The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Thái Uyên Vy, 2024-01-17 13:07:31

Ngôi thứ nhất số ít

Ngôi thứ nhất số ít

Keywords: Ngôi thứ nhất số ít

102 HARUKI MURAKAMI nhận, vô điều kiện, như một điều gì đó vốn dĩ thuộc về nó, hoặc chúng ta hoàn toàn bác bỏ. Giống như một cuộc chiến bất chấp và vô cảm. Trong phần mở đầu của tiểu thuyết “Anna Karenina”, Tolstoy đã viết, “Các gia đình hạnh phúc đều giống như nhau; còn mỗi gia đình không hạnh phúc đều bất hạnh theo cách riêng của nó” và tôi nghĩ điều này cũng áp dụng cho khuôn mặt của phụ nữ về phương diện đẹp hay xấu. Tôi tin rằng (và xin hãy hiểu điều này nghĩa là gì, chỉ là quan điểm cá nhân của tôi) người phụ nữ đẹp có thể được tóm gọn bằng cách đơn giản là “xinh đẹp.” Mỗi người trong số họ đang mang trên lưng một con khỉ lông vàng, xinh đẹp. Có thể có một chút khác biệt về độ bóng và bóng phủ trên bộ lông của chúng, nhưng vẻ rực rỡ mà chúng chia sẻ khiến tất cả chúng đều có vẻ giống nhau. Ngược lại, những người phụ nữ xấu xí mỗi người đều mang trong mình phiên bản khỉ lông xù của riêng họ. Có những khác biệt nhỏ nhưng đáng kể ở loài khỉ, như lông của chúng bị mòn như thế nào, bộ lông mỏng đi ở đâu, chúng bẩn đến mức nào. Không có sự sáng chói nào cả, vì vậy không giống như những con khỉ lông vàng, mắt chúng ta không bị lóa bởi chúng. Con khỉ mà F* mang trên lưng có nhiều biểu cảm khác nhau, và bộ lông của nó mặc dù không bao giờ lấp lánh hay tỏa sáng, là sự kết hợp của nhiều màu cùng một lúc. Ấn tượng của người ta về con khỉ đó thay đổi nghiêm túc thế nào tùy thuộc vào góc độ họ nhìn nó, cũng như thời tiết, gió, hướng, thời gian trong ngày. Nói cách khác, sự xấu xí từ các đặc điểm của cô ấy là kết quả của một lực duy nhất nén các phần tử kém hấp dẫn ở mọi hình dạng và kích cỡ, và tập hợp chúng lại với nhau ở một nơi. Và con khỉ của cô ấy đã lặng lẽ ngồi xuống, rất thoải mái và không ngại ngùng, trên lưng cô, như thể mọi nguyên nhân và kết quả có thể xảy ra đều bao trùm ở chính trung tâm của thế giới. Tôi đã nhận thức được tất cả những điều này, ở một mức độ nào đó, lần thứ hai tôi gặp F*, mặc dù chắc chắn vẫn không thể nói rõ được. Tôi biết sẽ mất một thời gian để hiểu được sự xấu xí của cô ấy, và làm như vậy sẽ cần đến trực giác, triết học, đạo đức và một chút kinh nghiệm thực tế. Và việc được dành thời gian với cô, ở một thời điểm nào đó, sẽ dẫn đến một loại cảm giác tự hào. Đó là niềm tự hào về sự thật rằng bằng cách nào đó chúng tôi đã xoay xở để nắm giữ được những trực giác cần thiết, ngôn ngữ, đạo đức và kinh nghiệm sống. Lần thứ hai tôi gặp cô cũng ở một phòng hòa nhạc. Là một địa điểm nhỏ hơn Suntory Hall. Đó là buổi hòa nhạc của một nữ nghệ sĩ vĩ cầm người Pháp. Theo trí nhớ của tôi, nàng đã chơi các bản sonata của Franck và Debussy. Nàng là một nghệ sĩ tuyệt vời, và những bản nhạc này là một phần tiết mục yêu thích của nàng, nhưng vào ngày đặc biệt đó, nàng đã không ở trạng thái tốt nhất. Tuy nhiên, hai bản nhạc của Kreisler mà nàng ta chơi cho một bản encore khá quyến rũ. Tôi đang ở bên ngoài phòng hòa nhạc, đợi taxi thì cô nàng gọi tôi từ phía sau.


CARNAVAL 103 Con khỉ mà F* mang trên lưng có nhiều biểu cảm khác nhau, và bộ lông của nó mặc dù không bao giờ lấp lánh hay tỏa sáng, là sự kết hợp của nhiều màu cùng một lúc. Ấn tượng của người ta về con khỉ đó thay đổi nghiêm túc thế nào tùy thuộc vào góc độ họ nhìn nó, cũng như thời tiết, gió, hướng, thời gian trong ngày.


104 HARUKI MURAKAMI Khi đó F* đang ở với một người bạn gái, một người bạn nhỏ nhắn, mảnh mai, xinh đẹp. Bản thân F* cũng khá cao, chỉ thấp hơn tôi một chút. “Em biết một nơi tuyệt vời ngay dưới phố,” cô nói. “Anh có muốn đi uống một ly rượu vang hay gì đó không?” Nghe hay đấy, tôi đã nói với cô ấy như thế. Đêm vẫn còn sớm, và tôi đã cảm thấy có một chút thất vọng kéo dài về buổi hòa nhạc nên muốn uống một, hai ly rượu vang và nói chuyện với ai đó về âm nhạc hay. Ba người chúng tôi ngồi xuống một quán rượu con ở một con phố nhỏ gần đó, gọi rượu và một số món ăn nhẹ, nhưng cô bạn dễ thương của cô ấy đã nhanh chóng đứng dậy để nhận một cuộc điện thoại. Một thành viên trong gia đình đã gọi điện cho biết rằng con mèo của cô ấy bị ốm. Vì vậy, sau đó chỉ có F* và tôi. Nhưng tôi đặc biệt không hề thất vọng, vì lúc này tôi đã bắt đầu quan tâm đến F*. Cô ấy có gu ăn mặc tuyệt vời và đang diện một chiếc váy lụa xanh rõ là hàng cao cấp. Đồ trang sức cô ấy đeo cũng rất hoàn hảo. Đơn giản thôi, nhưng là típ thu hút sự chú ý của người khác. Đó là lúc tôi nhận thấy cô đang đeo một chiếc nhẫn cưới. Cô và tôi đã nói về buổi hòa nhạc. Chúng tôi đồng ý rằng nghệ sĩ vĩ cầm đã không đạt đỉnh phong độ của mình hôm nay. Có thể cô ta không được khỏe, hoặc bị đau ở các ngón tay, hoặc có thể cô ta không hài lòng với căn phòng khách sạn mà mình được cung cấp. Nhưng chắc chắn có điều gì đó không ổn. Ta chắc chắn sẽ gặp phải những thứ đó khi ta tham gia các buổi hòa nhạc đủ thường xuyên. Chúng tôi chuyển sang nói về thể loại âm nhạc mà chúng tôi thích. Chúng tôi đều nhất trí rằng cả hai đều thích nhạc piano nhất. Tất nhiên chúng tôi đã nghe opera, giao hưởng và nhạc đệm, nhưng thứ thích nhất vẫn là nhạc độc tấu piano. Và kỳ lạ thay, có rất nhiều sự trùng hợp trong các tác phẩm yêu thích của chúng tôi. Không ai trong chúng tôi quá nhiệt tình với Chopin. Ít nhất đấy không phải là loại nhạc chúng tôi muốn nghe đầu tiên vào buổi sáng. Bản dương cầm của Mozart chắc chắn là rất đẹp đẽ và cuốn hút rồi, nhưng thật tình thì chúng tôi phát nản vì nó. Tác phẩm “The Well-Tempered Clavier” của Bach thật tuyệt vời, nhưng hơi quá dài để thực sự tập trung vào. Ta phải có một thể chất tốt để đánh giá đúng mức nó. m nhạc piano của Beethoven đôi khi khiến chúng tôi cảm thấy quá nghiêm trọng, và (chúng tôi tin rằng) nó đã được mổ xẻ đủ rồi, từ mọi góc độ có thể hình dung được. Nhạc piano của Brahms rất thú vị để thỉnh thoảng lắng nghe, nhưng sẽ rất mệt nếu phải nghe liên tục. Chưa kể nhiều quá thành nhàm. Và với Debussy và Ravel thì phải cẩn thận chọn thời gian và địa điểm để nghe họ, nếu không ta không thể đánh giá hết âm nhạc của họ. Không nghi ngờ gì nữa, chúng tôi quyết định, đỉnh cao của tiết mục piano là một số bản sonata của Schubert, và âm nhạc của Schumann. Trong tất cả những món đó, anh sẽ chọn cái nào?


CARNAVAL 105 Chỉ một thôi á? Đúng vậy, F* nói, chỉ một. Bản nhạc piano duy nhất anh sẽ mang theo khi đến một hoang đảo. Không phải là một câu hỏi dễ trả lời. Tôi đã phải suy nghĩ nghiêm túc về nó. Lễ hội Carnaval của Schumann, cuối cùng tôi đã tuyên bố. F* nheo mắt nhìn tôi một lúc. Sau đó, cô ấy đặt tay lên bàn, đan chúng vào nhau và bẻ các khớp ngón tay một cách lớn tiếng. Chính xác là mười lần. Ồn ào đến nỗi những người ở các bàn gần đó đã liếc sang phía chúng tôi. Đó là một âm thanh khó nghe, giống như tiếng búng một cái bánh mì ba ngày tuổi vào đầu gối của bạn. Không có nhiều người, dù là đàn ông hay phụ nữ, có thể bẻ khớp ngón tay của họ một cách ồn ào như vậy. Sau này tôi mới nghĩ ra, nhưng lớn tiếng bẻ khớp ngón tay của cô ấy mười lần là thói quen của cô ấy khi cô ấy phấn khích và say mê. Tuy nhiên, tôi không biết điều đó và tự hỏi liệu có điều gì đã làm cô ấy buồn. Có lẽ sự lựa chọn của tôi về “Carnaval” không phù hợp. Nhưng nó là vậy. Thực tế là tôi vẫn luôn luôn yêu thích tác phẩm ấy. Ngay cả khi điều đó khiến ai đó tức giận đến mức muốn đấm tôi, tôi vẫn sẽ không nói dối về điều đó. “Anh thực sự sẽ ra đảo hoang với bản “Carnaval?” ư?” Cô cau mày, giơ một ngón tay dài lên, đảm bảo mọi thứ. “Là duy nhất trong số tất cả các bản nhạc piano mà anh mang theo đến một hoang đảo?” Tôi không chắc lắm, nhất là bây giờ khi cô ấy nói điều này. Để duy trì sự ngẫu hứng trong âm nhạc của Schumann, đẹp đẽ như một lăng kính vạn hoa, và chẳng biết cách nào đã vượt ra khỏi phạm vi trí tuệ của nhân loại, liệu tôi có thực sự sẵn sàng để chê bai “Goldberg Variations” của Bach hay “Well-Temped Clavier”? Những bản sonata dành cho dương cầm về sau của Beethoven, và bản Concerto thứ ba dũng mãnh đầy quyến rũ của ông? Một khoảng lặng ngắn ngủi, nặng nề kéo theo sau, trong khi F* đẩy mạnh nắm đấm vào nhau vài lần, như thể kiểm tra xem tay cô ấy đang hoạt động như thế nào. “Anh có một gu nhạc tuyệt vời,” cuối cùng cô ấy nói. “Và tôi ngưỡng mộ lòng dũng cảm của anh. Tôi sẽ đi cùng anh. Tôi cũng chọn “Lễ hội Carnaval” của Schumann.” “Cô nghiêm túc?” “Nghiêm túc trăm phần trăm. Tôi luôn yêu thích nó. Tôi không bao giờ cảm thấy mệt mỏi với bản nhạc ấy, cho dù tôi có nghe nó bao nhiêu lần đi chăng nữa.” Chúng tôi đã tiếp tục thảo luận về tác phẩm này một lúc lâu. Gọi một chai Pinot


106 HARUKI MURAKAMI Noir và uống hết trong khi nói chuyện. Hai chúng tôi đã trở thành bạn trong một đêm như vậy đấy. Những người bạn “Carnaval”. Dù cho mối quan hệ này chỉ kéo dài nửa năm. Thế là chúng tôi đã thành lập một câu lạc bộ chỉ có duy nhất hai người, câu lạc bộ Carnaval của riêng chúng tôi. Không có lý do gì để giới hạn số lượng thành viên ưu tiên chỉ hai người, nhưng nó không bao giờ vượt quá con số đó. Kể từ lúc chúng tôi chưa bao giờ gặp được bất kỳ ai khác mê mẩn phát điên vì bản nhạc ấy như cả hai. Chúng tôi đã nghe rất nhiều bản thâu âm và đĩa CD về các buổi biểu diễn của “Carnaval”, và nếu một nghệ sĩ dương cầm đưa bản nhạc đó vào buổi hòa nhạc của ông ta, chúng tôi sẽ làm mọi cách để cùng nhau tham dự. Theo sổ tay của tôi (tôi đã ghi chép lại từng bài biểu diễn), chúng tôi đã đến xem các buổi biểu diễn trực tiếp của “Carnaval” từ ba nghệ sĩ piano riêng biệt, và cùng nhau nghe bốn mươi hai đĩa CD và bản thâu âm của bản nhạc. Sau đó, chúng tôi sẽ cùng nhau trao đổi ý kiến về chúng. Hóa ra là rất nhiều nghệ sĩ dương cầm, ở mọi thời điểm và địa điểm, đã thu âm bản nhạc này, dường như là một phần phổ biến trong tiết mục của họ. Đối với tất cả những màn đó, chúng tôi chỉ thấy một số ít màn trình diễn có thể chấp nhận được. Một buổi biểu diễn có thể hoàn hảo về mặt kỹ thuật, nhưng nếu kỹ thuật không hoàn toàn đồng bộ với âm nhạc, thì “Carnaval” chỉ rơi vào một bài tập luyện ngón tay cơ học, và sức hấp dẫn của nó biến mất. Quả thực, rất khó để thành công để thể hiện tròn trịa, vượt khỏi bất kỳ ai, nhưng không ít nghệ sĩ dương cầm lớn đã ghi lại khả năng của nghệ sĩ piano chạy hàng đầu của họ. Tôi sẽ không kể tên những màn trình diễn lóng ngóng, thiếu sức hút nào. Và nhiều nghệ sĩ piano khác đã hoàn toàn tránh chơi nó. (Ít nhất đó là điều duy nhất tôi có thể phỏng đoán.) Vladimir Horowitz yêu thích âm nhạc của Schumann và biểu diễn nó trong suốt sự nghiệp của mình, nhưng vì một số lý do mà ông không bao giờ thu âm riêng bản “Carnaval”. Và điều tương tự cũng có thể nói về Sviatoslav Richter. Và nhất định tôi không là người duy nhất thích nghe Martha Argerich biểu diễn tác phẩm vào một ngày đẹp trời nào đó. Thật bất ngờ, hầu như không ai trong số những người cùng thời với Schumann hiểu được âm nhạc của ông tuyệt vời như thế nào. Ví dụ, Men-delssohn và Chopin không nghĩ nhiều về nhạc piano của Schumann. Ngay cả bà góa phụ của Schumann, tức Clara (một trong những nghệ sĩ piano hàng đầu thời bấy giờ), người đã tận tụy chơi nhạc của ông, thầm ước rằng ông tập trung vào những vở opera hoặc giao hưởng kiểu tiêu chuẩn hơn là kiểu sáng tác kỳ quái này. Về cơ bản, Schumann không thích những hình thức cổ điển như sonata, và thông thường các tác phẩm của ông


