đến cực khoái nàng nhắm mắt lại, cắn mạnh vào chiếc khăn tắm và gọi đi gọi lại tên người đàn ông khác bên tai tôi. Tên của một người đàn ông ở đâu đó, một cái tên đơn giản mà tôi thậm chí không thể nhớ được. “Như tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau Tôi cũng nghĩ không có lý do gì mà chúng ta không thể Chúng ta sẽ gặp nhau hay nó chỉ đơn giản là kết thúc như thế này Được vẽ bởi ánh sáng bị bóng tối giẫm nát” Tất nhiên, tôi không biết, liệu nàng có còn viết Tanka hay không. Như tôi đã nói, tôi thậm chí không biết tên nàng, và hầu như không nhớ khuôn mặt của nàng. Những gì tôi nhớ là cái tên Chiho trên trang bìa của bộ sưu tập, da thịt mềm mại không phòng bị của nàng trong ánh trăng mùa đông nhàn nhạt chiếu qua cửa sổ, và chòm sao nhỏ có hai nốt ruồi nhỏ bên cạnh mũi. Có lẽ nàng thậm chí không còn sống nữa. Đôi khi tôi nghĩ vậy. Tôi không thể không cảm thấy rằng có thể một lúc nào đó nàng đã tự kết liễu cuộc đời mình. Tôi nói điều này bởi vì hầu hết các bài thơ Tanka của nàng, hoặc ít nhất là hầu hết những cái trong bộ sưu tập đó, đều mô tả hình ảnh của cái chết. Và vì một lý do nào đó, những điều này liên quan đến một cái đầu bị cắt đứt bởi một lưỡi dao. Đối với nàng, phong cách đó có thể là cách chết của riêng nàng. “Lạc trong cơn mưa chiều không ngừng Một chiếc rìu không tên Chặt đầu hoàng hôn” Nhưng trong một góc trái tim tôi, tôi vẫn ước nàng còn sống ở đâu đó trên thế giới này. Đôi khi tôi chợt nhận ra mình hy vọng rằng nàng còn sống sót, rằng nàng vẫn đang làm thơ. Tại sao? Tại sao tôi lại gặp khó khăn khi nghĩ về một thứ như vậy? Không có một thứ gì liên quan đến cuộc sống của tôi và của nàng. Ngay cả khi chúng
16 HARUKI MURAKAMI Lạ lùng thay, khi tôi mở từng trang tuyển tập, nhìn theo dòng chữ in đen lớn, mắt tôi đọc to, thân hình của nàng tôi được thấy đêm đó hiện về trong tâm trí tôi, đúng như những gì đã xảy ra. Không phải là bóng dáng ấn tượng mà tôi nhìn thấy trong ánh ban mai, mà là cách nàng ôm lấy cơ thể mình, được bao bọc bởi làn da mịn màng, trong đêm trăng sáng đó. Bộ ngực tròn trịa tuyệt đẹp, núm vú nhỏ cứng, lông mu thưa thớt, âm đạo ẩm ướt của nàng. Khi đạt đến cực khoái nàng nhắm mắt lại, cắn mạnh vào chiếc khăn tắm và gọi đi gọi lại tên người đàn ông khác bên tai tôi. Tên của một người đàn ông ở đâu đó, một cái tên đơn giản mà tôi thậm chí không thể nhớ được. Tất nhiên, tôi không biết, liệu nàng có còn viết Tanka hay không. Như tôi đã nói, tôi thậm chí không biết tên nàng, và hầu như không nhớ khuôn mặt của nàng. Những gì tôi nhớ là cái tên Chiho trên trang bìa của bộ sưu tập, da thịt mềm mại không phòng bị của nàng trong ánh trăng mùa đông nhàn nhạt chiếu qua cửa sổ.
TRÊN GỐI ĐÁ 17
18 HARUKI MURAKAMI tôi đi ngang qua nhau trên một con phố, hoặc ngồi ở những chiếc bàn liền kề trong một quán ăn, tôi thực sự nghi ngờ rằng chúng tôi có thể nhận ra nhau. Giống như hai đường thẳng chồng lên nhau, chúng tôi trong giây lát đã giao nhau ở một điểm nào đó, rồi đi theo con đường riêng của mình. Đã nhiều năm trôi qua kể từ đó. Thật kỳ lạ (hoặc có lẽ không quá lạ lùng), con người già đi trong chớp mắt. Mỗi khoảnh khắc, cơ thể chúng ta đang trên một chặng đường duy nhất là sụp đổ và xấu đi, không thể quay ngược kim đồng hồ. Tôi nhắm mắt lại, mở mắt ra, chỉ để nhận ra rằng trong lúc này, rất nhiều thứ đã biến mất. Bị những cơn gió dữ dội thổi vào lúc nửa đêm, những thứ này, một số có tên, một số không có, biến mất không dấu vết. Tất cả những gì còn lại chỉ là ký ức mờ nhạt. Dù vậy, ngay cả trí nhớ vẫn khó có thể được dựa vào. Có ai có thể nói chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra với chúng tôi khi đó không? Nếu chúng ta có thể được ban Phước Lành, nếu chúng ta may mắn, một vài từ ngữ có thể vẫn ở bên cạnh chúng ta. Chúng leo lên đỉnh đồi trong đêm, chui vào những cái hố nhỏ được đào để vừa với hình dạng của cơ thể, nằm yên một chỗ, mặc cho những cơn gió bão của thời gian thổi qua. Cuối cùng thì bình minh cũng ló dạng, gió hoang dịu bớt, những dòng chữ còn sót lại lặng lẽ ló ra khỏi bề mặt. Phần lớn chúng có giọng nói nhỏ, nhút nhát và chỉ có những cách thể hiện mơ hồ. Dù vậy, chúng sẵn sàng làm nhân chứng. Như sự thông minh trung thực, công bằng. Nhưng để tạo ra những lời nói dai dẳng, đau khổ đó, hoặc tìm thấy chúng và bỏ lại phía sau, bạn phải hy sinh vô điều kiện cơ thể của bạn, trái tim của chính bạn. Bạn phải gục cổ trên chiếc gối đá lạnh được ánh trăng mùa đông soi rọi. Ngoài tôi ra, có lẽ trên đời này không còn một linh hồn nào nhớ được những bài thơ của cô gái ấy, huống hồ là có người đọc một chuỗi thơ nào đó, tuyển tập số 28, tuyển tập tự xuất bản nhỏ bé mỏng manh đó, được đóng bằng giấy giờ đã bị lãng quên, phân tán, bị hút vào bóng tối bao trùm giữa Sao Mộc và Sao Thổ, biến mất vĩnh viễn. Có lẽ bản thân nàng (giả sử rằng nàng vẫn còn sống) không thể nhớ lại điều gì về những bài thơ mà nàng đã viết hồi còn trẻ. Có lẽ lý do duy nhất khiến tôi nhớ lại một số bài thơ của nàng ngay cả bây giờ là vì nó liên quan đến những kỉ niệm về dấu răng của nàng trên chiếc khăn đó. Có lẽ chỉ có vậy thôi. Tôi không biết có bao nhiêu ý nghĩa hay giá trị khi vẫn nhớ tất cả những điều đó, thỉnh thoảng lại lôi từ ngăn kéo ra tập thơ đã phai màu và đọc lại. Nói thật, tôi thực sự không biết. Ở bất kỳ mức độ nào, những thứ ấy vẫn còn. Trong khi những lời nói và ký ức khác trong tôi đã hóa thành cát bụi và tan biến. “Dù anh có chặt nó đi Hay người khác cắt nó đi Nếu anh kê cổ vào chiếc gối đá Thì hãy tin điều đó, anh sẽ hóa thành cát bụi”
KEM 21 Thế là tôi đã kể cho người bạn nhỏ tuổi hơn của mình về sự kiện kỳ lạ đã xảy ra vào năm tôi mười tám tuổi. Tôi không nhớ chính xác lý do tại sao mình lại xới lên. Nó chỉ tình cờ nảy ra khi chúng tôi đang trò chuyện. Ý tôi là, chuyện xảy ra cũng lâu rồi. Xưa lắc xưa lơ. Trên hết, tôi không bao giờ có thể đưa ra kết luận nào về cố sự ấy. “Lúc đó anh đã tốt nghiệp trung học, nhưng vẫn chưa vào đại học,” tôi giải thích. “Người ta gọi anh là ronin, để chỉ mấy đứa sinh viên trượt đại học và đang chờ thi lại ấy. Mọi thứ cứ mù mịt vô định như thế,” tôi tiếp tục, “nhưng điều đó không khiến anh bận tâm nhiều. Anh biết thừa là anh có thể vào được một trường cao đẳng tư thục tàm tạm nếu anh muốn. Nhưng ông bà bô anh cứ khăng khăng rằng anh phải ráng mà lọt vào một trường đại học công lập, vậy nên anh mới đi thi, dù biết thừa là kiểu gì cũng sẽ toang. Và toang thật. Kỳ thi đại học quốc gia hồi đó có phần toán bắt buộc, mà anh có quan tâm đến giải tích giải tiếc gì đâu. Anh đã dành một năm tiếp theo, về cơ bản để chỉ giết thời gian, như kiểu đang tạo ra chứng cứ ngoại phạm. Thay vì đi học luyện thi để chuẩn bị thi lại, anh lang thang ở thư viện địa phương, cày mấy cuốn tiểu thuyết dày cộp. Hai cụ nhà anh hẳn đã ngỡ rằng thằng cu quý tử đang ôn bài ở đó. Nhưng, hê hê, đời là thế! Khi được đọc toàn bộ sách của Balzac anh thấy còn sướng hơn là đi sâu vào các nguyên tắc của phép tính giải tích”. Vào đầu tháng 10 năm đó, tôi nhận được lời mời tham gia buổi biểu diễn piano từ một cô nàng học dưới mình một năm và cùng học chung một giáo viên dạy piano với tôi. Có lần, bọn tôi đã cùng chơi một đoạn piano ngắn bốn tay của Mozart. Thế nhưng hồi bước sang tuổi mười sáu, tôi đã thôi học rồi và cũng chả gặp nàng sau đó. Vì vậy, tôi không thể hiểu nổi tại sao nàng lại gửi cho tôi lời mời này. Cô nàng có hứng thú với tôi à? Không đời nào. Nàng hấp dẫn lắm, chắc chắn, mặc dù không Kem
