The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Thái Uyên Vy, 2024-01-17 13:07:31

Ngôi thứ nhất số ít

Ngôi thứ nhất số ít

Keywords: Ngôi thứ nhất số ít

52 HARUKI MURAKAMI rõ ràng rằng đó là album gốc của phiên bản tiếng Anh, chứ không phải là bản Mỹ hay bản Nhật. Nàng là một cô gái rất xinh. Ít nhất là đối với tôi lúc đó, nàng trông vô cùng kiều diễm. Dáng dấp không cao lắm, nhưng nàng có mái tóc đen dài, đôi chân thon thả và mùi hương dễ chịu. (Này cũng có thể là tôi nhớ lẫn đấy, ai mà biết được. Có khi cô nàng còn chả có hương hiếc gì đâu. Nhưng đấy là tất cả những gì tôi nhớ, như thể mỗi khi nàng bước qua, lại có thứ mùi hương quyến rũ, vấn vít theo lối tôi đi). Nàng đã ếm lên tôi câu thần chú của mình – về một cô gái đẹp, chưa biết tên, đang ôm chặt chiếc đĩa than “With The Beatles” vào lòng. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch, hơi thở hổn hển, và dường như tất cả âm thanh đều ngưng trệ, như thể tôi đang dần chìm sâu xuống đáy hồ. Tất cả những gì tôi nghe thấy được là một tiếng chuông yếu ớt vang lên sâu tận bên trong tai. Tựa như có ai đó đang cố gửi đến tôi một thông điệp quan trọng. Mọi điều này chỉ diễn ra khoảng mươi, mười lăm giây thôi. Nó đã kết thúc trước khi tôi kịp nhận ra, và thứ thông điệp quan trọng chứa đựng ở đó, giống như cốt lõi của tất cả những giấc mơ, đã biến mất. Một hành lang lờ mờ giữa ngôi trường cấp ba, một cô em kiều diễm với gấu váy đung đưa, và “With The Beatles”. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy người con gái ấy. Trong hai năm kế tiếp và cả đến khi tốt nghiệp, chúng tôi đã chẳng bao giờ lướt qua nhau thêm một lần nào nữa. Khi nghĩ đến lại thấy kỳ cục làm sao chứ. Trường cấp ba tôi học là một ngôi trường công lập bề thế nằm trên đỉnh đồi Kobe, với khoảng sáu trăm rưỡi học sinh mỗi lớp. (Chúng tôi được gọi là thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, thành thử có rất nhiều đứa trạc cỡ tuổi đó.) Mà không phải ai cũng quen biết nhau. Kỳ thực mà nói, tôi cũng chả biết tên hay nhận ra phần đông mấy đứa ở trong trường. Ấy thế mà, kể từ lúc tôi ngày ngày chăm chỉ đến trường và thường xuyên đi qua khu hành lang đó, tôi cảm thấy gần như phát sốt phát rét lên khi không được gặp lại cô em xinh đẹp ấy nữa. Tôi cứ mãi ngóng trông hình bóng nàng mỗi khi bước qua hành lang trường trung học. Liệu nàng đã tan đi như một làn khói mỏng? Hay là trong buổi chiều đầu Thu hôm ấy, tôi nhìn thấy không phải là người thực, mà là ảo-ảnh-của-một-thứ-gì-đó? Có lẽ tôi đã lý tưởng hóa về nàng ngay cái lúc chúng tôi đi lướt qua nhau, đến mức nếu như tôi có dịp gặp lại nàng thêm lần nữa, có khi tôi lại chả nhận ra mất (tôi e khả năng cuối cùng là khả dĩ nhất đấy). Sau này, tôi có quen thêm vài người phụ nữ và thường đi chơi với họ. Và mỗi khi tôi gặp một cô nàng nào mới, tôi vô thức cảm nhận rõ khao khát được sống lại khoảnh


WITH THE BEATLES 53 khắc rực rỡ mình từng trải qua trong hành lang tối tăm của trường trung học vào mùa Thu năm 1964. Cái im lặng ấy, cơn rung động rền rĩ trong quả tim ấy, cảm giác khó thở bóp nghẹt lồng ngực, và cả tiếng chuông khe khẽ ngân vang bên tai tôi nữa. Thi thoảng tôi lại có được cảm giác này, còn những lúc khác thì không. Và những lần khác, tôi cố nắm lấy nó, chỉ để nó nhẹ nhàng trôi tuột qua những kẽ ngón tay mình. Trong mọi trường hợp, những cảm xúc dâng trào khi điều này xảy ra đã trở thành một loại thước đo mới để tôi dùng đo lấy cường độ khao khát của bản thân. Khi tôi không thể có được cảm giác ấy trong thế giới thực, tôi sẽ lặng lẽ gợi ký ức cho những cảm xúc xưa kia tỉnh thức trong tôi. Bằng cách này, trí nhớ đã trở thành một trong những công cụ cảm xúc có giá trị nhất của tôi, thậm chí là một phương tiện sinh tồn. Giống như một chú mèo con ấm áp, khẽ cuộn tròn bên trong túi áo khoác rộng quá khổ, ngủ say. Lại nói tiếp về chuyện The Beatles nhé. Một năm trước khi tôi chạm mặt nàng là lúc The Beatles lần đầu trở nên bùng nổ tiếng tăm. Đến tháng Tư năm 1964, họ đã giành được năm vị trí hàng đầu trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Hoa Kỳ. Nền nhạc Pop trước nay chưa từng chứng kiến cái gì vô tiền khoáng hậu như thế. Năm ca khúc đình đám đó chính là: 1. “Cant buy me love”; 2. “Twist and Shout”; 3. “She loves you”; 4. “I want to hold your hand”; 5. “Please please me”. Chỉ riêng đĩa đơn “Can’t buy me love” thôi đã có hơn hai triệu lượt đăng ký mua trước, biến nó trở thành đĩa bội bạch kim ngay trước khi bản thu âm thật được tung ra. Dĩ nhiên là The Beatles cũng cực cực kỳ nổi tiếng kinh khủng khiếp ở Nhật Bản rồi. Cứ bật radio lên và lập tức bạn sẽ nghe thấy một trong những bài hát của họ ngay. Tôi vô cùng yêu thích nhạc của bốn người đó và biết hết mọi bản hit của họ. Cứ thử bảo tôi hát đi là tôi hát được luôn. Mỗi khi tôi ngồi học ở nhà (hoặc là giả vờ học), hầu hết thời gian đó là lúc tôi vặn cho đài phát thanh nổ banh luôn. Nhưng thực lòng mà nói, thì tôi chưa bao giờ là một người hâm mộ cuồng nhiệt của The Beatles cả. Tôi không bao giờ chủ động tìm kiếm các bài hát của họ. Đối với tôi, tôi thường nghe thụ động, những giai điệu Pop tuôn chảy ra từ chiếc loa tí hon gắn với đài bán dẫn hiệu Panasonic, từ tai này trôi qua tai kia, hầu như chẳng cố lưu lại. Những bản nhạc nền cho tuổi mới lớn của tôi. Lớp nhạc nền trang trí êm dịu. Ở trường trung học và ngay cả khi đã lên đại học, tôi vẫn không mua một bản thâu âm nào của The Beatles cả. Tôi mê mẩn nhạc Jazz và nhạc cổ điển hơn nhiều, và đó là những gì tôi nghe khi tôi muốn tập trung vào âm nhạc. Tôi đã dành dụm tiền để mua các bản thâu âm Jazz, nhạc theo yêu cầu của Miles Davis và Thelonious Monk ở các quán bar nhạc Jazz và đi đến các buổi hòa nhạc cổ điển.


54 HARUKI MURAKAMI


WITH THE BEATLES 55 Có khi cô nàng còn chả có hương hiếc gì đâu. Nhưng đấy là tất cả những gì tôi nhớ, như thể mỗi khi nàng bước qua, lại có thứ mùi hương quyến rũ, vấn vít theo lối tôi đi). Nàng đã ếm lên tôi câu thần chú của mình – về một cô gái đẹp, chưa biết tên, đang ôm chặt chiếc đĩa than “With The Beatles” vào lòng. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch, hơi thở hổn hển, và dường như tất cả âm thanh đều ngưng trệ, như thể tôi đang dần chìm sâu xuống đáy hồ. Tất cả những gì tôi nghe thấy được là một tiếng chuông yếu ớt vang lên sâu tận bên trong tai. Tựa như có ai đó đang cố gửi đến tôi một thông điệp quan trọng. Mọi điều này chỉ diễn ra khoảng mươi, mười lăm giây thôi. Nó đã kết thúc trước khi tôi kịp nhận ra, và thứ thông điệp quan trọng chứa đựng ở đó, giống như cốt lõi của tất cả những giấc mơ... đã biến mất.


56 HARUKI MURAKAMI Chuyện này thoạt nghe có vẻ lạ, nhưng mãi cho đến khi bước vào độ tuổi giữa ba mươi, tôi mới có dịp ngồi xuống và nghe hết album “With The Beatles” từ đầu đến cuối. Dù thực tế hình ảnh người con gái ôm chiếc đĩa than ấy đi trên hành lang của trường trung học chưa bao giờ rời bỏ tôi, nhưng trong một khoảng thời gian dài đằng đẵng tôi không có cảm giác như mình thật sự muốn lắng nghe. Tôi đặc biệt thích thú khi biết được loại nhạc nào được khắc vào các rãnh đĩa than mà nàng đã ôm chặt vào ngực. Khi tôi đã bước vào độ tuổi giữa ba mươi, hậu tuổi thơ và tuổi thiếu niên, ấn tượng đầu tiên của tôi về album này là nó không tuyệt vời cho lắm, hoặc chí ít cũng không phải là loại nhạc khiến cho bạn phải nín thở. Trong số mười bốn bài hát trong album, đã có sáu bài là cover của các nghệ sĩ khác. Gồm các bản cover “Please Mr. Postman” của Marvelettes, hay là “Roll Over Beethoven” của Chuck Berry đã được thực hiện rất tốt, và gây ấn tượng với tôi ngay cả khi tôi nghe chúng bây giờ, nhưng nói gì thì nói, đó cũng chỉ là những bản nhạc được hát lại thôi. Và trong tám bài hát gốc, ngoại trừ “All my loving” của Paul ra thì chả có bài nào xuất sắc cả. Chả có lấy một bản hit nào, và với tai nghe nhạc của tôi mà nói, thì album đầu tiên của The Beatles là “Please please me” được ghi âm cơ bản chỉ trong một lần còn sôi động và quyến rũ hơn nhiều. Dù là vậy, rất có thể là nhờ những con dân hâm mộ cuồng nhiệt của The Beatles có khao khát không thể chối bỏ với những ca khúc mới, mà album thứ hai này đã chiếm luôn ngôi quán quân tại Hoa Kỳ, một vị trí được chốt hẳn trong hăm mươi mốt tuần. (Ở Mỹ, tiêu đề của album đã được đổi thành “Gặp gỡ The Beatles”, bao gồm cả những ca khúc khác nhau, dù cho thiết kế bìa đĩa gần như vẫn giữ nguyên.) Điều lôi kéo tôi quan tâm chính là khung cảnh về người con gái đang ôm chặt lấy chiếc đĩa than như thể nó là một tạo vật vô giá. Nếu bỏ đi tấm ảnh trên bìa album, có thể cảnh tượng đó sẽ không khiến tôi mê mệt như nó đã từng. Nhất định là vì có âm nhạc. Nhưng có một điều gì đó khác, một điều gì đó to lớn hơn nhiều. Và ngay lập tức, hoạt cảnh ấy đã khắc sâu trong tim tôi một chốn lãnh địa tâm linh chỉ có thể tìm thấy duy nhất ở đó, ở một độ tuổi định sẵn, ở một nơi chốn định sẵn, và một thời khắc tiền định. Đối với tôi, sự kiện lớn nhất của năm sau đó, năm 1965, không phải là Tổng thống Johnson ra lệnh ném bom miền Bắc Việt Nam và leo thang chiến tranh, hay phát hiện ra một loài mèo hoang mới trên đảo Iriomote, mà thực tế là tôi đã có một cô bạn gái. Cô ấy học cùng lớp với tôi năm thứ nhất, nhưng đến năm thứ hai chúng tôi mới bắt đầu hẹn hò. Để tránh mọi hiểu lầm, tôi những muốn rào trước chuyện này bằng cách nói rằng tôi không bô trai, chửa bao giờ là một vận động viên sáng giá, và điểm số của tôi ở


WITH THE BEATLES 57 trường còn ít hơn sao giời nữa. Giọng tôi mà hát lên thì bay sạch sành sanh mọi cảm xúc, và tôi cũng không hề biết cách để diễn đạt bằng lời. Khi tôi còn đi học, và cả những năm sau đó, chẳng bao giờ có vụ các cô gái đổ xô xung quanh tôi. Đó là một trong số ít những điều tôi có thể khẳng định chắc chắn trong cái cuộc sống chả lấy gì làm chắc chắn này. Tuy nhiên, dường như luôn có một cô gái ở quanh đó, vì bất cứ lý do gì đấy, lại bị thu hút bởi tôi. Tôi cũng không biết tại sao, nhưng tôi có thể tận hưởng những khoảng thời gian thân mật, dễ chịu với những cô nàng ấy. Tôi đã trở thành bạn tốt với một vài người trong số họ, và thỉnh thoảng còn đưa nó lên cấp độ tiếp theo. Cô nàng mà tôi đang nhắc đến ở đây là một trong những cô gái đầu tiên mà tôi có mối quan hệ thực sự thân mật. Người bạn gái đầu tiên của tôi rất nhỏ nhắn và quyến rũ. Mùa hè năm ấy, tôi thường hẹn hò với cô mỗi tuần một lần. Một buổi chiều nọ, tôi đã hôn lên đôi môi bé xinh nhưng đầy đặn của cô và chạm vào bầu vú cô qua lớp áo ngực. Cô mặc một chiếc váy trắng cộc tay, trên tóc phảng phất mùi dầu gội cam quýt. Cô ấy gần như không hề có hứng thú gì với The Beatles. Cô cũng chẳng lấy làm ưa thích nhạc Jazz. Cô ưng nghe loại nhạc êm dịu hơn, những thứ bạn có thể gọi là âm nhạc trung lưu – như dàn nhạc Mantovani này, Percy Faith, Roger Williams, Andy Williams, Nat King Cole, và kiểu kiểu thế (vào cái hồi đó, “trung lưu” không hẳn là một thuật ngữ hạ thấp phẩm cách gì.) Có hàng tá chồng chồng lớp lớp những bản thâu âm như vậy ở nhà cô ấy – bây giờ thì người ta xếp chúng vào thể loại dễ nghe. Những buổi chiều đó, cô thường đặt một bản thâu lên mâm đĩa than đặt trong phòng khách nhà mình. Gia đình cô có hẳn một dàn âm thanh nổi hoành tráng rất ấn tượng – và chúng tôi ngồi hôn nhau trên chiếc ghế sofa rộng rãi thoải mái. Cả nhà cô ấy đã ra ngoài đi đâu đó và chỉ có mỗi hai chúng tôi ở nhà. Thật ra ấy mà, trong cái tình huống như vậy thì tôi còn tâm trí đâu mà quan tâm loại nhạc đang được chơi cơ chứ. Những gì tôi nhớ về mùa hè năm 1965 là chiếc váy trắng của cô ấy, mùi hương cam quýt từ dầu gội đầu cô gội, cảm giác ghê gớm của sợi dây xú-chiêng của cô đeo (một chiếc xú-chiêng mà sau đó giống y như tòa pháo đài hơn là mảnh đồ lót bình thường) và màn trình diễn lịch thiệp của dàn giao hưởng Percy Faith qua bản nhạc nền bộ phim “A summer Place”. Đến tận bây giờ, bất cứ khi nào tôi nghe thấy bản nhạc nền từ bộ phim “A Summer Place”, thì chiếc ghế sofa ngày ấy lại quay về trong tâm trí tôi. Bất thình lình, chỉ vài năm sau, là năm 1968, khi tôi hồi tưởng lại, vào khoảng thời gian Robert Kennedy bị ám sát, giáo viên chủ nhiệm của chúng tôi hồi chúng tôi học cùng lớp đã treo cổ tự tử trên cây dầm đỡ trong nhà. Thầy dạy môn xã hội. Suy nghĩ bế tắc được cho là nguyên nhân khiến thầy tự sát. Suy nghĩ bế tắc ư?


