The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập
Cụm A22
Lái Buôn Tổng Thống
Trần Trung Quân

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2023-03-02 22:48:41

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập Cụm A22 Lái Buôn Tổng Thống Trần Trung Quân

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập
Cụm A22
Lái Buôn Tổng Thống
Trần Trung Quân

Cuộc biểu tình “cảnh cáo” đại sứ Cabot Logde diễn ra vào ngày 7-6- 1964. Ban chỉ đạo cuộc biểu tình đặt trong khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ, cầm đầu do các cha Quỳnh, cha Mai Ngọc Khuê, cha Hoàng Trung, phó chỉ huy Tổng bộ Tự vệ Phát Diệm Trần Thiện và hắn. Khoảng 15 ngàn giáo dân ùn ùn kéo tới công trường Lam Sơn tập trung trước trụ sở Hạ Nghị Viện. Mỗi xứ đạo dưới sự hướng dẫn của các cha, sắp hàng chỉnh tề, nhiều người lén mang theo vũ khí và gậy gộc, chĩa ba, chai lọ, gạch đá. Đoàn biểu tình giựt sập bức tượng Tổng thống Kennedy. Tiếng la hét vang lừng. Họ đòi phải ngưng ngay vụ hành quyết ông Ngô Đình Cẩn, phản đối những vụ trả thù Công giáo như ở Phước Tuy, Thanh Bồ, Đức Lợi, Phú Cam… Họ giơ cao khẩu hiệu bằng tiếng Anh: Cabot Logde go home! Sau cuộc biểu tình, cha Quỳnh thành lập “Ủy ban Công giáo tranh đấu vãn hồi tình hình”. Ủy ban công khai góp mặt vào trung tuần tháng 6- 1964. Quí cha trong Ủy ban bầu cha Quỳnh giữ chủ tịch. Đức Khâm sứ Tòa thánh Tòa Tổng giám mục tỏ dấu hiệu e ngại. Mấy ngày sau Cha đổi tên thành “Ủy ban Trung ương Công giáo đại đoàn kết”. Đầu tháng 7-1964, hắn tháp tùng với cha Quỳnh thăm viếng các xứ đạo ngoài Trung và miền Tây. Từ lâu hắn ẩn mặt, nay hắn nhận thấy đã đến lúc công khai ra mặt, tạo cho các quan sát viên chính trị và báo chí Sàigòn quen tên tuổi hắn để chuẩn bị xâm nhập sâu vào guồng máy chính phủ VNCH. Giữa tháng 8-1964, trên 40 ngàn người biểu tình bao vây dinh Gia Long đòi tướng Nguyễn Khánh từ chức. Cha Quỳnh hiệu triệu cha Mai Ngọc Khuê huy động giáo dân khu Tân Sa Châu xuống đường đả đảo đại sứ Cobot Logde. Cha Khuê trình bày: – Kỳ này không cần đông người. Chỉ cần một số ít nhưng có kỷ luật, rồi đưa giáo dân tiến thẳng vào Bộ Tổng Tham mưu, kế đến đòi Cabot Logde phải trả tự do những giáo dân bị bắt trái phép sau cuộc đảo chánh. Cha Quỳnh thảo luận kỹ chiến thuật: – Xung phong vô Bộ Tổng Tham mưu thì phải có sách lược cẩn thận, không nên để bọn họ lấy cớ bắn khói cay giải tán. Và khẩu hiểu biểu tình lần nầy như vầy: 1- Cabot Logde go home!


2- Ủng hộ đại tướng Nguyễn Khánh! 3- Đả đảo Dương Văn Minh! Ủng hộ Khánh để lính nó làm ngơ. Chỉa mũi nhọn vào Dương Văn Minh vì Minh đang giao Vũ Văn Mẫu nhiệm vụ liên kết với khối Phật giáo Ấn Quang. Ngày 26-8-1964, trên 3 ngàn giáo dân dưới sự lãnh đạo của cha Mai Ngọc Khuê, biểu tình mang gậy gộc, chĩa sắt “tấn công” thẳng vào vùng cấm địa Bộ Tổng Tham mưu. Sự thật, bao nhiêu cuộc biểu tình vừa qua, Cảnh sát, nhân viên an ninh không dám xúc phạm tới. Nhưng lần này, các cha tấn công Bộ Tổng Tham mưu, cơ quan đầu não của QĐVNCH, xem thường tinh thần tôn trọng luật pháp. Đại đội Tổng hành dinh phản ứng tự nhiên, ra lệnh nổ súng. Khẩu đại liên đặt ở Cổng số 1 nhả đạn trong cơn hốt hoảng. Kiểm kê lại, 6 người chết, 53 người bị thương nặng. Sự việc xảy ra hết sức bất ngờ. Nhận được tin, cha Quỳnh lên cơn sốt nóng lạnh. Cha sợ rồi đây Toà Khâm sứ sẽ khiển trách cha. Nên cha lánh mặt, bảo hắn lên Đức Khâm sứ dò xét thình hình. Tướng Thiệu gọi điện thoại báo tin. Tướng Nguyễn Khánh đập bàn la hét, kết án cha Quỳnh là Việt Cộng di cư. Chưa dịu cơn giận, ông Khánh kêu điện thoại quở trách cha Quỳnh: – Thưa Cha, Cha làm vậy con không nể nữa. Cha Quỳnh bào chữa: – Tôi ủng hộ đại tướng mà. Tướng Khánh vốn ăn nói ngang tàng và lỗ mãng mỗi khi giận: – Thưa Cha, lần sau Cha còn tái diễn, xúi giáo dân chiếm Bộ Tổng Tham mưu, con sẽ ra lệnh quét sạch, kể cả Cha, con cũng nổ súng luôn nữa. Cha muốn biểu tình bất cứ ở đâu, vô thẳng dinh Gia Long cũng được. Khu vực Bộ Tổng Tham mưu xin Cha đừng có ngây thơ khiêu khích chánh quyền bằng cách sỉ nhục quân đội. Không cần đợi cha Quyền trả lời, ông Nguyễn Khánh cúp ngang điện thoại. Kể từ đó tư thù giữa hai người không còn cơ hội hàn gắn. ☆ Quen với Sàigòn oi ả, nóng bức, ồn ào, ngộp mùi khói xăng, với cảnh đời bon chen vật chất, mưu toan lừa đảo, cuộc sống luôn luôn ở vị trí “động”, tinh thần căng thẳng. Chỉ hơn tiếng đồng hồ ngồi máy bay lên


đây, hắn ngơ ngác như lạc vào thế giới thần tiên, thơ mộng, tĩnh mịch. Đà Lạt duyên dáng hiện ra giữa núi rừng cao nguyên trùng điệp. Khí trời tươi mát, ngát mùi thơm của vạn loài hoa đồng cỏ dại. Mùi thơm đồi thông, mùi thơm đất cao nguyên. Đồi nối tiếp đồi, đường trải nhựa uốn quanh co như con suối. Mỗi biệt thự có một nét kiến trúc riêng, ẩn dưới lùm cây xanh rậm, vuờn hoa nở bát ngát muôn màu. Đà Lạt, đất thánh cho những cuộc tình mới gặp, cho những người yêu mới yêu và đời đời tô hạnh phúc cho những ai đặt chân “hành hương” đến Đà Lạt. Ra khỏi phi trường Liên Khương, cha Quỳnh xoay qua hỏi hắn: – Khó kiếm nhỉ! Dinh số 2 nằm ở đâu? Thầy từng tới Đà Lạt chưa? – Dạ chưa, đây là lần đầu tiên. Xe vào thành phố cha Quỳnh đưa ngón tay, trỏ về phía hồ: – Đây là Hồ Xuân Hương. Mình nghỉ ở gần đây. Tiện dịp, tôi muốn thầy thăm thắng cảnh chợ Đà Lạt, đợi sáng mai mình vô gặp họ cũng được. Cảnh vật ở đây thơ mộng, con người ở đây hiền hòa. Họ sống riêng một thế giới, hình như không liên hệ gì tới những cuộc biến động ở Sàigòn. – Lạy Cha. Một người đàn bà xinh xắn, rất trẻ, xuất hiện trước mặt cha Quỳnh. Cha bỡ ngỡ nhìn thiếu phụ rồi đáp: – Chào bà. – Đã lâu lắm rồi con chưa được gặp Cha. Cha quên con rồi sao? Con là vợ anh Trần Kim Tuyến, thưa Cha. – Ồ, con đây à. – Cha lên Đà Lạt bao lâu rồi, thưa Cha? – Cha mới tới khoảng 30 phút đây thôi. Cha giới thiệu: – Đây, giáo sư Hoàng Đức Nhã, thầy là phụ tá Cha. Bà Trần Kim Tuyến lễ phép chào hắn. Bà nói: – Đã từ lâu con biết tiếng giáo sư, nhưng chưa biết mặt. Giáo sư còn có cái tên nữa là ông Hoàng Long, phụ tá Đức cha Từ và bí thư cho ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Cha vui hắn lên: – Té ra biết nhau cả. Sao lâu lắm anh Tuyến không tới thăm cha? Anh ấy còn ở Sàigòn hay đã lên đây?


