– “Hãy thức tỉnh!” Ông hãy nhớ điều chúng ta đọc hàng ngày trong Kinh thánh. Tôi xem chừng ông thiếu tỉnh táo, bấn loạn tinh thần rồi đó! Hắn vẫn kiên trì đóng tiếp vở kịch: – Thưa Cha, Cha vẫn chưa giải đáp lời cầu xin của con! – Người ta sẽ phá bỏ hết, san bằng hết! – Linh mục Đờ Gi-gơ nhún vai, trán lấm tấm mồ hôi, vỗ nhẹ hay bàn tay xuống mặt bàn. – Table rase! Table rase! (Phá bỏ hết). Bầu không khí trong căn phòng trở nên nặng trĩu. Linh mục Đờ Gi-gơ lại uống thêm một ngụm nước suối. Trong lúc nói chuyện, ông uống nước suối nhiều lần, như cố nuốt trôi một vật gì mắc nơi cổ họng. Ông ta đã thú nhận mình đang xóa ván cờ để chơi tiếp ván khác. Linh mục Đờ Gi-gơ lại nói: – Không tài nào tách ông Diệm ra khỏi ông Nhu. – Thưa Cha, nếu bây giờ chúng con cố tách ông Nhu ra khỏi chánh quyền? Và để ông xuất ngoại? – Chúng ta đang ở tháng 10. Mọi việc đã an bài. Giờ sắp điểm! ☆ Chiều ngày 30 tháng 10 năm 1963, hắn đến nhà thờ Bình An. Nhà khách khá đông người, nhưng cha Quỳnh không có mặt. Người phục vụ ở nhà thờ nói cha Tổng bận, xin lỗi không tiếp khách. Nhưng khách đã cất công xuống tới đây, không chịu về ngay. Họ ngồi nán lại nói chuyện với nhau. Vẫn là những chuyện chung quanh cuộc đảo chánh sắp nổ ra, đã quá quen thuộc với mọi người. Hắn đứng loanh quanh ở nhà thờ một lát, rồi lảng sang văn phòng. Cha Quỳnh mái tóc bạc trắng, đeo kính, đang ngồi viết chăm chú. Nghe tiếng động, cha Quỳnh ngẩng đầu lên, nhìn thấy hắn, cha buông bút, bỏ kính, mĩm cười. – Con muốn trình Cha một ít tình hình ở dinh Gia Long. – Hắn nói. – Ngồi xuống đã, rồi nói đi. Cha cũng sẽ có chuyện nói đây. Hắn nói vắn tắt về trạng thái rối loạn của ông Diệm và cuộc nói chuyện với linh mục Đờ Gi-gơ. Cha Quỳnh ngồi nghe với nét mặt thản nhiên, và như chỉ muốn hắn nói cho chóng xong. Hắn vừa ngừng lời, Cha hỏi: – Con cái ông Nhu còn ở dinh Gia Long
– Các cháu đã lên Đà Lạt. – Cha cần nói với con hôm nay, phúc lộc nhà họ Ngô đã hết! Cha Quỳnh đưa mắt ra hiệu cho hắn nhìn tờ giấy đang được viết dở trên mặt bàn. – Cha đang thảo bản tuyên ngôn của các tôn giáo ủng hộ Hội đồng các tướng lãnh. Cha phải làm gấp trong đêm nay. Để tới ngày mai, e không kịp. – Nghe nói Cha đang tiếp khách, con biết Cha đang bận. Con chỉ vào gặp Cha ít phút không dám làm mất việc của Cha. – Cha đang mong gặp con, chỉ để nói một câu. Nay mai đây, Tổng bộ Tự vệ sẽ làm gì? Cần nghĩ ngay đi. Ngày mai lại xuống đây, chắc sẽ có nhiều chuyện hay… Hắn ra đến cổng nhà thờ thì thấy tướng Mai Hữu Xuân ngồi trên một chiếc xe Jeep đi vào. Tướng Mai Hữu Xuân tươi cười giơ tay vẫy hắn. Như vậy là mọi chuyện đã rõ ràng. Một ý nghĩ chợt nảy ra, hắn vẫy tay đáp lại và nói: – Bonne chance! (Chúc may mắn!). Tướng Xuân ngoái đầu lại, nói to: – Merci, bonne chance! (Cảm ơn, chúc may mắn!). ☆ Hắn tới dinh Gia Long khi trời sẩm tối. Những hàng rào kẽm gai đã được xếp kín quanh dinh. Binh lính đội nón sắt đứng phía sau trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Những người lính phòng vệ Phủ Tổng thống đã quen mặt hắn nên để hắn tự do ra vào. Qua khỏi hàng rào binh lính canh gác, không khí trong dinh vắng vẻ, cửa nhỏ, cửa lớn đóng kín, im lìm. Viên sĩ quan cận vệ nói với hắn, ông Nhu đang ở phòng khách. Gần đây, hắn tới gặp ông Nhu không cần phải báo trước. Mở cửa phòng khách, mùi khói thuốc khét nghẹt xông vào mũi hắn. Ông Nhu ngồi một mình với tách cà phê đen đang hút thuốc. Nhìn thấy hắn, ông nhếch mép cười: – Chào anh! Mặt ông Nhu hốc hác vì lo lắng và ít ngủ. Ngồi xuống ghế, hắn nói ngay:
– Theo cha Quỳnh, sẽ là ngày mai. Phía đảo chánh đã thành lập Hội đồng các tướng lãnh cách mạng. – Chủ xướng là ai? – Ông Nhu hỏi với vẻ bình tĩnh. – Tôi không dám hỏi cha Tổng, chắc là chính Cha cũng chưa biết. Nhưng khi ra về, tôi gặp tướng Mai Hữu Xuân đi vào. Nhất định Xuân có dính đáng vào chuyện này. Đã có Hội đồng tướng lãnh thì ít nhất cũng phải là một nhóm. Nhưng họ không dại gì để lộ sớm kẻ cầm đầu. – Anh thử đoán xem, thủ lãnh đảo chánh là tướng nào? – Ông Nhu gặng hỏi. – Rất khó đoán. Lần này tín hiệu được phát ra từ Tòa Bạch Ốc nên tất cả đều nhoi nhoi lên. Họ tranh nhau lao tới như một bầy quạ đói lao vào… – … Một cái xác chết! – Ông Nhu xen ngang, nụ cười châm biếm quen thuộc của ông lúc này đượm màu cay đắng. – Lao vào một miếng mồi béo bở.– Hắn nói tiếp. – Họ sẽ tranh nhau xem ai nhanh chân trước để cướp được mồi. – An ninh vẫn báo cáo chưa thấy có dấu hiệu chuyển quân. Binh lính ở các nơi đều sẵn sàng, nhưng đó là do lệnh thiết quân luật. Ngày mai, theo chương trình, 11 giờ Tổng thống sẽ tiếp đô đốc Felt. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge cũng sẽ có mặt. – Đảo chánh có thể nổ ra khi đô đốc Felt vừa đi khỏi. Nếu họ có lệnh CIA cho điều binh, chỉ cần hai tiếng đồng hồ, phiến quân sẽ có mặt quanh dinh Tổng thống. Ông Nhu trầm ngâm, rồi nói: – Mấy ngày hôm nay tôi linh cảm có một cái gì khác khi gặp các tướng lãnh. Họ cố làm ra vẻ bình thường. Nhưng nhìn con mắt của họ, tôi biết họ đang giấu tôi một điều gì! – Ông cố vấn còn tin vào những ai? – Đến giờ phút này thì không nhiều. Ông Nhu xòe một bàn tay, rồi vừa bẻ gập dần dần từng ngón vừa nói: – Lê Quang Tung, Tôn Thất Đính, Cao Xuân Vĩ, thủ lãnh Thanh niên cộng hòa, Hiếu và Đường vừa thay chân Trần Kim Tuyến. Thế là hết. – Nếu như Đính phản giờ chót? – Đó là một thảm họa. Nhưng cũng sẽ tính Đính. Vào phút đó, Lê Quang Tung sẽ là người thực hiện Bravo I (tên kế hoạch chống đảo chánh).
– Nếu bất trắc, tai nạn bất ngờ không lường được sẽ xảy ra cho Lê Quang Tung, thì sự việc sẽ diễn tiến tới đâu? – Cộng sản và Hoa Kỳ sẽ làm chủ nước Việt Nam! Hắn suy nghĩ rồi nói: – Mọi việc cần phải quyết định trong đêm nay. Để tới ngày mai là quá muộn! – Anh ngồi chờ tôi trong vòng nửa tiếng được không? – Dạ được. Hắn đứng thơ thẩn ở hành lang chờ ông Nhu quay trở lại. Người lão bộc bưng mâm cơm từ buồng ông Diệm đi ra. Hình ảnh ông già tóc lốm đốm bạc, lưng gù, mặc quần áo bà ba xứ Huế. Nghe nói ông lão là người cùng quê với ông Diệm ở Quảng Bình. Bộ mặt ông lão rầu rĩ. Ông lão ngừng đi, cúi đầu chào hắn: – Bẩm ông mới tới? Nếu chưa dùng cơm chiều để con dọn. – Cám ơn bác, tôi ăn rồi. Trên mâm cơm, đĩa thịt gà, đĩa cá bóng kho, một bát canh chua nấu theo kiểu miền Trung hầu như còn nguyên. Hắn nhìn theo tới khi ông lão đi khuất. Có lẽ đây là người cuối cùng còn giữ được lòng trung thành đối với Tổng thống Diệm. Ông Nhu hấp tấp quay về, bộ mặt xanh xao lộ vẻ lo lắng. Hai người trở lại phòng khách. – Ông cố vấn giải quyết công việc xong chưa? – Tôi gọi điện thoại cho Đính rồi. Đính sợ nếu nổ súng sớm, về không kip, đề nghị cho Lê Quang Tung thực hiện Bravo I. Trong đêm nay, Tung đưa Lực lượng Đặc biệt ra khỏi thủ đô. Binh sĩ ở trại Cộng Hòa sẽ cầm cự trong một thời gian ngắn chờ Tung và Đính đánh vào. Lực lượng của Tung thiện chiến nhưng chỉ có 6 đại đội, trang bị toàn vũ khí nhẹ. Phải trông vào Đính. Còn Nguyễn Khánh, Huỳnh Văn Cao, còn những lực lượng trung thành với Tổng thống ở Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 và một vài Sư đoàn khác? Không lẽ tất cả đều theo phe đảo chánh?…. Mẫu thuốc lá dính trên môi ông Nhu đã tắt từ lâu, ông không còn nhớ chuyện vứt nó đi hoặc thay bằng một điếu thuốc khác.
15. Sáng ngày 1 tháng 11 năm 1963, tất cả những tướng tá chỉ huy các đơn vị quân sự, an ninh ở Sàigòn đều được giấy mời của quyền Tổng Tham mưu trưởng Trần Văn Đôn, sau buổi họp hàng tuần, sẽ ở lại dự bữa cơm thân mật tại Câu lạc bộ sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu. Bữa ăn tổ chức ngày thứ sáu là không bình thuờng đối với những người theo đạo Thiên Chúa. 11 giờ trưa, sau khi tiếp đô đốc Felt, Tổng thống Diệm được ông Nhu báo tin có nhiều dấu hiệu đảo chánh sắp nổ. Ông Diệm đã nhiều lần nghe tin tức như thế này. Nhưng hôm nay, Ông Diệm cảm thấy có những triệu chứng khác thường. Ông gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Văn Là, (trong hồ sơ quân bạ của Pháp, chuyển sang tên của tướng Là được viết là Nguyễn Văn Lã, người ta quen gọi Nguyễn Văn Là . Tướng Là hiện định cư ở Houston, Texas). Lúc bấy giờ thiếu tướng Là làm tư lệnh khu Sàigòn.. Sĩ quan trực báo cáo tướng Là không có mặt tại nhiệm sở. Ông Diệm gọi tiếp cho quyền Tổng Tham mưu trưởng liên quân Trần Văn Đôn. Bộ Tổng Tham mưu báo cáo ông Đôn ra sân bay Tân Sơn Nhất tiễn đô đốc Felt chưa về. 12 giờ trưa, ông Trần Văn Đôn gọi điện thoại cho Tổng thống Diệm. – Trình Tổng thống, thiếu tướng Nguyễn Văn Là được mời tới câu lạc bộ sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu dự cơm trưa, nhưng hiện thời vẫn chưa thấy tới. – Rứa thì ông ta đi đâu? – Có lẽ đang trên đường tới đây. – Tôi cần gặp ông Là, cần gấp! – Tổng thống Diệm nhấn mạnh. – Dạ. Khi thiếu tướng Là tới, tôi sẽ nói tới dinh ngay để gặp Tổng thống. – Tôi chờ. – Dạ! ☆ Thật ra, trong lúc này Nguyễn Văn Lã cũng như Dương Văn Minh (Minh lớn), Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Nguyễn Giác Ngộ, Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Minh (Minh nhỏ), Trần Tử Oai, Đỗ Mậu… đã tề tựu đông đủ tại câu lạc bộ. Xe thiết giáp đã thiết lập hàng rào thép chung quanh cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, biến thành một nơi nội bất xuất, ngoại bất nhập.
13 giờ. Tướng Trần Văn Đôn mời tất cả những người chỉ huy để lại tùy tùng và vũ khí cá nhân ở bên ngoài, tới phòng họp riêng của ông ta. Trần Văn Đôn là con một gia đình đại địa chủ, học ở Pháp, gia nhập quân đội Pháp. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đôn được cử làm tư lệnh Quân đoàn I ở miền Trung. Cũng như những tướng lãnh đã gắn bó với Pháp trước đây, tướng Đôn không được ông Diệm, ông Nhu tin tưởng. Sau cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1962, nhiều tướng tá bị nghi ngờ, ông Đôn bị đình chỉ chức vụ chỉ huy một thời gian . Tướng Lê Văn Kim, giám đốc Học viện quân sự Đà Lạt, một người bạn rất thân và cũng là anh rể của ông Đôn, bị bắt. Từ đó, ông Đôn để tâm thù vặt, nuôi ý định lật đổ ông Diệm, ông Nhu. Sau khi tiến hành cuộc điều tra, thấy ông Đôn và ông Kim không trực tiếp dính líu đến đảo chánh, ông Nhu tha cho hai người, nhưng vẫn chưa tin hẳn. Tướng Kim trở về Học viện quân sự Đà Lạt, nhưng ông Đôn không được trở lại nắm quân đoàn. Ông Đôn khôn ngoan biết cư xử mềm mỏng, khéo léo, không bao giờ để lộ thái độ bất bình, chống đối nên gần đây, được Tổng thống Diệm bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham mưu trưởng liên quân, một chức vụ quan trọng nhưng không trực tiếp nắm quân trong tay. Ông Diệm, ông Nhu không biết với cương vị mới, tướng Đôn đã có những điều kiện rất thuận lợi để liên lạc tất cả những tướng tá đang có sự bất bình với chế độ và dựa vào Mỹ tổ chức một cuộc đảo chánh. Trong phòng họp, ngồi bên cạnh Đôn là Dương Văn Minh và Lê Văn Kim. Dương Văn Minh nổi bật lển với thân hình đồ sộ và vẻ mặt nghiêm nghị. Dương Văn Minh cũng giống như Đôn, gia đình theo đạo Phật, đã ở trong quân đội Pháp suốt thời kỳ chiến tranh giành độc lập. Sau ngày ông Diệm lên cầm quyền, Dương Văn Minh được thăng cấp trung tướng ngay hồi đó. Dương Văn Minh có cái mộng mang lon thống tướng, nên đã bất bình với ông Diệm, ông Nhu từ lâu, chỉ chờ cơ hội này cấu kết với Trần Văn Đôn tiến hành âm mưu đảo chánh. Đại tá tình báo Mỹ Lucien Connie không được giới thiệu vì sao cũng có mặt trong phòng họp. Bữa nay, viên đại tá này mang quân phục chỉnh tề, đeo bên sườn một khẩu Colt, báng ngà. Ông ta xách theo một chiếc túi lớn, bên trong có ba triệu đô la để khi cần có thể chi ngay. Ngay tại phòng họp, đã được đặt riêng hai máy điện thoại của Connie, một đường dây chạy thẳng về Tòa Đại sứ Mỹ, một đường dây chạy tới nhà riêng.