CARNAVAL 107 trở nên lan man và hão huyền. Ông đã rời xa các hình thức cổ điển hiện có, dẫn đến sự ra đời của một loại hình âm nhạc mới, trường phái trữ tình, nhưng hầu hết những người cùng thời với ông đều cho rằng tác phẩm của ông là lập dị, thiếu nền tảng và nội dung vững chắc. Tuy nhiên, chính cơn lập dị táo bạo này đã thúc đẩy sự trỗi dậy của âm nhạc trữ tình. Dù sao đi nữa, trong sáu tháng đó, hai chúng tôi đều đến thưởng thức “Carnaval” bất cứ khi nào có dịp. Tất nhiên, đó không phải là tất cả những gì chúng tôi nghe, Mozart và Brahms thi thoảng cũng có trong danh sách của chúng tôi, nhưng bất cứ khi nào chúng tôi gặp nhau, chúng tôi sẽ nghe một phiên bản của “Carnaval” và chia sẻ phản ứng đôi bên về buổi biểu diễn. Tôi là thư ký câu lạc bộ nhỏ của cả hai, và ghi lại những ý kiến tóm tắt. Cô đã đến nhà tôi vài lần, nhưng thường xuyên hơn là tôi đến nhà cô, vì cô sống gần trung tâm thành phố, trong khi tôi ở tít ngoại ô. Sau khi nghe hết bốn mươi hai bản thâu âm của bản nhạc, sự lựa chọn số một của cô ấy là bản ghi của Arturo Benedetti Michelangel cho hãng đĩa Angel, và bản RCA tôi chọn là bản thâu âm RCA của Athur Rubinstein. Chúng tôi đã cẩn thận phân loại từng đĩa mà mình đã nghe, tất nhiên là đã biết rõ chúng vốn thực sự không nhiều. Đó chỉ là một chút thú vị bổ sung. Điều quan trọng nhất đối với chúng tôi là nói về thứ âm nhạc mà chúng tôi yêu thích, cảm giác gần như được chia sẻ điều gì đó mà chúng tôi đam mê vô mục đích. Chắc bạn sẽ cho rằng một người đàn ông mà cứ đi gặp gỡ một phụ nữ trẻ hơn anh ta mười tuổi thì ắt sẽ gây ra những chuyện “cơm không lành, canh không ngọt” ở nhà chăng, nhưng vợ tôi không lo lắng gì về cô ấy cả. Tôi không hề phủ nhận rằng vẻ ngoài kém hấp dẫn của F* đóng một vai trò quan trọng trong việc vợ tôi chẳng buồn đoái hoài. Nàng không mảy may nghi ngờ hay lấn cấn rằng F* và tôi có thể rơi vào một mối quan hệ tình ái, quả là một lợi ích lớn mà vẻ ngoài của cô ấy mang lại cho chúng tôi. Dường như bà xã tôi thấy chúng tôi là một cặp mọt sách thì hơn. Bản thân nàng không thích nhạc cổ điển, vì hầu hết các buổi hòa nhạc đều khiến nàng chán nản. Vợ tôi gọi F* là “bé bạn gái của anh.” Và đôi khi, với một chút mỉa mai là “bé bạn gái dễ thương của anh kìa.” Tôi chưa bao giờ gặp chồng của F* (Cô ấy cũng không có đứa nhóc nào). Có thể do trùng hợp ngẫu nhiên, anh ta hay ra ngoài bất cứ khi nào tôi đến thăm cô ấy, hoặc cô ấy đặc biệt chọn những thời điểm anh ấy không có ở nhà. Hoặc có thể anh ấy ở ngoài hầu hết mọi lúc. Đó là gì thì tôi không nói được. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện, tôi thậm chí không thể biết chắc liệu cô ấy có thực sự có chồng hay không. Cô chưa bao giờ nói một lời nào về anh ta, và như theo như tôi nhớ là cũng không có dấu vết nào về một người đàn ông ở đó. Như đã kể, cô từng thông báo rằng cô kết hôn rồi và còn đeo một chiếc nhẫn cưới bằng vàng lấp lánh trên ngón áp út của bàn tay trái. Cô cũng chưa bao giờ hé răng về quá khứ của mình. Cô không bao giờ đề cập đến


108 HARUKI MURAKAMI việc mình đến từ đâu, kiểu gia đình cô xuất thân, cô học trường nào, hoặc làm những công việc gì. Nếu tôi hỏi cô ấy về những chuyện riêng tư, tất cả những gì tôi nhận lại chỉ là lời ám chỉ mơ hồ hoặc một nụ cười ý nhị. Tất cả những gì tôi biết về cô là cô làm việc trong những lĩnh vực chuyên môn và có lối sống khá sung túc. Cô sống trong khu phố Daikanyama thời thượng ở Tokyo, trong một căn hộ ba phòng ngủ sang trọng giữa một tòa nhà được bao quanh bởi cây xanh, lái chiếc xế sedan BMW mới tinh và có một hệ thống truyền thanh đắt tiền trong phòng khách của cô. Đó là đầu đĩa CD và bộ dẫn truyền Accuphase cao cấp, với cặp loa Linn lớn có vẻ ngoài “thông minh”. Và cô luôn diện những bộ trang phục thu hút, gọn gàng. Tôi không biết nhiều về quần áo phụ nữ, nhưng ngay cả tôi còn có thể biết chúng là những món đồ hàng hiệu đắt tiền. Khi nói đến âm nhạc, cô rất hùng hồn. Cô có một đôi tai nhạy bén, và nhanh chóng chọn cách mô tả chính xác nhất những gì cô đã nghe. Kiến thức của cô ấy về âm nhạc cũng vậy, rất sâu và đậm. Nhưng khi nói về những thứ ngoài âm nhạc, cô liền biến thành một bí ẩn. Tôi đã cố gắng lôi kéo cô rời khỏi vỏ ốc, nhưng cô sẽ không bao giờ mở lòng. Có một lần cô đã nói với tôi về Schumann. “Giống như Schubert,” cô ấy nói, “Schumann đã chiến đấu với VD (bệnh hoa liễu) khi ông còn trẻ, và căn bệnh dần dần tác động đến tinh thần của ông. Thêm vào đó, ông ta có khuynh hướng phân liệt. Ông thường xuyên phải chịu đựng những ảo giác thính giác khủng khiếp, và cơ thể bị co giật từ sự run rẩy không kiểm soát được. Ông tự thuyết phục rằng bản thân mình đang bị các linh hồn ma quỷ truy đuổi, và tin vào sự tồn tại theo nghĩa đen của chúng. Bị truy đuổi bởi những cơn ác mộng kinh hoàng vô tận, ông ta đã nhiều lần cố gắng tự sát. Có lần ông đã tự quăng mình xuống sông Rhine. Ảo tưởng bên trong và thực tế bên ngoài hòa quyện vào nhau trong con người ông. “Carnaval” là một tác phẩm ban đầu, vì vậy những linh hồn ma quỷ trong ông vẫn chưa hiển hiện rõ khuôn mặt của chúng. Vì tác phẩm nói về lễ hội hóa trang nên nó đầy rẫy những nhân vật đeo mặt nạ thoạt trông rất vui vẻ, nhưng đây không chỉ đơn thuần là một lễ hội hóa trang nhộn nhịp. Cuối cùng thì những linh hồn ma quỷ ẩn nấp bên trong ông ta cũng lần lượt xuất hiện trong tác phẩm, như thể được giới thiệu trong chốc lát, khoác lên mặt những chiếc mặt nạ lễ hộ vui nhộn. Bao phủ xung quanh chúng là một cơn gió đầu xuân đáng ngại thổi đến. Thịt còn nhiễu máu tươi được phục vụ cho tất cả mọi người. “Carnival” theo nghĩa đen là lễ hội của lòng biết ơn đối với thịt, và đồng thời cũng là lời từ biệt cho nó, khi Mùa Chay bắt đầu. Đấy chính xác là loại âm nhạc như vậy.” “Nên là, người biểu diễn phải thể hiện bằng âm nhạc về cả chiếc mặt nạ và khuôn


CARNAVAL 109 mặt nằm bên dưới nó cho tất cả các nhân vật xuất hiện. Đó là những gì cô đang nói phải không?” Tôi hỏi. Cô khẽ gật đầu. “Đúng vậy. Hoàn toàn đúng. Nếu anh không thể bày tỏ tình cảm đó, thì điều gì sẽ xảy ra trong việc hình thành nó? Bản nhạc này là lý tưởng của loại âm nhạc vui tươi, nhưng trong sự vui tươi đó, anh có thể thoáng thấy những bóng ma ẩn nấp bên trong tâm hồn. Những âm thanh vui nhộn thu hút họ ra khỏi bóng tối.” Cô im lặng một lúc, rồi nói tiếp “Tất cả chúng ta, dù ít hay nhiều, đều đeo mặt nạ cả. Bởi vì không có mặt nạ thì chúng ta không thể tồn tại trong thế giới đầy bạo lực này. Bên dưới lớp mặt nạ ác linh là khuôn mặt tự nhiên của thiên thần, và bên dưới mặt nạ của thiên thần là khuôn mặt của ác linh. Không thể có chỉ có cái này hay cái kia. Đó là bản chất con người của chúng ta. Và đó cũng chính là “ Lễ hội Carnaval”. Schumann có thể nhìn thấy nhiều khuôn mặt của con người, những chiếc mặt nạ và những khuôn mặt thật, bởi vì bản thân ông là một linh hồn bị chia rẽ sâu sắc, một người sống trong khoảng cách ngột ngạt giữa hai người.” Dường như cô thật lòng muốn nói về một lớp mặt nạ xấu xí và khuôn mặt đẹp đẽ nằm dưới nó, cũng như một khuôn mặt xấu xí và chiếc mặt nạ xinh đẹp. Ý nghĩ này đã va vào tôi ở thời điểm đó. Có lẽ cô ấy đang thực sự nói về khía cạnh nào đó của bản thân. “Đối với một số người, mặt nạ có thể bị dính chặt đến mức họ không thể tháo nó ra,” tôi bảo. “Vâng,” cô nói khẽ. “Có lẽ đó là sự thật.” Cô nở một nụ cười nhạt. “Nhưng ngay cả khi một chiếc mặt nạ bị kẹt và không thể tháo ra, điều đó không thay đổi sự thật rằng bên dưới nó, khuôn mặt thật vẫn còn.” “Mặc dù không ai có thể nhìn thấy nó.” Cô lắc đầu. “Phải có những người nhìn thấy được. Chắc chắn phải có, ở đâu đó.” “Nhưng Robert Schumann có thể nhìn thấy chúng. Và ông ta quá bất hạnh. Vì căn bệnh giang mai, tâm thần phân liệt và cả ác linh nữa.” “Nhưng mà, ông ấy đã để lại cho nền âm nhạc tuyệt vời này,” cô nói. “Loại âm nhạc tuyệt vời mà không ai khác có thể viết được.” Cô lần lượt bẻ từng khớp của cả hai tay, lớn tiếng. “Do giang mai, tâm thần phân liệt, và cả những linh hồn ma quỷ nữa. Hạnh phúc luôn là một thứ tương đối mà thôi. Anh có nghĩ như thế không?” “Có thể,” tôi đáp.


110 HARUKI MURAKAMI


CARNAVAL 111 “Carnaval” là một tác phẩm ban đầu, vì vậy những linh hồn ma quỷ trong ông vẫn chưa hiển hiện rõ khuôn mặt của chúng. Vì tác phẩm nói về lễ hội hóa trang nên nó đầy rẫy những nhân vật đeo mặt nạ thoạt trông rất vui vẻ, nhưng đây không chỉ đơn thuần là một lễ hội hóa trang nhộn nhịp. Cuối cùng thì những linh hồn ma quỷ ẩn nấp bên trong ông ta cũng lần lượt xuất hiện trong tác phẩm, như thể được giới thiệu trong chốc lát, khoác lên mặt những chiếc mặt nạ lễ hộ vui nhộn. Bao phủ xung quanh chúng là một cơn gió đầu xuân đáng ngại thổi đến. Thịt còn nhiễu máu tươi được phục vụ cho tất cả mọi người. “Carnival” theo nghĩa đen là lễ hội của lòng biết ơn đối với thịt, và đồng thời cũng là lời từ biệt cho nó, khi Mùa Chay bắt đầu. Đấy chính xác là loại âm nhạc như vậy.” “Nên là, người biểu diễn phải thể hiện bằng âm nhạc về cả chiếc mặt nạ và khuôn mặt nằm bên dưới nó cho tất cả các nhân vật xuất hiện. Đó là những gì cô đang nói phải không?” Tôi hỏi.


112 HARUKI MURAKAMI “Vladimir Horowitz đã từng thu âm Schumann F Minor Sonata cho đài phát thanh, ”cô ấy nói.“ Anh đã nghe câu chuyện này chưa? ” “Chưa, tôi e là mình chưa nghe nó bao giờ, ”tôi trả lời. Lắng nghe (và bắt đầu tưởng tượng) chuyện chơi bản Piano Sonata số 3 của Schumann hẳn là một việc khó khăn. “Sau khi đã nghe đoạn thâu âm này trên đài phát thanh, Horowitz ngồi đó, tay ôm đầu, hoàn toàn chán nản. Ông ta nói điều đó thật khủng khiếp.” Cô xoay ly rượu vang đỏ trong chiếc ly còn vơi nửa của mình và nhìn chằm chằm vào nó một lúc. “Và đây là những gì ông ta nói: “Schumann thật điên rồ, nhưng tôi đã hủy hoại ông ấy.” Anh không thích điều đó sao? “ “Có chứ,” Tôi đồng ý. Tôi đã tìm thấy ở cô khía cạnh của một người phụ nữ hấp dẫn, mặc dù tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ về cô theo lối tính dục. Theo nghĩa đó, nhận định của vợ tôi là đúng. Nhưng không phải vì nhan sắc kém xinh đẹp của cô khiến tôi không muốn lên giường với cô. Mà chính vì tôi không hề nghĩ cô xấu xí tự thân mới là điều ngăn cản chúng tôi chìm vào hoan ái. Điều giữ tôi lại khỏi những ham muốn tình dục với cô ấy, từ những nhu cầu xúc cảm thật sự của tôi, không liên quan gì đến vẻ đẹp hay sự xấu xí của lớp mặt nạ cô mang đến bao nhiêu, mà là nỗi sợ của tôi khi phải nhìn thấy những thứ ẩn chứa dưới nó nhiều thế nào. Cho dù đó là khuôn mặt của quỷ dữ hay thiên thần. Đến tháng Mười, F* bỗng ngừng liên lạc với tôi. Tôi đã sở hữu được mười hai đĩa CD mới, khá hấp dẫn của “Carnaval”, và có gọi cho cô ấy vài lần, nghĩ rằng chúng tôi có thể nghe chúng cùng nhau, nhưng điện thoại di động của cô luôn chuyển sang hộp thư thoại. Tôi cũng gửi email cho cô ấy đến mấy bận, nhưng không nhận được phản hồi. Vài tuần mùa thu trôi qua, và tháng Mười đã kết thúc. Tháng mười một đến, mọi người bắt đầu mặc áo khoác. Đây là khoảng thời gian dài nhất mà chúng tôi đã trải qua mà không liên lạc. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy đang có một chuyến đi dài, hoặc có lẽ không được khỏe. Chính vợ tôi là người đầu tiên nhìn thấy cô ấy trên Ti-vi khi tôi đang ở bàn làm việc trong phòng mình. “Chắc em nhìn nhầm quá, nhưng em nghĩ rằng bạn gái của anh đang ở trên mục thời sự vô tuyến kìa”, vợ tôi nói. Nghĩ lại thì, cô ấy sẽ không bao giờ sử dụng cái tên