22 HARUKI MURAKAMI phải là mẫu ngoại hình tôi thích; nàng luôn ăn mặc hợp thời trang và theo học tại một trường nữ sinh tư thục đắt tiền. Tóm lại thế nào cũng không phải típ gái sẽ phải lòng một anh chàng nhạt nhẽo và tầm thường như tôi. Khi chúng tôi chơi bản nhạc đó cùng nhau, nàng thường ném cho tôi một cái lườm cháy mắt mỗi khi tôi đánh sai nốt. Nàng là một nghệ sĩ piano giỏi hơn tôi, còn tôi có xu hướng trở nên căng thẳng quá mức, vì vậy khi hai chúng tôi ngồi cạnh nhau và chơi, tôi hay chơi hỏng rất nhiều nốt. Khuỷu tay của tôi cũng va vào nàng vài lần. Đó không phải là một phần quá khó, và hơn nữa, tôi đã có phần dễ hơn. Mỗi lần tôi làm sai, nàng lại hiển lộ ra vẻ “Bố trẻ tha cho tôi giùm cái” trên khuôn mặt. Và nàng sẽ tặc lưỡi - không ồn ào nhưng đủ lớn để tôi có thể hiểu được. Ngay cả lúc này tôi vẫn có thể nghe thấy âm thanh đó. Tiếng tặc lưỡi ấy thậm chí có khi còn liên quan đến quyết định từ bỏ cây đàn piano của tôi cũng nên. Dù sao đi nữa, mối quan hệ của tôi và nàng chỉ đơn giản là chúng tôi tình cờ học chung một trường dạy piano. Chúng tôi sẽ trao đổi vài câu chào nếu chúng tôi gặp nhau ở đó, nhưng tôi không nhớ về việc chúng tôi đã từng chia sẻ bất cứ điều gì cá nhân. Vì vậy, đột nhiên nhận được lời mời tham gia buổi biểu diễn độc tấu của nàng (không phải là độc tấu mà là độc tấu của nhóm với ba nghệ sĩ piano) khiến tôi hoàn toàn bất ngờ - trên thực tế, nó khiến tôi bối rối. Nhưng năm đó thứ mà tôi dư nhất là thời gian, nên tôi đã gửi bưu thiếp hồi âm, nói rằng tôi sẽ tham dự. Một lý do khiến tôi làm điều này là tôi tò mò muốn tìm hiểu điều gì ẩn sau lời mời - nếu thực sự nó có động cơ. Tại sao, sau ngần ấy thời gian, nàng lại gửi cho tôi một lời mời bất ngờ? Có lẽ nàng đã trở nên điêu luyện hơn nhiều với tư cách là một nghệ sĩ piano và muốn cho tôi thấy điều đó. Hoặc có lẽ có điều gì riêng tư mà nàng muốn truyền đạt cho tôi. Nói cách khác, tôi vẫn đang tìm hiểu xem đâu là cách tốt nhất để vận dụng tính hiếu kỳ của mình, nhưng đi đến đâu đều gặp bế tắc đến đó. Hội trường biểu diễn nằm trên đỉnh một trong những ngọn núi ở Kobe. Tôi bắt tuyến tàu Hankyu gần hết mức có thể, sau đó lên một chiếc xe buýt đi lên một con dốc quanh co. Tôi xuống xe ở điểm dừng gần đỉnh, và sau một đoạn đi bộ ngắn thì đã đến địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc có quy mô khiêm tốn, thuộc sở hữu và quản lý của một tập đoàn kinh doanh lớn. Tôi không hề biết rằng có một phòng hòa nhạc ở đây, ở một nơi không thuận tiện như vậy, trên đỉnh núi, trong một khu dân cư cao cấp, yên tĩnh. Như bạn có thể tưởng tượng, có rất nhiều điều trên thế giới mà tôi chưa biết. Tôi cảm thấy rằng mình nên mang theo thứ gì đó để thể hiện sự cảm kích vì đã được mời, vì vậy tại một cửa hàng bán hoa gần ga xe lửa, tôi đã chọn một đóa hoa có vẻ phù hợp với dịp này và gói chúng thành một bó. Xe buýt vừa ló dạng là tôi đã nhảy lên ngay. Ấy là một buổi chiều chủ nhật se lạnh. Bầu trời được bao phủ bởi những đám mây xám dày, và dường như một cơn mưa lạnh có thể bắt đầu bất cứ lúc nào.
KEM 23 Tuy nhiên, trời lặng gió. Tôi đang mặc một chiếc áo len mỏng trơn bên dưới chiếc áo khoác xương cá màu xám pha chút xanh lam, và một chiếc túi vải đeo chéo qua vai. Chiếc áo khoác quá mới, chiếc túi quá cũ và sờn rách. Và trên tay tôi là bó hoa đỏ rực được bọc trong giấy bóng kính. Khi tôi bước lên xe buýt như thế, những hành khách khác liên tục liếc nhìn tôi. Hoặc có vẻ như họ đã làm thế. Tôi có thể cảm thấy má mình đỏ bừng. Hồi đó, tôi rất dễ đỏ mặt vì sự khiêu khích nhỏ nhất. Và vết đỏ ấy giờ đã vĩnh viễn biến mất. “Tại sao mình lại ở đây?” Tôi tự hỏi bản thân khi ngồi gập người vào ghế, dùng lòng bàn tay làm mát đôi má đỏ bừng. Tôi đặc biệt không muốn nhìn thấy cô gái này, hay nghe độc tấu piano, vậy tại sao tôi lại tiêu hết số tiền tiêu vặt của mình vào một bó hoa và đi đến tận đỉnh núi vào một buổi chiều Chủ nhật buồn tẻ của tháng Mười Một? Chắc hẳn có điều gì đó không ổn xảy ra với tôi khi tôi thả lại bưu thiếp hồi âm vào hộp thư. Càng lên cao trên ngọn núi thì hành khách trên xe buýt càng vãn dần, và khi xe đến điểm dừng của tôi, chỉ còn lại tôi và tài xế. Tôi xuống xe và đi theo chỉ dẫn trên một con đường dốc thoai thoải. Mỗi khi tôi rẽ vào một góc, bến cảng lại thấp thoáng hiện ra rồi lại biến mất. Bầu trời u ám một sắc màu buồn tẻ, như bao phủ lên một lớp chì. Dưới bến cảng có những con sếu khổng lồ, nhấp nhô lên không trung như những chiếc râu của các sinh vật lóng ngóng bò ra khỏi đại dương. Những ngôi nhà gần đỉnh dốc rất lớn và sang trọng, với những bức tường đá đồ sộ, cổng trước ấn tượng và gara hai ô-tô. Hàng rào đỗ quyên đều được cắt tỉa gọn gàng. Tôi nghe thấy giống như có tiếng chó to sủa ở đâu đó. Nó sủa lớn ba lần, và sau đó, hình như ai đó đã nghiêm khắc mắng mỏ nó, khiến nó đột ngột dừng lại, và xung quanh trở nên yên tĩnh. Khi tôi đi theo tấm bản đồ đơn giản trong tấm thiếp mời, tôi đã bị đánh gục bởi một linh cảm mơ hồ, bối rối. Có điều gì đó không ổn. Trước hết, đó là sự thiếu vắng của người dân trên đường phố. Kể từ khi xuống xe, tôi đã không nhìn thấy một người đi bộ nào. Có hai chiếc xe chạy ngang qua, nhưng chúng đang xuống dốc chứ không phải lên. Nếu một buổi biểu diễn thực sự sắp diễn ra ở đây, tôi mong sẽ được gặp nhiều người hơn. Nhưng cả khu phố yên tĩnh và thinh lặng, như thể những đám mây dày dằng dặc phía trên đã nuốt chửng tất cả âm thanh. Liệu tôi có nhầm lẫn gì không? Tôi lấy thiếp mời ra khỏi túi áo khoác để kiểm tra lại thông tin. Có lẽ tôi đã đọc nhầm. Tôi kiểm tra nó một cách cẩn thận rồi, nhưng không thể tìm thấy bất cứ một nhầm lẫn nào. Tôi đã đi đúng đường, đúng bến xe buýt, đúng ngày giờ. Tôi hít thở
24 HARUKI MURAKAMI sâu để trấn tĩnh và lên đường trở lại. Điều duy nhất tôi có thể làm là đến phòng hòa nhạc và xem.Cuối cùng khi tôi đến tòa nhà, cánh cổng thép lớn đã được khóa chặt. Một sợi xích dày vòng quanh cổng, và được giữ cố định bằng một ổ khóa nặng. Không có ai khác ở xung quanh. Qua một khe hở hẹp ở cổng, tôi có thể thấy một bãi đậu xe cỡ khá, nhưng không có một chiếc xe nào đậu ở đó. Cỏ dại mọc um tùm lên giữa những viên đá lát đường, và bãi đậu xe trông như thể đã lâu không được sử dụng. Bất chấp tất cả những điều đó, bảng tên lớn ở lối vào cho tôi biết rằng đây thực sự là hội trường biểu diễn mà tôi đang tìm kiếm. Tôi ấn nút liên lạc nội bộ bên cạnh lối vào nhưng không ai trả lời. Tôi đợi một chút, sau đó ấn nút một lần nữa, nhưng vẫn không có câu trả lời. Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay. Buổi biểu diễn phải bắt đầu sau mười lăm phút nữa. Nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy cánh cổng sẽ được mở. Sơn đã bong ra từng mảng và bắt đầu rỉ sét. Tôi không thể nghĩ ra điều gì khác để làm, vì vậy tôi ấn nút liên lạc nội bộ thêm lần nữa, giữ nó lâu hơn, nhưng kết quả vẫn như trước, sự im lặng trùm lên tất cả. Không biết phải làm gì, tôi dựa lưng vào cổng và đứng đó trong khoảng mười phút. Tôi đã nảy một hy vọng mờ nhạt rằng ai đó có thể xuất hiện trước đó không lâu. Nhưng không có ai đến cả. Không có dấu hiệu của bất kỳ chuyển động nào, kể cả bên trong hay ngoài cổng. Không có gió. Không có tiếng chim kêu, chó sủa cũng không nốt. Như trước đó, một mảnh chăn trơ trơ kết lại từ những đám mây xám nằm lơ lửng phía trên đầu. Cuối cùng tôi đã bỏ cuộc, tôi có thể làm gì khác đây? Với những bước chân nặng nề, tôi bắt đầu trở lại con phố về phía trạm xe buýt, hoàn toàn chìm trong bóng tối về những gì đang xảy ra. Điều rõ ràng duy nhất về toàn bộ tình huống, là sẽ không có buổi biểu diễn piano hay bất kỳ sự kiện nào khác được tổ chức ở đây ngày hôm nay. Tất cả những gì tôi có thể làm là về nhà, mang trên tay bó hoa đỏ. Mẹ tôi chắc chắn sẽ hỏi, “Hoa này để làm gì thế?” Và tôi sẽ phải đưa ra một câu trả lời hợp lý nào đó. Tôi muốn ném chúng vào thùng rác ở nhà ga, nhưng ít nhất đối với tôi, chúng quá đắt đỏ để vứt bỏ. Xuống đồi một đoạn ngắn, có một công viên nhỏ ấm cúng, rộng bằng một ngôi nhà. Ở phía xa của công viên, cách xa đường phố, là một bức tường đá tự nhiên góc cạnh. Nó hầu như không phải là một công viên - không có đài phun nước hay thiết bị sân chơi nào cả. Tất cả những gì có ở đó là một cái cây nhỏ, được vun xuống ở giữa. Các bức tường vây quanh lùm cây có hình lưới nghiêng, dây thường xuân mọc um tùm. Xung quanh là những bụi cây, và những tảng đá vuông bằng phẳng trên mặt đất. Thật khó để nói mục đích của công viên này là gì, nhưng có người thường xuyên chăm sóc nó; cây cối và bụi rậm được cắt tỉa khéo léo, không có cỏ dại hay rác rưởi xung quanh.