Đại tá Lê Quang Tung cũng về họp. Ông Tung ngơ ngác nhìn quang cảnh, biết là mình đã sa lưới. Dương Văn Minh đứng đậy nhân danh chủ tịch Hội đồng các tướng lãnh cách mạng, kêu gọi mọi người gác bỏ mọi tình cảm riêng tư, cùng nhau lật đổ chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm. Mặt ông Minh tái đi trước giờ phút nghiêm trọng. Ông dọa nếu người nào chống lại quyết nghị của Hội đồng sẽ bị tạm thời cô lập ngay. Số đông ngơ ngác, lúc này mới biết mình đang tham dự vào một âm mưu đảo chánh. Đại tá Lê Quang Tung phản đối. Ông tuyên bố cương quyết chống lại mọi mưu toan phản nghịch đối với chánh quyền dân cử hợp hiến. Dương Văn Minh gõ tay xuống bàn. Đại úy Nhung, viên sĩ quan cận vệ của Minh, lập tức cùng hai nhân viên an ninh tiến lại trước mặt đại tá Tung, nói: – Theo lệnh của Hội đồng các tướng lãnh, mời đại tá đi theo tôi. Hai ba nguời nữa tiếp tục phát biểu không tán thành đảo chánh, trong đó có đại tá Cao Văn Viên, tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù, và Trần Văn Tư, giám đốc nha Cảnh sát đô thành, đều bị lần lượt đưa ra khỏi phòng. Những người còn lại vỗ tay để biểu lộ sự tán thành phản nghịch của Hội đồng tướng lãnh. Trần Văn Đôn bắt đầu điều khiển kế hoạch đảo chánh. Ngay chiều hôm đó, đại tá Lê Quang Tung và người em ruột của ông là thiếu tá Lê Quang Triệu bị còng tay trên một chiếc xe jeep, do đại úy Nhung áp giải, chạy ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu. Ông Tung luôn mồm chửi bới những tướng lãnh đảo chánh là đồ phản chủ, vong ân bội nghĩa. Tiếng chửi của ông Tung chỉ tắt đi khi những phát súng lục của tên Nhung vang lên kết liễu đời của một sĩ quan lừng danh chống Cộng sản. 13 giờ 30, quân đảo chánh từ trung tâm huấn luyện Quang Trung do tướng Mai Hữu Xuân cầm đầu, tiến ra chiếm Bộ Tổng Tham mưu liên quân, phi trường Tân Sơn Nhất và Đài phát thanh Sàigòn. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, chỉ huy Sư đoàn 5, một đơn vị được ông Diệm tin cậy nhiều nhất, từ Biên Hoà tiến về Sàigòn, và một lực lượng xung kích hỗn hợp từ Vũng Tàu về, tiến hành bao vây khu vực dinh Gia Long và trại lính Cộng Hòa. Pháo binh bắt đầu nã đạn đại bác 105 ly vào thành Cộng Hòa. Tiếng súng nhỏ nổ ran nhiều nơi trong thành phố.
Những ngả đường tiến vào dinh Gia Long có những đơn vị của Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ đóng quân, nên tình hình trong dinh vẫn yên tĩnh. Các sĩ quan cận vệ phải mời nhiều lần, Tổng thống Diệm mới chịu xuống hầm. Hầm ở dinh Gia Long vừa được xây xong hồi cuối tháng 10, có thể chịu đựng được đại bác 105 ly. Hầm có đường ăn thông với phòng của ông Diệm và ông Nhu. Trong hầm có buồng ngủ, buồng tiếp khách và nhà tắm. Giờ đầu, ông Diệm và ông Nhu tỏ ra bình tĩnh. Ông Diệm gọi điện thoại cho phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, khuyên tìm nơi ẩn náu. Ông Nhu cũng lần lượt gọi điện thoại cho các bộ trưởng, nhắc cố gắng đừng để lọt vào tay quân đảo chánh. Một số bộ trưởng, kể cả bộ trưởng phụ tá Quốc phòng đã nhanh chân trốn mất. Nhưng cũng có một số nhân vật thân cận nghe tiếng súng nổ, đã chạy vào dinh, như ông Cao Xuân Vĩ, ông Võ Văn Hải…Lát sau, ông Diệm cho ông Hải về. Ông Nhu giữ Cao Xuân Vĩ lại. Ông Nhu cho bắt liên lạc với các nơi. Biệt khu thủ đô không có người trả lời. Quân đoàn III, Bộ Tư lệnh Hải Quân, Không Quân, Quân đoàn IV… đều không có người trả lời. Ông Nhu cảm thấy tình hình chẳng lành. Chỉ còn bắt liên lạc được với Quân đoàn II ở Nha Trang. Tướng Nguyễn Khánh tỏ ra sốt sắng: “Ông cố vấn cho lính ráng giữ. Mấy thằng đó làm càn. Tôi sẽ cho Quân đoàn II phản công”. Nhưng ông Khánh ở quá xa. Những lực lượng ở gần như Thủy quân Lục chiến, Lữ đoàn Dù, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 đều mất liên lạc. Lực lượng Đặc biệt được điều động ra Long Thành đêm qua cũng mất tăm. Ông Nhu bắt đầu bối rối. Đại bác của quân đảo chánh tiếp tục nã dữ đội vào thành Cộng Hòa. Thiếu tá Duệ, tư lệnh Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ báo cáo nhiều người thương vong. Từ Đài phát thanh Sàigòn, vang lên những khúc nhạc quân hành. Hội đồng tướng lãnh cách mạng và những người theo phe đảo chánh lần lượt xưng đanh. Có tới trên 30 chục người. Ông Nhu bảo viên sĩ quan cận vệ: – Đưa radio xuống hầm và nối dây ăng-ten cho ông Cụ nghe, để Cụ biết rõ tình hình. Ông Nhu tiếp tục đi lại trên hành lang, đầu cúi gầm, mặt sạm đen. Lát sau, ông Nhu xuống hầm gặp ông Diệm. Trong hầm, từ chiếc máy thu thanh vẫn vang lên những tiếng nhạc quân hành. Ông Diệm cho tắt máy, hỏi: – Có tin Đính chưa?
– Vẫn không liên lạc được với ba Đính! – Hay lại có chuyện ch? Ông Nhu lặng thình. Ông Diệm nói tiếp: – Các tướng lãnh bị chúng bắt làm con tin thôi, chứ đâu lại như rứa! Có liên lạc được với Huỳnh Văn Cao không? – Vẫn không thấy Quân đoàn IV trả lời. E dưới đó có biến… Ông Diệm sầm mặt, rồi hỏi: – Chừ chú định tính răng? – Em đã làm hết mọi việc em có thể làm. Bây giờ mọi quyết định ở nơi anh, với trách nhiệm là Tổng thống. Ông Diệm ngẩn mặt nhìn ông Nhu. Ông Nhu ngồi ủ rủ, sẵn sàng đón đợi cơn thịnh nộ. Ông Diệm quay chỗ khác, lặng lẽ đứng đậy, chắp tay sau lưng, đi đi lại lại hồi lâu trong căn hầm. Rồi quay lại nói với ông Nhu: – Muốn thay đổi tình hình, phải chiếm ngay lại Đài phát thanh. Cứ để hắn nói mãi, các nơi mắc lừa sẽ theo bọn hắn ráo. Tổng thống Diệm bảo viên sĩ quan cận vệ: – Lắp ngay cuốn băng vô cassette để thu hiệu triệu. Ông Diệm cần chiếc micro nói mấy lời đại ý: “Một số phần tử quá khích đã có những hành động gây rối, chính phủ đang tiến hành vãn hồi trật tự. Đồng bào cần giữ bình tĩnh, quân đội hết sức tránh đổ máu. Các đơn vị quân đội ở đâu cứ ở đó, tuyệt đối dồn mọi nỗ lực đề phòng Cộng sản, chống sự xâm nhập của Cộng quân. Tất cả phải bình tịnh đợi lệnh thượng cấp”. Tổng thống Diệm nghe lại một lần, cho gỡ băng, trao cho một sĩ quan và ra lệnh: – Mi cầm ngay vô thành Cộng Hòa, trao tận tay ông thiếu tá Duệ, nói lệnh của Tổng thống phải chiếm lại Đài phát thanh với bất cứ giá nào, và cho phát thanh liên tục lời hiệu triệu ni. 15 giờ, Tổng thống Diệm gọi cho Trần Văn Đôn ở Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH. Tổng thống Diệm nói: – Cần chấm dứt ngay cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn này! Các tướng lãnh muốn cái chi? Ông Đôn mềm mỏng:
– Thưa Tổng thống, chúng tôi đã nhiều lần đề nghị Tổng thống sửa đổi chánh sách cho phù hợp với nguyện vọng của dân chúng, vẫn không được Tổng thống chấp thuận. Nay đã tới lúc quân đội đáp ứng lại nguyện vọng của dân chúng. Xin Tổng thống hiểu cho. – Tại sao không ngồi lại với nhau? Các ông và tôi có thể cùng bàn cãi về những sự bất đồng, về những điểm mạnh, điểm yếu của chết độc và tìm cách cải tiến. – Lúc này đã quá trễ! – Không bao giờ lại quá trễ. Tôi xin mời tất cả các ông cùng tới dinh thảo luận, và tìm một giải pháp đôi bên có thể chấp nhận. – Việc này không tùy thuộc ở mình tôi. Tôi cần xin ý kiến của các tướng lãnh… Nghe ông Đôn nhắc lại ý kiến của Tổng thống Diệm, nhiều người có mặt nhao nhao. Dương Văn Minh giật ống nói từ tay tướng Đôn, chửi rủa Tổng thống Diệm bằng tác phong của một đứa chăn trâu hơn là một tướng lãnh: – Dương Văn Minh đây…Ông ráng nghe cho thiệt kỹ nghen! Quân đội VNCH đổ máu chiến đấu không phải để đưa ông lên làm trời làm đất, thu gọn quyền hành vào tay họ hàng nhà ông. Mà đúng lý ra, quyền hành phải chia cho chúng tôi. Ông khư khư ôm lấy một mình. Ông là cái thớ gì, ngồi làm tổng thống hoài, không chịu đưa cho người khác lên làm. Chế độ này quá thối nát, không thể tồn tại thêm một ngày một giờ. Nếu có mặt ông ở đây, tôi bộp tai ông rồi! Ông chó má vừa vừa chớ. Công trạng tôi bao la cỡ nào, phò tá ông bao nhiêu năm, chỉ có cái lon đại tướng mà ông vẫn keo kiệt, phủi ơn tôi…. Dương Văn Minh đổ uất hận xuống đầu Tổng thống Diệm, thanh toán mối tư thù chất chứa trong lòng từ bao lâu nay. Đối với ông Minh, ông Diệm là kẻ thù ngặn chặn bước đường công danh thăng quan tiến chức của ông. Theo quan niệm ông Minh, nếu đi phò người khác làm tổng thống, thì hiện giờ ông đã mang lon đại tướng hoặc thống tướng… Cuối cùng, tướng Minh hét lớn vào ống điện thoại: – Chỉ có hàng! Đầu hàng vô điều kiện. Đ.m ông nghe rõ chưa? Không có bàn bạc thảo luận gì hết trơn. Quân đảo chánh bao vây chặt dinh Gia Long và thành Cộng Hòa rồi.
– Bây giờ trung tướng đổ hết oán giận cho tôi, tôi nhận hết. Từ lâu, tôi có ý định gắn lon đại tướng cho anh, nhưng quân đội không thể đặt dưới quyền người chỉ huy bất tài như anh. Chúng ta không thể xử dụng quân đội vào những việc tình cảm riêng hoặc bè phái. Trung tướng chưa có được một chiến công xứng đáng để trở thành đại tướng, thì làm sao tôi phong anh đại tướng cho được. Anh giết tôi, cứ giết. Anh lật đổ chế độ này theo lệnh Mỹ, anh cứ làm. Sau này lịch sử sẽ phán xét anh và tôi, coi ai là người có lỗi. Kế hoạch đảo chánh lần này do chính quyền Tổng Tham mưu trưởng Trần Văn Đôn dự thảo, với sự tham gia của một số tướng dày dạn kinh nghiệm đảo chánh, nên đã được hoạch định chu đáo đến từng chi tiết nhỏ. Ngay từ giờ đầu, những lực lượng trung thành với Tổng thống Diệm đều bị vô hiệu hóa. Đại tá Lê Quang Tung, người cầm đầu Lực lượng Đặc biệt đã bị giết. Tôn Thất Đính, viên tướng trẻ đẹp trai, nổi tiếng ăn chơi và cờ bạc sau năm 1963, người đã được ông Nhu đặt tất cả niềm tin và hy vọng lật ngược thế cờ khi cần thiết bằng kế hoạch phản đảo chánh Bravo I, đã ngả theo Trần Văn Đôn từ đầu tháng 10 mà ông Nhu không biết. Tướng Đính đã ngầm thông báo cho tướng Đôn kế hoạch phản đảo chánh của ông Nhu, để ông Đôn thảo ra kế hoạch đảo chánh của mình một cách tỉ mỉ, lấy tên là Bravo II, và trao cho tướng Đính thực hiện. Người chỉ huy đánh chiếm Gia Long và trại lính Cộng Hòa lúc này lại là Tôn Thất Đính. Huỳnh Văn Cao, tư lệnh Quân đoàn IV được cả Tổng thống Diệm và ông Nhu rất tin cậy, nghe tin đảo chánh, trở về Sư đoàn 7 của mình, thì Sư đoàn này vừa chuyển sang tay thiếu tướng Nguyễn Hữu Có, người của phe đảo chánh. Một số người được tin cậy khác như Cao Văn Viên, tư lệnh Lữ đòan Nhảy Dù, bị bắt giữ ngay từ đầu, đại tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải quân, chỉ huy Thủy quân Lục chiến, trước khi đảo chánh một giờ, đã bị một người bạn (cũng Hải quân, tên Lực) theo phe đảo chánh, hạ sát bằng một phát súng lục. Tuy nhiên, phía đảo chánh cũng không phải không còn những khó khăn. Lực lượng Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống dù chỉ còn một số đại đội ở thành Cộng Hòa và dinh Gia Long, nhưng đều là những lực lượng thiện chiến và trung thành với Tổng thống Diệm, mặc dầu đã bị tổn thất vì đạn đại bác vẫn không để cho quân đảo chánh vượt qua vị trí của họ tiến vào dinh Gia Long. Lúc 4 giờ chiều hôm đó, lực lượng chính của quân
đảo chánh, là Sư đoàn 5 của đại tá Nguyễn Văn Thiệu, vẫn chưa vượt qua cầu Thị Nghè và cầu Phan Thanh Giản để tiến vào thủ đô. Tướng Tôn Thất Đính phải gọi điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn, yêu cầu dùng Không quân chi viện cho quân đảo chánh. Trung tá Nguyễn Cao Kỳ, giờ chót mới ngả theo phe đảo chánh, cho hai máy bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất phóng hỏa tiễn và quét đại liên vào trại Cộng Hòa. Nhưng những binh lính trong trại vẫn không chịu rời vị trí, họ quyết chết để giữ dạ trung thành với Tổng thống Diệm. Vì phần lớn lực lượng củạ đại tá Nguyễn Văn Thiệu là Sư đoàn 5 chưa vào kịp trung tâm thủ đô, tướng Đính phải trao cho đại tá Lâm Văn Phát chỉ huy lực lượng hỗn hợp từ Vũng Tàu về, thay đại tá Thiệu tấn công. Hội đồng tướng lãnh bắt đầu dao động, lo ông Diệm, ông Nhu có thể lật lại thế cờ. Vợ con Hội đồng tướng lãnh vội vàng xách va-li tới tập trung tại sân đánh “gôn” gần phi trường Tân Sơn Nhất. Trung tá Nguyễn Cao Kỳ chu đáo chuẩn bị sẵn mấy chiếc Dakota của Liên đoàn vận tải, đưa các bà tướng, bà tá và gia đình nhóm phản nghịch sang Thái Lan trong trường hợp đảo chánh thất bại. 16 giờ 30, tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sàigòn. Cabot Lodge ngồi trước máy điện thoại, vẻ mặt đăm chiêu. Ông ta ngồi như vậy từ cách đây ba tiếng đồng hồ, khi những mật hiệu với một loạt con số 9 được Connie từ Bộ Tổng Tham mưu đánh đi báo hiệu cuộc đảo chánh đã bắt đầu. Từ tháng 6 năm nay, vấn đề ông Diệm, ông Nhu đã trở thành một nguy cơ chia rẽ trong nội bộ chính quyền Hoa Kỳ. Ông Diệm càng ngày trở nên khó bảo. Chỉ cần một điểm này là đủ xét lại tư cách đồng minh của Mỹ. Tổng thống Kennedy dần dần đi tới ý định loại bỏ Tổng thống Diệm. Tổng thống Kennedy được sự đồng tình của nhiều nhân vật trong nội các, nhưng lại vấp phải sự chống đối của một số phụ tá, phần đông những người này có cái nhìn hiểu rõ khả năng chống Cộng của ông Diệm, ông Nhu. Nhưng Kennedy, gốc Ái Nhĩ Lan, dứt khoát muốn lật ông Diệm, thay thế một người hay “bầy chánh phủ” dễ bảo hơn. Tổng thống Kennedy bèn nghĩ tới Cabot Lodge, một chuyên viên lỗi lạc về đảo chánh ở vùng Trung Mỹ. Hạ tuần tháng Tám, đại sứ Nolting ở Sàigòn, người đã bảo vệ Tổng thống Diệm đến cùng, bị triệu hồi. Cabot Lodge sang thay. Tới Sàigon, y hiểu sứ mệnh của y không dễ dàng. Ngay trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với
Tổng thống Diệm, đã cho y thấy ông Diệm là con người có bản lãnh, đặt tự ái dân tộc lên trên mọi quyền lợi ngoại bang, và có gan chống lại “quan thầy”, nên không dễ gì hòa giải. Em ông Diệm là ông Nhu, nhà chính trị chiến lược đáng lưu ý. Nhiếu mưu lược khó lường, và đã công khai thách thức Mỹ. Nhân viên CIA hoạt động ở Sàigòn rất sợ ông Nhu. Ngay cả đại tá Connie, một nhân viên CIA kỳ cựu, liều lĩnh, cũng thấp thỏm lo ông Nhu cho mật vụ theo dõi ám sát ông ta bất cứ lúc nào. Trong khi đó, những người muốn duy trì Tổng thống Diệm, ở Sàigòn cũng như ở Tòa Bạch Ốc, luôn luôn chơi trò thọc gậy bánh xe, phá đám Kennedy. Trận đánh được chuẩn bị một cách chậm chạp và gặp hết khó khăn này qua khó khăn khác. CIA không tìm được những đối thủ xứng đáng với Tổng thống Diệm, ông Nhu. Những người đang định lật đổ chế độ, kém trình độ chính trị, thiếu tư cách lãnh đạo và khả năng đương đầu cuộc chiến xâm lăng của Cộng sản. Cách duy nhất để thúc đẩy, kích thích họ, là nói cho họ rõ nhà cầm quyền Hoa Kỳ quyết tâm gạt bỏ ông Diệm, ông Nhu. Nhưng Cabot Lodge lại bị một số người Mỹ am hiểu Cộng sản phá ngang. Trở ngại nhất là đại tướng Harkin đã trực tiếp nói với những người đang âm mưu đừng có làm việc này. Harkin và Taylor mạnh dạn cảnh cáo Tòa Bạch Ốc: Việc loại ông Diệm là công cuộc mở đường cho Cộng sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, và cuộc đảo chánh có nhiều nguy cơ thất bại, bởi vì các tướng lãnh rất sợ cái “uy” của Tổng thống Diệm. Tới những ngày cuối cùng, Tổng thống Kennedy rất phân vân. Ông ta đã chỉ thị cho Cambot Lodge: “Nếu đảo chánh không có khả năng thành công thì nên ngừng lại cho tới khi nào có cơ hội tốt hơn; nếu đảo chánh đã khởi sự thì căn cứ theo quyền lợi của chính phủ Hoa Kỳ, nó phải thành công”. Cabot Lodge biết rõ sự ma giáo của người làm chính tri, họ muốn thắng lợi nhưng lại muốn phủi bỏ trách nhiệm cho người khác khi thất bại! Cabot Lodge buộc phải tính toán lại, vì người chơi trò đó lúc này lại chính là Tổng thống Kennedy. Lodge hiểu sứ mệnh của mình vẫn không thay đổi. Đây là việc trước sau mình vẫn phải làm. Nếu lùi vào lúc này, sẽ làm những kẻ nổi loạn vốn yếu kém về mặt tinh thần, càng nhụt chí, rất khó lôi họ lên một lần nữa. Họ vừa đảo chánh vừa run. Và, trong khi họ lùi lại, Tổng thống Diệm và ông Nhu sẽ có bằng chứng tố cáo chính phủ
Hoa Kỳ trước dư luận quốc tế. Nhưng cuối cùng, Lodge thấy mình cứ phải chơi, và tất nhiên, phải chịu trách nhiệm. Từ khi nổ súng, Connie thường xuyên báo cáo bằng điện thoại mọi diễn tiến của cuộc đảo chánh. Những tin tức này được truyền ngay về Washington qua làn sóng ngắn vô tuyến. Sự việc tiến triển theo chiều hướng khả quan. Nhưng Lodge vẫn cảm thấy lo. Cả cuộc đời chính trị của ông ta đặt hết vào canh bạc này… Chuông điện thoại reo. Cabot Lodge cầm máy. Đầu dây đằng kia là tiếng nói của tổng thống Ngô Đình Diệm: – Một số đơn vị nổi loạn, tôi muốn biết quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ hiện thời. Cabot Lodge lảng tránh: – Tôi cảm thấy chưa có đủ tin tức để thông báo cho ngài. Tôi đã nghe thấy tiếng súng nhưng chưa hiểu rõ tất cả sự thật. Cũng lúc này ờ Washington là 4 giờ 30 phút sáng, chính phủ không thể có một nhận xét nào. – Nhưng ngài phải có một khái niệm chung. Xét cho cùng, tôi là quốc trưởng của một nước. Tôi đã cố gắng làm nhiệm vụ của tôi. Tôi tin rằng nhiệm vụ là trên hết. – Tất nhiên ngài đã làm nhiệm vụ của ngài. Như tôi nói với ngài sáng nay, tôi khâm phục lòng dũng cảm của ngài và những cống hiến to lớn của ngài cho đất nước. Nhưng bây giờ tôi rất lo lắng cho tính mạng của ngài. Tôi nhận được báo cáo là những người cầm đầu những hoạt động hiện hành sẽ cho phép anh em ngài đi ra ngoại quốc an toàn, nếu ngài từ chức. Ngài đã nghe thấy điều này chưa? – Không! Tổng thống Diệm im lặng một lát sau khi buông ra lời từ chối, rồi lại tiếp: – Ngài đại sứ có số điện thoại của tôi chứ? – Có!..Nếu có thể làm gì để bảo đảm tính mạng người, xin Tổng thống cứ gọi tôi. Tổng thống Diệm hiểu rằng, một chút nữa có gọi lại, Cabot Lodge sẽ từ chối điệm đàm hoặc cho nhân viên trả lời:”Ông đại sứ đã đi vắng”. – Tôi đang cố lập lại trật tự. Tổng thống Diệm nói câu cuối cùng và bỏ máy.
