Thiệu khoảng 25 phút, rồi vội vã cáo từ. Sau đó ông Thiệu gọi ông Hướng lên văn phòng. 13. Bộ Tư Iệnh quân sự Hoa Kỳ tại VN bình tĩnh đối phó cuộc tổng tấn công VC ngày 31-1-1968 và hoàn toàn biết trước đó với một thời gian độ 3 tháng. Và đây là những chi tiết tài liệu đánh đổ lập luận biện hộ cho là Hoa Kỳ cũng hoàn toàn bất ngờ bị VC tấn công như VNCH. Cuối tháng 12-1967, tướng Westmoreland đánh công điện về Tòa Bạch Ốc nói nguyên văn như sau: “Cộng sản có quyết định quan trọng là đốt giai đoạn chiến tranh bằng cách xử dụng đại binh chiếm miền Nam trong một thời hạn 1 hoặc 2 tháng sắp tới đây. Họ đánh toàn quốc, nỗ lực tấn công tối đa và có kế hoạch chiếm luôn Phủ Tổng thống VNCH”. Về lịch trình VC tổng tấn công, Hoa Kỳ tiên đoán một cách chính xác, làm như họ là những nhà thảo kế hoạch hành quân cho Cộng sản Bắc Việt. Tại Tòa Đại sứ Mỹ, ngày 15-1-1968, trong cuộc họp báo phúc trình với phái đoàn quân sự Hoa Kỳ tới quan sát chiến trường VN, có tướng Westmoreland và tướng Philip E. Davidson, phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ. Họ đều dự đoán VC sẽ tổng tấn công toàn quốc VN vào đầu năm Mậu Thân. Tướng Westmoreland và tướng Philip E. Davidson còn đều quả quyết VC sẽ đánh trong ngày Tết Mậu Thân. Do đó, tướng Westmorland cấp tốc cho lệnh rút 17 tiểu đoàn trong số 49 tiểu đoàn cơ động Mỹ đang tham dự cuộc hành quân trên biên giới Campuchia, về bảo vệ Sàigòn. Đồng thời ra lệnh cấm trại 100%. Chẳng những cấm trại mà ông còn cho lệnh báo động thường trực trong 3 ngày Tết. Tài hoa hơn nữa, tướng Frederick Weyand, tư lệnh lực lượng dã chiến Hoa Kỳ thuộc vùng II chiến thuật, ra lệnh cho đại tá Fuller, sĩ quan trực hành quân, vặn đồng hồ reo báo thức đúng 3 giờ sáng ngày 31-1-1969. Tướng Westmoreland cũng ra lệnh tùy viên đánh thức ông đúng giờ đó, không sai một giây so với giờ VC bắn súng lệnh mở màn cuộc tổng tấn công. Các thầy tướng số không bấm độn chính xác được như vậy cho cả hai ông. Tiểu đoàn 716 quân cảnh Hoa Kỳ, không phải là đơn vị được huấn luyện để trực tiếp tác chiến, nhưng họ đã chống đỡ hai tiểu đoàn thiện chiến đặc
công VC một cách bền bỉ, chủ động chiến trường. Xử dụng quân cảnh phòng vệ Tòa Đại sứ, giới thẩm quyền có dụng ý bỏ trống mục tiêu nầy để nhử Cộng quân xuất đầu lộ diện. Giai đoạn hai, người ta chỉ cần điều động 1 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 101 Nhảy Dù tới nơi và dễ dàng giải tỏa áp lực VC bao vây sứ quán. Ngày 5-2-1968, quân đội VNCH mở chiến dịch Trần Hưng Đạo càn quét tàn quân VC ẩn trốn trong thành phố. Sinh hoạt Sàigòn dần trở lại như cũ. Dòng thác xe vận tải, xe lam, Honda tuôn khói nổ ầm ỉ trên đường phố. Chiến tranh thật sự bị đẩy ra xa, dân chúng làm ăn trở lại sau 5 ngày khiếp đảm sống trong biển lửa, thuốc súng, mảnh đạn, và máu. Hoa Kỳ nhìn nhận: Tết Mậu Thân đã mang lại cho nước Mỹ sự kinh hoàng giống như vụ Trân Châu Cảng. Võ Nguyên Giáp tự kiểm thảo trước Quân ủy Bộ chính trị: Tôi nhìn nhận, cuộc tổng tấn công Mậu Thân thất bại, tôi nhận lãnh trách nhiệm. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: Nếu Hoa Kỳ không có dụng ý gì với Cộng quân, chiến trận Mậu Thân, quân ta sẽ toàn thắng nhiều hơn nữa. Tướng Trần Văn Trà đổ thừa trách nhiệm không chuẩn bị, tiến công vội vàng, chiếm thành thị trong khi chưa làm chủ nông thôn, chiến thuật “sen nở” của đại tướng Văn Tiến Dũng hoàn toàn thất bại trong trận Mậu Thân. Hắn cảm thấy lưới gián điệp của hắn sắp lộ tung tích sau biến cố Mậu Thân. Chính phủ VNCH dồn nỗ lực giải tỏa, truy kích cán bộ nằm vùng. Gần đây tình báo VNCH bắt đầu bám sát Bùi Nhượng. Vợ Thắng kể lại, nhiều người lạ mặt tới lui dòm ngó nhà Thắng và hỏi lý lịch gia đình chị ta mỗi ngày. Hắn tính kế hoạch tên Thắng. Suốt thời gian qua, tên Thắng vì phải tổ chức chuyển vận đạn dược vô Sàigòn nên xuất hiện nhiều chỗ đang có đụng độ, gây chú ý cho an ninh chìm VNCH. Một phần khác, nhiểu tổ đặc công do Thắng chỉ định tham chiến bị bắt, khai đến tên Thắng. Dù viện cớ là một ký giả, cần săn tin nóng bỏng, nhưng an ninh chìm không tin như vậy, tên Thắng có thói quen săn tin ở những địa điểm mà người hành nghề báo chí rất ngại bước tới. Để lừa cơ quan an ninh, Thắng viết một loạt bài hung hãn lên án bước xâm lăng Cộng sản. Hiện tại, điều cần thiết là phải đưa Huỳnh Văn Trọng chính thức nắm chức vụ trong chính phủ. Hắn trình bày với ông Thiệu:
– Sự giao hảo tốt đẹp giữa ta với Tòa Đại sứ Mỹ từ lâu nay vẫn nhờ anh Bernard Trọng lo liệu, nhưng anh Trọng không có chức vụ trong chính phủ, vì thế Tòa Đại sứ vẫn coi anh là người của họ. Ông Thiệu trả lời: – Tôi nhiều lần bảo ông Hướng mời anh Trọng phụ tá cho tôi, đặc trách chính trị và ngoại giao. Anh Trọng không chịu nhận lời. Anh Trọng có mặc cảm, thế hệ đi trước, từng nắm bộ trưởng bộ Nội Vụ, chức phụ tá hơi thấp đối với anh. Chức bộ trưởng hiện giờ chưa có chỗ, đợi tôi sắp xếp lại. – Theo tôi biết, Bernard Trọng là người khí khái, tự trọng, chắc anh không từ chối nếu Tổng thống bàn luận trực tiếp với anh. Anh chỉ sợ mọi người hiểu lầm anh vào đây để đòi Tổng thống trả ơn vậy thôi. – Như vậy đâu phải. Mình đưa ảnh vô đây để phụ mình một tay lo việc nước nữa chớ. Tôi tính ký nghị định bổ nhiệm ảnh thay mặt Phủ Tổng thống đặc trách liên lạc ngoại giao bên Tòa Đại sứ Mỹ. Chính thức hóa chức vụ để ảnh dễ làm việc. – Ý kiến Tổng thống thật xuất sắc. Tôi sẽ thông báo lại cho ảnh mừng. Ảnh được lệnh Giáo hội biểu lo giúp Tổng thống suốt thời kỳ tranh cử, thì ảnh sẽ phải giúp Tổng thống trong thời gian chấp chánh. – Tôi chưa nói ra, vì chỉ sợ ảnh từ chối. – Tổng thống đừng ngại, tôi bảo đảm. Tạm thời Tổng thống cứ ký sắc lệnh bổ nhiệm. Tôi sẽ thuyết phục ảnh làm theo lệnh Tổng thống. Làm vậy dễ dàng cả đôi bên. Giáo hội càng mến Tổng thống, vì người thủy chung có trước có sau. Đầu tháng 3-1968, ông Hướng trao lại hắn bản sắc lệnh ông Thiệu vừa ký bổ nhiệm Huỳnh Văn Trọng làm phụ tá Phủ Tổng thống, chức vụ có quyền hạn tương đương bộ trưởng. Hắn đưa Trọng coi bản sắc lệnh và nói: – Nhiệm vụ tôi lo cho anh đã xong, phần anh cố gắng hoàn thành “sứ mạng”. Huỳnh Văn Trọng đọc xong, điếng hồn, ngỡ ngàng như đang chiêm bao. Hắn o bế Trọng: – Tôi đề nghị anh ra Đà Nẵng ngay, rước chị về sum họp với gia đình. Huỳnh Văn Trọng nghẹn ngào: – Từ đây, tôi thề sẽ làm theo mệnh lệnh của anh!
Ông Thiệu cấp liền cho Huỳnh Văn Trọng một biệt thự, một chiếc xe du lịch và tất cả tiện nghi sung túc theo tiêu chuẩn của bộ trưởng. Vợ Trọng, một thiếu phụ có nhan sắc, đa tình, mặt mày hớn hở trong cuộc sống vật chất và quyền quí của một bà mệnh phụ hàng bộ trưởng Liên tục, Trọng mang về những bản tin qúy báu từ Tòa Đại sứ Hoa Kỳ như: Thay đổi nhân sự, tướng Westmoreland sắp bị cách chức, Tổng thống Johnson sửa soạn sa thải Bộ trưởng Quốc phòng Mcnamara…Các tin tức mang về Phủ Tổng thống gây cho ông Thiệu nhiều lo âu. Ông bị ám ảnh Hoa Kỳ sẽ thay đổi chính sách và có bằng chứng đang bắt tay đàm phán mật với VC. Linh mục O’Connor trước kia đứng giữa diều hâu và bồ câu, nay ông có khuynh hướng ngả theo phe bồ câu, thường nói tới những nhân vật chống chiến tranh VN như một kiểu thời trang cần chiêm ngưỡng. Linh mục O’Connor tỏ vẻ bi quan: – Đã quá trễ vì thời gian còn rất ngắn, không kịp cho Tổng thống Johnson đạt hòa bình VN qua giải pháp quân sự. Chỉ còn 6 tháng nữa, mùa vận động bầu cử ở Hoa Kỳ đã bắt đầu. Các ứng cử viên khôn ngoan vận động với đề tài chấm dứt chiến tranh VN theo giải pháp thức thời là thương thuyết tay đôi với Bắc Việt. Ông Johnson phải nương theo dư luận phản chiến và thay đổi chính sách chống Cộng. – Nhưng Tổng thống vừa đưa thêm 50.000 quân vô Việt Nam. – Đó là giải pháp dằn mặt Hà Nội trước khi ngồi vào bàn thương thuyết. Vì CIA báo cáo là VC hiện có 600.000 quân tham chiến ở miền Nam. Sáng ngày 31-3-1968, ông bà Thiệu và cha Trần Ngọc Nhuận ngồi nói chuyện tại phòng khách và lắng nghe bản tin quan trọng của đài BBC. Tổng thống Thiệu lộ vẻ lo lắng ra mặt. Tổng thống Johnson tuyên bố ngưng oanh tạc Bắc Việt vô điều kiện trừ những mục tiêu quân sự từ vĩ tuyến 19 trở vào, nếu Hà Nội tỏ thiện chí chọn giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh. Bản tin phát thanh tiếp: Tổng thống cho biết sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ tới và đề cử hai nhà ngoại giao Harriman và Thompson đại diện thương thuyết với Hà Nội. Ông Thiệu lên tiếng trách Mỹ: – Quyết định ngưng oanh tạc Hà Nội, sao họ không nói cho VNCH biết trước? Là đồng minh mà họ không cần tham khảo một ý kiến nào với VN. Là tổng thống VNCH tôi cũng không được thông báo trước những
quyết định có liên quan đến số phận VN, mà chỉ biết tin tức qua Đài phát thanh như mọi người. Bắc Việt rảnh rang không chống máy bay, họ sẽ kéo xe tăng đại pháo vô đây, ta sẽ tính sao? Cha Nhuận băn khoăn lo lắng: – Không thể hiểu nổi người Mỹ. Hắn lên tiếng “cố vấn: – Xin Tổng thống bình tĩnh, khoan có thái độ công khai phản đối Hoa Kỳ để tránh vết xe ông Diệm tái diễn trở lại. Mình công khai bất mãn Tổng thống Johnson cũng vô ích. Chờ vị Tổng thống khác lên, chúng ta tìm cách giao hảo với họ. Một hôm, linh mục O’Connor giải thích với hắn, ngỏ ý nhắn lại ông Thiệu: – Tổng thống Mỹ bắt buộc xuống thang chiến tranh VN, do ở nguyên nhân cuộc chiến quá dài, Hoa Kỳ thấy bất lợi nếu tiếp tục theo đuổi. Thời gian sắp tới, họ sẽ mở những cuộc hành quân có tính cách chống du kích để chờ có một giải pháp cho VN. Giải pháp đó, phải hiểu, người Mỹ không thua không thắng chiến tranh, nhưng “ra đi trong danh dự”. Người Mỹ không muốn rút quân để mất mặt, mang tiếng bán đứng đồng minh. Khó là ở chỗ ra đi. Ra đi cách nào để không bị VNCH lên án Hoa Kỳ chơi trò “đem con bỏ chợ”. Mới đây, ông Mcnamara đã khai triển ra vấn đề: Rằng chiến tranh VN phải do người VN lo lấy, chấm dứt kỷ nguyên ỷ lại vào Hoa Kỳ, quân đội và chính phủ VN phải ý thức bổn phận tự cứu lấy mình. Ông Herman Kann, cố vấn Tổng thống Johnson, nhắn nhủ công khai chính phủ VNCH: “Người VN cần phải tự định đoạt tương lai họ. Họ phải phải làm cái phần của họ trong khế ước song phương Mỹ-Việt, nếu họ lơ là, ỷ y, chúng ta có thể nói Hoa Kỳ không có nghĩa vụ gì với VN”. Tổng thống Thiệu nghe hắn nói lại xong, ngồi chết lặng. Hắn giải thích tiếp: – Hoa Kỳ đang làm hết sức mình để bỏ rơi VNCH. Môi ông Thiệu tím lại, cặp mặt đỏ ngầu, hiện lên sự cuồng giận vì Hoa Kỳ sắp sửa bỏ rơi VNCH. Trong phần thảo luận với ông Kỳ, Tổng thống Thiệu dựa vào điều 4 hiến pháp VNCH, bày tỏ thái độ phản ứng chính phủ Hoa Kỳ sắp vào bàn hội nghị với Bắc Việt ở Paris. Ông Thiệu nói:
– Coi chừng mình không chết vì VC, mà chết vì đồng minh Mỹ. Phản đối thì phản,sáng ngày 3-5-1968, Hoa Kỳ ký bản thông cáo chung với VC sẽ thương thuyết với Hà Nội rút quân ra khỏi VN không đếm xỉa đến VNCH. Nghe tin Mỹ bỏ VNCH, VC bỏ hẳn chiến thuật du kích chiến, ứng dụng lập tức chiến thuật vận địa chiến. Đêm 4-5-1968, VC mở hàng loạt đợt tấn công mới, quân số cấp sư đoàn trở lên. Ngày 10-8-1969; Linh mục O’Connor tới giáo xứ Bình An có mấy lời “tâm sự” cùng hắn trước khi chia tay: – Tôi mãn nhiệm kỳ, nay phải về nước. Tôi rất tiếc không được ở đây lâu hơn để làm việc với Cha và giáo sư Nhã. Cha Quỳnh rưng rưng nước mắt: – Cá nhân tôi, tôi mang ơn ngài đã đến đây giúp nước VN tôi không lọt vào tay Cộng sản. Chúc ngài thượng lộ bình an. Sau phần trao quà kỷ niệm, là buổi tiệc trà tiễn bạn về xứ. Lúc lên xe, lợi dụng hắn đứng hơi xa, linh mục O’Connor kề tai nói nhỏ cha Quỳnh: – Ngài yêu Chúa, yêu nước ngài. Ngài tận tụy hy sinh cả đời chống Cộng sản. Tôi cảm phục ngài, nên có lời khuyên: Ngài nên coi chừng địch đang ở sau lưng ngài. Cha Quỳnh chưng hửng, không hiểu gì cả, mỏi mắt nhìn theo xe linh mục O’Connor chạy khuất dạng ra hướng Chợ Lớn. Còn ba giờ nữa lên phi cơ, linh mục O’Connor nhìn đồng hồ, ngài thấy còn kịp tiếp hai người Việt Nam mà Linh mục cần gặp họ trước khi vĩnh viễn về nước. Tại câu lạc bộ Hàng không dân sự, Cha mở cặp lấy tập hồ sơ dày cộm đưa cho hai người Việt Nam, Cha nói: – Phần chúng tôi đã xong, giờ đến phần quý vị. Tôi muốn họ được xét xử trước Tòa, bản án công bình theo chế độ dân chủ. Hai người Việt Nam ân cần nhận cặp hồ sơ, kính nể bắt tay từ giã Cha, kèm theo lời hứa long trọng: – Tụi con sẽ tiến hành thủ tục theo luật pháp qui định, tôn trọng nhân quyền trong lúc điều tra họ. Xin Cha yên tâm, chúng con hứa một lời. Cha thở phào nhẹ nhõm, từ từ tiến ra phi cơ. Một số linh mục Tuyên úy Hải quân cũng có mặt tiễn Cha.