58 HARUKI MURAKAMI Người bạn gái đầu tiên của tôi rất nhỏ nhắn và quyến rũ. Mùa hè năm ấy, tôi thường hẹn hò với cô mỗi tuần một lần. Một buổi chiều nọ, tôi đã hôn lên đôi môi bé xinh nhưng đầy đặn của cô và chạm vào bầu vú cô qua lớp áo ngực. Cô mặc một chiếc váy trắng cộc tay, trên tóc phảng phất mùi dầu gội cam quýt.


WITH THE BEATLES 59 Những gì tôi nhớ về mùa hè năm 1965 là chiếc váy trắng của cô ấy, mùi hương cam quýt từ dầu gội đầu cô gội, cảm giác ghê gớm của sợi dây xú-chiêng của cô đeo (một chiếc xú-chiêng mà sau đó giống y như tòa pháo đài hơn là mảnh đồ lót bình thường) và màn trình diễn lịch thiệp của dàn giao hưởng Percy Faith qua bản nhạc nền bộ phim “A summer Place”.


60 HARUKI MURAKAMI Nhưng quả thật là vậy đấy. Vào cuối những năm sáu mươi, đôi khi người ta lại tự kết liễu đời mình vì tư tưởng khốn cùng. Mặc dù không phải lúc nào cũng vậy. Tôi có một cảm giác thật sự kỳ lạ khi nghĩ rằng vào buổi chiều hôm đó, lúc bạn gái tôi và tôi đang lóng ngóng âu yếm nhau trên ghế sofa, với âm nhạc tuyệt vời của Percy Faith làm nền, thì vị giáo viên nghiên cứu xã hội kia, từng bước, từng bước tiến về phía ngõ cụt chết chóc của ý thức, hay là nói cách khác, tiến về phía chiếc nút thít chặt của sợi dây trong câm lặng. Thậm chí có nhiều bận tôi cảm thấy rất tệ hại về chuyện đó. Trong số tất cả các giáo viên mà tôi biết, thầy là một trong những người giỏi nhất. Dù thầy ấy có thành công hay không lại là một câu hỏi khác, nhưng thầy vẫn luôn cố gắng đối xử công bằng với học sinh của mình. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với thầy ngoài lớp học, nhưng đó là cách tôi tưởng nhớ đến thầy. Cũng như năm 1964, năm 1965 vẫn là năm của The Beatles. Họ đã phát hành “Eight days a week” vào tháng Hai, “Ticket to ride” vào tháng tư, “Help!” vào tháng Bảy và “Yesterday” giữa tháng Chín, tất cả đều đứng đầu bảng xếp hạng của Hoa Kỳ. Dường như chúng tôi đã nghe nhạc của họ hầu hết mọi lúc. Nó ở khắp mọi nơi, xung quanh chúng tôi, giống như giấy dán tường được áp dụng tỉ mỉ đến từng milimet trên mặt tường. Khi không chơi nhạc của The Beatles, thì lại đến lượt nhóm Rolling Stones “(I can’t get no) Satisfaction”; hay là “Mr. Tambourine man” của Byrds; “My girl” của Temptation, “You’ve lost that lovin’ feelin’” của Righteous Brothers, rồi thì “Help me, Rhonda”. Diana Ross và Supreme cũng có một bản hit sau mấy bài nhạc khác. Một chuỗi âm thanh kéo dài liên tục của thể loại nhạc vui vẻ tuyệt vời này được phát sóng trên chiếc đài phát thanh bán dẫn tí hon của tôi. Đó thực sự là một năm đáng kinh ngạc dành cho nhạc Pop. Tôi từng nghe nói rằng khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc sống của ta chính là thời kỳ mà các bản nhạc Pop thực sự có ý nghĩa với chúng ta, chạm đến được chúng ta. Có thể là thật. Hoặc cũng có thể không. Rốt cuộc, các bản nhạc Pop có thể chả là gì ngoài các bản nhạc pop. Và có khi cuộc sống của ta chỉ đơn thuần là những vật phẩm trang trí, tiêu hao, với một loạt sắc màu thoáng qua và chẳng có gì hơn thế. Căn nhà bạn gái tôi đang ở nằm sát đài phát thanh Kobe mà tôi vẫn thường hay mở. Tôi nghĩ là cha cô nhập khẩu, hoặc có lẽ xuất khẩu, thiết bị y tế. Tôi không biết rõ chi tiết nữa. Dù sao đi nữa thì ông ấy vẫn sở hữu công ty riêng của mình, có vẻ như đang làm ăn khá khẩm. Nhà của họ nằm trong một khu rừng thông gần biển. Tôi nghe kể nó từng là biệt thự mùa hè của vài vị doanh nhân và gia đình cô ấy đã mua rồi sửa sang lại. Những rặng thông xào xạc trong gió biển. Đó là nơi lý tưởng để nghe bản nhạc nền của phim “A Summer Place”.


WITH THE BEATLES 61 Và có khi... cuộc sống của ta chỉ đơn thuần là những vật phẩm trang trí, tiêu hao và chẳng có gì hơn thế. với một loạt sắc màu thoáng qua


62 HARUKI MURAKAMI Nhiều năm sau, tôi tình cờ xem một chương trình truyền hình đêm khuya phát sóng bộ phim năm 1959 ấy, “A summer place”. Đó là một bộ phim Hollywood điển hình về ái tình trẻ dại, nhưng dù sao nó cũng được dựng rất tốt. Trong phim, có một rừng thông nằm bên bờ biển, kêu lao xao giữa những ngọn gió mùa hè đúng lúc đến phần kèn tenor của dàn giao hưởng Percy Faith. Cảnh tượng những cây thông đung đưa trong gió đập vào tôi như một phép ẩn dụ cho những người trẻ tuổi cuồng nhiệt dục vọng. Nhưng đó có thể chỉ là do tôi tự suy diễn thế, là ý nghĩ chủ quan của riêng tôi mà thôi. Trong phim, Troy Donahue và Sandra Dee đã bị cuốn vào luồng gió tình dục áp đảo, và bởi vì nó, mà đã gặp phải tất cả các loại vấn đề trong thế giới thực. Những hiểu lầm nối tiếp sự hòa giải, những trở ngại được xóa tan như sương mù, rồi cuối cùng hai người lại đến với nhau và kết hôn. Ở Hollywood vào những năm 50, một kết thúc có hậu luôn liên quan đến hôn nhân - nhằm tạo ra một môi trường ở trong đó những người yêu nhau có thể quan hệ tình dục hợp pháp. Bạn gái tôi và tôi, dĩ nhiên, đã không kết hôn. Chúng tôi vẫn còn học trung học, và tất cả những gì chúng tôi đã làm là vụng về mò mẫm và âu yếm nhau trên ghế sofa với bản nhạc chủ đề từ bộ phim “A Summer Place” làm nền. “Anh biết gì không?” cô nói với tôi khi đang ngồi trên ghế sofa với chất giọng khe khẽ, như thể cô đang thú nhận một điều gì đó. “Em là típ người hay ghen lắm đấy.” “Thật ấy hả?” tôi hỏi. “Em chỉ muốn chắc chắn rằng anh cũng sẽ biết điều này thôi.” “Được thôi.” “Nhiều khi em cảm thấy rất đau khổ vì tính ghen tuông của mình, anh ạ.” Tôi lặng lẽ vuốt tóc cô. Nó đã vượt khỏi bản thể tôi lúc đó để tưởng tượng ra cảm giác ghen tuông bùng cháy, những căn nguyên nào gây ra nó, và những gì nó dẫn đến. Tôi đã quá bận tâm với cảm xúc của chính mình. Một ghi chú bên lề là, Troy Donahue, ngôi sao trẻ đẹp trai đó, sau này đã bị cuốn vào rượu và ma túy, ngừng đóng phim và thậm chí sống lang thang trong một thời gian. Sandra Dee cũng vậy, vật lộn với chứng nghiện rượu. Donahue kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Suzanne Pleshette vào năm 1964, nhưng họ đã ly dị 8 tháng sau đó. Dee kết hôn với ca sĩ Bobby Darin vào năm 1960, nhưng rồi họ cũng đường ai nấy đi vào năm 1967. Điều này rõ ràng hoàn toàn không liên quan đến cốt truyện của “A summer place”. Và cũng chẳng dính dáng gì đến số phận của tôi và bạn gái tôi.


WITH THE BEATLES 63 Bạn gái tôi có một ông anh trai và một cô em gái. Cô em kia đang học năm hai trung học cơ sở và còn cao hơn cô chị hẳn hai phân. Con bé này cũng chẳng đặc biệt dễ thương gì cho cam. Hơn nữa, lại còn dính chằm chặp một cặp đít chai dày cộm trên sống mũi. Nhưng bạn gái tôi thì cưng nó lắm. Cô cứ khoe với tôi là “Thứ hạng của con bé trên trường siêu lắm đó nha!”. Tôi e rằng xếp hạng của bồ mình chỉ trên mức trung bình khá. Cũng như tôi vậy thôi. Có lần bọn tôi cho cô em gái này đi xem phim cùng. Có vài lý do khiến chúng tôi phải làm thế. Phim đó là phim “The Sound of Music” ấy. Lúc đến thì cả rạp đã chật ních, thành thử cả đám phải ngồi sát ngay đằng trước, và tôi luôn nhớ rằng mình đang xem một cuốn phim khổ 70mm. Phim màn ảnh rộng xem sát quá làm mắt tôi nhức đến tận cuối buổi. Còn cô bồ của tôi, chả hiểu sao lại phát cuồng vì mấy bài hát trong phim. Cô đã tìm mua ngay đĩa than nhạc phim và về nghe mê mải từ ngày sáng tháng nọ. Tôi thì nghiện phiên bản mê hoặc của John Coltrane trong phim “My Favourite Things” hơn, nhưng tôi biết là có nói chuyện này với cô thì vô dụng thôi, nên chả bao giờ tôi làm thế. Cô em gái của bồ tôi có vẻ không ưa tôi cho lắm. Bất cứ khi nào chạm mắt nhau, con bé đều nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ cục, hoàn toàn vô cảm. Cứ như là con bé đang dò xét xem mớ cá khô ở sau tủ lạnh còn ăn được không. Và vì nhiều lý do, cái nhìn ấy luôn khiến tôi cảm thấy có lỗi. Mỗi lần nó nhìn chằm chằm vào tôi, là như kiểu phớt lờ hết tất cả mọi thứ xung quanh (dù cũng phải thừa nhận rằng xung quanh cũng đếch có cái gì mà nhìn) và có thể xuyên thấu qua con người tôi, đến sâu thẳm tận bên trong. Tôi có thể cảm giác như vậy bởi vì tôi thực lòng thấy xấu hổ và tội lỗi vô cùng tận. Ông anh của bồ tôi lớn hơn cô ấy bốn tuổi, thế nên anh ta đã ít nhất đã thuộc đầu hai. Cô nàng không hề giới thiệu anh ta với tôi và hầu như chẳng bao giờ đề cập đến anh ta. Nếu anh ta tình cờ xuất hiện trong cuộc trò chuyện, cô liền khéo léo thay đổi chủ đề. Giờ tôi có thể thấy thái độ của cô hơi mất tự nhiên. Nhưng tôi không nghĩ nhiều về nó. Tôi chẳng quan tâm gì đến gia đình cô. Bởi điều thu hút tôi đến với cô là một xung lực gấp gáp hơn nhiều. Lần đầu tiên tôi gặp ông anh trai ấy và có dịp trò chuyện với gã là khoảng cuối Thu 1965. Chúa-Nhật tuần đó, tôi đến nhà bạn gái để rước cô đi chơi. Tôi cứ đứng bấm chuông cả triệu lần nhưng chả có ai ừ hử gì. Tôi ngưng lại một lúc, rồi lại tiếp tục bấm chuông liền tù tì, cho đến khi rốt cục cũng nghe thấy tiếng ai đó di chuyển chậm chạp về phía cửa. Chính là ông anh trai của bồ tôi. Gã nom cao hơn tôi và có tí đô con hơn hẳn. Không phải kiểu béo bệu mà giống


64 HARUKI MURAKAMI như một vận động viên, vì lý do gì đấy đã không tập luyện một thời gian nên tăng thêm vài ký, nhưng chỉ dạng béo tạm thời thôi. Bờ vai gã tương đối rộng, có điều cổ lại dài và thon. Mái tóc rối bù, dính đầy khắp nơi, như vừa mới ngủ dậy. Tóc tai thô cứng, hình như gã đã để quá hạn đi hớt tóc đến hai tuần. Gã mặc một chiếc áo len cổ thuyền màu xanh hải quân, cổ áo đã chảy dão, và những sợi len bạc màu kéo rộng thùng thình xung quanh đầu gối. Nói chung, vẻ ngoài của ông anh này trái ngược hẳn với bạn gái tôi. Cô nàng luôn sạch sẽ, gọn gàng và chăm chút chỉn chu. Gã nheo nheo mắt nhìn tôi một lúc, như một con thú hoang nhếch nhác sau khoảng thời gian ngủ đông dài đang bắt đầu bò ra ngoài. “Anh đoán chú mày là… bồ của con bé Sayoko hử?” Gã hỏi câu này trước khi mồm miệng tôi kịp phun ra câu gì. Gã húng hắng cổ họng. Giọng gã có vẻ ngái ngủ, nhưng tôi đánh hơi được một tia hứng thú nằm trong đó. “Vâng”, tôi đáp và giới thiệu về mình. “Em có hẹn trước là sẽ đến đây vào lúc 11 giờ.” “Sayoko giờ không có ở đây đâu”, gã nói. “Không có ở đây á?”, tôi lặp lại câu nói của gã. “Nó đi đâu đấy rồi. Không có nhà.” “Nhưng em đã hẹn là sẽ tới đón cô ấy lúc 11 giờ rồi mà!” “Phải không đó?” Gã hỏi lại, rồi quay qua liếc nhìn bức tường bên cạnh như để kiểm tra đồng hồ. Nhưng không có cái đồng hồ nào treo trên đó cả, chỉ là một bức tường thạch cao trắng ởn. Gã bất đắc dĩ quay lại nhìn tôi, “Có khi thế thật, nhưng sự thực là nó không có nhà đâu”. Tôi không biết nên làm gì. Và anh trai cô rõ ràng cũng thế. Gã nhàn nhã ngáp dài và gãi gãi đầu. Mọi hành động của gã đều lề mề và có chừng. “Hình như giờ này chả có ma nào ở nhà hết”, gã bảo. “Lúc nãy anh vừa bò ra khỏi giường là đã chả thấy ai rồi. Chắc mọi người ra ngoài cả rồi, nhưng đi đâu thì anh mày chịu.”. Tôi im ru. “Ông bô anh chắc đi chơi Golf rồi. Mấy con ranh kia có khi cũng tếch đi đú đởn hết. Hừm, nhưng bà bô mình cũng ra ngoài, quái nhề? Thường thì làm gì có vụ này.” Tôi cố dằn cơn xét nét xuống. Dù sao thì đây cũng đâu phải chuyện nhà tôi.