☆ Việc chiếm lại Đài phát thanh gặp khó khăn. Một chi đội Thiết giáp với một đại đội Bộ binh, do một trung úy chỉ huy, được phái đi làm nhiệm vụ. Tới gần mục tiêu, viên trung úy gặp một viên trung tá của binh chủng Thiết giáp, rối rít vẫy tay gọi mình. Viên trung tá vừa là cấp trên, lại vừa là bí thư đảng Cần lao tại binh chủng Thiết giáp. Tưởng cấp trên cũng tới cứu nguy cho phủ Tổng thống, viên trung úy vội vàng chạy lại. Viên trung tá nói đảo chánh đang kết thúc, bộ tư lệnh binh chủng Thiết giáp đã đi với Hội đồng tướng lãnh và yêu cầu viên trung úy theo mình. Hai đại đội đi chiếm lại Đài phát thanh phút chốc trở thành lực lượng tăng cường cho phía đảo chánh. Tuy nhiên, có hai thiết giáp tách ra khỏi hàng ngũ, quay đầu chạy về dinh Gia Long. Ông Diệm coi việc chiếm Đài phát thanh là quan trọng bậc nhất trong lúc này. Nhưng khi nghe báo cáo nếu muốn lấy lại vị trí này phải đổ máu lớn, và Đài phát thanh có thể bị phá hủy, ông Diệm không thôi thúc nữa. Coi như lệnh đã hủy bỏ. Một sĩ quan tùy viên bước vào hầm, trình Tổng thống Diệm: – Bẩm Cụ, thiếu tá Duệ dưới trại Cộng Hòa vừa báo cáo lên: Ở Bộ Tổng Tham mưu có người gọi điện thoại về, nói mấy tướng lãnh ở đó rất xôn xao và sợ đảo chánh không thành công. Tại đó, lúc này chỉ có một số tân binh trung tâm huấn luyện Quang Trung và nhân viên văn phòng, chỉ cần đưa một đại đội lên là sẽ chiếm lại được. Anh em dưới trại đã bàn. Thiếu tá Duệ đề nghị Cụ cho đưa một chi đội Thiết giáp và một đại đội Bộ Binh, theo đường Công Lý lên, bất ngờ đánh thẳng vô Bộ Tổng Tham mưu. Ông Diệm suy nghĩ rồi nói: – Làm rứa không được. Biểu anh em cứ ở tại chỗ, tránh đổ máu, chỉ nổ súng khi bị tấn công. Vả lại, các tướng đang bị họ bắt làm con tin, chừ kéo thiết giáp lên rầm rộ, họ sẽ giết hết các tướng! Ông già mang xuống hai tô cháo trắng. Ông lão biết rõ trong hoàn cảnh này, Tổng thống và ông cố vấn không thể nào nuốt trọn miếng cơm. Tổng thống Diệm nhìn tô cháo với vẻ thờ ơ, rồi bỗng nói: – Mang thêm ra đây cho tất cả mọi người cùng ăn. Ông Nhu liếc mắt nhìn Tổng thống Diệm. Lần đầu, ông bỗng thấy thương người anh ruột. Lúc này người anh uy nghiêm thưở nào, giờ chỉ còn là một ông già tội nghiệp.
Bên ngoài, tiếng súng xen lẫn với tiếng đại bác vẫn tiếp tục nổ. Bầu trời ngả sang màu xám, đang nhanh chóng chuyển thành màu đen. Dinh Gia Long bất động, rèm buông kín chìm dần vào hoàng hôn của một ngày biến cố trọng đại. Hệ thống tuyền tin của Phủ Tổng thống vẫn tiếp tục những công việc tuyệt vọng, liên lạc với các Quân khu, Sư đoàn, các tỉnh… Vị sĩ quan truyền tin báo cáo: – Bẩm cụ, đã liên lạc được với ông Đính. Ông Diệm vội vã đón chiếc ống nghe từ tay viên sĩ quan truyền tin, giọng mừng rỡ: – Đính đó ư? – Đính đây. Ông Diệm vẫn không nhận ra giọng nói hoàn toàn thay đổi và xấc xược của viên tướng trẻ thân tín. – Gấp rồi. Làm gì đi chớ! – Làm gì..? Tôi cứu mấy ông mấy hồi, bây giờ thì tôi thấy khỏi cần làm việc này! Các ông hết thời rồi. Đầu hàng đi thôi! – Đối với tổ quốc này, tôi chưa làm gì nên tội và đời tôi chưa biết đầu hàng bất cứ một ai! Hãy để tôi nói điều này, tôi không ngạc nhiên khi Đính phản nghịch tôi. Nhưng lật đổ tôi rồi, Việt Nam sẽ đi về đâu? – Ông đừng biện luận nữa. Đầu thì sống, chống thì chết, ông nghe rõ? – Vì danh dự cho đồng bào tôi, tôi chấp nhận chết! Ngồi ở trại Lê Văn Duyệt, Đính điên đầu vì Sư đoàn 5 của Nguyễn Văn Thiệu tiến vào dinh Gia Long quá chậm (viên Sư đoàn trưởng cố ý chờ xem bên nào mạnh để trở cờ cho ăn chắc). Đính biết những người cầm đầu đảo chánh chưa thực sự tin mình. Cái chết của Hồ Tấn Quyền trưa nay, làm cho y luôn luôn cảm thấy có những họng súng vô hình đang rình rập chung quanh mình. Nhân lúc này, đương sự cần tỏ thái độ đứt khoát để đánh tan sự nghi ky. Ông Diệm cầm chiếc ống nói trong tay, miệng lẩm bẩm: – Thằng Đính hỏng rồi..!
16. Tướng Trần Văn Đôn chuẩn bị hai căn phòng ở cạnh văn phòng của Bộ Tổng Tham mưu cho Tổng thống Diệm và ông Nhu ở tạm. Mọi người đều ngóng chờ đoàn xe đi trở về. Chủ tịch Hội đồng tướng lãnh Dương Văn Minh chốc chốc ra bao lơn ngó xuống. Cuối cùng, đoàn xe đã xuất hiện trước cổng Bộ Tổng Tham mưu, rồi chạy vào dừng lại trên sân cỏ. Đại úy Nhung từ trên một chiếc 113 nhảy xuống đầu tiên. Một cánh tay áo của y ướt đẫm máu. Y nhìn lên lầu. Dương Văn Minh đang đứng tại bao lơn giơ cao hai tay chào mừng chiến thắng. Tên Nhung rảo bước theo kịp tướng Mai Hữu Xuân đang bệ vệ đi về phía bậc thềm ngôi nhà của Bộ Tổng Tham mưu. Mọi người đều ngơ ngác vì chưa thấy Tổng thống Diệm và ông Nhu. Một viên tướng nhìn ống tay áo đầy máu của tên Nhung, hất hàm hỏi tướng Xuân: – Sao vậy? Tướng Xuân nhún vai đáp bằng tiếng Pháp: – C’est comme ça! (Như vậy đó). Ngoài sân một số tướng tá đã nhanh chóng xúm lại quanh một chiếc xe thiết giáp, cửa vừa được mở ra. Bất giác, một số người giơ tay lên vành mũ, trong tư thế nghiêm chào. Nằm trong xe là xác Tổng thống Diệm và ông Nhu, đều đẫm máu. Tướng Khiêm sa sầm nét mặt. Ông Đỗ Mậu vùng vằng: – Các anh phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Dương Văn Minh lạnh lùng nhún vai bỏ đi. Trần Văn Đôn nghe tin Tổng thống Diệm và ông Nhu đã chết, hấp tấp đi tìm Dương Văn Minh. Tướng Đôn đi vào văn phòng, thấy Dương Văn Minh đang ngồi với mấy sĩ quan. Đại tá Quân, một người trong đoàn vừa đi về, mặt tái xám, ngồi gục đầu xuống bàn. Tướng Đôn hỏi: – Vì sao cả Tổng thống và ông cố vấn đều chết? – Họ chết thì làm sao? – Dương Văn Minh gay gắt hỏi lại.
Vừa lúc đó, tướng Mai Hữu Xuân bước vào. Đương sự nhìn Dương Văn Minh, rập mạnh gót giày báo cáo: – Mission accomplie! (Nhiệm vụ hoàn tất). Ngoài sân cờ, những binh lính thiết giáp đã khiêng hai cái xác từ trong xe đặt xuống nền đất, chuẩn bị ra về. Những bệt máu trên người Tổng thống Diệm, ông Nhu đã trở thành màu đen. Một viên hạ sĩ móc túi lấy chiếc khăn tay, phủ lên mặt Tổng thống Diệm rồi lên xe. ☆ Xúc động lớn nhất về cái chết của Tổng thống Diệm lại xảy ra ở Tòa Bạch Ốc. Tổng thống Mỹ nhận được tin này trong lúc ông ta đang họp với tướng Taylor, một người vẫn ủng hộ ông Diệm, và một số phụ tá. Người ta thấy Kennedy mặt lợt đi, hốt hoảng đứng dậy, nhảy bổ ra khỏi phòng họp. Ngay sau đó, Tòa Đại sứ Mỹ ở Sàigòn được lệnh báo cáo gấp cho Tổng thống Kennedy những chi tiết về cái chết của Tổng thống Diệm. Cabot Lodge đang vui vẻ trước thắng lợi đảo chánh, vội gọi điện thoại cho Connie. Đại tá Connie không còn ở bản doanh của quân đảo chánh, đã trở về nhà riêng và đi ngủ. Ông ta bật dậy sau khi nhận lệnh, lao vào Bộ Tổng Tham mưu gặp Dương Văn Minh – Washington yêu cầu cho biết vì sao Tổng thống Diệm lại chết? Dương Văn Minh dầu thân hình hộ pháp và sức khỏe của một nhà thể thao, vẫn mệt rũ người, đang lo chưa biết giải quyết thế nào với hai cái xác còn nằm trước sở chỉ huy. Thoạt đầu, Dương Văn Minh ngơ ngác trước thái độ nghiêm trọng của Connie. Connie đã có mặt ở đây từ đầu đến cuối, đương sự đâu chỉ gặp mình lần đầu? Ở trại Lê Văn Duyệt, đương sự đã thúc giục mình làm sớm, phải chiến thắng ông Diệm bằng mọi giá vì danh dự nước Mỹ. Đương sự vừa nói những gì, bây giờ ông ta lại hỏi mình như một người ở đâu mới tới…? Nhưng rồi Dương Văn Minh cho rằng Connie đang đóng một vai kịch. Chính phủ Hoa Kỳ không muốn bị tai tiếng về cái việc làm thường được coi là “bẩn thỉu” này. Bề ngoài, họ nói là không can thiệp vào nội bộ của chính phủ VNCH. Hoa Kỳ cần phải có bằng chứng là không dính líu vào cái chết của Tổng thống Diệm. Và họ muốn mình thủ vai chính trong màn kịch. Mình cũng nên nói một câu cho xong.. Dương Văn Minh đáp: – Ông ta tự sát.