KEM 25 Trên đường lên đồi, tôi đã đi bộ ngay bên công viên mà không hề để ý đến nó.Tôi đi vào công viên để tập hợp lại những suy nghĩ của mình và ngồi xuống một chiếc ghế dài cạnh bụi cây. Tôi cảm thấy mình nên đợi ở khu vực này lâu hơn một chút để xem diễn biến của mọi thứ như thế nào (đối với tất cả những gì tôi biết, mọi người có thể đột ngột xuất hiện), và khi tôi ngồi xuống, tôi mới nhận ra mình mệt mỏi như thế nào. Đó là một kiểu kiệt sức kỳ lạ, dường như tôi đã kiệt sức trong một thời gian khá dài nhưng không hề nhận ra, và bây giờ nó mới ập đến với tôi. Từ bụi cây có thể nhìn được toàn cảnh bến cảng. Vài con tàu container lớn đã cập bến. Nhìn từ trên đỉnh núi, những chiếc hộp kim loại xếp chồng lên nhau trông chẳng khác gì những chiếc hộp thiếc nhỏ mà mình để trên bàn để đựng tiền xu hoặc kẹp giấy. Một lúc sau, tôi nghe thấy giọng một người đàn ông ở đằng xa. Không phải giọng nói tự nhiên mà là giọng nói được khuếch đại qua loa. Tôi không thể hiểu những gì họ đang nói, nhưng có một khoảng ngắt rõ rệt sau mỗi câu, và giọng nói ấy chính xác, không chút cảm xúc, như đang cố gắng truyền đạt điều gì đó cực kỳ quan trọng một cách khách quan nhất có thể. Tôi chợt nghĩ, có thể đây là một thông điệp cá nhân nhắm vào tôi, và một mình tôi. Ai đó sẽ gặp khó khăn khi nói cho tôi biết tôi đã sai ở đâu, tôi đã bỏ qua điều gì. Không phải điều mà tôi thường nghĩ, nhưng không hiểu sao nó lại ập đến với tôi theo cách đó. Tôi đã lắng nghe một cách cẩn thận. Giọng nói trở nên to hơn và dễ hiểu hơn. Chắc hẳn nó phát ra từ một cái loa trên nóc một chiếc ô tô đang chầm chậm leo dốc, dường như chẳng vội vàng chút nào. Cuối cùng, tôi đã nhận ra đó là gì: một chiếc xe hơi đang phát đi một thông điệp Cơ-đốc giáo. “Mọi người đều sẽ chết,” giọng nói với một giọng đều đều bình tĩnh. “Mỗi người cuối cùng rồi sẽ qua đời. Không ai có thể thoát khỏi cái chết hay sự phán xét sau đó. Sau khi chết, mọi người sẽ bị phán xét nghiêm khắc vì tội lỗi của mình”. Tôi ngồi đó trên băng ghế, lắng nghe tin nhắn này. Tôi thấy thật kỳ lạ khi có ai đó lại làm nhiệm vụ truyền đạo trong khu dân cư hoang vắng trên đỉnh núi. Những người sống ở đây đều sở hữu nhiều xe hơi và giàu sụ. Tôi thấy ngờ về việc họ đang tìm kiếm sự cứu rỗi khỏi tội lỗi. Hoặc có thể họ đã? Thu nhập và địa vị cũng đâu liên quan gì đến tội lỗi và sự cứu rỗi. “Nhưng tất cả những ai tìm kiếm sự cứu rỗi nơi Đức Chúa Giê-Su Ki-Tô và ăn năn tội lỗi của mình sẽ được Chúa tha thứ. Họ sẽ thoát khỏi ngọn lửa của Địa ngục. Hãy tin vào Đức Chúa Trời, vì chỉ những ai tin Ngài mới đạt được sự cứu rỗi sau khi chết và nhận được sự sống đời đời”.Tôi đang đợi chiếc xe truyền giáo của Cơ đốc nhân xuất hiện trên đường trước mặt tôi và nói thêm về sự phán xét sau khi chết. Tôi nghĩ chắc hẳn tôi đã hy vọng được nghe những lời nói bằng một giọng trấn an và
26 HARUKI MURAKAMI kiên quyết, bất kể đó là gì. Nhưng chiếc xe không bao giờ xuất hiện. Và, tại một thời điểm nhất định, giọng nói bắt đầu trở nên trầm hơn, ít rõ ràng hơn, và chẳng bao lâu sau tôi không còn nghe thấy gì nữa. Chiếc xe chắc hẳn đã rẽ sang hướng khác, tránh xa chỗ tôi đang đứng. Khi chiếc xe đó biến mất, tôi cảm thấy như thể mình đã bị thế giới bỏ rơi. Một ý nghĩ bất chợt ập đến trong tôi: có lẽ toàn bộ sự việc chỉ là một trò lừa bịp mà cô nàng kia đã bày ra. Ý tưởng này, hay linh cảm, tôi nên nói vậy, xuất hiện từ hư không. Vì một lý do nào đó mà tôi không thể hiểu được, nàng đã cố tình cung cấp cho tôi thông tin sai lệch và kéo tôi lên đỉnh núi hẻo lánh vào một buổi chiều Chủ nhật. Có lẽ tôi đã làm điều gì đó khiến nàng hình thành mối hận thù riêng với tôi. Hoặc cũng có thể chả vì lý do gì đặc biệt mà nàng thấy tôi khó ưa đến mức không thể chịu được. Và rồi cô nàng đã gửi cho tôi một lời mời đến một buổi biểu diễn ma và giờ đang hả hê, cười vỡ bụng, khi thấy (hay đúng hơn là tưởng tượng) ra cảnh nàng đã lừa tôi như thế nào và trông tôi thật thảm hại và lố bịch ra sao. Ô kê, nhưng liệu một người có thực sự gặp rắc rối khi nghĩ ra một âm mưu phức tạp như vậy để chơi ai đó, chỉ vì ác cảm không? Ngay cả việc in lên bưu thiếp cũng phải bỏ ra chút công sức. Ai đó thực sự có thể xấu tính đến vậy? Tôi không thể nhớ mình đã từng làm điều gì khiến cô nàng ghét tôi đến thế. Nhưng đôi khi, chúng ta đã chà đạp lên tình cảm của con người, làm tổn thương lòng tự tôn của họ, khiến họ cảm thấy tồi tệ mà không hề nhận ra. Tôi đã suy đoán về khả năng xảy ra cơn thù hận khó tưởng tượng này, những hiểu lầm có thể đã xảy ra, nhưng không thấy có gì thuyết phục. Và khi tôi lang thang vô ích trong mê cung cảm xúc ấy, tôi cảm thấy tâm trí mình lạc lối. Trước khi biết điều đó, tôi đã cảm thấy khó thở rồi. Điều này đã từng xảy ra với tôi một hoặc hai lần một năm. Tôi nghĩ đó chắc hẳn là do tăng thông khí do căng thẳng. Có điều gì đó sẽ làm tôi bối rối, cổ họng co thắt và tôi sẽ không thể đưa đủ không khí vào phổi. Tôi hoảng sợ, như thể bị cuốn theo một dòng chảy xiết và sắp chết đuối, và cơ thể đông cứng lại. Tất cả những gì tôi có thể làm vào những lúc đó là cúi xuống, nhắm mắt và kiên nhẫn chờ cơ thể trở lại nhịp điệu bình thường. Khi lớn hơn, tôi không còn gặp phải những triệu chứng này (và tại một thời điểm nào đó, tôi cũng không còn dễ đỏ mặt nữa), nhưng ở tuổi thiếu niên, tôi vẫn gặp rắc rối với những vấn đề ấy. Trên băng ghế cạnh lùm cây, tôi nhắm chặt mắt, cúi xuống và chờ được giải thoát khỏi sự tắc nghẽn đó. Có thể đã năm phút, có thể đã mười lăm. Tôi không biết là bao lâu. Trong suốt thời gian đó, tôi quan sát những hình mẫu kỳ lạ xuất hiện và biến mất trong bóng tối, và từ từ đếm chúng, cố gắng hết sức để kiểm soát nhịp thở trở lại. Tim tôi đập loạn xạ trong lồng ngực, như có một con chuột sợ hãi đang chạy đua bên trong. Tôi đã tập trung nhiều vào việc đếm đến nỗi phải mất một thời gian
KEM 27 để tôi nhận thức được sự hiện diện của một người khác. Cảm giác như thể có ai đó đang ở trước mặt tôi, đang quan sát tôi. Một cách thận trọng, thật chậm rãi, tôi mở mắt và ngẩng đầu lên. Tim tôi vẫn đập thình thịch. Trong lúc tôi không để ý, một ông lão ngồi xuống băng ghế đối diện và đang nhìn thẳng vào tôi. Không dễ để một người trẻ đánh giá tuổi tác của một người già. Đối với tôi, tất cả họ chỉ giống như những người già. Sáu mươi, bảy mươi - sự khác biệt là gì? Họ chỉ không còn trẻ nữa, vậy thôi. Người đàn ông này mặc một chiếc áo len mỏng màu xám xanh, quần dài màu nâu và giày thể thao màu xanh nước biển. Có vẻ như một khoảng thời gian đáng kể đã trôi qua vì chả có bất kỳ cái nào trong số này là mới. Không phải là ông ta có vẻ tồi tàn hay gì. Mái tóc hoa râm của ông dày và trông có vẻ cứng, và những búi tóc mọc lên trên tai giống như cánh chim khi chúng tắm. Ông lão không đeo kính. Tôi không biết ông ấy đã ở đó bao lâu, nhưng tôi có cảm giác là ông đã quan sát tôi khá lâu. Tôi đoan chắc là ông sẽ nói, “Con không sao chứ?” Hoặc đại loại như vậy, vì chắc chắn trông như thể tôi đang gặp khó khăn (và thực sự là vậy mà). Đó là điều đầu tiên tôi nghĩ đến khi nhìn thấy ông già. Nhưng ông không nói một câu nào, không hỏi gì cả, chỉ nắm chặt một chiếc ô đen được gấp chặt mà ông đang cầm như một cây gậy. Chiếc ô có tay cầm bằng gỗ màu hổ phách, trông đủ chắc chắn để làm vũ khí nếu cần. Tôi cho rằng ông sống ngay trong khu phố, vì ông không mang gì khác bên mình. Tôi ngồi đó cố gắng bình tĩnh lại nhịp thở, ông lão vẫn lặng lẽ nhìn. Ánh mắt ông không dao động trong giây lát. Nó khiến tôi cảm thấy không thoải mái - như thể tôi đã đi lang thang vào sân sau của ai đó mà không được phép - và tôi muốn đứng dậy khỏi băng ghế để đi đến trạm xe buýt nhanh nhất có thể. Nhưng, chả hiểu sao, tôi không thể đứng dậy được. Thời gian trôi qua, và rồi đột nhiên ông già cất tiếng. “Một vòng tròn có nhiều tâm.” Tôi ngước nhìn ông. Mắt chúng tôi chạm nhau. Trán ông cực kỳ rộng, mũi nhọn. Mũi ông nhọn như mỏ chim. Tôi không thể nói điều gì, vì vậy ông già lặng lẽ lặp lại những từ: “Một vòng tròn có nhiều tâm.” Đương nhiên, tôi không hiểu ông ấy đang muốn nói gì. Tôi nảy ra một ý nghĩ, rằng người đàn ông này đã lái chiếc xe loa của hội Cơ-đốc giáo. Có lẽ ông ấy đã đỗ xe gần đó và đang nghỉ ngơi? Không, không thể được. Giọng ông ấy khác với giọng nói tôi đã nghe. Giọng nói của người đàn ông kia trẻ hơn nhiều. Hoặc có lẽ đó là một bản thâu âm sẵn. “Vòng tròn ấy ạ, ông nói thế?” Tôi miễn cưỡng hỏi. Ông cụ lớn tuổi hơn tôi, và phép lịch sự bắt buộc tôi phải đáp lại.