(Ông Tuyến rời VN đi công cán bên Do Thái trước ngày đảo chánh. Ông trở về Sàigòn sống ẩn dật một thời gian. Không lâu sau đó, ông qua Anh quốc lưu vong cho tới ngày nay) – Ngày mốt nhà con sẽ lên. Nhà con từ Hồng Kông về VN khoảng tháng nay. Khi nhà con lên, chúng con sẽ thăm Cha. Cha hiện ở đâu. – Ông Khánh giận Cha một lúc rồi lại mời Cha lên đây bàn luận công việc. Cha tính sáng mai mới vô đó. Còn bây giờ Cha chưa biết ở đâu. – Nếu Cha cho phép, con xin mời Cha và giáo sư về chỗ con, ở khách sạn Palace. Thấy Cha chưa dứt khoát, bà Tuyến ần cần mời cha. Cuối cùng Cha nhận lời. Giờ chót Cha đổi ý kiến. Cha bảo hắn tháp tùng Cha đến gặp ông Khánh ngay buổi chiều hôm đó. Qua buổi nói chuyện, bà Trần Kim Tuyến kể lại cho Cha biết hiện các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, đang bị quản thúc ở thị xã này. Nếu hai ông Đôn, Kim nghe tin tìm cách thăm Cha, thì Cha khó ăn nói với họ. Hồi trước Cha bao nhiêu lần giúp họ, ngày nay lại ủng hộ tướng Khánh. Hai ông Đôn, Kim mặc đầu không phải tín đồ Thiên Chúa, nhưng so với ông Khánh họ có tư cách hơn nhiều. Việc Khánh nổi nóng gây gổ với cha Quỳnh sau vụ giáo dân bạo động Bộ Tổng Tham mưu đã làm cho ông bối rối. Nay trên cương vị chủ tịch Hội đồng Quân sự cách mạng và thủ tướng, ông Khánh mời Cha và hắn lên đây trước để xin lỗi, sau tỏ thiện chí hòa giải, khiến Cha khó từ chối. Cha Quỳnh đi xe ngựa đến dinh số 2. Ra tận ngõ đón cha Quỳnh là đại tá Albert Nguyễn Cao. Tướng Khánh lăng xăng: – Lạ kìa, sao Cha và ông giáo không kêu điện thoại để ông Cao đi đón? Cha còn giận ông Khánh: – Thủ tướng lu bu công việc, mình tránh làm phiền thủ tướng vậy mà. Ông Khánh trịnh trọng rót rượu mời Cha và hắn, rồi biểu lộ sự khiêm nhượng thật lễ phép trước khi “khai mạc” vấn đề: – Mấy tháng nay, sau khi nắm vững quyền chỉ huy quốc gia, con ra lệnh cảnh sát, an ninh quân đội tuyệt đối không vi phạm quyền dân chủ của đồng bào. Riêng vụ biểu tình ở Bộ Tổng Tham mưu vừa rồi thật quá đáng tiếc. Hôm nay con mời Cha và ông giáo đây để con đích thân xin lỗi. Mong Cha tha thứ cho con.


Cha Quỳnh còn ấm ức tướng Khánh: – Các ông sao vụng về thật đáng trách. Dân xuống đường là đả đảo ông Minh, nhằm “cảnh giác” khối Phật giáo Ấn Quang lấn hiếp mấy ông tướng trẻ. Dân dọa đuổi Cabot Logde có mục đích bắt buộc Mỹ phải nể nang mấy ông. Người ta hoan hô mình mà lại xả súng bắn loạn người ta. Coi sao cho được? Đối với cha Quỳnh, tướng Khánh là anh võ biền, quê mùa và có “chất cải lương”, tự kiêu, nghênh ngang tới gặp Cha mưu đồ danh vọng. Nhưng Cha quên mất, giờ đây Khánh đang là lãnh tụ, chỉ huy toàn bộ chính phủ VNCH, thường tuôn lời mạt sát các tướng trẻ trong tư dinh của ông ta. Hắn quan sát, thấy tướng Khánh giận tím mặt, hai lỗ tai đỏ bầm. Hắn lên tiếng vuốt ông Khánh: – Xin thủ tướng thông cảm. Cha là người nổi tiếng bộc trực, có sao nói vậy. Cha xem thủ tướng như người nhà nên mới mạnh lời như vậy. Xưa kia cũng thế, Cha rất mến tướng Nguyễn Văn Xuân, khi bàn luận với thủ tướng Xuân, Cha cũng thường có những lời bộc trực như vậy. Cha đến đây, chắc thủ tướng đã hiểu rõ thiện chí của Cha, Cha ao ước dàn xếp sao cho êm đẹp đôi bên không để cho CIA xen vào nội bộ VN, rồi chuyện lôi thôi như Phật giáo chống ông Diệm trước đây. Hắn cố tình nhắc tới trung tướng Nguyễn Văn Xuân. Bởi vì thời đó, tướng Khánh chỉ mới mang cấp bậc thiếu úy làm sĩ quan tùy viên cho tướng Xuân, ngầm lưu ý ông Khánh hãy kính trọng tuổi tác, uy tín của cha Quỳnh đã có từ thời bậc thầy ông Khánh ra nắm chánh quyền. Ông Khánh cố dằn tự ái, gượng cười như biết lỗi với Cha: – Đã xem như người nhà, nên chúng ta hãy đóng cửa dạy nhau. Cha muốn con giải quyết như thế nào, con làm theo ý Cha. Cha Quỳnh ra điều kiện: – Giết người đến mạng. Quân đội phải xin lỗi giáo dân. Truy tố những binh sĩ nổ súng ra tòa. Chính phủ phải bồi thường nhân mạng cho mỗi gia đình có người bị tử nạn 5 triệu đồng….Giáo dân cương quyết không nhượng bộ đâu. Cái đà này, Mỹ tiếp tục đưa sang đây những viên đại sứ trực thuộc Thiên Chúa giáo Hoa Kỳ, cố ý sát hại Thiên Chúa giáo Việt Nam trực thuộc Tòa thánh Vatican thì hai triệu giáo dân sẽ không để cho Hoa Kỳ yên…


Tướng Khánh biết là khó điều đình với Cha. Ông gật đầu ưng thuận tất cả điều kiện của Cha. Nhưng chỉ xin cho một thời gian rộng rãi để thiết lập thủ tục bồi thường và giải quyết các vấn đề bất đồng quan điểm lãnh đạo VN. Hắn nhìn thấy, thêm một lần nữa, tướng Khánh và Cha sẽ đi tới chỗ đoạn tuyệt luôn mọi hàn gắn. Điều lo ngại kế tiếp, tướng Khánh sẽ ngã theo Phật giáo khi phía Công giáo có thành kiến với ông ta. Lúc ra về, khi tới cửa, hắn nói nhỏ với tướng Khánh: – Cha đã có tuổi, lúc nóng giận Cha không kềm được. Cha ghét ông Minh và Cabot Logde, với thủ tướng lúc nào Cha cũng quý mến. Thủ tướng đừng bận tâm, tôi sẽ thu xếp êm đẹp với Cha. Tương lai, có những việc cần đến nhà thờ Bình An, xin thủ tướng cử người liên lạc với tôi trước, tôi nghĩ mình sẽ tránh được những hiểu lầm và gây nên sự xung đột như thời gian vừa qua. Advertisements REPORT THIS AD Tướng Khánh vui vẻ ngay: – Nhờ ông giáo giúp tôi. Như anh hiểu, tôi thật tình hiện có nhiều chuyện phải lo lắng… Có lẽ Cabot Logde sắp mãn nhiệm kỳ tại Việt Nam. – Nhưng ai thay thế ông ấy? (Câu hỏi nhà nghề của một gián điệp: đúng lúc, hợp thời và hợp với lòng người thoại). – Maxwell Taylor. – Ông ta là một tướng lãnh? – Việt Nam đang có giặc xâm lăng Cộng sản . Hợp tác với một ông đại sứ gốc nhà binh nhiều khi lại dễ thông cảm hơn. 4. Thượng tuần tháng 8, bất thình lình tướng Trần Thiện Khiêm tìm tới xứ đạo Bình An, như những cuộc tiếp khách gần đây, hắn thay mặt cha Quỳnh trực tiếp bàn luận mọi vấn đề. Hắn nâng ly rượu lễ mời tướng Khiêm, kiếm cách khai thác tin tức từ phía các tướng lãnh: – Mỗi lần lên vấn an Đức Khâm sứ, ngài thường hỏi về sinh hoạt các tướng lãnh. Ngài rất lo ngại, tình hình kéo dài đã quá lâu mà chưa ổn định được.