Hai người Việt Nam, người thứ nhất tên Nguyễn Khắc Bình, cấp bậc chuẩn tướng, chức vụ: Chỉ huy trưởng Đặc ủy Tình báo trung ương. Người thứ nhì, tên Trần Văn Hai, cấp bậc chuẩn tướng, chức vụ: Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia. Máy bay chở Cha rời khỏi VN khoảng 1 giờ thì tại nhà hắn nhân viên cảnh sát chìm mang trát tòa đến mời hắn ra xe. Toàn thể cán bộ tình báo chiến lược Cụm A22 bị sa lưới không thiếu một ai trừ Cụm trưởng Năm Sang tức Đỗ Mười. Những tên giặc ra tòa lãnh án chung thân khổ sai trong Cụm A22 gồm có: Hắn tức giáo sư Hoàng Đức Nhã, bí danh Vũ Đình Long, biệt danh Hai Long, tên thật Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Bùi Nhượng Thắng, và 31 cán bộ vô danh khác. 14. Năm ấy mùa Đông ra đi hơi chậm. Gió bấc từ phía sau lưng núi Bà Đen hàng đêm cuồn cuộn thổi tạt qua truông rừng Sa Mách, lá tả tơi rụng phủ ngập những con đường mòn dẫn về Bộ Tư lệnh Cục R. Cây trơ cành xơ xác và rừng còm cõi lá xanh như thành phố Tây Ninh nghèo nàn với cuộc sống cả đời thiếu ăn thiếu mặc. Rừng Sa Mách nổi danh về chiến sử, nơi chôn nhau cắt rún củ VC (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam làm lễ ra mắt tại đây ngày 20-1-1960), nơi đồn trú an toàn Bộ Tư lệnh Tiền phương của Cộng sản Hà Nội đúng 15 năm, nơi hứng trọn 17 triệu tấn bom của pháo đài B52. Nằm về hướng Đông Bắc, cách tỉnh lỵ Tây Ninh 49 cây số, cách biên giới Cao Mên 1 cây số, rừng bị chiến tranh lột xác, mất vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh nên thơ hùng vĩ của rừng. Sương đêm rơi thấm ướt chiếc áo trận và gió từng cơn thổi xoáy vào da thịt, tướng Lê Trọng Tấn núp sát vào gốc cây bằng lăng tránh gió, nhưng lạnh vẫn lạnh. Sá gì những thứ sương gió “phong trần” lạnh lẽo này, lớp người sẵn sàng hy sinh bản thân để đạt được lý tưởng chủ nghĩa, loại chủ nghĩa không phục vụ an sinh xã hội, thịnh vượng quốc gia, tự do cho con người, mà phục vụ cho một tập thể, cho một lãnh tụ và cho riêng một giai cấp về quyền lợi lẫn cả quyền hạn, như hoàng đế hoặc quân vương sau
khi đoạt được trọn quyền thao túng quê hương. Họ chịu đựng cực khổ gian lao nhằm đáp ứng giấc mơ hưởng thụ cá nhân hoặc những người cùng giai cấp của họ. Tướng Lê Trọng Tấn, đêm nay, lãnh nhiệm vụ chỉ huy đội binh “nằm đường”, bố trí an ninh, bảo vệ phái đoàn do Cục Chính trị bộ vào Nam quan sát chiến trường, điều tra tình hình tại chỗ, đồng thời xét lại chiến lược quân sự lẫn chính trị chống “Mỹ Ngụy”, sau khi thất bại nặng nề trong trận tổng tấn công hôm Tết Mậu Thân. Phái đoàn đáp phi cơ qua thủ đô Nam Vang, dùng xe lên biên giới rồi cỡi ngựa đi về cục R. Đây là phái đoàn thứ ba về đây. Hai phái đoàn khác một của Quân ủy Miền, và một của MTGPMN do luật sự Nguyễn Hữu Thọ cầm đầu đã về tới đêm hôm qua. Tư lệnh các quân khu nhập chung phái đoàn Quân ủy miền, họ có bổn phận phúc trình kế hoạch hành quân, soạn thảo sơ đồ tấn công quân VNCH theo tình thế hiện nay: bỏ du kích chiến, áp dụng vận động chiến. “Đồng chí” Mười Cúc, tức Nguyễn Văn Linh trên tư cách bí thư Quân ủy Miền đi chung với ông Phạm Hùng ra biên giới chào đón trưởng phái đoàn là “đồng chí” Tô tức Phạm Văn Đồng. Nhìn vị thế người trưởng phái đoàn, ông Mười Cúc cũng hiểu được một phần nội dung của bản lệnh mà họ mang từ miền Bắc vô đây. Nếu ông Võ Nguyên Giáp giữ chức trưởng phái đoàn, thì cuộc thảo luận nặng về quân sự. Nhưng hiện thời, ông Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn, vậy phải có sự hình dung trước là cuộc đại hội này thảo luận hoàn toàn về đề tài chính trị, chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp v.v.. Khai mạc buổi họp, theo thông lệ của người CS, là có nửa giờ đồng hồ ôm nhau hôn, chúc mừng sức khỏe Bác Hồ rồi hoan hô Bác Hồ. Nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh mới vừa tạ thế này 2-9-1969 vừa rồi, tranh chấp quyền hành còn sôi sục diễn ra trong nội bộ, chưa biết chắc ai làm lãnh tụ, nên toàn thể quay ra hoan hô khơi khơi Đảng Cộng sản. Dứt phần phần hoan hô, mừng tuổi Đảng, hội viên chúc sức khỏe lẫn nhau. Ông Phạm Văn Đồng chúc sức khỏe “đồng chí” Vũ Ngọc Nhạ đầu tiên, mặc dầu hắn vắng mặt và hiện đang nằm ấp ngoài Côn Đảo, chứng tỏ buổi họp này sẽ nói về hắn nhiều nhất và trước nhất. Người có chiến công không ai sánh bằng anh hùng của tất cả chiến dịch, cấp chỉ huy lỗi lạc là tướng Trần Văn Trà lại không được công khai hóa nghi lễ chúc mừng sức khỏe. Cách “xử thế” đó, nhấn mạnh cho mọi người ngầm hiểu, tướng Trần Văn Trà thuộc
thành phần con nuôi của Đảng, xài có tính cách giai đoạn, đến khi hết xài thì loại bỏ. Tướng Trà biết chứ, nhưng biết mà không làm được gì. Có quân trong tay chưa chắc đã có quyền quyết định theo ý muốn cá nhân hay tạo phản. Tổ chức quân đội Cộng sản, tướng lãnh chỉ có thẩm quyền ở mặt trận nhưng không có thẩm quyền chỉ huy quân đội. Thẩm quyền nầy tập trung về tay bí thư quân ủy, thay mặt Đảng có toàn quyền trên mọi vấn đề kể cả thăng thưởng hoặc thanh trừng hạ bệ. “Đồng chí Tô” Phạm Văn Đồng khai mạc: – Như các anh đã có kinh nghiệm chống đế quốc ngoại xâm, quân sự là giải pháp sở đoản, chính trị mới là giải pháp tối hậu quyết định mọi thành bại trong chiến tranh. Chính trị, đặc biệt chính trị gián điệp mới thực sự điều hành toàn bộ công cuộc chống giặc Mỹ. Nếu thất bại chính trị gián điệp, lượng định cán cân sức mạnh địch và ta, thì ta nhận lấy phần thua 70%, chúng ta vừa trải qua một thất bại khác, sau giải pháp quân sự Tết Mậu Thân, là mặt trận gián điệp. Trên mặt trận này, CIA phá vỡ hệ thống lưới tình báo chiến lược của chúng ta rất nặng nề. Các đồng chí anh hùng đã bị địch bắt trọn, đày ra Côn Đảo. Chúng ta cấp thời biểu quyết những vấn đề cụ thể như sau: . Lập lại mạng lưới gián điệp khác. . Trao đổi tù binh Mỹ, chuộc đồng chí Vũ Ngọc Nhạ. . Cử ai thay thế trong khi đồng chí Nhạ bị Mỹ Ngụy cầm tù? Trên tư cách Tổng bí thư MTGPMN, cựu giám đốc Công an Nam bộ, ông Phạm Hùng khai triển sự đề nghị của ông Phạm Văn Đồng: – Công sức lập lại mạng lưới mới, không thể không làm được. Nhân sự và tài chánh không thành vấn đề. Vấn đề là người. Người phải có cơ hội, có vị trí tôn giáo, có khả năng chính trị và sau cùng phải là một Đảng viên tuyệt đối trung thành đảng, phục vụ trọn đời cho Đảng. Tìm một người hội đủ những tiêu chuẩn vừa nêu lên, rất khó. Đảng viên chúng ta không thiếu gì đồng chí có tài gián điệp, khả năng trung thành đã được thử thách ở chiến trường và ở lãnh vực công tác. Tuy nhiên, mẫu người có kích thướng do nhu cầu đòi hỏi như: khuôn mặt có tầm vóc lãnh tụ trong xã hội Ngụy, trong tôn giáo Ngụy, trong bộ máy cầm quyền Ngụy, và hiện thời chưa có ai. Đương nhiên mạng lưới khác thay thế mạng lưới đã mất bắt buộc phải có, nhưng thành quả thu lượm được còn phải chờ thời gian định đoạt. Một lưới công tác gián điệp, công tác đắc lực có khi phải mất
20 năm hoạt động, 20 năm đào luyện nhân viên, xâm nhập, len lỏi vào chính phủ Ngụy. Theo tôi, đề nghị như thế này, chúng ta nên thương thuyết ngầm với Harriman tại Paris, trao đổi 4 sĩ quan phi công tù binh Mỹ cấp trung tá đổi lấy sự tự do của đồng chí Vũ Ngọc Nhạ. Nguyễn Văn Linh tán thành ý kiến Phạm Hùng: – Nhìn chung, tình hình đang tiến triển tốt đẹp về phần tranh đấu giành thắng lợi của chúng ta. Cái thế chính trị quốc tế hiện được các quan sát viên thời cuộc công nhận chúng ta nắm ưu thế chiến trận, ưu thế hòa đàm. Nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn ngoan cố, không tuân lệnh chủ ngồi vào bàn hội nghị thương thuyết với chính phủ Cộng Hòa Lâm Thời Miền Nam Việt (Do Huỳnh Tấn Phát làm thủ tướng), bác bỏ ý kiến trung lập Việt Nam, đầu phiếu một chính phủ liên hiệp 3 thành phần. Điều cần thiết như một nhu cầu không thể thiếu là làm sao có người bên cạnh thúc đẩy Thiệu giải quyết chiến tranh bằng những giải pháp thua hoặc đầu hàng chúng ta. Chưa có ai đủ uy tín, đủ khả năng hùng biện lèo lái Thiệu cho bằng đồng chí Nhạ. Đồng chí Nhạ có công vận động giáo dân, vận động Tòa Đại sứ Mỹ và Giáo hội Mỹ đưa Thiệu lên làm Tổng thống Ngụy. Công trạng đó, Thiệu khó mà quên khi đồng chí Nhạ còn sống. Vả lại, Thiệu vẫn còn cần đồng chí Nhạ tiếp tục ủng hộ, tiếp tục cố vấn các sáng kiến tài tình chống lại Nguyễn Cao Kỳ lăm le đảo chính giựt ghế Thiệu. Do đó, Thiệu rất nghi ngờ đây là cú dàn cảnh do CIA dựng lên có mục đích loại Thiệu trong nhiệm kỳ thứ hai. Thiệu chưa tin đồng chí Nhạ là gián điệp CS, thâm tâm vẫn nghĩ Tòa Đại sứ Mỹ dằn mặt Thiệu, ép Thiệu ngồi vô bàn hội nghị, tìm cách rút quân rồi phủi tay bỏ rơi Ngụy quyền để nội bộ VN do chúng ta định đoạt. Đổi tù binh Mỹ, giải phóng đồng chí Nhạ, theo tôi nó là một giải pháp không thể loại bỏ. Hội nghị hoàn toàn “biểu quyết” đổi tù bình chuộc hắn ra khỏi nhà tù Côn Đảo. Việc trả giá, mặc cả giữa đôi bên sẽ do Xuân Thủy và Harriman nói chuyện trực tiếp tại Paris. Ông Phạm Văn Đồng chuyển sang lãnh vực chủ thuyết chiến tranh trong thời kỳ trận địa chiến: – Sau Mậu Thân, tình hình chiến sự Nam bộ đã đình trệ, có xu hướng bất lợi cho ta khi nói chuyện với Mỹ ở Paris, các đồng chí tư lệnh chiến trường định làm gì khi mùa khô sắp sửa đến ? (bắt đầu tháng 10-1969)
Tướng Trà, tư lệnh các lực lượng võ trang CS miền Nam thuyết trình kế hoạch tổng quát: – Bộ Tư lệnh Cục R có kế hoạch chia ra làm hai giai đoạn tấn công vào mùa khô tới đây như sau: . Giai đoạn một: Mở các mặt trận cấp sư đoàn, chủ yếu cầm chân quân đoàn địch, nhanh chóng chiếm tỉnh lỵ hoặc các thành phố chiến lược, tạo ra một hành lang an toàn dọc theo biên giới Miên-Việt. Giai đoạn “công đồn đả viện” không còn phù hợp với vũ khí hiện đại, quân số bộ đội thặng dư của chúng ta hiện nay. Tức là, chiến thuật du kích chiến, đánh nhanh, rút lẹ, phục kích đêm đã lỗi thời, không thể áp dụng vào chiến trường cơ động mà chúng ta đang triệt để áp dụng đánh địch. Song song với cường đô tấn công, chiếm mục tiêu, chúng ta cố gắng chiếm đất, dựng cơ sở cách mạng, cặm cờ giải phóng, mở rộng phòng tuyến bao vây địch, ép địch co cụm lại và kềm chặt đại quân Ngụy không có cơ hội di động tiếp viện hoặc phản công tái chiếm những vùng chúng ta vừa giải phóng. Cách đánh được chia ra 3 phương thức: Dùng chiến thuật pháo tập trung rót ngày đêm xuống bộ chỉ huy của địch. Thiết giáp cản đường tăng viện quân ở các chốt quan trọng , xử dụng tập trung phòng không, khiến địch không làm chủ được không phận, quét sạch máy bay địch và hạ trực thăng đổ quân. Đội phòng không gian ra thành phòng tuyến, dụng ý khiêu khích phi cơ oanh tạc của Ngụy rồi tỉa dần cho đến khi chúng ta bảo đảm an ninh được không phận có quân ta di chuyển dưới đất hay là đang giao tranh với địch. Nói cách khác, đánh pháo, đánh tăng, đánh phòng không trước tiên, sau cùng mới dùng bộ binh dứt điểm kẻ địch. Chúng ta vẫn “giương Đông kích Tây”. Ta tung quân quấy rối cánh đồng Nam bộ, tấn công cao nguyên, nhưng nhất trí đất và mục tiêu phải chiếm là miền Trung. Quân khiêu khích, quân gài thế trận và quân dự trận được phân nhiệm nhịp nhàng. Chúng ta chuyển du kích chiến sang trận địa chiến trong một thời hạn khẩn cấp, có mục đích làm cho địch trở tay không kip, kế hoạch trừ bị phòng thủ hoặc tấn công trên địa bàn trận địa chiến chưa kịp điều chỉnh để ứng phó với đà phát triển chiến tranh cơ giới do chúng ta tạo ra. Mỹ không nghĩ là chúng ta có đủ lực lượng và vũ khí hiện đại để bước vào trận địa chiến nên không trang bị vũ khí tương xứng cho Ngụy, huấn luyện