28 HARUKI MURAKAMI “Có nhiều tâm, không, đôi khi là một con số vô hạn, và đó là một hình tròn không có chu vi”. Ông già cau mày khi nói điều này, nếp nhăn trên trán hằn sâu hơn. “Con có thể hình dung ra kiểu hình tròn đó trong tâm trí mình không?” Tâm trí của tôi vẫn còn chưa hoàn thành nhiệm vụ, nhưng tôi đã suy nghĩ về nó. Một hình tròn có nhiều tâm và không có chu vi. Nhưng dù đã cố vận dụng đầu óc hết sức có thể, tôi vẫn không thể tưởng tượng ra nó. “Cháu không hiểu,” tôi nói. Ông già im lặng nhìn tôi. Ông ấy dường như đang chờ đợi một câu trả lời tốt hơn. “Cháu không nghĩ thầy cô đã dạy chúng cháu về loại hình tròn đó trong lớp toán,” tôi yếu ớt nói thêm. Ông lão chậm rãi lắc đầu. “Dĩ nhiên là không rồi. Điều này có thể đoán được. Bởi vì người ta sẽ không dạy con những điều đó ở trường. Như con biết rất rõ. ” Như tôi đã biết rất rõ? Tại sao ông lão này lại cho là vậy? “Loại vòng tròn đó có thực sự tồn tại không hả ông?” Tôi hỏi. “Tất nhiên là có,” ông già nói, gật đầu vài lần. “Vòng tròn đó thực sự tồn tại. Nhưng không phải ai cũng có thể nhìn thấy nó, con biết đấy ”. “Ông có thể thấy nó sao?” Ông già không trả lời. Câu hỏi của tôi lơ lửng trong không khí một lúc, cuối cùng trở nên mơ hồ và biến mất. Ông già lại lên tiếng. “Nghe này, con phải tưởng tượng nó bằng sức mạnh của chính mình. Sử dụng tất cả sự khôn ngoan mà con có và hình dung nó. Một hình tròn có nhiều tâm nhưng không có chu vi. Nếu con cố gắng đến mức như thể con đổ mồ hôi, đó là lúc con dần dần hiểu rõ vòng tròn là gì.” “Nghe có vẻ khó lắm ông ạ,” tôi nói. “Tất nhiên rồi,” ông già nói, nghe như thể ông ta đang phun ra một thứ gì đó khó khăn. “Không có gì quý giá trên thế giới này mà ta có thể dễ dàng nhận được.” Sau đó, như thể bắt đầu một đoạn mới, ông ấy hắng giọng một lúc. “Nhưng, khi con bỏ ra nhiều thời gian và nỗ lực, nếu con đạt được điều khó khăn đó, nó sẽ trở thành
KEM 29 thành món kem của cuộc đời con.” “Kem ấy ạ?” “Trong tiếng Pháp, họ có một thành ngữ: crème de la crème. Con có biết nó không?” “Cháu không ạ,” tôi nói. Tôi không biết tiếng Pháp. “Kem của kem. Nó có nghĩa là điều tinh túy nhất trong những điều tinh túy. Bản chất quan trọng nhất của cuộc sống, đó là crème de la crème. Hiểu chửa? Phần còn lại chỉ là sự nhàm chán và vô giá trị”. Tôi thực sự không hiểu ông già đang nói gì. “Crème de la crème”? “Hãy nghĩ về điều đó,” ông già nói. “Hãy nhắm mắt lại và suy nghĩ thấu đáo. Một hình tròn có nhiều tâm nhưng không có chu vi. Bộ não của con được tạo ra để suy nghĩ về những điều khó khăn. Để giúp con đi đến điểm hiểu rõ điều gì đó mà con chưa hiểu lúc đầu. Con không thể lười biếng hoặc lơ là. Hiện tại là thời điểm quan trọng. Vì đây là giai đoạn não bộ và trái tim của con hình thành và rắn chắc”. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng hình dung vòng tròn đó. Tôi không muốn lười biếng hoặc bỏ bê. Nhưng, cho dù tôi có suy nghĩ nghiêm túc về những gì người đàn ông đó đang nói, thì tôi cũng không thể nào hiểu được ý nghĩa của nó vào lúc đó. Các vòng tròn mà tôi biết có một tâm và một chu vi cong nối các điểm cách đều với nó. Loại hình tròn đơn giản ta có thể vẽ bằng compa. Không phải loại hình tròn mà ông già đang nói là kiểu đối lập của hình tròn sao? Tôi không nghĩ rằng ông lão “sao sao”, về mặt tinh thần. Và tôi cũng không nghĩ rằng ông ấy đang trêu chọc tôi. Ông muốn truyền đạt một điều gì đó quan trọng. Vì vậy, tôi cố gắng hiểu một lần nữa, nhưng tâm trí của tôi cứ quay đi quay lại, không tiến triển được gì. Làm thế nào mà có nhiều (hoặc có lẽ là vô số) tâm lại có thể tồn tại dưới dạng một vòng tròn được? Đây có phải là một phép ẩn dụ triết học tiên tiến nào đó không? Tôi bỏ cuộc và mở mắt. Tôi cần thêm manh mối. Nhưng ông lão không còn ở đó nữa. Tôi nhìn xung quanh, tuy nhiên không có dấu hiệu của bất kỳ ai trong công viên. Cứ như thể ông ấy chưa từng tồn tại. Tôi có đang tưởng tượng ra mọi thứ không? Không, tất nhiên đó không phải là chuyện tưởng tượng. Ông lão đã ở ngay đó trước mặt tôi, nắm chặt lấy chiếc ô của mình. Bó hoa nhỏ màu đỏ bọc trong giấy bóng kính vẫn ở bên cạnh tôi. Giống như một loại bằng chứng về tất cả những điều kỳ lạ đã xảy ra với tôi. Tôi đã tranh luận xem phải làm gì với nó, và cuối cùng tôi để nó trên băng ghế dự bị cạnh lùm cây. Đối với
“Vòng tròn ấy ạ, ông nói thế?” Tôi miễn cưỡng hỏi. Ông cụ lớn tuổi hơn tôi, và phép lịch sự bắt buộc tôi phải đáp lại. “Một vòng tròn có nhiều tâm, không, đôi khi là một con số vô hạn, và đó là một hình tròn không có chu vi”. Ông già cau mày khi nói điều này, nếp nhăn trên trán hằn sâu hơn. “Con có thể hình dung ra kiểu hình tròn đó trong tâm trí mình không?” Tâm trí của tôi vẫn còn chưa hoàn thành nhiệm vụ, nhưng tôi đã suy nghĩ về nó. Một hình tròn có nhiều tâm và không có chu vi. Nhưng dù đã cố vận dụng đầu óc hết sức có thể, tôi vẫn không thể tưởng tượng ra nó. “Cháu không hiểu,” tôi nói.
31
32 HARUKI MURAKAMI tôi, đó có vẻ là lựa chọn tốt nhất. Tôi đứng dậy và đi về phía trạm xe buýt đã xuống trước đó. Gió bắt đầu thổi, làm tung bay những đám mây đọng phía trên. Sau khi tôi kể xong câu chuyện này, có một khoảng ngừng, rồi người bạn trẻ của tôi nói, “Em thật lòng không hiểu. Vậy thì điều gì đã thực sự xảy ra? Có ý định hay nguyên tắc nào đó trong chuyện này không?” Những hoàn cảnh rất kỳ quặc mà tôi đã trải qua trên đỉnh núi đó ở Kobe vào một buổi chiều chủ nhật cuối thu, theo chỉ dẫn trên thiếp mời đến nơi buổi biểu diễn được cho là sẽ diễn ra, chỉ để phát hiện ra rằng tòa nhà bị bỏ hoang, tất cả có ý nghĩa gì? Và tại sao nó lại xảy ra? Đó là những gì bạn tôi đã hỏi. Những câu hỏi hoàn toàn tự nhiên, đặc biệt là vì câu chuyện tôi đang kể cho em ấy không đi đến kết luận nào. Tôi thừa nhận: “Ngay cả bây giờ bản thân anh cũng không hiểu điều đó.” Nó vĩnh viễn không được giải đáp, giống như một câu đố cổ nào đó. Những gì diễn ra vào ngày hôm đó thật không thể hiểu nổi, không thể giải thích được, và ở tuổi mười tám, nó khiến tôi hoang mang và rối bời. Đến nỗi, trong một khoảnh khắc, tôi đã suýt lạc đường. “Nhưng mà anh có cảm giác,” tôi nói, “nguyên tắc hay ý định đó không thực sự là vấn đề.”Bạn tôi có vẻ bối rối. “Anh đang nói với em rằng không cần phải biết tất cả về những điều này?” Tôi gật đầu. “Nhưng nếu đó là em,” em ấy nói, “Em nhất định sẽ rất phiền lòng. Em muốn biết sự thật, tại sao lại có chuyện như thế. Ấy là nếu em đứng trong vị trí của anh.” “Ừ, tất nhiên rồi. Hồi đó, anh cũng thấy phiền phức. Rất nhiều là đằng khác. Chuyện đó cũng làm anh đau đấy. Nhưng khi đã cách một khoảng xa và thời gian trôi qua, sau này ngẫm lại, anh lại cảm thấy chuyện ấy thật tầm thường, không đáng phải buồn lòng. Anh cảm thấy như thể nó không liên quan gì đến kem của cuộc sống. “ “Kem của cuộc sống ư,” em ấy lặp lại. “Những điều như thế này đôi khi xảy ra,” tôi nói với em ấy. “Những sự kiện phi logic, không thể giải thích được nhưng lại vô cùng đáng lo ngại. Anh đoán chúng ta không cần nghĩ về chúng, chỉ cần nhắm mắt lại và vượt qua thôi. Như thể chúng ta đang lướt qua một con sóng lớn vậy”.