Tướng Khiêm có vẻ buồn: – Tôi cũng lo đến mất ăn mất ngủ. Trong hoàn cảnh hiện tại, Cộng sản là kẻ được lợi nhất. – Ông Khánh ôm đồm từng ấy chức, làm sao ông cáng đáng cho nổi? – Ôm nhiều chức mà lại bất tài! Đâu hẳn chỉ có giáo dân chán ông Khánh, dân Huế căm thù vụ hành quyết ông Ngô Đình Cẩn ngày thêm bộc phát mạnh ở miền Trung. Bất nhân hơn nữa, muốn hất ông Thơ để đoạt luôn chức thủ tướng, cứ nói thẳng, cần gì mà phải trói ông già áp tải vô Tổng Tham mưu nạt nộ biểu ông Thơ “nạp đơn” từ chức. Tham gia đảo chánh chậm nhất là ông Khánh, nhưng đòi thăng thưởng thì không ai lì lợm bằng ông ta. Từ Nha Trang chạy về Sàigòn , ông vô thẳng tư dinh ông Nguyễn Ngọc Thơ thiếu điều muốn quỳ lạy xin ông Thơ ký cho một nghị định thăng tướng, ông chạy ra chợ mua lon, rồi nửa đêm tới nhà riêng ông Thơ biểu gắn lon đại cho mình trong lúc ông Thơ chưa kịp mặc quần áo. Nhưng giờ chót lại sỉ nhục ông Thơ như vậy. – Lỗi ở người Mỹ đặt hết niềm tin nơi ông Khánh. Dù hơi muộn, nhưng họ đã phát hiện ra chân tướng ông Khánh rồi. – Anh tin là có sao? – Tôi biết rõ thái độ ông đại sứ Taylor đối với ông Khánh hiện nay. – Tôi nghĩ nếu không nhanh chóng cải tổ chính phủ nền an ninh quốc gia thêm phần suy sụp. Ở Đà Lạt mới đây cha Tổng xung đột với tướng Khánh giữa cuộc họp. – Tôi có tin sau đó, tướng Khánh dứt khoát ly khai Công giáo, chạy qua liên minh với các thầy bên Phật giáo. – Nếu quả thật vậy, ông Khánh bị thiệt thòi, chớ người Công giáo không mất mát gì. Mới có hớp rượu thứ ba, mặt ông Khiêm đỏ hồng lên. Đặt ly rượu lễ xuống bàn, tướng Khiêm mạnh dạn nêu lên những điều ông muốn nhờ cha Quỳnh và hắn yểm trợ: – Đối với Cha và anh, tôi không giấu điều gì. Tôi không phải “típ” người sáng “‘A-men” chiều “Nam mô”, bắt cá hai tay. Tôi xác định thế đứng chính trị của những ai muốn lãnh đạo miền Nam, bắt buộc phải tìm điểm tựa nơi Công giáo. Cuộc chỉnh lý vừa qua, do tôi chủ động với ý định xây dựng, nhưng ông Khánh đã làm hư. Bây giờ, buộc lòng tôi phải


làm lại dù có máu đổ. Không như lần trước, đảo chánh sắp tới, tôi yêu cầu Cha và anh trực tiếp tham dự với chúng tôi. – Vấn đề ông vừa đề cập, theo tôi, chắc sẽ quá đột ngột đối với Cha. Đề nghị Cha trực tiếp tham gia đảo chánh, tham gia chính phủ, thật là quá sức của chúng tôi. – Tôi đã đắn đo cân nhắc rất nhiều, anh giáo chớ ngại. Anh tham gia chính quyền sẽ có lợi cho chính phủ trong tương lai hơn là đứng ngoài cố vấn. Anh có kinh nghiệm chính sách quốc gia, từng phục vụ trong quân đội Cộng sản, sau đó lại gia nhập quân đội Pháp. Khía cạnh quân sự, anh thừa khả năng điều khiển. Lãnh vực chính trị, anh hiểu Cộng sản nhiều hơn chúng tôi vì anh trước kia là đảng viên của bọn chúng, bao năm phụ tá cho ông Ngô Đình Nhu, ngoài ra anh còn có được cái thế phụ tá cho Cha xứ đạo Bình An. Hắn lựa lời thoái thác. Nhiệm vụ chính của hắn là gián điệp Cộng sản, chớ không được phép lộ diện hoạt động như một chính khách, để cuối cùng tham gia chính quyền: – Hồi còn phục vụ ở các chiến khu vùng Việt Bắc, tôi là một đảng viên cấp huyện, rất nhỏ và trong quân đội Pháp tôi chỉ là thông dịch viên. Đâu có kinh nghiệm gì như trung tướng khen tặng. Tuy nhiên, tôi xin chia xẻ sự lo lắng của trung tướng. Cường độ chiến sự hiện nay gia tăng ngoài sự ước lượng của Hoa Kỳ. Trong khi nền chính trị VNCH không có chiều hướng sáng sủa như mọi người mong đợi. Trung tướng vui lòng để cho tôi đứng ngoài chánh quyền, qua cương vị độc lập, tôi giúp trung tướng đắc lực hơn. – Tôi đồng ý sự nhận định đúng mức của anh. Bắc Việt đang xua quân ồ ạt xâm nhập miền Nam. Nhưng chắc chắn họ sẽ thua VNCH tương tự như Bắc Hàn thua trận Nam Hàn năm 1951. Bởi vì chúng ta có Hoa Kỳ sát cánh chiến đấu với VNCH. Người Mỹ không bao giờ có ý nghĩ bỏ rơi miền Nam. Tổng thống Mỹ đã cam kết. Quốc hội Mỹ đã cam kết. Bằng chứng này cho thấy sự định lượng của tôi sẽ không sai. Không bao lâu nữa, Hoa Kỳ sẽ viện trợ vũ khí tối tân cho chúng ta và tăng viện quân vào VN. – Tôi tôn trọng ý kiến trung tướng. Nhưng tôi xin khai triển thêm vấn đề “đồng minh”. Người Mỹ giúp VN theo kế hoạch hạn chế chiến tranh, giới hạn xử đụng vũ khí và có chiến lược đoản kỳ. Chiến tranh VN là bản


đồ biểu để “mặc cả” thế lực toàn cầu với người Nga. Chiến đấu vì “mặc cả”, nó không liên hệ đến sự chiến đấu sống còn của một dân tộc. Một khi Nga-Mỹ chớp được cơ hội trả giá thì các cuộc chiến tranh xảy ra ở mọi nơi ,ở mọi thời phải lập tức ngưng tiếng súng. Thắng bại không phải vấn đề đặt ra. Vấn đề là đạt mục đích. Mỹ có được cái gì? Nga có được cái gì? Đó là mục đích. Tại sao VNCH cứ tuyên truyền che đậy sự thật? Sự thật Hoa Kỳ không muốn miền Nam thắng cuộc chiến tự vệ này? (Ý tưởng bén nhạy của hắn đã được đúc kết thành một bản nhận định tình hình chính trị VNCH và đánh giá chính xác chiến lược Hoa Kỳ tham chiến tại VN có tính cách “đoản kỳ”. Năm 1971, Bộ Chính trị Hà Nội xét lại toàn diện kế hoạch chiếm miền Nam do sự rút tỉa từ bản nhận định của hắn. Đảng CSVN nắm vững ý muốn Hoa Kỳ là không chịu ở lại VN lâu dài hơn nữa, họ liền tấn công miền Nam theo ba đồ án: – Quân sự đánh toàn diện (chiến sự mùa hè 1972), – Chính trị: thương thuyết cù nhầy và nỗ lực cho dư luận Hoa Kỳ thấy rõ chiến tranh VN sẽ tiếp diễn với thời hạn “trường kỳ”. – Đến năm 1973, Hà Nội thấy trước Mỹ sẽ bỏ rơi VNCH, họ lập tức đánh mạnh “chiến tranh tuyên truyền”. Tuyên truyền giỏi, thắng trận nhanh hơn biện pháp quân sự) Ông Khiêm gật gù, có vẻ cho sự phân tích của hắn có phần đúng. Tướng Khiêm cùng hắn nốc cạn ly rượu. Hắn nói: – Tôi cám ơn trung tướng dành cho tôi khá nhiều cảm tình. Là con chiên, tôi đã phó thác linh hồn lẫn xác cho Chúa. Trước kia do hoàn cảnh chiến tranh Việt Pháp, tôi có phục vụ một vài năm trong hàng ngũ “Việt Minh”. Tuy nhiên, trong lòng tôi không bao giờ muốn cảnh người Việt Nam giết nhau. Tâm niệm tôi hiện nay, tha thiết học giáo lý, nghiên cứu thần học và hoạt động xã hội. Nhưng tôi vẫn giúp trung tướng trên tư cách con dân nước Việt. Tôi sẽ phúc trình lên Đức Khâm sứ để gây thiện cảm cho trung tướng đối với ngài. Tướng Khiêm vui vẻ cáo biệt ra về. Những ngày kế tiếp, các ông Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Chiểu hàng ngày đến chầu chực ở xứ đạo Bình An. Họ dùng những lời lẽ ngọt ngào chinh phục cha Quỳnh. Quanh đi quẩn lại cũng không thoát ra ngoài âm mưu giựt sập ông Khánh. Hắn thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho cha Quỳnh nghe. Cha nhăn mặt, chưa nguôi cơn giận:


– Ủng hộ họ kéo ông Khánh xuống, Cha thấy nên làm lắm. Hắn “cố vấn” cha Quỳnh: – Con đề nghị, bề ngoài Cha cứ tiếp tục giữ hòa khí với ông Khánh. Ông ta còn nắm quyền, mình không nên gây hấn, có thể bất lợi cho giáo dân. Trường hợp ông Khánh ngấm ngầm chạy theo các thầy, thì chúng ta hợp tác với các thầy chặt chẽ thêm, kêu gọi Công giáo lẫn Phật giáo đoàn kết chống ông Khánh độc tài. Phật giáo họ rất sáng suốt không dễ gì để ông Khánh lợi dụng. Hắn yêu cầu tướng Phạm Xuân Chiểu đứng trung gian trình lại với ông Khánh, rằng vụ giáo dân biểu tình ở Tổng Tham mưu đã dàn xếp xong xuôi rồi, nên rất cần ông Khánh giữ lời hứa bồi thường cho những gia đình nạn nhân. Cuối tháng 9-1964, toán giao liên Cục R. chuyển mệnh lệnh “thượng cấp”, chỉ đạo hắn trong tình thế rối ren hiện giờ, nhiệm vụ là cố gắng phát triển uy tín và bình phong của hắn, cấm triệt để không được phép len lỏi xâm nhập vào bộ máy cầm quyền VNCH trong lúc này. Đồng thời chỉ thị cung cấp càng sớm càng tốt về những tin mật có liên quan đến chương trình quân Mỹ đổ thêm vào VN, kế hoạch bình định nông thôn và bám sát xem ông Khánh có ý định tái xây dựng lại ấp Chiến lược không? Lấy hồ sơ “kế hoạch bình định” ở Nha Bình Định rất khó khăn. Trong cơ quan này, hắn chưa có liên lạc viên xâm nhập. Hắn hối tiếc, phải chi Cục R chỉ thị sớm hơn một chút, hắn sẽ xin ông Khiêm một bản sao kế hoạch bình định nông thôn và viện cớ, hắn cần biết rõ tình hình thôn ấp miền quê. (Kế hoạch Bình định do Mỹ và VNCH phối hợp hoạt động trong hai năm). Cơ hội tốt đã mất. Hắn liền nghĩ đến tên Hoè. Hắn hẹn Hòe trong lúc rước lễ trong nhà thờ Đức Bà. Hắn mừng rỡ thông báo cho Hòe biết là “A” đã chấp thuận kết nạp Hòe vào lưới hoạt đồng của hắn. (“A” là mật hiệu của Trung Ương Điệp Báo Miền. TUĐBM trực thuộc Trung Ương Tình Báo Bắc Việt. “A” hoạt động bao trùm các ngành: thám sát, thám báo, kiếm tin, theo dõi, hoạt động trên mọi lãnh vực ở Miền Nam. CA22 tức Cụm A22 trực thuộc Chính trị bộ, hoạt động độc lập, nhận lệnh trực tiếp Bí thư đoàn không cần đi qua hệ thống Trung ương Đảng hoặc cơ quan chính phủ. Cụm A22 đơn thuần công tác trên lãnh vực tình báo chiến lược. Nhân viên không cần lưu ý đến kế hoạch quân sự, mà chỉ cần


theo dõi các chiến lược của địch lúc còn mới phôi thai trong Phủ Tổng thống hoặc Phủ thủ tướng. Từ Cụm A23 trở lên Cụm A27 đặc trách công tác tình báo chính trị, chiến lược quốc tế, nhân viên phục vụ thường là cán bộ cấp đại sứ. Nhưng vì đường liên lạc bế tắc, bộ chỉ huy A đặt cạnh Cục R. có bổn phận chuyển lệnh từ Chính trị bộ vào Nam cho Cụm A22.) Lần thứ nhất, hắn tiết lộ tông tích của hắn. Hắn cho biết, hắn là trưởng lưới phân công tiếp thu Hòe (Hắn nói sai. Trưởng Cụm A22 từ tháng 11- 1963 đến 3-1965 là “đồng chí” Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt). Sự thực, Hòe đã trải qua cơn thử thách “lòng dạ” đúng 5 năm trước khi hắn chấp nhận thu nạp Hòe. Thời kỳ “cảm tình viên” Hòe đã công tác đắc lực, chứng minh nhiều công tác nguy hiểm để trung thành với Đảng dù rằng chưa được chính thức thu nhận. Từ lâu, hắn đặt câu hỏi, Hòe là công chức ngạch hạng A của Bộ Canh Nông VNCH, em ruột một vị tướng đang có quyền trong chính phủ ông Khánh, thế tại sao lại có tâm hồn Cộng sản? Sao lại thiết tha từ bỏ địa vị, cuộc sống giàu sang mà lao đầu vào chốn hiểm nguy làm việc cho hắn? Thật ra, Hòe theo CS hoàn toàn xuất phát từ động lực tư thù. Hòe học bên Pháp, về nước năm 1958, được chính phủ sủng ái vì hắn có bằng kỹ sư canh nông. Hòe người mực thước, gương mẫu, một loại công chức “vì việc công hơn việc tư”, điển hình của chế độ. Vợ Hòe, hoa khôi trường nữ sinh Gia Long. Thành hôn do nghi lễ môn đăng hộ đối quyết định. Khi về sống chung, Hòe yêu vợ mà vợ không yêu Hòe. Đau hơn nữa, vợ Hòe lại yêu tha thiết ông phụ tá Tổng trưởng Canh nông, xếp trực tiếp của Hòe. Ông xếp mất dạy lấy vợ thuộc hạ còn đì thuộc hạ một cách bất nhân. Hoè hận. Hòe nuôi mối tư thù bằng quan niệm VNCH là một chế độ khốn kiếp. Vũ khí CS là phương tiện thanh toán tư thù hiệu quả nhất. Hòe theo giặc cũng vì “hận đời đen bạc”. Hòe sốt sắng nhận công tác. Nhờ địa vị gia đình, hắn quen biết rất nhiều nhân vật quân sự cũng như dân sự có thẩm quyền trong chính phủ. Độ một tuần sau, Hòe ghi thành tích, phúc trình lên hắn: – Bản sao kế hoạch bình định nông thôn đã có rồi. – Hiện giữ ở đâu? – Ở nhà ông Bửu Chương. – Mình sẽ chuyển về “A” đêm nay. Rồi trả ơn Bửu Chương bằng cách nào?


– Ông ấy nhờ mình, nếu ông Khiêm lên thủ tướng, thì mình đừng quên tặng ông một ghế bộ trưởng hoặc thứ trưởng. Để đi đến một thỏa hiệp chia quyền hưởng chung với nhau, người ta vẽ lên một mô hình gọi là tam đầu chế. Ngày 9-7, tướng Nguyễn Khánh tự giác ngộ rút lui khỏi các chức: Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, thủ tướng, tổng tư lệnh quân đội. Một ủy ban cầm vận nước gồm ba ông lính: Đại tướng Dương Văn Minh, đại tướng Nguyễn Khánh và đại tướng Trần Thiện Khiêm. Do cố tật tham lam quá độ, ông Khánh sau cuộc chỉnh lý thầu hết chức vụ quan trọng nhưng không kham nổi. Thêm vào đó, tư cách và tác phong tướng Khánh làm cho các thuộc hạ khinh bỉ, lặng lẽ tránh xa ông. Vì thế ông không tăng cường thêm được vi cánh của mình. Cá nhân ông Minh được một số người kính mến. Ông Khánh tìm cách bứng ông Minh nhưng tìm hoài chưa ra cơ hội. Còn với tướng Khiêm, ông Khánh tối đa hạn chế giao quyền hành. Tuy vậy, ở con người tướng Khiêm thâm trầm, ít lộ diện cá tánh, khiến ông Khánh nể sợ ông Khiêm hơn ai hết. Bên cạnh đó, ông Khiêm chuốc được cảm tình của nhóm tướng trẻ. Tòa đại sứ Hoa Kỳ chấm điểm trật thí sinh Nguyễn Khánh, rồi thổi luồng gió tham vọng trong hàng tướng trẻ. Nhiều ông tướng lon chuẩn tướng còn mới tinh, đã vội so sánh, :” Nếu tôi là quốc trưởng VN, chắc rằng tư cách và tài năng tôi hơn ông Khánh một trời một vực”. Chính phủ “tam đầu chế” chưa kịp an tọa, thì một tuần sau, ngày 13-9, một cuộc đảo chánh khác lại nổ súng ở Sàigòn. Tướng Lâm Văn Phát “đồng minh” với tướng Dương Văn Đức, tư lệnh Quân đoàn 4 chiến thuật thay vì mở cuộc hành quân đánh CS, họ cho lệnh khai hỏa chiếm “tọa độ dinh Gia Long”. Hôm ấy nhằm chủ nhật. Ông Khánh lên Đà Lạt hứng mát. Ở Sàigòn, vào buổi sáng, binh sĩ tướng Đức xung phong Bộ Tổng Tham mưu, tước đoạt Đài phát thanh và chiếm hết những cơ sở chủ yếu trong thành phố. 12 giờ trưa, tướng Lâm Văn Phát giọng hơi cà lăm, tuyên bố lý do tại sao phải đảo chánh ông Nguyễn Khánh. Cũng với lý do, cũng với luận điều đổ thừa lẫn nhau: Ông Khánh thối nát, v.v. và v.. Tại vùng cao nguyên Đà Lạt, khi hay tin, ông Nguyễn Khánh điếng người. Cho đến giờ, ông Khánh vẫn còn mù tịt thành phần hạ bệ ông. Ông gọi tướng Minh, năn nỉ ông Minh cố gắng chiếm lại quyền ở thủ đô Sàigòn.