WITH THE BEATLES 65 “Nhưng nếu Sayoko đã hứa là sẽ có mặt ở nhà thì anh nghĩ nó cũng về ngay thôi,” ông anh cô bảo. “Sao chú mày không vào đây ngồi đợi đi?” “Thôi, em không muốn quấy rầy anh đâu. Để em đi chơi đâu đó rồi quay lại”, tôi đáp. “Dào, quấy rầy gì đâu,” gã nói như đinh đóng cột. “Phải nghe tiếng chuông cửa rú lên rồi lẹt quẹt ra mở cửa còn phiền hơn. Cứ vào đi.” Chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi đành đi vào, ông anh trai cô dẫn tôi đến phòng khách. Căn phòng khách có chiếc ghế sofa tôi và cô đã âu yếm nhau trên đó vào mùa hè. Tôi ngồi xuống, và ông anh bồ tôi cũng thả phịch mình xuống chiếc ghế bành đối diện, một lần nữa nhả ra cái ngáp dài. “Chú mày là bồ của Sayoko nhỉ?”, gã hỏi lại như để chắc chắn gấp đôi. “Vâng” tôi trả lời lại y hệt. “Không phải bạn của Yuko?” Tôi gật gật đầu. Yuko là nhỏ em cao hơn hẳn của bồ tôi. “Hẹn hò với con bé Sayoko có vui không?” ông anh trai hỏi tôi, mắt gã ánh lên một tia tò mò. Tôi không biết đáp sao nên tiếp tục im lặng. Gã vẫn ngồi trơ trơ đó, chờ tôi trả lời. “Vui chứ ạ” tôi cất tiếng. Cuối cùng tôi cũng tìm ra một câu và hy vọng nó là câu trả lời đúng. “Vui nhưng nhạt nhẽo lắm?” “Không phải, ý em không phải thế…” giọng tôi lí nhí dần. “Chả sao đâu,” ông anh trai tiếp lời. “Thú vị hay vui thì cũng có khác gì nhau đâu, anh cho là thế đấy. Ê, chú mày ăn sáng chưa?” “Em ăn rồi ạ.” “Anh sẽ đi nướng mấy lát bánh mì cái đã. Có chắc là chú mày không muốn làm vài miếng chứ?” “Em ăn rồi ạ.”


66 HARUKI MURAKAMI “Cà-phê thì sao?” “Em uống rồi ạ.” Tôi cũng muốn làm một tách cà-phê lắm chứ. Nhưng lại ngại dính dáng nhiều đến gia đình bạn gái mình, nhất là khi cô đang không có ở nhà. Gã lẳng lặng đứng lên và rời khỏi phòng khách. Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng loẻn xoẻn của cốc đĩa va vào nhau. Tôi vẫn cứ ngồi yên trên ghế sofa, lưng dựng thẳng tắp, tay đặt trên đùi, chờ cô quay về từ bất cứ nơi đâu. Đồng hồ đã điểm mười một giờ năm mươi. Tôi quét lại trí nhớ của mình, để xem liệu chúng tôi có thực sự quyết định rằng tôi sẽ đến đây vào lúc mười một giờ hay không? Nhưng cho dù tôi có nghĩ đi nghĩ lại nghĩ tái nghĩ hồi, tôi vẫn chắc chắn là mình đã nhớ thời gian chính xác. Chúng tôi có nói chuyện điện thoại vào đêm hôm trước và xác nhận điều ấy ngay lúc sau. Cô ấy không phải là kiểu người hay quên lời hứa. Và quái đản thật, cả cô nàng với gia đình đều đi vắng vào sáng Chúa-Nhật rồi vứt gã anh trai ở nhà một mình. Khó xử vì mọi thứ, tôi đành kiên nhẫn chờ đợi. Thời gian cứ ì ạch trôi qua. Thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy có tiếng động phát ra từ nhà bếp. Tiếng mở vòi nước, tiếng muỗng trộn một thứ gì đó, tiếng cửa tủ đóng mở. Dường như lão anh này là típ người ưa ầm ĩ thì phải, dù là bất cứ việc gì gã làm. Nhưng cứ vậy đấy, theo mớ âm thanh hỗn tạp vẫn đang không ngừng truyền tới. Không có tiếng gió thổi bên ngoài, không có tiếng chó sủa. Giống như một lớp bùn vô hình, sự im lặng cứ len lỏi trườn vào tai tôi và bám chặt chúng lên. Tôi phải nuốt nước bọt vài lần mới xua tan hết. Một chút âm nhạc sẽ khiến mọi thứ dễ chịu hơn. Nhạc chủ đề phim “A place summer”, “Edelweiss”, “Moon river”… bất cứ bài gì cũng được. Tôi không kén chọn đâu. Chỉ cần một chút âm nhạc thôi. Cơ mà tôi đâu thể bật máy hát trong nhà người ta lên khi chưa được phép chứ. Tôi lại lia tầm mắt ra xung quanh xem có cái gì để đọc không, nhưng cũng chẳng kiếm ra được một tờ báo hay quyển tạp chí nào. Tôi lục tung cả túi đeo vai của mình xem. Thường thì tôi hay mang theo một cuốn sách bìa mềm đọc dở, nhưng lại không phải là hôm nay. Mỗi lần chúng tôi hẹn hò, tôi và bạn gái thường vờ như cả hai đi đến thư viện tự học, và tôi liền sắp sẵn những món học cụ trong cặp mình nhằm vờ vịt cho giống. Y như một tên tội phạm nghiệp dư cố tạo nên bằng chứng ngoại phạm mong manh. Thành thử cuốn sách duy nhất tôi mang trong túi ngày hôm đó là một cuốn sách giáo khoa tham khảo cho độc giả về “Ngôn Ngữ và Văn Học Nhật Bản”. Tôi đành


WITH THE BEATLES 67 miễn cưỡng lôi nó ra và bắt đầu lật thử vài trang. Không biết các bạn cho thế nào là một độc giả, một độc giả chú mục và có hệ thống, nhưng nhiều người cảm thấy khó để thời gian trôi qua mà không có gì để đọc. Tôi không bao giờ có thể chỉ ngồi yên một chỗ, đờ ra và im lặng. Mà phải giở đôi trang sách hoặc nghe nhạc, không này thì nọ. Khi không có sách vở gì xung quanh, thì tôi nhảy qua chộp lấy bất cứ bản in nào. Tôi từng đọc một cuốn danh bạ điện thoại, một tập hướng dẫn sử dụng cho bàn ủi hơi nước. So với những loại tài liệu đó, thì thà đọc sách giáo khoa tham khảo về tiếng Nhật còn vui hơn nhiều. Tôi lật đại qua các tác phẩm và tiểu luận trong sách. Vài tác phẩm là của các tác giả nước ngoài, nhưng phần lớn là các nhà văn hiện đại nổi tiếng của Nhật Bản, Ryunosuke Akutagawa, Junichiro Tanizaki, Kobo Abe, và mấy người đại loại thế. Mỗi tác phẩm đều được thêm vào những trích đoạn, truyện cực ngắn hoặc những câu hỏi. Hầu như những câu hỏi này đều hoàn toàn vô nghĩa. Với mấy câu vô nghĩa kiểu này, thật khó (hoặc bó tay) để tìm ra một câu trả lời đúng hay không. Tôi dám ngờ luôn mấy ông bà đi biên soạn ra những câu hỏi kiểu vầy liệu có chắc sẽ trả lời được không đã? Mấy câu dạng: “Từ đoạn trích trên, anh/chị có thể rút ra được ý nghĩa gì về tư tưởng của tác giả hướng đến cuộc chiến?” hoặc “Khi tác giả miêu tả sự khuyết mờ của mặt trăng, những hiệu ứng ẩn dụ nào đã được tạo ra?” thì bạn muốn chém gió kiểu gì mà chả được. Nếu bạn bảo rằng mô tả về việc khuyết mờ của mặt trăng chỉ đơn giản là đi mô tả về khuyết mờ của mặt trăng thôi chứ sao, chả có hiệu ứng ẩn dụ nào sất, cũng đâu ai dám chắc như gạch câu trả lời của bạn là sai. Tất nhiên là đã có sẵn một câu trả lời tương đối hợp lý, nhưng tôi thật lòng không nghĩ rằng việc đi đến một câu trả lời tương đối thuận tai là một trong những mục tiêu của việc nghiên cứu văn học. Cứ như vậy, tôi đã giết thời gian bằng cách cố gắng đưa ra câu trả lời cho từng câu hỏi. Và trong hầu hết các trường hợp, những gì xuất hiện trong tâm trí và bộ não của tôi vẫn đang không ngừng lớn dần lên và phát triển, vùng vẫy mỗi ngày để đạt được một loại độc lập tâm lý - đó là những câu trả lời tương đối vô lý nhưng không hẳn là sai. Có lẽ xu hướng ấy là một trong những lý do khiến điểm số của tôi ở trường không cải thiện nhiều. Trong lúc “buổi hỏi đáp” này vẫn tiếp diễn, ông anh của bồ tôi đã trở lại phòng khách. Tóc gã vẫn còn bết dính dấp xung quanh, nhưng có lẽ vì được đánh chén một bữa sáng no nê nên ánh mắt không còn lờ đờ như trước. Gã cầm một chiếc cốc lớn màu trắng có hình một chiếc máy bay chiến đấu của Đức trong Thế chiến thứ nhất, với hai khẩu súng máy phía trước buồng lái, được in ở bên cạnh. Chắc đây phải là chiếc cốc đặc biệt của riêng ông anh này. Tôi không thể hình dung bạn gái của mình uống nước từ một cái cốc như thế. “Chú mày thực sự không muốn uống một tí cà phê hả?”


68 HARUKI MURAKAMI Tôi lắc đầu. “Không. Em ổn thật mà. “ Chiếc áo len gã mặc bị dính đầy vụn bánh mì, gấu áo cũng y như vậy. Có lẽ gã đã đói kinh lên được và ngấu nghiến bọn bánh mì nướng đến mức không quan tâm đến những mẩu vụn vung vãi khắp nơi. Tôi có thể tưởng tượng được bồ tôi hẳn phải ngứa mắt lắm, vì cô nàng lúc nào cũng nom rất gọn gàng và ngăn nắp. Tôi cũng thích gọn gàng và ngăn nắp, tôi nghĩ chính tính cách tương đồng này là một phần lý do vì sao chúng tôi hợp nhau. Anh trai cô liếc lên tường. Có một chiếc đồng hồ được treo ở đó thật. Kim đồng hồ đang chỉ gần mười một giờ rưỡi. “Con bé không quay lại à? Nó đi đâu được nhỉ?” Tôi không lên tiếng đáp lại. “Chú mày đang đọc gì thế?” “Một quyển sách tham khảo cho môn tiếng Nhật của học sinh bọn em thôi.” “Hừm”, gã nói, hơi nghiêng nghiêng đầu. “Có gì thú vị không?” “Không có gì đặc biệt cả. Chỉ là em không có gì khác để đọc thôi.” “Cho anh xem được không?” Tôi thảy cho gã quyển sách qua mặt bàn uống trà. Đổi cốc cà phê qua tay trái, gã cầm cuốn sách bằng tay phải. Tôi đã lo rằng gã có thể làm đổ cà phê vào nó. Nó nom như sắp tràn hẳn ra đến nơi nhưng gã đã không làm đổ. Gã đặt cốc xuống bàn kính với một tiếng cạch, cầm quyển sách với cả hai tay và bắt đầu lật qua. “Chú mày đang đọc đến phần nào?” “Em đang đọc dở “Bánh răng cưa” của cụ Akutagawa. Trong này chỉ có một đoạn thôi, không có đủ cả truyện.” Gã đưa ra suy nghĩ của mình:Gã đưa ra suy nghĩ của mình: “Cuốn “Bánh răng cưa” là một trong những cuốn anh chưa bao giờ mó tới. Dù hồi trước anh cũng có đọc “Thủy quái Kappa” từ lâu lắc lâu lơ rồi. Ê nhưng mà không phải “Bánh răng cưa” là một truyện rất u ám à?”


WITH THE BEATLES 69 “Chính nó. Ngài ấy đã viết nó ngay trước khi chết. Akutagawa đã bị sốc thuốc ngủ vào năm ba mươi lăm tuổi. Các ghi chú trong quyển tham khảo này có nói là “Bánh răng cưa” đã được xuất bản sau năm 1927. Truyện này gần như là một lá thư tuyệt mệnh và di chúc cuối cùng. “Hừm”, ông anh của bồ tôi nói, “Chú mày có thể đọc nó cho anh nghe không?” Tôi ngạc nhiên nhìn gã, “Ý anh là đọc to lên á?” “Phải. Anh luôn thích có người đọc cho anh nghe. Anh không phải là một người đọc giỏi lắm đâu.” “Nhưng em cũng không phải là một người đọc hay đâu.” “Anh không bận tâm về điều đó. Chú mày cũng không cần phải là một tay đọc to xuất chúng gì. Chỉ cần đọc đúng theo thứ tự rồi sẽ ô kê thôi. Ý anh là, bọn mình trông đâu giống như có cái gì khác mà làm.” “Có điều nó là một câu chuyện rất u uất và nặng nề về tâm thần…”, tôi trả lời. “Thi thoảng anh mày lại khoái nghe mấy thể loại ấy đấy. Một kiểu dĩ độc trị độc thôi.” Gã đẩy quyển sách lại về hướng tôi, nhấc cốc cà phê có in hình chiếc may bay chiến đấu và Thánh Giá sắt lên nhấp một ngụm. Rồi gã lại thả mình xuống bộ ghế bành và chờ cho buổi đọc truyện bắt đầu. Đó là cách mà tôi đã kết thúc ngày Chúa-nhật hôm ấy bằng việc đọc lớn trích đoạn “Bánh răng cưa” của Akutagawa cho lão anh quái đản của bạn gái tôi nghe. Ban đầu tôi có hơi lưỡng lự, nhưng rồi dần trở nên nhiệt tình với việc này. Quyển sách tham khảo có in hai phần cuối của truyện – là “Đèn đỏ” và “Máy bay”, tuy nhiên tôi chỉ đọc “Máy bay” mà thôi. Nó dài khoảng tám trang, và kết thúc với dòng “Tôi không còn đủ sức để viết nữa. Thật đau đớn xiết bao, vượt qua khỏi mọi ngôn từ, đặng tiếp tục sống ngay cả khi phải cảm thấy như thế này. Sao trên đời không có ai đủ tốt để siết lấy cổ tôi khi tôi đang ngủ?” Akutagawa đã tự sát ngay sau khi đặt bút viết ra những dòng này. Tôi đọc xong, nhưng vẫn chưa có ai trong nhà về đến. Điện thoại không đổ chuông, và cũng chẳng có tiếng quạ nào réo bên ngoài. Xung quanh hoàn toàn vắng lặng như tờ. Ánh nắng mùa Thu thắp sáng phòng khách qua tấm rèm ren. Thời gian đơn độc bình thản chầm chậm trôi về phía trước. Anh trai của bạn gái tôi vẫn ngồi đó, khoanh tay, mắt nhắm lại, như thể thưởng thức những dòng cuối cùng tôi đọc: “Tôi


70 HARUKI MURAKAMI không còn đủ sức để viết nữa. Thật đau đớn xiết bao, vượt qua khỏi mọi ngôn từ, đặng tiếp tục sống ngay cả khi phải cảm thấy như thế này. Sao trên đời không có ai đủ tốt để siết lấy cổ tôi khi tôi đang ngủ?” Dù có thích viết lách hay không, thì đây rõ ràng cũng không phải là câu chuyện phù hợp để đọc vào một sáng Chúa-nhật đẹp trời. Tôi gấp cuốn sách lại và liếc nhìn đồng hồ treo tưởng: Mười hai giờ. “Chắc là em đã nhầm lẫn gì đó rồi. Thôi, em nghĩ là em nên xin phép về ạ.” Tôi đứng dậy khỏi ghế sofa. Từ bé mẹ tôi đã dặn tôi rất kỹ về việc không được làm phiền nhà người khác khi đến bữa cơm. Là tốt hay xấu thì điều này cũng đã thấm nhuần vào con người tôi, trở thành một phản xạ. “Chú mày đã đến tận đây rồi, sao không ngồi nán lại thêm nửa tiếng nữa?” gã anh trai hỏi. “Chú cứ đợi thêm ba mươi phút nữa, rồi nếu con bé kia vẫn chưa về nhà thì chú đi cũng chưa muộn.” Lời nói của gã rất lạ lùng, tôi đành ngồi xuống và đặt tay lên đùi thêm lần nữa. “Chú mày rất giỏi bộ môn đọc thành tiếng đấy.” Gã nói, giọng điệu có vẻ rất ấn tượng. “Đã ai bẩu với chú mày điều đó chưa?” Tôi lắc lắc đầu. “Trừ phi chú thật sự có thể nắm bắt được nội dung, bằng không chú mày chả đọc được ra hồn như thế đâu. Phần cuối cùng đặc biệt xuất sắc luôn đấy!” “Ơ…” tôi lơ mơ đáp lại, cảm giác gò má mình đỏ ửng lên chút đỉnh. Lời khen này có vẻ sai sai làm cho tôi cảm thấy không được thoải mái lắm. Nhưng sau nửa tiếng trò chuyện với gã, tôi có cảm tưởng là dường như gã đang cần một người để nói chuyện. Gã đặt hai lòng bàn tay rắn chắc trước mặt như đang cầu nguyện, rồi bất thình lình phun ra một câu: “Câu này nghe có vẻ quái gở nhưng đã bao giờ ký ức của chú mày ngừng lại chưa?” “Ngừng lại?” “Ý anh ở đây là, đại loại như, từ lúc này đến lúc khác bỗng dưng chú mày không nhớ được mình đã ở đâu và đã làm cái gì ấy.” Tôi lắc đầu. “Em đồ là mình chưa từng có trải nghiệm nào như thế.”