CARNAVAL 113 F*, mà luôn sẽ là “bạn gái của anh”. Nhưng đến lúc tôi ra được Ti-vi thì tin tức đã chuyển qua bản tin về một bé gấu trúc mới sinh. Tôi đành đợi đến trưa để xem chương trình tin tức tiếp. Kế đó F* xuất hiện trên bản tin thứ tư. Cô ló dạng từ nơi trông giống như một khu vực cảnh sát, đi xuống cầu thang và lên một chiếc xe tải màu đen. Hành trình chậm chạp đó đã được ghi lại hoàn toàn trên máy quay phim. Không nghi ngờ gì về điều đó. Đó chính là F*. Không thể nhầm được khuôn mặt của cô ấy. Có vẻ như cô đã bị trói tay, vì cô để cả hai tay ở phía trước, được bao phủ bởi một chiếc áo khoác tối màu. Các sĩ quan nữ đứng ở hai bên, ôm lấy cô. Nhưng cô ấy đã ngẩng cao đầu. Đôi môi cô mím lại, và ánh mắt cô bình thản khi nhìn thẳng về phía trước. Tuy nhiên, đôi mắt của cô hoàn toàn vô cảm, giống như mắt cá. Ngoại trừ dăm sợi tóc xõa ra, trông cô vẫn giống như thường ngày. Có điều khuôn mặt của cô trên Ti-vi thiếu đi một thứ gì đó chắc chắn luôn mang lại chất lượng sống động cho nó. Hoặc có lẽ cô đang cố tình che giấu nó bên dưới một chiếc mặt nạ. Người phụ nữ thông báo cho biết tên thật của F* và kể chi tiết cách cảnh sát đã bắt giữ cô như một nhân viên trong vụ lừa đảo quy mô lớn. Theo tường thuật, kẻ chủ mưu là chồng cô ấy, đã bị bắt vài ngày trước. Người ta phát một đoạn phim ghi hình cảnh anh ta bị áp tải vào nhà giam. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chồng cô ấy, và thú thật là tôi đã không thốt nổi nên lời trước vẻ đẹp của anh. Anh ta là một người đàn ông hào hoa, gần như vô thực về sức hấp dẫn của mình, giống như một người mẫu chuyên nghiệp. Anh được cho là kém cô sáu tuổi. Tất nhiên, không có lý do gì khiến tôi bị sốc khi biết rằng cô ấy đã kết hôn với một người đàn ông đẹp trai kém cô ấy sáu tuổi. Có đủ loại cặp đôi oan gia đũa lệch trên đời mà. Bản thân tôi cũng biết vài cặp như thế. Tuy nhiên, khi tôi cố gắng hình dung các chi tiết về cuộc sống hàng ngày của họ, F* và người đàn ông hấp dẫn đáng kinh ngạc này, sống dưới một mái nhà trong căn hộ ngăn nắp ở Daikanyama, tôi vẫn không khỏi cảm thấy hoang mang. Tôi đã tưởng tượng rằng hầu hết mọi người nhìn thấy họ trên bản tin có thể ngạc nhiên bởi sự kết hợp của họ, nhưng cảm giác khó chịu mà tôi cảm thấy sau đó cá nhân hơn nhiều, giống như một cơn đau nhói thực sự trên da của tôi. Có điều gì đó không lành mạnh về nó, giống như cảm bất lực khó đỡ mà bạn nhận được khi bị đưa vào một kế hoạch kỳ quặc. Tội danh mà họ bị buộc tội là gian lận trong quản lý tài sản. Họ đã tạo ra một công ty đầu tư ma, lấy tiền từ những người bình thường, hứa hẹn một tỷ lệ cao, tuy nhiên, chỉ đơn giản là chuyển tiền qua lại để bù đắp lợi nhuận, nhưng thực tế không thực hiện bất kỳ quản lý tài sản nào. Rõ ràng là một kế hoạch tinh vi theo cách đó. Tại sao một người phụ nữ thông minh nhường ấy, một người đánh giá cao âm nhạc piano của Schumann, lại tiếp tay cho một tội ác vô nghĩa như vậy, có điều gì khiến cô bị


114 HARUKI MURAKAMI mắc kẹt ư? Toàn bộ mọi chuyện đã nằm ngoài tầm với của tôi. Có thể thế lực tiêu cực nào đó trong mối quan hệ của cô với người đàn ông ấy đã hút cô vào vòng xoáy tội ác này. Cũng có thể linh hồn tà ác của chính cô ấy đang lặng lẽ ẩn giấu ở trung tâm của nó. Đó là cách duy nhất tôi có thể hiểu được mọi chuyện. Như bản tin đã thông báo hết, họ phải chịu trách nhiệm về khoản lỗ hơn 10 triệu đô la. Hầu hết các nạn nhân là những người cao tuổi về hưu. Một vài người trong số họ đã được phỏng vấn trên Ti-vi, và tôi biết rằng từng xu từng hào trong số tiền tiết kiệm hưu trí quý giá của họ, tất cả những gì họ có để sống, đã bị cướp đi. Tôi cảm thấy tiếc cho mọi người, nhưng nó đã được thực hiện rồi. Toàn bộ sự việc là một tội ác tầm thường. Vì nhiều lý do mà nhiều người dường như bị lôi kéo bởi những lời nói dối tầm thường như vậy. Có lẽ chính sự tầm thường đã thu hút họ, ai biết được? Thế giới đang tràn ngập những kẻ lừa đảo, và cả những người cả tin. Dù cho nó đã được phát trên vô tuyến truyền thông đi chăng nữa, và dù ai có là kẻ gây tội, nó vẫn là một sự thật dứt khoát và rõ ràng, như sự lên xuống của thủy triều. “Vậy anh định làm gì?” vợ tôi hỏi tôi sau khi bản tin kết thúc. “Ý em là gì? Anh có thể làm gì đây?” Tôi nói, giơ điều khiển tắt Ti-vi. “Nhưng cô ấy là bạn của anh, phải không?” “Bọn anh chỉ gặp nhau một lần và nói chuyện về âm nhạc. Anh không biết gì khác ngoài điều đó.” “Cô ấy chưa bao giờ đề nghị anh đầu tư với hai người đó sao?” Tôi im lặng, lắc đầu. Đối với những gì đáng giá, cô ấy không bao giờ cố gắng để tôi tham gia vào những thứ như vậy. Điều đó tôi có thể cam đoan. “Em không biết rõ về cô ấy, nhưng em chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy là người sẽ làm điều gì đó khủng khiếp như vậy,” vợ tôi nói. “Em e là có thể nói rằng không bao giờ.” Không, tôi chợt nghĩ, điều đó không hoàn toàn đúng. F* có một loại hào quang đặc biệt về cô ấy có thể thu hút mọi người. Và bên trong đó, ẩn sâu trong những đặc điểm kỳ lạ, khác thường của tâm trí và trái tim. Nó khơi dậy sự tò mò của tôi về cô. Và khi sức hấp dẫn đặc biệt đó hợp nhất với vẻ ngoài đối nghịch của tay chồng trẻ của cô ấy, mọi thứ đều có thể trở thành khả thi, và, có lẽ, không thể cưỡng lại được. Một động lực xấu đã nảy sinh từ điều này, vượt quá bất kỳ lẽ thường hay bất cứ logic nào. Cho dù tôi không hiểu bằng cách nào cặp đôi đũa lệch này lại ở bên nhau. Trong vài ngày, tin tức truyền hình đưa tin về vụ việc đã kết thúc, chấm dứt luôn thời gian phát lại các clip tương tự. Đôi mắt cá chết của cô nhìn thẳng về phía trước,


CARNAVAL 115 gã chồng trẻ đẹp trai của cô đối mặt với rừng máy ảnh. Có lẽ theo bản năng, khóe môi mỏng của anh ta hơi nâng lên. Kiểu cười mà các ngôi sao điện ảnh chuyên nghiệp luôn sở hữu khi họ cần. Có vẻ như anh ta đang gửi một nụ cười cho cả thế giới. Có điều gì đó trên khuôn mặt của anh ấy giống như một chiếc mặt nạ được xây dựng tốt. Dù sao đi nữa, một tuần sau, các vụ bắt giữ đều bị lãng quên. Ít nhất, các đài truyền hình đã không còn quan tâm. Tôi tiếp tục theo dõi câu chuyện trên các tờ báo và tạp chí hàng tuần, nhưng cuối cùng những câu chuyện này cũng giảm dần, giống như một dòng nước bị hút vào cát. Cuối cùng, chúng đã kết thúc hoàn toàn. Và sau đó F* hoàn toàn biến mất khỏi thế giới của tôi. Tôi không biết cô ấy đang ở đâu. Không có cách nào để biết, nếu cô ấy vẫn bị giam giữ, hoặc trong tù, hoặc đang được tại ngoại. Không có mẩu tin nào về cô trên mục tố tụng, dù chỉ là một cái, dù vụ lừa đảo đủ lớn để đảm bảo việc kết án. Ít nhất là theo các bài báo và tạp chí tôi đã đọc, rõ ràng cô ấy đã tích cực giúp đỡ chồng mình trong việc vi phạm pháp luật. Một thời gian dài đã trôi qua, và bất cứ khi nào có buổi hòa nhạc biểu diễn “Carnaval” của Schumann, tôi đều cố gắng tham dự. Rồi tôi quét mắt toàn bộ hành lang, tiền sảnh khi đang thưởng thức một ly rượu tại trung tâm, chỉ để tìm kiếm cô ấy. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô, nhưng tôi luôn có linh cảm rằng bất cứ lúc nào, cô cũng sẽ xuất hiện giữa đám đông. Tôi vẫn tiếp tục mua bất kỳ đĩa CD mới nào của Carnaval. Và vẫn xếp chúng trong sổ tay của mình. Rất nhiều bản thu âm mới đã xuất hiện, nhưng bản thu âm yêu thích nhất của tôi vẫn là bản của Rubinstein. Đàn piano của Rubinstein không xé toạc mặt nạ của mọi người. Thay vào đó, lối chơi nhẹ nhàng, tinh tế của ông len lỏi qua điểm giao thoa giữa lớp mặt nạ và thực tế. Hạnh phúc luôn là một thứ tương đối. Anh có nghĩ như vậy không? Có vài chuyện đã xảy ra từ rất lâu trước đó. Hồi còn học đại học, tôi đã từng hẹn hò với một người kém hấp dẫn. Trên thực tế, hãy tạm quên việc “công bằng; chơi đẹp” gì đó đi. Đó là một buổi hẹn hò kép mà một người bạn của tôi đã lên kế hoạch, và cô ấy là người đã xuất hiện như bạn hẹn của tôi. Cô và bạn gái của bạn tôi ở cùng ký túc xá đại học, và họ học dưới chúng tôi một lớp. Chúng tôi đã có một bữa ăn nhanh cùng nhau, cả bốn người chúng tôi, sau đó chúng tôi bắt cặp và đi theo con đường riêng của mình. Đó là cuối mùa thu. Tôi và cô ấy đi dạo quanh một công viên, sau đó vào một nhà hàng và nói chuyện trong lúc nhấm nháp chút cà phê. Cô ấy thấp bé, đôi mắt nhỏ và có vẻ là một người dễ mến. Cô nói chuyện rất e dè, giọng nói thật đặc biệt. Chắc hẳn cô đã sở hữu một


116 HARUKI MURAKAMI dây thanh quản tuyệt vời. “Em đang tham gia câu lạc bộ quần vợt ở trường đại học”, cô kể với tôi. Cha mẹ em cũng rất yêu quần vợt, cô ấy nói thêm, và cô ấy đã chơi nó từ khi còn nhỏ. Một gia đình lành mạnh, từ cách cô kể chuyện. Và có lẽ cũng là một gia đình rất hòa thuận. Tôi hầu như không bao giờ chơi quần vợt, vì vậy cũng chả biết phải bàn luận gì về chủ đề đó. Tôi yêu nhạc Jazz, nhưng cô lại không biết nói gì về nó. Vì vậy, thật khó để tìm ra bất kỳ chủ đề nào để bàn luận. Tuy nhiên, cô bảo rằng mình muốn nghe thêm nhiều về Jazz, nên tôi đã ngồi đó độc thoại cả tràng giang đại hải với cô về Miles Davis và Art Pepper, và tôi yêu nhạc Jazz nhiều đến thế nào. Cô nghe rất chăm chú, nhưng tôi không dám chắc là cô hiểu được bao nhiêu phần. Rồi tôi tiễn cô ra ga tàu điện và chúng tôi chào tạm biệt. Khi chúng tôi chia tay, cô ấy đã cho tôi số điện thoại đến ký túc xá của cô ấy. Cô ấy viết con số vào một trang giấy trắng trong cuốn sổ của mình, xé nó ra một cách gọn gàng và đưa cho tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ gọi cho cô ấy. Vài ngày sau, tôi tình cờ gặp được người bạn đã mời tôi hẹn hò đôi và tên ấy đã xin lỗi. “Tớ xin lỗi vì đã gán ghép cậu với cô nàng ấy… Tớ nên nói thế nào nhỉ? Cái cô xấu xấu hôm trước í” hắn ta nói. “Tớ đã định giới thiệu cho cậu một người thực sự dễ thương, nhưng vào phút cuối, có chuyện đột xuất nên cô kia vắng mặt, vì vậy bọn tớ đã năn nỉ cô kém xinh kia thế vào. Lúc đó ký túc xá chả có ma nào cả. Bồ tớ cũng muốn xin lỗi cậu. Tớ sẽ bù đắp cho cậu nhé. Tớ hứa đấy.” Sau khi tên bạn nói điều này, tôi cảm thấy mình nên gọi cho cô gái ấy. Chắc chắn cô ấy không đẹp, nhưng cô ấy không chỉ là một “cô gái kém hấp dẫn”. Có một chút khác biệt giữa hai điều này, và tôi không muốn bỏ qua điều đó. Tôi không biết làm thế nào để diễn đạt nó, nhưng nó dường như rất quan trọng với tôi. Rất có thể tôi không muốn cô gái ấy trở thành người yêu mình nhưng tôi sẽ không ngại gặp cô ấy và nói chuyện lần nữa. Tôi cũng không biết chúng tôi sẽ nói về điều gì, nhưng tôi chắc chắn rằng cả hai sẽ tìm chủ đề thôi. Tôi không thể xua cô ấy đi chỉ vì “cô nàng xấu xí” và bỏ đi được. Nhưng tôi không thể tìm thấy tờ giấy có số của cô ấy. Tôi nhớ đã cất nó vào túi áo khoác của mình, nhưng nó không tìm thấy ở đâu cả. Tôi có thể đã vô tình ném nó đi cùng với một số biên lai mà tôi không cần. Đó có lẽ là những gì đã xảy ra. Kết quả là, tôi không thể gọi cho cô ấy. Nếu tôi hỏi bạn của mình, tên ấy có thể cho tôi số của ký túc xá, nhưng tôi không thể không hoang mang về ý kiến phản ứng của tên ấy khi tôi làm vậy, và tôi không thể mở mồm ra tự hỏi. Tôi đã quên toàn bộ sự việc đó trong một thời gian dài, và không bao giờ cố gắng diễn lại nó trong đầu. Nhưng ở đây, khi tôi viết về F* và cách cô ấy nhìn, toàn bộ sự


CARNAVAL 117 việc đột nhiên quay trở lại với tôi. Cực kỳ chi tiết. Vào cuối mùa thu khi tôi hai mươi tuổi, tôi có một buổi hẹn hò duy nhất với một cô gái không quá hấp dẫn, và chúng tôi đi dạo quanh công viên khi một ngày sắp kết thúc. Khi chúng tôi uống một tách cà phê, tôi đã giải thích những điểm tốt hơn từ tiếng kèn saxophone của Art Pepper, làm sao để đôi khi ông lại có thể tạo ra những tiếng rít đáng kinh ngạc với cây kèn như thế. Đó không chỉ là một số sự cố âm nhạc, tôi thao thao bất tuyệt, mà là một biểu hiện quan trọng về trạng thái tâm trí của ông ấy (phải, tôi thực sự đã làm ra biểu hiện đó, tin hay không thì tùy). Và rồi tôi đã mất số điện thoại của cô ấy, mãi mãi. Mãi mãi, không cần phải nói, là một khoảng thời gian rất dài. Cả hai chuyện này không gì khác hơn là một cặp sự cố nhỏ đã xảy ra trong cuộc sống nhỏ bé tầm thường của tôi. Các chuyến đi phụ ngắn ngủi trên cuộc hành trình dài. Ngay cả khi chúng không xảy ra, tôi vẫn nghi ngờ cuộc sống của tôi sẽ khác nhiều so với bây giờ. Nhưng những ký ức này thỉnh thoảng vẫn trở về với tôi, đi xuống một đoạn đường rất dài để đến nơi. Và khi chúng làm vậy, sức mạnh bất ngờ của chúng làm tôi rung động đến tận xương tủy. Giống như một cơn gió mùa thu thổi vào ban đêm, cuốn bay những chiếc lá rụng trong rừng, san phẳng những ngọn cỏ trên cánh đồng, và đập mạnh vào cửa vào nhà người ta, hết lần này đến lần khác.