Ông Minh thối thác, bảo rằng:” Anh về Sàigòn đánh tụi Đức-Phát đi, tôi đâu có quần”. Ông Khánh rất sợ tướng Nguyễn Cao Kỳ ngã về phe đảo chánh. Ông Kỳ bản tánh nói ẩu và làm ẩu. Lỡ ông nổi điên ẩu xách máy bay oang tạc dinh số 2, nơi tướng Khánh đang cư ngụ thì chắc ông sẽ lên chức cố thống tướng. Ông Khánh kêu gia đình “tản cư”, chạy qua biệt thự của ông Cao Văn Viên và ra lệnh lực lượng phòng không đến bảo vệ ông. Tại Biên Hòa, ông Kỳ đang thưởng thức một trận đá gà hấp dẫn, thì nhận được tin đảo chánh. Ông lái trực thăng quay về tư dinh. Quân đảo chánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu nhưng chưa kip khống chế phi trường Tân Sơn Nhất. Ông Kỳ chú ý lắng nghe tướng Phát đọc diễn văn trên đài phát thanh. Ông thấy không có cảm tình với ông Phát, nên gọi điện thoại cho tướng Đức: – Trung tướng đã hành động theo kiểu cách mà tôi không thể nào ủng hộ được! Giải pháp khôn ngoan nhất là trung tướng nên quay về đồng bằng sông Cửu Long. Tướng Đức nổi máu xung thiên ra lệnh thiết giáp đến bao vây Tân Sơn Nhất. Tướng Kỳ cảnh cáo: “Xe tăng Trung tướng nên dừng lại trước cổng Phi Long, tiến sâu thêm nữa, tôi cho khu trục oanh tạc trên đầu Trung tướng”. Tướng Đức hơi lạnh cẳng. Qua ngày hôm sau, ông Kỳ lại nói điện thoại với tướng Đức: – Đã tới lúc Trung tướng nên từ bỏ ý định của mình. Đây là lời cuối cùng của tôi. Nếu Trung tướng không rút quân về Quân đoàn 4, đích thân tôi sẽ ném bom xuống bộ chỉ huy của Trung tướng. Tướng Lâm Văn Phát và Dương Văn Đức phát giác được rằng đây là một đòn của tòa đại sứ Mỹ mượn hai ông cảnh cáo ông Nguyễn Khánh, ép buộc ông ta phải cải tổ thành phần chính phủ, chứ thật tâm chưa có ý định loại ông Khánh. Biết mình hố, hai ông lủi thủi kéo về miền Tây. Đời binh nghiệp của hai ông kể từ đó coi như “tan hàng”. Tướng Kỳ gọi điện thoại kêu ông Khánh hãy yên tâm về Sàigòn, cho biết hết đảo chánh rồi, đừng trốn nữa. Khánh có tánh đa nghi, sợ ông Kỳ gài bẫy, bèn ở luôn trên Đà Lạt. Đến khi nhân viên cao cấp tòa đại sứ Hoa Kỳ lên nói rõ tình hình, “năn nỉ” ông, ông mới dám về Sàigòn. Đại sứ Taylor đến VN nhậm chức chưa đầy một tháng, nhưng ông chứng kiến đảo chánh xảy ra hàng ngày như ăn bữa. Ông muốn thay thế người mới, kẹt một điều, tướng Nguyễn Khánh từng được mệnh danh là “con nuôi bộ


trưởng quốc phòng Mc Namara”. Gì thì gì, nhiệm vụ ông tới Việt Nam là lo ngăn chận đảo chánh liên tục. 3 giờ chiều ngày 26-9, tướng Nguyễn Khánh trình bày với đại sứ Taylor việc làm của ông ta: – Ông Đại sứ thấy chưa, tôi đâu phải là nhà lãnh đạo dở, bữa nay tôi đã thảo xong sơ đồ thành lập Thượng Hội Đồng quốc gia, chuẩn bị soạn thảo hiến pháp, và tôi dọn đường tiến tới chế độ dân sự. Vị quốc trưởng sau tôi là dân sự. ☆ Bỗng nhiên tướng Khánh thấy bị mất hết lực lượng tay chân, cảm thấy cô độc, nên ông quay trở về nhà thờ Bình An, nối lại sợi dây tình cảm với cha Quỳnh. Hôm tuần rồi, tướng Khánh cử đại tá Albert Nguyễn Cao mời cha Quỳnh và hắn tới dinh Gia Long thảo luận. Ông Khánh đọc tên các nhân vật đề cử vào Thượng Hội Đồng, phần lớn là người của ông Minh. Bất chợt, ông Khánh hỏi cha Quỳnh chọn ai làm quốc trưởng? Cha Quỳnh hỏi hắn, nhưng hắn lúng túng không dám đề nghị. Cùng thời gian đó, phe tướng Trần Thiện Khiêm tung tin, ngôi vị tướng Khánh sẽ mất bằng cách đếm từng ngày. Sau khi cho chào đời Thượng Hội Đồng khoảng một tháng, đại sứ Taylor gạch đít bảng danh sách những nhân vật mà Hoa Kỳ muốn chọn. Đó là cụ Phan Khắc Sửu, ngoài 80 tuổi, giữ quốc trưởng. Tướng Dương Văn Minh mất chức, được đưa qua Thái Lan sống “hưu trí. Ông Khánh chuyển giao chức thủ tướng cho cụ Trần Văn Hương. Ông Khánh và nhóm tướng trẻ chống đối danh sách tuyển chọn đưa mấy cụ già lên cầm quyền. Đại sứ Taylor quyết định, không cho ai phản đối (phản đối sẽ bị cúp viện trợ), rồi đưa tướng Khánh trở về quân đội làm Tổng tư lệnh quân đội VNCH. Phương pháp độc đoán của ông Taylor khiến các tướng trẻ bất mãn nên tìm cách chống Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Điểm hẹn là tư dinh ông Kỳ, họ thường xuyên gặp nhau bàn luận phương án làm thêm cuộc đảo chánh khác nữa. Thỉnh thoảng họ lại hẹn ở nhà ông Nguyễn Chánh Thi và tướng Nguyễn Hữu Có. Ông Khánh luôn luôn có mặt trong cương vị người xúi giục. Giữa tháng 10-1964, nhóm tướng trẻ mở cuộc họp tại nhà ông Kỳ, tướng Khánh nói khích họ:


– Mấy ông già gân chưa thỏa mãn quyền hành, các ổng còn đòi gồm thâu thêm quyền của quân đội. Tướng Nguyễn Chánh Thi đùng đùng nổi giận: – Mấy ổng là cái thá gì? – Hốt hết là yên chuyện! Tất cả đồng loạt tán thành ý kiến ông Kỳ. Tướng Nguyễn Hữu Có nói: – Chuyện này để tôi lo. Tiếng súng giành giựt địa vị nổ ra vào ngày 20-12-1964 giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia dễ hơn tổ chức cuộc đá gà nòi. Toàn thể ủy viên Thượng Hội Đồng bị quân cảnh hốt lên xe, tới gõ cửa từng nhà bắt lúc nửa đêm. Quân cảnh áp giải họ về doanh trại Bộ Tổng Tham mưu. Hôm sau, chính tướng Kỳ lái máy bay chở các cụ Thượng Hội Đồng lên Pleiku, giam lỏng tại đó. Giữa còn đang tính kế “mần thịt” mấy ông già như thế nào, thình lình chuông điện thoại reo vang. Ông Khánh cầm điện thoại. Bỗng nhiên mặt ông Khánh tím đen, ông chỉ nói lơ lớ mấy câu “No”, “Yes” và “Yes Sir”. Ông Khánh bỏ điện thoại xuống, gằn giọng: – Taylor biểu tất cả chúng ta lên Tòa đại sứ gặp ông ta ngay bây giờ. Quý vị ở đây có ai chịu đại diện đi thế cho tôi không? Mọi người im lặng. Không ai muốn lên Tòa đại sứ Mỹ trong lúc này. Tướng Khánh quay về phía ông Kỳ: – Anh đi thế tôi. Anh là người lãnh đạo nhóm tướng trẻ, tôi yêu cầu anh nên đi. – Đi thì đi! Ba vị tướng trẻ khác tình nguyện đi theo ông Kỳ. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tướng Nguyễn Chánh Thi và phó đề đốc Chung Tấn Cang. (Họ có tưởng như lên đường ra mặt trận). Đại sứ Taylor mặc côm-lê màu trắng, đứng chờ trong văn phòng với nét mặt hầm hầm. Các tướng ngồi xuống xong, đại sứ Taylor xẳng giọng: – Hãy cho tôi biết, trong các ông ai nói được tiếng Anh? Những vị kia đều kém sinh ngữ Anh, trừ ông Nguyễn Cao Kỳ. Mọi người rụt rè không lên tiếng trả lời. Ông Taylor xử dụng tiếng Pháp, dằn mặt quan khách:


– Thôi, khỏi cần, tôi nói luôn tiếng Pháp. Hôm trước trong bữa tiệc ở tư dinh tướng Westmoreland, tôi đã nói với các ông hàng chục lần, người Mỹ đã chán lên tận óc những cuộc đảo chánh ở đây rồi. Bây giờ ăn không ngồi rồi chán, tính đảo chánh hoài hay sao? (Nhắc lại, hôm đầu tháng 11, Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại VN có mở tiệc khoản đãi các tướng lãnh VNCH. Hôm ấy, ông Taylor cũng có mặt. Tin lật đổ Thượng Hội Đồng Quốc Gia tới tai ông. Sẵn dịp, ông Đại sứ cảnh cáo các tướng lãnh là Hoa Kỳ không muốn VNCH dùng đảo chánh như là một chiến công thăng chức lẫn nhau. Phải chấm dứt ngay). Ông Kỳ bốc đồng “chơi chữ” với đại sứ Taylor: – Ông Đại sứ nói sao chứ, bữa ăn đó tôi thấy ngon tuyệt vời mà! Ông Taylor nhìn ông Kỳ đăm đăm, nhưng lờ đi, nghĩ còn ông Kỳ còn nhỏ, ăn chưa no lo chưa tới (năm đó ông Kỳ khoảng 33 tuổi). Ông tiếp tục “giảng kinh”: – Hôm ấy tôi nói tiếng Pháp và thật chậm, vậy quý vị cũng không hiểu. Nước Mỹ muốn chấm dứt đảo chánh, các ông nghe rõ chưa? Chúng tôi thật sự muốn ổn định chính phủ. Nay các ông đã làm nát bấy hết rồi. Tôi không còn có thể dung túng quý vị được nữa. Ai là người đại diện cho quý vị ở đây?… Ai là phát ngôn viên ở đây? Không ai lên tiếng. Ông đại sứ lại giảng thuyết: – Quý vị làm cho chúng tôi kẹt cứng. Quốc hội cúp quân viện, tôi biết chống đỡ như thế nào cho quý vị. Quý vị có hiểu, cương vị làm tướng mà cứ chuyên sống bằng đảo chánh, sẽ trở thành giặc không? Thôi xin quý vị về đi. Lúc ra xe, tướng Thiệu nổi nóng: – Mình phải triệu tập họp báo ngay. Lên tiếng cho thế giới biết đại sứ Mỹ xử sự với tướng lãnh Việt Nam như những đứa bé mới biết đi. Tướng Kỳ khuyên lơn: – Làm vậy chẳng có lợi gì. Nhịn đi là xong! Ngày hôm sau đại sứ Taylor trực tiếp điện thoại cho ông Khánh: – Ngài hiểu tiếng Mỹ không? Hoa Kỳ sẽ không tha thứ bất cứ ai gây ra tình hình hỗn loạn tại Việt Nam trong lúc này… Tướng Khánh giả vờ: – Tôi chưa nghe rõ, xin ngài đại sứ nhắc lại lần nữa.


Thừa cơ hội, tướng Khánh bấm nút mở máy ghi âm. Cuộc đàm luận giữa ông Khánh với đại sứ Taylor trong cơn nóng giận được thu trọn trong một cuốn băng. Tướng Khánh ghét đại sứ Taylor kể từ khi Mỹ dùng tướng Khiêm và nhóm tướng trẻ áp lực ông từ bỏ chức thủ tướng. Kế đến, biểu tướng Lâm Văn Phát, Dương Văn Đức giả bộ đảo chánh, cưỡng bức ông nhượng bộ thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Rồi mời cụ Sửu, cụ Hương vào vị trí cầm đầu Việt Nam. Ông Khánh trả thù được đại sứ Taylor. Bởi vì ông Taylor đang diễn lại vai tuồng mà ông Cabot Lodge đã áp dụng trước đây với ông Diệm. Cuốn băng trở thành vũ khí độc hại cho ông Taylor, khi tướng Khánh tung chiến dịch phản đối Hoa Kỳ trên đài phát thanh và báo chí quốc tế, lên án Tòa Bạch Ốc xài luật rừng xen vào nội bộ Việt Nam. Ông đại sứ, một tướng lãnh sáng giá của Mỹ, huy chương và chiến tích đầy mình do chiến công trong đệ nhị thế chiến và Triều Tiên, lần đầu tiên nhảy vào làng ngoại giao đã bị tướng Khánh chơi tối tăm mày mặt, tên tuổi ông đại sứ suy sụp, địa vị trên chính trường lung lay. Nhưng ông Khánh cũng đã hiểu ông đại sứ sẽ trả đòn ông cho đến khi nào thân bại danh liệt. Đại sứ Taylor phản ứng cứng rắn, tướng Khánh lùi thêm bước nữa, chẳng những trả tự do mà còn phải mời cụ Sửu, cụ Hương trở lại chánh quyền theo chức vị như cũ. Giữa tháng Giêng 1965, trước thềm năm mới, để mừng tuổi đầu năm, tướng Khánh xin cụ Sửu, cụ Hương ra một bản thông cáo chung, công bố với quốc dân là sự rạn nứt giữa quân sự với dân sự đã kết liễu. Sẵn cơ hội tốt, tướng Khánh “gởi” những tướng lãnh đàn em, từng đưa tay thề sống chết với ông, vào Hội đồng chính phủ, trong số này có tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ngày 28-1-1965, đại sứ Taylor bận việc đi thủ đô Vạn Tượng. “Vắng chủ nhà gà vọc niêu cơm”, ông Khánh tiến hành liền cuộc đảo chánh hoả tốc, hốt cụ Hương và liệng Nội các cụ Hương ra khỏi chánh quyền trong nháy mắt. Về tới Sàigòn, ông Taylor tức lắm. Mới đi vắng có một chút mà ở nhà họ đảo chánh xong, trở tay không kịp, nhưng tình hình đặt ông đại sứ trước một sự việc đã rồi.


Đến ngày 12-2-1965, ông Khánh lẹ tay dựng lên chính phủ mới, triệu hồi cụ Sửu ra làm quốc trưởng trở lại, mời ông Phan Huy Quát giữ thủ tướng. Cha Quỳnh không ưa ông Quát, vì ông ta là người của Đại Việt. Nhưng Cha tạm thời ưng thuận sau khi ông Khánh đưa bốn người Công giáo vô Nội các. Kể từ ấy, tướng Khánh mãn nguyện vì qua mặt được ông Taylor. Ngược lại, đại sứ Taylor đang rình kỹ tướng Khánh chờ dịp thanh toán mối hận. Chính phủ chào đời đúng 1 tuần lễ thì sóng gió nổi lên. Quen cái nghề đảo chánh, ngồi không cũng buồn, lại được ông đại sứ rỉ tai, tướng Phát đựng cờ làm lại. Khỏi cần ông Khánh đi xa, nổ súng ngay lúc ông Khánh đang có tại Sàigòn. Lọan quân có mục đích tối thượng là còng tay tướng Khánh tại chỗ. Lúc ấy, 11 giờ 30 ngày 19-2-1965, đang họp trong Bộ Tổng Tham mưu, nhận được tin ông Phát phái Thiết giáp tới nhà riêng bắt, ông Khánh thúc hối ông Kỳ ra phi trường ngay. Ông nhảy lên chiếc Mercedes có cắm cờ sao đại tướng, thoát khỏi Bộ Tổng Tham mưu. Đến cổng Phi Long, xe tướng Khánh bị chận lại, chợt nhìn thấy xe tướng Kỳ. Ông Kỳ phất tay ra dấu biểu tướng Khánh xuống đi bộ. Ông Khánh chịu nhục làm theo lệnh ông Kỳ. Tướng Khánh run giọng: – Phát đang chủ động tình hình, anh nên tìm cách đưa tôi rời khỏi Sàigòn. – Thiết giáp đang chận phi đạo, phi công làm sao cất cánh? – Nhưng Đại tướng muốn đi đâu bây giờ? – Đi đâu cũng được, đừng để Phát nó bắt tôi. Tướng Kỳ trong thâm tâm đã ghét ông Khánh. Cách đây không lâu, Kỳ móc nối ông Thiệu tính kế lật luôn tướng Khánh, nhưng chần chờ chưa dứt khoát. Bây giờ, ông Kỳ muốn cứu ông Khánh vì lầm tưởng nhóm đảo chánh do tướng Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, mà ông Kỳ không ưa gì ông Thi. Tướng Khánh phóng lên xe Jeep. Ông Kỳ lái xe tới nhà chứa máy bay, nơi có chiếc DC 3 dành xử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Tướng Kỳ đưa phi cơ ra vị trí cất cánh, cuối phi đạo có hai chi đoàn Thiết giáp án ngữ. Ông Kỳ mở hết tốc lực, máy bay cất cánh lướt sát trên đầu xe tăng. Khánh lấy lại bình tĩnh. Nhưng ông chưa hết lo lắng vì sinh mạng đang bị ông Kỳ nắm trong tay. Nghĩa là ông Kỳ có thể đưa tướng Khánh trở về