Ngụy chống trả trong chiến tranh qui ước. Ngụy sẽ không biết phải đối phó ra sao, nên lúng túng và phản công vụng về. . Giai đoạn hai: Tấn công chiến tranh tâm lý. Trên địa hạt chiến tranh tâm lý, chúng ta phát động 3 mũi dùi cùng một lúc: tôn giáo vận, trí thức vận và quần chúng vận. Quần chúng phải hiểu chiến tranh giải phóng có mục đích thiêng liêng là giải phóng tổ quốc khỏi sự lệ thuộc ngoại bang, tạo dựng một xã hội bình đẳng và thịnh vượng. Bình đẳng giai cấp, bình đẳng tôn giáo, bình đẳng tài sản, bình đẳng tư duy và ý niệm về đời sống. Những danh từ tranh đấu có tính cách mơ hồ, trừu tượng để gây lũng đoạn hàng ngũ hậu phương địch. Chiến dịch tôn giáo vận liên tục tiến hành song song với các mặt trận trí thức phản chiến, hòa bình. Các cụm tình báo chiến lược có bổn phận kết nạp, huấn luyện và tạo hình thù một chính phủ ba thành phần. Chính phủ đó chủ trương trung lập, hòa giải nội thù, hàn gắn vết thương dân tộc. Dân Ngụy, binh sĩ Ngụy vốn quen với đời sống thụ hưởng, sơ chiến tranh, khi nghe tin có một chính phủ trung lập ra đời hứa giải quyết chiến tranh bằng đường lối không cần súng đạn thì tự nhiên họ có cảm tình, sẽ hết lòng hưởng ứng phong trào phản chiến, tạo sự rối loạn tinh thần hiếu chiến trong giới thượng tầng lãnh đạo của Ngụy. Các cuộc biểu tình xuống đường đấu tranh sẽ đòi chính phủ Ngụy thực thi những chính sách không thể thực thị được, như Phật giáo đang bị đàn áp, như sinh mạng giáo dân đang bị chính quyền đe dọa, như pháp nhân tôn giáo phải được tôn trọng, gây tự ái dân tộc thúc đẩy xuống đường biểu đương lực lượng xé cờ Ngụy, đốt cờ Mỹ, đập phá công sản chính phủ v.v. Chúng ta phải gây ra một hiện trạng hỗn độn, nát bấy hậu phương Ngụy, khiến chúng vừa lo tranh giành chức vị Tổng thống, hất cẳng nhau, bằng đảo chính mỗi ngày, vừa lo tái lập trật tự an ninh xã hội. Như thế chúng sẽ không có phương tiện, kế hoạch lẫn cả thời gian để chống đỡ những cuộc tấn công toàn diện từ phía chúng ta. Sau cùng tướng VC Trần Văn Trà kết luận: – Thưa các đồng chí, trong nhiệm vụ và thẩm quyền, tôi đề nghị: Mở 65 mặt trận tấn công với quân số tham dự từ cấp trung đến sư đoàn trên toàn lãnh thổ Nam bộ, đánh chiếm các xã, quận, lấn dần đất đai để chiếm 1 hoặc 2 tỉnh lỵ, đặt trụ sở cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời, một mặt tạo uy thế hòa đàm, một mặt tiến tới bao vây các đô thị lớn của Ngụy. Đề nghị Cục Chính trị bộ cho phép Cục R. chúng tôi tiến hành chiến tranh
theo mức độ trận địa chiến đánh nhanh, chiếm lẹ, giữ đất bền bỉ. Tóm lại, mùa khô từ cuối năm 1969 qua đầu năm 1970, chúng ta phải tiến công 65 chiến trường lớn. Phạm Văn Đồng hỏi: – Đồng chí Trung tướng cần quân số bao nhiêu? – Xin Quân ủy Trung ương tăng viện thêm 3 sư đoàn bộ binh, với các vũ khí hiện đại như chiến xa T54, pháo tầm xa, pháo phòng không bắn nhanh và các loại hỏa tiễn chiến thuật mới được Liên Xô vĩ đại và Trung hoa vĩ đại mới cung cấp. – Bộ Chính trị có thể thỏa mãn yêu cầu đồng chí Trung tướng, tuy nhiên phải cẩn thận, vì quân sự có khả năng tàn phá, tiêu diệt địch, nhưng không có khả năng kết liễu chiến tranh và đem thắng lợi cho chúng ta. Chiến tranh này, công trình giải phóng miền Nam phải được quyết định tại Tòa nhà trắng (Tòa Bạch Ốc) giữa chúng ta với đế quốc Mỹ. Một ngày đại hội kéo đài lê thê chấm đứt. Thủ tướng VC Phạm Văn Đồng tuyên bố mấy câu chúc mừng các “đồng chí anh hùng” vắng mặt, chúc mừng đại hội thành công trong bầu không khí hớn hở sẽ thắng Mỹ Ngụy. Theo thông lệ, xong hội họp, thì đến phần ăn uống. Ở giữa rừng sâu, nhưng rượu chát Bordeaux, Cognac, whisky, Champagne có đủ. Đội hậu cần tổ chức các món ăn cao lương mỹ vị không thiếu thứ gì. Ăn uống no say, quay ra xưng tụng lẫn nhau, rồi những bài thơ “con cóc” khóc “bác” Hồ. Qua ngày hôm sau, Cục R. tổ chức cuộc đi săn bắn hào hứng. Biết rõ sở thích ông Phạm Văn Đồng, mỗi khi vào “tham quan”, tướng Trà đều có bày ra trò chơi săn nai, heo rừng giúp vui “đồng chí thủ tướng”. Ông Phạm văn Đồng bắn rất dở, và cả đời sẽ không bắn trúng con mồi, nếu đội hậu cần không lùa thú đến gần miệng súng của ông ta. Tài tác xạ của Phạm Văn Đồng còn thua xa một tân binh chưa mãn khóa cơ bản huấn luyện, nhưng người ta rất ngạc nhiên về bộ óc thông minh của ông, một thiên tài sáng chế ra những phương pháp giết người rất hiệu qủa mà nạn nhân hầu hết là người VN. Tưởng cũng nên điểm qua những nét đặc thù về địa danh Tây Ninh, vì tỉnh lỵ này đã đi vào lịch sử chiến tranh Quốc-Cộng, do nghịch cảnh nên ép buộc đất Tây Ninh phải dung túng cơ quan đầu não VC và là đất triền miên ăn bom B52.
Diện tích 4.100 cây số vuông. Dân số (theo thống của chính phủ VNCH năm 1974) 525.850 người, Tây Ninh là tỉnh ly nằm về phía cực tây của miền đông Nam Việt, cách thủ đô Sàigòn 96 cây số và cách xa Hà Nội 1.937 cây số. Đông giáp Bình Dương, bắc và tây giáp Cao Mên. Phía nam sát ranh giới Long An và Sàigòn. Phía bắc tỉnh lỵ trở lên, nhiều rừng núi. Rừng rậm nhưng núi không cao lắm. Núi cao nhất là núi Bà Đen, cao 986 thước, có thờ bà Linh Sơn Thánh Mẫu. Bắc và nam núi Bà Đen, chỉ là những dãy núi thấp, như núi Lấp Vò cao từ 400 đến 800 thước. Phía nam, đất khá bằng phẳng, gần như là đồng bằng. Có hai dòng sông chảy xuyên qua tỉnh, nước đổ từ bắc xuống nam. Đông có sông Sàigòn làm ranh giới giữa hai tỉnh Bình Dương và Tây Ninh. Phía tây có sông Vàm Cỏ Đông. Thung lũng Vàm Cỏ nhiều đất thấp và đầm lầy. Tây Ninh thuộc miền đất cao, phần lớn đất đỏ và đất xám nên trồng trọt, nhất là trồng rừng và các cây công nghệ rất tốt. Ít nước. Khí hậu quanh năm nóng và ấm, ôn hòa. Có hai mùa rõ ràng: Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Trước năm 1975, về hành chánh, Tây Ninh có 4 quận: Hiếu Thiện, Khiêm Hanh, Phú Khương, Phước Ninh. Ngày xưa, ở đây là đất của người Phù Nam. Bắt đầu nhà Nguyễn lập phủ Gia Định, đến năm 1802, đổi làm trấn Gia Định. Đến 1936, đặt phủ Tây Ninh, gồm hai huyện Tây Ninh và Quy Hóa, xây thành phủ chu vi 188 trượng, ngoài có thông hào. Sau phủ đổi thành tỉnh Tây Ninh. Tây Ninh có rất nhiều đường bộ và đồn điền (cao su). – Đường thủ đô Sàigòn lên Tây Ninh, 47 cây số tới Trảng Bàng, 60 cây số tới Gò Dầu hạ, 96 cây số tới châu thành tỉnh ly Tây Ninh. – Tây Ninh đi biên giới Cao Mên, đến Soài Riêng 49 cây số. – Gò Dầu hạ đến Soài Riêng (Cao Mên) 52 cây số. – Tây Ninh đến Lò Gỗ, Sa Mát (tây bắc tỉnh) 38 cây số. – Tây Ninh đi Trại Bí, Sa Mách (nơi đặt bộ tư lệnh VC, cục R.) 49 cây số. – Tây Ninh đi Khe Dol, chân núi Bà Đen, 15 cây số, đến Cà Tum 48 cây số (đông bắc tỉnh). – Trảng Bàng đi Tây Ninh, bằng đường bộ, 47 cây số. -Tây Ninh đi về phía đông, đến sông Sàigòn và Chơn Thành, 60 cây số.
Về đường thủy, sông Vàm Cỏ Đông đi thuyền và tàu thủy được, con sông chảy ngang Tây Ninh và xuống tới Tân An. Dân cư Tây Ninh không đông lắm, trung bình từ 50 người đến 100 người một cây số vuông. Phần lớn người Kinh. Lại có sắc tộc thiểu số người Chàm theo đạo Hồi và người Miên. 85 phần trăm dân số có tín ngưỡng theo đạo Cao Đài. Tỉnh nhiều vùng đất đỏ, thuận cho việc trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, trà, thuốc lá, mía, đậu phọng: lại có những vùng đất xám hợp với việc trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái. Vì thế mà Tây Ninh lại là một tỉnh nông nghiệp thịnh vượng. Lại có nhiều rừng gỗ tốt. Một số lớn dân làm nghề rừng và một số khác làm cao su ở các đồn điền lớn: Bến Củi, Câu Khởi, Vên Vên, Hiệp Thành, Phước Hội, Thạch Điền, v.v.. Đất Tây Ninh khô nên việc đào giếng rất cần. Ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Cộng sản, VNCH cũng đã đào kênh Trà Sơn, Thiện Ngôn, Tân Bích. Thức ăn chính: Lúa, khoai mì, khoai sắn, đậu. Đất trồng được xoài, chuối, đứa, hợp hoan, sơn trà, dưa hấu. Gỗ quý: gỗ dầu, bàn lân, cây gõ, hoàng đàn, dầu, tre, mây, than củi. Các loại cây có thể làm thành vị thuốc: Ý dĩ, hương phụ, thiên môn, mạch môn, bạc hà, ích mẫu, hoắc hương, bán hạ, hậu phác, bách bôi, chi tử, lô hội, hà thủ ô. Rừng Tây Ninh có những loài thú: Công, hạc xám, gà nước, cu đất, gõ kiến, tê giác, voi (còn rất ít), gấu, hùm, dê, hươu, heo rừng, thỏ, gấu có vòng cổ vàng, con giốc (vượn mắt tím, lông xám, tay chân trắng) Cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm. Tháng 6 năm 1864, lãnh tụ Pô Kum phất cờ đứng lên. Ông Pao bị Pháp bắt giam ở Sàigòn và được những nhà cách mạng VN cứu thoát. Ông về Tây Ninh; tập hợp người gốc Khơ-me, người Chàm, người Stiêng và các sắc tộc thiểu số, khởi nghĩa, phối hợp với ông Trương Quyền và Quản Là, đánh vào dinh tỉnh trưởng Pháp, thắng trận Rạch Vinh. Năm 1942, tướng Trình Minh Thế lập quân đội kháng chiến theo lệnh Hội Thánh Cao Đài chống Pháp, giết tỉnh trưởng Pháp, đánh tan hai tiểu đoàn viễn chinh liên hiệp Pháp. Những năm 1943-1945, tướng Trịnh Minh Thế tuyên chiến với hai kẻ thù giặc Pháp và giặc Việt Minh (Cộng sản), ông chiếm luôn ba tỉnh miền đông, đánh bật VC ra khỏi khu chiến miền Đông. Ngày 10-4-1946, Pháp đổ quân chiếm Tòa Thánh
Tây Ninh, tàn sát tín đồ Cao Đài, tướng Thế nổi giận ra lệnh ám sát thiếu tướng Chanson, tư lệnh khu 3 của Pháp và đánh tan rã 4 tiểu đoàn quân Pháp tại quận Trảng Bàng. Trong suốt thời kỳ tướng Thế ngự trị, VC và quân Pháp không mở được những cuộc hành quân phản công tái chiếm những vùng đã mất. Tây Ninh có núi Bà Đen cao 986 thước. Đây là ngọn núi cao nhất tỉnh Tây Ninh, cũng còn được gọi là núi Vân Sơn vì hay có mây mù che phủ. Núi ở Đông bắc thị xã 15 cây số, do đá hoa cương kết thành. Núi có đường xây bậc lên lễ chùa Linh Sơn ở khoảng cao độ 200 thước. Ở đây có nhiều hang động và nước suối trong vắt. Đi lên phía trên còn nhiều hang động có thể chứa cả hàng ngàn người. Bên cạnh có núi Heo và núi Tượng. Thỉnh thoảng nhặt được đồ đồng và đồ đá ở núi Bà Đen. Từ đỉnh núi nhìn phong cảnh rất đẹp với nhiều hồ nước dưới chân núi. Tây Ninh, nơi có tiếng súng đầu tiên, mở đầu cho cuộc chiến tranh đẫm máu Quốc-Cộng suốt thập niên 60 và nửa thập niên 70. Ngày 1-5-1960, 1 trung đoàn của sư đoàn 5 của VNCH bị VC bất thần tấn công, tràn ngập căn cứ Tua Hai (Trảng Sụp), quân VNCH chống đỡ yếu ớt và tan hàng ngay trong đêm đó. Kho vũ khí hơn 1000 khẩu súng đủ loại bị VC tịch thu, quân số tổn thương rất quan trọng. Tổng thống Ngô Đình Diệm sửng sốt trong trận này, và kể từ ngày đó người dân miền Nam không còn được sống những ngày ngắn ngủi hoà bình không tiếng súng. Trải 4 năm, từ năm 1960 tới 1964, vũ khí Việt Cộng còn thô sơ, phương tiện cơ giới thiếu thốn, quân số Cộng sản không tập kết ra Bắc, còn cài lại ở miền Nam và tân binh mộ ở địa phương không đủ sức mở những mặt trận có tầm vóc gây tiếng vang. Để bảo toàn lực lượng, chiến thuật “du kích” được khai thác tối đa. Những năm đó, binh sĩ VC có khả năng phục kích lẻ tẻ, ám sát, ném lựu đạn, công đồn ban đêm, rồi rút lui nhanh chóng, không chủ yếu chiếm đất, công khai ra mặt đối diện với quân đội VNCH. Họ chỉ chủ trương đánh lén, rút nhanh và biến mất vào bóng đêm Năm 1963, Trung Cộng gia tăng viện trợ vũ khí, ồ ạt đổ chiến cụ vào miền Bắc, lệnh động viên gởi đến thanh niên 18 tuổi, VC bắt đầu thực tập chiến tranh qui ước. Không đợi tới năm 1969 như tướng VC Trần Văn Trà vừa đề nghị lên Quân Ủy Trung Ương, Việt Cộng đã thử đánh trận địa chiến bỏ túi. Một trung đoàn chủ lực Miền mang bí số K62, ban ngày, ngang nhiên dàn đội hình tấn công quân lực VNCH, tràn Ấp Bắc, cách
Mỹ Tho 16 cây số. Kết quả thương vong: quân VC chết 101 người, bị bắt 36 bộ đội. Quân VNCH: 65 tử trận, bị thương 100 người. Trận Ấp Bắc ngùn ngụt khói lửa, đôi bên quần thảo trong một đầm lầy điện tích 2 cây số vuông, kéo dài một ngày một đêm. VC lần đầu tiên xử dụng hai loại vũ khí tối tân: súng tiểu liên AK 47 và hoả lực công phá B40. Thiết giáp của đại úy Lý Tòng Bá chùn bước, bị đánh bật ra ngoài vòng chiến địa, vì hỏa lực B40 có tầm tác xạ chính xác ở 150 thước và xuyên thủng hơn 1 phân thép, đã bắn cháy hầu hết xe tăng lội nước M113, và các xe bọc thép (do Pháp trao lại) của VNCH tại mặt trận. Tiểu liên AK47, lần thứ nhất xuất hiện, tiếng nổ ròn rã, mức độ tác xạ nhanh, tầm chính xác xa, ít trở ngại tác xạ, lại nhẹ nhàng tiện dụng khiến cho vũ khí Carbine M2, Garant M1 trở thành cổ lỗ sĩ, mất hiệu lực khi đương đầu với loại vũ khí hiện đại này. Tại đây, phóng viên chiến trường tận mắt nhìn thấy VC đánh VNCH bằng B40 và AK47. Các giới chức có thẩm quyền bối rối, phải chịu trách nhiệm về mặt quân sự bởi không định lượng nổi chiến thuật mới và vũ khí mới của VC. Nhìn chung, qua trận Ấp Bắc, Hà Nội muốn trắc nghiệm Hoa Kỳ có thật tâm yểm trợ tối đa quân lực VNCH không? Kết quả sự thăm dò này, Bắc Việt có bằng chứng Hoa Kỳ không hăng hái, tha thiết giúp đỡ miền Nam, và họ quyết tâm đánh chiếm miền Nam bằng quân sự. Mãi đến năm 1965, nghĩa là sau ba năm xảy ra Ấp Bắc, Mỹ mới chầm chậm viện trợ súng trường M16 cho một số đơn vị tổng trừ bị VNCH. Đến năm 1969, quân lực VNCH mới hoàn toàn được trang bị M16. Trong suốt cuộc chiến Quốc-Cộng ở Việt Nam, bao giờ Cộng quân cũng có ưu thế về vũ khí và quân số. Người Mỹ chỉ trang bị cho quân lực VNCH các loại vũ khí tương đương 3 hoặc 4 năm sau Cộng quân. Bù đắp thiếu kém đó, để chống trả lại Bắc quân, người miền Nam chỉ có lòng hy sinh và quả cảm. Chống lại được sự xâm lăng của miền Bắc với sự yểm trợ tận tình của cả Nga Sô và Trung Cộng trong 15 năm, người lính VNCH đã làm một phép lạ. Để thử ý chí Hoa kỳ về việc võ trang cho quân đội VNCH, Bắt Việt trắc nghiệm một lần nữa, nhằm xét đoán binh thuyết chiến tranh Hoa Kỳ thật sự giới hạn ở Miền Nam hay dám có quyết định mở rộng chiến tranh toàn Đông Dương. Lần này, với hàng loạt vũ khí tối tân do Nga Sô mới trực tiếp viện trợ, Bắc Việt thay đổi hẳn lối đánh và cách chọn trận địa: Quân số khổng lồ, vũ khí dư thừa, phương tiện cơ giới dồi dào, đánh chiếm và