118 HARUKI MURAKAMI Cô khẽ gật đầu. “Đúng vậy. Hoàn toàn đúng. Nếu anh không thể bày tỏ tình cảm đó, thì điều gì sẽ xảy ra trong việc hình thành nó? Bản nhạc này là lý tưởng của loại âm nhạc vui tươi, nhưng trong sự vui tươi đó, anh có thể thoáng thấy những bóng ma ẩn nấp bên trong tâm hồn. Những âm thanh vui nhộn thu hút họ ra khỏi bóng tối.” Cô im lặng một lúc, rồi nói tiếp “Tất cả chúng ta, dù ít hay nhiều, đều đeo mặt nạ cả. Bởi vì không có mặt nạ thì chúng ta không thể tồn tại trong thế giới đầy bạo lực này. Bên dưới lớp mặt nạ ác linh là khuôn mặt tự nhiên của thiên thần, và bên dưới mặt nạ của thiên thần là khuôn mặt của ác linh. Không thể có chỉ có cái này hay cái kia. Đó là bản chất con người của chúng ta.


119 Và đó cũng chính là Schumann có thể nhìn thấy nhiều khuôn mặt của con người, những chiếc mặt nạ và những khuôn mặt thật, bởi vì bản thân ông là một linh hồn bị chia rẽ sâu sắc, một người sống trong khoảng cách ngột ngạt giữa hai người.” Cuối cùng thì những linh hồn ma quỷ ẩn nấp bên trong ông ta cũng lần lượt xuất hiện trong tác phẩm, như thể được giới thiệu trong chốc lát, khoác lên mặt những chiếc mặt nạ lễ hộ vui nhộn. Bao phủ xung quanh chúng là một cơn gió đầu xuân đáng ngại thổi đến. Thịt còn nhiễu máu tươi được phục vụ cho tất cả mọi người. “ Lễ hội Carnaval”.


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 121 Tôi đã gặp con khỉ già đó tại một nhà trọ kiểu Nhật giữa thị trấn suối nước nóng ở tỉnh Gunma năm năm về trước. Ấy là một nhà trọ thô sơ, hay phải nói đúng hơn là tồi tàn, tạm bợ kinh khủng, nơi tôi chỉ tình cờ ngả lưng một đêm. Tôi đang ở trong chuyến hành trình chu du khắp mọi miền, đi đến bất cứ nơi nào linh hồn mình dẫn dắt. Khi tôi vừa đến được thị trấn suối nước nóng và bước chân xuống tàu là đã hơn bảy giờ tối. Mùa thu gần đi qua, bóng tà dương đã ngả từ lâu, cả nơi này được bao bọc trong sắc lam sẫm đặc biệt chỉ có ở những khu vực miền núi. Một cơn gió lạnh buốt thổi xuống từ đỉnh núi, gửi những chiếc lá to cỡ nắm tay xào xạc suốt dọc đường. Tôi đi bộ qua trung tâm thị trấn để tìm nơi nghỉ lại, nhưng không một nhà trọ đàng hoàng nào muốn tiếp khách sau khi giờ ăn tối đã qua. Tôi có dừng lại ở năm hoặc sáu chỗ gì đấy, nhưng tất cả đều khiến tôi thất vọng. Cuối cùng, ở một khu vắng vẻ bên ngoài thị trấn, tôi tình cờ tìm thấy một quán trọ chịu nhận khách. Đó là một nơi hoang vắng, xiêu vẹo, gần như là một ngôi nhà hoang. Nó đã chứng kiến rất nhiều dâu bể trôi qua, nhưng lại không có sức mê hoặc kỳ lạ mà ta có thể mong đợi ở một quán trọ cũ. Các món nội thất và nhà trọ hơi bị lệch một chút, như thể đã sửa chữa rất cẩu thả mà không ăn khớp gì với phần còn lại của nơi này. Tôi ngờ rằng liệu nó có vượt qua nổi trận động đất tiếp theo không, và chỉ có thể cầu mong đừng có cơn bão nào đổ bộ khi tôi ở đó. Quán trọ này không phục vụ cơm tối, nhưng bù lại có bao gồm bữa sáng, và giá cho một đêm rẻ đến giật mình. Bên trong lối vào là một bàn tiếp tân đơn giản, với một lão-già-trụi-sạch-lông, kể cả lông mày, ngồi ở sau quầy, đã nhận của tôi tiền trả trước Lời thú tội của Khỉ Shinagawa


122 HARUKI MURAKAMI một đêm. Không có lông mày khiến đôi mắt to tròn của lão dường như lấp lánh một cách quái đản. Trên tấm đệm đặt trên sàn sát lão ta, là một con mèo nâu lớn, nom cũng già không kém, đang ngáy o o như đã ngủ say. Có gì đó bất ổn với mũi của nó thì phải, vì tiếng nó ngáy to hơn bất cứ con mèo nào mà tôi từng nghe thấy. Thỉnh thoảng nhịp điệu ngáy của nó lại vừa vặn hụt mất một nhịp. Mọi thứ trong cái quán trọ này trông như đã cũ nát và sắp đổ sập xuống tới nơi. Căn phòng tôi được chỉ đến rất chật chội, nó giống như vách kho người ta thường cất chăn nệm thì đúng hơn; ánh sáng trên trần mờ mịt và sàn nhà phủ dưới thảm trải sàn kêu răng rắc theo từng bước đi. Nhưng đã quá muộn để câu nệ. Tôi đành tự nhủ với bản thân mình, rằng mày nên hạnh phúc khi ít ra vẫn có một mái nhà trên đầu và một tấm nệm để ngả lưng. Tôi đặt một phần hành lý, một túi đeo vai lớn, xuống sàn và lên đường quay lại thị trấn. (Đây là chính xác loại phòng tôi không hề muốn nằm lại chút nào.) Tôi đã đi vào một hàng mì soba gần đó và đánh chén một bữa tối đơn giản. Thà thế còn hơn là chả có gì bỏ bụng, vì làm quái gì còn nhà hàng nào khác mở nữa đâu. Làm một ly bia, nhâm nhi tí đồ ăn vặt trên quầy bar, và ăn một ít soba nóng. Món soba quá tầm thường, nước dùng thì nhạt nhẽo, nhưng một lần nữa, tôi vẫn chẳng phàn nàn gì. Thế còn đỡ hơn là phải xách cái bụng đói meo đi ngủ. Sau khi tôi rời cửa hàng soba, tôi nghĩ mình cần mua một ít đồ ăn nhẹ và một chai rượu whisky nhỏ, nhưng tôi không thể tìm thấy cửa hàng tiện lợi nào cả. Mới hơn tám giờ thôi, và nơi duy nhất còn mở là mấy trung tâm chơi bắn súng thường hay thấy ở các thị trấn suối nước nóng. Tôi bèn quay lại nhà trọ, thay vào một chiếc áo yutaka và đi xuống cầu thang để tắm. So với căn nhà tồi tàn và thiếu tiện nghi, bồn tắm suối nước nóng tại nhà trọ thật tuyệt vời. Nước bốc hơi màu xanh đậm, không bị pha loãng, mùi lưu huỳnh cay nồng hơn bất cứ thứ gì tôi từng được thử qua, và tôi thoải mái ngâm mình ở đó, ấm đến tận xương cốt. Không có người tắm nào khác (tôi không biết có còn vị khách nào khác ở nhà trọ nữa không), và tôi đã được tận hưởng một đợt ngâm mình vừa dài vừa nhàn nhã. Một lúc sau, tôi cảm thấy có chút váng đầu nên ra ngoài cho thoáng, sau đó trở lại vào bồn tắm. Có lẽ cái quán trọ nom thấy ghê này lại là một lựa chọn tốt, tôi nghĩ thế. Nó chắc chắn phải yên bình hơn là tắm chung với mấy nhóm du lịch ồn ào, như ta vẫn thường chịu đựng trong mấy khách sạn lớn hơn. Tôi vẫn đang ngâm mình trong bồn tắm lần thứ ba thì con khỉ đẩy cánh cửa kính cạch một cái ra và đi vào trong. “Xin lỗi”, tôi thấp giọng. Phải mất một lúc sau, tôi mới nhận ra nó là một con khỉ. Hơi nước nóng dày đặc đã khiến tôi chếnh choáng, và chả bao giờ tôi lại mong đợi được nghe một con khỉ nói chuyện, thành thử tôi không thể kết nối ngay lập tức giữa hình ảnh mình đang thấy và thực tế rằng đây là một con khỉ trăm phần trăm. Con khỉ đóng cánh cửa sau lưng lại, dựng thẳng


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 123 những cái xô nhỏ nằm lăn lóc và nhét nhiệt kế vào bồn tắm để kiểm tra nhiệt độ. Nó chăm chú nhìn vào mặt số trên nhiệt kế, đôi mắt nheo nheo lại, không khác gì một nhà vi khuẩn học đang phân tách một mầm bệnh mới nào đó. “Ngài tắm thấy thế nào ạ?” con khỉ hỏi tôi. “Đã lắm. Cảm ơn chú mày nhé,” tôi đáp lại. Giọng tôi nặng nề khẽ vọng lên giữa màn hơi nước. Nghe cứ như là thần thoại nào ấy, không giống giọng tôi, mà đúng hơn là tiếng vang từ quá khứ từ sâu trong rừng vọng về. Và tiếng vọng đó là… Gượm đã! Một con khỉ đang làm gì ở đây? Và tại sao nó lại nói ngôn ngữ của tôi? “Nhà cháu có được phép kỳ lưng cho bác không ạ?” con khỉ hỏi, giọng nó vẫn trầm. Nó có giọng nói rõ ràng, lôi cuốn của một ca sĩ giọng nam trung trong nhóm nhạc doo-wop. Dù mọi thứ không phải là điều ta mong đợi. Nhưng không có gì kỳ lạ về giọng nói của nó: nếu nhắm mắt lại và lắng nghe, ta đã nghĩ rằng đó là một người bình thường nói. “Được thôi, cảm ơn chú” tôi trả lời. Không phải là tôi ngồi đó nãy giờ chỉ để chờ có ai đến chà lưng cho mình, nhưng nếu tôi từ chối nó, tôi sợ nó lại tủi thân rằng tôi đang phản đối một con khỉ đi kỳ cọ lưng cho. Tôi cho đó là một lời đề nghị tử tế từ phía nó, và chắc chắn tôi không hề muốn làm tổn thương cảm xúc của khỉ. Thế nên, tôi từ từ đứng dậy ra khỏi bồn và ngồi phịch xuống một cái đòn gỗ nhỏ, quay lưng lại với con khỉ. Con khỉ không mặc gì trên người cả. Dĩ nhiên điều đó là bình thường đối với một con khỉ rồi, vì vậy nó không khiến tôi cảm thấy sốc vì kỳ cục. Nó nom đã khá già; và điểm nhiều sợi trắng trên lông. Tay nó mang một chiếc khăn nhỏ, chà xát xà phòng lên khăn, và với bàn tay điêu luyện, nó đã đem đến cho tôi một màn kỳ cọ sướng như lên tiên. “Mấy hôm nay trời rét quá nhỉ?” Con khỉ nhận xét. “Ờ, rét sun cả vòi.” “Lâu rồi nơi này còn bao phủ trong tuyết đấy. Rồi mọi người sẽ phải xúc sạch tuyết trên mái nhà, tin nhà cháu đi, đây chả phải là một nhiệm vụ dễ xơi gì đâu.” Một khoảng im lặng ngắn, và rồi tôi nhảy luôn vào chuyện, “Chú mày biết nói tiếng người à?” “Vầng, nhà cháu nói được đấy,” con khỉ mau miệng trả lời. Chắc nó cũng đã được cả đống người hỏi trước đó rồi, “Nhà cháu đã được con người nuôi nấng từ khi còn bé,


124 HARUKI MURAKAMI Tôi vẫn đang ngâm mình bồn tắm lần thứ ba thì con khỉ đẩy cánh cửa kính cạch một cái ra và đi vào trong. “Xin lỗi”, tôi thấp giọng. Phải mất một lúc sau, tôi mới nhận ra nó là một con khỉ. Hơi nước nóng dày đặc đã khiến tôi chếnh choáng, chả bao giờ tôi lại mong đợi được nghe một con khỉ nói chuyện, tôi không thể kết nối ngay lập tức giữa hình ảnh mình đang thấy rằng. Đây là một con khỉ trăm phần trăm. “Ngài tắm thấy thế nào ạ?” con khỉ hỏi tôi. “Đã lắm” “Cảm ơn chú mày nhé.” Tôi đáp lại.


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 125 và trước khi ý thức được thì cháu đã biết nói tiếng người rồi ạ. Cháu đã sống khá lâu ở Tokyo đấy chứ, khu Shinagawa ấy ạ.” “Đoạn nào của Shinagawa?” “Xung quanh khu Gotenyama ạ.” “Khu đó dễ thương đấy.” “Vầng, bác cũng biết rồi đấy, chỗ đó ở thích lắm. Gần đó là Vườn Gotenyama và nhà cháu rất thích phong cảnh thiên nhiên ở đó.” Cuộc trò chuyện của chúng tôi tạm dừng tại khúc này. Con khỉ tiếp tục kỳ mạnh vào lưng tôi (phê vãi linh hồn), và trong khi tôi cố gắng sắp xếp mọi thứ lại một cách hợp lý. Một con khỉ lớn lên ở Shinagawa? Vườn Gotenyama? Và ăn nói trôi chảy như thế? Sao có thể cơ chứ? Đây là một con khỉ, Giời ơi! Một con khỉ, chứ chả phải thứ gì khác. “Bác sống ở Minato-ku,” tôi nói, một câu nói vô nghĩa. “Vậy bác cháu ta gần như là láng giềng rồi đấy ạ” con khỉ nói với giọng thân thiện. “Thế mấy người nuôi dạy chú mày ở Shinagawa là người thế nào?” Tôi hỏi. “Chủ nhân của cháu là giáo sư đại học. Ông ấy chuyên ngành vật lý, và giữ một chiếc ghế tại Đại học Tokyo Gakugei.” “Quả là một người trí thức nhỉ.” “Hẳn là vậy rồi ạ. Ông yêu âm nhạc hơn bất cứ thứ gì, đặc biệt là âm nhạc của Bruckner và Richard Strauss. Nhờ vậy mà nhà cháu đã phát triển niềm yêu thích với âm nhạc đó. Cháu nghe nhạc mọi lúc. Có thể nói là cháu đã chọn lấy một loại tri thức dù thậm chí còn chưa kịp nhận ra.” “Thế chú mày có thích Bruckner không?” “Có chứ ạ. Bản giao hưởng thứ bảy của ngài ấy tuyệt lắm lắm. Nhà cháu vẫn luôn cảm thấy đoạn cao trào thứ ba đặc biệt rất dữ dội.” “Bác thì thường nghe Bản giao hưởng số 9 của ông ta,” tôi trầm trồ. Một câu nói khá vô nghĩa khác.