nạp cho quân đảo chánh bất cứ lúc nào nếu ông muốn. Tướng Khánh xuống nước: – Xin anh đưa tôi lên Đà Lạt. Anh cứ trở về và tự do làm theo ý anh. Tướng Kỳ không trả lời, ông Khánh nói: – Tôi trao anh toàn quyền quyết định vụ này. Ông Kỳ quay trở về sau khi thả tướng Khánh xuống phi trường Đà Lạt. Máy bay đáp xuống phi trường Biên Hòa. Lập tức tướng Kỳ triệu tập cuộc họp Nội các và Hội đồng quân lực. Không ngờ có đến 40 người chạy theo ông Kỳ. Đa số biểu quyết nhổ tận gốc tướng Nguyễn Khánh. Ông Kỳ lệnh cho phi cơ lên Đà Lạt “mời” ông Khánh về. Vừa bước vô, thấy hội viên sắc mặt không ai muốn nhìn ông, ông nhận ra ngay đời ông tới đây chấm dứt. Tướng Khánh bật khóc: – Các anh hãy cho tôi sống bình yên ở Đà Lạt. Anh Kỳ và các anh muốn làm gì thì làm. Không ai đếm xỉa tới ông, nên ông lẹ làng ra phòng họp. Tướng Kỳ ra tận phi cơ tiễn đưa ông Khánh. Tướng Khánh than thở: – Anh làm gì cũng được, tôi không cản anh. Nhưng xin anh đừng quên mình là bạn thân thiết, từng sống bên nhau chia sẻ ngọt bùi lâu nay. (Phải nhìn nhận, con đường bước lên danh vọng, giúp ông Kỳ làm thủ tướng sau đó đã bắt nguồn từ nhịp cầu Nguyễn Khánh, trong kế hoạch “nâng tướng trẻ, loại tướng già”) Về tới Đà Lạt, mặt mày ông Khánh ủ đột như khóc đám ma. Trái đất tròn, tướng Khánh “tao ngộ’ tướng Trần Văn Đôn, đã bị ông Khánh giam lỏng ở Đà Lạt gần một năm nay. Cách đây vài tháng, tướng Khánh giao ông Đôn nhiệm vụ lo soạn dự thảo ấn định quy chế phục vụ thâm niên trong quân đội. Tướng Khánh biểu viết lên điều khoản này: “Cho giải ngũ tất cả những tướng lãnh đã phục vụ hơn 25 năm”. Với quy chế “chơi xỏ này, các ông “Minh lớn”, Đôn, Kim, Xuân, Đính sẽ luyến tiếc thời oanh liệt mà ngậm ngùi ra khỏi quân đội. Tướng Khánh bỗng hiền lành trở lại. Ông kể nhiều chuyện vui buồn trong năm qua. Chuyện ông thích nhất là đá giò lái đại sứ Taylor. Ông cũng thú nhận mình gánh lấy quá nhiều thất bại. Tướng Khánh xin lỗi ông Đôn trước mặt mọi người. Mấy ngày sau, tướng Khánh nói với ông Đôn: – Mình phải về Sàigòn. – Ông đi bằng phương tiện nào?


– Xe đò. Ông Đôn chọc quê: – Theo tôi, tốt nhất anh nên cạo chòm râu dê của anh đi. Tướng Khánh cười biết lỗi với ông Đôn. Trong giây khắc, ông chợt nhớ lại trường hợp Tào Tháo bị quân Thục truy kích quá gấp rút, đành phải liệng mão và cắt râu chạy trốn địch thủ. ☆ Lệnh Tòa đại sứ cho phép thực hiện cuộc đảo chánh nửa chừng chỉ nhằm đuổi tướng Khánh ra khỏi chính phủ. Ông đại sứ Taylor đã vừa ý việc mình làm, thanh toán xong tướng Khánh là rửa tay, cố quên đi nổi buồn ông Khánh chơi xỏ. Riêng tướng Phát hụt cẳng, giận dữ, phản đối đại sứ Taylor: – Người Mỹ chơi như vậy coi sao được? Tôi đã đi phân nửa đoạn đường, bắt dừng lại, ai đền bù công lao của tôi? Ông đại sứ trả lời theo thái độ vắt chanh bỏ vỏ: – Chúng tôi cậy ông biểu dương lực lượng loại tướng Khánh, chớ không muốn ông đảo chánh! – Nhưng thưa ông đại sứ, tôi muốn làm thủ tướng Việt Nam! – Ông là vị tướng có khả năng đảo chánh, nhưng không có khả năng lãnh đạo chính phủ. Hơn nữa, đã đến lúc Hoa Kỳ muốn VNCH thành lập chính phủ qua lá phiếu. Thời kỳ sắc phong quốc trưởng bằng phương tiện đảo chánh đã hết rồi. Tướng Phát mặc cả: – Vậy ông biểu tụi nó gắn cho tôi lon trung tướng được không? – Tôi là đại sứ Hoa Kỳ, không phải tổng tư lệnh VNCH, xin thiếu tướng cảm phiền! Tướng Phát bỏ ra về không một lời chào đại sứ Taylor. Sau này người ta sợ tướng Phát ở lại quân đội rồi quen nghề nổi loạn, bèn áp dụng quy chế do tướng Khánh ban hành, mời ông giải ngũ theo luật định. Đại sứ Taylor sợ CIA xúi nhóm tướng trẻ bắn bậy, ông Khánh chết thì Toà đại sứ mang tiếng. Lấy kinh nghiệm vụ Tổng thống Ngô Đình Diệm, đại sứ Taylor dàn xếp đưa tướng Khánh ra ngoại quốc lưu vong. Ngày 25- 2-1965, tại phi trường Tân Sơn Nhất người ta tổ chức buổi lễ thật đơn giản, không thổi kèn và giàn chào đại bác tiễn ông Khánh đi Tây sống lưu vong.


Thủy chung như nhất, tướng Kỳ đứng chủ lễ tiễn đưa ông Khánh. Hình như có linh tính đây là lần ra đi vĩnh biệt, tướng Khánh bốc nắm đất bỏ vô túi xách, khóc nức nở. Sang Pháp ông mở tiệm ăn, nấu bếp, dọn bàn, rửa chén, một mình làm lấy khỏi cần nhờ ai. Năm 1980, ông qua Mỹ sống tới nay. 5. Trong tình trạng thay đổi chính phủ nhanh hơn chong chóng, hắn chưa bắt được nhịp cầu quen nhân vật nào cỡ hàng lãnh đạo để núp bóng và khai thác tin tức. Điểm tựa độc nhất hiện giờ là Linh mục Hoàng Quỳnh. Hắn bám sát Cha, co rút ở nhà thờ Bình An chờ thời cơ phát triển Cụm A22. Ngoài Cha ra, hắn không còn nơi nào để làm điểm dựa lưng. Về kiến thức, Cha không bằng Đức cha Lê Hữu Từ, nhưng Cha đã có một uy tín gần như bao trùm mọi biến cố chính trị VN do quá khứ chống Cộng của Cha. Cha Quỳnh được đào tạo trong hàng linh mục của Tòa thánh Vatican vào thế hệ đầu thập niên 1940, thế hệ mà Vatican đặt dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo hoàng Pierre XI, Đức Thánh Cha quyết liệt chống chủ nghĩa vô thần Cộng sản. Năm 1941, Đức Thánh Cha ban hành sắc lệnh chống Cộng sản: “Con chiên của Chúa theo Cộng sản hay có hành động thân Cộng sản thì sẽ bị Giáo hội trừng phạt rút phép thông công”. Cha Quỳnh liên đới chặt chẽ với Giáo hội Pháp. Giáo Hội Công giáo Pháp trực thuộc Vatican, trong khi Giáo hội Hoa Kỳ lại có ý tách rời Vatican. Pháp thua trận, ký hiệp định Genève rời khỏi VN. Tổng thống Diệm lên nắm quyền do Giáo hội Hoa Kỳ tiến cử. Đức cha Từ bất bình. Cha Quỳnh từ bao nhiêu năm không thích tiếp người Mỹ. Cha ghét vì Hoa Kỳ hất cẳng Pháp. Hắn tận lực xây đắp uy tín cho Cha và cho xứ đạo Bình An, có mục đích làm nơi ẩn trú an toàn. Nơi xì tin tức, nơi phát hoạt bàn cờ chính trị VNCH. CS Hà Nội chỉ cần bấy nhiêu đó. Hắn khuyến khích Cha nới rộng tầm liên hệ với chính quyền, quân đội và giới chức Hoa Kỳ. Hắn yêu cầu Cha nỗ lực thúc đẩy giáo dân tham gia thật nhiều vào chính phủ. Cha làm theo kế hoạch do hắn cố vấn. Dần dần kết quả thấy trước mắt. Cụ Phan


Khắc Sửu, cụ Trần Văn Hương nồng nhiệt cám ơn Cha đã giải quyết ổn thỏa những rạn nứt trong vấn đề đưa người vào Nội các. Các tướng trẻ ngán cụ Hương có tánh cứng cỏi, nhưng khi có Cha can thiệp thì họ gài được bốn tướng trẻ: tướng Nguyễn Văn Thiệu, tướng Nguyễn Cao Kỳ, tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ), tướng Linh Quang Vịnh vô chính phủ, họ rất phục Cha. Làn sóng người mưu cầu danh vọng chạy đến Cha ngày càng đông nghẹt. Họ bu quanh hắn, hạ mình yêu cầu hắn giới thiệu được gặp Cha. Họ xin chụp hình chung, đứng cạnh Cha quay phim. Uy tín Cha được mọi người nể trọng là nằm trong mưu đồ của hắn. Gần đây, cụ Sửu, thượng tọa Thích Tâm Châu thường xuyên tới đàm đạo với Cha, có khí đến nửa đêm mới về. Cha mê say thành lập chính phủ mạnh, đoàn kết, nhưng Công giáo chiếm đa số và kéo quân vượt Bến Hải giải phóng miền Bắc. Một hôm đang ngồi ăn cơm với Cha, hắn lựa lời chiêu dụ Cha lưu ý vào vấn đề quân sự, vấn đề mà hắn cần lấy tin: – Mỹ vừa đổ quân thêm, quyết đánh mạnh Cộng sản, cho nên họ mới loại ông Diệm để đưa giới quân đội lên cầm quyền. Trên tư cách Tổng chỉ huy Tự vệ Phát Diệm, có nhiều kinh nghiệm chiến tranh chống Việt Minh, con thấy Cha nên hợp tác với quân đội, giúp đỡ họ về quân sự lẫn chính trị. Có như vậy họ mới cần Cha, bằng không họ chỉ đến đây xin ghế tổng trưởng rồi ra về. Hắn thấy nhờ Cha lấn sâu vào địa hạt quân sự cũng vô ích. Hồi này hơi lớn tuổi, Cha có chút lẩm cẩm. Nhiều khi đang thảo luận chuyện lớn quốc gia, Cha lại chuyển sang đề tài nói về nhãn Hưng Yên, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì hoặc nhắc lại thuở di cư vất vả của Cha. Thêm một cuộc đảo chánh khác lại diễn ra. Ngày 20-5-1965, đại tá Phạm Ngọc Thảo nổ súng đánh chớp nhoáng lật đổ chính phủ. Tướng Kỳ phát giác ra sớm, tập đoàn tiến thân bằng nghề đảo chánh 50 người bị bắt trọn ổ. Ông Kỳ chối, không chịu trách nhiệm cái chết Phạm Ngọc Thảo, nhưng tài liệu CIA bạch hoá năm 1988, có ghi nhận tướng Kỳ biết trước Phạm Ngọc Thảo sẽ tử nạn bằng cách nào! Vả chăng, ông Thảo tự ý đảo chánh, sinh mạng ông lẽ dĩ nhiên không được bảo đảm. Nhóm tướng trẻ phất cờ vì thời vàng son của họ đã đến. Hơn một năm rồi, Tòa Bạch Ốc đốt đuốc tìm một người khả dĩ thay thế cố Tổng thống