giữ mục tiêu với quân số tấn công ở cấp sư đoàn. Công khai lộ diện mục tiêu, trực tiếp xáp lá cà tham chiến, dùng hỏa lực phòng không với các giàn hỏa tiển tầm nhiệt (Sam) triệt hạ phi cơ, khống chế ưu thế không quân vẫn có của quân lực VNCH, pháo binh tập trung khai thác đến độ có thêm danh từ quân sự “chiến tranh bích kích pháo”. Sau hết, đánh xong không thèm rút, chấp nhận chờ viện quân VNCH tới gài mặt trận kế tiếp. Có những chiến trường mà quân VC cố ý kéo dài thời gian đụng độ có khi 10 ngày hoặc nửa tháng không có ý ăn thua với VNCH mà nhằm đo lường phản ứng viện trợ và đổ quân của Mỹ vào VN. Ngày 2-12-1964, Bộ Tư lệnh Cục R. ném vào địa danh Bình Giả hai sư đoàn chủ lực, xóa tan quận lỵ và bao vây một trung đoàn của sư đoàn 18 Bộ binh VNCH. Quân VNCH bị đánh bất ngờ, với quân số đông gấp 5 lần, hỏa lực trội hơn 6 lần, không đầy một ngày cầm cự phải mất vào tay VC. Số thương vong lên đến 1566 binh sĩ, 111 sĩ quan từ cấp úy đến cấp tá. Bình Giả đi vào chiến sử của cả hai phe, nên chúng tôi mạn phép quay chậm lại khúc phim Bình Giả, để ngày nay vừa bình tĩnh tâm trí, vừa độc lập tư tưởng nhận xét khách quan chiến trường này. Tướng VC Lê Đức Anh, tham mưu phó cục R. kiêm tư lệnh pháo binh “vẽ” kế hoạch đánh pháo vào Bình Giả như sau: Một tháng trước khi tổng tấn công, pháo binh “trải thảm” lên mục tiêu. Giai đoạn 1: Dùng pháo tầm xa như 107ly, 122 ly rót xuống khu đóng quân VNCH theo nhịp độ “chụp tinh thần” khoảng cách 45 phút một trái. Bắn liên tục mỗi ngày như vậy đúng 30 ngày. Giai đoạn hai: Sơn pháo, cối 82 ly, pháo tầm gần nổ chụp từng tràng, mỗi tràng tạo thành “chùm” nả tới tấp xuống căn cứ, áp đảo tinh thần binh sĩ và làm thương vong lực lượng trú phòng. Các giàn pháo đặt từ nhiều hướng, nhưng nổ xuống mục tiêu cùng một lúc, sức công phá mãnh liệt, tầm sát hại rất nguy hiểm. Một tuần trước khi tấn công, các giàn sơn pháo bắn liên tục ngày đêm, chỉ ngừng nghỉ khi nạp đạn, quân VNCH xuống tinh thần, bị động ẩn trốn vào giao thông hào, vào hầm tránh pháo, nên lực lượng đề kháng mất hẳn năng động. Ấy là chưa nói đến các cánh quân VC siết chặt dần những cuộc hành quân nới rộng vòng đai an ninh căn cứ. Giai đoạn ba: Trước khi tấn công khoảng 5 giờ đồng hồ, các lực lượng pháo phối hợp thành một khối duy nhất, pháo lớn, pháo nhỏ, tầm xa hay gần cùng một hoạt động một giờ, rải như mưa xuống căn cứ VNCH, binh
sĩ không có cách nào ngóc đầu nổi để phối trí lực lượng hay rảnh tay phản công. Mưa pháo dồn dập đè bẹp sức đề kháng từ phút đầu. Trên “sa bàn” tướng VC Trần Văn Trà bố trí trận đánh: – Sư đoàn 322 đóng cách xa Bình Giả 4 cây số, làm trừ bị, chận viện quân và chỉ tham chiến với viện quân. – Sư đoàn 325, xử dụng hai trung đoàn có bổn phận “đánh biển người”, trung đoàn còn lại cắt đôi quân VNCH ra làm hai, rồi cho xáp lá cà ở thế “răng lược”, chuyên đánh lựu đạn và cận chiến. – Trung đoàn K61, du kích miền có nhiệm vụ “thí quân” ngay từ giây phút đầu khai diễn mặt trận. VC chiếm Bình Giả, bám chặt từng chốt, cương quyết giữ luôn quận lỵ. Chính phủ VNCH chới với, dư luận báo chí quốc tế phê bình hao tốn biết bao nhiêu là giấy mực, chỉ trích Hoa Kỳ hờ hững yểm trợ Việt Nam, lên án chính phủ trung ương VN chỉ lo đảo chánh kiếm danh, để quận Bình Giả vĩnh viễn lọt vào tay địch. Trả lời dư luận, Bộ Tổng Tham mưu quyết tâm chiếm lại Bình Giả. Các sĩ quan tham mưu hành quân ở Bộ Tổng Tham mưu, nhận lệnh từ tướng Tổng Tham mưu trưởng, có khi ở cả dinh Độc Lập ra lệnh vì danh dự quân đội phải dồn mọi nỗ lực tái lập lại chủ quyền quận Bình Giả. Dựa trên quan niệm có quyền sử dụng lực lượng tổng trừ bị ném hết vào mặt trận. Quan niệm ngầm hiểu rằng binh chủng thiện chiến “theo thông lệ” có thể “xài” 50% quân số tử vong cho mỗi chiến trường. Tổng trừ bị, thay vì áp dụng cho trường hợp giải tỏa chiến trường, khẩn cấp tiếp cứu đơn vị bạn, lại đặt vào tình trạng thí quân. Nguyên một lữ đoàn Dù được trực thăng vận đáp ngay trên đầu địch có bổn phận mở rộng bãi đáp, dọn an ninh cho Thủy Quân Lục Chiến vào sau. “Chạm đất” giữa trung tâm vòng vây địch, Dù đánh từ trong mở ra “đường máu”, không có mục đích “di tản quân” mà dọn lối bắt tay với Biệt Động quân đánh úp vào. Nhìn sơ đồ mặt trận, người ta thấy: Vòng một, VC bao vây một trung đoàn Bộ binh của sư đoàn 18 và Bảo an, vòng hai Thủy Quân Lục Chiến bao vây, vòng vây thứ ba, sư đoàn 322 VC bao vây ngược trở lại Thủy Quân Lục Chiến . Nhưng vòng vây cuối cùng thì Biệt Động quân bao vây lại VC. Quân hai phe bao vây thế cài răng lược. Cấp chỉ huy VC phá thế trận bằng cách dội pháo ào ạt, rót thẳng xuống trận địa không phận biệt quân bạn hay quân thù, dụng ý gỡ dần vòng vây và tái phối trí lại đội hình. Phía VNCH đùng
bom lửa Napalm ùn ùn thả xuống, cũng không phân biệt quân ta quân thù, nhưng cố hết sức cắt bớt các vòng vây đang bị kẹt cứng. Sang ngày thứ ba, Dù đánh theo kiểu “sen nở” từ trong đánh ra, bắt tay được với Thủy quân lục quân. Tuy nhiên, suốt cả đêm mở đường máu, quân Dù VNCH ít khi được xài súng liên thanh, hầu hết đánh bằng lựu đạn và lưỡi lê cận chiến. Nhu cầu ném quân số vào mặt trận quá cấp bách, người ta gởi ra chiến trường bổ sung cho Dù và Thủy Quân Lục Chiến 15 tân thiếu úy, vừa tốt nghiệp khóa 19 trường Võ Bị Đà Lạt, mới hết phép mãn khóa (thủ khoa khóa này là sinh viên sĩ quan Quách Tinh Cần, người đầu tiên được chọn đi học trong Võ Bị West Point, Hoa Kỳ). Tinh thần chiến đấu của 15 người trai trẻ, đại biểu cho những chàng trai đáp lời sông núi của thế hệ thập niên 60, hăng say, nhiệt thành, nhưng kinh nghiệm trận mạc chưa quá 24 giờ đồng hồ, chiến trường đã nuốt sống họ, dập tắt mọi hy vọng tương lai của đời binh nghiệp. Phân nửa nằm yên dưới lòng đất, phân nửa bị mảnh đạn B40 ghim đầy mình. Trung úy Lã Qúy Trang (Khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, sau là trung tá tiểu đoàn trưởng Dù) hứng hai viên AK47, đạn xoáy banh ruột nằm trên bờ ruộng, nhưng phòng không VC với pháo phòng không bắn nhanh và các loại hoả tiễn địa không “Sam” làm chủ không phận, trực thăng không thể xuống tải thương, người sĩ quan trẻ tay siết cứng chùm ruột nằm cạnh vũng máu khô quánh, thiếp đi hai ngày hai đêm (Anh Lã Quý Trang sau hơn 10 năm bị CS nhốt tù cải tạo, vừa trốn khỏi VN và hiện ở trong trại tị nạn Nam Dương). Chiến đoàn phó Dù, Trung tá Ngô Xuân Nghị, ôm “gần hết” trái B41, cả thân người lửa đốt cháy nám đen, các mạch gân rút lại, nằm lăn dưới vũng sình ngập máu đen, thiếp đi 3 ngày 3 đêm. (Trung tá Ngô Xuân Nghị, trước khi ra Hội đồng giải ngũ loại 3 được thăng đại tá. Di tản năm 1975, hiện sống hưu trí ở Dallas, tiểu bang Texas. Ông là anh ruột cố thiếu tá Dù Ngô Xuân Soạn, và nhạc sĩ Ngô Xuân Thiện sống ở Marseille). Thuở ấy, hai bên đều tuyên truyền thắng lợi, con số tử vong phe ta hạ xuống, phe địch tăng lên. Giờ đây, sống giữa thành phố Houston (Texas, Hoa Kỳ), người viết có đầy đủ quyền tự do ngôn luận để thống kê chính xác tử thi và thương vong của đôi bên trong trận Bình Giả. VNCH chết:
2344 người, thanh niên miền Nam, 3677 thương binh. VC: 2599 đền nợ Đảng, họ là thanh niên miền Bắc, 5244 thương binh. Kết quả, ở trận Bình Giả, độ khoảng 10.000 bà mẹ hai miền Nam-Bắc đội khăn tang, ngồi khóc con tử trận. Cục R. quyết chiếm Bình Giả, bất kể xương máu thanh niên Việt Nam. Bộ Tổng Tham mưu VNCH quyết tái chiếm, vì tự vệ phòng thủ miền Nam. Cuối cùng, chẳng có gì hết. Lính chết ngoài mặt trận, hy sinh xương máu ngoài tiền tuyến, thì ở Sàigòn, giới lãnh đạo vẫn trơ trơ kiếm ăn trên xác chết thanh niên Việt Nam. Tướng Nguyễn Khánh “kiên trì” ý chí thực hiện một Hiến chương mới còn gọi là “Hiến chương Vũng Tàu” do Hội Đồng quân đội cách mạng ban hành ngày 16-8-1964, bầu tướng Khánh làm chủ tịch Việt Nam Cộng Hoà. Theo Hiến chương, ông Khánh giữ luôn chức quốc trưởng và nhiều chức vụ quan trọng khác. Khi có quyền ông thích tuyên bố bậy. Trưa ngày 19-10-, tại thị xã Pleiku, tướng Khánh nói “Quân đội là Cha quốc gia”. Sẵn nổi hứng, ông gây lộn tay đôi với đại sứ Taylor, tuyên bố với báo New-york Herald Tribune:”Tướng Taylor có những hành động không thể tưởng tượng, muốn dùng củ cà rốt và cây gậy áp lực tôi phải làm theo ý Hoa Kỳ. Thật là quá hỗn xược. Dù sao tôi cũng là quốc trưởg. Nếu Taylor không khéo, thì người Mỹ sẽ mất Việt Nam. Hãy nghĩ kỹ lại đi. Mỹ hay tôi ai đang nắm quyền ở xứ nầy!” Nước Việt Nam của người VN. VN có mất vào tay Cộng sản, nó có mắc mớ gì đến Mỹ đâu? Câu tuyên bố này, chứng tỏ ông Khánh chưa ly khai khỏi giai cấp làm mướn ăn lương Mỹ. Hở ra một chút thì biểu lộ cử chỉ hờn mát người chủ. 11 năm sau đó, tướng Thiệu cũng tuyên bố một câu cùng một ý nghĩ như ông Khánh: “Hoa Kỳ không tiếp tục viện trợ, sớm muộn cũng mất VN, và vì thế tôi sẽ không chịu trách nhiệm!”. Dù đã là phó Tổng thống VNCH, kiêm tư lệnh không quân, ông Kỳ cũng chưa chịu yên phận, mãi nuôi hoài bảo lật đổ ông Thiệu. Đầu tháng 6-1969, nhân vụ Cụm A22 bị hốt, các tên gián điệp đầu não VC như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng lãnh án tù. Họ la tay chân thân tín của ông Thiệu trước kia, nay vỡ lẽ ra họ là điệp viên Cộng sản. Báo chí quốc tế mặc sức phóng đại tin tức, làm phóng sự hạ uy tín VNCH nói chung, ông Thiệu nói riêng. Quốc hội Hoa Kỳ ngay cả phe diều hâu nghi ngờ ông Thiệu là CS. Ông Kỳ lợi dụng thời điểm khó khăn cho ông Thiệu, liền tính tổ chức đảo chánh, đòi ban hành thiết quân luật và làm lại cuộc bầu
cử khác. Các tướng theo ông Kỳ gồm có: tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tá Phó Quốc Chụ, Phó Đề đốc Chung Tấn Cang và tướng Nguyễn Bảo Trị. Cuộc đảo chánh giờ chót bất thành, vì đại sứ Mỹ chính thức ra tay ngăn chặn. Ông William Craig, phó sở CIA tại Sàigòn, cảnh cáo ông Kỳ:”Ví dầu ông có đảo chánh thành công, chúng tôi cũng vẫn hạ bệ tên tuổi ông”. Kế đó, William Craig trao lại ông Kỳ một tập tài liệu tối mật, ghi rõ ngày giờ, nơi chốn đàn em ông Kỳ vận tải á phiện vào VN và có hình ông Kỳ thấp thoáng trong đó. Có lẽ nên lướt sơ qua tập tài liệu này, để xem sức mạnh cỡ nào, khiến cho ông Kỳ câm họng, hủy bỏ ngay cuộc đảo chánh ông Thiệu, đúng lý ra đã được tiến hành. Theo báo cáo mật lên Thượng nghị viện Hoa Kỳ của ông Robert, phụ tá ông giám đốc CIA Colby, nói về các cuộc đảo chánh và tham nhũng trong chính phủ VNCH năm 1969 nêu ra nhiều chi tiết đáng lo ngại. Thượng nghị sĩ AIbert Gruening của tiểu bang Alaska, chủ tịch tiểu ban tư pháp thượng nghị viện Hoa Kỳ đã tuyên bố trong tháng 2-1968 rằng: “Chính quyền Sàigòn quá sức tham nhũng, đến độ dân chúng hết còn tin tưởng và trung thành với chính quyền nữa”, những viên chức Mỹ ở Sàigòn đã che chở cho chế độ hai ông Thiệu-Kỳ và đã trả lời rằng: “Những nhà lãnh đạo Nam Việt Nam khi không đang bị buộc tội nhận tiền hoa hồng (chuyên chở á phiện)”. Một tháng sau đó thượng nghị sĩ Gruening trưng bằng cớ về đường dây bạch phiến của ông Kỳ trong những năm 1961- 1962, nhưng lúc ấy Tòa Đại sứ Hoa Kỳ đã giúp ông Kỳ thoát một cuộc điều tra về vấn đề này bằng cách bác bỏ hoàn toàn lời tố cáo của Thượng nghị sĩ Gruening. Thuở đó (1967), trong lúc đường dây buôn lậu bị đổ bể thì những chuyến C-47 của không lực VN âm thầm đổ những tấn thuốc phiện Lào ở nơi cách đường bay dân sự không đầy 100 thước. Cho đến tháng 11- 1967 ông Kỳ vẫn không chịu bỏ chức Tư lệnh Không quân dù ông đã đưa những tay chân thân tín của ông vào những chức vụ quan trọng. Với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương và Phó Tổng thống sau đó, ông Kỳ từ chối cư ngụ ở những công thự sẵn có dành riêng cho các chức vụ này, mà ông lại dùng một ngân khoản 200.000 đô-la trong công quỹ quốc gia để xây riêng một lâu đài nguy nga ở ngay trong căn cứ Tân Sơn Nhất và trước dinh thự lúc nào cũng có một trực thăng túc trực sẵn.