126 HARUKI MURAKAMI “Vầng ạ, đó là một bản nhạc đáng yêu hết nấc”, con khỉ đáp. “Là chính ngài giáo sư đã dạy chú mày ngôn ngữ hử?” “Phải rồi ạ. Ông ấy không có con, và có lẽ để bù đắp cho điều đó, ông đã dạy dỗ nhà cháu khá nghiêm khắc mỗi khi có thời gian. Giáo sư rất kiên nhẫn, một người coi trọng trật tự và sự chuyên nghiệp hơn tất thảy. Ông là một người nghiêm túc, với câu nói yêu thích, “ Sự lặp lại của những sự thật chính xác là con đường chân thực của trí tuệ”. Vợ của giáo sư là một người phụ nữ trầm tính, ngọt ngào, bà luôn tử tế với cháu. Cả hai người rất hợp nhau, tuy kể chuyện này với người ngoài cũng mắc cỡ lắm, nhưng tin nhà cháu đi, “hoạt động ban đêm” của họ dữ dội lắm đấy.” “Thật thế á?” tôi thốt lên. Con khỉ cuối cùng cũng kỳ cọ xong lưng tôi. “Cảm ơn vì sự kiên nhẫn của bác ạ,” nó nói và cúi đầu. “Cảm ơn khỉ nhé,” tôi đáp lời. “Phê lắm luôn. Thế chú mày có làm việc ở suối nước nóng của nhà trọ này không?” “Có ạ. Người ta đã tốt bụng để cho nhà cháu được làm việc ở đây. Các nhà trọ lớn hơn, xịn hơn sẽ không bao giờ thuê một con khỉ. Nhưng họ luôn luôn thiếu người làm chỗ này, và nếu bác có thể khiến cho mình trở nên hữu ích, họ sẽ không quan tâm cho dù bác có là một con khỉ hay bất cứ củ cà rốt gì. Đối với một con khỉ, tiền công là ít nhất, và họ chỉ cho cháu làm việc ở nơi mà cháu có thể ngay trong tầm mắt họ. Dọn dẹp khu vực tắm, chà sạch, dạng dạng vậy. Hầu hết các vị khách đều lăn ra ngất nếu thấy một con khỉ phục vụ trà cho họ và cứ thế. Làm việc trong bếp cũng vậy, vì nhà cháu đã từng gặp phải vấn đề với luật vệ sinh thực phẩm.” “Chú mày làm việc ở đây lâu chưa thế?”, tôi hỏi. “Cũng tròm trèm ba năm rồi ạ.” Nhưng chú mày đã phải trải qua tất cả mọi chuyện trước khi dừng chân tại đây hử?” Con khỉ gật đầu nhanh chóng. “Rất đúng bác ạ.” Tôi ngập ngừng, nhưng sau đó lên tiếng hỏi nó, “Nếu chú mày không để bụng, liệu có thể cho bác biết thêm về xuất thân của chú mày không?” Con khỉ đã cân nhắc điều này, và sau đó nói, “Vầng, chuyện đó cũng được thôi. Có thể sẽ không hay ho như bác mong đợi, nhưng nhà cháu sẽ nghỉ làm lúc mười giờ, và


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 127 cháu có thể ghé lại phòng của bác sau đó. Nó có tiện không ạ?” “Nhất định rồi,” tôi đáp ngay. “Bác cũng sẽ rất biết ơn nếu chú mày có thể mang theo một ít bia nhé.” “Cháu hiểu rồi ạ. Một ít bia lạnh. Sapporo được chứ ạ?” “Ngon luôn. Thế là chú mày cũng uống bia hử?” “Vầng, chút đỉnh thì không sao ạ.” “Rồi, vậy vui lòng mang lên đây hai chai lớn nhé.” “Dĩ nhiên ạ. Nếu cháu nhớ chính xác thì nhà bác đang ở trong phòng Araiso Suite, trên tầng hai phải không ạ?” “Chuẩn rồi,” tôi đáp. “Mặc dù vậy, nhà bác thấy có lạ đời không cơ chứ?” con khỉ nói. “Một quán trọ trên núi mà lại có cái phòng tên là Araiso – “Đầm bờ biển.” con khỉ cười hinh hích. Đời tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng khỉ cười bao giờ. Nhưng tôi đoán sẽ có những lúc lũ khỉ cũng thường cười, và thậm chí cả khóc. Tôi cũng chẳng nên kinh ngạc làm gì, như nó đang thao thao bất tuyệt đấy thây. “Nhân tiện, chú mày có tên không hả khỉ?” Tôi hỏi. “Không ạ, nhà cháu không có tên, cứ tự thân là khỉ thôi. Nhưng mọi người thường gọi cháu là Khỉ Shinagawa.” Con khỉ trượt mở cánh cửa kính, quay lại và cúi chào lịch sự, rồi từ từ đóng cửa lại. Đã mười giờ rưỡi khi con khỉ đến phòng Araiso Suite, mang một cái mâm có hai chai bia lớn. Ngoài bia, trên mâm còn có cái khui nắp chai, hai chiếc cốc và một số đồ ăn nhẹ: khô, mực một nắng và một túi bánh quy gạo kakipi với đậu phộng. Những món nhắm vặt rất điển hình. Quả là một chú khỉ chu đáo. Con khỉ bây giờ đã mặc quần áo, với quần thể thao màu xám và áo sơ mi dài tay dày có chữ I <3 NY in trên đó, có lẽ là quần áo cũ của mấy đứa trẻ con nào đó. Không có bàn ở trong phòng, vì vậy chúng tôi ngồi cạnh nhau, trên những lớp đệm zabuton mỏng, và tựa lưng vào tường. Con khỉ dùng khui bật nắp một trong hai chai bia và rót đều ra hai cốc. Chúng tôi âm thầm nâng cốc với nhau. “Cảm ơn bác vì mời cháu uống bia,” con khỉ nói và vui vẻ uống cốc bia lạnh.


128 HARUKI MURAKAMI Tôi cũng uống một ít. Thành thật mà nói, tôi cảm thấy kỳ quặc khi ngồi cạnh một con khỉ và chia sẻ với bia với nó, nhưng tôi đồ là mình cũng đã quen rồi. “Một ly bia sau khi làm việc đúng là vô đối,” con khỉ nói, lau miệng bằng mu bàn tay đầy lông. “Nhưng mà đối với một con khỉ, cơ hội để được uống bia như thế này là rất hiếm đấy bác.” “Chú mày có sống trong nhà trọ này không?” “Có, nhà cháu có một căn phòng trên gác xép mà họ cho cháu làm chỗ nghỉ. Thỉnh thoảng bọn chuột lại rúc rích chạy qua, vậy nên cũng khó mà thư giãn ở đó được, nhưng nhà cháu chỉ là một con khỉ, vì vậy cháu phải biết ơn khi có một chiếc giường để ngủ và ba bữa cơm bỏ bụng mỗi ngày. Đây có phải là thiên đường hay chốn bồng lai tiên cảnh nào đâu.” Con khỉ đã uống xong cốc bia đầu tiên của mình, vì vậy tôi rót cho nó một cốc khác. “Cảm tạ nhà bác rất nhiều,” con khỉ nói một cách lịch sự. “Chú mày không chỉ sống với con người mà còn với đồng loại của chú nữa chứ nhỉ? Ý bác là các liền anh liền chị khỉ khác ấy?” Tôi hỏi. Có rất nhiều điều tôi muốn hỏi nó . “Có ạ, chỉ vài lần thôi,” con khỉ trả lời, mặt khẽ cau lại. Những nếp nhăn bên mắt nó hình thành những nếp gấp sâu. “Vì nhiều lý do khác nhau, nhà cháu đã bị đuổi ra khỏi Shinagawa và được thả ra ở Takasakiyama, khu vực phía nam mà nổi tiếng với công viên khỉ ấy. Lúc đầu nhà cháu nghĩ rằng mình có thể sống hòa bình ở đó, nhưng mọi thứ đã không diễn ra yên ổn như vậy. Những bạn khỉ khác là những đồng chí khỉ thân yêu của cháu, mong bác chớ hiểu lầm, nhưng vì đã được nuôi dưỡng trong một gia đình con người, bởi ông giáo sư và vợ của ông ấy, nên nhà cháu không thể bày tỏ tình cảm của mình với hội khỉ. Chúng cháu có rất ít điểm chung, và giao tiếp không hề dễ dàng gì. “Mày nói chuyện hài hước quá đấy,” chúng nó nói với cháu thế, còn hùa nhau chế nhạo và bắt nạt cháu. Những con khỉ cái sẽ cười khúc khích khi chúng nhìn cháu. Khỉ cực kỳ nhạy cảm với sự khác biệt từng khắc một. Chúng nó thấy cách cháu hành động thật ngớ ngẩn, và điều đó làm chúng phiền mắt, đôi khi còn làm chúng nó khó chịu. Việc ở lại đó trở nên khó khăn hơn, vì vậy cuối cùng cháu đã tự mình rời đi. Nói cách khác, trở thành một con khỉ lang thang.” “Chắc hẳn chú mày phải cảm thấy cô đơn lắm.” “Rõ ràng. Không ai bảo vệ cháu, và nhà cháu phải tự mình kiếm ăn và tìm cách nào đó sống sót. Nhưng điều tồi tệ nhất là cháu không có một ai để liên lạc. Nhà cháu không thể nói chuyện với khỉ hoặc với con người. Cô lập như thế rất đau lòng. Takasakiyama có rất nhiều du khách loài người, nhưng nhà cháu không thể bắt đầu


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 129 một cuộc trò chuyện với bất cứ ai mà mình tình cờ gặp. Cứ thử làm thế xem rồi sẽ phải trả giá đắt. Rốt cuộc nhà cháu đã sắp xếp không phải ở đây cũng chả phải ở đó, không phải là một phần của xã hội loài người, mà cũng chả phải là một phần của thế giới khỉ. Đó là một sự tồn tại gian nan.” “Chú mày cũng không thể nghe nhạc của Bruckner nữa.” “Đúng ạ. Đó là một phần cuộc sống của nhà cháu bây giờ,” khỉ Shinagawa nói và uống thêm một ít bia. Tôi đã nhìn chăm chú vào khuôn mặt nó, nhưng từ đầu vốn mặt nó đã đỏ, nên tôi không thể nhận thấy nếu có chuyển sang đỏ hơn. Tôi nhận ra là con khỉ này có tửu lượng khá lắm. Hoặc là do với loài khỉ, mình không thể biết được khi nào chúng xỉn quắc cần câu nếu chỉ nhìn mặt. “Một điều khác thực sự làm nhà cháu đau khổ là quan hệ với giống cái.” “Bác biết rồi,” tôi nói. “Và cái “quan hệ” mà chú mày đang nhắc đến là gì thế?” “Nói tóm lại, là nhà cháu chả cảm thấy có chút ham muốn tình dục đối với những con khỉ cái cả. Nhà cháu đã có rất nhiều cơ hội để ở bên các cô khỉ, nhưng chưa bao giờ thực sự cảm thấy như thế.” “Nghĩa là dù chú mày là một quý ông khỉ nhưng các cô khỉ gái lại không thể làm chú mày hứng lên được hử?” “Chuẩn rồi bác. Chính xác đến từng milimet. Nói nghe tuy ngượng mồm, nhưng thật lòng, nhà cháu chỉ có thể yêu con người.” Tôi im lặng và nốc cạn cốc bia của mình. Tôi mở gói bim bim và vốc lấy một nắm. “Bác nghĩ điều này có thể gây ra một số rắc rối thật đấy.” “Vầng, quả nhiên là vấn đề thật. Rốt cuộc, nhà cháu cũng chỉ là một con khỉ, không có cách nào để nhà cháu có thể mong đợi phụ nữ loài người đáp ứng lại mong muốn của cháu. Thêm vào đó, nó đi ngược lại với di truyền học.” Tôi đợi nó nói tiếp. Con khỉ xoa mạnh sau tai và cuối cùng tiếp tục. “Vì vậy, nhà cháu đã phải tìm một cách khác để loại bỏ những ham muốn chưa được thỏa mãn của mình đấy ạ.” “Cách khác” là cách gì vậy?” Con khỉ nhíu mày sâu. Khuôn mặt đỏ ửng của nó trở nên tối đi.


HARUKI MURAKAMI


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 131 “Rõ ràng. Không ai bảo vệ cháu, và nhà cháu phải tự mình kiếm ăn và tìm cách nào đó sống sót. Nhưng điều tồi tệ nhất là cháu không có một ai để liên lạc. Nhà cháu không thể nói chuyện với khỉ hoặc với con người. Cô lập như thế rất đau lòng. Takasakiyama có rất nhiều du khách loài người, nhưng nhà cháu không thể bắt đầu một cuộc trò chuyện với bất cứ ai mà mình tình cờ gặp. Cứ thử làm thế xem rồi sẽ phải trả giá đắt. Rốt cuộc nhà cháu đã sắp xếp không phải ở đây cũng chả phải ở đó, không phải là một phần của xã hội loài người, mà cũng chả phải là một phần của thế giới khỉ. “Chắc hẳn chú mày phải cảm thấy cô đơn lắm.” Đó là một sự tồn tại gian nan...


132 HARUKI MURAKAMI “Có thể nhà bác không tin cháu,” khỉ nói. “Hay cháu nên nói rằng, có lẽ bác sẽ chả tin được đâu. Nhưng từ một thời điểm nhất định, cháu đã bắt đầu đánh cắp tên của những người phụ nữ mà cháu yêu.” “Ăn cắp tên của họ ư?” “Chính xác. Cháu cũng không chắc tại sao, nhưng dường như nhà cháu được sinh ra với một tài năng đặc biệt cho việc ấy. Nếu cháu cảm thấy thích nó, cháu có thể đánh cắp tên của người đó và biến nó thành của riêng cháu.” Một làn sóng hỗn loạn xô vào tôi. “Bác không chắc là mình hiểu được điều này,” tôi nói. “Khi chú mày nói chú ăn cắp tên người khác, điều đó có nghĩa là họ hoàn toàn mất tên?” “Không. Họ không hoàn toàn mất tên. Cháu chỉ lấy trộm một phần tên của họ, một mảnh tí hin thôi. Nhưng khi nhà cháu lấy mất phần đó, cái tên trở nên ít đáng kể, nhẹ hơn trước. Giống như khi mặt trời khuất sau mây và bóng của bác phản chiếu trên mặt đất trở nên nhạt hơn nhiều. Và tùy thuộc vào từng người, họ có thể không nhận thức được sự mất mát. Họ chỉ có cảm giác rằng đã có một cái gì đó khác biệt hơn một chút.” “Nhưng vài người có nhận thấy rõ ràng, phải không? Rằng một phần tên của họ đã bị đánh cắp?” “Phải, tất nhiên ạ. Đôi khi các cô ấy thấy đã quên mất tiêu tên mình. Khá bất tiện đấy, một sự phiền toái thực sự, như bác có thể tưởng tượng. Và họ thậm chí có thể không nhận ra tên của chính họ là gì. Trong một số trường hợp, họ phải chịu đựng một cái gì đó gần như là một cuộc khủng hoảng danh tính. Tất cả là lỗi của cháu, vì cháu đã đánh cắp tên người đó. . Cháu biết nó sai, nhưng cháu không thể ngăn bản thân mình lại. Dù cháu không cố gắng bào chữa cho hành vi của mình, nhưng mức độ dopamine của cháu buộc cháu phải làm điều đó. Giống như ở đó phát ra tiếng nói, nói với cháu rằng “Ê cu, làm tiếp đi chứ, ăn cắp tên nữa đi nào. Cái này đâu phải là bất hợp pháp hay trái luật gì đâu!” Tôi khoanh tay và nhìn đăm đăm con khỉ. “Dopamine ư?” Cuối cùng, tôi lên tiếng. “Những cái tên mà chú mày lấy trộm chỉ thuộc về những người phụ nữ chú yêu hoặc khao khát tính dục. Bác bảo có đúng không?” “Chính xác. Nhà cháu không ăn cắp ngẫu nhiên bất cứ tên của ai khác.”