– Ở đâu? Câu hỏi tiếp theo của Connie khiến ông Minh lúng túng, ậm ờ rồi đáp: -…Ở nhà thờ, và… Connie dồn luôn: – Tôi nghĩ không phải như vậy. Là một người Công giáo, tôi xin nói để ông biết, nếu hôm qua một linh mục đã làm lễ Mi-sa cho ông Diệm thì ông ta không thế nào tự sát! Đây chính là việc của ông… Bị hoàn toàn bất ngờ, Dương Văn Minh không kịp phản ứng, nói quanh: – Nếu không tin, ông có thể xuống nhìn mặt ông ta. Ông ta còn nằm ở đây. – Tôi không cần xem. Người ta có thể dựng lên ngàn lẻ một chứng cớ để giải thích. Nhưng tôi cho rằng không thể giấu được sự thật. Khi mọi người đã biết rõ sự thật này, xin ông đừng cho tôi là kẻ tiết lộ. Dương Văn Minh hiểu đây không phải là một người bạn đến rủ mình cùng chơi màn kịch giết người, bắt đầu nổi dóa: – Tôi không thể nói về một việc mà tôi không chứng kiến và đích thân rút súng bắn người đó. Nếu những người thừa hành không làm đúng mệnh lệnh của tôi, thì tôi cũng không chịu trách nhiệm! Ai làm nấy chịu. Suốt thời gian đó, cả ông và tôi đều ngồi đây. Tôi nói những gì, cũng như ông nói những gì, chúng ta đều không phải là những người điếc! Nếu ông cứ tiếp tục hỏi theo cách vừa rồi, buộc lòng tôi phải mời ông ra khỏi nơi đây… Connie tím mặt lại. Nhưng rất nhạy cảm, ông ta biết nổi nóng lúc này sẽ chẳng giải quyết được gì, bèn đấu dịu: – Washington cũng như chúng ta đều tìm một giải pháp trước những dư luận, sẽ có ở Mỹ cũng như những nơi khác. Chúng ta cần một sự giải thích mà mọi người có thể chấp nhận. – Tôi không thể nói gì hơn những điều đã nói, trước khi có kết luận của một cuộc điều tra. Ông biết, cuộc điều tra sẽ vô cùng phức tạp…. Và từ đó đến khi mất nước, không bao giờ có một phiên tòa xét xử vụ giết người này. ☆ 5 giờ sáng ngày 3 tháng 11 năm 1963, Connie gọi điện thoại cho Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn. Ông ta chuyển lời của Cabot Lodge mời ông
Minh và ông Đôn, những nhà lãnh đạo của Hội đồng quân nhân cách mạng, tới gặp ở Tòa Đại sứ Mỹ. Chuyện cãi vã nhau ngày hôm trước với Connie còn khiến cho Dương Van Minh băn khoăn. Hai người bàn nhau cử tướng Lê Văn Kim đi thay. Nếu Cabot Lodge hỏi, tướng Kim chỉ cần nói mình không biết gì về việc đó. Đại sứ Hoa Kỳ ra tận cửa đón tướng Kim. Thái độ tươi vui của ông ta hứa hẹn một cuộc gặp gỡ không có gì căng thẳng. Cabot Lodge đưa tướng Kim vào phòng khách, rượu đã để sẵn. Cabot Lodge nâng cốc chúc mừng và ca ngợi sự thành công tốt đẹp của Hội đồng tướng lãnh trong việc lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Cabot Lodge nói đã báo cáo đầy đủ mọi hoạt động của Hội đồng với Tổng thống Kennedy, và tin chắc chính quyền mới sẽ được Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ. Cabot Lodge cũng nhắc qua, người Mỹ tỏ ra xúc động sâu xa trước cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Nhu, nhưng không đưa ra lời trách cứ nào. Vẻ mặt Cabot Lodge lúc đó hết sức hân hoan, phấn khởi. Bấy giờ tướng Kim mới tin chắc không phải mình bị gọi tới để chửi mắng và ông ta đang ngồi trước vị đại sứ Hoa Kỳ với tư cách là người chiến thắng. 17. Cha Hoàng Quỳnh đã ra bản tuyên ngôn ủng hộ Hội đồng quân nhân cách mạng (tên mới của Hội đồng tướng lãnh cách mạng) Tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân cùng kéo xuống nhà thờ Bình An tỏ lòng tri ơn về bản tuyên ngôn và đề nghị sự ủng hộ tiếp tục với Hội đồng. Nhìn thấy hắn, tướng Mai Hữu Xuân reo lên: – Bonjour camarade! (chào bạn) Tướng Xuân ôm chầm lấy hắn, rồi quay lại giới thiệu với tướng Đôn và tướng Kim: – Thầy phụ tá đây mà tôi đã nói với các “sếp” đó! Nếu không có thầy Hai, tôi và chưa chừng cả hai “sếp” đã là tù nhân của Ngô Đình Nhu rồi. Tôi không ngờ thằng Tung, thằng Hiếu lại chiếu cố đến mình! Khi nghe thầy Hai báo tin, tôi hoảng hồn. Mình cũng tài lắm chớ! Mình cho chúng
lạc hướng và hết nghi luôn. Có như vậy hôm này mới ngồi chung với các anh trong Hội đồng và tóm được cả Ngô Tổng thống cho xuống chầu âm phủ! Mai Hữu Xuân cười vang, rồi lại nắm tay hắn rung rung một hồi. – Rất cám ơn anh! Gặp lúc hiểm nghèo, mới biết ai bạn, ai thù. – Tôi chỉ làm nhiệm vụ của một giáo dân Phát Diệm. Các anh đã hiểu rõ nỗi khổ của Tổng Bộ tự vệ Phát Diệm lúc trước như thế nào rồi. Tướng Xuân lại tiếp tục giới thiệu hắn với tướng Đôn và Kim: – Anh Vũ Đình Long là người có tấm lòng, nhưng cũng là người rất có bản lãnh. Anh đi lại Phủ Tổng thống bao lâu, mà Nhu có mảy may nghi ngờ đâu! Mà còn bảo vệ được cho cả chúng ta. Đức cha Lê Hữu Từ và cha Tổng chỉ là người chủ xướng, còn người thực thi mọi kế hoạch, trực tiếp quan hệ với Tòa Khâm sứ, Tòa Đại sứ, và các phe phái chính trị đều là do thầy Hai. Ông đại tá Connie nói thầy Hai là một con người rất intéressant (hay), trao đổi với thầy rất bổ ích. Tướng Đôn và tướng Kim thay nhau vỗ về hắn. Ông Đôn nói: – Tôi rất mong anh hợp tác chặt chẽ với Hội đồng chúng tôi. – Đó là nhiệm vụ mà cha Tổng đã trao cho tôi… Cuộc gặp gỡ giữa cha Quỳnh và các tướng lãnh diễn ra rất phấn khởi. Biết xứ đạo Bình An nghèo, các tướng đã mang theo cả sâm banh và rượu Martell. Tướng Mai Hữu Xuân trổ tài mở sâm banh. Đôi bên nâng cốc hết đợt này đến đợt khác. Tiếng cười từng lúc lại ran lên như pháo. Cha Quỳnh không biết uống rượu, chỉ cầm ly nhấm nháp lấy vui. ☆ Người Mỹ dành cho bà Nhu một đặc ân. Ba đứa con của bà được Hoa Kỳ chở bằng phi cơ từ Sàigòn sang La Mã để gặp lại mẹ. Nhưng chỉ một thời gian sau đó, Ngô Đình Lệ Thủy con gái của bà Nhu chết vì một tai nạn xe hơi ở Paris. Dương Văn Minh trở thành Quốc trưởng kiêm chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng với 11 tướng tham gia, trong đó có Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Mai Hữu Xuân…. Nhưng chỉ 3 tháng sau, cả Hội đồng với những quyền lực tối cao này, đã tan thành mây khói, vì bị tướng Nguyễn Khánh lật đổ bằng một cuộc phản đảo chánh, gọi là “chỉnh lý”. Đôn, Kim, Xuân, Đính…trở thành tù nhân của
tướng Khánh. Cuộc vật lộn, tranh giành quyền lực trong giới quân phiệt miền Nam Việt Nam chưa hề dừng lại. Khi đảo chánh nổ ra, ông Ngô Đình Cẩn vội chạy trốn vào nhà Dòng Chúa Cứu Thế ở Huế. Nhưng ông Cẩn nhận ra ở đây không an toàn, lại tới tòa Lãnh sự Mỹ xin cư trú. Người Mỹ lần này tỏ ra rất coi trọng đạo lý. Đại sứ Cabot Lodge tuyên bố những người như ông Cẩn không đáng được chính phủ Hoa Kỳ bảo vệ và cư trú trong toà Đại sứ, nên ra lệnh trao ông Cẩn cho Hội đồng tướng lãnh VNCH, với điều kiện phải đưa ông Cẩn ra tòa theo đúng thủ tục pháp lý, không đối xử tàn tệ, và không giết ông Cẩn nếu chưa xét xử ở tòa. Trong thời gian bị cầm giữ, tướng Khánh đã làm thủ tướng, bảo ông Cẩn nếu chịu đưa hết tài sản cho ông ta, thì sẽ được tha bỗng. Ông Cẩn bảo: “Tiền mô mà đưa!” Ít lâu sau, ông Cẩn ra tòa và lãnh án tử hình. Đơn xin ân xá của ông Cẩn bị quốc trưởng Dương Văn Minh bác. Khi ra pháp trường, thấy người cháu gái khóc lóc, ông Cẩn nói: “Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc!..Cậu không có gì oán than hết. Làm chính trị thì phải biết có ngày như thế ni”. Nguyễn Khánh ra lệnh cho an ninh quân đội điều tra về cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Nhu. Người phụ trách an ninh quân đội lúc đó là tướng Mai Hữu Xuân. Đại úy Nhung bị bắt tại tư dinh tướng Minh. Khi tra hỏi, đại úy Nhung khai Dương Văn Minh ra lệnh cho đương sự giết Tổng thống Diệm và ông Nhu, đượng sự còn đâm bồi tiếp ông Diệm thêm mấy nhát dao găm. Nhưng chỉ vài ngày sau, người ta thấy xác đại úy Nhung treo cổ trong nhà giam bằng một sợi dây giày. Vụ điều tra coi như kết thúc. ☆ Nhà thờ Bình An trở lại yên tĩnh, vắng vẻ sau những ngày sóng gió đảo chánh chế độ ông Diệm. Bình An đã sửa chữa xong nhà thờ, xây dựng thêm trường học, nhưng đời sống của giáo dân vẫn lam lũ vì trước sau Bình An vẫn là một xứ đạo nghèo. Đức cha Lê Hữu Từ đi La Mã chưa trở về. Tướng lãnh trẻ mới lên cầm quyền, say mê danh vọng, tuy họ tỏ ra kính trọng Cha, nhưng họ cũng dễ quên Cha. Số người lui tới nhà thờ bàn kế hoạch đảo chánh rất đông đúc trước đây, nay thưa thớt hẳn. Cha già trở lại rất nhanh vì cảm thấy mình nhanh chóng đi vào quên lãng.
Một ngày đầu xuân, hắn đến gặp cha Quỳnh tại nhà thờ Bình An báo cáo cha biết ngày 21 tháng 12 năm 1963, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mac Namara đi qua quan sát tình hình Việt Nam về, đã phúc trình với Tổng thống Mỹ một cách rất bi quan: ” Chiều hướng tranh giành quyền lợi của các tướng lãnh hiện nay, trừ khi có sự thay đổi trong ba tháng tới, nếu không, may lắm sẽ dẫn tới việc trung lập hóa và có khả năng nhiều hơn là Việt Nam trở thành một quốc gia dưới quyền kiểm soát của Việt Cộng”. Cha chánh xứ lại tự tay đun nước, pha trà ngồi đàm đạo với hắn trong văn phòng vắng vẻ: – Thưa Cha, tình hình này theo Cha rồi sẽ ra sao? – Còn rối loạn, mất ổn định kéo dài, Việt Cộng hoạt động ngày càng mạnh. Cha Quỳnh ngồi thần người, vẻ ngao ngán nói tiếp: – Mỹ không tìm được con bài nào giỏi hơn ông Nhu, ông Diệm. – Thưa Cha, việc ông Diệm, ông Nhu nay không còn nữa, con muốn trở về dạy học, ngày ngày sớm tối vui vầy với đám đầu xanh tuổi trẻ, hơn là chìm nổi trong cuộc đời dâu biển. Tổng thống Mỹ mượn tay người Việt giết tổng thống Việt Nam. Ông Diệm chết kéo theo cái chết của ông Nhu, ông Cẩn. Nhưng rồi lại đến lượt chính Tổng thống Kennedy bị người Mỹ giết. Máu gọi máu cho đến bao giờ! Cha Quỳnh nói: – Chúa đã muốn vậy thì phải chịu vậy.. ☆ Ngày 7-2-1964, HẮN tức tên gián điệp Cộng sản với bí danh A22 lên đường ra mật khu Việt Cộng. Ngồi trên chiếc xe đò chạy về Bình Dương, lòng hắn lâng lâng niềm vui hãnh diện. Xe tới tỉnh ly Bình Dương, đỗ bến xe tòa Thị chính. Một phụ nữ giao liên mặc áo lụa hồng, tay xách chiếc túi màu xanh, ngồi cách hắn hai hàng ghế, đưa mắt kín đáo nhìn hắn, rồi xuống xe. Hắn lẳng lặng đi theo nữ cán bộ giao liên, đảo một vòng quanh chợ Bình Dương, rồi đi về phía bờ sông. Chúng xuống xuồng máy sang sông. Nữ cán bộ dẫn hắn vào một “trạm” giao liên. Bọn chúng dùng xe đạp tới một cái ấp nhỏ, thì gặp một toán khác hướng dẫn hắn đi về rừng Bời Lời, chiến khu Dương Minh Châu để gặp các cấp lãnh đạo của hắn từ Hà Nội mới vào, ban huấn lệnh cho hắn
tiếp tục trở ra Sàigòn giúp trung tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống nước Việt Nam! Montréal, ngày 10 tháng 9 năm 1980 TRẦN TRUNG QUÂN ★ HẾT QUYỂN 1 Xin đón đọc quyển 2: LÁI BUÔN TỔNG THỐNG – Tại sao trung tướng Nguyễn Văn Thiệu được trở thành Tổng thống VNCH? – Vì nguyên nhân bí mật nào, tướng Kỳ phải rút lui ứng cử Tổng thống? – Trận Mậu Thân năm 1968, Hoa Kỳ thỏa hiệp nào với Cộng sản để đo lường khả năng chiến đấu của quân lực VNCH? – Biết Cộng sản sẽ tấn công đêm giao thừa, tại sao ông Thiệu bỏ dinh Độc Lập đi về quê vợ ăn Tết? – Bằng cách nào, kế hoạch hành quân của Bộ Tổng Tham mưu VNCH, 3 tiếng đồng hồ sau Hà Nội biết hết? – Lý do gì, đã được CIA phúc trình ban cố vấn chính trị Phủ Tổng thống toàn là gián điệp Cộng sản , mà ông Thiệu không trừng trị, lại còn chủ tâm che chở?
Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập: LÁI BUÔN TỔNG THỐNG (Trần Trung Quân) Posted on January 27, 2023 by Bình Long (nguồn: Bình Long chuyển sang Word từ sách của TM gởi) (tiếp theo quyển I: CỤM A22) MỤC LỤC 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
1. Sau cuộc Đảo chánh năm 1963, cơ sở nằm vùng của hắn coi như bị tan rã 85%, hắn cảm thấy mất hết. Công tác gián điệp phá hoại miền Nam phải bắt đầu làm lại tất cả. Khuôn mặt “thầy Bốn” một xứ đạo xa xôi, một tên tù phản quốc trong đám tử tội cướp của giết người, hắn thoát khỏi qua bao nhiêu cuộc hành trình khó khăn để cuối cùng trở thành “chiến sĩ Công Giáo” chống Cộng và “con cưng” trong Dinh Độc Lập. Hắn lọt vào gia đình ông Ngô Đình Diệm, thu thập nhiều tài liệu tối mật, và chiếm đoạt được một cương vị quá lý tưởng cho bất cứ một gián điệp nào mà ngay cả hắn đã từng mơ ước cách đây 20 năm. Hắn trở lại nhà thờ Bình An. Trong lúc ấy, tình hình giáo đân vô cùng rối ren. Những lãnh tụ cầm đầu Đệ nhất Cộng Hòa vừa bị ám sát thì Đức cha Lê Hữu Từ rời khỏi Việt Nam. Đức Cha là một vị Tổng Giám mục được mọi người kính trọng và thương mến. Các giáo xứ như Phước Tuy thuộc tỉnh Bà Rịa cũ, Thanh Bồ, Đức Lợi ngoài Đà Nẳng, Phú Cam ở Huế…bị Cộng Sản đội lớp Công Giáo sách động quần chúng trả thù. Mục đích tạo sự gây hấn và hiểu lầm giữa giáo dân và Phật tử. Các xứ đạo ngoại ô Sàigòn đâm ra lúng túng, không hiểu “phong trào bài trừ Công Giáo thân nhà Ngô” do ai xúi giục? Nhiều cha cố đâm ra lo lắng kể cả những linh mục tuyên úy Công giáo cũng e ngại khi đứng làm lễ mi-xa cho con chiên. Tòa Tổng Giám mục Sàigòn cũng như Khâm sứ Toà Thánh hoàn toàn bối rối. Sau một thời gian yên tĩnh, vắng vẻ, nhà thờ Bình An sinh hoạt bình thường trở lại như cũ, lại tấp nập người lui tới viếng thăm. Con chiên, cha xứ khắp nơi ồ ạt kéo đến xin được tận mặt viếng thăm cha Hoàng Quỳnh. Cha nhận thấy rằng phải dành nhiều thời giờ tiếp họ, giải thích cho họ am hiểu tình hình. Vì phong trào bài xích Công giáo không phải do khối Phật giáo dựng nên mà do cán bộ nằm vùng Cộng sản đứng phía sau các đảng phái đối lập chính quyền hoặc không có cảm tình nhà Ngô tạo nên. Phải hết sức sáng suốt, nếu không, sẽ dễ dàng lôi kéo giáo dân và Phật tử vào cuộc “thánh chiến Việt Nam” một cách thiển cận và Cộng sản là kẻ “ngư ông” đứng ngoài hưởng lợi.