Những tay chân thân tín nhất của ông Kỳ là những người trong Không đoàn I Vận tải do cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương làm chỉ huy trưởng. Theo những người am hiểu tình hình thì đại tá Cương (cấp bực lúc còn sống) đã gián tiếp điều hành ngành không quân và đặc biệt là điều hành đường dây bạch phiến. Vì chức vụ Tư lệnh Căn cứ Không quân Yếu Khu Tân Sơn Nhất và trưởng không đoàn I/KO/VT được sát nhập làm một kể từ năm 1964, nên đại tá Cương không những có máy bay để chở thuốc phiện mà còn kiểm soát luôn đơn vị an ninh phi trường, thì còn ai dám khám xét các phi cơ C-47 chứa hàng lậu nầy? Mỗi khi hàng đến Sàigòn an toàn, thuốc phiện được giao cho những đầu nậu Hoa kiều Chợ Lớn. Những người nầy lo việc lọc thuốc và phân phối. Cảnh sát của tướng Loan (cảnh sát thuộc đàn em thân tín của tướng Loan, CIA không nói xấu toàn thể Cảnh sát Quốc gia VNCH) được dùng để bao che các tay đầu nậu này cùng với các chủ động hút. Các động nầy tập trung nhiều nhất ở quận 5, 6, 7 và rải rác khắp quận khác ở Sàigòn – Chợ Lớn. Việc xuất cảng nha phiến sang Âu Châu tương đối ít trong thời ông Diệm, nhưng nó được gia tăng rõ rệt trong thời gian ông Kỳ nắm chính quyền, cùng lúc với việc Thổ Nhĩ Kỳ chấm dứt sản xuất loại ma túy này trong năm 1967-1967. Theo trung tá Lucien Conein, tướng Loan đã thu lợi lớn trong dịp này như sau: “Ông Loan đã tổ chức xuất cảng thuốc phiện như là một phần của hệ thống tham nhũng. Ông ta đã liên lạc với những người Corse, người Tàu và cho họ biết là họ có thể xuất cảng thuốc phiện Lào từ Sàigòn nếu họ chịu trả cho phe ông Kỳ một giá nhất định nào đó”. Hầu hết nha phiến Lào xuất cảng tại VN, dù cho tới Âu Châu hay những nơi khác ở Đông Nam Á, đều được chở từ thương cảng Sàigòn trên các tàu buôn. Và Sàigòn cũng chính là nơi du nhập thuốc phiện lậu qua ngã Thái Lan. Giám đốc thương cảng Sàigòn thời gian này là Trung tá Phó Quốc Chụ, là em rể mà cũng là cố vấn chính trị thân cận của ông Kỳ (cũng nên nhắc lại ông Kỳ đã có một đời vợ người Pháp đã ly dị, trước khi cưới bà Mai). Dưới quyền giám đốc của Trung tá Chụ, những viên chức quan thuế Thương cảng chuyên nghiệp đều bị mời đi chỗ khác chơi. Trong báo cáo của nhân viên CIA, đóng vai Cố Vấn Trưởng toán cố vấn quan thuế Nha Thương Cảng Sàigòn, tháng 10/67 nói:”Thương Cảng bây giờ chỉ toàn sĩ quan quân lực biệt phái.”
Thực sự lúc ông Kỳ nắm chính quyền, tình hình an ninh ở Sàigòn có phần sáng sủa, tuy nhiên mục đích chính gia tăng quyền hành cho Cảnh Sát Quốc Gia là nhằm củng cố tham vọng chính trị của riêng ông. Thường thì ông quên kẻ thù thực sự là VC cần tiêu diệt mà lại dùng hệ thống tình báo Cảnh sát để thanh toán những phe nhóm quân sự, chính trị nào dám chống đối lại ông. Dưới sự quản lý của tướng Loan, trong guồng máy chính trị của ông Kỳ, tổ chức hệ thống buôn lậu bạch phiến còn tinh vi hơn cả thời ông Nhu trước kia (ông tổ chức gây quỹ cho đảng Cần Lao của ông). Trước đây ông Nhu nhờ vào người Corse để quản trị hầu hết các đường buôn lậu thuốc phiện giữa Lào và Việt Nam. Khi những chuyến bay của người Corse bị đuổi khỏi Lào năm 1965 đã khiến cho nhóm ông Kỳ tham dự trực tiếp vào việc buôn lậu nhiều hơn. Qua những liên lạc viên ở Lào, những lượng thuốc phiện chín và sống được chở đến những phi trường ở Nam Lào, tại đây một phần hàng được các phi cơ vận tải quân sự mang về VN. Vì Tổng Nha Quan thuế VN do phe ông Kỳ kiểm soát nên số lượng “hàng đen” còn lại được đưa thẳng về Sàigòn qua chuyến bay dân sự từ Lào. Một khi thuốc phiện đến thủ đô và được phân phối đến các động hút trên toàn quốc thì CSQG của tướng Loan bảo vệ. Cuối cùng, vị giám đốc Thương Cảng cũng là người phe nhóm ông Kỳ. ☆ Ông Kỳ đọc bản tài liệu đó suýt té xỉu. Thật ra, ông có nhúng tay vào á phiện, hay che chở đàn em buôn á phiện, rất khó kiểm chứng. Nhưng trong tập tài liệu này, CIA có chụp được tấm hình của ông Kỳ trên chuyến phi cơ vận tải C-47 do ông lái, đáp xuống một phi trường nhỏ ở Nam Lào và chiếc phi cơ này cất “hàng đen”. Lúc đó ông Kỳ còn đang mang cấp bậc trung tá. 15. Nhắc lại những hoạt động trong khoảng thời gian hắn chưa bị bắt, Cụm A22 còn thơi thới ngoài vòng pháp luật và cha Quỳnh chưa biết tung tích của hắn.
Từ ngày được Tổng thống Thiệu bổ nhiệm, vô làm việc hẳn trong dinh Độc Lập, tên Nguyễn Xuân Hòe đã nhiều lần nhắc khéo hắn cách ăn mặc cho ra vẻ nhà chính khách: – Anh cứ sống thanh đạm , cần kiệm và trang phục giản dị hoài, coi sao được: – Mình phải đóng kịch vai thầy tu đến khi nào đánh Mỹ cút khỏi Việt Nam. Thật vậy. Hắn ít khi dùng tới bộ côm-lê trịnh trọng mà ông Thiệu đã may cho hắn. Hàng ngày hắn mặc chiếc áo sơ-mi giặt sạch sẽ, những khi tham dự tiếp tân đãi khách quan trọng, hắn thắt thêm chiếc cà-vạt. Hắn rất cẩn thận về ăn mặc, cách sống, cung cách ngoại giao ăn nói, luôn luôn tạo cho hắn một mẫu người liêm khiết, một loại công chức cần cù cho nhiệm vụ. Mỗi khi tiếp xúc những đồng nghiệp cấp bộ trưởng, hắn tỏ ra khiêm tốn, hòa nhã, nhún nhường, hào hiệp lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Loại người hắn là hạng nhà tu chân chính, tác phong Nho giáo, loại hiệp sĩ phương Tây vào thời trung cổ… Những người chung quanh đều có ấn tượng tốt đẹp về hắn như vậy. Không bao giờ hắn cự tuyệt lời mời tham gia vào những tổ chức từ thiện hay phục vụ tôn giáo. Đứng ở cương vị cố vấn tối cao của Tổng thống, hắn lại càng được nhiều người, nhiều tổ chức xã hội nể trọng, mời mọc tham gia. Hắn có bao nhiêu nhiệm vụ tôn giáo? Thành viên hiệp hội các trường công giáo, sáng lập viên và cố vấn Hội chẩn bần được Đức Giáo hoàng Paul VI ban phép lành, ủy viên tổ chức viện trợ công giáo quốc tế… Và Cha đỡ đầu của 6 tổ chức từ thiện công giáo, như Cô nhi viện, Viện dưỡng lão, Trại phong hủi, Trường những người mù, hội viên Đại binh Đức Mẹ, Đạo binh xanh (Blue Army), tôn sùng Đức Maria, là ân nhân đặc biệt của nhiều xứ đạo lạc quyên xây cất nhà thờ, trường học Thiên Chúa giáo. Quan trọng hơn nữa, hắn được thâu dụng vào Hội Dòng Cursillos de Cristiandad gồm những giám mục, linh mục thánh thiện hiến thân trọn đời cho Chúa. Đây là một tổ chức về khoa tĩnh tâm, luyện tinh thần về Ki-Tô giáo ngõ hầu đào tạo một thế hệ có phẩm cách, đứng ra làm cột trụ nêu gương tốt cho xã hội, cung cấp cho Hội thánh hàng ngũ con chiên canh tân Ki-Tô hữu, sống với phương châm: ” Lý tưởng, hiến thân, bác ái”. Thành phần được tuyển vào Cursillos de Cristiandad không gia nhập một đoàn thể nào nếu không được Hội cho phép.
Các chức vị, các hoạt động tôn giáo trá hình phần nào giúp hắn có một uy tín khả dï tiến lên vai trò lãnh đạo khối giáo dân trung ương, sau khi nhẫn nhục nhiều năm sống hiền từ, đức hạnh thì giáo dân sẽ mến trọng và gởi thác trách nhiệm. Hắn miệt mài học, nghiên cứu môn thần học và KiTô giáo. Củng cố, đứng vững trên vị trí tôn giáo, càng tránh được sự dòm ngó, nghi ngờ của mọi người. Mỗi tuần, hắn không quên bổn phận thiêng liêng, đều đặn diện kiến Đức Khâm sứ, báo Tòa Khâm sứ tình hình chính tị, chiến sự Việt Nam. Hắn thúc giục Đức Khâm sứ chuyển đề nghị của hắn tới Đức Thánh Cha mau tìm kiếm hòa bình cho Việt Nam, và nếu Tòa thánh Vatican có gởi thánh lệnh nào hãy kịp thời thông báo lại cho hắn biết với. Đức Khâm sứ khen ngợi hắn nhận xét khôn ngoan, nhạy cảm với những vấn đề có liên hệ đến Giáo hội La Mã. Đức Khâm sứ còn khuyến khích hắn hãy gia tăng thêm sự giao du thân mật với bạn bè người Mỹ, gây thiện cảm họ để họ giúp đỡ Việt Nam. Diễn tiến liên hệ thân thiết giữa hắn với Tòa Khâm sứ ngày thêm gần gũi. Điều này khiến ông Thiệu lại càng thêm nể trọng hắn. Cho nên hắn không thể thiếu trong cuộc đàm luận thời cuộc, soạn thảo chính sách quốc gia mỗi khi ông Thiệu triệu tập. Ngay từ buổi đầu tiếp xúc, rồi làm việc chung, hắn có cảm nghĩ, nếu so sánh giữa ông Thiệu và ông Nhu hoàn toàn khác nhau về cá tánh lẫn tham vọng. Ông Nhu nuôi ý chí phục thù Cộng sản. Ông Thiệu nuôi tham vọng ngồi ghế Tổng thống đời đời. Ông Nhu làm việc có triết thuyết, có hệ thống tư tưởng, tập trung toàn bộ trí thức dưới tay ông vào công cuộc đương đầu chủ nghĩa CS. Ông Thiệu đơn thuần chỉ nghĩ riêng cho ông. Nơi con người ông Thiệu, khó tìm thấy nét lý tưởng hoặc quan niệm phụng sự quốc gia cực đoan như ông Nhu. Ông Thiệu mang nặng hai vai gánh vật chất, quyền lợi cá nhân, và những thủ đoạn vặt nhưng rất thành công cho những chính khách nào chọn con đường bá đạo. Ông Nhu lẫm liệt, đạo mạo trong phong cách một kẻ cầm đầu, tiên phong chống cự bước tiến xâm lăng chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Dương. Trái lại, ông Thiệu chỉ là người an phận, cốt cách thừa sai của người Mỹ để ăn lương tháng.
Gần ông Nhu, hắn cảm thấy hoàn toàn nguy hiểm, con người trầm mặc, già dặn suy tuy, kín bít. Sống cạnh ông Thiệu, chả có gì phải lo lắng, dễ dàng nhìn thấy tất cả mưu toan, kế sách, thủ đoạn của ông. Ở ông Nhu hắn học được nhiều kiến thức, ở ông Thiệu hắn không học được gì và còn phải “bị” làm thầy ông Thiệu. Tin tức bên trong dinh Độc Lập, đôi khi hắn còn biết trước cả ông Thiệu. Ông Thiệu lại hay có cái tánh “đa sự”, thích kể cho hắn nghe những cuộc gặp gỡ bí mật giữa Đại sứ Mỹ và ông ta. Nhưng hình như người Mỹ ít khi tiết lộ những ý đồ chiến lược cho ông Thiệu biết, vì lẽ đó, hắn cũng không biết gì nhiều hơn ông Thiệu. Do ở chỗ thiếu trí tuệ phản ứng trước những biến cố khẩn cấp, ông Thiệu lúc nào cũng cần hắn bên cạnh. Ông Thiệu là hạng người rất lì, chịu đựng, biết lúc nào lui, lúc nào tiến, kiên trì đạt tới mục đích. Ông Thiệu ít khi từ chối những việc làm dầu trái phép, hay thất nhân tâm miễn gặt hái thành công cho giấc mộng vương bá của ông. Cách tính toán, và đáp số của bài toán, đối với ông Thiệu phải thực dụng, với lợi lộc thấy được, sờ mó được. Bao nhiêu năm, ít ai thấy ông Thiệu sống có đạo lý, mà chỉ hoàn toàn đơn thuần vì địa vị, quyền lợi. Ông Thiệu xài người, chơi bạn dựa vào quyền lợi. Quyền lợi hết, tình bạn cũng hết theo sau đó. Vì thế cả đời ông ông Thiệu không có bạn. Ông chỉ trải sinh hoạt cuộc sống lên hai hạng người bao chung quanh ông: một là hạng làm thầy ông, hai là hạng đầy tớ ông,. Với ông Thiệu, hắn lúc nào cũng biểu dương thế lực tinh thần, tỏ ra hắn luôn luôn được Giáo hội trọng vọng và chính Giáo hội đề cử hắn ra giúp đỡ, xây dựng, bảo vệ địa vị ông Thiệu. Hắn không phô trương bằng lời nói mà bằng hành động, bằng những sợi dây liên hệ mật thiết với cha Quỳnh và Đức Khâm sứ. Điều này hắn làm cho ông Thiệu kính trọng hắn, là vì vật chất, quyền lợi, tước cao chức trọng không thể mua chuộc được hắn. Hắn vô Dinh là chỉ hết mình phò Tổng thống. Phò tá bất vụ lợi, không cần ông Thiệu hay chính phủ trả ơn. Nằm trong chức vụ cố vấn đoàn cho tổng thống, hắn mặc sức khai thác tin tức, hoàn toàn tự do công tác gián điệp và có một địa bàn thuận lợi nhất để tìm hiểu những chủ trương chiến lược của chính phủ VNCH. Cục R. ra lệnh hắn phải thường xuyên hối thúc ông Thiệu cử phái đoàn sang Paris hòa đàm với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trước ngày mãn nhiệm kỳ về nước, linh mục O’Connor thường giải bày những cảm nghĩ của Cha về viễn ảnh đen tối VN. Một hôm Cha nói với hắn, do nội bộ Hoa Kỳ rối ren trong mùa bầu cử, buộc lòng Tổng thống Johnson phải thay đổi chủ thuyết chiến tranh VN. Cha đưa đề nghị trực tiếp với hắn, khuyên nhủ ông Thiệu nên hưởng ứng chính sách vận động hòa bình của Tổng thống Johnson, cử ngay một phái đoàn tới Paris nói chuyện với MTGPMN (Ông Thiệu không nhìn nhận MTGPMN là một thực thể có tư cách đàm phán với VNCH. VNCH muốn nói chuyện thẳng với chánh phủ Hà Nội, vì họ mới đích thực là thủ phạm xâm lăng miền Nam). Ông Phó Đại sứ Hoa Kỳ Berger biết bao nhiêu lần thúc bách ông Thiệu về vấn đề cử phái đoàn. Ông Phó Đại sứ, người ăn nói thiếu phép xã giao, nên phải nhận thất bại. Linh mục O’Connor nhờ hắn tận tình giảng nghĩa lợi hại thuyết phục ông Thiệu. Ông Thiệu rất quan tâm, tỏ ra lo lắng, nhưng vẫn một mực cương quyết không gởi phái đoàn qua Paris. Đến ngày cử hành lễ giỗ tổ Hùng Vương, tại vườn bông Tao Đàn, Tổng thống Thiệu tuyên bố với báo chí, Tổng thống sẽ ra lệnh tổng động viên và làm hết sức mình trong công cuộc bảo vệ miền Nam sát cánh với Hoa Kỳ. Linh mục O’Connor tìm tới nhà thờ Bình An, khen ngợi hắn vì nhờ hắn thuyết phục mà ông Thiệu tỏ ra dấu hiệu mềm dẻo, chịu thông cảm với những khó khăn của Tổng thống Johnson. Cha có ý yêu cầu hắn làm trung gian giữa Cha với ông Thiệu qua việc cử phái đoàn đi Paris thương thuyết, nếu tình hình đôi bên (Mỹ-VNCH) vẫn còn gặp những trở ngại ngoài ý muốn. Mấy ngày sau, ông Thiệu gương mặt vui tươi bước vào văn phòng hắn, cho hắn xem bức công điện của Tổng thống Johnson vừa mới gởi, hoan nghênh những lời ông Thiệu tuyên bố ngày hôm qua và cám ơn Tổng thống VNCH đã biểu lộ sự thông cảm hiện tình Tổng thống Johnson. Ông Thiệu lên tiếng: – Những gì anh nói hôm trước, tôi về suy nghĩ lại. Mình làm theo ý anh như vậy đó, thấy có sơ xuất gì không? Hắn mỉm cười “nâng bi” Tổng thống: – Giờ thì lo đến chuyện kế tiếp. Hoa Kỳ muốn chúng ta phải có một chánh phủ thật mạnh, đến lúc Tổng thống nên loại ông Lộc được chưa? – Đúng lúc rồi.