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 133 “Thế chú mày đã đánh cắp bao nhiêu cái tên?” Với một biểu hiện nghiêm túc, con khỉ đưa ngón tay lên đếm. Vừa đếm, nó vừa lẩm bẩm điều gì đó. Nó ngước nhìn lên. “Bảy người cả thảy. Nhà cháu đã lấy trộm bảy cái tên phụ nữ.” Ai nói được đây là nhiều hay không? “Chú mày lấy trộm kiểu gì được?” Tôi hỏi. “Nếu chú không phiền nói với bác?” “Tập hợp sức mạnh ý chí cao nhất. Sức mạnh của sự tập trung, năng lượng tâm linh. Nhưng thế vẫn không đủ. Nhà cần một thứ thật sự viết tên người trên đó. Một tấm thẻ định danh là lý tưởng nhất. Bằng lái xe, thẻ sinh viên, thẻ bảo hiểm hoặc hộ chiếu. Dạng dạng vậy. Một tấm thẻ tên cũng rất hiệu quả. Dù sao, nhà cháu cũng cần phải có được một món thực tế như một trong những món đó. Thông thường thì lấy cắp là cách duy nhất. Cháu vốn rất giỏi trong việc lẻn vào phòng của mọi người khi họ ra ngoài. Rồi cháu lục tìm một thứ viết tên họ và lấy nó thôi.” “Nghĩa là chú mày dùng một vật có ghi tên người con gái trên đấy rồi tập trung năng lượng ý chí để thó tên người ta?” “Đúng. Cháu sẽ nhìn chằm chằm vào cái tên đã viết trên đó từ lâu, tập trung cảm xúc, tiếp nhận cái tên của người cháu yêu. Nó mất rất nhiều thời gian và mệt mỏi về tinh thần lẫn thể chất. Nhà cháu hoàn toàn bị cuốn hút vào nó, và bằng cách nào đó, một phần của người phụ nữ ấy sẽ trở thành phần nào của cháu. Và tình cảm với ham muốn của nhà cháu trước đó không có lối thoát, sẽ được thỏa mãn một cách an toàn nhất.” “Vậy nó không ảnh hưởng vật lý gì chứ phải không?” Con khỉ gật đầu. “Nhà cháu biết mình chỉ là một con khỉ hèn mọn, nhưng nhà cháu không bao giờ làm bất cứ điều gì khó coi. Cháu biến cái tên của người con gái mà cháu yêu trở thành một phần trong cháu. Cháu đồng ý rằng nó có chút biến thái, nhưng ấy cũng là một hành động thuần túy, thuần khiết mà. Cháu chỉ đơn giản là bí mật sở hữu tình yêu lớn cho cái tên đó ở trong mình. Như một cơn gió nhẹ thổi qua cánh đồng cỏ vậy thôi.” “Hừmm,” tôi nói, ấn tượng đấy. “Bác nghĩ thậm chí chú mày có thể gọi đó là hình mẫu tột cùng của ái tình lãng mạn được luôn.”


Ở trong tim này, cháu trân trọng tên của bảy người phụ nữ xinh đẹp mà cháu yêu.” Con khỉ đặt lòng bàn tay lên lồng ngực rậm lông. “Cháu đã dự định sẽ dùng những ký ức này như một nguồn nhiên liệu nhỏ bé của riêng mình, nhóm lửa lên giữa những đêm lạnh lẽo, sưởi ấm cho cháu, để cháu sống tiếp phần đời còn lại của mình.” Con khỉ lại cười khúc khích và khẽ lắc đầu vài lần. “Quả là một cách kỳ cục để diễn tả, phải không bác?” nó nói. “Phần đời còn lại”. Dù rằng cháu chỉ là một con khỉ chứ không phải con người. Hì hì!” “Cháu tin rằng tình yêu là nhiên liệu không thể thiếu để chúng ta tiếp tục sống. Một ngày nào đó tình yêu có thể kết thúc. Hoặc cũng có thể chẳng bao giờ tạo ra bất cứ giá trị gì. Nhưng ngay cả khi ái tình dần tan biến đi, thậm chí là không được đáp lại, chúng ta vẫn có thể lưu lại ký ức về việc yêu thương một người, đã từng say đắm họ ra sao. Và đó là một nguồn sưởi ấm vô giá. Nếu không có nguồn nhiệt đó, có là trái tim người hay trái tim khỉ cũng sẽ biến thành một vùng đất hoang lạnh lẽo, cằn cỗi mà thôi. Một nơi không có lấy tia nắng nào chiếu rọi, nơi những cánh hoa hòa bình, những ngọn cây hy vọng không hề có cơ hội lớn lên. 134 HARUKI MURAKAMI


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 135 “Cháu đồng ý. Nhưng nó cũng là hình mẫu tột cùng của sự cô đơn. Giống như hai mặt của một đồng xu. Hai thái cực bị mắc kẹt với nhau và không bao giờ có thể tách rời.” Cuộc trò chuyện của chúng tôi tạm dừng lại ở đây, con khỉ với tôi lặng lẽ uống bia của mình, nhấm nháp bánh gạo kakipi và mực khô. “Gần đây chú mày đã thó tên của cô nào rồi?” Tôi hỏi. Con khỉ lắc đầu. Nó dứt dứt vài sợi lông cứng trên cánh tay mình, như thể đang chắc chắn rằng bản thân là một con khỉ đích thực. “Không bác ơi, dạo này cháu chẳng chôm chỉa bất cứ tên của quý cô nào cả. Sau khi nhà cháu đặt chân đến thị trấn này, cháu đã quyết định vứt bỏ hành vi sai trái đó lại sau lưng. Nhờ đó mà linh hồn của chú khỉ nhỏ này mới tìm được chút cứu rỗi yên bình. Nhà cháu trân trọng tên của bảy người phụ nữ ấy trong tim và sống một cuộc đời bình lặng, an tĩnh.” “Bác rất vui khi nghe chú mày nói thế,” tôi tán đồng “Nhà cháu biết điều này có hơi hỗn, nhưng nhà cháu tự hỏi liệu bác có ưng bụng không khi cho phép cháu đưa ra quan điểm của riêng mình về chủ đề tình yêu.” “Tất nhiên là được rồi,” tôi đồng ý. Con khỉ chớp chớp mắt nhiều lần. Hàng lông mi dày của nó vẫy lên vẫy xuống như những tán lá cọ đu đưa trong gió. Nó hít một hơi thật sâu, thật chậm, kiểu hít thở của một vận động viên nhảy cao trước khi bắt đầu bước tiếp cận. “Cháu tin rằng tình yêu là nhiên liệu không thể thiếu để chúng ta tiếp tục sống. Một ngày nào đó tình yêu có thể kết thúc. Hoặc cũng có thể chẳng bao giờ tạo ra bất cứ giá trị gì. Nhưng ngay cả khi ái tình dần tan biến đi, thậm chí là không được đáp lại, chúng ta vẫn có thể lưu lại ký ức về việc yêu thương một người, đã từng say đắm họ ra sao. Và đó là một nguồn sưởi ấm vô giá. Nếu không có nguồn nhiệt đó, có là trái tim người hay trái tim khỉ cũng sẽ biến thành một vùng đất hoang lạnh lẽo, cằn cỗi mà thôi. Một nơi không có lấy tia nắng nào chiếu rọi, nơi những cánh hoa hòa bình, những ngọn cây hy vọng không hề có cơ hội lớn lên. Ở trong tim này, cháu trân trọng tên của bảy người phụ nữ xinh đẹp mà cháu yêu.” Con khỉ đặt lòng bàn tay lên lồng ngực rậm lông. “Cháu đã dự định sẽ dùng những ký ức này như một nguồn nhiên liệu nhỏ bé của riêng mình, nhóm lửa lên giữa những đêm lạnh lẽo, sưởi ấm cho cháu, để cháu sống tiếp phần đời còn lại của mình.” Con khỉ lại cười khúc khích và khẽ lắc đầu vài lần.


136 HARUKI MURAKAMI “Quả là một cách kỳ cục để diễn tả, phải không bác?” nó nói. “Phần đời còn lại”. Dù rằng cháu chỉ là một con khỉ chứ không phải con người. Hì hì!” Đã mười một giờ rưỡi, rốt cuộc chúng tôi cũng uống xong hai chai bia lớn. “Cháu nên đi rồi”, khỉ nói. “Cháu e rằng mình lại bốc lên mà rượu vào lời ra luyên thuyên quá rồi. Xin lỗi bác nhé.” “Không đâu, bác lại thấy đó là một câu chuyện thú vị,” tôi nói. Cho dù, “thú vị” chưa hẳn là một từ chính xác. Ý tôi là, cùng uống bia và trò chuyện với một con khỉ là một trải nghiệm khá dị thường tự thân. Thêm vào đó, thực tế là con khỉ đặc biệt này lại yêu thích Bruckner và trộm tên của những người phụ nữ vì nó bị ham muốn tình dục thôi thúc (hoặc có lẽ là tình yêu), và “thú vị” thì không đủ đô để diễn tả trải nghiệm ấy. Đó là điều đáng kinh ngạc nhất mà tôi đã từng nghe. Nhưng tôi không muốn khuấy động cảm xúc con khỉ này quá mức cần thiết, vì vậy tôi đã chọn một từ trung tính, êm dịu hơn. Khi chúng tôi nói lời chia tay, tôi có đưa cho con khỉ tờ một nghìn yên làm tiền boa. “Không nhiều đâu”, tôi bảo nó, “Nhưng hãy mua món gì đó ngon ngon mà ăn nhé.” Lúc đầu con khỉ từ chối, nhưng tôi cứ khăng khăng và cuối cùng nó cũng phải nhận. Nó gấp tờ tiền lại và cẩn thận nhét vào túi quần bó sát. “Nhà bác tốt bụng quá,” nó cảm động. “Bác đã ngồi nghe câu chuyện cuộc đời ngớ ngẩn của cháu, mời cháu uống bia, và bây giờ là cử chỉ hào phóng này. Cháu không biết phải nói sao cho bác rõ cháu coi trọng nó đến nhường nào!” Con khỉ đặt chai bia và cặp cốc rỗng vào mâm và mang ra khỏi phòng. Sáng hôm sau, tôi rời khỏi nhà trọ và quay lại Tokyo. Tại quầy lễ tân, chả thấy bóng dáng lão già đáng sợ trụi-cả-lông-lẫn-lông-mày đâu, cũng không thấy cả con mèo già có vấn đề về mũi nốt. Thay vào đó, là một người phụ nữ trung niên mập mạp, và khi tôi nói mình muốn trả các khoản phí bổ sung cho những chai bia đêm qua thì bà ta nói chắc nịch rằng, không có khoản phí nào trong hóa đơn của tôi. “Ở đây chúng tôi chỉ có bia lon từ máy bán hàng tự động thôi,” bà nhấn mạnh. “Chúng tôi không bao giờ bán bia chai.” Một lần nữa tôi đâm bối rối quá. Tôi cảm thấy như thể các mảnh ghép của thực tế và vô thực đang ngẫu nhiên đổi chỗ cho nhau. Nhưng tôi chắc chắn đã cùng uống cạn hai chai bia Sapporo lớn với con khỉ trong lúc lắng nghe câu chuyện đời nó cơ mà.


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 137 Tôi định lôi chuyện con khỉ ra hỏi người phụ nữ trung niên, nhưng rồi tự ngăn mình lại. Có lẽ con khỉ đã không thực sự tồn tại, và tất cả chỉ là ảo ảnh, sản phẩm của một bộ não bị ngâm quá lâu trong suối nước nóng. Hoặc có thể những gì tôi trông thấy là một giấc mơ kỳ lạ, siêu thực. Nếu tôi thốt lên, kiểu: “Bà chị có một đứa phục vụ là con khỉ già biết nói, bà chị nhỉ?” mọi thứ có thể bị đánh bật ngay, và trong trường hợp xấu nhất, bà ta sẽ cho rằng tôi bị điên. Rất có thể con khỉ là một nhân viên ngoài hợp đồng, và nhà trọ không thể thừa nhận nó công khai vì sợ bị báo cho cơ quan thuế hoặc sở y tế. Trên chuyến tàu về nhà, tôi đã tự phát lại trong đầu mọi thứ mà con khỉ nói với mình. Tôi ghi lại tất cả các chi tiết, nhiều nhất tôi có thể nhớ được, trong một cuốn sổ mà tôi sử dụng cho công việc, nghĩ thầm khi quay trở lại Tokyo tôi sẽ viết ra hết mọi thứ từ đầu đến cuối. Nếu con khỉ thực sự tồn tại, và đó là cách duy nhất tôi có thể thấy nó, thì tôi không dám chắc rằng tôi nên chấp nhận những gì nó đã nói với mình sau chầu bia. Thật khó để đánh giá câu chuyện của nó một cách công bằng. Có thực sự nó đánh cắp được tên phụ nữ và sở hữu chúng không? Đây có phải là một khả năng độc đáo mà chỉ khỉ Shinagawa mới được phú cho? Có lẽ con khỉ là một kẻ nói dối bệnh hoạn. Ai mà biết được? Đương nhiên, trước giờ tôi chưa bao giờ nghe nói về một con khỉ mắc bệnh nói dối nào cả, nhưng nếu một con khỉ có thể nói ngôn ngữ của con người một cách khéo léo như nó, thì không loại trừ khả năng nó cũng đã thành một kẻ nói dối theo thói quen. Tôi đã phỏng vấn nhiều người như một phần công việc của mình, nên đã trở nên khá nhạy trong việc đánh hơi xem ai đáng tin và ai không tin được. Khi ai đó nói chuyện một lúc, ta có thể nhận được những gợi ý và tín hiệu tinh tế nhất định, để có được cảm giác trực quan về việc người đó có đáng tin hay không. Tôi không hề có cảm giác những gì Khỉ Shinagawa kể với tôi là một câu chuyện bịa đặt. Cái nhìn trong mắt và biểu cảm của nó, cách nó thỉnh thoảng ngẫm nghĩ, khoảnh khắc nó ngừng lại, hành vi cử chỉ, cách nó chú tâm tìm từ ngữ, đều không có gì giả tạo hay bị ép buộc. Và, hơn hết, có cả sự trung thực, thậm chí là đau đớn về lời thú nhận của mình. Chuyến du lịch độc hành thoải mái của tôi kết thúc rồi, tôi lại về với guồng quay bão táp của thành phố. Ngay cả khi tôi không có bất kỳ nhiệm vụ lớn nào liên quan đến công việc, thì chẳng hiểu sao, khi tôi già đi, tôi lại thấy mình bận rộn hơn bao giờ hết. Và thời gian dường như tăng tốc đều đặn. Rốt cuộc, tôi chưa bao giờ nói với ai về Khỉ Shinagawa, hoặc viết bất cứ điều gì về nó. Thử làm gì nếu không ai tin tôi? Trừ khi tôi có thể cung cấp bằng chứng để chứng minh rằng con khỉ ấy thực sự tồn tại, bằng không mọi người sẽ chỉ cười tôi là “Phét lác quen mồm!”.