KEM 33 Bó hoa nhỏ màu đỏ bọc trong giấy bóng kính vẫn ở bên cạnh tôi. Giống như một loại bằng chứng về tất cả những điều kỳ lạ đã xảy ra với tôi. Tôi đã tranh luận xem phải làm gì với nó, và cuối cùng tôi để nó trên băng ghế dự bị cạnh lùm cây. Đối với tôi, đó có vẻ là lựa chọn tốt nhất. Tôi đứng dậy và đi về phía trạm xe buýt đã xuống trước đó. Tôi nhận ra rằng hơi thở của tôi đã trở lại bình thường, bình tĩnh và ổn định. Dòng điện gấp gáp đã biến mất. Đây và đó, những khoảng trống bắt đầu xuất hiện trong lớp mây dày phía trên bến cảng. Một tia sáng đã xuyên qua, chiếu sáng lớp vỏ nhôm trên đầu cần cẩu, như thể nó đang nhắm chính xác vào một điểm đó. Tôi nhìn chằm chằm một lúc lâu, sững sờ trước khung cảnh gần như thần thoại. Nó vĩnh viễn không được giải đáp, giống như một câu đố cổ nào đó. Những gì diễn ra vào ngày hôm đó thật không thể hiểu nổi, không thể giải thích được, và ở tuổi mười tám, nó khiến tôi hoang mang và rối bời
34 HARUKI MURAKAMI Người bạn trẻ của tôi đã lặng đi một thời gian, ngẫm nghĩ về con sóng khổng lồ đó. Em ấy là một kẻ lướt sóng có kinh nghiệm, và có rất nhiều thứ, những điều nghiêm trọng, mà em ấy phải cân nhắc khi gặp sóng. Cuối cùng, em cũng cất lời, “Nhưng rất khó khăn để không nghĩ về bất cứ điều gì.” “Em nói đúng. Thật sự khó.” Không có gì đáng giá trên đời này mà con có thể dễ dàng có được, ông già đã nói, với niềm tin vững chắc không thể lay chuyển, giống như Pythagoras đã chứng minh định lý của ngài. “Về hình tròn có nhiều tâm nhưng không có chu vi,” người bạn tôi hỏi. “Anh đã bao giờ tìm thấy câu trả lời chưa?” “Câu hỏi hay đấy,” tôi nói. Tôi từ từ lắc đầu. Tôi đã từng? Trong đời tôi, bất cứ khi nào một sự kiện không thể giải thích, phi logic, đáng lo ngại xảy ra (tôi không nói rằng nó xảy ra thường xuyên, nhưng có một vài lần), tôi luôn quay trở lại vòng tròn đó - vòng tròn có nhiều tâm nhưng không có chu vi. Và, như tôi đã làm khi tôi mười tám tuổi, trên chiếc ghế dài bên lùm cây đó, nhắm mắt lại và lắng nghe nhịp đập của trái tim mình. Đôi khi tôi cảm thấy rằng mình có thể nắm bắt được vòng tròn đó là gì, nhưng sự hiểu biết sâu sắc hơn lại lẩn tránh tôi. Vòng tròn này, rất có thể, không phải là một vòng tròn có hình thức cụ thể, thực tế mà đúng hơn, là vòng tròn chỉ tồn tại trong tâm trí chúng ta. Khi chúng ta thực sự yêu ai đó, hoặc cảm thấy từ bi sâu sắc, hoặc có một ý thức duy tâm về cách thế giới nên như thế nào, hoặc khi chúng ta khám phá ra niềm tin (hoặc một cái gì đó gần với niềm tin) - đó là khi chúng ta hiểu vòng tròn như một điều đã trao đi và chấp nhận trong trái tim mình. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng đây chẳng qua là nỗ lực mơ hồ của chính tôi để lý giải ra. ộ não của con được tạo ra để suy nghĩ về những điều khó khăn. Để giúp con hiểu thấu về điều gì đó mà con chưa thủng ra lúc đầu. Và điều đó trở thành nền tảng của cuộc đời con. Phần còn lại chỉ toàn những điều nhàm chán và vô giá trị. Đó là những gì ông lão tóc hoa râm đã nói với tôi. Vào một buổi chiều chủ nhật đầy mây cuối thu, trên đỉnh một ngọn núi ở Kobe, khi tôi ôm chặt bó hoa nhỏ màu đỏ. Và ngay cả bây giờ, bất cứ khi nào điều gì đó đáng lo ngại xảy ra với tôi, tôi lại suy ngẫm về vòng tròn đặc biệt đó, về sự nhàm chán và vô giá trị. Và loại kem độc nhất phải có ở đó, sâu bên trong tôi.
Vòng tròn này, rất có thể, không phải là một vòng tròn có hình thức cụ thể, thực tế, là vòng tròn chỉ tồn tại trong tâm trí chúng ta. Khi chúng ta thực sự yêu ai đó, hoặc cảm thấy từ bi sâu sắc, hoặc có một ý thức duy tâm về cách thế giới nên như thế nào, hoặc khi chúng ta khám phá ra niềm tin - đó là khi chúng ta hiểu vòng tròn như một điều đã trao đi và chấp nhận trong trái tim mình. KEM 35
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 37 Con chim ấy đã quay trở lại. Nghe thật tuyệt làm sao! Đúng vậy, con chim mà bạn biết và yêu quý đã trở lại rồi, đôi cánh mạnh mẽ của nó đập mạnh trong không khí. Ở mọi ngóc ngách của hành tinh này, từ Novosibirsk đến Timbuktu, mọi người sẽ nhìn lên bầu trời, theo dõi bóng dáng của loài chim tuyệt đẹp đó và cổ vũ. Và thế giới sẽ một lần nữa được lấp đầy bởi ánh sáng mặt trời rực rỡ. Thời điểm là năm 1963. Nhiều năm kể từ lần cuối mọi người nghe thấy cái tên Charlie “Bird” Parker. Bird đang ở đâu, và ông ta định làm gì? Những người yêu nhạc Jazz trên khắp thế giới đã rỉ tai nhau những câu hỏi này. Ông ta chưa thể chết, phải không? Bởi vì chúng ta chưa bao giờ nghe nói về việc ông qua đời. Nhưng biết đâu, có ai đó sẽ đồn thổi về chuyện này, tôi cũng chưa nghe thấy tin tức gì về việc ông vẫn còn sống. Tin tức cuối cùng mà mọi người nghe được về Bird là người bảo trợ của ông, Nam tước Nica, đã đưa ông ta về dinh thự của bà, nơi ông chiến đấu với nhiều căn bệnh khác nhau. Những người hâm mộ nhạc Jazz đều biết rõ về mọi cuộc chiến của Bird với tư cách là một con nghiện. Heroin, thứ bột màu trắng tinh khiết chết người đó. Người ta đồn rằng ngoài những cơn nghiện, ông còn phải chống chọi với bệnh viêm phổi cấp tính, nhiều loại bệnh nội tạng, các triệu chứng của bệnh tiểu đường và cuối cùng là bệnh tật ở đàn ông. Mọi người đã e rằng, ngay cả khi ông đủ may mắn để sống sót sau tất cả những điều này, ông vẫn sẽ khẳng định rằng ông sẽ không bao giờ sờ đến cây đàn của mình thêm lần nào nữa. Đó là cách Bird biến mất khỏi tầm mắt mọi người, biến thành một huyền thoại nhạc Jazz tuyệt đẹp. Ấy là vào khoảng năm 1955. Charlie Parker plays bossa nova
38 HARUKI MURAKAMI Con chim ấy đã quay trở lại. Nghe thật tuyệt làm sao! Đúng vậy, con chim mà bạn biết và yêu quý đã trở lại rồi, đôi cánh mạnh mẽ của nó đập mạnh trong không khí. Ở mọi ngóc ngách của hành tinh này, từ Novosibirsk đến Timbuktu, mọi người sẽ nhìn lên bầu trời, theo dõi bóng dáng của loài chim tuyệt đẹp đó và cổ vũ. Và thế giới sẽ một lần nữa được lấp đầy bởi ánh sáng mặt trời rực rỡ. Thời điểm là năm 1963. Nhiều năm kể từ lần cuối mọi người nghe thấy cái tên Charlie “Bird” Parker. Bird đang ở đâu, và ông ta định làm gì? Những người yêu nhạc Jazz trên khắp thế giới đã rỉ tai nhau những câu hỏi này. Ông ta chưa thể chết, phải không? Bởi vì chúng ta chưa bao giờ nghe nói về việc ông qua đời. Nhưng biết đâu, có ai đó sẽ đồn thổi về chuyện này, tôi cũng chưa nghe thấy tin tức gì về việc ông vẫn còn sống. Tin tức cuối cùng mà mọi người nghe được về Bird là người bảo trợ của ông, Nam tước Nica, đã đưa ông ta về dinh thự của bà, nơi ông chiến đấu với nhiều căn bệnh khác nhau. Những người hâm mộ nhạc Jazz đều biết rõ về mọi cuộc chiến của Bird với tư cách là một con nghiện. Heroin, thứ bột màu trắng tinh khiết chết người đó. Người ta đồn rằng ngoài những cơn nghiện, ông còn phải chống chọi với bệnh viêm phổi cấp tính, nhiều loại bệnh nội tạng, các triệu chứng của bệnh tiểu đường và cuối cùng là bệnh tật ở đàn ông. Mọi người đã e rằng, ngay cả khi ông đủ may mắn để sống sót sau tất cả những điều này, ông vẫn sẽ khẳng định rằng ông sẽ không bao giờ sờ đến cây đàn của mình thêm lần nào nữa. Đó là cách Bird biến mất khỏi tầm mắt mọi người, biến thành một huyền thoại nhạc Jazz tuyệt đẹp. Ấy là vào khoảng năm 1955. Chuyển cảnh nhanh sang mùa hè năm 1963. Charlie Parker lại chọn alto sax của mình để thu âm một album trong một phòng thu âm bên ngoài New York. Và tên album đó là “Charlie Parker Plays Bossa Nova”! Bạn có tin nổi không? Tốt hơn hết là bạn nên tin vào điều đó. Bởi vì nó đã xảy ra. Nó thực sự đã xảy ra. Đây là lời mở đầu của một tác phẩm tôi đã viết hồi đại học. Đó là lần đầu tiên bất cứ thứ gì tôi viết được xuất bản và cũng là lần đầu tiên tôi được trả một khoản thù lao cho bài mà tôi đã viết, ngay cả khi nó chỉ rẻ như cho. Đương nhiên, không có đĩa hát nào có tên “Charlie Parker chơi nhạc Bossa Nova” như vậy. Charlie Parker qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1955, và mãi đến năm 1962, bossa nova mới thành công rực rỡ, được thúc đẩy bởi các buổi biểu diễn của Stan Getz và những người khác. Nhưng nếu Bird còn sống sót cho đến những năm