Sự thật, uy tín hai giáo xứ Bình An và Phát Diệm không bị hề hấn gì sau khi đảo chánh. Người ta đều biết rõ hai xứ đạo này từ trước giờ vẫn đối lập nhà Ngô, trước sau vẫn chống Cộng,và chống luôn những chính sách quá khích của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trường hợp nhà thờ Bình An lại khá đặc biệt. Danh tiếng ngày càng được báo chí quốc tế đề cập tới. Các ký giả ngoại quốc tường thuật với chiều hướng cho độc giả hiểu rằng Bình An có thể là “trung tâm bầu phiếu” cho những nhà lãnh đạo tương lai của miền Nam. 20 ngày sau khi đảo chính thành công, hàng chục vị ủy viên của Hội đồng tướng lãnh sắp hàng kéo tới “yết kiến”, bày tỏ sự cám ơn đối với cha Hoàng Quỳnh. Bởi vì, Cha rất mật thiết với kế hoạch đảo chánh. Vẫn còn ở cương vị phụ tá Đức Cha, HẮN, gián điệp cao cấp của Hà Nội, thay Cha niềm nở tiếp tất cả mọi người. Những người tới đây, hầu hết là chính khách “giao mùa” (mùa nào có ăn, có ghế chính phủ thì có họ) và đám tướng lãnh giết mướn cho Hoa Kỳ. Họ nhìn nhận, vào giờ cuối, sắp sửa nổ súng đảo chánh làm cuộc “cách mạng đô-la”, thì hắn luôn luôn sát cánh với họ. Hội Đồng Cách Mạng cần lấy điểm với khối Phật giáo Ấn Quang nên ngấm ngầm rỉ tai tuyên truyền rằng: ” Chính phủ cách mạng sẽ tịch thu tất cả tài sản của các xứ đạo từng cộng tác mật thiết với gia đình ông Ngô Đình Diệm”. Những linh mục non dạ, yếu bóng vía, chạy đến cầu cứu hắn. Hắn long trọng hứa sẽ can thiệp Hội Đồng tướng lãnh. Thực ra, nhiều lần tiếp xúc với các tướng lãnh đảo chánh, hắn thừa biết là phe Dương Văn Minh chẳng bao giờ dám làm chuyện này. Nhưng hắn là hạng người cần lập công giữa giáo xứ với chánh quyền, giữa đảng phái với đảng phái, giữa tướng lãnh với các xứ đạo có danh tiếng cực đoan chống Cộng. Hắn lúc nào cũng sốt sắng ở tư thế “nối nhịp cầu”. Làm vậy, hắn sẽ được lòng với tất cả mọi phe phái. Nhờ thế, uy tín ngày thêm lan rộng. Những người cộng tác trung thành với chế độ cũ hiện bị Hội đồng tướng lãnh tống giam, hắn tình nguyện đứng ra vận động xin trả tự do cho họ. Rất nhiều xứ đạo sau một thời gian lo lắng, hồi hộp chờ đợi Hội đồng tướng lãnh tịch thu tài sản, tìm cách trả thù vì có nhiều thành tích ủng hộ Ngô Tổng thống, nhưng chờ hoài không thấy xảy ra, họ phải hiểu rằng kết quả tốt đẹp này do hắn thu xếp.
Công tác hoạt động tình báo của hắn không có gì thay đổi. Cấp thời, hắn phải mọi cách gấp rút phục hồi lại vị thế cũ trong chính phủ Đệ nhị Cộng Hòa. Trong khi đó, tình thế chính trị thủ đô Sàigòn hiện rối như tơ vò. Kể từ ngày đảo chánh đến nay, bộ máy chính phủ vẫn do Hội đồng quân nhân cách mạng nắm giữ. Hội Đồng gồm các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính… Dấu hiệu chia rẽ, nghi ky, dành quyền lợi càng lúc càng tranh chấp dữ đội. Người ta tống khứ những đơn vị có công tham gia đảo chánh ra khỏi đô thành Sàigòn. Rất nhiều sĩ quan tham gia đảo chính từ buổi đầu, được thăng thưởng nhưng lại bị nghi ngờ và đặt trong tình trạng theo dõi chặt chẽ. Những ngôi sao chính trị xuất hiện do thời thế bốc lên là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim. Họ được gắn bảng danh dự “anh hùng cách mạng”. Tin đồn loan tải theo tốc độ điện xẹt, Dương Văn Minh sẽ ngồi ghế quốc trưởng. Lê Văn Kim nắm thủ tướng, Trần Văn Đôn chắc chắn đứng đầu bộ Quốc Phòng và Tôn Thất Đính đoạt chức bộ trưởng Nội Vụ. Những vị lãnh đạo khối Phật giáo Ấn Quang như các vị thượng tọa Thích Thiện Minh, Thích Trí Quang, Thích Hộ Giác, Thích Pháp Siêu … có công tham dự vào công cuộc lật đổ chính quyền quốc gia và cổ võ thủ tiêu ông Ngô Đình Diệm sẽ được Hội đồng tướng lãnh đền ơn xứng đáng. Người ta thừa biết nhóm tướng lãnh không có cách gì lật đổ ông Diệm nếu không có “cuộc đấu tranh” của phong trào Phật giáo Ấn Quang diễn hành ngoài đường phố, tạo rối loạn an ninh trật tự công cộng mấy tháng qua. Và phong trào này có nhiều dấu hiệu được sự “cảm tình” của Mỹ lẫn Việt Cộng. Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ rời tòa Đại sứ Mỹ trở về chùa sau khi đảo chánh thành công. Bản hiến ước tạm thời số 1 xấc xược ra đời. Bản hiến ước này gây sôi nổi và khiến nhiều người sửng sốt. Dương Văn Minh tự ý sắc phong mình làm quốc trưởng. Đồng thời tự ý chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ, phó Tổng thống thời Đệ nhất Cộng hòa, giữ chức thủ tướng, có bổn phận đứng ra thành lập chính phủ lâm thời. Chính phủ do ông Nguyễn Ngọc Thơ công bố tổng cộng 14 vị bộ trưởng, trong số ấy hiện diện những tướng lãnh thân tín ông “Minh lớn”, những khuôn mặt còn lại đã từng tham gia Nội các chính phủ dưới thời cố Tổng thống Diệm. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, theo tiểu sử là người cùng thế hệ với Tổng thống Diệm, xuất thân trong một gia đình đại điền chủ ở miền Tây, thời
Pháp đô hộ đã giữ chức đốc phủ sứ Nam Kỳ, về sau làm bí thư cho toàn quyền Decoux. Ông Thơ là một nhà hành chánh giỏi và một trong những số người rất hiếm đã được ông Diệm kính trọng và tin tưởng. Đặc biệt, ông Thơ không có liên hệ nào với Hoa Kỳ, ngay cả sự liên lạc quen biết với đại sứ Hoa Kỳ. Nguyên nhân ông Thơ được đề cử thành lập chính phủ, người ta phải hiểu đây là loại “chính phủ trái độn” có nhiệm vụ “chịu đòn” ở buổi giao thời. Hoa Kỳ cố ý làm lắng dịu dư luận sau khi “gián tiếp?” có một phần trách nhiệm về cuộc xử bắn gia đình ông Diệm. Ông “Minh lớn” tức tốc gài những cộng tác viên tay chân nắm một số chức vụ then chốt: Quốc phòng, Nội vụ, Nha An ninh quân đội, Cảnh sát, đô trưởng Sàigòn. Dù thế, cánh ông Minh vẫn chưa củng cố xong thực lực. Vì sự cạnh tranh chức vụ đã gây ra hiềm khích, bất bình trong các tướng lãnh hiện còn nắm trong tay lực lượng “tái đảo chánh”. Nhóm này đâu có chịu yên phận với quyền cao chức trọng mà mình đang có, nên lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng “quậy” mở thêm cuộc đảo chánh khác cho đến khi chính mình phải được làm vua nước Việt Nam! Người Mỹ, trong thâm tâm vốn không ưa Pháp. Tập đoàn Hội đồng tướng lãnh do ông “Minh lớn” lãnh đạo, hết thảy xuất thân từ các lò đạo tạo quân đội của Pháp, có người được huấn luyện từ hồi còn mang cấp bậc thượng sĩ nhất. Do lẽ đó, Cabot Lodge không thể tiếp tục ủng hộ một tập thể chưa từng qua cuộc trắc nghiệm trung thành do CIA làm giám khảo, nhưng Lodge phải xài họ ở giai đoạn “câu giờ” để tìm thí sinh hoàn toàn thân Mỹ. Sau khi lên thăm Đức Khâm sứ Toà Thánh trở về, cha Hoàng Quỳnh cho người kêu hắn vào gặp Cha. Gương mặt đăm chiêu, Cha băn khoăn hỏi ý kiến hắn: – Cha cần con giúp Cha một việc. – Con nghe lời Cha, thưa có chuyện chi? – Hội đồng giám mục toàn cầu sẽ họp đại hội ở La Mã vào tháng tới. Bộ truyền giáo yêu cầu chúng ta tổ chức một buổi lễ trình bày hình ảnh về Cộng đồng Vatican I tại Sàigòn. Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình cho biết tổ chức lúc này chưa thuận lợi. Nhưng Đức Khâm sứ khuyên bảo nên nỗ lực thực hiện theo chỉ thị của Bộ Truyền giáo càng sốt càng tốt, nhằm mục đích trấn an giáo dân, làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng giữa Công giáo và Phật giáo. Cha chưa nghĩ ra cách để trả lời Đức Khâm
sứ. Mặc dầu Đức Khâm sứ có hỏi: “Nên hay không nên tổ chức ngay tại xứ đạo Bình An?”. Xứ đạo tọa lạc sát cạnh Chợ Lớn, thời gian vừa qua không có tai tiếng gì. Như thế, rõ ràng Dức Cha có ý vạch ra cho chúng hiểu nếu tổ chức ở Sàigòn không thuận tiện, thì tổ chức ở Bình An. Cha rất lo. Con có ý kiến gì không? Hắn trổ tài lập công: – Vì do lệnh Tòa Thánh và Đức Khâm sứ nhiều lần lập lại ý muốn, dù khó bao nhiêu, theo con, xứ đạo chúng ta phải cố gắng hoàn thành Thánh lệnh. – Cha chỉ lo, tổ chức rềnh rang, liệu có êm xuôi không? Lỡ có chuyện gì xảy ra, biết ăn nói làm sao? – Thưa Cha, nếu đã tổ chức, con phải cố gắng lo phần bảo đảm an ninh để tránh mọi việc đáng tiếc xảy ra. – Nhưng với phương thức nào? Nếu Việt cộng cho người len lỏi liệng lựu đạn vô như ở Huế, gây căm thù giữa giáo dân và Phật tử thì mình đối phó ra sao? – Cha đừng lo. Chúng ta đã tổ chức thì ép buộc chánh quyền phải nhào vô gánh chung trách nhiệm. Dù khó đến đâu, con tin rằng con sẽ lo chu đáo cho Cha. – Con cố lo giúp Cha nghe. – Cha yên tâm. Con đã suy nghĩ kỹ. Ông Diệm, ông Nhu mặc đầu là giáo dân, nhưng đã mạnh mẽ bác lời khuyến cáo của Toà Thánh, cố ý đi ngược lại đường lối truyền giáo của giáo hội. Chính giáo hội và người của giáo hội như cha T.., cha H.., cha L., cha Tổng… từng hướng dẫn ông Diệm trở lại đường ngay lẽ phải. Nhưng ông Diệm không nghe, đặt quyền lợi quốc gia của ông lên trên quyền lợi giáo hội, quyền lợi của Mỹ, ông chết đáng kiếp. Nếu không có công lao cha Tổng, suốt ngày suốt đêm bỏ công sức móc nối bàn luận với đảng phái chính trị, các nhà lãnh đạo Phật giáo, các tướng lãnh thì làm sao miền Nam có được ngày 1-11 vừa qua! Vậy thì, chánh quyền Dương Văn Minh không có tư cách nào dung túng nhóm Phật tử quá khích “đàn áp” người Công giáo bị hàm oan ủng hộ ông Diệm. Họ đã biết rõ, trước khi đảo chính một tuần lễ, các thượng tọa lãnh đạo khối Ấn Quang luôn luôn nằm túc trực ở đây. Không lẽ lật đổ một bất công cũ rồi dựng lên một bất công mới? Thú thật, con quá chán ngán nhân tình thế thái, nên có ý muốn lui về dạy học, sống ẩn dật, nhưng vì Cha đã
khuyên con, thành thử con phải ở lại với Cha. Với tình hình này, con ý thức rằng con phải có trách nhiệm với giáo dân, với giáo hội, không thể chối bỏ nhiệm vụ, khoanh tay ngồi nhìn kẻ ác làm bậy hàng ngày diễn ra ưước mắc mình. Hậu quả mà miền Nam đang hứng chịu, tất cả đều do Mỹ quá nhẫn tâm, ra tay giết hại đồng minh, nên mới xảy ra tình hình bất an hôm nay. Hắn tiếp tục khai thác sự mâu thuẩn, tạo chia rẽ tôn giáo: – Như Cha biết, người Mỹ đã thành công qua việc dùng Phật giáo như một lá bài chính trị thanh toán chế độ ông Diệm. Chúng ta phải giải thích cho họ thấy là họ quá sai lầm. Vạch rõ sự sai lầm này vì họ đã tung một số nhân viên CIA vào hàng ngũ Ấn Quang, phát họa kế hoạch xuống đường. Chúng ta cần phải tổ chức cuộc triển lãm thật lớn theo thánh lệnh tòa Khâm sứ. Những ngày sau đó, chúng ta phải tận lực phục hồi lại địa vị ưu thế và uy tín của giáo hội để ảnh hưởng tình hình chính trị miền Nam, dứt khoát không để có phương hại đến uy tín tập thể Công giáo vì sự hoạt động ngu xuẩn của CIA. Cha Hoàng Quỳnh cân nhắc từng lời của hắn, rồi cha khen ngợi: – Con nhận xét rất chính xác. Cha sẽ bàn kỹ với con thêm về lãnh vực giữ uy tín người Công giáo. Còn việc tổ chức triển lãm, ngày mai con thay Cha nên lên Tòa Khâm sứ trực tiếp trình bày ý kiến với Đức Khâm sứ. Hắn đã nắm vững tâm lý dè dặt và hết sức cẩn thận của cha Hoàng Quỳnh và đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình về những sự khó khăn nếu đứng ra tổ chức cuộc triển lãm trong lúc này. Vì thế hắn sốt sắng đứng ra nhận lãnh nhiệm vụ để tìm cách len lỏi sâu vào cơ sở thượng tầng của chính phủ Dương Văn Minh qua vai trò “hòa giải Công giáo và Phật tử khối Ấn Quang”. Hắn tỉ mỉ trình bày những dự án, chương trình, kế hoạch về tổ chức một cuộc triển lãm vô cùng trọng thể, có sự hiện diện Hội đồng tướng lãnh, đại diện các tôn giáo, đảng phái cũng như các nhân sĩ tiếng tăm ở Sàigòn. Lẽ dĩ nhiên cuộc triển lãm sẽ được các lực lượng an ninh quốc gia bảo vệ tối đa. Đức Khâm sứ lắng nghe, lộ vẻ vui mừng. Sau khi vẽ một kế hoạch lộng lẫy, hắn nói: – Con am hiểu ý sâu xa của Đức Thánh cha, là phải phục vụ hữu hiệu cho giáo hội, để cho giáo hội phát huy tôn chỉ của Chúa. Mọi trường hợp,
các linh mục và giám mục phải đứng bên lề tranh chấp chánh trị, đừng để xảy ra cuộc thánh chiến mà Công giáo là thiểu số ở Việt Nam. Đức Khâm sứ phải sáng suốt dìu dắt con chiên thoát khỏi bàn tay kẻ ác. Trên tư cách một con chiên hết lòng phụng sự Chúa, con xin tự nguyện noi gương thánh Pierre, thánh bổn mạng của con, xin hảy xử dụng con như một tảng đá xây nền dựng móng bền vững bảo vệ giáo hội. Đức Khâm sứ biểu lộ sự hài lòng, ngài nói: – Giáo hội đang đứng trong hoàn cảnh khó khăn, con hãy vì Chúa mà hết lòng phục dịch. Hiện giờ, giải pháp tốt đẹp nhất là tận lực tỏ thiện chí hòa giải với khối Phật giáo Ấn Quang, gây thiện cảm với Hội đồng quân nhân cách mạng, cố vấn họ làm theo ý của Chúa. Ngoài ra, tiện đây Cha muốn nhờ con cố gắng dùng ảnh hưởng của mình đối với Hội đồng quân nhân, yêu cầu họ không vi phạm tới tài sản của giáo hội, trừ tài sản của gia đình họ Ngô, can thiệp Hội đồng phóng thích cho một số nhân vật Công giáo bị cách mạng giam giữ, vì có một quá trình hợp tác chặt chẽ với chính phủ Ngô Đình Diệm. Hắn tuyệt đối vâng lệnh Đức Khâm sứ. Sáng ngày 22 tháng 11-1963, nghĩa là vừa tròn hai mươi ngày sau khi chính phủ ông Diệm đổ, buổi triển lãm Cộng đồng Vatican I được tổ chức long trọng tại trường trung học Đồng Tâm thuộc giáo xứ Bình An. Hắn đích thân tới Tòa Đô Chính gặp Đô trưởng Mai Hữu Xuân kiêm Tổng Giám đốc cảnh sát quốc gia xin giúp đỡ an ninh trật tự. Mai Hữu Xuân lẹ làng cử hai trung đội cảnh sát tới bảo vệ trật tự trong suốt buổi lễ. Khai mạc cuộc lễ, người ta thấy có đại diện Hội đồng quân nhân cách mạng, đại diện các tôn giáo, đảng phái chính trị và rất đông thân hào nhân sĩ tới tham dự. Phía phái đoàn Phật giáo do hai thượng tọa Thích Giác Đức, Thích Đức Nghiệp dẫn đầu phái đoàn. Đại điện Đức Khâm sứ và phụ tá Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình cũng có mặt. Xong buổi lễ, tiệc trà thân mật được tổ chức đãi quan khách khoảng 500 người, góp vui văn nghệ do dàn nhạc Công giáo phụ trách. Đức cha Hoàng Quỳnh thực thà tuyên bố với đức Khâm sứ: – Thành công như vậy, phải nói là nhờ tài tháo vát, nhờ uy tín cùng mối kết thân của thầy Hoàng Đức Nhã đối với các tướng lãnh và Phật giáo (tên giả của hắn, xin đừng lầm với Hoàng Đức Nhã, cựu tổng trưởng Dân Vận thời ông Nguyễn Văn Thiệu). Thành quả này con cũng không ngờ tới.