138 HARUKI MURAKAMI Và nếu tôi viết về nó như chuyện hư cấu, thì câu chuyện sẽ thiếu trọng tâm hoặc luận điểm rõ ràng. Tôi cũng có thể mường tượng ra vẻ mặt bối rối của biên tập viên khi nói rằng: “Vì ngài là tác giả nên tôi cũng ngại phải hỏi lắm, nhưng chủ đề của câu chuyện này là gì vậy?” Chủ đề? Khó thể nói rằng có chủ đề. Nó chỉ kể về một con khỉ già biết nói tiếng người, kẻ đã kỳ cọ lưng cho khách nơi suối nước nóng ở một thị trấn nhỏ ở tỉnh Gunma, khỉ thích bia lạnh, yêu phụ nữ loài người và đánh cắp tên của họ. Thế thì chủ đề nằm ở đâu? Hay là về mặt tâm linh? Và khi thời gian trôi qua, ký ức về thị trấn suối nước nóng đó bắt đầu phai nhạt. Cho dù những ký ức có thể sống động đến dường nào, chúng vẫn không thể chiến thắng được thời gian. Nhưng bây giờ, tức năm năm sau, tôi đã quyết định viết về nó, dựa trên những ghi chú tôi viết nguệch ngoạc hồi đó. Tất cả chỉ vì vài chuyện xảy ra gần đây khiến tôi suy nghĩ. Nếu sự cố đó không xảy ra, có khi tôi đã chẳng viết làm gì. Tôi có một cuộc hẹn liên quan đến công việc trong sảnh cà phê của một khách sạn ở Akasaka. Người tôi gặp là biên tập viên của một tạp chí du lịch. Một người phụ nữ rất hấp dẫn, khoảng ba mươi tuổi, nhỏ nhắn, với mái tóc dài, nước da đáng yêu và đôi mắt to tròn, quyến rũ. Cô ấy là một biên tập viên tài năng. Và vẫn độc thân. Chúng tôi đã làm việc cùng nhau khá nhiều lần và rất ăn ý. Sau khi bàn công việc xong, chúng tôi ngồi lại cà phê trò chuyện với nhau một lúc. “Em rất xin lỗi,” cô thì thầm với tôi, tay che điện thoại. “Em biết câu hỏi này lạ lắm, nhưng tên của em là gì?” Tôi giật nảy mình, nhưng vẫn tỏ ra bình thường hết mức có thể, và nói với cô họ tên đầy đủ của cô. Cô gật đầu, chuyển thông tin cho người ở phía đầu dây bên kia. Rồi cô cúp máy và xin lỗi tôi lần nữa. “Em rất xin lỗi về chuyện ấy. Bỗng dưng em không thể nhớ ra tên của mình. Mắc cỡ quá.” “Đôi khi điều đó lại xảy ra à?” Tôi hỏi. Cô có vẻ do dự, nhưng cuối cùng cũng gật đầu. “Có, dạo này nó xảy ra thường xuyên. Em chỉ không thể nhớ ra tên em. Như thể em bị mất trí nhớ tạm thời hay kiểu kiểu vậy.” “Cô có quên những thứ khác không? Dạng như cô không thể nhớ ra ngày sinh nhật, hay số điện thoại của cô, hoặc mã số pin ấy?”


LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA 139 Cô lắc đầu dứt khoát. “Không, hoàn toàn không. Em luôn luôn có một trí nhớ cực kỳ tốt. Em nhớ rõ hết sinh nhật của bạn bè mình bằng cả tấm lòng. Em chưa từng quên bất cứ tên người nào khác, dù chỉ một lần thôi nhé. Nhưng thi thoảng em lại không thể nhớ ra tên của chính em. Em không hình dung ra nổi nó. Sau vài phút, trí nhớ của em lại trở lại, nhưng vài phút đó hoàn toàn bất tiện, và khiến em phát hoảng lên. Nó giống như em không còn là chính mình nữa. Anh có nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh Alzheimer khởi phát sớm không?” Tôi thở dài. “Về mặt y học thì anh cũng chả rõ. Nhưng bắt đầu từ lúc nào mà nhà cô lại tự nhiên quên béng luôn cả tên chính mình thế?” Cô nheo mắt suy nghĩ. “Em nghĩ là cách đây khoảng nửa năm. Em nhớ chính là cái hôm em đi ngắm hoa anh đào ấy. Đấy là lần đầu tiên.” “Anh hỏi câu này nghe có vẻ quái, nhưng cô có mất gì vào thời điểm đó không? Mấy loại thẻ định danh, như giấy phép lái xe, hộ chiếu, thẻ bảo hiểm chẳng hạn?” Cô mím môi, suy nghĩ một lúc, rồi trả lời. “Anh biết không, giờ anh nhắc đến em mới nhớ, đợt đấy em đã làm mất bằng lái xe. Lúc ấy là giờ ăn trưa và em đang ngồi trên ghế đá công viên, thư giãn một tí, em đặt túi xách sát ngay cạnh mình trên băng ghế. Đang vặn lại thỏi son cho chặt, và khi nhìn lại thì chiếc túi xách đã không cánh mà bay. Em chả hiểu chuyện quái gì đã xảy ra cả. Em chỉ nhìn đi chỗ khác trong một giây và không hề cảm giác có ai ở gần hoặc nghe thấy tiếng bước chân nào luôn. Em cũng thử nhìn khắp xung quanh, nhưng chỉ có mình em thôi. Cái công viên ấy rất yên tĩnh, và em dám chắc rằng nếu có ai đó đến lấy cắp túi của em, em sẽ biết ngay.” Tôi đợi cô ấy kể tiếp. “Nhưng đó không phải là chuyện lạ lùng duy nhất. Ngay chiều hôm đó em nhận được một cuộc gọi từ cảnh sát, nói rằng túi xách của em đã được tìm thấy. Nó được để bên ngoài một đồn cảnh sát nhỏ ở gần công viên. Tiền vẫn còn nguyên bên trong, cũng như thẻ tín dụng các thứ, thẻ A.T.M. và điện thoại di động. Tất cả vẫn còn nguyên đó, chả ai đụng vào. Chỉ có bằng lái xe của em là đã bốc hơi. Chú cảnh sát đã sửng sốt lắm luôn ấy. Có kẻ nào mà lại không lấy tiền mặt, chỉ thó có mình bằng lái, và lại còn để túi ngay bên ngoài đồn cảnh sát nữa cơ chứ?” Tôi khẽ thở dài, nhưng không nói gì. “Đợt đó là cuối tháng ba. Ngay lập tức, em đã đến văn phòng xe cơ giới ở Samezu và nhờ họ cấp giấy phép mới. Toàn bộ sự việc khá kỳ lạ, nhưng may mắn thay, chẳng có bất kỳ bất cập thực sự nào xảy ra.”


140 HARUKI MURAKAMI “Samezu là ở khu Shinagawa nhỉ?” “Đúng rồi anh ạ. Nó ở thành phố Higashioi. Công ty của em nằm ở Takanawa, vậy nên chỉ mất một chuyến taxi nhanh thôi,” cô nói. Rồi ném cho tôi một cái nhìn nghi ngờ. “Anh có nghĩ rằng có một sự liên kết không? Giữa việc em không nhớ ra tên mình và vụ mất bằng lái?” Tôi vội lắc đầu nguầy nguậy. Tôi đâu thể mang chính xác chuyện con khỉ Shinagawa ra kể được. “À không không, anh không nghĩ là có kết nối gì cả đâu,” tôi nói. “Tự nhiên nó nhảy số ra trong đầu anh thế thôi. Vì nó liên quan đến tên cô mà.” Cô nom có vẻ không tin. Tôi biết thế này là rất liều, nhưng có một câu hỏi quan trọng hơn tôi cần phải hỏi. “Nhân tiện, nhà cô có thấy con khỉ nào gần đây không?” “Khỉ ấy à?” Cô hỏi lại. “Ý anh là động vật ấy hả?” “Phải rồi, con khỉ bằng xương bằng thịt ấy,” tôi nói. Cô lắc đầu. “Em cho là mình đã không nhìn thấy khỉ khiếc gì trong nhiều năm. Chả phải ở sở thú, cũng chả phải ở đâu khác.” Tình yêu cùng cực, cô đơn cùng cực. Kể từ đó, bất cứ khi nào tôi nghe thấy một bản giao hưởng của Bruckner, tôi đều ngẫm đến cuộc đời riêng của con khỉ Shinagawa. Tôi hình dung về con khỉ già trong thị trấn suối nước nóng nhỏ bé đó, trên gác mái ở một quán trọ tồi tàn, ngả lưng lên một tấm nệm mỏng. Và tôi nghĩ về những món ăn vặt, bánh gạo kakipi và mực khô mà cả hai rất thích khi uống bia cùng nhau, lưng tựa vào tường. Kể từ đó, tôi không còn nhìn thấy cô biên tập viên tạp chí du lịch xinh đẹp ấy nữa, thế nên tôi cũng chẳng biết về sau số phận nào đã xảy đến với tên cô. Tôi hy vọng nó đã không gây ra cho cô bất cứ trở ngại thật sự nào. Rốt cuộc thì, cô cũng đâu đáng bị như vậy. Cô chẳng có lỗi gì cả. Điều đó làm tôi cảm thấy rất buồn, nhưng tôi đâu có quyền gì để kể với cô câu chuyện về con khỉ Shinagawa.


141 Tôi thật tâm không muốn nghĩ rằng Khỉ Shinagawa đã quay trở lại để đánh cắp tên. Nó đã nói với tôi một cách chân thành rằng chỉ cần bảy cái tên người đàn bà mình yêu là đã đủ lấp đầy bên trong nó rồi, và nó hạnh phúc là đơn thuần lặng lẽ đi qua những năm tháng còn lại trong thị trấn suối nước nóng nhỏ bé đó. Nó dường như có ý đó. Nhưng có lẽ con khỉ bị bệnh tâm lý mãn tính, chỉ nguyên nhân ấy thôi đã không thể kiểm soát nổi. Và có lẽ căn bệnh của nó, thứ dopamine đáng nguyền rủa của nó, đang thúc giục con khỉ làm điều đó! Dường như tất cả những thứ ấy đã kéo tuột nó lại những ám ảnh cũ ở Shinagawa, trở lại với những thói quen xấu xa mà trước đây nó có. Có lẽ đôi khi tôi sẽ thử làm thế xem. Vào những đêm không ngủ, cái suy nghĩ ngẫu nhiên, huyền ảo đó đôi bận lại ùa về. Đi xoáy thử những tấm thẻ định danh hoặc bảng tên của một người phụ nữ tôi yêu, tập trung vào nó như chiếu tia laser, hút tên nàng vào trong tôi và sở hữu một phần của nàng, tất cả chỉ dành cho riêng tôi. Điều đó sẽ cảm thấy như thế nào? LỜI THỨ TỘI CỦA KHỈ SHINAGAWA


NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT 143 Tôi rất hiếm khi mặc com-lê. Nhiều nhất, có thể là hai hoặc ba lần một năm, vì rất hiếm có dịp nào mà tôi cần phải lên đồ chỉnh tề. Thỉnh thoảng tôi có thể mặc một chiếc áo vest bình thường, nhưng không thắt cà vạt hoặc đi giày da. Đó là kiểu sống mà tôi đã chọn cho mình, vậy nên mọi thứ cứ diễn ra như thế. Tuy nhiên, thi thoảng ngay cả khi không cần thiết, tôi vẫn quyết định mặc vest và thắt cà vạt. Tại sao lại thế? Khi tôi mở tủ quần áo của mình và kiểm tra xem có những loại quần áo nào (tôi phải làm như vậy, nếu không tôi không biết mình đang sở hữu loại quần áo nào), và nhìn vào những bộ quần áo mà tôi chưa bao giờ mặc, những chiếc sơ-mi dài vẫn còn trong những chiếc túi nhựa bọc quần áo của tiệm giặt khô, và những chiếc cà-vạt trông mới tinh, không có dấu vết đã từng được sử dụng, tôi lại bắt đầu cảm thấy có lỗi với những bộ quần áo này. Tiếp đến, tôi thử chúng chỉ để xem chúng trông như thế nào. Tôi thử nghiệm với nhiều cách thắt cà vạt khác nhau để xem liệu tôi có còn nhớ cách thực hiện hay không. Trong đó có một lần tạo nút thắt thích hợp. Lần duy nhất tôi làm tất cả những điều này là khi tôi ở nhà một mình. Nếu có người khác ở đây, tôi sẽ phải giải thích những gì tôi đang làm. Một khi tôi đã cố ý lên đồ, có vẻ như sẽ lãng phí nếu cởi bỏ tất cả ngay lập tức, vì vậy tôi đã ra ngoài một lúc trong lớp ăn diện như vậy. Đi dạo quanh thành phố trong bộ vest và thắt cà vạt. Và cảm thấy rất… sướng. Tôi có cảm tưởng rằng ngay cả biểu hiện trên khuôn mặt và dáng đi của tôi cũng được biến đổi. Đó là một cảm giác tràn trề sinh lực, như thể được tạm thời rời xa mọi ngày. Ngôi thứ nhất số ít


144 HARUKI MURAKAMI Tôi rất hiếm khi mặc com-lê. Nhiều nhất, có thể là hai hoặc ba lần một năm, vì rất hiếm có dịp nào mà tôi cần phải lên đồ chỉnh tề. Thỉnh thoảng tôi có thể mặc một chiếc áo vest bình thường, nhưng không thắt cà vạt hoặc đi giày da. Đó là kiểu sống mà tôi đã chọn cho mình, vậy nên mọi thứ cứ diễn ra như thế. Tuy nhiên, thi thoảng ngay cả khi không cần thiết, tôi vẫn quyết định mặc vest và thắt cà vạt. Tại sao lại thế? Khi tôi mở tủ quần áo của mình và kiểm tra xem có những loại quần áo nào (tôi phải làm như vậy, nếu không tôi không biết mình đang sở hữu loại quần áo nào), và nhìn vào những bộ quần áo mà tôi chưa bao giờ mặc, những chiếc sơ-mi dài vẫn còn trong những chiếc túi nhựa bọc quần áo của tiệm giặt khô, và những chiếc cà-vạt trông mới tinh, không có dấu vết đã từng được sử dụng, tôi lại bắt đầu cảm thấy có lỗi với những bộ quần áo này. Tiếp đến, tôi thử chúng chỉ để xem chúng trông như thế nào. Tôi thử nghiệm với nhiều cách thắt cà vạt khác nhau để xem liệu tôi có còn nhớ cách thực hiện hay không. Trong đó có một lần tạo nút thắt thích hợp. Lần duy nhất tôi làm tất cả những điều này là khi tôi ở nhà một mình. Nếu có người khác ở đây, tôi sẽ phải giải thích những gì tôi đang làm. Một khi tôi đã cố ý lên đồ, có vẻ như sẽ lãng phí nếu cởi bỏ tất cả ngay lập tức, vì vậy tôi đã ra ngoài một lúc trong lớp ăn diện như vậy. Đi dạo quanh thành phố trong bộ vest và thắt cà vạt. Và cảm thấy rất… sướng. Tôi có cảm tưởng rằng ngay cả biểu hiện trên khuôn mặt và dáng đi của tôi cũng được biến đổi. Đó là một cảm giác tràn trề sinh lực, như thể được tạm thời rời xa mọi ngày. Nhưng sau một giờ hoặc lâu hơn trôi qua, cảm giác mới mẻ này mất dần. Tôi từ từ cảm thấy mệt mỏi với việc mặc vest và thắt cà vạt, chiếc cà vạt bắt đầu ngứa ngáy và quá chặt, như thể nó đang khiến tôi nghẹt thở. Giày da dội quá mạnh và to khi chúng va vào mặt đường. Vì vậy, tôi về nhà, cởi giày da, lột bộ com-lê và cà vạt, thay một bộ quần thể thao với áo len đã sờn cũ, ngồi phịch xuống ghế sô-pha, cảm thấy thư thái và bình yên. Buổi lễ bí mật kéo dài một giờ nhỏ này hoàn toàn vô hại, hoặc ít nhất không phải là điều tôi cần phải cảm thấy tội lỗi. Tôi đang ở nhà một mình. Vợ tôi đã ra ngoài ăn cơm Tàu. Tôi không bao giờ ăn món Tàu (tôi nghĩ mình bị dị ứng với một số loại gia vị họ sử dụng), thế nên nàng luôn đi cùng người bạn gái thân thiết bất cứ khi nào nàng cảm thấy thèm. Sau bữa tối nhanh chóng, tôi đặt một tuyển tập nhạc cũ của Joni Mitchell lên máy hát, ngồi xuống chiếc ghế đọc sách đặc biệt của mình và đọc một câu chuyện huyền bí. Tôi thích album này, cuốn tiểu thuyết đang đọc cũng là sách mới nhất từ một trong những tác giả yêu thích của tôi. Nhưng chẳng rõ vì cớ gì mà tôi không thể


NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT 145 Tôi đặt một bộ quần áo hiệu Paul Smith trên giường (một bộ tôi đã mua dù không cần thiết nhưng chỉ mới mặc hai lần), và chọn ra một chiếc cà-vạt với áo sơ mi phù hợp với nó. Một chiếc áo sơ mi cổ rộng màu xám nhạt và một chiếc cà vạt hiệu Ermenegildo Zegna với họa tiết hoa cải phức tạp mà tôi đã mua ở sân bay Rome. Tôi đứng trước gương soi toàn thân và kiểm tra xem mình trông như thế nào. Cũng không tồi, tôi kết luận.