– Mình phải nêu lý do gì, thưa Tổng thống? – Hoa Kỳ đã giúp tôi mấy tháng nay: Tòa Đại sứ Mỹ khuyến cáo Nội các ông Lộc quá yếu, làm việc công tử, 6 tháng qua chẳng làm được cái gì, thủ đô Sàigòn ngày thêm rối loạn. – Tôi thấy Tổng thống nêu lý do nầy rất hợp lý, nhưng chúng ta chọn ai? Mấy tháng trước Tổng thống có ý định giao ông Hướng. – Ý nghĩ đó chỉ có giá trị sau thời gian đầu tôi đắc cử. Và lúc ấy, tôi phải nhận ông Lộc vì sợ ông Kỳ. Ngay bây giờ, cũng vậy, có thay ông Lộc mình cũng phải nghĩ tới ông Kỳ. Không nên vụng về làm cho ông Kỳ quá mất mặt, tìm cách tích cực chống mình. – Tôi xin đề nghị, Tổng thống mời cụ Trần Văn Hương được không? Cụ Hương không phải người của Tổng thống, nhưng cá tính cứng cỏi, có khả năng chống đỡ ông Kỳ. Chúng ta dùng ông già làm đòn gánh hứng chịu, rồi đứng phía sau hướng dẫn ông cụ làm. Chừng ấy chúng ta mới rảnh tay lo việc đối phó ông Kỳ. – Tôi đồng ý. Giải pháp như vậy, không có gì hay hơn. Tổng thống Thiệu cười vui vẻ nói tiếp: – Tôi nhờ anh ráng thủ vai Tô Tần, đứng ra mời “ông già gân” trở lại nắm thủ tướng một lần nữa. Màn thay người đổi ngựa thực hiện theo kế hoạch trù tính. Cuối tháng 5-1968, Tổng thống Thiệu loại ông Lộc ra khỏi chính phủ và công khai trước diễn đàn quần chúng mời cụ Trần Văn Hương ra thành lập tân nội các. Cụ Hương đồng ý mời người tham dự nội các theo danh sách của Tổng thống Thiệu chỉ định. Sang đầu tháng 7-1968, ông Thiệu tuyên bố một lần nữa: “sau khi tổng động viên, VNCH có quân số dư sức đương đầu CS ngoài chiến trường, quân đội Hoa Kỳ có thể dần dần rút quân về nước, thời hạn kể từ năm 1969”. Ông Thiệu nghĩ rằng hợp tác đưa quân Mỹ hồi hương thì Tổng thống Johnson sẽ lờ luôn vụ ép buộc VNCH ngồi đối diện với MTGPMN tại hòa đàm Paris. Thời gian này VNCH đang bị Hoa Kỳ làm áp lực để phải ngồi nói chuyện với MTGPMN. Linh mục O’Connor gọi điện thoại mời hắn dùng cơm trưa ở Nha Tuyên úy Hải quân Hoa Kỳ. Hắn trình ông Thiệu trước khi đi. Ông Thiệu dặn dò:
– Nếu Cha có hỏi chi về ông già Hương, hãy ráng đề cao khen ông già một chút nhé! Ông già giỏi hành chánh, lo nhân sự trong nước, còn việc đánh CS thì đã có tôi. Tòa Đại sứ Mỹ khỏi lo. Tuy nhiên, chờ suốt bữa cơm, linh mục O’Connor không hề hỏi hẳn về cụ Hương. Cha chỉ nói đến hội nghị Paris, thắc mắc tại sao ông Thiệu vẫn còn chần chừ, không chịu cử phái đoàn qua tham dự? Linh O’Connor bỗng tiết lộ ra: – Nếu không có gì trở ngại, trong một ngày gần đây, Tổng thống Johnson sẽ gặp ông Thiệu. Tôi đề nghị giáo sư nên vận động tinh thần ông Thiệu trước khi tới dự cuộc họp thượng đỉnh với Tổng thống Johnson. Hắn lẹ làng đặt câu hỏi: – Cuộc hội nghị sẽ giải quyết những gì, và nội dung như thế nào? – Nội dung bàn những vấn đề không có gì mới lạ như giáo sư đã từng được tôi thông báo. Tổng thống Johnson có quyết định “mặt chạm mặt” với tổng thống Thiệu là để đặt thẳng vấn đề Hoa Kỳ thật sự muốn giảm bớt cường độ chiến tranh VN, mưu tìm hòa bình rồi rút quân trong danh dự. Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông Thiệu tăng cường thêm quân đội VNCH, đồng thời giải thích rõ ràng người Mỹ yêu cầu VNCH phải chấp nhận một giải pháp chính trị “hòa giải” với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. – Tôi có thể được phép biết trước những dự tính về phía Hoa Kỳ trong nội dung của giải pháp chính trị để kịp chuẩn bị cổ võ tinh thần Tổng thống Thiệu. Theo Cha, tạm thời tôi khoan nói với ông Thiệu, hay tôi trình bày lại Tổng thống sau khi mình chấm dứt bữa cơm? – Nên nói ngay. Điều cần thông cảm là, nếu đôi bên muốn nắm lấy giải pháp chính trị, thì cả hai bên phải có thiện chí nhân nhượng. Tổng thống Johnson muốn ông Thiệu nên nói chuyện thẳng với MTGPMN và mở đường tiến tới việc thành lập một chính phủ liên hiệp… Linh mục O’Connor “giảng” tiếp: – Nếu MTGPMN có một chính phủ hoạt động từ trước thì cuộc giải quyết hai phe lâm chiến sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, theo tôi, ông Thiệu có thể thương nghị với từng cá nhân lãnh đạo của MTGPMN, dù rằng quốc tế chưa nhìn nhận họ. Hai bên nhất quyết lánh mặt, thì làm sao dàn xếp được mọi cuộc xung đột. (Linh mục liếc nhanh hắn) Vả lại, điều này cũng phù hợp với đường lối chủ trương hòa bình của Tòa Thánh Vatican. Hắn nói:
– Đức Giáo hoàng PauI VI đã thừa nhận ở Nam Việt Nam có hai phe lâm chiến. Linh mục O’Connor hỏi: – Giáo sư nhận xét thế nào khi ông Thiệu được thông báo lại những đề nghị hòa bình, xuống thang chiến tranh từ phía Hoa Kỳ? – Tổng thống sẽ phản ứng một cách không hài lòng. Nhưng nhờ Tổng thống có tánh hay thay đổi lập trường. Lúc đầu không đồng ý, giờ chót biết đâu ông sẽ tán thành chủ trương lâm thời của Hoa Kỳ. Dù sao cũng có tôi quyết tâm thuyết phục Tổng thống làm theo ý muốn Cha. – Chúng tôi chờ kết quả tốt đẹp từ nơi giáo sư. Giải pháp như vừa trình bày, áp dụng cho Việt Nam, thật là thực tế… Tổng thống Thiệu có vẻ trông ngóng, chờ hắn trở vê dinh Độc Lập. Hắn tỉ mỉ thuật lại từng chi tiết, từng khía cạnh trở ngại trong câu chuyện mà linh mục O’Connor gián tiếp gởi đến ông Thiệu. Khuôn mặt Tổng thống đang hớn hở, bỗng tắt dần, biến thành nét giận dữ. Tổng thống Thiệu tưởng rằng, thay đổi nội các, tuyên bố khuyến khích Hoa Kỳ rút quân là được Tổng thống Johnson tưng bừng tán thưởng. Không ngờ họ ép bức ông nói chuyện tay đôi với công cụ CS (MTGPMN). Khi hắn trình bày tới đoạn Hoa Kỳ yêu cầu Tổng thống VNCH tiếp chuyện với MTGPMN thì ông Thiệu đỏ mặt, la lớn: – Không bao giờ có chuyện đó xảy ra. Tôi là Tổng thống của một quốc gia có trên 80 nước công nhận, chẳng lẽ tôi đi nói chuyện với đám người tay sai Hà Nội, không có quân, không chính phủ, không quốc gia, không gì cả. Tôi chỉ nói chuyện với đầu não Bắc Việt, với chính phủ CS Hà Nội. Tôi thích ngồi với người chớ không thích nói chuyện với bóng! Quan điểm tôi, dứt khoát là như vậy. Hắn kết thúc buổi “cố vấn” tổng thống: – Khoảng một tuần nữa, ông Phó Đại sứ Berger sẽ đưa thư của ông Johnson mời Tổng thống đi họp thượng đỉnh với ông ta tại Honolulu vào trung tuần tháng Bảy này. – Mình cứ chờ coi. Hai ngày qua hắn vắng mặt, không tới dinh Độc Lập. Hắn viện cớ là phải vào lo công việc bề bộn trong nhà thờ Bình An. Hắn viết một lá thư, nhờ cha Trần Đức Nhuận xem thật kỹ, ráng nhớ nội dung, để nói lại cho
ông Thiệu nghe. Vào buổi chiều hôm đó, cha Nhuận mang về lá thư do tự tay ông Thiệu viết gửi hắn: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Ngày 3 tháng 7 năm 1968 Anh Nhạ thân, Mấy bữa nay không có dịp gặp anh. Tôi nhờ anh chuyển lời cám ơn Cha và những người bạn Mỹ đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Những lời khuyến cáo của Cha và những bạn thân của chúng ta rất quý báu đối với tôi và nhân dân Việt Nam. Nguyễn Văn Thiệu (Ký tên) Hắn cẩn thận hỏi lại cha Nhuận: – Tổng thống có hỏi điều gì với Cha trước khi Tổng thống viết thư cho tôi không? – Tổng thống không hỏi gì. Cha nói các điều do giáo sư yêu cầu, rồi Tổng thống lấy giấy viết luôn tại chỗ. Nhưng Tổng thống có nhắn lại, biểu giáo ngày mai phải vô gặp Tổng thống, có việc rất cần. – Thưa Cha, có chuyện gì vậy Cha? Đã quá lâu con mới có dịp trở về Bình An, con tính ở lại săn sóc sức khoẻ Cha Tổng ít ngày nữa. – Nghe nói hình như ông Johnson muốn mời Tổng thống qua Honolulu hội thượng đỉnh, nên Tổng thống lo lắng ra mặt, cần giáo sư vô Dinh sớm. Hắn đưa lá thư cám ơn cho những người Mỹ trong Tòa Đại sứ và linh mục O’Connor xem, đặc biệt những người hiện đang ủng hộ ông Thiệu. Sáng sớm hôm sau, hắn vào dinh Độc Lập trước giờ làm việc. Tổng thống Thiệu vui mừng gặp hắn ở hành lang, kêu hắn vô văn phòng ông bàn luận công chuyện khẩn cấp. – Tôi nghĩ mình phải nghe lời họ. Kinh nghiệm cho tôi biết, cãi lời người Mỹ không có lợi gì cho chúng ta. Nhưng anh hãy cho tôi biết nốt phần còn lại mà Cha O’Connor đã nói với anh. Anh nên hiểu, mình cần thấu đáo lòng dạ người Mỹ, nếu sơ hở mình sẽ bị họ bán đứng cho Cộng sản. – Dạ thưa đúng. Nét mặt ông Thiệu bỗng nhu mì, đôn hậu trở lại. Ông Thiệu đang lo rối bời trong tâm trí. Tình cảnh này, ông còn phải hứng chịu thêm những ngón
đòn chí tử giáng xuống từ phía Hoa Kỳ. Hắn kể hết lời vị Linh mục Tuyên úy Mỹ nhắn lại dinh Độc Lập, là Tổng thống Johnson sẵn sàng chấp nhận quan niệm thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần tại miền Nam trong đó có: lưc lượng đối lập, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa do ông Thiệu đại diện. Vị linh mục còn nói thêm: “Đây là giải pháp thực tế nhất cho công cuộc mưu tìm hòa bình cho Việt Nam” Khi được nghe hắn nói về ý định của Hoa Kỳ, khuôn mặt ông Thiệu bỗng xám ngắt, nghiến răng dằn hai tay đập mạnh xuống bàn bày tỏ cơn giận. Ông nổi nóng bất tử, hắn đâm sợ, nên thuyết giảng những lời nghe êm tai, ru ngủ Tổng thống: – Các vị đại diện Tổng thống Johnson, còn nhiều người mang tâm trạng yêu mến dân tộc VN, dành trọn cảm tình cho chính phủ chúng ta. Nhưng sự thăm dò của tôi không dừng lại ở các vị đó. Tôi nghĩ do nguyên nhân họ quá khắn khít Tổng thống cho nên quý vị đó mất đi phần nào đặc tính khách quan. Tôi đưa ra vấn đề này thẳng với những người Mỹ khuynh hữu, họ cũng cho rằng giải pháp ấy rất hợp lý. Tổng thống hãy đọc lá thư của linh mục Raymond De Giguere, đã từng cố vấn hàng mấy chục năm cho ông Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Ngô Đình Diệm, hiện giữ Chủ tịch Hội Chiến Sĩ Tự Do Thái Bình Dương, mới gửi cho tôi cách đây vài ngày. Hắn trao thư ông Thiệu xem. Trong thư, vị linh mục đưa ra một chính kiến “tân thời” dựa theo cao trào phản chiến biểu tình rầm rộ ở Hoa Kỳ. Ngài thừa nhận rằng làn sóng đòi hòa bình Việt Nam vô điều kiện đang bốc phát mạnh mẽ trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, gào thét đòi chính phủ chấm dứt ngay chiến tranh VN bằng mọi cách, và bất cứ giải pháp đem lại hòa bình cho VN đều có lý . Người Mỹ không bỏ VNCH, nhưng họ, từ nay phải trách nhiệm trực tiếp cuộc “nội chiến” này, và Hoa Kỳ nên có kế hoạch đứng từ xa giúp họ. VNCH thay thế đảm nhận chiến trường, quân Mỹ rút ra lập tức. Vị linh mục còn nói thêm, ngày 10 tháng 5-1968, khi Tổng thống Thiệu tuyên bố mạnh mẽ phản đối việc ngưng oanh tạc Hà Nội, đã không được dư luận Mỹ lưu ý. Ông Thiệu đọc xong buông tiếng thở dài, chán nản tột độ. Ông nói với hắn:
– Tôi lo quá! Tôi hận người Mỹ quá! Họ định đoạt số phận của mình, của nước Việt Nam mà tôi không có quyền biết gì hết! Họ mặc cả, họ trả lời rồi mới “nhắn tin” cho tôi hay. Kế đến họ trói tay tôi, cưỡng bách tôi làm theo ý họ. Phó đại sứ Berger mới đưa thư ông Johnson mời tôi hội nghị tại Honolulu. – Tuần lễ trước tôi đã trình lên Tổng thống chuyện này. – Nói cái gì, giải quyết gi, rồi tôi phải làm gì? Họ sẽ giải quyết những vấn đề Tổng thống vừa nêu lên. Còn phần chánh phủ liên hiệp, họ tế nhị tạm gác lại. Điều trước nhất, họ muốn chúng ta gởi phái đoàn sang Paris hòa đàm với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. – Nếu tôi cương quyết bác bỏ, thì sao? Tất cả những cái này là đầu hàng VC, duyên cớ làm cho cáo chung nền đệ nhị Cộng Hòa. – Thưa Tổng thống, bác bỏ cũng phải có kế sách. Phải khéo léo chống đỡ. Khéo léo nhất không nên công khai chống Mỹ, đặc biệt ở cương vị của Tổng thống! Mỹ nắm hết huyết mạch chúng ta. Họ nắm kinh tế, siết cổ chính trị, thao túng chủ quyền quân sự VNCH. – Chỉ có một điểm tôi tạm chấp nhận, Mỹ viện trợ thêm vũ khí, tiền bạc phát triển kinh tế cũng như quân sự VNCH và tôi đồng ý để họ rút quân trong danh dự. – Không biết có cách nào thuyết phục ông Johnson tán đồng quan điểm của Tổng thống. Tôi chỉ lo sợ “mình nói mình nghe, họ nói thì họ làm”. – Theo anh, quan điểm ấy có thể khắc phục được Hoa Kỳ không? – Rất ít hy vọng, thưa Tổng thống. Bởi vì Đảng Dân Chủ của ông Johnson cần chiếc ghế Tổng thống Mỹ hơn cần VNCH chống Cộng sản. Do lẽ đó, họ phải mở đường đi vào tòa Bạch Ốc cho ứng cử viên, theo kiểu Tổng thống của hòa bình, bằng cách bỏ rơi VNCH. – Theo anh suy đoán, họ mời tôi qua Honolulu hội nghị rồi mời đi luôn hay còn trở về Sàigòn? – Chưa có dấu hiệu họ hết cần Tổng thống. – Tôi lo lắm. Đi qua đó, ở nhà không có tôi, sợ ông Kỳ tổ chức đảo chánh bất ngờ, đặt người Mỹ trước sự việc đã rồi. Tôi chỉ lo họ tái diễn cái trò “rục rịch” tháng Năm vừa rồi. – Thưa Tổng thống, tôi có thể xác quyết rằng họ đang cần Tổng thống, trường hợp bị loại bỏ, tôi chưa thấy. Dù họ không hoàn toàn bằng lòng Tổng thống, nhất lúc này không có ai thay thế nổi Tổng thống. Tuy nhiên,
không mấy ai biết hết lòng dạ người Mỹ, khuyên Tổng thống nên dè dặt là tốt hơn hết. Tổng thống ráng nhẫn nhục, uyển chuyển vấn đề, đừng nên cứng rắn trước mặt họ. Làm theo người xưa, đi dự hội, hứa một đàng, nhưng làm một nẻo khác. Tôi tin rằng Tổng thống có thừa khả năng tế nhị, trầm tĩnh đối phó những vấn đề cưỡng ép của ông Johnson. Ông bà Thiệu có một nhà nguyện dành riêng trên lầu 4. Sự việc này khiến cho Tòa Khâm sứ và cả Tòa Tổng giám mục đều hài lòng. Sau khi cố Tổng thống Diệm bị giết, người ta xây nhà nguyện luôn trong dinh vị nguyên thủ quốc gia. Dù không nói ra, khối công giáo VN và quốc tế rất vui lòng khi họ có những con chiên thay phiên nhau lãnh đạo xứ sở này. (Chúng tôi ghi nhận sự kiện có thật, không nhằm mục đích gì khác). Advertisements REPORT THIS AD Thời gian gần đây, ông bà Thiệu mời Cha Trần Ngọc Nhuận đến dinh làm lễ hàng ngày. Nhìn bề ngoài, không ai chối cãi ông bà Thiệu vô cùng ngoan đạo,siêng năng cầu nguyện, chăm lo xưng tội, rước lễ. Nhưng trong bụng, ông Thiệu có thật sự tin Chúa hay không, chỉ có Chúa mới biết rõ. Có người gợi giáo lý trước mặt ông Thiệu, ông bối rối khi cố che giấu vẻ thờ ơ. Những người thân cận ông Thiệu cho biết, ông là loại người muốn lọt qua cổng Thiên đàng cũng khó như con lạc đà chui qua lỗ kim. Ngược lại, cố Tổng thống Ngô Đình Diệm là người ngoan đạo, ông Thiệu có đức tin vì có ơn sủng lên ngôi tổng thống do Thiên Chúa giáo giúp đỡ và vẫn còn cần Tòa Thánh Vatican, và Giáo hội Hoa Kỳ hỗ trợ ông. Ông tỏ ra chí tình lấy lòng Giáo hội Việt Nam. Chính quyền hành, địa vị đã khiến xui ông gần người Công giáo và quỳ giữa thánh đường cầu nguyện Chúa. Người ta còn nhớ, khi còn mang cấp bậc trung úy lên đến trung tướng, một hai năm mới thấy ông Thiệu đi lễ nhà thờ, xưng tội một lần. Bây giờ ông xưng tội mỗi ngày, nhưng nếu không làm tổng thống nữa, ông có còn đến gần Chúa không? Không! Ngày nay sống lưu vong ở Anh quốc, có khi sáu tháng ông Thiệu mới tới nhà thờ một lần. Nhưng về cách ăn mặc, ông Thiệu tuyệt đối bắt chước theo ông Diệm. Và đi xa hơn ông Diệm một bậc. Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm tính hà tiện, chỉ mặc áo loại vải the đen, còn ông Thiệu thích mặc áo gấm màu đỏ, màu xanh có thêu cặp rồng. Ông Thiệu rất thích cặp rồng là biểu hiệu cho hoàng đế. Về quốc huy, ông cũng chọn hình hai con rồng cuốn lại. Giữa phòng trình quốc thư
Phủ Tổng thống, ghế ngồi ông Thiệu cũng chạm rồng. Trong khi bộ áo đài, khăn đóng rất hợp mắt mọi người qua dáng ăn mặc của ông Diệm, vốn xuất thân quan triều đình ngày xưa, ngược lại ông Thiệu thì trông thô kệch, cục mịch, khó coi. Dinh Độc Lập sang thời ông Thiệu lẹ làng được dân chúng đặt cho cái tên dễ nhớ là: Phủ đầu rồng. Có người còn thêm mắm muối gọi là “phủ rồng lộn” để đọc lái cười chơi. Ông bà Thiệu có thói say mê coi bói, hàng ngày mời những thầy xem tướng, thầy đoán số tử vi có tên tuổi ở Sàigòn, và cả ngoại quốc, tới bói vận mệnh ông xem sao. Trên lãnh vực tướng số, ông bà Thiệu sùng kính, có đức tin thật sự. Những khi rời dinh Độc Lập, dù chỉ ra tới lề đường Công Lý, ông Thiệu biểu các thầy tử vi coi ngày, giờ xuất hành. Nếu có cử ai vào chức vụ nào, hoặc biệt phái ai thay ông làm việc gì quan trọng, ông cũng chọn ngày, lựa giờ theo quẻ thầy bói. Ngay cả bây giờ làm gì ông cũng hội ý với các thầy bói toán. (Thầy tướng số và tử vi của ông Thiệu từ mấy năm nay 1981-1988 là ông Nhựt Thanh, văn phòng đặt ở phố Santa Ana, tiểu bang California) Một buổi chiều, bà Thiệu vui vẻ kể Cha Nhuận nghe: – Hôm qua, ông thầy Diễm vừa tới bốc quẻ tử vi cho vợ chồng con. Cha có nghe danh thầy Diễm không? Thầy là người xem tử vi giỏi nhất nước VN hơn cả thầy Huỳnh Liên nữa. Cha Nhuận trả lời: – Dạ, tôi có nghe danh thầy Diễm, nhưng thầy đoán những chi? – Thầy Diễm đoàn rằng, lá số tử vi chồng con năm nay có đại hạn. Con lo quá. Nhưng thầy lại cho biết ảnh luôn luôn có quới nhơn phò hộ, cuối cùng đều tai qua nạn khỏi. Thầy biểu chồng con đừng tin ai cả, ngoại trừ vợ con. Cha Nhuận dạ dạ cho phải phép lịch sự: – Như vậy thầy hay lắm! Trong ngày hôm đó, ông Thiệu kêu hắn vô trình diện. Ông Thiệu nói: – Tử vi tôi năm nay trong tiểu hạn xấu, nên hội nghị thượng đỉnh lần này dữ nhiều hơn lành. Nếu anh thực tình coi tôi như anh em, tôi yêu cầu anh cùng tháp tùng đi chung với tôi. Tôi có cảm tưởng, tình thế rất khó khăn, ráng linh động mọi mặt mới tránh khỏi xung đột với Tổng thống Johnson. Phải có anh bên cạnh tôi, tôi mới vững bụng. Bà nhà tôi cũng biểu kêu anh đi chung.
Hắn ao ước muốn đi qua Honolulu để có dịp tiếp xúc nội các Tổng thống Johnson và quan sát tại chỗ đời sống, xã hội Hoa Kỳ, nhưng hắn chưa có lệnh Cục R., thành thử tìm cách thoái thác chờ lệnh trên. Ôny Thiệu ân cần đến hắn: – Tôi hiểu tánh tình anh không thích xuất đầu lộ diện, chỉ muốn làm việc trong hậu trường chính trị. Hai lần anh từ chối công du qua Mỹ, mặc dù tôi có ý muốn anh đi chung với anh Huỳnh Văn Trọng. Kỳ nầy, tôi không la rầy anh đâu. Anh đi theo cách incognito (ẩn danh) dưới hình thức một chuyên viên kỹ thuật, Phủ Tổng thống cũng không biết, huống chi người ngoài. Trong buổi hội nghi6, có điều gì khó giải quyết một mình, tôi bàn luận với anh tại đó. Anh nghe lệnh tôi chớ? – Thưa Tổng thống, tôi sẵn sàng, nhưng hãy cho phép tôi về hỏi ý kiến cha Quỳnh, dù sao tôi cũng nên thưa lại với Cha trước khi trả lời Tổng thống. Ông Thiệu hơi bất mãn, nhưng cố làm vui: – Anh ráng thưa lại với Cha giúp tôi. Mật mã Cục R gởi đến hắn ngày 11-8-1968, chấp thuận cho phép hắn đi. Thì ngày 17-8-1968, hắn lên đường theo ông Thiệu đi tham dự hội nghị thượng đỉnh Honolulu. Honolulu là thủ phủ chính của quần đảo Hawaii, cách thủ đô Sàigòn độ 10 ngàn cây số, nằm trên vị trí ngã năm của Thái Bình Dương. Thành phố tọa lạc trên một dãy bình nguyên hẹp, nắng ấm và gió hiền hòa, trùng trùng điệp điệp khách sạn xây cất những kiểu tân thời, đẹp mắt, hấp dẫn khách du lịch ngoại quốc. Tinh thần suy sụp, do tình hình căng thẳng xảy đến mỗi ngày, quá sức chịu đựng với một người lớn tuổi, Tổng thống Johnson tới Honolulu với vẻ mệt mỏi, kiệt sức. Mái tóc thưa và mỏng, bạc trắng hai bên. Cặp kính lão trệ xuống, nếp nhăn hằn lên mặt và trán, khắc đậm những đường sâu hút kéo dài từ mũi tới đôi môi rất mỏng. Ông giương cặp mắt thiếu ngủ, chào ông Thiệu vì xã giao hơn cảm tình người bạn đồng minh. Ông Thiệu có cảm giác rõ ràng, ông Johnson ngày nay khác xa ông Johnson cách đây hai năm, tỏ vẻ xa lạ và né tránh tất cả sự thiện cảm của ông Thiệu khi tiếp xúc. Tổng thống Johnson nêu lên những điều đã được “bắn tin” trước. Ông Tổng thống già cố sức dùng những lời ngọt ngào, mềm dịu chinh phục
ông Thiệu chấp nhận cử phái đoàn thương thuyết với MTGPMN. Ông Johnson thiếu tế nhị, không biết tâm lý ông Thiệu, nói như vậy tức là mở lối cho ông Thiệu có cơ hội bảo vệ lập trường của ông. Vị Tổng thống Mỹ thuyết phục nhưng lại vô tình va chạm đến quyền lợi ông Thiệu. Nên ông Thiệu tỏ ra rất cứng cỏi, khiến ông Johnson phải khựng lại. Tan buổi họp, Tổng thống Thiệu nói với hắn: – Xong rồi! Mình thắng ông Johnson. Vì bản thông cáo chung tôi bắt họ ghi thêm câu: “Đôi bên đã giải quyết những sự cần thiết cho một cuộc chấm dứt hoàn toàn những hành động thù nghịch ở Nam Việt Nam”. – Nhưng Hoa Kỳ sẽ diễn dịch những điều này theo quan điểm của họ. Ngôn ngữ không có khả năng kiểm chứng các hành động chính trị. Họ muốn cắt nghĩa thế nào cũng được, miễn là xuôi tai dư luận. – Chỉ đoạt được chừng đó thôi. Tôi chỉ đồng ý có bản thông cáo mơ hồ, còn đi vào thực tế, thì tôi vẫn cương quyết từ chối. – Tạm thời Tổng thống thắng ông ta. Nhưng đường Thành quả rất lớn mà VC đạt được trong năm 1968 là, Cụm tình báo chiến lược A22 của VC đã “cấy” sâu, vững chắc nhân viên vào cơ quan thượng tầng chính phủ VNCH. Cố vấn Tổng thống kiêm nhiều chức trá hình các hội từ thiện Công giáo, hắn phát triển đễ dàng mạng lưới gián điệp, công tác rộng rãi bao trùm nhiều lãnh vực và nguy hiểm nền an ninh quốc gia VNCH. Tên Nguyễn Xuân Hòe đứng chủ nhiệm tập san kinh tế “Vừng Đông”, kiêm chánh sự vụ Tổng đoàn Công Kỹ nghệ gia, kiêm công cán ủy viên Phủ Tổng thống, có môi trường thuận lợi ăn cắp các tài liệu mật về kế hoạch ngân sách quốc gia, kế hoạch kinh tế và những diễn biến chính trị cũng như quân sự xuyên qua văn phòng Tổng Thư ký Phủ Tổng thống. • Bùi Nhượng Thắng (có lần mượn tên Lê Hữu Thúy xài trên danh thiếp), cựu bí thư tướng Đỗ Mậu, đứng chủ nhiệm một tờ báo cổ động thành phần chính phủ liên hiệp, hành nghề ký giả, chơi thân giới báo chí, quen biết nhiều nhà lãnh đạo Phật giáo. Hai tên Thắng, Hoè cộng tác đắc lực, Cụm A22 tình báo VC có hai tờ báo hợp pháp cùng nằm trong hai nghiệp đoàn ký giả (Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt do Nguyễn Kiên Giang làm chủ tịch, và Nghiệp đoàn ký Giả Việt Nam do Thái Dương làm chủ tịch), công khai truyền bá tư tưởng trung lập, liên hiệp và ngụy hòa bình….Những chủ trương vừa kể đều có lợi cho VC và chính VC phát động lên.