Đức Khâm sứ tiếp lời cha Quỳnh: – Thầy Nhã là người có công lớn với giáo hội Việt Nam, và còn là ân nhân của nhiều gia đình có liên quan tới chính phủ Ngô Đình Diệm. Khâm sứ “chúc lành” trước khi ra về. Buổi triển lãm gặt hái tốt đẹp, kèm theo lời khen chân tình của đức Khâm sứ đã trở thành liều thuốc bổ dưỡng tạo luồng sinh lực phấn khởi truyền vô cơ thể cha Quỳnh. Trên quãng đường trở về xứ đạo Bình An, cha Chánh xứ bỗng vui tươi, phấn chấn lên: – Thừa dịp này chúng ta nên tập họp lực lượng giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm, con thấy có hợp thời không? Hắn phân tích tình huống: – Thưa Cha, trước kia khó gấp vạn lần, nhưng chúng ta vẫn thực hiện được, so với bây giờ đâu có trở ngại bao nhiều. Mật vụ ông Diệm không còn bám sát theo dõi ta, những tên công an khét tiếng…diệt Cộng như Dương Văn Hiếu, Tá Đen… hiện sộ khám chờ ngày tòa xét xử, con thấy đâu có điều chi đáng ngại? – Không phải vậy. Cha muốn đề cập tư thế kẹt của Công giáo nói chung sau khi ông Diệm bị ám sát. – Quan sát toàn diện thì gần giống như vậy. Nhưng riêng Phát Diệm chúng ta không bị sứt mẻ gì. Ngược lại, uy tín chúng ta càng gia tăng thêm lên. Phát Diệm của lực lượng Công giáo mạnh mẽ chống ông Diệm ngay từ buổi đầu khi vừa đặt chân di cư vô Nam. Khối tướng lãnh đảo chánh từng bí mật chạy đến tìm chúng ta. Người Mỹ muốn xuyên tạc lịch sử, vừa đổ thừa Việt Cộng giựt dây Phật giáo, vừa tung cao cờ Phật giáo hòng làm lu mờ công trạng chúng ta đã tiếp tay tướng lãnh lật ông Diệm. Nhưng sự thật luôn luôn vẫn là sự thật. -Người Mỹ rất ngây thơ, không hiểu người Việt Nam, mà cũng không hiểu chiến tranh bành trướng chủ thuyết Cộng sản của Nga ở Việt Nam. Chúng ta phải mở mắt họ. Cha chỉ tiếc một điều là Đức cha Từ hiện còn ở bên La Mã. – Đức Cha vắng mặt, thì có Cha thay thế. Dư luận coi Đức Cha là vị thánh sống, đức độ cao siêu, kiến thức uyên thâm, nhưng Đức Cha chỉ là người lãnh đạo tinh thần. Còn thật sự lãnh đạo giáo khu Phát Diệm là cha Tổng.
Cha Quỳnh trầm ngâm suy nghĩ cho đến khi chiếc xe lướt qua cầu Nhị Thiên Đường, chạy dọc theo bờ Kinh Đôi dẫn về nhà thờ Bình An. Hắn biết rõ Cha đang suy nghĩ một điều gì rất quan trọng, nên cũng yên lặng ngồi im. Đến nơi, Cha bảo hắn lên văn phòng ăn cơm trưa với Cha, luôn thể bàn tiếp chuyện dang dở. Cha Quỳnh nói hồi nãy vừa hình dung trong đầu ý định tổ chức một buổi lễ truy điệu thật lớn các chiến sĩ Bùi Chu – Phát Diệm trận vong, có ý muốn công khai hóa chương trình tập họp lực lượng cho giáo khu trong những ngày đen tối sắp tới của đất nước. Theo Cha, nếu chánh quyền thất bại chính sách tự vệ miền Nam, thì Bùi Chu – Phát Diệm sẽ đảm nhận vai trò cứu nước như đã từng chiến đấu xưa kia ở các chiến khu Việt Bắc. Hắn nhiệt tâm tán thành ý kiến của cha Quỳnh. Thời gian trước, núp bóng Đức cha Từ, hắn sơn phết cho mình được một chỗ đứng “tin cẩn” trong gia đình ông Ngô Đình Diệm. Cha Quỳnh hiện nay tên tuổi và uy tín của Cha sánh với Đức cha Từ thì còn thua xa. Vả lại, những nhân vật lãnh đạo hiện thời đa số là những người theo đạo Phật. Họ rất cần đến cha Quỳnh trong suốt thời gian bí mật tổ chức lật đổ hai ông Nhu-Diệm, là tín đồ Thiên Chúa. Giờ đây, tất cả mưu đồ đã thành tựu, vì họ đã quan niệm “hết xôi rồi việc”, Bình An không còn là nơi hấp dẫn các tướng lãnh như xưa nữa. Hắn cần tìm lối đi mới và tạo cho hắn một chỗ đứng mới. Muốn vậy, phải dựng uy thế cha Quỳnh trước dư luận miền Nam và trước mặt chính phủ quân nhân. Phải biến Bình An trở thành trung tâm mua bán, đổi chác chức tước. Cùng lúc, đánh bóng khu Bình An vang lừng danh tiếng để tập họp những nhà lãnh đạo tôn giáo mặc áo thầy tu mà lòng vẫn còn đục ngầu bả công đanh chính trị. Lấy pháo đài Bình An làm uy thế áp lực Hoa Kỳ và chính quyền VNCH, ép buộc họ không thể bỏ qua Bình An mỗi khi miền Nam có chính biến hoặc có thay đổi Tổng thống. 4 tháng sau ngày đảo chánh, xứ đạo Bình An trở nên từng bừng nhộp nhip người lai vãng. Giáo dân tấp nập kéo đến nhà thờ tình nguyện nhận công việc. Toán lo in thiệp mời, nhiều toán phân chia đi khắp nơi vận động, kêu gọi những xứ đạo có giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm cư trú. Toán lo sơn sửa, chỉnh trang lại khuôn viên nhà thờ, và trang trí lại hội
trường. Công cuộc chuẩn bị khá chu đáo, có thể đón tiếp trên 1000 quan khách. Hắn đảm nhận phần liên lạc mời quan khách tham dự. Một việc nhỏ bất ngờ xảy ra. Cha Quỳnh quyết định trong buổi lễ truy điệu trọng thể này, người đứng sau Cha phải là hắn, Cha ra lệnh hắn làm trưởng ban tổ chức. Nhưng hắn khước từ, xin đề nghị trao nhiệm vụ trưởng ban tổ chức cho cựu phó Tổng chỉ huy Tự vệ Bùi Chu – Phát Diệm trước kia, là thiếu tá Trần Thiện. Chẳng hiểu vì duyên cớ gì cha Quỳnh lại không thích thiếu tá Trần Thiện. Hai người kỵ nhau như nước với lửa. Hắn đã nhiều lần tìm cách hàn gắn hai người nhưng đều thất bại. Trên thực tế, hắn chỉ mới hoạt động giúp Tổng bộ Tự vệ mới có mấy năm. Trên tư cách cựu phó Tổng chỉ huy, ông Thiện làm trưởng ban tổ chức thì thật là hợp lý. Nhưng cha Quỳnh cương quyết không chấp nhận ông Thiện, viện lẽ ông Thiện thiếu kinh nghiệm liên hệ với quan khách. Thiếu tá Thiện hiểu ý Cha muốn loại mình, do đó ngay từ đầu đã tỏ vẻ bất mãn. Hắn trình với Cha hắn chỉ là “quan văn”, công tác này cần nên chỉ định cho “quan võ”. Cuối cùng, hắn đề nghị cha Quỳnh, hắn đồng ý nhận nhiệm vụ tiếp khách với cương vị là trưởng ban đối ngoại của Tổng bộ Tự vệ. Cha Quỳnh phải chịu. Thiếu tá Trần Thiện rất vừa lòng, nên ngây thơ đánh giá hắn là hạng người bất cần danh lợi. Đúng chương trình dự dịnh. Lễ truy điệu chiến sĩ tự vệ Bùi Chu – Phát Diệm diễn ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 4 tháng 1 năm 1964. Hàng ngàn, hàng vạn giáo dân di cư vui mừng kéo về xứ đạo Bình An. Con lộ nhỏ song song dòng Kinh Đôi bắt đầu từ Chợ Lớn trải dài về tới Bình An, rợp bóng người và xe cộ. Đại diện chính phủ Quân Nhân Cách Mạng, đại diện các đảng phái, các tôn giáo có mặt đầy đủ. Trên 3000 chiến sĩ Tự vệ vận đồng phục, hàng ngũ chỉnh tể, qui tụ thẳng hàng trước nhà phấp phới lá quân kỳ của Tổng bộ Tự vệ. Quân nhạc hòa tấu hùng hồn bài quân ca của chiến sĩ Phát Diệm. Đức Giám mục Trần Thanh Khâm đứng chủ lễ Đồng tế. Cha Quỳnh mái tóc cắt ngắn, ngã màu bạc trắng, cặp mắt độ lượng, khuôn mặt hiền từ phảng nét nghiêm nghị và trang trọng trong chiếc áo choàng đen. Cha rất mừng. Cha thấy hàng ngàn cặp mắt kính trọng hướng về Cha. Tàn buổi lễ, gần một ngàn quan khách dự tiệc trà thân mật. Nhiều chính khách khép nép vây quanh cha Quỳnh. Một số khác đi kiếm hắn. Tất cả
mọi người đều phấn khởi trước buổi lễ tập họp đông đảo anh em chiến sĩ Công giáo. Uy danh Cha nổi bật thêm lên. Tướng lãnh và kể cả quý vị đại đức, thượng tọa cũng quen miệng gọi cha Quỳnh là cha Tổng. Vì là lễ truy điệu chiến sĩ trận vong nên tướng tá kéo tới đầy đủ. Những vị tướng xuất thân từ Phát Diệm như Phạm Xuân Chiểu, Linh Quang Viên, Phạm Văn Đổng… đều có mặt. Hắn phân tích tình hình. Các tướng tá của Phát Diệm đang đánh hơi, đợi gió phất cờ. Cánh thân tín của các ông Đôn, Kim, Xuân cặp kè đi chung nhau, tách ra khỏi nhóm của ông Trần Thiện Khiêm, ông Nguyễn Văn Thiệu. Từng nhóm, đi riêng rẽ tới gặp hắn, vì hắn là nhịp cầu bước tới cha Quỳnh. Nhóm ông Đôn, ông Kim, ông Xuân yêu cầu hắn tố giác những thành phần “tàn dư” chính phủ Ngô Đình Diệm, còn ẩn núp trong hàng ngũ Công giáo hoặc ở đâu đó để chính quyền xử bắn tận gốc rễ. Nhóm tướng Thiệu nhờ hắn tiến dẫn lên diện kiến Đức Khâm sứ. Về phần nhóm Phật giáo Ấn Quang bày tỏ quan niệm phản đối Hội đồng tướng lãnh một cách rõ rệt. Họ phán xét các ủy viên trong Hội Đồng chính phủ là những người có trình độ học thức chưa qua tiểu học, tài trí không thoát ra ngoài khả năng bắn súng lục, thiếu hiểu biết chính trị, lãnh đạo quốc gia bằng những chiêu thức của Lệnh Hồ Xung do nhà văn Kim Dung tưởng tượng mua vui cho độc giả. 2. Điểm danh những nhân vật chủ chốt cuộc đảo chánh, thiếu tướng Trần Thiện Khiêm (cấp bậc tháng 9-1963) là người xuất hiện đến nhà thờ Bình An sau hết. Nhìn tác phong và thái độ của tướng Khiêm, người ta xác nhận ông cung cách khác xa những tướng lãnh tới trước ông. Ông Khiêm người cao ráo, khuôn mặt phúc hậu dễ chinh phục kẻ đối diện, tóc cắt ngắt đúng nghi thức, dáng đấp của một quân nhân tôn trọng kỷ luật. Tổng thổng Diệm rất thích những mẫu quân nhân như thế. Và ông Khiêm thường được Tổng thống yêu mến là điều chẳng có gì lấy làm ngạc nhiên. Cha Quỳnh ân cần giới thiệu hắn với tướng Khiêm. Xoay qua tướng Khiêm, Cha nói:
– Việc đạo xin thiếu tướng gặp tôi. Còn việc chính trị thiếu tướng hãy đàm luận với ông giáo đây. Toà Thánh đã khuyến cáo các giám mục và linh mục không nên xen vào việc chính trị. Ông giáo đây là thầy tu xuất nên đỡ phải e ngại. Thiếu tướng bàn với ông giáo cũng như bàn với tôi vậy. Cha Quỳnh ngập ngừng trong giây khắc rồi tiếp tục: – Ông giáo đây trước kia là “phụ tá tình báo chiến lược” cho ông cố vấn Ngô Đình Nhu, một “Cần lao gộc”, với thiếu tướng coi như người nhà, tôi không cần giấu giếm. Tướng Khiêm mở lời: – Dù mới lần đầu gặp được ông giáo, nhưng từ lâu tôi đã nghe anh em đề cập rất nhiều về ông giáo. Tôi vừa tường trình với cha Tổng, hôm nay tôi cùng với cha Khổng Tiến Giác tới đây, để xin một vài ý kiến về tình hình chính trị hiện thời. Hắn giả đò khiêm nhường, nhũn nhặn: – Xin thiếu tướng hãy tiếp tục câu chuyện vừa rồi với cha Tổng và cho phép tôi được nghe chung. Tướng Khiêm trực tiếp vô đề: – Vừa rồi xảy ra cuộc đảo chánh, theo tôi, không thể tránh được. Vì thân nhân cố Tổng thống Diệm đã phạm nhiều chuyện sai lầm. Tuy nhiên, một số tướng lãnh chủ mưu hạ sát Tổng thống là một sự kiện mà đồng bào cũng như QLVNCH không thể tha thứ. Dân bầu Tổng thống lên, ông là một nhà lãnh đạo liêm khiết, nhân đức, làm sao tìm được một người thứ hai thay thế ông. Do sự việc bắn chết Tổng thống mà kết quả là tình hình rối loạn như hiện nay. Những thủ phạm xuống tay hạ sát Tổng thống Diệm sợ “kẻ khuất mặt” trả thù, cũng như sợ trách nhiệm trước dư luận, nên gây ra sự chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo. Họ đang ráo riết triệt hạ những tướng lãnh chủ trương đảo chánh nhưng không chủ trương bắn Tổng thống. Tôn Thất Đính người có công đầu đảo chánh, khi nghe tin Tổng thổng bị mưu sát đã đập đầu khóc lóc giờ bị nhóm Dương Văn Minh kềm chế, tìm cơ hội loại trừ. Và tôi nắm vững tin tức họ đang dự liệu làm những việc có hại đến quốc gia và Thiên Chúa giáo. Cho nên cấp tốc đến gặp cha Tổng và ông giáo để cùng nhau tìm một giải pháp cứu nguy quốc gia và cho giáo hội chúng ta.
Hớp thêm một ngụm nước trà, có lẽ để thăm dò phản ứng từ phía những người đối thoại. Tướng Khiêm chấm dứt câu chuyện mà chưa cho thấy ý nghĩ của ông. Hắn tuôn ra những lời điêu luyện của nhà chính trị: – Nghe thiếu tướng cho biết những điều vừa rồi, tôi thấy tất cả chúng ta phải có trách nhiệm. Cha Tổng xem thiếu tướng như người trong nhà, vậy xin thiếu tướng cứ tiết lộ hết những ý định của thiếu tướng để cùng nhau tìm cách đối phó. – Tôi có bằng chứng tướng Minh hiện chuẩn bị xóa bỏ Ấp Chiến Lược để trao tất cả vùng nông thôn cho Việt Cộng quản trị, kế đến sẽ mở đường hòa giải với Bắc Việt. Trong cũng như ngoài nước, đều biết tướng Minh, tướng Đôn, tướng Kim là những người thân Pháp hoặc của Pháp. Trong khi Pháp lại chủ trương trung lập hóa Việt Nam. Đây mới là dữ kiện nguy hại cho giáo hội Thiên Chúa vì cả ba nhân vật vừa kể đều là Phật giáo, họ liên kết chặt chẽ để đưa Phật giáo lên hàng quốc giáo. (Về sau kiểm chứng lại, người ta thấy ông Khiêm vì quá muốn làm quốc trưởng VN mà đặt điều nói láo. Tài liệu CIA báo cáo năm 1965, hiện lưu trữ tại thư viện Washington D.C. cho thấy tướng “Minh lớn” không hề chủ trương đưa Phật giáo lên hàng quốc giáo, nhưng có hai điều ông Khiêm nói đúng: Do bản tánh tham quyền cố vị, thiếu hiểu biết chính trị, ông “Minh lớn” ra lệnh hủy bỏ sách lược chống Cộng hữu hiệu là Ấp Chiến Lược. Điều thứ hai, 10 giờ sáng ngày 30-4-1975 tướng Minh ra lệnh quân đội buông súng để “hòa giải” với Bắc Việt). Hắn nói: – Nếu đúng như thế tình hình sẽ diễn theo chiều bất lợi cho tiền đồ Việt Nam! Cha Quỳnh hỏi: – Thiếu tướng có thể quả quyết là họ dám thực hiện không? – Tôi xin chịu trách nhiệm với Cha những điều tôi vừa trình bày. – Còn người Mỹ thì sao? Chẳng lẽ Hoa Kỳ ngó lơ để họ làm bậy? – Thưa Cha, chính điều này khiến người Mỹ hết sức lo lắng. Cha Quỳnh băn khoăn: – Vậy mình phải có biện pháp ngăn chặn họ. Các ông đã thảo những biện pháp dự liệu nào chưa?