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 39 1960, và nếu ông có hứng thú với bossa nova, rồi biểu diễn nó... Đó sẽ là lập trình cho bài đánh giá mà tôi đã viết về chiếc đĩa hát tưởng tượng này. Biên tập viên của tạp chí văn học ở trường đại học cho in bài viết này còn chả bao giờ nghi ngờ về việc nó có phải là một album có thật không, và cho đăng bài luận trên tạp chí như một bài phê bình âm nhạc bình thường. Em trai của tay biên tập viên ấy, một người bạn của tôi, đã giới thiệu anh ta cho tôi, nói với anh ta rằng tôi viết được vài thứ hay ho lắm và họ nên sử dụng tác phẩm của tôi. (Tạp chí này đã dẹp tiệm sau bốn số. Tác phẩm của tôi nằm ở số thứ 3.) Một cuốn băng ghi âm quý giá mà Charlie Parker đã để lại cho hậu thế, được tình cờ phát hiện trong hầm của một công ty thâu âm và chỉ vừa mới nhìn thấy ánh sáng ban ngày, đó là tiền đề mà tôi nung nấu cho bài báo. Có lẽ bản thân tôi không nên nói điều này, nhưng tôi nghĩ câu chuyện dựng nên này là hợp lý: tình tiết mạnh mẽ và văn bản có một cú hit thực sự. Đến nỗi cuối cùng tôi gần như tin rằng bản thâu âm đó có tồn tại. Có phản ứng đáng kể đối với bài báo của tôi khi tạp chí đăng nó. Đây là một tạp chí văn học đại học ít quan trọng, thường bị độc giả bỏ qua. Nhưng dường như có khá nhiều người hâm mộ vẫn thần tượng Charlie Parker, và tay biên tập đã nhận được một vài lá thư phàn nàn về trò đùa mỉa mai và sự báng bổ thiếu suy nghĩ của tôi. Mấy người kia có thiếu khiếu hài hước không đấy? Hay là khiếu hài hước của tôi bị dở người rồi? Chà, khó nói lắm. Một số người còn bị bài báo thu hút bằng mọi giá và thậm chí đích thân đi đến các cửa hàng âm nhạc để tìm cho ra cái đĩa hát đó nữa cơ. Tay biên tập có om sòm chút đỉnh về việc tôi lừa anh ta. Hừm, tôi nào có thực sự đánh lừa anh ta, mà chỉ đơn giản là bỏ qua một lời giải thích cụ thể thôi chứ. Trong nội tâm, tay ấy chắc hẳn rất hài lòng vì bài báo đã thu hút được phản ứng như vậy, mặc dù hầu hết chỉ toàn là tiêu cực. Bằng chứng về sự nhiệt tình của tay ấy xuất hiện, là khi tay ấy nói với tôi rằng anh ta muốn xem bất cứ những thứ gì khác mà tôi đã viết, dù là bài phê bình hay tác phẩm gốc. (Rồi thì cái tạp chí đó đã biến mất trước khi tôi có thể cho anh ta xem một bài khác.) Bài báo của tôi tiếp tục như sau: “... Ai có thể tưởng tượng ra một đội hình bất thường như thế này - Charlie Parker và Antonio Carlos Jobim hợp lực? Jimmy Raney chơi guitar, Jobim piano, Jimmy Garrison chơi bass, Roy Haynes chơi trống - phần nhịp điệu trong mơ tuyệt vời đến mức khiến tim bạn đập thình thịch khi nghe tên. Và trên alto sax - còn ai khác ngoài Charlie “Bird” Parker. Đây là tên các bản nhạc:
40 HARUKI MURAKAMI MẶT ĐĨA A: (1) Corcovado (2) Once I Loved (O Amor em Paz) (3) Just Friends (4) Bye Bye Blues (Chega de Saudade) MẶT ĐĨA B: (1) Out of Nowhere (2) How Insensitive (Insensatez) (3) Once Again (Outra Vez) (4) Dindi Ngoại trừ “Just Friends” và “Out of Nowhere”, đây là tất cả các tác phẩm nổi tiếng do Carlos Jobim sáng tác. Cả hai tác phẩm không phải của Jobim đều là những tiêu chuẩn quen thuộc từ những màn trình diễn tráng lệ trước đó của Parker, mặc dù tất nhiên ở đây chúng được thực hiện theo nhịp điệu bossa nova, một phong cách hoàn toàn mới. (Và chỉ trong hai bản nhạc này, nghệ sĩ piano không phải là Jobim mà là nghệ sĩ piano kỳ cựu đa năng Hank Jones.) Thành ra, nếu bạn là người yêu nhạc Jazz, phản ứng đầu tiên của bạn khi nghe tựa đề “Charlie Parker Chơi Nhạc Bossa Nova” là gì? Nhưng sự cảnh giác sớm sẽ xuất hiện, ta phải ngẩng đầu lên, tựa như những đám mây đen đáng sợ bỗng ló dạng ở nơi đã từng là một sườn đồi đẹp ngập tràn ánh nắng. Chờ một phút, bạn đang nói với tôi rằng Charlie Parker - thực sự đang chơi bossa nova ấy hả? Nghiêm túc ấy à? Bản thân Bird có thực sự muốn chơi loại nhạc đó không ư? Hay ông ấy đã nhượng bộ chủ nghĩa thương mại, được công ty thu âm nói chuyện và tiếp cận với những gì phổ biến vào thời điểm đó? Ngay cả khi, giả sử nhé, ông ấy thực sự muốn biểu diễn loại nhạc đó, liệu phong cách của người chơi sax bebop 100% này có bao giờ hài hòa với âm thanh tuyệt vời của bossa nova Mỹ Latinh không? Thật lòng mà nói, tôi không thể không cảm thấy bất an về tất cả những điều đó. Tôi rất muốn nghe bản nhạc đó, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy sợ hãi, sợ hãi vì thất vọng vì những gì tôi có thể nghe thấy. Nhưng bây giờ, sau khi chăm chú nghe đi nghe lại chiếc đĩa, tôi có thể khẳng định chắc chắn một điều rằng: Tôi thậm chí sẽ trèo lên nóc một tòa nhà cao và hét to nó lên để cả thị trấn có thể nghe thấy. Nếu bạn yêu thích nhạc Jazz, hay yêu thích âm nhạc, thì bạn nhất định phải nghe bản thu âm quyến rũ này, trái tim nhiệt huyết và một tâm hồn phóng khoáng...
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 41 Điều đáng ngạc nhiên, trước hết là bản nhạc không thể diễn tả được chơi giữa phong cách piano đơn giản, tiết chế của Carlos Jobim và cách nói hùng hồn, không bị gò bó của Bird. Tôi biết bạn có thể phản đối rằng giọng của Jobim (ông ấy không hát ở đây, vì vậy tôi chỉ đề cập đến giọng nhạc cụ của ông ấy) và giọng của Bird rất khác nhau về chất lượng, với các mục tiêu khác nhau. Ở đây chúng ta đang nói về hai giọng ca rất khác nhau, vì vậy có thể khó tìm thấy bất kỳ điểm nào họ chia sẻ với nhau. Trên hết, dường như không ai đang nỗ lực cải tiến âm nhạc của họ để phù hợp với âm nhạc của người kia. Nhưng chính xác là cảm giác không giống nhau, sự khác biệt giữa giọng hát của hai người đàn ông - đó chính là động lực tạo nên thứ âm nhạc độc đáo đáng yêu này. Tôi muốn bạn bắt đầu bằng cách nghe bản nhạc đầu tiên ở mặt A, “Corcovado.” Bird không chơi nhạc nền mở đầu. Trên thực tế, ông ấy không nắm bắt chủ đề cho đến cụm ở cuối. Đoạn nhạc bắt đầu với cảnh Carlos Jobim lặng lẽ chơi chủ đề quen thuộc đó một mình trên piano. Nhịp điệu được cắt chỉ đơn giản là tắt tiếng. Giai điệu gợi nhớ tâm trí một cô gái trẻ đang ngồi bên cửa sổ, nhìn ra bầu trời đêm tuyệt đẹp. Hầu hết nó được thực hiện với các nốt đơn lẻ, đôi khi hợp âm rườm rà được thêm vào, như thể nhẹ nhàng đệm một tấm đệm êm ái dưới vai cô gái. Và khi buổi biểu diễn chủ đề piano đó kết thúc, alto sax của Bird sẽ lặng lẽ bước vào, một bóng hoàng hôn mờ nhạt lướt qua một khe hở trên bức màn. Ông ấy ở đấy, trước cả khi bạn nhận ra điều đó. Những cụm nhạc duyên dáng, liền mạch này giống như những ký ức đáng yêu, tên của chúng ẩn hiện, len lỏi vào trong giấc mơ của bạn. Giống như những cơn gió nhỏ mà bạn không bao giờ muốn biến mất, để lại những dấu vết nhẹ nhàng trên cồn cát trong trái tim bạn... Tôi sẽ bỏ qua phần còn lại của bài viết, nó chỉ đơn giản là một mô tả mềm mại với tất cả các trang trí phù hợp. Trên đây cho bạn một ý tưởng về thể loại âm nhạc mà tôi đang nói đến. Tất nhiên đó là loại âm nhạc không thực sự tồn tại. Hoặc, ít nhất, là loại âm nhạc không thể tồn tại.” Tôi sẽ khép lại câu chuyện đó ở đây, và nói về một vài điều đã xảy ra nhiều năm sau đó. Trong một thời gian dài, tôi hoàn toàn quên rằng tôi đã viết bài báo ấy hồi đại học. Cuộc sống của tôi sau giờ học trở nên cực nhọc và bận rộn hơn tôi từng tưởng tượng, và bài đánh giá của một album không có thật đó chẳng qua là một trò đùa nhẹ nhàng, vô trách nhiệm tôi đã làm khi còn trẻ mà không ngờ tới. Nhưng bây giờ, gần mười lăm năm sau, bài báo này lại xuất hiện trong cuộc đời tôi, giống như một chiếc boomerang mà ta đã ném nó đi bỗng quay trở lại với ta khi ta ít mong đợi nhất. Tôi đang ở New York để công tác, và, với thời gian rảnh rỗi, tôi bèn đi dạo gần khách sạn của mình, ghé vào bên trong một cửa hàng băng đĩa nhỏ qua tay sử dụng mà tôi đã lướt qua trên Phố East Fourteen. Và trong phần hồ sơ của Charlie Parker, tôi lại tìm thấy tất cả mọi thứ, có cả một bản thâu âm có tiêu đề “Charlie Parker Chơi
Tôi đứng đó, người lặng đi, không nói nên lời, với bản thâu âm trong tay. Cảm giác như một phần nhỏ bên trong của tôi đã tê liệt. Tôi nhìn xung quanh một lần nữa. Đây có thực sự là New York? Đây là trung tâm thành phố New York, không còn nghi ngờ gì nữa. Và tôi thực sự đang đứng ở đây, trong một cửa hàng băng đĩa nhỏ đã qua sử dụng. Tôi không hề lang thang vào thế giới tưởng tượng nào cả. Tôi cũng không có một giấc mơ siêu thực nào sất. Tôi vội tuột bản thâu âm ra khỏi vỏ đĩa của nó. Nó có một lớp nhãn trắng, với tiêu đề và tên của các bài hát. Không có dấu hiệu của logo công ty thu âm. Tôi kiểm tra bản thân đĩa nhựa và tìm thấy bốn rãnh riêng biệt ở mỗi bên. Tôi vội đến và hỏi anh chàng tóc dài ở quầy đăng ký xem tôi có thể nghe album không. Không, anh ta trả lời. Mâm quay đĩa than của cửa hàng bị hỏng, chúng tôi rất xin lỗi vì điều đó. Giá chiếc đĩa là 35 đô-la. Tôi đã dao động rất lâu về việc có nên mua nó không.