146 HARUKI MURAKAMI ổn định, không thể tập trung vào âm nhạc hoặc sách. Tôi đã cân nhắc xem một bộ phim mà tôi đã ghi lại, nhưng không thể tìm thấy bộ phim nào mà tôi thực sự muốn xem. Có những ngày như thế đấy. Ta có thời gian trong tay và cố gắng quyết định những gì mình muốn làm, nhưng không thể nghĩ ra được điều gì. Lẽ ra tôi phải có rất nhiều thứ tôi muốn thực hiện chứ... Khi tôi lang thang không mục đích quanh phòng, một ý tưởng ập đến với tôi: Tôi chưa thử một bộ đồ nào trong nhiều năm, vậy tại sao không? Tôi đặt một bộ quần áo hiệu Paul Smith trên giường (một bộ tôi đã mua dù không cần thiết nhưng chỉ mới mặc hai lần), và chọn ra một chiếc cà-vạt với áo sơ mi phù hợp với nó. Một chiếc áo sơ mi cổ rộng màu xám nhạt và một chiếc cà vạt hiệu Ermenegildo Zegna với họa tiết hoa cải phức tạp mà tôi đã mua ở sân bay Rome. Tôi đứng trước gương soi toàn thân và kiểm tra xem mình trông như thế nào. Không tồi, tôi kết luận. Ít nhất thì rõ ràng là không có thứ gì lệch tông với trang phục. Nhưng vào cái ngày đặc biệt ấy, khi tôi đứng trước tấm gương, một cảm giác khó chịu ập đến trong tôi, một chút hối hận. Hối hận? Nói thế nào nhỉ?... Tôi mường tượng nó giống như lương tâm cắn rứt của một người nào đó trải qua cuộc đời bị thêu dệt lý lịch. Có thể không phải là bất hợp pháp, nhưng đó là một sự xuyên tạc làm nảy sinh nhiều vấn đề dân tộc. Ta biết điều đó là sai, ta biết chẳng có điều gì tốt lành sẽ đến với nó, nhưng ta không thể tự cứu mình. Có một loại cảm giác bứt rứt nhất định mà những hành động ấy tạo ra. Tôi chỉ đang tưởng tượng điều này, nhưng nó có thể giống với cảm giác của những người đàn ông bí mật ăn mặc như phụ nữ. Tuy nhiên thật kỳ lạ khi tôi nên cảm thấy thế này. Tôi đã là một người trưởng thành nghiêm chỉnh trong nhiều năm nay, tôi trả những khoản thuế của mình đúng hạn, tôi chưa bao giờ vi phạm luật, ngoại trừ một vài vé giao thông, và tôi có thể không phải là người đàn ông có văn hóa nhất xung quanh, nhưng tôi đủ tinh tế. Tôi thậm chí còn biết giữa Bartók hay Stravinsky ai lớn tuổi hơn. (Tôi đồ rằng ít người khác biết được.) Và những bộ quần áo tôi mặc này là những món đồ tôi đã trả bằng thu nhập có được nhờ làm việc hàng ngày, một cách hợp pháp. Hoặc ít nhất là không bất hợp pháp. Không ai có thể đổ lỗi cho tôi bất cứ điều gì. Vậy tại sao lương tâm tôi lại cắn rứt thế này? Tại sao cảm giác khó chịu này, về mặt đạo đức, có điều gì đó không ổn? Chà, ai cũng có những ngày như thế, tôi tự nhủ. Tôi sẽ nghĩ ngay cả Django Reinhardt cũng có những đêm ông ấy chơi lỗi một hoặc hai hợp âm, và cả những buổi chiều Niki Lauda luống cuống chuyển bánh răng. Vì vậy, tôi quyết định không suy nghĩ sâu hơn về nó. Đóng thùng trong bộ vest và cà vạt, tôi xỏ một đôi giày da buộc dây và đi ra ngoài. Lẽ ra, tôi nên làm theo ý mình và ở nhà xem phim, nhưng đó là điều tôi chỉ nhận ra sau khi sự thật ập đến.


NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT 147 Ấy là một đêm mùa Xuân rộn rã hân hoan. Vầng trăng tròn sáng vằng vặc treo trên bầu trời, và những chồi non xanh mướt vừa mới nhú bên những hàng cây ven đường. Thời tiết rất hoàn hảo để đi dạo. Tôi tản bộ xung quanh một lúc, sau đó quyết định dừng chân nơi một quán bar và uống một ly cocktail. Không phải quán bar khu phố mà tôi thường lui tới, mà là một quán xa hơn chút mà tôi chưa từng đến trước đây. Nếu tôi đến quán bar quen thuộc của mình, tôi tin rằng tay bartender sẽ hỏi tôi, “Tại sao hôm nay chú lại mặc vest và cà vạt? Có lộng lẫy lồng lộn một cách bất thường quá không ạ?” Nó đã quá nhiều rắc rối để giải thích lý do. Ý tôi là, từ lúc bắt đầu đã không có bất kỳ lý do nào cả. Vẫn còn mới chớm đêm, nên tôi đi xuống cầu thang đến một quán bar ở tầng hầm. Khách hàng duy nhất là hai người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi ngồi đối diện nhau trong một chiếc bàn. Nhìn bề ngoài, có vẻ họ là nhân viên công ty đang trên đường đi làm về, trong bộ vest tối màu và chiếc cà-vạt đáng quên. Hai người họ đang nghiêng người về phía trước, đầu sát nhau, thấp giọng bàn luận về điều gì đó. Có một đống những thứ trông giống như tài liệu xếp trên bàn. Tôi nghĩ chắc họ phải làm việc liên tục, hoặc không thì dự đoán kết quả của cuộc đua ngựa. Dù sao đi nữa thì cũng chả liên quan gì đến tôi. Tôi ngồi cách xa họ ở quầy bar, chọn chiếc ghế cao có ánh sáng tốt nhất, vì tôi đang định đọc sách, và gọi một ly vodka gimlet từ người pha chế trung niên thắt nơ. Một lúc sau, một ly rượu ướp lạnh được dọn ra trước mặt tôi, và tôi lôi cuốn tiểu thuyết bí ẩn trong túi ra tiếp tục đọc. Tôi đã đi được khoảng một phần ba chặng đường để đi đến đoạn kết. Như tôi kể rồi đấy, đó là của một nhà văn mà tôi khá yêu thích, nhưng đáng buồn là cốt truyện của cuốn sách mới nhất này không tác động được lên tôi. Trên hết, ngay giữa chừng, tôi đã mất liên kết với các nhân vật có liên quan với nhau. Nhưng dù sao thì tôi vẫn cứ đọc, dù một phần đã thoát khỏi “nghĩa vụ”, phần kia đã thoát khỏi thói quen. Tôi không bao giờ thích thú việc bỏ dở sách một khi tôi đã bắt đầu đọc. Tôi luôn nuôi hy vọng rằng về cuối sẽ có những tình tiết hấp dẫn phát triển, mặc dù cơ hội đó khá mong manh. Tôi từ từ nhấm nháp vodka gimlet của mình và đọc tiếp hai mươi trang nữa trong cuốn sách. Tuy nhiên, vì vài lý do, tôi vẫn không thể tập trung. Và không đơn giản chỉ vì cuốn tiểu thuyết kém hấp dẫn nhất. Nó không giống như quán bar ồn ào. (Nhạc nền nhẹ nhàng, ánh sáng ổn, gần như là bầu không khí hoàn hảo để thưởng thức một cuốn sách).


148 HARUKI MURAKAMI


NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT 149 Ở phía sau quầy bar là một chiếc kệ với hàng loạt chai lọ ấn tượng. Và đằng sau đó là một tấm gương lớn, trong gương đang phản chiếu tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào nó một lúc, và như mong đợi, một tôi trong gương đang nhìn lại. Một ý nghĩ bất chợt ập đến với tôi, rằng ở đâu đó tôi đã đi sai con đường trong cuộc đời. Tôi càng nhìn chằm chằm vào hình ảnh của mình trong bộ vest thắt cà vạt, cảm giác càng tăng thêm. Tôi càng nhìn chằm chằm vào ảnh phản chiếu của mình, nó lại càng giống tôi và giống một người mà tôi chưa từng thấy trước đây. Nhưng nếu đây không phải là tôi trong gương, tôi nghĩ, thì đó là ai? Tôi cho rằng, đối với hầu hết mọi người, tôi đã trải qua một số bước ngoặt trong cuộc đời, nơi tôi có thể rẽ sang trái hoặc phải.


150 HARUKI MURAKAMI Tôi nghĩ rằng đó là do cảm giác bất an mơ hồ mà tôi đã cảm thấy, rằng có điều gì đó không ổn lắm, hơi lạc lõng tách khỏi các mối nối. Giống như những thứ bên trong không vừa với hộp đựng, giống như tất cả tính toàn vẹn của nó đã bị mất. Tôi có cảm giác đó theo thời gian. Ở phía sau quầy bar là một chiếc kệ với hàng loạt chai lọ ấn tượng. Và đằng sau đó là một tấm gương lớn, trong gương đang phản chiếu tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào nó một lúc, và như mong đợi, một tôi trong gương đang nhìn lại. Một ý nghĩ bất chợt ập đến với tôi, rằng ở đâu đó tôi đã đi sai con đường trong cuộc đời. Tôi càng nhìn chằm chằm vào hình ảnh của mình trong bộ vest thắt cà vạt, cảm giác càng tăng thêm. Tôi càng nhìn chằm chằm vào ảnh phản chiếu của mình, nó lại càng giống tôi và giống một người mà tôi chưa từng thấy trước đây. Nhưng nếu đây không phải là tôi trong gương, tôi nghĩ, thì đó là ai? Tôi cho rằng, đối với hầu hết mọi người, tôi đã trải qua một số bước ngoặt trong cuộc đời, nơi tôi có thể rẽ sang trái hoặc phải. Và mỗi lần tôi chọn một, phải hoặc trái. (Đôi khi có một lý do rõ ràng, nhưng hầu hết thời gian thì không. Và không phải lúc nào tôi cũng là người đưa ra lựa chọn, giống như chính sự lựa chọn đã chọn tôi vậy.) Và bây giờ tôi ở đây, là một ngôi thứ nhất số ít. Nếu tôi chọn một hướng đi khác, rất có thể tôi sẽ không ở đây. Nhưng thế thì ai vẫn còn ở trong gương? Tôi đóng sách lại trong giây lát, nhìn xa khỏi tấm gương và hít thở sâu. Quán bar đã bắt đầu nhộn nhịp. Một người phụ nữ ngồi bên phải tôi, cách đó hai chiếc ghế cao còn trống. Cô đang uống một ly cocktail màu xanh lá cây nhạt, nhưng tôi không biết nó được gọi là gì. Dường như cô đang ở một mình, hoặc có thể cô đang chờ bạn đến. Tôi giả vờ đọc sách và dõi theo cô ấy trong gương. Cô không còn trẻ, có lẽ là năm mươi hoặc lớn hơn. Dường như cô không phải cố gắng để trông trẻ hơn tuổi và còn có vẻ khá tự tin. Người cô nhỏ nhắn, mảnh mai, mái tóc cắt vừa phải. Quần áo cô mặc trông trẻ hơn tuổi, là một chiếc váy sọc khá sang trọng ẩn dưới lớp áo khoác mềm mại, bên ngoài khoác một chiếc áo nịt len cashmere màu be. Cô không có những nét đẹp đặc trưng, nhưng có một nét gì đó rất sang trọng ở nơi cô. Khi còn là một thiếu nữ trẻ, chắc hẳn cô ấy đã rất nổi bật. Đàn ông nhất định đã luôn vây quanh tán tỉnh cô. Tôi có thể cảm nhận được những ký ức về những ngày đó qua cách cô ấy tự chủ bản thân mình. Tôi gọi cho người phục vụ quầy rượu, gọi một vodka gimlet thứ hai, nhấm nháp


NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT 151 một vài hạt điều, và quay lại đọc sách. Thỉnh thoảng tôi chạm vào nút thắt của cà vạt. Kiểm tra để chắc chắn rằng nó vẫn được buộc gọn gàng. Khoảng mười lăm phút sau, cô ấy đã ngồi trên chiếc ghế bên cạnh tôi. Quán bar trở nên đông đúc, và cô ấy sẽ lướt qua để nhường một số khách hàng mới đến. Bây giờ tôi chắc chắn rằng cô ấy chỉ có một mình. Dưới ánh sáng âm u, tôi đọc tiếp cho đến khi chỉ còn vài trang. Câu chuyện vẫn không có dấu hiệu thu hút. “Xin lỗi,” người phụ nữ đột nhiên nói. Tôi ngẩng đầu lên và nhìn cô. “Ông có vẻ rất thích cuốn sách của mình, nhưng tôi thắc mắc liệu ông đây có phiền khi tôi hỏi ông một câu hỏi không?” Đối với một người phụ nữ nhỏ nhắn như vậy, cô ấy có một giọng nói trầm và thấp. Không phải là một giọng nói lạnh lùng, nhưng chắc chắn không phải là một giọng nói có vẻ thân thiện hoặc mời gọi. “Tất nhiên rồi. Thật ra cuốn sách này chẳng mê ly hay kiểu gì dàng dạng thế đâu,” tôi nói. Tôi đặt một dấu trang bên trong cuốn tiểu thuyết và gấp sách lại. “Có gì thú vị khi làm những việc như vậy?” cô hỏi. Tôi không thể hiểu những gì cô đang nói. Tôi xoay người lại để đối mặt trực tiếp với cô. Tôi không thể nhớ đã từng gặp cô ấy trước đây. Tôi không giỏi trong việc ghi nhớ khuôn mặt, nhưng tôi khá chắc chắn rằng chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau. Nếu có, tôi chắc chắn mình sẽ nhớ cô ấy. Vì cô là típ phụ nữ như vậy. “Những thứ như thế?” Tôi lặp lại. “Những thứ về việc lên đồ, một mình ngồi ở quán bar, uống rượu gimlet, và lặng lẽ đọc một cuốn sách.” Giống như trước, tôi vẫn không biết cô ấy đang muốn nói gì với tôi. Mặc dù tôi có thể cảm nhận được một loại ác ý, một sự thù hận trong giọng điệu của cô. Tôi nhìn cô ấy, chờ cô nói tiếp. Khuôn mặt của cô vô cảm một cách kỳ lạ. Giống như cô quyết tâm che giấu bất kỳ cảm xúc nào trên khuôn mặt của mình. Cô ấy im lặng hồi lâu. Cỡ một phút, tôi có thể ước chừng như vậy. “Một gimlet vodka,” tôi lên tiếng, phá vỡ sự im lặng. “Ông nói gì?”


Click to View FlipBook Version