– Thưa Cha, tụi con quyết định lật đổ nhóm Dương Văn Minh và triệt hạ luôn cả Tôn Thất Đính. Đính dù hiện bị cánh “Minh lớn” ghét cay ghét đắng, nhưng vì ông ta hiện nắm quyền lực trong tay và hoạt đầu chính trị sẵn sàng ngả theo mọi phe nhóm miễn có quyền lợi. – Hiện giờ các ông có đủ lực lượng đảo chánh chưa? – Thưa Cha, tụi con hiện có đầy đủ quân để hạ bệ nhóm “Minh lớn”. Một vài ngày nữa, nhân viên phụ tá của con sẽ tới ra mắt Cha. Điều mà tụi con hiện cần đến là sự ủng hộ của xứ đạo Bình An và khối giáo dân. Nếu được phép, chúng con xin dựa vào uy tín của Cha. Nhưng con cũng xin bày tỏ một sự thật là tụi con rất e ngại về phía Phật giáo, là vì Phật giáo hiện kết chặt với những người đang cầm quyền. Hắn hỏi: – Ông thiếu tướng có cần tiến hành gấp lắm không? – Chúng tôi đợi kết nạp thêm một số lực lượng ở miền Tây, nhưng thời gian hành động không thể kéo dài lâu hơn. – Tôi suy luận rằng người Mỹ sẽ rất khó chịu nếu Sàigòn xảy ra thêm một cuộc đảo chánh nữa. Tướng Khiêm cười nhẹ: – Ông giáo chớ lo lắng. Chúng tôi tiến hành thầm lặng, không gây sôi động dư luận nhưng sẽ đạt mục đích. – Theo lời dạy cha Tổng, Toà Thánh Vatican ngăn cấm giáo hội liên can đến chính trị, nhưng có trách nhiệm với quốc gia, chúng tôi trên tư cách người công dân, sẽ tiếp tay thiếu tướng. Chỉ yêu cầu thiếu tướng thông báo chúng tôi kịp thời các diễn biến để chúng tôi có những hành động phối hợp yểm trợ. Khi chiếc xe thiếu tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi nhà thờ Bình An, cha Quỳnh nói với hắn: – Thầy nhận xét những lời tướng Khiêm nói có xác thực không? – Rất xác thực. Nhưng con cũng phải phối kiểm lại. Nội bộ Hội đồng quân nhân rối beng, ngờ vực lẫn nhau, đang tính kế hất cẳng nhau. Giải pháp Dương Văn Minh – Nguyễn Ngọc Thơ vừa rồi do Hoa Kỳ dựng lên chỉ là một lá bài lâm thời. Tướng Khiêm xa gần tự giới thiệu ông là người của Mỹ, nếy bây giờ Hoa Kỳ định hoán đổi con bài, thì cũng chỉ là chuyện đương nhiên. Các vị tướng trẻ không dám cãi lời “Minh lớn” nếu không có Cabot Logde đứng sau lưng “cố vấn”.
– Người cộng sự viên với ông Khiêm trong lúc này là ai? – Tướng Khiêm vẫn thường sánh đôi với tướng Thiệu. Nhưng con chưa rõ lắm, có phải ông Thiệu hay một vị tướng khác. – Suốt thời gian vừa qua, các ông “Minh lớn”, Đôn, Kim, Xuân đều tới đây chuyện trò thân mật. Bất đắc dĩ phải ủng hộ tướng Khiêm thì ta phải xử sự thế nào? – Chúng ta sẽ ủng hộ cả hai nhóm. Miễn rằng họ phải phúc trình chính xác các diễn biến để chúng ta thuận lo công việc chúng ta. Công việc xứ đạo Bình An là do Tòa Khâm sứ và Vatican quyết định. Về phía Phật giáo, chúng ta phải siết chặt sự liên minh lâu dài. Giả sử Hoa Kỳ bỏ rơi ông “Minh lớn”, thì quả thật Phật giáo chẳng gặt hái được kết quả gì sau những năm quyết tâm hạ ông Diệm. Cha Quỳnh tỏ vẻ đồng ý. Cha chụp lấy cái điếu cầy, chậm rãi thông ống điếu, nhét thuốc, mồi lửa, rít một hơi dài sảng khoái, rồi Cha mơ màng nhìn theo làn khói. Cha cằn nhằn: – Người Mỹ sao hay có tánh thay lòng đổi dạ. Chẳng bù người Pháp lại có nhiều đức tánh thủy chung. Người Pháp không bao giờ bỏ rơi Công giáo Việt Nam, thua giặc Việt Minh, nhưng họ vẫn dàn xếp đưa cả triệu người Công giáo vô Nam. Qua hai ngày sau. Lúc ấy đồng hồ chỉ 7 giờ, trời vừa tờ mờ sáng. Từ hướng Chợ Lớn, một chiếc xe Jeep sơn màu trắng chạy vào nhà thờ Bình An. Hai người mặc quân phục tươm tất, từ trên xe vội vã nhảy xuống. Người thứ nhất có vóc dáng hơi lùn và mập phì, ông đeo lon trung tướng, đầu đội chiếc mũ bê-rê màu huyết dụ dính lủng lẳng hai sợi dây đen sau ót. Khuôn mặt ông tướng quá phì nộn không hợp chút nào với “cụm” râu nhỏ và nhọn hoắt ở cằm, vểnh ngược. Bước theo sau ông là một người cao nhưng gầy, mặc quân phục đại lễ màu trắng, đeo lon đại tá. Viên trung tướng đi vội vào văn phòng, niềm nở bắt tay hắn như những người bạn thân đã quen nhau từ trước. Hắn lễ phép mời hai người ngồi xuống ghế, rồi cáo lỗi vắng mặt để đi gọi cha Quỳnh. Mới chiều hôm qua, viên đại tá gầy ốm, Albert Nguyễn Cao, lù lù xuất hiện đến nhờ hắn giàn xếp cho cuộc gặp gỡ giữa cha Quỳnh với trung tướng Nguyễn Khánh. Hắn trình Cha có khách đến thăm. Cha Quỳnh nét mặt không vui:
– Ông tướng đó không tốt đâu con. Ông ta tới tận cửa ngõ Tòa Khâm sứ, Tòa Tổng Giám mục, các Đức Cha đều lánh mặt. Hôm trước thầy Thích Tâm Châu có nói ông tướng này sẽ có ngày tới thăm mình. – Tùy Cha, Cha muốn gặp họ cứ gặp, nếu mình từ chối, vô tình sẽ chuốc thêm thù, không có lợi. Hắn bước ra trước. Khoảng 5 phút sau cha Quỳnh đi ra vui vẻ tiếp khách. Tướng Khánh tươi vui hiện rõ trên khuôn mặt. Ông không cân nhắc như tướng Khiêm, trực tiếp bàn vào nội dung không cần rào trước đón sau: – Con kính trình Cha, sau khi nghe ông Khiêm về thuật lại cuộc hội kiến với Cha hôm trước, con rất mừng. Cha đã biết rõ sự liên hệ giữa tướng Khiêm và con. Đối với Hội đồng tướng lãnh, ông Khiêm cô thân cô thế, thuở đó còn mang cấp bậc đại tá, trong khi con thì giữ nhiệm vụ quá xa. Phải chi thời gian đó con có mặt ở Saigon, thì không khi nào có việc “trò phản thầy, tớ giết chủ”. Chưa có ai thương yêu ông Minh, ông Đôn cho bằng cố Tổng thống. Nhà lãnh đạo làm sai, mình có quyền cải tổ, chớ đâu nhẫn tâm lật đổ thầy rồi giết luôn thầy. Giết thầy có khác chi con giết cha. Hôm nay con trình Cha, con xin có một ý kiến đối lập với ông Khiêm hôm trước, con yêu cầu Cha không nên ủng hộ việc ngắn hạn, mà ủng hộ việc lâu dài về sau.. Chính sách đối nội, đối ngoại, chính trị sau này đều xin Cha chỉ thị cho tụi con. Cha Quỳnh dè dặt: – Việc ngắn hạn, mình nên lo trước. Việc dài hạn, tôi khoan hứa. Nhưng lực lượng các ông có đủ chưa? – Trình Cha, lực lượng con hiện có đủ trong tay. Các ông tướng cầm quyền hiện giờ đâu có ông nào còn quân đâu. Các ông chỉ giỏi móc nối, mượn người khác làm rồi tọa hưởng một mình. Tướng tá lập được nhiều chiến công đảo chánh đã bị mấy ổng loại ra. Vì thế mấy ổng hiện tay trắng. Quân sĩ hiện thật sự dưới quyền của con và tướng Khiêm. – Vậy trung tướng còn cần chúng tôi điều chi? – Thưa Cha, tụi con có quân nhưng không có dân, mà ở miền Nam, đề cập đến dân thì phải nghĩ tới các tôn giáo. – Tôi biết trung tướng đã nhiều lần tới Tòa Khâm sứ và Tòa Tổng Giám mục. Vậy, ý kiến bề trên như thế nào? – Con yết kiến Đức Khâm sứ, Đức Tổng Giám mục có ngụ ý viếng thăm xã giao.
Cha Quỳnh hỏi tiếp: – Còn việc trung tướng tới thăm thầy Thích Tâm Châu thì ra sao? – Dạ. Thưa cha, đó cũng chỉ là xã giao. Con không dám tiết lộ những bí mật như bữa nay con trình rõ với Cha. – Tôi không hiểu tại sao các tướng Đôn, Kim, Xuân liên hiệp với Phật giáo mà còn thường xuyên lui tới Bình An làm chi? – Họ là hạng người bắt cá hai tay. Họ hiểu rõ vị thế của Cha. Chính Cha thảo ra bản tuyên ngôn ủng hộ Hội đồng tướng lãnh. Chỉ cần có Cha ủng hộ thì các tôn giáo khác cũng liên minh với Cha để ủng hộ chính phủ đó. Hắn nóng ruột biết tin tức về các biến cố đang dồn dập xảy ra tại chính trường Sàigòn. Hắn cần moi tin như người ta tham lam moi vàng bạc. Cục Chính trị bộ từng giờ đợi hắn chuyển tin ra Hà Nội. Hắn luận bàn với tướng Nguyễn Khánh để khai thác những mẩu tin quý giá: – Căn cứ theo những sự việc trung tướng vừa thông báo, chúng tôi bớt lo lắng hơn và hứa sẽ hợp tác với quý vị lâu dài về sau. Tuy nhiên, lời tướng Khiêm nói trước đây khiến cha Tổng hồi hộp không ít. Phe đối nghịch của trung tướng đông lắm. Làm sao có thể cùng một lúc triệt hạ hết được cả năm tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính? Theo thiển kiến chúng tôi, mình nên tiến hành êm ả và tỉa dần đần hay hơn. Tướng Khánh tự tin, mạnh mẽ xác định vấn đề: – Dưới hình thức đảo chánh, chúng tôi thừa sức đốn ngã các tướng Hội đồng quân nhân cùng một lúc. Kế hoạch không gây đổ máu, không có súng nổ. Hoa Kỳ đã quyết định rồi, phe Dương Văn Minh chỉ làm một việc đơn thuần là thanh toán Tổng thống Diệm. Phần vụ đến đó coi như mãn khế ước. Ông Nguyễn Ngọc Thơ là giải pháp trái độn. Chúng tôi mới thật sự được Hoa Kỳ chọn, thành lập một chính phủ có khả năng đảm đương cuộc chiến tranh chống Cộng sản. Người Mỹ đã muốn như vậy. Trước khi ra về, tướng Khánh hứa sẽ chu toàn lời giao ước. Nghĩa là sẽ cung cấp đầy đủ danh sách những người theo phe tướng Khánh, đồng thời hợp tác chặt chẽ với xứ đạo Bình An trên mọi bình diện sau khi ông nắm được ghế quốc trưởng. Đáp lại, cha Quỳnh cam kết hứa sẽ triệt để ủng hộ về mặt tinh thần cũng như lãnh vực chính trị giúp tướng Khánh hoàn thành tốt đẹp kế hoạch đảo chánh. Đường dây liên lạc với cha Quỳnh từ nhóm tướng Khánh: Đại tá Albert Nguyễn Cao phụ tá tướng Khánh, và linh mục Khổng Tiến Giác phụ tá tướng Trần Thiện Khiêm.
(Hiện giờ Tướng Khánh sống ở Hoa Kỳ. Ông đâu ngờ rằng bản danh sách các nhân vật theo ông làm “cuộc chỉnh lý” và kế hoạch bình định chiến tranh Việt Nam đã trao tận tay một gián điệp tình báo chiến lược CS Bắc Việt. Sau đó một ngày toàn bộ hồ sơ tối mật ở cấp độ thượng tầng quốc gia được “nhân viên” tòa đại sứ Ai Lao chuyển qua thủ đô Vạn Tượng, rồi từ đó hồ sơ dễ đàng đến tay viên đại sứ Cộng sản Bắc Việt tại Vương quốc Lào. Cha Quỳnh đã về nước Chúa từ lâu, chắc Cha sẽ ngậm ngùi vìsuốt cả đời gởi trọn niềm tin và ủy thác những công trình cứu nước, bảo vệ con chiên thoát khỏi ách chủ nghĩa vô thần cho một tên gián điệp Cộng sản! Và hắn có hơn 20 năm sát cánh bên Cha). Sau buổi tiếp Nguyễn Khánh, hắn phân tích tình hình. Hắn nhận thấy Hoa Kỳ đã tuyển lựa xong con bài mới để thay thế những khuôn mặt có một quá khứ “con cưng” của Pháp. Con bài mới, do Cabot Logde chấm điểm, chỉ có khả năng đảo chánh, ngoài ra không làm được gì cả. Tướng Khánh bộp chộp, nói nhiều, thích khoe khoang, lộ hẳn mưu đồ lên tận gương mặt muốn làm Tổng thống. Tướng Khiêm trầm mặc, nói ít và ít khi muốn nói, đầy ắp thủ đoạn. Bản nhận định tình hình sau đó Cụm A22 tức tốc chuyển vô Cục R. Đại tướng VC Nguyễn Chí Thanh, tổng tư lệnh lực lượng võ trang miền Nam ngồi ở trong rừng sâu, nhưng biết rành mạch cuộc đảo chánh của tướng Nguyễn Khánh từng chi tiết nhỏ. ☆ Thanh toán xong xuôi người chủ cũ, người ta trịnh trọng cho “hồi hương” những nhân vật đã có một thời oanh liệt chống đối, đảo chánh hụt, oanh tạc thả bom trên đầu Tổng thống Diệm như: Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cứ, Nguyễn Vỹ, Trần Đình Lan v.v. Để bảo vệ địa vị tân lập của mình, nhóm chỉ huy cuộc đảo chánh, phải nhường chức vụ thủ tướng cho ông Nguyễn Ngọc Thơ do Hoa Kỳ chỉ định. Những chức vụ có ăn khác, họ chia nhau thưởng thức mùi công danh của cuộc đời. “Minh lớn” tự gắn lon đại tướng, tự bỏ phiếu mình làm quốc trưởng và kiêm luôn chức chủ tịch Hội Đồng quân nhân cách mạng. Chỉ cần rút súng bắn một ông Tổng thống, tướng Dương Văn Minh thu vô một lúc ba tước vị lớn nhất Việt Nam. Trần Văn Đôn lên trung tướng, ôm chặt ghế Quốc phòng. Như mặc cả với tòa đại sứ Mỹ trước đây, tướng Tôn Thất Đính giựt ghế Nội Vụ. Mai Hữu Xuân đặc cách thăng thiếu
tướng (Ông Mai Hữu Xuân ngạch lính kín Pháp), phè phởn chức tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia kiêm Đô trưởng Sàigòn Tháng giêng, 3 giờ sáng ngày 30, bóng tối trôi quá nửa đêm, đêm đầu mùa, khô nứt đất. Trong nhà, chuông điện thoại reo bằng âm thanh cứu cấp. Tướng Trần Văn Đôn tốc mền rời khỏi giường ngủ. Viên sĩ quan tùy viên mặt mày xanh lét, tư thế nghiêm, báo cáo cho biết tư dinh hiện bị binh lính bao vây. Tướng Đôn quay điện thoại kêu người anh rể, tướng Lê Văn Kim: – Đằng anh có chuyện chi không? Nhà tôi đang bị lính bao vây. (Quân kỷ đảo lộn, tướng mà bị lính bao vây!). Tướng Kim chết điếng, hoảng hốt: – Nhà anh cũng vậy. Đám binh sĩ này lạ mặt lắm. Chú gọi Đính nhanh lên đi. Biểu Đính giải vây ngay lập tức. Mệt mỏi với canh bạc đầu hôm, giọng ngái ngủ, tướng Đính chới với: – Tụi nó tính mần chi, hề? Tui tới ngay, coi tình hình ra răng. Tướng Đôn vừa đặt ống nghe xuống thì chuông điện thoại reo liền trở lại. Tướng Nguyễn Vỹ, mới ở Pháp về, giọng run rẩy xin cầu cứu: – Nguy lắm rồi, anh Đôn ơi! Nhà tôi bị khám xét khắp nơi, họ đọat luôn vũ khí cá nhân của tôi. Kế tiếp họ bắt Trần Đình Lan đi đâu mất luôn. Đôn có cảm giác chuyện chẳng lành, vội mặc quần áo rồi ra lệnh sĩ quan tùy viên mở cửa, kêu viên chỉ huy toán lính đang bao vây vô nhà nói hỏi cho ra sự thật. Viên trung úy trình diện tướng Đôn. – Lý do gì các anh bao vây nhà tôi? – Thưa trung tướng, tôi làm theo lệnh quốc trưởng Dương Văn Minh, tới đây bảo vệ an ninh trung tướng. Tướng Đôn quay điện thoại hỏi “Minh lớn”. Giọng chán nản, mệt mỏi, tướng Minh đáp: – Cấp dưới chúng ta đang có hành động phản. Tôi sẽ bàn việc này ở Tổng hành dinh (Bộ Tổng Tham mưu). Độ 4 phút sau, tướng Đính báo tin “sạt nghiệp” cho tướng Đôn biết là Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Khánh đang đảo chánh lén tụi mình.