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 43 Nhạc Bossa Nova”. Nó trông giống như một chiến lợi phẩm, một bản ghi âm được ép riêng tư. Mặt trước là một chiếc bìa đĩa trắng không có hình vẽ hay ảnh chụp, chỉ có tiêu đề bằng những nét chữ đen ủ rũ. Mặt sau là danh sách các bản nhạc và các nhạc sĩ. Đáng ngạc nhiên là danh sách các bài hát và nhạc sĩ giống hệt như tôi đã lập nên chúng khi còn học đại học. Tương tự như vậy, Hank Jones đã thay thế Carlos Jobim trên hai bản nhạc. Tôi đứng đó, người lặng đi, không nói nên lời, với bản thâu âm trong tay. Cảm giác như một phần nhỏ bên trong của tôi đã tê liệt. Tôi nhìn xung quanh một lần nữa. Đây có thực sự là New York? Đây là trung tâm thành phố New York, không còn nghi ngờ gì nữa. Và tôi thực sự đang đứng ở đây, trong một cửa hàng băng đĩa nhỏ đã qua sử dụng. Tôi không hề lang thang vào thế giới tưởng tượng nào cả. Tôi cũng không có một giấc mơ siêu thực nào sất. Tôi vội tuột bản thâu âm ra khỏi vỏ đĩa của nó. Nó có một lớp nhãn trắng, với tiêu đề và tên của các bài hát. Không có dấu hiệu của logo công ty thu âm. Tôi kiểm tra bản thân đĩa nhựa và tìm thấy bốn rãnh riêng biệt ở mỗi bên. Tôi vội đến và hỏi anh chàng tóc dài ở quầy đăng ký xem tôi có thể nghe album không. Không, anh ta trả lời. Mâm quay đĩa than của cửa hàng bị hỏng, chúng tôi rất xin lỗi vì điều đó. Giá chiếc đĩa là 35 đô-la. Tôi đã dao động rất lâu về việc có nên mua nó không. Cuối cùng, tôi mang tay không ra về. Tôi nghĩ, đó phải là ý tưởng của ai đó về một trò đùa ngớ ngẩn. Ai đó, theo ý thích, đã làm giả một bản thu âm dựa trên mô tả từ lâu của tôi về một bản ghi âm tưởng tượng. Lấy một bản thu âm khác có bốn bản nhạc mỗi bên, ngâm trong nước, bóc nhãn và dán lên một danh sách các bản nhạc tự chế. Dù nhìn theo cách nào đi nữa, thật nực cười khi trả 35 đô-la cho một chiếc đĩa nhạc không có thật như thế. Tôi đi đến một nhà hàng Tây Ban Nha gần khách sạn và uống chút bia, ăn bữa tối đơn giản một mình. Sau đó, khi tôi đang đi dạo xung quanh một cách vô định, một làn sóng hối tiếc đột nhiên trào dâng trong tôi. Đáng lẽ tôi phải mua chiếc đĩa hát đó. Ngay cả khi nếu nó chỉ là đồ giả, và dù cho nó có được định giá quá cao, thì tôi vẫn nên mua nó, ít nhất là để làm kỷ niệm cho tất cả những bước ngoặt cuộc đời tôi đã trải qua. Tôi đi thẳng trở lại phố East Fourteen. Dù tôi đã cố gắng vội hết mức có thể, nhưng cửa hàng băng đĩa đã đóng cửa vào thời điểm tôi đến đó. Trên màn trập là một tấm bảng cho biết cửa hàng sẽ mở cửa lúc 11:30 sáng và đóng cửa lúc 7:30 tối vào các ngày trong tuần. Tôi đồ rằng người đàn ông là chủ cửa hàng. Tôi có xem qua phần Charlie Parker, nhưng bản thâu âm đó không tìm thấy ở đâu cả. Tôi chắc chắn rằng mình đã trả lại bản thâu vào phần đó vào ngày hôm qua. Cho rằng nó có thể đã bị trộn lẫn vào các phần khác, tôi bèn lướt qua từng thùng trong phần nhạc Jazz. Nhưng vô ích, tôi
44 HARUKI MURAKAMI càng tìm lại càng không ra. Liệu có ai khác đã mua nó kể từ lần ghé thăm của tôi ngày hôm qua không? Tôi đi đến bàn đăng ký và nói chuyện với tay quản lý trung niên. - “Tôi đang tìm một đĩa nhạc jazz mà tôi đã xem ở đây hôm qua.” - “Đĩa nào cơ?” Gã hỏi, ánh mắt không hề dao động nhìn lên từ tờ New York Times. - “Charlie Parker Chơi Bossa Nova,” tôi nói. Gã đặt tờ báo xuống, tháo chiếc kính đọc sách mỏng, gọng kim loại, và từ từ quay mặt về phía tôi. - “Tôi xin lỗi. Ngài có thể lặp lại điều đó được không?” Tôi lặp lại. Người đàn ông không nói gì, và uống thêm một ngụm cà-phê. Gã khẽ lắc lắc cái đầu. - “Không có chiếc đĩa nào như vậy.” - “Tất nhiên,” tôi nói. - “Nếu ngài muốn Perry Como Hát Nhạc Jimi Hendrix, thì chúng tôi có hàng đó.” -“Perry Como Sings ư...“ Tôi đã hiểu được điều đó trước khi tôi nhận ra gã này đang nói đùa, mặc dù gã làm vậy với vẻ mặt nghiêm túc. - “Nhưng tôi thực sự đã nhìn thấy nó,” tôi nhấn mạnh. “Ý tôi là tôi chắc nó được sản xuất như một trò đùa.” - “Ngài đã trông thấy bản thâu âm đó ở đây?” - “Chiều hôm qua. Ngay tại đây.” Tôi mô tả bản thâu âm, vỏ đĩa và các bài hát trên đó. Làm thế nào mà nó còn được định giá hẳn 35 đô nữa chứ. - “Hẳn là có một số nhầm lẫn gì ở đây. Chúng tôi chưa bao giờ có bản thu âm này. Tôi tự mình làm tất cả từ việc mua và định giá các đĩa nhạc Jazz, nên nếu có một đĩa nhạc như vậy lọt qua bàn làm việc của tôi, tôi chắc chắn sẽ nhớ nó, dù muốn hay không.” Gã lắc lắc đầu và đeo lại cặp kính đọc sách lên. Gã tiếp tục quay lại đọc phần thể thao, nhưng sau đó, như thể đã suy nghĩ lại lần nữa, gã bỏ kính ra, mỉm cười và nhìn tôi kiên định. “Nhưng nếu có lúc nào mà ngài có được bản thâu âm ấy,” gã nói, “Hãy
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 45 để tôi nghe nó với nhé, được không?” Không có điều gì khác diễn ra về sau nữa.Chuyện này xảy ra rất lâu sau sự cố đó (thực tế là gần đây). Một đêm tôi mơ về Charlie Parker. Trong giấc mơ, ông đã biểu diễn bản “Corcovado” chỉ riêng cho tôi - cho một mình tôi thôi. Solo alto sax, không có phần nhịp điệu. Ánh sáng mặt trời chiếu vào từ một khoảng trống nào đó ở đâu đó và Parker đang đứng một mình tại một điểm được chiếu sáng bởi chùm sáng dài và thẳng đứng. Tôi cho rằng đó là ánh sáng ban mai. Ánh sáng tươi tắn, trung thực đó là vẫn không có bất kỳ ý nghĩa thừa nào. Khuôn mặt của Bird đối diện với tôi, ẩn trong bóng tối sâu, nhưng bằng cách nào đó tôi có thể nhận ra bộ đồ đôi tối màu, màu trắng từ áo sơ mi và cà vạt sáng màu. Và chiếc alto sax mà ông sở hữu, bẩn thỉu một cách vô lý, phủ đầy bùn đất và gỉ sét. Trong đó có một chiếc chìa khóa cong mà ông hiếm khi giữ được vị trí bằng cách gõ tay cầm của một chiếc thìa vào nó. Khi tôi nhìn thấy điều đó, tôi đã rất khó hiểu. Ngay cả Bird cũng không thể có được một âm thanh tốt từ cái cớ nghèo nàn đó cho một nhạc cụ. Đột nhiên, ngay lúc đó, mũi tôi phát hiện ra một mùi cà phê thơm lạ thường. Thật là một mùi hấp dẫn. Hương cà phê đen nóng hổi, đậm đà. Hai cánh mũi của tôi giật giật vì sung sướng. Đối với tất cả sự cám dỗ của mùi đó, tôi không bao giờ rời mắt khỏi Bird. Nếu tôi làm vậy, dù chỉ một giây, ông ấy có thể biến mất khỏi tầm mắt. Tôi không chắc tại sao, nhưng tôi biết đó là một giấc mơ. Là tôi đã nhìn thấy Bird trong một giấc mơ. Điều ấy đôi khi xảy ra. Khi tôi đang mơ, tôi biết chắc chắn - Đây là một giấc mơ. Và tôi có một ấn tượng kỳ lạ là giữa giấc mơ, tôi có thể bắt gặp, rất rõ ràng mùi cà phê mê hoặc. Cuối cùng thì Bird cũng đặt môi lên miệng ống nghe và cẩn thận thổi một âm thanh nhẹ nhàng, như thể đang kiểm tra tình trạng của lưỡi gà. Và khi âm thanh đó đã mất dần theo thời gian, ông lặng lẽ xếp thêm một vài nốt nhạc theo cách tương tự. Các nốt nhạc lơ lửng ở đó một lúc, sau đó nhẹ nhàng rơi xuống nền đất. Chúng rơi xuống đất, một và tất cả, và đến khi chúng bị nuốt chửng bởi sự im lặng, Bird đã gửi ra một loạt các nốt sâu hơn, đàn hồi hơn vào không khí. Đó là cách “Corcovado” bắt đầu. Làm thế nào để mô tả âm nhạc đó? Nhìn lại nó, bản nhạc mà Bird đã chơi chỉ cho tôi trong giấc mơ của tôi, cảm giác không giống như một luồng âm thanh hơn là một sự chiếu xạ toàn bộ, nhất thời. Tôi có thể nhớ rất rõ âm nhạc ở đó. Nhưng tôi không thể tái tạo nó. Theo thời gian, nó bị phai mờ, giống như điều vô nghĩa khi mô tả thiết kế của một mạn đà la. Những gì tôi có thể nói là âm nhạc đã chạm tới tận cùng sâu thẳm trong tâm hồn tôi, đến tận cốt lõi. Tôi chắc chắn rằng loại âm nhạc