WITH THE BEATLES 71 Thời gian đơn độc bình thản chầm chậm trôi về phía trước. Anh trai của bạn gái tôi vẫn ngồi đó, khoanh tay, mắt nhắm lại, như thể thưởng thức những dòng cuối cùng tôi đọc: “Tôi không còn đủ sức để viết nữa. Thật đau đớn xiết bao, vượt qua khỏi mọi ngôn từ, đặng tiếp tục sống ngay cả khi phải cảm thấy như thế này. Sao trên đời không có ai đủ tốt để siết lấy cổ tôi khi tôi đang ngủ?”


72 HARUKI MURAKAMI “Nghĩa là chú mày nhớ chi tiết thời gian và mọi việc mình đã làm hử?” “Nếu đó là những việc mới diễn ra gần đây thì em có thể cho là vậy.” “Hừm”, gã cảm khái và đưa tay gãi gãi đầu trong một chốc, rồi cất lời “Anh thì cho thế là thường thôi.” Tôi đợi gã nói tiếp. “Thật ra í, anh đã từng vài lần bị mất trí nhớ. Giống như lúc 3 giờ chiều ký ức của anh bị cắt bỏ, và chuyện tiếp theo anh nhận thức được đã là 7 giờ tối rồi. Anh không thể nhớ ra mình đã ở đâu hay đã làm cái quái gì trong bốn tiếng đó. Mà cũng chả giống như có sự vụ gì đặc biệt đã xảy đến với anh. Kiểu như anh bị tương một cú vào đầu hay say xỉn hay bất cứ thứ gì đại loại thế. Anh chỉ làm những việc bình thường và không hề có cảnh báo rằng trí nhớ của mình sắp bị cắt. Anh không thể dự đoán trước lúc nó sắp xảy ra. Và anh cũng không hề có chút manh mối gì về bao nhiêu giờ, bao nhiêu ngày hay thậm chí là trí nhớ của mình sẽ bốc hơi vào lúc nào.” “Em hiểu rồi”, tôi khẽ lẩm bẩm, để gã biết tôi còn đang theo dõi câu chuyện. “Cứ tưởng tượng mà xem, chú đã ghi lại một bản giao hưởng của Mozart trên băng thâu âm. Rồi khi chú phát lại thì nhạc lại nhảy từ giữa đoạn thứ hai sang giữa đoạn thứ ba, còn những đoạn nên ở giữa thì biến mất. Nó y như vậy đấy. Khi anh bảo “biến mất” không có nghĩa là những đoạn nghỉ của cuốn băng. Mà là nó hoàn toàn bốc hơi. Chú có hiểu điều anh vừa nói không?” Tôi gục gặc đầu. “Như là ta đi đến mặt tối của mặt trăng và trở về tay không.” Tôi lại gật gật đầu. Dù không dám chắc là mình hoàn toàn nắm rõ được sự tương đồng này. “Nguyên nhân gây ra nó bởi từ một sự rối loạn di truyền, và những trường hợp rõ rệt như của anh cực kỳ hiếm. Một trong số hàng chục ngàn người mới bị chứng rối loạn này. Và tất nhiên giữa họ sau đó thậm chí còn có sự khác nhau. Vào năm cuối cấp hai, anh đã được bác sĩ thần kinh tại bệnh viện đại học khám cho. Mẹ anh đưa anh đi.” Gã ngừng lại, rồi tiếp tục thao thao: “Nói cách khác, nó là một tình trạng nơi chuỗi ký ức của ta bị làm rối tung beng lên. Một phần trí nhớ của anh bị cất vào ngăn kéo


WITH THE BEATLES 73 không chính xác. Và bên cạnh đó thì ta không thể, thật tình không thể tìm thấy nó thêm lần nào nữa. Họ đã giải thích với anh như thế. Nó không phải là kiểu rối loạn khủng khiếp có thể gây tử vong hoặc làm ta từ từ mất trí. Nhưng nó gây ra phiền nhiễu trong sinh hoạt thường ngày. Họ cho anh biết tên của chứng rối loạn rồi kê cho anh ít thuốc, nhưng mớ thuốc thang này cũng vô dụng thôi. Toàn giả dược cả.” Trong một khoảnh khắc, ông anh của bồ tôi chợt im lặng, soi kỹ tôi để xem tôi có hiểu không. Hệt như gã đang lảng vảng xung quanh một ngôi nhà và rình mò qua cửa sổ. “Bây giờ anh gặp phải những giai đoạn này một, hai lần trong năm,” cuối cùng gã cũng cất tiếng. Tuy không thường xuyên nhưng vấn đề không nằm ở tần số. Lúc nó thực sự xảy ra mới gây rắc rối nghiêm trọng. Dù cho việc này hiếm khi tiếp diễn thì cũng quá sức tệ vì trí nhớ bị mất và không biết thời điểm nào nó sẽ lại chường mặt ra nữa. Chú mày hiểu điều này phải không?” “À vâng…” tôi mơ hồ đáp lại. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để theo dõi câu chuyện kỳ quặc và ào ào của ông anh trai này. “Kiểu như là khi điều đó xảy đến với anh, trí nhớ của anh đột ngột bị cắt đứt, và trong khoảng thời gian ấy diễn ra anh đã tóm lấy một cái búa tổ bố và giáng vào đầu một đứa nào đó, đứa mà anh ghét cay ghét đắng từ trước đến giờ. Chú mày đâu thể xóa sổ nó chỉ bằng việc liên thiên múa mép rằng “Ái chà, giờ tôi thấy mắc cỡ ghê”. Đúng chưa nào?” “Em cho là vậy” “Chà, đám cớm sẽ nhảy ngay vào cuộc và nếu anh nói với họ, “Vấn đề là trí nhớ của tôi bốc hơi mất tiêu rồi mấy cha nội” thì họ cũng đời nào chấp nhận được chuyện đó đâu. Phỏng?” Tôi gật đầu. “Kỳ thực là có nhiều người mà anh không ưa. Những kẻ thật sự làm anh mày phát cáu lên được. Ông già anh là một trong số đó. Nhưng khi đời hư ảo đưa anh vào cơn mê thì anh cũng nào dám cầm búa gõ đầu ngài thân phụ đáng kính ấy, phải không nào? Anh vẫn có thể kiểm soát bản thân anh thôi. Nhưng một khi trí nhớ đã bay hơi thì thực tình anh không biết là mình đang làm cái gì nữa.” Tôi nghiêng nghiêng đầu, không đưa ra ý kiến gì. “Mấy lão bác sĩ cứ bảo là chả có nguy cơ nào sẽ xảy ra đâu mà lo. Nhưng không


HARUKI MURAKAMI Trong lúc trí nhớ của anh mải chơi cút bắt, có kẻ nào đó đã chiếm lấy nhân cách của anh. Y như truyện về “Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde” ấy. Anh luôn luôn là chính mình. Chỉ có điều như đã bỏ lỡ mất đoạn băng thâu âm giữa phần hai đến phần ba. Còn lại anh vẫn luôn kiểm soát tốt bản thân mình và xử sự bình thường trong hầu hết những phần khác. Mozart không thể nào đột ngột biến. thành Stravinsky. Mozart vẫn chỉ là Mozart, chỉ là một phần nào đó đã biến mất giữa ngăn kéo ở tận đẩu đâu.


WITH THE BEATLES 75 giống như thế, trong lúc trí nhớ của anh mải chơi cút bắt, có kẻ nào đó đã chiếm lấy nhân cách của anh. Y như truyện về “Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde” ấy. Anh luôn luôn là chính mình. Chỉ có điều như đã bỏ lỡ mất đoạn băng thâu âm giữa phần hai đến phần ba. Còn lại anh vẫn luôn kiểm soát tốt bản thân mình và xử sự bình thường trong hầu hết những phần khác. Mozart không thể nào đột ngột biến thành Stravinsky. Mozart vẫn chỉ là Mozart, chỉ là một phần nào đó đã biến mất giữa ngăn kéo ở tận đẩu đâu.” Anh ta nhấc cốc cà phê lên và hớp một ngụm từ chiếc cốc phi cơ chiến đấu. Tôi ước gì mình cũng được làm một tách cà phê. “Chí ít thì bác sĩ đã nói thế với anh. Nhưng những gì anh hiểu được chỉ như muối bỏ bể. Lúc đó anh mới học cấp ba thôi nên chuyện đó làm anh rất sợ, anh nghĩ rằng mình có thể cầm búa tấn công một đứa bạn cùng lớp nào đó mà không nhớ ra được mình đã làm cái quái gì. Ý anh mày là, khi chú mày học cấp ba, chú vẫn không biết bản thân chú là ai chứ gì? Lại thêm cả nỗi thống khổ vì việc mất trí nhớ, thì làm sao có thể chịu đựng nổi.” Tôi lặng lẽ gật đầu. Có thể gã đã đúng. “Anh mày gần như dừng cả việc đến trường vì mấy chuyện đó,” ông anh bồ tôi tiếp tục. “Càng nghĩ về nó, anh lại càng thấy sợ hãi và không thể nào đi học tiếp được nữa. Mẹ anh đã cố gắng giải thích cho các giáo viên của anh, và thậm chí dù anh vắng mặt quá nhiều, họ vẫn tạo ngoại lệ cho anh được tốt nghiệp. Anh đã mường tượng nhà trường muốn đá một thằng học sinh có vấn đề như anh đi càng sớm càng tốt. Nhưng anh không học tiếp lên đại học. Điểm số của anh không tệ, anh vẫn có thể được nhận vào vài trường đại học nào đó, nhưng anh không có đủ tự tin để bước ra ngoài. Kể từ ngày đó, anh cứ loay hoay vất vưởng ở trong nhà. Anh cũng có dắt chó đi dạo, nhưng nếu không có chuyện gì khác thì rất khó cạy anh ra khỏi nhà. Mấy ngày nay anh không còn cảm thấy hoảng loạn hay bất cứ thứ gì từa tựa thế nữa. Nếu mọi thứ dịu xuống một chút, anh nghĩ có lẽ anh sẽ bắt đầu đi học đại học.” Sau đó gã im lặng, và tôi cũng vậy. Tôi không biết phải nói gì. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao bạn gái mình không bao giờ muốn kể về ông anh trai của cô ấy. “Cảm ơn chú mày đã đọc truyện cho anh nghe,” gã nói.” gã nói. “Bánh răng cưa” rất hay. Nó là một truyện cực kỳ u ám thì hẳn rồi, nhưng có nhiều đoạn viết thật sự chạm đến được bên trong anh. Chú có chắc là chú không muốn cà-phê không? Chỉ mất cỡ một phút là có ngay thôi.” “Không ạ, em được rồi mà. Tốt hơn hết là em nên về sớm.”


76 HARUKI MURAKAMI Gã lại liếc nhìn đồng hồ trên tường. “Sao chú không ngồi chờ đến một giờ, nếu không có ai về thì đi luôn cũng được. Anh sẽ về phòng ở tầng hai để chú mày được tự nhiên. Không cần phải bận tâm về anh đâu.” Tôi gật đầu. “Hẹn hò có thú vị không? Với Sayoko ấy?” ông anh bồ tôi hỏi lại thêm lần nữa. Tôi gật đầu. “Thú vị lắm mà.” “Chỗ nào?” “Có rất nhiều điều về em ấy mà em không biết.” tôi đáp lại. Và tôi nghĩ đó là một câu trả lời cực kỳ thành thực. “Hừmmm” gã kéo dài giọng, nghiền ngẫm câu trả lời đó. “Giờ do chú mày nhắc thì anh mới thấy. Con bé là em gái anh, có quan hệ huyết thống, cùng một mã gien và tất cả mọi thứ. Bọn anh đã sống với nhau dưới một mái nhà kể từ khi con bé được sinh ra, nhưng vẫn còn vô số điều anh không hiểu về con bé. Anh không rõ được con bé và nên làm thế nào để hiểu nó? Điều gì làm cho nó hay quát lác như thế? Vậy nên anh sẽ rất sướng nếu chú mày có thể tìm hiểu những chuyện đó cho anh. Dù có thể có nhiều điều mà tốt nhất là đừng nên chúi mũi vào làm gì.” Gã cầm cốc cà-phê trên tay, và rời khỏi ghế bành. “Dù sao thì cũng thử cố gắng hết sức nhé!” ông anh bồ tôi nói. Gã khẽ vẫy vẫy tay kia với tôi và đi ra khỏi phòng. “Cảm ơn anh,” tôi đáp lại. Đến một giờ chiều vẫn chẳng có dấu hiệu trở lại của bất cứ ai trong nhà, nên tôi đã một mình lẳng lặng đi ra cửa trước, xỏ giày thể thao vào và ra về. Tôi băng qua rừng thông đi đến ga, nhảy lên tàu điện và về nhà. Đó là một chiều Chúa-nhật mùa Thu tĩnh lặng và yên ắng. Tôi nhận được cuộc gọi của bạn gái mình lúc hai giờ chiều. “Ơ, anh đã bảo là sẽ đến vào Chủ Nhật tuần sau cơ mà!” Tôi không hoàn toàn bị thuyết phục vì điều đó, nhưng cô ấy nói chắc như đinh đóng cột nên có khi cô đã đúng thật. Tôi khẽ xin lỗi cô vì đã đến đó sớm hẳn cả tuần. Tôi cũng không hề nhắc đến việc trong lúc chờ cô quay về nhà thì tôi và anh trai cô