Tướng Đôn chưa biết tính sao thì một viên thiếu tá chỉ huy lực lượng Cảnh sát dã chiến xuất hiện trước mặt ông. Viên thiếu tá giơ tay chào, kính cẩn nói: – Lệnh chủ tịch Hội đồng quân sự chỉ thị tôi tới đây đón Trung tướng về Tổng hành dinh, mời Trung tướng lên xe ngay bây giờ. Tướng Đôn “mạt lộ”, thui thủi đi ra xe. Lúc chạy ngang biệt thự tướng “Minh lớn”, ông Đôn thấy nhà ông Minh cũng bị lính phong tỏa. Xe không hướng qua phía Bộ Tổng Tham mưu, mà chạy về trại Hoàng Hoa Thám. Xe đậu trước bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù. Ông Đôn được an ninh áp tải đến dãy nhà ngang. Bất chợt nhìn thấy tướng Xuân đang ngồi cú rũ ở đây, mặt ông Xuân tái ngắt. Ông Đôn được mời cư ngụ căn phòng kế bên tướng Xuân. Sáng ngày Mồng Một, tướng Đính, tướng Kim cũng tuần tự vô đây. Qua khe cửa, nhìn ra sân cờ, tướng Đôn nhận diện ra đại tá Nguyễn Chánh Thi. Tướng Đôn bảo lính kêu đại tá Thi vào gặp ông. Tướng Đôn chất vấn: – Đại tá có thể cho tôi biết tại sao chúng tôi bị tống giam ở đây như một tội phạm. Ông Nguyễn Chánh Thi lạnh lùng: – Tôi chỉ thi hành lệnh. Ráng đợi, lát nữa tướng Khánh sẽ tới gặp ông. Tướng Khánh không tới. Đến 2 giờ chiều ngày hôm đó, cả bốn vị tướng dồn chung xe, do ông Nguyễn Chánh Thi áp tải đưa thẳng lên Tân Sơn Nhất. Chiếc phi cơ C.47 chờ sẵn. Khi bước vô cửa phi cơ, tướng Đính hằn học cảnh cáo ông Nguyễn Chánh Thi: – Quả đất tròn nghe mi, có ngày gặp lại! Ngày 30-1-1964, Đài truyền thanh Sàigòn cho phát thanh bản tuyên cáo của ông Nguyễn Khánh, thiệt thà cắt nghĩa vì nguyên nhân nào ông phải làm cuộc “chỉnh lý” (thay thế danh từ đảo chánh): “Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số chạy theo thực đân và Cộng sản, do đó, một lần nữa quân đội phải đứng lên can thiệp…”. Lập lức Hội đồng quân nhân cách mạng quyết định giải tán Ban Chấp hành hội đồng. Hội đồng này do tướng “Minh lớn” thành lập ngày 1-11- 1963, hưởng dương tròn ba tháng chẵn. Tướng Khánh dựng lên hội đồng
mới mang danh hiệu: Hội Đồng Quân Sự Cách Mạng (Quân nhân được đổi ra quân sự) và chức chủ tịch do ông thầu khoán. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị còng tay. Lính quân cảnh dẫn ông già đi lạng choạng qua sân cờ Bộ Tổng Tham mưu. Người ta chỉ thả ông với điều kiện tự ý viết tay lá đơn xin từ chức và cho “hồi hưu” luôn Nội các của ông. Ra tới miền Trung, bốn tướng Đôn, Kim, Đính, Xuân bị quản thúc tại bãi biển Mỹ Khê. Khoảng hai tuần sau, lệnh giải giao họ vô căn cứ Hải quân, Đà Nẳng trình diện tân chủ tịch Hội đồng Quân sự Cách mạng. Tướng Khánh dành từ 30 phút tới 45 phút tiếp riêng từng người. Nhưng với tướng Đôn, ông kéo dài cuộc tiếp xúc gần 2 giờ đồng hồ. Ngồi lẫm liệt trên chiếc ghế bành, cố gắng phát âm của người đang có quyền: – Thay mặt Hội đồng Quân sự, tôi quyết định truất phế các ông và ký nghị giải ngũ luôn các ông. Các ông đã phạm trọng tội toan thực thi chánh sách trung lập, dọn đường bắt tay Việt Cộng. Tướng Đôn quyết liệt cãi lại: – Sự buộc tội hoàn toàn vô căn cứ. Xin trung tướng chủ tịch hãy đưa ra bằng chứng xác thực đi. – Nội việc đưa tướng Nguyễn Vỹ, trung tá Trần Đình Lan về nước đã là một bằng chứng đủ bỏ tù các ông. – Tôi nhận thấy đó là bản án vu khống. Đưa Vỹ, Lan về nước đâu phải là một trọng tội. – Chúng tôi đã trục xuất tướng Vỹ ra khỏi Việt Nam. Vì ông ta là người của Phòng nhì Pháp. Pháp đã nuôi ông Vỹ từ năm 1955 đến nay, trả lương rất cao cho ông ta. Ai lại không biết Pháp đang đi hàng đôi với Việt Cộng chủ trương trung lập hóa miền Nam. Trung Tá Lan cũng là nhân viên Phòng nhì. – Tôi khẳng định những lời ông chủ tịch nói hoàn toàn sai lầm. Tôi biết rõ Trần Đình Lan không có tiền. Chính gia đình tôi phải cho ông Lan vay tiền để mua quần áo mặc. Tướng Khánh nổi sùng, đứng dậy đập bàn: – Nếu không có bằng chứng thì ngụy tạo ra bằng chứng. Không có tội để nhốt các ông, thì chụp mũ các ông. Có khó gì đâu? Ông thấy Hội đồng làm như vậy được không?
Tướng Trần Văn Đôn ngẩn người, ngồi đực mặt ra đó. Tướng Khánh chửi tiếp: – Các ông cần giác ngộ, các ông phạm vào những tội tầy trời, gây phẫn nộ cho toàn dân. Quản thúc các ông, vì tôi muốn cứu mạng các ông. Nên nhớ nạn nhân các ông là ông Diệm, ông Nhu. Thực ra, ngay lúc này, muốn giết các ông, đối với tôi dễ hơn trở bàn tay. Các ông chết có oan ức gì đâu? Giết người, người bị các ông giết lại là Tổng thống, tôi thấy mạng đổi mạng là vừa, có chi đâu! Ngồi chết lặng. Một lát sau, ông Đôn mới mở miệng: – Cá nhân tôi không hề chủ trương ám sát Tổng thống. Chuyện này có nhiều bí ẩn. Nếu Hội đồng thấy tôi có những sai lầm thì xin đưa chúng tôi ra tòa xét xử, tại tòa tôi có thể trả lời chịu trách nhiệm giết Tổng thống thuộc về ai? – Cương vị Tổng thống Diệm kính trọng hơn nhiều, đã không hề được đưa ra tòa xét xử trước khi các ông hành quyết! Thì với các ông, đâu có xứng đáng để được đưa ra tòa xét xử. Ông Đôn đuối lý, cúi đầu ngồi im lặng. Nhưng tướng Khánh chưa hả cơn giận: – Cá nhân tôi, tôi không tin ông và Đính chủ trương trung lập. Nhưng Hội đồng không ưa các ông, vì các ông là những cấp chỉ huy trác táng ăn chơi, trụy lạc với gái quanh năm suốt tháng, sau hết, giết chủ! – Tôi nghĩ đời sống cá nhân tôi không liên can tới phương diện chỉ huy. – Khi người ta đã ghét thì hết thảy đều có liên can. Tướng Khánh điều tra ông Đôn về cái chết Tổng thống Diệm. Đoạn kết là những câu hỏi hạ nhục, xoáy vào đời tư ăn chơi của tướng Đôn. Tướng Đôn hiểu rõ vận mạng ông từ đây nằm trong tay tướng Khánh. 3. Đại tá AIbert Nguyễn Cao, linh mục Khổng Tiến Giác năng lui tới nhà thờ Bình An. Như vậy ông Khánh đã giữ đúng lời, cử hai người này làm đường dây liên lạc. Có nhiều vấn đề hệ trọng như thay đổi Nội các, phác họa kế sách quốc gia, ông Khánh hoặc ông Khiêm đích thân tới tham khảo
với cha Quỳnh. Tướng Khánh thích mặc quân phục, ngược lại, ông Khiêm kín đáo hơn, thích mặc thường phục. Do sơ hở của các tướng “dựa lưng” xứ đạo Bình An để cầu danh vọng, hắn càng nắm vững những tin tức quan trọng trong bộ máy chính phủ VNCH. Nhiều bản văn, tài liệu mật vô tình lọt vào tay hắn. Tướng Khánh bàn luận với hắn trên mọi vấn đề mà không có chút dè dặt. Ngấm ngầm, ông Khánh và ông Khiêm cùng thi đua chạy nước rút ngõ hầu kiếm cho ra con dấu “trước bạ” bên tòa đại sứ Hoa Kỳ. Chưa biết, vào trạm cuối, ông Cabot Logde chọn ai. Không thể kéo dài tình trạng cọp nhốt chung chuồng. Khiêm đang hườm chức chủ tịch của ông Khánh. Việc ông Khánh càn quét nhóm tướng Dương Văn Minh tạo thêm tình rối ren nội bộ, khiến cho Mỹ chậm tăng viện quân vào Việt Nam. Tình trạng hỗn độn này còn diễn ra liên tục, kẻ thủ lợi là Cộng sản Hà Nội. Lúc đó, người ta thấy ông Khánh chiếm được cảm tình của ông đại sứ Cabot Logde. Tướng Khánh vẽ lên bức họa đen tối cho ông đại sứ Mỹ: Nếu còn trọng vọng những tay chân của Pháp như các tướng Đôn, Kim, Đính, Xuân, sẽ rất nguy hiểm vì họ đang chủ tâm muốn trung lập. Chính sách trung lập sẽ bất lợi cho chiến lược chống Cộng của Mỹ ở Đông Dương. Tướng Khánh tố xả láng ông “Minh lớn”: Rằng “Minh lớn” cao ngạo, dốt học nhưng làm biếng nhớt thây và cán cân cảm tình giữa Pháp với Mỹ, lệch nghiêng về Pháp nhiều hơn. Đại sứ Mỹ nghe bùi tai, tin ông Khánh. Đặc biệt hơn nữa, tướng Khánh khoe là ông được lòng các tướng tá do ông vừa gắn lon cho họ cách đây hai tuần lễ. Danh sách các tướng trẻ do ông thăng cấp, người ta thấy có: Nguyễn Văn Thiệu, Lâm Văn Phát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Bảo Trị, Lê Nguyên Khang, Cao Văn Viên, Chung Tấn Cang… Tướng Khánh còn tiết lộ chính nhóm tướng trẻ này phò tá ông thành công cuộc “chỉnh lý” vừa qua. Sau khi thảo trừ xong nhóm địch thủ, tướng Khánh quơ sạch quyền bính vào tay ông. VNCH có bao nhiêu chức tối cao, ông nắm gọn hết: Tổng Tư lệnh quân đội, Tổng Tham mưu trưởng, Thủ tướng chính phủ. Tướng “Minh lớn” “được giữ lại bắt ngồi trên chiếc ghế quốc trưởng bù nhìn. Tướng Khánh đưa ông Nguyễn Tôn Hoàn, cầm đầu đảng Đại Việt, vừa từ Pháp về, giữ chứ phó thủ tướng. Tướng Lâm Văn Phát nắm Nội Vụ thay thế ông Tôn Thất Đính. Để củng cố thêm vi cánh, ông thu nạp nhóm tướng
trẻ vào Hội đồng Quân sự Cách mạng. Sau cùng, chỉ định tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tham mưu trưởng Liên quân. Đại sứ Cabot Logde tưởng mình đã tìm ra vật quí. Nhiều viên chức trong bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng tưởng như vây. Thượng tuần tháng 3- 1964, ông Mc Namara, bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ viếng thăm Sàigòn. Ông rất hài lòng, nên vào đoạn cuối bài diễn văn bốc thơm quá lố: “Việt Nam và nước Mỹ có thể thấy tướng Nguyễn Khánh là một lãnh tụ xuất sắc nhất thế kỷ”. Dường như quá đà cao hứng, ông Mc Namara bằng tiếng Việt Nam hô to: “Việt Nam muôn năm! Tướng Nguyễn Khánh muôn năm”. Trước đó không lâu, sau cuộc lật đổ ông Diệm, ông Mc Namara cũng tới Sàigòn, lúc gặp tướng Đôn, khi đưa tay ra bắt, ông bộ trưởng chẳng thèm nhìn mặt tướng Đôn. Dù đại sứ Cabot Logde có vận động, nhưng ông Ngô Đình Cẩn vẫn còn bị nhốt ở nhà giam Chí Hòa. Ông Khánh trước đây rất thân tín với Tổng thống Diệm, và trừng trị nhóm Dương Văn Minh chẳng qua trả thù dùm gia đình nhà Ngô. Nhưng không hiểu sao, ngày 20-4-1964, ông Ngô Đình Cẩn vẫn bị giải ra tòa. “Tòa án cách mạng” khép ông Cẩn tội cố sát có dự mưu. Người bị ông Cẩn giết là một nghi can gián điệp Việt Cộng từ năm 1960 ở miền Trung. Ông Cẩn chối mình không biết chuyện đó. Ông Cẩn nói: “Tôi quân sự không biết, hành chính không biết, học vấn tầm thường, biết chi mà ra lệnh cho ai!”. Tòa tặng bản án tử hình ông Cẩn. Bốn ngày sau, ông Ngô Đình Cẩn đệ đơn lên quốc trưởng Dương Văn Minh xin ân xá. Lúc ấy những người thân của tướng Khánh thấy ông Khánh tỏ ra bối rối. Với quyền lực trong tay, chỉ cần ông Khánh can thiệp một lời, chắc chắn ông Cẩn không bị hành quyết. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu an ủi tướng Khánh: “Trong vụ này thủ tướng cứ coi như vô can. Xử như thế nào là do tòa. Ân xá hay không là do tướng Minh trách nhiệm…”. Mười một ngày sau, ở tư cách quốc trưởng Việt Nam, tướng Minh lạnh lùng bác đơn ân xá của ông Cẩn. Ngày 9-5-1964, người em út cố Tổng thống Ngô Đình Diệm bị tiểu đội hành quyết dùng súng Carbine chế tạo tại Hoa Kỳ khạc đạn…tiễn đưa linh hồn ông theo hai người anh. Suốt ngày hôm đó, tướng Khánh uống rượu li bì, mắt lồi hẳn ra. Một ngày sau, nghe tin tướng Khánh bay ra Huế, dân chúng kéo tới bao vây dinh tỉnh trưởng, hét phản đối đả đảo tướng Khánh. Bắt buộc ông phải nhanh lên trực thăng đi khỏi Huế.
Cuối tháng 5-1964, một hội đồng cao cấp nhóm họp ở Đà Lạt do tướng Khánh chủ tọa, xét tội các tướng Đôn, Kim, Đính, Xuân. Các tướng đều bị phạm tội thiếu tác phong đạo đức, thiếu quan điểm chống Cộng, không đủ tư cách chỉ huy, và phải sống “biệt xứ” tại Đà Lạt. Ông Dương Văn Minh cũng có mặt, nhưng không thèm lên tiếng bào chữa những người từng cộng tác với mình. Ống Khánh khéo léo gây thân hữu với nhà thờ Bình An. Lâu lâu, tướng Khánh mời cha Quỳnh vào dinh Gia Long bàn tình hình chính trị, thông báo các biến chuyển của thời cuộc. Nhưng dần dần cha Quỳnh lại ghét tướng Khánh ra mặt. Cha nói: – Ông tướng này không thành thật, sáng “A-men”, chiều “Nam-mô”, lá mặt lá trái, chỉ giỏi cái mồm. Ông ta lợi dụng mình để đạt tham vọng chớ có giúp đỡ gì cho mình đâu! Cha nhìn thấy sau lần chỉnh lý, ông Khánh nuốt trọn các lời hứa, tối ngày lo o bế nhóm tướng trẻ, lại còn mời một đảng viên Đại Việt mà cha Quỳnh vốn ghét từ lâu, làm phó thủ tướng, phía Công giáo cũng như Phật giáo không nhờ vả được gì ở ông Khánh. Khi nghe tin ông Cẩn bị xử bắn, Cha càng giận tướng Khánh: – Tướng Khánh đúng là kẻ bất nghĩa. Ông ngồi phủ thủ tướng mà đành đoạn để người ta giết ông Cẩn. Hắn bàn luận thêm: – Con biết ông Cẩn không thể sống từ khi đại sứ Cabot Logde trao ông Cẩn lại Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Nếu đại sứ Mỹ để ông Cẩn sống thì phát súng giết ông Diệm, ông Nhu là sai sao? Trong cơn tức giận, cha Hoàng Quỳnh phát động những việc làm lầm lẫn tai hại. Cha không ngờ Cha đi bàn kế hoạch sau đây với gián điệp Cộng sản: – Không lẽ giáo dân chúng ta cứ ngồi ngó họ tàn sát con chiên. Tập trung hết các giáo dân di cư ở Sàigòn, ở Biên Hòa (Hố Nai) lại, bảo các cha cố dẫn đầu, kéo đến tòa đại sứ Mỹ phản đối. – Thưa cha, trước sau con thấy cần phải làm. – Làm ngay bây giờ. Quyết định của cha Quỳnh được các xứ đạo khác nồng nhiệt hưởng ứng.