Tên Vũ Hữu Ruật, nắm phó Tổng Thư ký Liên Minh Dân Tộc Cách Mạng Dân Chủ Xã Hội. Đảng này do hai ông Nguyễn Văn Hướng và Nguyễn Văn Thiệu lập ra để hậu thuẫn chính trị cho Tổng thống Thiệu. Tên Vũ Hữu Ruật có rất nhiều danh sách đảng phái, chính khách đang hoạt động ở trong tay. Lưới tình báo VC vừa kết nạp thêm một số nhân viên có địa vị cao trong guồng máy chính phủ VNCH. Huỳnh Văn Trọng chính thức nhận chức phụ tá Tổng thống, có nhiệm vụ trong coi chính trị, ngoại giao, kiêm “đặc sứ quốc nội” liên lạc Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. “Tổ” mới thâu nạp thêm tên Vũ Hữu Đồng, em ruột tên Vũ Hữu Ruật, trung tá quân đội VNCH, sĩ quan ban thanh tra bộ Xây Dựng Nông Thôn, nơi phác họa ra các chính sách bình định nông thôn Việt Nam. Tên Vũ Hữu Đồng tham gia nằm vùng hoạt động cho Cộng sản từ năm 1962. Nhưng chiếm xong miền Nam, VC vắt chanh bỏ võ, bắt Đồng đi học cải tại vì tội sĩ quan Ngụy. Đồng bất mãn, kể lể chiến công nằm vùng và tố cáo tội ác CS trong những buổi kiểm thảo học tập, Đồng ở tù đến nay chưa được thả. Cán bộ gián điệp CS trong Cụm A22 nằm vùng rộng rãi trong những cơ quan đầu não chính phủ VNCH, các tổ chức đảng phái, tôn giáo v.v. Một mệnh lệnh mà khiến hắn phải cố công làm là cục R. chỉ thị phải lấy cho được tập tài liệu “Kế hoạch bình định nông thôn năm 1968-1969” của chính phủ VNCH. Hắn đã biết rằng, sau trận Tổng tấn công Mậu Thân, nhà cầm quyền VNCH bắt gần hết các tổ hoạt động nằm vùng, gây cho các cơ sở tình báo VC rút lui vào thế thụ động để tránh tai mắt cơ quan an ninh. Hắn thường nhắc nhở thuộc hạ phải thận trọng, rút vào bóng tối, nguyên tắc liên lạc bí mật tạm thời gián đoạn, các chốt giao liên tạm thời ở tại chỗ, không được cựa quậy như trước. Cục R. đưa tin nức nở khen ngợi chiến công của hắn. Hết khen thì đến phần ban xuống mệnh lệnh, bảo hắn phải gắng sức thuyết phục ông Thiệu sớm cử phái đoàn sang Paris tham dự hội nghị. Hắn làm theo lệnh, hằng ngày rỉ rả hối thúc ông Thiệu. Ông Thiệu nghe xong rồi thờ ơ bỏ qua. Công tác ăn cắp tài liệu bình định nông thôn 1968-1969 mới là điều làm cho hắn thường xuyên lo âu. Hắn phân vân tự hỏi, cục R. cần chi bản kế
hoạch này quá sớm? Hiện tình, các cơ sở bị lộ diện, cơ quan an ninh VNCH càn quét ác liệt, phá vỡ nhiều tổ năm vùng cài trước khi chia đôi đất nước năm 1954, dù cho Mỹ có rút quân đi, muốn xây dựng trở lại cũng không được. Ỏ thế kẹt quá, hắn làm sai nguyên tắc, trực tiếp mở miệng hỏi ông Thiệu về kế hoạch bình định nông thôn. Tổng thống Thiệu bảo rằng chưa có thể bàn được vì Tòa Đại sứ Mỹ mới hoàn tất bản dự thảo, nên chưa trao qua chính phủ Việt Nam. Công tác này hắn liền bán cái qua cho Huỳnh Văn Trọng trách nhiệm. Trọng đến Tòa Đại sứ Hoa Kỳ lục lạo tìm kiếm, hắn thất vọng trở về báo cáo: – Tôi đã “dọ thám” kỹ lưỡng, bản dự thảo kế hoạch bình định hiện nằm trong hộc tủ Komer, phụ trách bình định và chiến dịch Phụng Hoàng. Thật khó xử, tôi lại không quen ai trong chỗ Komer làm việc. Anh liệu tính thử xem, coi ai có thể xâm nhập vô đó được không? – Vậy chỉ còn cách mình bám vào dinh Độc Lập thôi. – Đúng vậy. Hắn suy nghĩ nát óc, không cách nào tìm ra cái cớ đề nghị ông Thiệu ra lệnh Huỳnh Văn Trọng tới gặp thẳng ông Komer xin bản dự thảo này. Ông Thiệu chẳng hề quan tâm tới phần việc nhỏ nhoi, hàng bộ trưởng lo liệu. Vả lại, hồi gần đây ông mắc bận lo về vụ hòa đàm Paris, Mỹ nói chuyện tay đôi Bắc Việt, ép VNCH ngồi làm tấm bình phong với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hắn nói với Huỳnh Văn Trọng: – Phải chịu. Ráng chậm lại một chút. Tôi và anh cố nghĩ cách khác, ngoài sự nhờ cậy đến Thiệu. – Đã 5 tháng nay, từ khi tôi vô Dinh nhận việc, ông Thiệu chưa có lần nào tiếp tôi riêng. Thường thường chỉ gặp mặt ông ta ở những buổi họp chung với các phụ tá. – Ông Thiệu hay có cách xử thế như vậy. Ông chỉ săn đón khi nào mang lợi đến cho ông. Trường hợp anh, không có gì lấy làm lạ. Ngay cả ông Nguyễn Văn Hướng, người gần như trọn đời xả thân phò ông Thiệu, một tay đắc lực đánh đông dẹp bắc đưa ông Thiệu lên tổng thống, vậy mà cũng than phiền bị ông ta hờ hửng, lạnh nhạt. Hòe cũng thế. Dưới trướng ông Thiệu có ba phụ tá đặc biệt là dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Uông Ngọc Thạch và anh (tức Huỳnh Văn Trọng). Nhưng ông Thiệu chỉ thân thiết gần
gũi có Nguyễn Cao Thăng. Dễ hiểu, tại vì ông Thăng là tỷ phú. Ông Thăng dựa ông Thiệu để làm giàu thêm. Ông Thiệu dựa vào ông Thăng móc tiên để chi cho các ông dân biểu đối lập cuội. Thời đại nào cũng vậy, tiền và thế lực là đôi bạn tâm đầu ý hợp. Tiền phải hợp tác với thế lực, và ngược lại. Tuy nhiên anh đừng lo ngại, tôi sẽ cố hết sức mình làm cho ông Thiệu gần gũi với anh. Nói với Huỳnh Văn Trọng câu đó, đưa Trọng gần ông Thiệu, vì hắn vừa nảy ra trong đầu một gian kết tuyệt hảo. Vừa ngồi xuống ghế chưa kịp hỏi thăm sức khỏe, ông Thiệu đã hỏi hắn: – Cuộc mặc cả tay đôi, bất kính trọng chủ quyền VNCH, giữa Mỹ và Hà Nội ở Paris, anh có tin gì mới không? – Dạ thưa không. Hai đặc phái viên Mỹ, Bắc Việt thảo luận kín, nên Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sàigòn cũng không biết gì hơn ngoài tin tức do báo chí loan tải. – Quan niệm các vị linh mục Mỹ thì sao? – Chưa có Cha nào về Mỹ tiếp kiến Tổng thống Johnson, các Cha cũng mù tịt như chúng ta. – Mình phải tính cách chớ, chẳng lẽ ngồi đó ngó, coi Mỹ và Bắc Việt trả giá số phận của mình sao? – Thưa Tổng thống, đó là nội dung của vấn đề mà tôi sẽ trình Tổng thống hôm nay. Thấy Tổng thống không lên tiếng, hắn nói tiếp: – Gốc rễ của nguyên nhân là từ trước nay chúng ta quá ỷ lại vào Hoa Kỳ, nương sức mạnh họ giải quyết mọi cuộc tranh chấp, vì thế chúng ta buông lơi nhiều mặt trận quan trọng khác. VC vừa xâm lăng, vừa củng cố địa hạt chính trị, vừa tuyên truyền, vừa vận động chiêu bài dân tộc, nhưng VNCH chỉ biết đánh giặc, chỉ lộ ra ngoài dáng dấp hiếu chiến, ngoài ra không biết gì cả. Không tuyên truyền, không giải thích và sách động quần chúng, không biết cách mặc chiếc áo dân tộc để kéo chính nghĩa về phía mình. Đến khi Mỹ xuống thang chiến tranh, tìm cách tháo chạy, thì VNCH bỗng thấy cô đơn, mang mặc cảm đứa con bị bỏ rơi. Đau hơn nữa, họ sỉ nhục chúng ta, trực tiếp phụ họa đối phương, công khai tìm kiếm hòa bình với kẻ xâm lăng, còn chúng ta người bị xâm lăng, họ không ngó ngàng tới. Chính vì lẽ đó, quốc tế và phe phản chiến nghiêng hẳn tình cảm qua
phía Hà Nội, công nhận Hà Nội có chính nghĩa và Việt Nam bị Hoa Kỳ đem quân xâm lăng. – Rất đúng! – Thưa Tổng thống, tôi không nghĩ mình hoàn toàn vô kế khả thi, ngồi co rút chờ định mệnh an bài cho VNCH. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu là, chiến tranh VN thành hay bại, từ đây đã gắn liền với danh dự Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vì vậy phải phủi tay rút quân cách nào để không mất danh dự. Hội nghị Paris không bàn tới chuyện bên này thắng hay bên kia thắng, mà đơn thuần chỉ đề cập rút quân. Nhưng chẳng lẽ cả nước Mỹ không còn ai ủng hộ ta sao? Còn chớ. Còn nhiều. Ủng hộ thế nào, tất cả ở nơi chúng ta. Khéo cổ động, khéo tuyên truyền, dư luận Mỹ sẽ trả lại nhãn quan chính nghĩa cho chúng ta. Dù sao, ông Johnson cũng sắp ra đi, tổng thống mới sẽ có chính sách mới. Điều ta cần biết, hiện thời khuynh hướng nào ở Mỹ đang mạnh: Bồ câu, Diều hâu hay phản chiến? – Trước nhất ta nên làm gì? – Theo tôi, mình nên theo chiều gió mà phất cờ. Đã đến lúc Tổng thống phải nương theo gió. Gió phản chiến đang lấn lướt chính trường Mỹ, chúng ta cố gắng chứng tỏ khuôn mặt hiếu hòa. Tại sao mình không gởi phái đoàn qua Paris giám sát, nhận định tại chỗ. Việc làm này có mục đích nhấn mạnh cho thế giới biết là chúng ta không hiếu chiến, nhằm tác động vào khuynh hướng phản chiến. Chính phủ Hoa Kỳ nương theo đó có cớ yểm trợ chúng ta tiếp tục. Sự hiện diện của chúng ta ở Paris còn nói lên tình đồng minh với Hoa Kỳ, lúc nào cũng khắn khít, song hành hợp tác. Chúng ta tỏ thiện chí trước đi, sau đó mới có bằng chứng oán trách Mỹ. – Cách đây một năm, Tổng thống Johnson có đề nghị mình cử phái đoàn đi thương nghị, mình từ chối. Ngày nay nếu mình đồng ý, giữa hai cơ hội, bây giờ và trước đây cái nào tốt hơn? – Thưa Tổng thống, bây giờ tốt hơn. – Phải có lý do nêu lên? – Muốn cho Tổng thống Johnson sốt sắng tán thành việc làm của chúng ta, Tổng thống chỉ cần nói với ông ta là sẽ gửi phái đoàn đại diện Tổng thống Việt Nam sang Mỹ tham khảo ý kiến các giới chức Hoa Kỳ như quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm thiết lập kế hoạch tái thiết Việt Nam thời hậu chiến. Đó là hình thức phô trương thiện chí, nhưng thực tế thì chúng ta tìm cách thăm dò thái độ Hoa Kỳ sẽ có những phản
ứng gì khi thình lình chúng ta chấp thuận ngồi vào bàn hội nghị Paris. Sự thăm đò này bắt đầu từ hôm nay và kéo dài đến sau ngày bầu cử ỡ Mỹ. Vì vậy nhân viên phái đoàn phải là những người có uy tín, có trình độ chính trị và đặc biệt phải triệt để trung thành Tổng thống. Cặp mắt ông Thiệu rực sáng lên, ông đập rất mạnh nắm tay trái vào lòng bàn tay phải, biểu lộ thói quen của ông mỗi khi có điều gì ưng ý và phấn khởi. – Được. Vậy anh hãy lo thành lập phái đoàn ngay đi, lo luôn kế hoạch cố vấn, giải thích nhiệm vụ phái đoàn sẽ làm những gì khi sang đó. Nhưng anh có tính trao ai lãnh trưởng phái đoàn chưa? – Như đã trình với Tổng thống, vị trưởng phái đoàn phải uy tín, trình độ chính trị, phải là người của mình và phải có sự quen thân với người Mỹ. Hiện thời tôi chưa tìm ra ai, xin đợi tôi cân nhắc kỹ lưỡng rồi sẽ trả lời sau với Tổng thống. Buổi chiều hôm đó, hắn trở lại văn phòng Tổng thống Thiệu: – Kính thưa Tổng thống, tôi đã tìm ra người làm trưởng phái đoàn. Ông Thiệu vội vàng hỏi: – Ai vậy? – Tôi nghĩ kỹ, người có đủ ưu điểm để lựa chọn, không ai hơn Bernard Huỳnh Văn Trọng. – Được. Anh Trọng người của mình mà lại giỏi chính trị. – Tổng thống có nhận xét rất đúng. Anh Trọng người từng trải đường đời, khéo xử thế, nhiều kinh nghiệm chính trường, trình độ văn hoá cao, lại giao dịch mọi giới trong xã hội. Hơn thế nữa, ông có liên hệ mật thiết với Tòa Đại sứ Mỹ. Về công trạng đối với Tổng thống không phải là ít. Ông đủ khả năng hoàn thành sứ mạng Tổng thống giao phó. – Tôi chấp thuận đề nghị của anh. Anh cứ lo đi. Anh nói với Bernard Trọng, hồi này tôi bận quá, thành ra không có dịp hàn huyên tâm sự với anh ta, tôi nhận mình có khiếm khuyết. – Thành phần phái đoàn sẽ nhiều người. Nhiều người phải làm nhiều việc. Vậy Tổng thống quyết định cho phái đoàn lưu lại Hoa Kỳ thời gian bao lâu? – Hai, ba tháng, bao lâu cũng được, miễn sao họ làm được việc. Cần nhất họ nên thường xuyên thông báo về đây cho tôi nắm vững tình hình.
Anh thấy có nên cho Xuân đi theo được không? Xuân có trách nhiệm phụ tá đặc trách kinh tế, tài chính và lo luôn phần viện trợ kinh tế hậu chiến. – Phái đoàn giới hạn độ 5 người. Hắn trở về phòng thảo dự án cho phái đoàn sang Mỹ làm việc. Độ khoảng 25 phút sau, bà Thiệu cho người kêu hắn lên phòng khách có chuyện cần. Bà Tổng thống khả ái, lịch sự tiếp hắn cà phê Ban Mê Thuộc thơm nồng. Bà mở lời với vẻ rụt rè, ái náy: – Hồi trưa này, tôi nghe anh Thiệu nói ông giáo đang lo danh sách gởi phái đoàn đi Mỹ. Chỗ thân tình, tôi muôn ông giáo thu xếp cho Nguyễn Văn Xuân đi chung. Tôi có chút việc riêng gia đình muốn nhờ Xuân qua đó thay mặt lo giúp. Với ông giáo, tôi không dấu giếm chi. Hắn không dám cãi lệnh, một khi ông Thiệu giao cho bà vợ lo sắp xếp vụ Nguyễn Văn Xuân, hắn lợi dụng cơ hội, nâng bi luôn bà Tổng thống: – Tôi đã tính xong chỗ cho anh Nguyễn Văn Xuân tham dự trong phái đoàn. Anh Xuân thủ vai trò phụ trách kinh tế hậu chiến, rất hợp lý tháp tùng chung với phái đoàn. Tôi thông cảm, vì cần lo việc riêng cho gia đình ông bà Tổng thống, tôi quyết định làm theo ý bà đã phó thác cho tôi. Hắn thơ thới ra về, mang tâm trạng người vừa thắng một lúc cả hai ván bài: Không lý do gì để Konner từ chối không giao dự thảo chương Bình định Nông thôn cho Trưởng phái đoàn nghiên cứu kế hoạch hậu chiến VN, và đồng thời đưa được ông Thiệu vào bàn hội nghị Paris như cục R và Hoa Kỳ đang hết sức mong muốn. HẾT QUYỂN 2 Xin đón đọc quyển 3: GIÁN ĐIỆP NHỊ TRÙNG Đọc GIÁN ĐIỆP NHỊ TRÙNG để biết: – Phiên tòa xử vụ án gián điệp Cụm A22 gây chấn động dư luận Hoa Kỳ và Việt Nam, khiến báo chí tả phái Mỹ đã nghi ngờ rằng chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng là Cộng sản. – Với những chi tiết, chứng cớ dòi trong xương dòi ra, nhưng con buôn chiến tranh cứ tiếp tục và mặc thanh niên thi nhau ngã gục trên chiến trường. – Vào những ngày cuối cùng chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn không quên vị cố vấn cũ của mình, cho
người móc nối mời Vũ Ngọc Nhạ từ Cục R về dinh Độc Lập đàm đạo lần cuối.