WITH THE BEATLES 77 đã có một buổi trò chuyện – có lẽ “trò chuyện” không phải là một cụm từ đúng, vì căn bản chỉ có tôi lắng nghe anh trai cô nói. Tôi hiểu rằng tốt nhất mình không nên kể vụ đã đọc “Bánh răng cưa” của Akutagawa cho anh cô nghe, và cả việc gã đã tiết lộ với tôi chuyện gã bị mất trí nhớ nữa. Nếu gã đã không nói với cô ấy những chuyện đó, thì tôi cũng chẳng nên kể làm gì. Mười tám năm sau, tôi có dịp gặp lại ông anh trai cô thêm lần nữa. Đó là một ngày giữa tháng Mười, tôi vừa bước vào độ tuổi băm nhăm, đang sống ở Tokyo cùng với vợ. Công việc bận bịu cuốn tôi vào guồng xoáy hối hả mỗi ngày, và tôi chẳng có mấy khi trở về Kobe nữa. Lúc ấy trời ngả xế chiều, tôi đi lên đến một ngọn đồi ở Shibuya để lấy chiếc đồng hồ vừa sửa. Đang thả bộ dọc theo con đường và miên man suy nghĩ, thì người đàn ông tôi vừa lướt qua bỗng quay ngược lại và gọi tôi. “Xin lỗi cậu,” người ấy cất tiếng gọi. Anh ta có một ngữ điệu đặc sệt vùng Kansai không lẫn đi đâu được. Tôi dừng chân, quay đầu lại và trông thấy một người đàn ông tôi vẫn chưa nhận ra là ai. Anh ta nom lớn hơn tôi chút đỉnh, và cao hơn. Trên người anh khoác một chiếc áo vải tuýt dày màu xám, bên trong là lớp áo len cổ lọ, thêm áo dạ cashmere kem và mặc quần tây kiểu Tàu màu nâu. Mái tóc tém với vóc người rắn chắc của một vận động viên đi kèm làn da sẫm màu rám nắng (trông giống như dân chơi Golf ). Các đường nét trên gương mặt anh ta tuy không quá tinh xảo nhưng vẫn cực kỳ thu hút. Tôi thấy anh khá đẹp trai. Có cảm tưởng đây là một người hài lòng với cuộc sống của mình. Một người tôi đoán rằng đã được nuôi dạy rất tốt. “Tôi không nhớ ra tên của cậu, nhưng cậu có phải là cậu bạn trai ngày xưa của em gái tôi không?” Tôi cố nhìn kỹ lại mặt anh ta. Nhưng chẳng hiện lên ký ức nào về nó. “Em gái anh ư?” “Sayoko ấy,” anh ta nói. “Tôi nhớ hai người từng học chung một lớp thời cấp ba mà.” Ánh mắt tôi dừng lại nơi vệt tương cà nhỏ dây trên mặt trước chiếc áo len cashmere màu kem của anh. Anh ăn vận rất gọn gàng, nên vết bẩn nhỏ ấy đã làm tôi mất tập trung. Và nó đập thẳng vào tâm trí tôi – ông anh trai với đôi mắt lờ đờ buồn ngủ quấn chiếc áo len cổ dão màu xanh hải quân dính đầy vụn bánh mì. “Em nhớ ra rồi,” tôi thốt lên. “Anh là anh trai của Sayoko. Chúng mình có gặp nhau một lần ở nhà anh. Đúng chưa?”


78 HARUKI MURAKAMI “Chính xác rồi. Chú còn đọc truyện “Bánh răng cưa” của cụ Akutagawa cho anh nghe nữa mà.” Tôi cười lớn. “Nhưng em thấy kinh ngạc là anh lại có thể nhận ra em giữa biển người này đấy. Chúng ta chỉ mới gặp nhau có nhõn một lần duy nhất, mà lại còn lâu lắc lâu lơ nữa chứ.” “Anh cũng không dám chắc lắm, nhưng anh chả quên được mặt ai bao giờ. Với lại nhìn chú cũng không khác xưa là mấy.” “Nhưng anh lại thay đổi nhiều lắm anh ạ,” tôi nói với anh. “Giờ nhìn anh khác hẳn lúc trước.” “Ừm, nhiều chuyện như nước chảy qua cầu mà,” anh ta mỉm cười đáp lại. “Chú cũng biết rồi đấy, mọi thứ trở nên khá rối rắm với anh trong một khoảng thời gian.” “Sayoko giờ sao rồi anh?” tôi hỏi. Anh ta liếc nhìn qua một bên, từ từ hít vào rồi thở hắt ra. Như thể đang đo thử mật độ của bầu không khí xung quanh mình. “Thay vì cứ đứng mãi trên phố như thế này, sao ta không kiếm một chỗ nào vừa ngồi vừa nói chuyện? Nếu như chú không mắc việc gì.” “Em không mắc gì cả.” tôi đáp lời anh ấy. “Sayoko đã qua đời rồi,” anh lặng lẽ nói. Hai chúng tôi đang ở trong một tiệm cà-phê gần đó, ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhựa. “Qua… qua đời rồi?” “Em ấy mất rồi. Đã được ba năm.” Tôi trở nên câm nín. Cảm giác như lưỡi của mình sưng phồng lên trong miệng. Dù đã cố nuốt nước bọt đang trào lên nhưng vô ích. Lần cuối cùng tôi trông thấy Sayoko là khi cô vừa hai mươi tuổi, mới lấy được bằng lái ô-tô. Cô đã chở hai đứa lên đỉnh núi tuyết Rokkō ở Kobe trên con xe Toyota Crown mui cứng màu trắng mà bố cô cho mượn. Tay lái của cô còn lóng ngóng, nhưng nom cô rất phấn khích khi được lái xe. Có thể đoán được, lúc đó radio đang phát nhạc của The Beatles. Tôi còn nhớ rất rõ khi đó. Là bài “Hello, Good-bye”. Em


WITH THE BEATLES 79 nói Tạm biệt, và anh đáp Xin chào. Như tôi đã từng kể trước đó, âm nhạc của họ đã ở khắp nơi nơi. Tôi không thể chịu được cái thực tế rằng cô ấy đã mất và không còn tồn tại trên thế gian này nữa. Tôi không chắc có thể diễn tả được cảm giác ấy – nó quá vô thực. “Em ấy đã… mất ra sao?” tôi cất giọng hỏi, miệng khô đắng. “Con bé đã tự sát,” anh ta nói, như đang cẩn trọng lựa lấy từng lời. Năm cô hai mươi sáu tuổi, cô kết hôn với một đồng nghiệp nam cùng công ty bảo hiểm nơi mình đang làm việc, rồi họ có với nhau hai mặt con. Khi tự tay đoạt lấy mạng sống của mình, cô chỉ mới vừa ba mươi hai tuổi. “Cô ấy bỏ lại mấy đứa nhỏ sao?” Ông anh bạn gái cũ tôi gật đầu. “Đứa lớn là trai, còn đứa nhỏ là gái. Chồng của con bé vẫn đang nuôi dưỡng chúng. Thỉnh thoảng anh lại ghé thăm ba bố con nó. Bọn trẻ ngoan lắm.” Tôi vẫn thấy khó khăn để nắm bắt hiện thực của tất cả mọi chuyện. Bạn gái cũ của tôi đã tự sát, để lại hai đứa trẻ ư? “Sao cô ấy lại làm thế?” Anh ta lắc đầu. “Chẳng ai rõ sự tình vì sao. Con bé không hề tỏ ra trầm uất hay có vấn đề gì. Nó vẫn khỏe mạnh, tình cảm giữa hai vợ chồng cũng rất tốt, và nhất là con bé rất yêu thương hai đứa con mình. Nó tuyệt nhiên không để lại một lời nhắn nhủ hay bất cứ thứ gì như thế. Bác sĩ riêng đã kê thuốc ngủ cho con bé, nó cứ góp nhặt lại từng đợt rồi nốc luôn trong một lúc. Nhìn thế nên có vẻ Sayoko đã lên ý định tự sát từ trước. Con bé muốn ra đi, nên trong nửa năm trời nó đã giấu từng chút từng chút một lượng thuốc ngủ. Chắc chắn đó không phải là một thôi thúc nhất thời.” Tôi im lặng. Và anh cũng vậy. Cả hai chúng tôi đều lạc vào những suy nghĩ của riêng mình. Vào cái ngày ấy, trong một quán cà-phê trên đỉnh núi tuyết Rokkō, tôi và bạn gái cũ đã chia tay nhau. Tôi đi học đại học ở Tokyo và ngả lòng với một cô gái khác ở đó. Tôi có trực tiếp thú nhận tất cả với cô, và cô, chỉ đáp lại duy nhất một lời rồi cầm lấy túi xách, đứng dậy, vội vã rời khỏi quán cà-phê mà không thèm ngoảnh đầu nhìn lại. Tôi đi cáp treo xuống núi một mình. Chắc cô ấy đã lái chiếc Toyota Crown màu trắng về nhà rồi. Đó là một ngày nắng đẹp tuyệt vời, và tôi nhớ rõ mình đã được ngắm nhìn toàn cảnh của thành phố Kobe qua cửa sổ khoang cáp treo. Một quang cảnh kinh diễm.


80 HARUKI MURAKAMI Tôi im lặng . Và anh cũng vậy ... Cả hai chúng tôi đều lạc vào những suy nghĩ của riêng mình...


WITH THE BEATLES 81 Sayoko đã đi học đại học, kiếm một công việc ở công ty bảo hiểm nhân thọ, lấy một trong số những đồng nghiệp nam ở đó làm chồng, sinh ra hai đứa trẻ đáng yêu, góp nhặt từng viên thuốc ngủ một, và tự sát. Có thể sớm muộn gì tôi cũng phải nói lời chia tay cô. Nhưng tôi vẫn có những kỷ niệm đẹp đẽ trong những năm tháng chúng tôi ở bên nhau. Cô là người bạn gái đầu tiên của tôi, và tôi thích cô nhiều lắm. Cô cũng là người đầu tiên đã dạy tôi về cơ thể phụ nữ. Chúng tôi đã cùng nhau trải nghiệm những điều mới mẻ, và san sẻ cho nhau những khoảng thời gian tuyệt diệu, những điều chỉ có thể diễn ra duy nhất một lần trong đời khi bạn còn ở tuổi thiếu niên. Thật khó cho tôi để nói những lời này bây giờ, nhưng cô chưa từng ngân lên hồi chuông đặc biệt ấy bên tai tôi. Tôi đã lắng nghe kỹ hết sức có thể, nhưng nó vẫn chưa hề vang lên lần nào cả. Đáng buồn làm sao. Thế mà cô gái tôi quen ở Tokyo lại làm được điều đó. Đây không phải là việc có thể lựa chọn theo lý trí hay đạo đức. Hoặc là nó vang lên, hoặc không có gì cả. Khi tiếng chuông vang lên, nó sẽ vang theo cách của riêng mình, trong ý thức hoặc tận sâu thẳm tâm hồn. “Chú biết không,” anh trai bạn gái cũ của tôi lên tiếng, “Anh chưa bao giờ, dù chỉ một lần, nảy ra suy nghĩ rằng Sayoko sẽ tự tử, ngay cả khi tất cả mọi người trên cõi đời này đều tự sát. Nhưng hóa ra là anh đã lầm, anh đã tin rằng con bé vẫn sẽ luôn ở đó, sống và sống thật tốt. Anh không hề thấy con bé giống típ người dễ bị vỡ mộng hay có ẩn tàng bóng tối nào bên trong. Thú thật, anh còn cho là nó hơi nông cạn nữa. Anh chưa bao giờ chú ý đến con bé, và điều đó cũng sẽ đúng với nó nếu đó là anh, anh nghĩ thế đấy. Dường như bọn anh chỉ là những kẻ đồng sàng dị mộng. Thật ra anh có quan hệ tốt hơn với đứa em gái còn lại. Nhưng giờ đây anh có cảm giác như thể mình đã làm ra điều gì đó rất khủng khiếp với Sayoko và điều đó làm anh đau không chịu nổi. Có lẽ anh chưa bao giờ thực sự biết rõ con bé. Chưa từng hiểu lấy một điều dù nhỏ nhất về nó. Có khi vì anh đã quá bận tâm với cuộc sống của chính mình. Dường như những kẻ như anh sẽ chẳng bao giờ đủ sức để cứu vớt lấy cuộc đời Sayoko, nhưng lẽ ra anh nên thử hiểu nó, dù không nhiều đi chăng nữa. Lúc này anh không thể chịu nổi. Anh đã quá kiêu căng, quá ngạo mạn.” Tôi không thể nói gì được nữa. Có lẽ tôi cũng không hiểu gì về cô cả. Giống như anh trai cô, tôi đã quá chú tâm vào cuộc sống của riêng mình. Anh trai Sayoko tiếp tục nói, Anh trai Sayoko tiếp tục nói, “Trong quyển truyện chú đọc cho anh ngày đó, “Bánh răng cưa” của cụ Akutagawa ấy, có một đoạn mô tả các phi công đã hô hấp thế nào khi máy bay phóng thẳng lên trời và rồi họ vĩnh viễn không còn được thở bầu không khí ở trái đất thêm một lần nào nữa… “Hội chứng máy bay”, người ta gọi nó như thế. Anh không biết là hội chứng đó có thật


82 HARUKI MURAKAMI hay không nhưng anh vẫn nhớ như in những dòng đó.” “Anh có thoát khỏi tình trạng đôi khi trí nhớ lại biến mất không?” tôi hỏi anh ta. Tôi nghĩ rằng mình phải cố thoát khỏi chủ đề về Sayoko. “À đúng rồi, chuyện đó,” anh ta nói, mắt nheo nheo lại. “Quái lắm, nhưng bệnh đã tự nhiên biến mất. Các bác sĩ nói rằng nó là chứng rối loạn di truyền và theo thời gian bệnh sẽ tiến triển xấu dần đi. Nhưng nó đã xảy ra rồi biến mất như là anh chưa từng mắc phải bao giờ vậy. Y như một linh hồn xấu xa đã bị trục xuất ấy.” “Em rất vui khi nghe điều đó,” tôi nói. Và tôi vui thật. “Chuyện xảy ra không lâu sau lần anh gặp chú. Sau hôm ấy anh không còn trải qua bất cứ đợt mất trí nhớ nào nữa, dù chỉ là một lần. Anh cảm thấy bình tĩnh hơn, có thể vào một trường đại học đàng hoàng, tốt nghiệp, rồi sau đó tiếp quản công việc kinh doanh của bố anh. Mọi thứ phải đi đường vòng vài năm lúc đó, nhưng bây giờ anh được sống một cuộc sống bình thường rồi.” “Em thật lòng rất mừng khi nghe điều đó,” tôi lặp lại. “Thế nên anh không phải lo xử lý vụ gõ búa vào đầu cụ thân phụ nhà anh nữa rồi.” “Chú vẫn còn nhớ những chuyện ngớ ngẩn như vậy sao?” anh ta nói, và cười to. “Tuy nhiên, chú biết đấy, anh không thường đến Tokyo vì công việc đâu, và có vẻ lạ khi anh lại được tái ngộ chú như vầy giữa thành phố rộng lớn thế này đây. Anh không thể ngăn được cảm giác đã có điều gì đó đem chúng ta đến với nhau.” “Chắc chắn rồi anh,” tôi đáp lại. “Vậy còn chú thì sao? Chú vẫn sống luôn ở Tokyo đấy hả?” “Em kết hôn ngay sau khi em tốt nghiệp đại học,” tôi nói với anh ta như thế, “Và sống ở Tokyo từ đó đến giờ. Bây giờ em kiếm sống bằng nghề viết lách.” “Nhà văn à?” “Vâng, từa tựa như thế.” “Chà, chú thật sự rất giỏi trong việc đọc to,” anh ta nói. “Có thể anh nói ra điều này sẽ trở thành gánh nặng cho chú, nhưng Sayoko vẫn luôn thương chú nhất trong tất cả những người yêu của nó.” Tôi đã không trả lời lại. Và anh trai cô bạn gái cũ của tôi cũng không hỏi gì thêm nữa.