46 HARUKI MURAKAMI tồn tại trên thế giới - âm nhạc khiến bạn cảm thấy như có thứ gì đó trong chính cấu trúc của cơ thể bạn đã được cấu hình lại, rất nhẹ, bây giờ bạn đã trải nghiệm nó. “Tôi chỉ mới ba mươi bốn tuổi khi tôi chết,” Bird nói với tôi. “Ba mươi bốn!” Ít nhất tôi nghĩ ông ấy đang nói điều đó với tôi. Vì chỉ có hai người chúng tôi trong phòng. Tôi không biết làm sao để trả lời. Trong mơ thật khó để làm điều đúng đắn. Thế nên tôi im lặng, đợi ông ấy nói tiếp. - “Hãy nghĩ về điều đó, chết lúc ba mươi bốn tuổi là như thế nào,” Bird tiếp tục. Tôi đã nghĩ về cảm giác của mình nếu tôi chết ở tuổi ba mươi bốn, khi tôi chỉ mới bắt đầu rất nhiều thứ trong cuộc sống. - “Đúng vậy. Tôi chỉ bắt đầu mọi thứ một mình,” Bird nói. “Chỉ mới bắt đầu cuộc sống của tôi. Nhưng sau đó tôi nhìn lại quanh mình và tất cả đã kết thúc.” Ông lặng lẽ lắc đầu. Toàn bộ khuôn mặt của ông ấy vẫn bị che khuất trong bóng tối, vì vậy tôi không thể nhìn thấy biểu hiện của ông. Chiếc kèn saxophone bẩn thỉu, nát bươm của ông ta treo trên chiếc dây đeo quanh cổ. Bird nói, “Cái chết luôn đến bất chợt. “Nhưng nó cũng cần có thời gian. Giống như những cụm từ hay xuất hiện trong đầu. heo nghĩa đó, tôi có thể đã chết ngay cả khi tôi còn sống. Nhưng cái chết thực sự là một sự tan nát. Những gì tồn tại cho đến lúc đó đột nhiên và hoàn toàn biến mất. Trở về hư vô. Trong trường hợp của tôi, sự tồn tại đó chính là tôi.” - “Anh có biết tôi đã nghĩ về điều gì khi tôi chết không?” Bird hỏi. “Tâm trí của tôi chỉ có một ý nghĩ là “giai điệu đơn độc”. Tôi cứ ngâm nga giai điệu đó lặp đi lặp lại trong đầu. Nó sẽ không thể trôi đi. Điều đó xảy ra, đúng không? Một giai điệu sẽ bám vào đầu bạn. Giai điệu đó là một đoạn của chuyển động thứ ba từ bản hòa tấu piano số 1. Giai điệu này của Beethoven.” Bird nhẹ nhàng ngâm nga giai điệu. Tôi đã nhận ra nó. Phần độc tấu piano. “Đây là một giai điệu Beethoven thực sự bay bổng,” Bird nói. “Tôi luôn thích bản Concerto số 1. Tôi đã nghe nó không biết bao nhiêu lần. Bản thu SP với Schnabel trên piano. Nhưng thật lạ, anh có nghĩ thế không? Là tôi - Charlie Parker - khi tôi qua đời là lúc tôi đang ngâm nga, tất cả những gì trong đầu chỉ là giai điệu của Beethoven, hết lần này đến lần khác. Rồi tất cả trở nên tối om, như một tấm rèm đã được buông xuống.” Bird cười nhỏ, giọng ông khàn khàn. Không có từ ngữ nào đến được với tôi. Tôi có thể nói gì về cái chết của Charlie Parker? “Dù sao thì tôi cũng cần phải cảm ơn các bạn,” Bird nói. “Anh đã giúp tôi trở lại
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 47 cuộc sống một lần nữa, một lần này. Và cho tôi chơi bossa nova. Không có gì có thể làm cho tôi hạnh phúc hơn. Tất nhiên còn sống và chơi nhạc thật ắt sẽ thú vị hơn. Nhưng ngay cả sau khi chết, đây vẫn là một trải nghiệm thực sự tuyệt vời. Vì tôi luôn yêu thích những loại âm nhạc mới.” Vậy hôm nay ông ấy xuất hiện ở đây để cảm ơn tôi à? “Đúng vậy, ”Bird nói, như thể đọc được suy nghĩ của tôi.” Tôi ghé qua để bày tỏ lời cảm ơn. Để nói lời cảm ơn. Tôi hy vọng anh thích âm nhạc của tôi.” Tôi gật đầu. Đáng lẽ tôi nên nói điều gì đó, nhưng cuộc đời tôi không thể đưa ra câu trả lời thích hợp. “Perry Como Sings Jimi Hendrix, hả?” Bird thì thầm, như thể nhớ lại. Và lại cười khúc khích đến khản cả cổ. Và rồi ông biến mất. Đầu tiên là chiếc kèn saxophone của ông ta tan biến, tiếp theo là ánh sáng từ đâu đó chiếu vào. Và cuối cùng, chính Bird cũng biến mất. Khi tôi thức giấc khỏi cơn mơ, đồng hồ cạnh giường của tôi báo 3:30 sáng. Tất nhiên là trời vẫn còn tối. Mùi cà phê đáng lẽ phải tràn ngập khắp căn phòng đã biến mất. Không còn mùi thơm nào cả. Tôi vào bếp và uống cạn mấy cốc nước. Tôi ngồi xuống bàn ăn, cố gắng tái hiện lại, dù chỉ là một chút, bản nhạc tuyệt vời mà Bird đã chơi chỉ dành riêng cho tôi. Tôi không thể nhớ nổi đoạn nào. Nhưng tôi có thể nhớ được những gì Bird đã nói. Trước khi chúng phai mờ trong tâm trí, tôi đã viết lại những lời của ông ấy, bằng bút bi vào một cuốn sổ, chính xác nhất có thể. Đó là hành động duy nhất tôi có thể làm. Tôi nhớ lại Bird đã đến thăm giấc mơ của tôi để cảm ơn tôi rất nhiều. Để cảm ơn tôi vào rất nhiều năm trước, đã cho ông có cơ hội được chơi bossa nova. Và ông còn nhặt lấy một loại nhạc cụ ngẫu nhiên ở quanh đó để chơi “Corcovado” chỉ dành cho tôi. Bạn có thể tin được không ? Tốt hơn hết là bạn nên tin. Bởi vì nó đã xảy ra. Nó thực sự đã xảy ra.
48 HARUKI MURAKAMI
CHARLIE PARKER PLAYS BOSSA NOVA 49 Tôi không chắc tại sao, nhưng tôi biết đó là một giấc mơ. Là tôi đã nhìn thấy Bird trong một giấc mơ. Điều ấy đôi khi xảy ra. Khi tôi đang mơ, tôi biết chắc chắn - Đây là một giấc mơ. Và tôi có một ấn tượng kỳ lạ là giữa giấc mơ, tôi có thể bắt gặp, rất rõ ràng mùi cà phê mê hoặc. Cuối cùng thì Bird cũng đặt môi lên miệng ống nghe và cẩn thận thổi một âm thanh nhẹ nhàng, như thể đang kiểm tra tình trạng của lưỡi gà. Và khi âm thanh đó đã mất dần theo thời gian, ông lặng lẽ xếp thêm một vài nốt nhạc theo cách tương tự. Các nốt nhạc lơ lửng ở đó một lúc, sau đó nhẹ nhàng rơi xuống nền đất. Chúng rơi xuống đất, một và tất cả, và đến khi chúng bị nuốt chửng bởi sự im lặng, Bird đã gửi ra một loạt các nốt sâu hơn, đàn hồi hơn vào không khí. Đó là cách “Corcovado” bắt đầu. Làm thế nào để mô tả âm nhạc đó? Cảm giác không giống như một luồng âm thanh hơn là một sự chiếu xạ toàn bộ, nhất thời. Tôi có thể nhớ rất rõ âm nhạc ở đó. Nhưng tôi không thể tái tạo nó. Theo thời gian, nó bị phai mờ, giống như điều vô nghĩa khi mô tả thiết kế của một mạn đà la. Những gì tôi có thể nói là âm nhạc đã chạm tới tận cùng sâu thẳm trong tâm hồn tôi, đến tận cốt lõi. Tôi chắc chắn rằng loại âm nhạc tồn tại trên thế giới - âm nhạc khiến bạn cảm thấy như có thứ gì đó trong chính cấu trúc của cơ thể bạn đã được cấu hình lại, rất nhẹ, bây giờ bạn đã trải nghiệm.
WITH THE BEATLES 51 Điều tôi lấy làm lạ khi trở nên già đi không phải là việc tôi đã già cỗi. Chả phải tôi vốn trẻ trung gì từ hồi xửa xừa xưa mà không ý thức được chuyện mình đã có tuổi. Thay vào đó, điều khiến tôi lơ là nhất chính là những người cùng thế hệ của tôi đã biến thành hội bô lão như thế nào, kể cả các cô nàng xinh đẹp hoạt bát mà tôi quen giờ đã dư tuổi có thêm vài lũ cháu lít nhít ấy chứ. Thành ra tôi có chút bối rối, dù chẳng bao giờ thấy buồn vì thực tế tôi cũng đang ở lứa tuổi xêm xêm như họ. Tôi nghĩ điều khiến mình cảm thấy chạnh lòng nhất khi những cô nàng mà tôi quen biết già đi, chính là buộc mình phải thừa nhận thêm lần nữa, rằng những giấc mộng thời trẻ trai tôi hằng ấp ủ đã trôi xa mãi mãi mất rồi. Về phương diện nào đó, cái chết của một cơn mơ còn đáng buồn hơn cả một sinh vật sống. Có một cô gái – ý tôi là một người đàn bà đã từng là cô gái – người mà tôi còn nhớ như in. Dù vậy, tôi lại chẳng hề biết tên của nàng. Và cứ tự nhiên thế thôi, tôi cũng chẳng hay nàng đang ở đâu và làm gì lúc này. Những gì tôi biết về nàng là nàng học cùng trường cấp ba, đồng niên khóa với tôi (vì huy hiệu trên áo nàng có cùng màu tôi mặc), và nàng cũng thật sự rất thích The Beatles nữa. Đó là năm 1964, ngay giữa thời kỳ đỉnh cao của Beatlemania. Vào dịp đầu Thu. Học kỳ mới vừa bắt đầu và mọi thứ lại dần quay vào nhịp điệu thường nhật. Nàng đang hối hả bước xuống dãy hành lang dài, mờ mờ tối của tòa nhà cũ, tà váy khe khẽ rung rinh theo. Còn tôi là cái thằng duy nhất đứng ở đó. Nàng cứ ôm siết lấy chiếc đĩa than vào lồng ngực như thể nó là đồ vật gì quý báu vô ngần. Một chiếc đĩa than “With The Beatles”. Chiếc đĩa có tấm ảnh đen trắng nổi bần bật của bốn mẩu Beatles đang đổ bóng. Vì vài căn nguyên gì đấy, cũng chẳng biết tại sao, tôi cứ nhớ With the Beatles