WITH THE BEATLES 83 Thế rồi chúng tôi nói lời tạm biệt. Tôi đi lấy chiếc đồng hồ đã sửa xong, còn người anh trai ấy cũng chầm chậm bước xuống đồi hướng về phía nhà ga. Dáng người khoác chiếc áo dày vải tuýt của anh từ từ bị đám đông nuốt chửng giữa ánh tà dương nhập nhoạng. Tôi đã không gặp lại anh thêm lần nào nữa. Cơ hội đã đưa chúng tôi chạm mặt nhau lần thứ hai. Với gần hai mươi năm trôi giữa cuộc tao ngộ, giữa những thành phố cách xa nhau ba trăm dặm. Chúng tôi đã cùng ngồi xuống, với một chiếc bàn nhựa ngăn giữa đôi bên, nhấm nháp tách cà-phê và trải lòng nhiều chuyện. Nhưng không phải lúc nào bạn cũng bắt buộc phải tán gẫu như một buổi cà-phê. Có nhiều điều gì đó quan trọng hơn trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, những điều nom như có ý nghĩa thực thụ xuất hiện vào đúng thời điểm trong cuộc đời cả hai. Tuy nhiên, nó chỉ là một gợi ý nhỏ được đem đến từ sự tình cờ. Chẳng có thứ gì có thể liên kết chúng tôi lại theo một cách hệ thống và có tổ chức. (Đề bài: “Yếu tố nào trong cuộc sống của hai người đàn ông này đã được gợi ý một cách ẩn dụ thông qua cuộc gặp gỡ và trò chuyện của họ?”) Tôi không bao giờ được gặp lại cô nàng đáng yêu ngày nào nữa, người đã giữ chặt chiếc đĩa than “With The Beatles” vào lòng. Thi thoảng tôi lại tự hỏi, có phải nàng vẫn đang vội vã rảo bước xuống dãy hành lang lờ mờ tối của trường trung học năm 1964, với gấu váy rung rinh mỗi khi nàng bước? Vẫn mười sáu tuổi kể cả giờ đây, mang chiếc album tuyệt vời đó với tấm ảnh bìa thiếu sáng của John, Paul, Geogre, và Ringo, ôm lấy thật chặt như thể cuộc đời nàng chỉ có nó để mong chờ.


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 85 Tôi muốn làm rõ điều này ngay từ đầu: Tôi yêu bóng chày. Và điều tôi thật lòng yêu thích chính là thực sự đến sân vận động để xem một trận đấu trực tiếp diễn ra ngay trước mặt. Tôi còn đội mũ bóng cơ bản và mang theo găng tay của mình trong trường hợp có bắt được một quả bóng lỗi từ ghế ngồi trong sân, hay nhỡ may có là cú bóng xa nếu ngồi ở hàng ghế ngoài. Xem chương trình phát sóng trận đấu trên Ti-vi thì làm sao có mấy vụ đó được. Tôi luôn có cảm giác mình đang thiếu đi một thứ quan trọng nào đó. Giống như với tình dục, khi mà ta... Gượm đã, đừng nhắc đến nó nữa nhé. Trong mọi trường hợp, xem bóng chày trên Ti-vi cướp đi nhiệt huyết của tôi, sự phấn khích khi tim đập thình thịch của một trận đấu trực tiếp. Ít nhất đó là cách tôi cảm thấy. Dù rằng nếu tôi được yêu cầu tường trình lý do tại sao và bắt giải thích tất cả, thì tôi không chắc mình có thể trả lời được. Nói rõ hơn, tôi là một fan hâm mộ của đội Yakult Swallows. Tôi sẽ không nói rằng tôi là một người hâm mộ cuồng nhiệt, nhiệt thành, nhưng tôi tự nhận mình là một người ủng hộ khá trung thành. Ít nhất, tôi đã cổ vũ đội trong một thời gian dài. Tôi thường xuyên đến sân vận động Thần Cung từ khi đội được gọi là Sankei Atoms. Đó là lý do tại sao tôi sống gần sân vận động. Trên thực tế, điều đó vẫn đúng. Khi nói đến việc tìm kiếm nơi để sống ở Tokyo, điều kiện chính của tôi là căn hộ phải nằm trong khoảng cách đi bộ từ Sân vận động Thần Cung. Và, cũng chả có gì ngạc nhiên khi tôi cũng sở hữu những chiếc áo đấu và mũ bóng chày. Sân vận động thần cung từ lâu đã trở thành một công viên bóng yên bình, khiêm tốn, không phải là loại sân vận động thiết lập bất kỳ kỷ lục tham dự nào. Ý tôi muốn nói là nơi này hầu như lúc nào cũng hơi vắng vẻ. Trừ những dịp hiếm hoi, nó không bao giờ được bán hết và tôi luôn có thể mua được vé. Ý nghĩa về “những dịp hiếm Tập thơ Yakult Swallows


86 HARUKI MURAKAMI hoi” như khi đi dạo vào ban đêm và gặp nguyệt thực, hoặc bắt gặp một con mèo tam thể đực thân thiện ở công viên lân cận, khả năng hãn hữu xảy ra tương đương với những lần xuất hiện đó. Nhưng thành thật mà nói, tôi cảm thấy thích thú vì dân cư thưa thớt như thế nào. Tôi luôn không thích đám đông, ngay từ khi còn nhỏ. Tôi không có ý ám chỉ rằng lý do tôi trở thành một người hâm mộ của Yakult Swallows là sân vận động khá vắng vẻ. Tôi sẽ cảm thấy tiếc cho đội nếu tôi nói điều gì đó như vậy. Sân vận động Thần Cung tội nghiệp. Và nơi người hâm mộ của đội khách ngồi dường như luôn lấp đầy nhanh hơn khu vực của người hâm mộ Yakult Swallows. Bạn có thể tìm kiếm trên toàn thế giới và tôi nghi ngờ bạn sẽ tìm thấy một sân vận động bóng chày khác có trường hợp đó. Vậy tại sao tôi lại trở thành fan của đội đó? Con đường dài và quanh co nào đã đưa tôi trở thành người hâm mộ lâu năm của Swallows? Tôi đã vượt qua loại thiên hà nào để tạo ra ngôi sao phù du, mờ ảo đó, ngôi sao khó xác định nhất trên bầu trời đêm, ngôi sao may mắn của riêng tôi? Đó là một câu chuyện dài, nhưng trong hoàn cảnh đó có lẽ tôi nên đề cập đến nó. Ai biết được, nhưng nó có thể trở thành một loại tự truyện ngắn gọn. Tôi sinh ra ở Kyoto, nhưng chúng tôi nhanh chóng chuyển đến khu vực Kansai Kobe, nơi tôi sống cho đến khi tôi mười tám tuổi, đầu tiên ở Shukugawa, và sau đó là Ashiya. Khi rảnh rỗi, tôi đạp xe hoặc đôi khi đi bằng tuyến đường sắt Hanshin để xem một trận đấu tại Sân vận động Koshien, sân nhà của Những chú hổ Hanshin. Tôi, khi còn là một học sinh tiểu học, đương nhiên là thành viên của Câu lạc bộ người hâm mộ Những chú hổ Hanshin. (Nếu không chịu thì sẽ bị bắt nạt ở trường!) Tôi không quan tâm mọi người nói gì, chứ Koshien vẫn là sân vận động đẹp nhất ở Nhật Bản. Quay lại thời gian khi tôi còn là một cậu bé, tôi sẽ vội vã đến sân vận động với tấm vé trên tay, băng qua lối vào có cây thường xuân và đi nhanh qua những bậc thang bê tông thiếu ánh sáng. Và khi bãi cỏ tự nhiên của khu ngoại ô lấp ló trong tầm mắt, và đại dương xanh rực rỡ trải rộng trước mặt tôi, trái tim nhỏ bé của tôi đập rộn ràng vì phấn khích, vì tất cả thế giới như thể một nhóm người lùn sống động đang nhảy bungee, nhảy vào bên trong chiếc xương sườn nhỏ bé của tôi. Trên sân, như có một mạch truyện sắp được diễn ra, giữa vô số tiếng reo hò, dấu hiệu và tiếng khóc tức giận đã sẵn sàng và chờ đợi: Các cầu thủ khởi động, đồng phục của họ vẫn lấp lánh sạch sẽ, âm vang hạnh phúc của màu trắng tinh khôi, bóng chạm vào vị trí ngọt ngào của gậy khi các cầu thủ thay thế sân, tiếng rao quyết tâm của những người bán hàng rong bán bia, bảng điểm mới trước khi trận đấu bắt đầu. Vâng, đó là cách, không có chỗ cho bất kỳ nghi ngờ nào đó là cách mà bóng chày, và việc đến sân vận động, đã trở thành một phần không thể thiếu của tôi. Vì vậy, vào năm mười tám tuổi khi tôi rời khu vực Kansai - Kobe để đi học đại học ở Tokyo, tôi đã quyết định, giống như đó là điều tự nhiên nhất, đến sân vận động


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 87 Thần Cung và bắt nguồn cho Sankei Atoms. Đây là sân vận động gần nhất với nơi tôi đang theo học, vì vậy tôi có thể cổ vũ cho đội nhà - đối với tôi đó là cách tốt nhất để xem bóng chày. Mặc dù nói một cách chính xác, sân vận động Korakuen, sân nhà của đội Giants Tokyo hồi đó, gần hơn một chút so với địa điểm cách biệt của tôi... nhưng không đời nào tôi đến đó được. Ý tôi là, ta phải duy trì những tiêu chuẩn đạo đức nhất định. Đó là vào năm 1968. Nhóm The Folk Crusaders đã gây được tiếng vang lớn khi đó cùng với bài hát “Chúng ta chỉ sống hai lần”, đó là năm Martin Luther King và Robert Kennedy bị ám sát, và có các cuộc biểu tình của sinh viên vào Ngày Chống Chiến tranh xảy ra ở ga Shinjuku. Tóm lại tất cả những sự kiện này khiến nó giống như lịch sử cổ đại, nhưng dù sao đi nữa, đó là năm tôi quyết định, “Được rồi, mình sẽ trở thành một người hâm mộ của Sankei Atoms từ bây giờ.” Như dấu hiệu logic chiêm tinh, nhóm máu, lời tiên tri hoặc một câu thần chú. Nếu bạn có một biểu đồ về niên đại lịch sử, tôi muốn bạn viết như sau, bằng chữ nhỏ ở một góc năm 1968. Đây là năm Haruki Murakami trở thành một người hâm mộ của Sankei Atoms. Tôi sẵn sàng tuyên thệ điều này trước mọi vị thần linh trên thế giới, nhưng vào thời điểm đó, Sankei Antoms đã bị phân rã. Họ không có một cầu thủ ngôi sao nào, toàn đội rõ ràng là hầu như không tập luyện, và hầu như không có người hâm mộ ở sân vận động, ngoại trừ khi họ thi đấu với Giants. Để sử dụng một thuật ngữ cổ của Nhật Bản, “Con cu đen đang kêu”, nghĩa là nơi này vắng như Chùa Bà Đanh. Hồi đó tôi thường nghĩ rằng linh vật của đội không nên là nhân vật anime Astro Boy (Atom tay sắt, trong nguyên tác) mà thay vào đó nên là một con chim cu đen. Mặc dù chính xác thì loại chim cu gáy đó trông như thế nào, tôi không thể nói cho bạn biết. Đây là thời đại mà Tokyo Giants, dưới quyền quản lý của họ, Tetsuharu Kawakami, cai trị. Sân nhà của họ, sân vận động Korakuen, luôn trong tình trạng cháy vé. Chủ sở hữu công ty của họ, tập đoàn báo Yomiuri Shimbun, đã sử dụng vé trận đấu như một chiến lược bán hàng chính và làm việc chăm chỉ để tăng doanh số bán báo. Sadaharu Oh và Shigeo Nagashima của Giants là những anh hùng dân tộc. Tôi đi ngang qua những đứa trẻ trên phố, chúng tự hào đội chiếc mũ bóng chày Giants của chúng. Nhưng tìm cho ra một đứa trẻ đội mũ Sankei Atoms thì không thấy đâu cả. Có lẽ những người dũng cảm đội thứ đó đã được nhìn thấy lén lút len lỏi xuống những con hẻm sau, náu mình dưới mái hiên. Chúa ơi, nơi nào còn công lý trên thế giới này? Năm 1978, khi đội giành chức vô địch đầu tiên, tôi đang sống ở Sendagaya, cách sân vận động 10 phút đi bộ, vì vậy tôi đi xem trò chơi bất cứ khi nào tôi rảnh. Năm đó Yakult Swallows (sau đó họ đổi tên thành Yakult Swallows) đã giành chức vô địch giải đấu đầu tiên trong lịch sử hai mươi chín năm của nhượng quyền thương mại, và chèo lái làn sóng đó đến chiến thắng tại Japan Series. Chắc chắn là một năm kỳ diệu vãi. Đó cũng là năm (tôi hai mươi chín tuổi) tôi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên


88 HARUKI MURAKAMI của mình, tựa đề “Lắng nghe gió hát” tác phẩm đoạt giải Người mới của Gunzo. Tôi cho rằng bắt đầu từ lúc đó là khi bạn có thể gọi tôi là một tiểu thuyết gia. Tôi biết đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng tôi không thể không cảm thấy có một mối liên hệ nào đó, một số nghiệp lực, trong công việc trong tất cả những điều này. Nhưng tất cả điều này đã xảy ra sau đó. Trong mười năm dẫn đến thời điểm ấy, từ năm 1968 đến năm 1977, tôi đã chứng kiến một con số khổng lồ, một con số gần như thiên văn (ít nhất đó là cảm giác của nó), về việc thua trận. Nói một cách khác, tôi đã dần quen với việc thua cuộc thường xuyên: “Chúng ta lại đi tiếp, một trận thua nữa.” Giống như một người thợ lặn cẩn thận dành thời gian của mình để thích nghi với áp lực nước khác nhau. Đúng là cuộc sống mang đến cho chúng ta nhiều thất bại hơn là chiến thắng. Và thực tế, cuộc sống khôn ngoan nảy sinh không quá nhiều từ việc biết chúng ta có thể đánh bại ai đó như thế nào mà từ việc học cách chấp nhận thất bại một cách duyên dáng. “Các anh sẽ không bao giờ hiểu được ích lợi mà chúng ta đã nhận!” Tôi thường hét lên trước giây phút cổ vũ của Giants Tokyo Bài thơ đầu tiên trong bộ sưu tập của tôi là bài thơ sau đây. Có hai phiên bản của bài thơ, một phiên bản ngắn và một phiên bản dài, và đây là phiên bản dài. Tôi đã thêm thắt một vài câu sau đó. “Phòng ngự cánh phải Vào chiều tháng 5 đó Bạn đang giữ chốt ngay sân tại Sân vận động Thần Cung Phòng ngự cánh phải cho đội Sankei Antoms Đó là nghề của bạn Tôi ngồi ở hàng ghế cuối sân bên phải uống bia hơi ấm Như mọi khi Người đánh bóng của đội đối phương bay sang sân phải Một cú bay đơn giản Nó ở trên cao, một quả bóng bay lười biếng Gió đã tạnh Và mặt trời không phải là một vấn đề Quả là tuyệt tác Bạn giơ cả hai tay lên một chút, và bước về phía trước khoảng ba thước Bạn hiểu rồi đấy Tôi nhấp một ngụm bia Chờ bóng buông Thẳng như một cái thước, quả bóng rơi chính xác ba thước sau bạn Giống như một cái vồ gõ nhẹ vào rìa vũ trụ Có một tiếng động nhẹ


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 89 Khiến tôi tự hỏi Tại sao tôi lại cổ vũ cho một đội như thế này? Quả là một loại bí ẩn khổng lồ như vũ trụ.” Tôi không biết liệu đây có thể được gọi là một bài thơ hay không. Nếu bạn gọi vậy, nó có thể làm cho các nhà thơ thực sự khó chịu, khiến họ muốn trói tôi vào cột đèn gần nhất. Tôi sẽ cho qua vậy, cảm ơn bạn rất nhiều. Được rồi, nhưng sau đó tôi nên gọi những thứ này là gì? Nếu có một cái tên hay hơn, thì tôi muốn biết. Vì vậy, hiện tại, ít nhất, tôi đã dán nhãn chúng là “những bài thơ.” Và tôi đã tập hợp những bài thơ của mình thành một cuốn sách có tên là Tuyển tập thơ Yakult Swallows và xuất bản nó. Nếu các nhà thơ muốn có được tất cả các phiên bản của nó, thì hãy là khách của tôi. Đó là vào năm 1982. Một chút trước khi tôi viết xong cuốn tiểu thuyết “Cuộc săn cừu hoang”, ba năm sau khi tôi ra mắt với tư cách là một tiểu thuyết gia (nếu bạn có thể gọi nó như vậy). Tất nhiên, các nhà xuất bản lớn đã đủ khôn ngoan, họ không hề tỏ ra thích thú với việc xuất bản tập thơ của tôi, vì vậy về cơ bản tôi đã tự xuất bản nó. May mắn thay, một người bạn của tôi điều hành một công ty in ấn, vì vậy tôi có thể in nó với giá rẻ. Đóng bìa đơn giản, năm trăm bản được đánh số thứ tự, mỗi bản đều có chữ ký thực, Haruki Murakami, Haruki Murakami, Haruki Murakami... Tuy nhiên, có thể đoán trước được, chẳng mấy ai chú ý đến. Bạn phải có một sở thích khá kỳ quặc mới có thể kiếm được nhiều tiền cho những thứ như vậy. Tôi nghĩ rằng tôi đã bán được khoảng ba trăm bản, như đã nói. Phần còn lại tôi tặng làm quà lưu niệm cho nhiều bạn bè và người quen. Ngày nay, chúng đã trở thành những món đồ có giá trị của các nhà sưu tập và nhận được những mức giá không tưởng. Bạn không bao giờ biết điều gì sẽ xảy ra. Bản thân tôi chỉ giữ có hai bản. Giá như tôi giữ nhiều hơn, có khi bây giờ tôi sẽ lăn trong cả đống tiền cũng nên. Sau tang lễ của cha tôi, ba người anh em họ của tôi và tôi đã cùng ngồi uống bia. Hai người anh họ của tôi ở bên cha tôi (cùng tuổi với tôi), và người thứ ba là anh họ bên mẹ tôi (trẻ hơn tôi cỡ mười lăm tuổi). Chúng tôi ngồi quây quần đến tận khuya, từ ừng ực những cốc bia. Bia là tất cả những gì chúng tôi đã uống. Và cũng không có đồ ăn nhẹ. Chỉ là một trận uống hết lon này đến lon khác. Tôi chưa bao giờ uống nhiều bia như vậy trong đời. Cuối cùng, khoảng hai mươi trong số những chai bia Kirin lớn, nặng cả tạ đã trống rỗng trên bàn. Làm thế nào mà bàng quang của tôi chứa nổi, tôi cũng không biết. Trên hết, sau khi chúng tôi uống hết đám bia này, tôi còn bước ra một quán bar nhạc Jazz gần nhà tang lễ và thưởng thức vài ly whisky Four Roses trên đá. Tôi không biết tại sao tôi đã uống rất nhiều đêm đó. Nó không giống như tôi cảm thấy bất kỳ cảm xúc sâu sắc hay bất cứ điều gì, tôi không cảm thấy đặc biệt buồn hay


90 HARUKI MURAKAMI trống rỗng. Dù uống bao nhiêu, tôi vẫn không say, và ngày hôm sau, tôi thậm chí còn không có một chút nôn nao. Trên thực tế, khi tôi thức dậy vào sáng hôm sau, đầu óc tôi sắc bén hơn bình thường. Cha tôi là một người hâm mộ Hanshin Tigers thuần chất. Khi tôi còn là một đứa trẻ, cha tôi rất hay cáu kỉnh mỗi khi Tigers thua. Ngay cả nét mặt của ông ấy cũng sẽ thay đổi. Và nếu ông có bất cứ thứ gì để uống, xu hướng này thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn. Vì vậy, vào những đêm sau khi Hanshin Tigers thua cuộc, tôi phải hết sức cẩn thận để không làm bất cứ điều gì khiến ông ấy khó chịu. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi không, hoặc không bao giờ có thể trở thành một người hâm mộ đội Hanshin Tigers. Mối quan hệ của tôi với cha tôi không thể gọi là thân thiện. Có rất nhiều lý do giải thích cho điều này, nhưng trong 20 năm trước khi căn bệnh tiểu đường trầm trọng và căn bệnh ung thư di căn khắp cơ thể đã chấm dứt cuộc đời của ông ở tuổi chín mươi, tôi và cha tôi hầu như không trao đổi với nhau một lời nào. Ta không bao giờ có thể dán nhãn đó là “mối quan hệ thân thiện.” Vào cuối cuộc đời của ông ấy, chúng tôi đã có một mối quan hệ hòa giải, mặc dù có lẽ đã quá muộn. Nhưng tất nhiên tôi có một số kỷ niệm tuyệt vời. Khi tôi chín tuổi, vào mùa thu, St. Louis Cardinals đã chơi một trận đấu thiện chí với một đội All-Star Nhật Bản. Stan Musial vĩ đại khi đó đang ở đỉnh cao phong độ, và anh ấy đã phải đối mặt với hai tay ném bóng hàng đầu Nhật Bản, Kazuhisa Inao và Tadashi Sugiura, trong một trận đấu đáng kinh ngạc. Tôi và bố đã đến sân vận động Koshien để xem trận đấu. Chúng tôi ngồi ở hàng ghế nội khu dọc theo căn cứ đầu tiên, gần phía trước. Trước khi trận đấu bắt đầu, các cầu thủ của Cardinals đã đi một vòng quanh sân vận động, tung những quả bóng cao su mềm có chữ ký cho đám đông. Mọi người đứng dậy, hò hét, tranh giành lấy những quả bóng. Nhưng tôi chỉ ngồi vào chỗ của mình, trống rỗng quan sát tất cả những điều này xảy ra. Tôi nghĩ rằng một đứa trẻ nhỏ như tôi không có cơ hội nhận được một trong những quả bóng có chữ ký đó. Tuy nhiên, ngay sau đó, tôi đột nhiên tìm thấy một trong số chúng trong lòng mình. Thật tình cờ, nó chỉ tình cờ hạ cánh ở đó. Plop - giống như một sự mặc khải thần thánh nào đó. “Con may mắn lắm đấy,” cha tôi nói với tôi. Giọng nghe có vẻ nửa sửng sốt, nửa thán phục. Nhớ lại thì, khi tôi trở thành một tiểu thuyết gia ở tuổi ba mươi, ông ấy cũng nói điều tương tự với tôi. Một nửa bàng hoàng, một nửa ngưỡng mộ. Đó có lẽ là điều tuyệt vời nhất, đáng nhớ nhất đã xảy ra với tôi khi tôi còn là một cậu bé. Có lẽ đây là sự kiện may mắn nhất mà tôi từng trải qua. Có lẽ nào tình yêu của tôi dành cho sân vận động bóng chày lại nảy nở từ sự cố này? Tất nhiên, tôi đã mang quả bóng trắng quý giá đó về nhà, nhưng đó là tất cả những gì tôi nhớ về nó. Điều gì đã xảy ra với quả bóng đó? Nó có thể đã đi đâu?


91 “Plop” Thật tình cờ, nó chỉ tình cờ hạ cánh ở đó. giống như một sự mặc khải thần thánh nào đó.


92 HARUKI MURAKAMI Tôi cũng bao gồm bài thơ sau đây trong Tuyển tập thơ của Yakult Swallows. Tôi tin rằng tôi đã viết lại nó khi Osamu Mihara đã phụ trách đội với tư cách là trụ cột của họ. Đây là thời kỳ mà tôi có những kỷ niệm sống động và khó quên nhất, vì bất cứ lý do gì. Hồi đó tôi luôn bị kích động để ra sân thi đấu, chắc chắn rằng điều gì đó vui vẻ và bất ngờ sẽ xảy ra. “Bóng chim Một trò chơi vào buổi chiều vào đầu mùa hè Đầu thứ tám The Swallows thua 9-1 (hoặc tương tự như vậy) Người ném bóng thứ sáu của họ (hoặc thứ gì đó tương tự), một người mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến Đang khởi động Ngay vào khoảnh khắc ấy Cái bóng rõ ràng như cắt của một con chim Chạy nhanh từ căn cứ đầu tiên Qua bãi cỏ xanh đến chỗ người điều khiển trung tâm đang đứng Tôi nhìn lên bầu trời Nhưng không thấy con chim Chỗ Mặt trời quá sáng Tất cả những gì tôi thấy là một cái bóng, giống như một vết cắt đen, rơi trên cỏ. Một cái bóng hình con chim. Đây có phải là một điềm báo may mắn? Hay một điều không may mắn? Tôi đã suy nghĩ nghiêm túc về nó, nhưng ngay sau đó tôi lắc đầu Thôi nào, khép cửa đi Làm sao lại có điềm may mắn ở một nơi như thế này?” Khi trí nhớ của mẹ tôi bắt đầu lung lạc, và bà không thể sống một mình được nữa, tôi quay trở lại nhà bà ở Kansai để chuẩn bị cho bà ấy dọn đi. Tôi không thể tin rằng tất cả những thứ hổ lốn, ít nhất, đó là cách mà nó có vẻ như đối với tôi, mà bà ấy đã cất trong hộp. Bà đã mua một lượng đồ không thể tưởng tượng được vì những lý do mà tôi không thể hiểu được. Ví dụ, một hộp kẹo rỗng được nhét đầy thẻ. Chủ yếu là thẻ điện thoại, loại mà mọi người từng sử dụng cho điện thoại trả tiền trước, với một số thẻ đường sắt trả trước cho Hanshin hoặc Hankyu Railways được trộn lẫn vào. Tất cả các thẻ đều có ảnh của các cầu thủ Tigers - Kanemoto, Imaoka, Yano, Akahoshi, Fujikaw... Thẻ điện thoại ư? Này, giữa cái thời đại này, bạn phải sử dụng thẻ điện thoại ở đâu cơ chứ? Tôi không đếm hết, nhưng chắc phải hơn một trăm cái. Tôi không tài nào hiểu được. Theo những gì tôi biết, mẹ tôi không có hứng thú với bóng chày. Tuy nhiên, rõ ràng bà là người đã mua tất cả những tấm thẻ đó. Chúng đều làm từ nhựa cứng.


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 93 Có phải bà đã trở thành một fan cuồng của đội Hanshin Tigers trước khi tôi nhận ra không? Đối với tất cả những điều đó, bà thẳng thừng phủ nhận việc từng mua quá nhiều thẻ điện thoại Hanshin Tigers. “Anh đang nói về cái gì vậy?” Bà nói. “Mẹ sẽ không bao giờ mua những thứ đó. Hãy hỏi cha anh ấy, ông ấy sẽ biết.” Vậy tôi phải làm gì đây? Cha tôi đã mất trước đó ba năm rồi. Kết quả là, mặc dù tôi có điện thoại di động, nhưng tôi đã đi khắp nơi, tìm kiếm những chiếc bốt điện thoại công cộng hiếm hoi, cố gắng sử dụng hết số thẻ điện thoại Hanshin Tigers này. Nhờ đó, tôi đã biết khá rõ tên các cầu thủ của họ, mặc dù hầu hết những người trong thẻ hiện đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển sang các đội khác. Những con hổ Hanshin. Những chú hổ từng có một cầu thủ tên là Mike Reinbach, một tiền vệ, một chàng trai tốt bụng, có tinh thần cao. Tôi đã viết một bài thơ trong đó anh ấy được đóng vai phụ. Reinbach bằng tuổi tôi. Anhy mất trong một vụ tai nạn xe hơi ở Mỹ năm 1989. Năm 1989, tôi sống ở Rome, viết một cuốn tiểu thuyết dài. Vì vậy, tôi đã không biết về cái chết của anh ấy, ở tuổi ba mươi chín, trong một thời gian khá dài. Báo Ý, như bạn có thể tưởng tượng, sẽ không đưa tin về cái chết của một cựu tiền vệ đội Hanshin Tigers. Đây là bài thơ tôi đã viết. “Những cặp mông của cầu thủ ngoài trời Lenjoy nhìn chằm chằm vào mông của những người ngoài cuộc Ý tôi là, khi tôi đang xem một trận đấu chậm, thua từ hàng ghế ngoài sân một mình, tôi có thể thích thú bằng cách nào khác ngoài việc nhìn chằm chằm vào những cú húc của những người ngoài sân? Nếu có một số cách khác, tôi chắc chắn muốn biết Tôi có thể nói chuyện suốt đêm Về cái mông của những người ngoài hành tinh Cánh tay trung tâm của The Swallows, John Scott, mông của anh đẹp không thể so được Đôi chân của anh ấy dài một cách kỳ lạ Và trông như thể chúng đang lơ lửng trên không Giống như một ẩn dụ táo bạo khiến trái tim bạn hát So với điều này, chân của tay đấm trái, Wakamatsu, cực kỳ ngắn Khi hai người chơi đứng cùng nhau, mông của Scott ngang với cằm của Wakamatsu Tigers ‘Reinbach có một cái mông đối xứng đến mức bạn không thể không yêu nó Chỉ cần một cái nhìn và tất cả đều có ý nghĩa Cái mông của cầu thủ Shane của đội Hiroshima Carp Phản xạ, bạn có thể nói thế


94 HARUKI MURAKAMI Mọi người thực sự nên gọi anh ấy bằng tên đầy đủ của anh ấy, Scheinblum Nếu không có gì khác, thì hãy thể hiện sự tôn trọng đối với một cặp mông tốt bụng Tôi sắp liệt kê Tên của những cầu thủ có cặp mông Không phải là những gì bạn gọi là hấp dẫn Nhưng tôi quyết định rằng tốt hơn là không Rốt cuộc, bạn phải xem xét mẹ và anh chị em của họ, cả vợ Và những đứa trẻ, nếu họ có con” Như một người hâm mộ của Yakult, tôi đã từng xem một trận đấu của Hanshin Tigers vs. Swallows tại Sân vận động Koshien, sân vận động sân nhà của Những Chú Hổ. Tôi tình cờ có một việc lặt vặt đến Kobe và cả buổi chiều rảnh rỗi. Tôi đã nhìn thấy một tấm áp phích ở ga Hanshin Sannomiya quảng cáo một trận đấu trong ngày tại Sân vận động Koshien và quyết định rằng đã quá lâu kể từ chuyến thăm cuối cùng của tôi đến Koshien. Thực tế là đã hơn ba mươi năm. Katsuya Nomura là quản lý của Swallows hồi đó. Đó là khi những cầu thủ như Furuta, Ikeyama, Miyamoto và Inaba đang ở đỉnh cao phong độ (thời điểm hạnh phúc của cả đội, giờ tôi nghĩ lại). Vì vậy, theo lẽ tự nhiên, bài thơ sau đây không có trong thơ gốc của Yakult Swallows Collection. Tôi đã viết nó rất lâu sau khi bộ sưu tập đó được xuất bản. Tôi không có bút hay bất kỳ tờ giấy nào trong người ngày hôm đó, vì vậy ngay khi trở về khách sạn, tôi đã sử dụng đám văn phòng phẩm trong phòng để viết láu (đại loại) bài thơ này. Tôi e rằng bạn có thể gọi nó là một bản ghi nhớ tình cờ dưới dạng một bài thơ. Ngăn bàn của tôi chứa đầy những mảnh giấy ghi nhớ và những mẩu giấy viết như thế. Chúng không thực sự phục vụ nhiều mục đích, nhưng tôi vẫn giữ chúng. “Một ốc đảo trong dòng hải lưu Chiều mùa hè đó tôi tìm kiếm phần dành cho những người hâm mộ Yakult Swallows Ở khán đài bên trái sân vận động Koshien Phải mất một thời gian dài để tìm thấy nó vì khu vực cho những người hâm mộ Yakult là một khu vực nhỏ chỉ có năm thước vuông Xung quanh, ở mọi phía, đều là những người hâm mộ Tigers Nó làm tôi nhớ đến bộ phim Fort Apache của John Ford Đội kỵ binh nhỏ do Henry Fonda cố chấp dẫn đầu được bao quanh bởi một khối lượng lớn người da đỏ phủ kín mặt đất Các kỵ binh bị dồn, lùi vào tường Như một hòn đảo nhỏ trong dòng hải lưu


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 95 Họ đã dũng cảm giương cao ngọn cờ duy nhất giữa mình Bây giờ tôi nghĩ lại, khi tôi còn học tiểu học tôi đã ngồi trên chính những chiếc ghế này, xem Sadaharu Oh, một học sinh trung học khi đó, chơi bóng Đây là giải đấu bóng chày trung học toàn quốc mùa xuân Khi trường của anh, trường trung học Waseda Jitsugyo, đã giành chiến thắng Anh ấy là ngôi sao của họ, đứng thứ tư Ký ức về ngày hôm đó rất rõ ràng trong tâm trí tôi Như thể đang quan sát nó từ một chiếc kính viễn vọng lạc hậu. Thật xa, nhưng thật gần Và ngay bây giờ tôi đang bị bao quanh bởi những người da đỏ hung dữ trong những tấm hình sao Và dưới lá cờ của Yakult Swallows, tôi nâng cao sự cổ vũ bất bình của mình Tôi đã xa quê hương đã lâu, và tim tôi đau nhói ở đây Trên hòn đảo nhỏ bé, đơn độc giữa dòng hải lưu” Nhưng dù nói thế nào, trong tất cả các sân vận động bóng chày trên thế giới, tôi vẫn thích nhất là ở Sân vận động Thần Cung. Ở ghế trong sân phía sau khu đầu tiên, hoặc ở khán đài bên phải. Tôi yêu tất cả âm thanh, mùi vị, cách tôi có thể ngồi ở đó, chỉ nhìn chằm chằm vào bầu trời. Tôi thích làn gió nhẹ vuốt ve làn da của mình, tôi thích nhâm nhi ly bia lạnh, quan sát những người xung quanh. Dù đội thắng hay thua, tôi vẫn sẽ yêu quý họ nhất thời gian ở đó. Tất nhiên, chiến thắng sẽ tốt hơn nhiều so với thua rồi. Miễn tranh luận. Nhưng thắng thua không ảnh hưởng đến sức nặng và giá trị của thời gian. Đó là thời gian, một trong hai cách. Một phút là một phút, một giờ là một giờ. Chúng ta cần phải trân trọng nó. Chúng ta cần khéo léo dung hòa bản thân với thời gian và để lại càng nhiều kỷ niệm quý giá càng tốt, đó mới là điều quý giá nhất. Điều đầu tiên tôi thích làm khi ngồi vào chỗ ngồi của mình tại sân vận động là uống một cốc bia đen, bia đen Stout. Nhưng không có nhiều người bán bia đen tại sân vận động. Phải mất thời gian để xác định vị trí của họ. Cuối cùng khi tôi xác định được vị trí, tôi giơ tay và gọi. Người bán hàng bèn đi đến chỗ tôi. Một thanh niên gầy, nom thiếu dinh dưỡng. Chú ta có mái tóc dài màu trắng, có lẽ là một học sinh trung học đang làm công việc này như một công việc bán thời gian. Chú bé đến, và điều đầu tiên chú ta làm là xin lỗi. “Cháu xin lỗi, nhưng cháu chỉ có bia đen thôi ạ,” chú nói. “Không cần xin lỗi,” tôi nói, trấn an chú ta. “Ý bác là, bác đã đợi một người bán bia đen đi qua đây từ nãy giờ rồi.” “Cảm ơn bác”, chú chàng đáp. Và nở một nụ cười sảng khoái.


96 HARUKI MURAKAMI Tôi tưởng tượng chú bán hàng trẻ này sẽ phải xin lỗi rất nhiều người vào tối nay. “Tôi xin lỗi, nhưng tất cả những gì tôi có là bia đen”, vì hầu hết mọi người tại sân vận động đều muốn có rượu bia thường xuyên. Tôi trả tiền bia cho chú ấy và để lại cho chú một lời động viên nhỏ: “Chúc cháu may mắn! “ Khi tôi viết tiểu thuyết, tôi thường trải qua cảm giác giống như chàng trai trẻ đó. Tôi muốn đối mặt với mọi người trên thế giới và xin lỗi từng người. “Tôi xin lỗi, nhưng tất cả những gì tôi có chỉ là bia đen.” Nhưng dù sao thì chúng ta đừng đi sâu vào tiểu thuyết ở đây. Trận đấu tối nay sắp bắt đầu. Tôi đang cầu nguyện rằng đội của chúng tôi sẽ thắng. Nhưng đồng thời cũng lặng lẽ rèn luyện bản thân trước khả năng có thể thua thêm một trận nữa.


TẬP THƠ YAKULT SWALLOWS 97 Tôi muốn đối mặt với mọi người trên thế giới và xin lỗi từng người. “Tôi xin lỗi, nhưng tất cả những gì tôi có chỉ là bia đen.” Khi tôi viết tiểu thuyết, tôi thường trải qua cảm giác giống như chàng trai trẻ đó.


CARNAVAL 99 Trong tất cả những người đàn bà mà tôi quen cho đến nay, cô là người xấu xí nhất. Nói như thế cũng không công bằng cho lắm, vì tôi biết nhiều người có ngoại hình còn xấu hơn. Thế nhưng tôi dám cam đoan, khi nói rằng trong số những người phụ nữ tôi đã gần gũi trong cuộc đời mình, cô ấy thật tình là người xấu nhất. Dĩ nhiên tôi có thể dùng lối nói uyển chuyển hơn, và tả cô “không được xinh cho lắm” thay vì “xấu”, như thế sẽ dễ chịu hơn cho người đọc, nhất là các bạn độc giả nữ, có thể chấp nhận được. Nhưng tôi đã quyết định sử dụng thuật ngữ thẳng thắn (và hơi tàn nhẫn) ở đây, vì điều này sẽ nắm bắt được rõ ràng hơn bản sắc của cô ấy. Tôi sẽ gọi cô nàng là F*. Có vài lý do để không thể tiết lộ tên thật của cô ấy ra. Trùng hợp là, tên của cô cũng không dính dáng gì đến chữ F hay dấu hoa thị cả. Có lẽ F* sẽ đọc được câu chuyện này ở đâu đó. Dù cho cô vẫn hay nói với tôi rằng cô chỉ quan tâm đến mấy bà tác giả nữ còn sống thôi, nhưng không phải là không có cơ hội để cô ấy bắt gặp những con chữ này. Và nếu cô ấy đọc được thật, thì cô sẽ nhận ra mình ở đây. Cho dù điều đó có xảy ra đi chăng nữa, tôi cũng nghi ngờ rằng câu nói “Trong tất cả những người đàn bà mà tôi quen cho đến nay, cô là người xấu xí nhất” của tôi sẽ khiến cô ấy phải bận lòng. Vì với tất cả những gì mà tôi biết, cô ấy thậm chí còn thấy điều đó thú vị cũng nên. Cô nàng mới chính là người ý thức hơn ai hết ngoại hình của mình chả có gì hấp dẫn, hay “xấu” như tôi đã từng nói trước đó, và thậm chí còn thoải mái sử dụng nó để mưu lợi cho mình. Carnaval


100 HARUKI MURAKAMI Tôi không tưởng tượng được có nhiều trường hợp như thế này. Trước hết, không có nhiều phụ nữ xấu mà lại ý thức là mình xấu, và những người tiếp tục hưởng thụ khoái cảm trong chính cái xấu của mình chắc chắn chỉ là một phần bé tí ti. Theo lý đó, tôi cho rằng cô nàng là độc nhất vô nhị. Và chính sự độc đáo ấy đã thu hút mọi người đến với cô. Giống như một thỏi nam châm hút tất cả kim loại về bản thân nó – một số hữu ích, còn lại vô giá trị. Nói về cái xấu cũng đồng nghĩa với nói về cái đẹp. Tôi có quen một vài người phụ nữ đẹp, típ phụ nữ mà mọi người sẽ luôn cảm thấy kiều diễm và cuốn hút. Thế nhưng đối với tôi những người phụ nữ xinh đẹp đó, ít nhất là hầu hết trong số họ, dường như không bao giờ có thể thực sự đạt được niềm vui vô điều kiện được trở nên lộng lẫy. Tôi nghĩ đấy là một loại kì lạ. Phụ nữ sinh ra đã xinh đẹp luôn là tâm điểm chú ý của cánh đàn ông. Những người phụ nữ khác ghen tị với họ, còn họ thì được săn đón vô hồi kết. Mọi người trao cho họ những món quà đắt đỏ và họ có quyền lựa chọn đàn ông. Vậy tại sao họ không có vẻ hạnh phúc hơn? Vì cớ gì đôi khi họ thậm chí còn có vẻ chán nản? Những gì tôi quan sát được là hầu hết những phụ nữ xinh đẹp khác mà tôi biết đều không hài lòng, và bị kích thích bởi những khuyết điểm vụn vặt vớ vẩn nhất, kiểu mà chắc chắn có thể tìm thấy ở đâu đó trong lớp trang điểm cơ thể của bất kỳ người nào. Họ ám ảnh về những chi tiết nhỏ này. Ngón chân cái của họ quá to, hay móng tay của họ lệch tâm một cách kỳ cục, hoặc núm vú không có cùng kích cỡ. Một người phụ nữ quý phái tôi quen còn tin rằng dái tai của cô ấy quá dài và luôn để tóc dài để che đi. Tôi không quan tâm nhiều đến độ dài dái tai của ai đó (cô ấy đã cho tôi xem dái tai của mình một lần và chúng tạo cho tôi cảm giác vô cùng vừa vặn, bình thường). Tuy nhiên, có thể tất cả những thứ về đôi dái tai này chỉ là một sự thay thế, một cách thể hiện điều gì đó khác. So với những người phụ nữ này, chẳng phải một người phụ nữ không xinh đẹp - thậm chí còn bị coi là xấu xí - nhưng lại tận hưởng sự thật đó, là một người hạnh phúc hơn nhiều sao? Bất kể một người phụ nữ có kiều diễm đến đâu, cô ấy vẫn luôn có những điểm không hoàn hảo, và tương tự như vậy, cho dù một người phụ nữ có thể xấu xí đến dường nào, vẫn luôn tồn tại một phần đẹp đẽ của nàng. Và họ dường như tự do say sưa với phần đấy của mình, không giống như những người phụ nữ xinh đẹp. Nó không thay thế cho bất cứ thứ gì, hay một phép ẩn dụ nào. Điều này nghe có vẻ là một ý kiến tầm thường, nhưng thế giới có thể đảo lộn, tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn nhận nó. Cách một tia nắng chiếu vào thứ gì đó có thể thay đổi bóng râm thành ánh sáng, hoặc ánh sáng thành bóng râm. Một niềm tích cực trở thành một sự tiêu cực, tiêu cực đi song song với tích cực. Tôi không biết liệu đây có phải là một phần thiết yếu của cách thế giới hoạt động hay đơn giản chỉ là một ảo ảnh tối ưu. Nhưng theo cách đó, F* là một kiểu đánh lừa ánh sáng.


CARNAVAL 101 Một người bạn của tôi giới thiệu tôi với cô ấy lần đầu tiên. Khi ấy tôi mới ngoài ngũ tuần, còn cô trẻ hơn khoảng mười tuổi. Nhưng đối với cô, tuổi tác không quan trọng. Vẻ ngoài của cô ấy vượt qua mọi yếu tố cá nhân khác. Tuổi tác, chiều cao, hình dạng và kích cỡ của bộ ngực, chưa nói đến hình dạng móng chân to hay độ dài dái tai của một người, tất cả đều ảnh hưởng đến sự kém xinh một cách ngoạn mục của cô. Tôi đang tham dự một buổi hòa nhạc ở nhà hát Suntory thì tình cờ gặp một anh bạn của tôi đang uống rượu với F* trong thời gian tạm nghỉ. Một trong những bản giao hưởng của Mahler đã được trình diễn vào tối hôm đó (tôi quên mất bài nào rồi). Nửa đầu của chương trình có “Romeo và Juliet” của Prokofiev. Bạn tôi đã giới thiệu tôi với F*, cả ba chúng tôi uống một chút rượu và nói về âm nhạc của Prokofiev. Tất cả chúng tôi đều đến buổi hòa nhạc một mình và anh bạn tôi cũng tình cờ gặp cô ấy ở đó. Những người đi xem hòa nhạc luôn có chung một tinh thần đoàn kết, dù là nhỏ nhặt. Đương nhiên, khi tôi gặp F* lần đầu tiên tôi đã nghĩ rằng đây là một người phụ nữ xấu xí đến kỳ lạ. Tuy nhiên, cô ấy rất thân thiện và thẳng thắn với tôi, đến nỗi tôi cảm thấy xấu hổ trước phản ứng ban đầu của mình. Tôi không chắc phải diễn đạt chính xác như thế nào, nhưng khi chúng tôi trò chuyện, tôi đã quen với vẻ ngoài của cô ấy. Chúng dường như không còn quan trọng nữa. Cô là một người dễ mến, và rất có khiếu nói chuyện, có thể trò chuyện vô cùng thoải mái. Thêm vào đó là một đầu óc nhanh nhạy và gu âm nhạc tốt. Khi tiếng còi vang lên giữa khoảng thời gian tạm nghỉ, và sau đó lúc chúng tôi chào tạm biệt nhau, tôi đã nghĩ giá như cô ấy ưa nhìn hơn, hoặc ít nhất nếu ngoại hình của cô tốt hơn một chút, cô nhất định sẽ là một người phụ nữ rất hấp dẫn. Nhưng sau đó, tôi đã phải trả giá đắt để sáng mắt ra rằng suy nghĩ của mình nông cạn và hời hợt đến mức nào. Chính vì vẻ ngoài khác thường của cô mà cô có thể phát huy hiệu quả tính cách mạnh mẽ của mình - sức mạnh của cô trong việc thu hút mọi người, ta có thể nói như vậy. Ý tôi là, chính sự khác biệt giữa ngoại hình và sự trau chuốt của cô ấy đã tạo nên thương hiệu năng động đặc biệt của riêng cô. Và cô hoàn toàn nhận thức được sức mạnh đó, có thể sử dụng nó khi cần thiết. Tiếp đến, tôi không thể mô tả chính xác những gì về vẻ ngoài kém hấp dẫn của cô nàng. Cho dù tôi có cố gắng miêu tả về cô như thế nào đi chăng nữa, tôi sẽ không bao giờ có thể truyền tải cho người đọc những nét giống hệt về ngoại hình của cô được. Tuy nhiên, tôi có thể nói chắc chắn một điều: ta sẽ không thể xác định được bất cứ khiếm khuyết ở phần nào nơi cô. Vì vậy, nó không phải là kiểu, “Chà, phần này hơi dị, hoặc thẩm mỹ chỗ kia thì cô nàng sẽ nom xinh lên một tí.” Tuy nhiên, khi kết hợp tất cả chúng lại thì ta sẽ có được một vẻ xấu xí nguyên bản toàn diện (so sánh thế này hơi kì cục, nhưng quá trình ấy khiến tôi nhớ đến bức tranh “Sự ra đời của thần Vệ Nữ”.) Và ngay cả ngôn từ với logic cũng trở nên bất lực để giải thích được sự phối hợp này. Thậm chí, giả sử tôi có thể, nó vẫn sẽ khá vô nghĩa. Những gì chúng ta có là sự lựa chọn giữa hai phương án thay thế, và chỉ có hai mà thôi, hoặc là ta hoàn toàn chấp


Click to View FlipBook Version