Diệm, vẫn chưa có. Thôi thì hốt đại nhóm tướng trẻ giao họ cầm quyền. Đại sứ Taylor chấp thuận giải pháp do CIA đề nghị. Đúng 20 ngày sau khi nhóm đại tá Thảo nổi loạn bất thành, nhóm tướng trẻ thành lập Hội đồng Quân lực và sẵn tay nhổ luôn chính phủ Phan Huy Quát. Ông Quát không có lực lượng quân nhân hậu thuẫn, thất thểu bước ra khỏi dinh Gia Long không kèn không trống. Đồng thời dìu cụ Phan Khắc Sửu đi xa, thật xa chức quốc trưởng. Hội đồng Quân lực đẻ ra Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia rồi Uỷ ban này sanh ra Ủy Ban Hành pháp trung ương – chính danh là Nội các Chiến tranh. Chia công bình: tướng thiệu chủ tịch Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia, tổng thư ký tướng Phạm Xuân Chiểu, tướng Kỳ chủ tịch Ủy Ban Hành pháp trung ương. Chức vụ rõ rệt, tướng Kỳ thủ tướng, tướng Thiệu quốc trưởng. Cha bực mình than thở: – Cụ Phan Khắc Sửu yếu đuối quá, giữ không nổi chính phủ dân sự, bị cánh quân đội hất cẳng. Hắn nói: – Thưa Cha, Hoa Kỳ muốn chính phủ hiện là chính phủ chiến tranh. Họ cần một loại chính phủ như vậy để mạnh dạn đương đầu Cộng sản. Cha phê bình: – Anh Kỳ hay bốc đồng, tính tình ham vui, nhẹ dạ, kinh nghiệm chính trị, ngoại giao con số không, lại mù tịt về đường lối trị nước, làm sao kham nổi chức thủ tướng? Anh Thiệu đảng Đại Việt, chính trị có “sở đoản” mà không có “sở trường” và anh ta lại là người Công giáo “theo đạo hùa”. – Thưa Cha, nhưng họ trong chính phủ mới mình có lợi. – Lợi cái gì? – Lợi là chắc chắn hai ông Kỳ, Thiệu sẽ không quên giáo xứ Bình An. Con nghĩ rằng họ phải dựa hẳn vào Công giáo, khác ông Khánh, họ đi hàng một. Dù sao, ông Thiệu cũng là con chiên. Cha nên chúc mừng họ, dẫn dắt họ phục vụ đắc lực cho Giáo hội. Cha tán thành ý kiến của hắn. Vài ngày sau, tướng Phạm Xuân Chiểu tới gặp Cha, thay mặt ông Thiệu yêu cầu Cha hết lòng ủng hộ Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia, còn Ủy Ban Hành pháp trung ương mặc kệ, Cha đừng lo nghĩ tới. Ông Thiệu có hứa, sẽ ngoan ngoan phục vụ Chúa theo lời Cha dạy.


Cha vui lòng khi nghe tướng Chiểu trình bày. Lúc từ giã, ông Chiểu nhắn nhủ riêng với hắn: – Nhờ anh ráng thuyết phục Cha ủng hộ ông Thiệu dùm tôi. Hồi này Cha hơi khó, nóng nảy bất thường. Ông Thiệu bảo tôi nhắn riêng với anh điều này. – Tôi sống bên Cha lâu năm, nên biết rõ tính Cha. Trung tướng đừng lo, đối với ông Thiệu, Cha có cảm tình và sẽ yểm trợ lâu dài Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia. Chỉ xin các ông, tương lai có việc gì rắc rối cần tiếp xúc với Cha, hãy thông báo tôi biết trước, tôi tìm cách trình Cha, chắc không có gì trở ngại. Những ngày sau đó, tướng Chiểu thường trực đến Bình An thông báo tin tức chính phủ thẳng với hắn. Thỉnh thoảng bận công vụ, tướng Chiểu cử phụ tá đi thế. Theo lời khuyên của hắn, một hai tháng Cha lại lần vào dinh Gia Long thăm tướng Thiệu. Tướng Thiệu niềm nở tiếp Cha. Ông Thiệu gặp Cha vì quyền lợi địa vị, Cha gặp ông Thiệu vì quyền lợi Giáo dân. Quốc Hội Hoa Kỳ mạnh mẽ phản đối tăng thêm quân tham chiến, cho nên Bộ Quốc phòng đổ quân vào VN đầu từ tháng 1-65 đến tháng 4-65 có tính cách nhỏ giọt gồm 4 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến, 2 phi đoàn vận tải, 1 tiểu đoàn phòng không, 1 tiểu đoàn pháo binh và 1 đoàn thiết vận xa. Đến tháng 8-1965, lữ đoàn Nhảy dù đầu tiên của Hoa Kỳ tới Biên Hòa. Hai ngày sau đó, một chiến đoàn Thủy quân lục chiến chiếm thị trấn Chu Lai. Tháng 7-1965, ông đại sứ Taylor mất chức. Người sang thay thế là ông Cabot Lodge, một chuyên viên đảo chánh đã từng làm đại sứ tại VN. Tháng 8-1965, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trực tiếp đụng độ với VC tại Lệ Mỹ và Vạn Tường. Cuối tháng 8, tướng Chiểu trở lại thăm nhà thờ Bình An. Ông Chiểu phấn khởi bắt tay mừng hắn. Hắn lên tiếng: – Có điều chi xảy ra tốt đẹp mà tôi thấy trung tướng hơi vui? Tướng Chiểu thân mật quàng vai hắn cùng đi vô văn phòng: – Tôi báo anh một tin mừng. Ông đại sứ Cabot Lodge đề nghị Ủy Ban Lãnh đạo quốc gia, sẽ mời một phái đoàn Công giáo của chúng ta, khoảng30 người, sang Hoa Kỳ viếng thăm thiện chí các cơ quan xã hội và


từ thiện cũng như quốc hội. Tôi liền trình chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu, để việc này cho Cha quyết định cử người. Trưởng phái đoàn bắt buộc phải là Cha. Và tôi xin mời anh cùng tháp chung với phái đoàn. – Liệu ông Cabot Logde có đồng ý để cho Cha giữ trưởng phái đoàn không? – Không đồng ý, tôi nói anh làm chi. Anh hãy xem đây là chút công đền ơn của tôi với Phát Diệm. Anh cố gắng giải thích thiệt hơn cho Cha hiểu. Đại sứ Cabot Logde có lẽ đã nhìn thấy vai trò quan trọng của người Công giáo Việt Nam, nên ông ta bỏ rơi Phật giáo. Mặc đầu Cha không thích Mỹ. Nhưng tụi mình phải ý thức thời cuộc, Pháp bại trận, Pháp còn cái gì nữa mà Cha hoài vọng mãi. Mình không nương tựa Mỹ thì tiền bạc súng ống đâu mà đánh Cộng sản. Tụi nó được Nga đổ vũ khí vô ồ ạt, Tàu chi quân viện thừa mứa. Thiếu Mỹ mình sẽ thua Cộng sản. Khi nói đến quan thầy Nga Sô và Trung Cộng của Việt cộng, trúng nọc độc, hắn đánh trống lảng: – Ai quyết định thành phần tham dự trong phái đoàn? – Cha. Cha toàn quyền sắp xếp theo ý Cha. Ông Thiệu và đại sứ Cabot Logde hiện rất mong Cha nhận lời. – Xin trung tướng yên tâm, nếu Cha lưỡng lự không nhận lời, tôi sẽ thỉnh ý kiến Đức Khâm sứ can thiệp. Hoa Kỳ đang dồn nỗ lực đánh tan nguồn dư luận qui trách nhiệm CIA về cuộc mưu sát hai ông Nhu, Diệm. Tổng thống Johnson và ông Cabot Logde tìm cách xoa dịu giáo dân, không thể ngó lơ khối Công giáo Việt Nam. Nghe hắn trình bày xong, Cha hỏi: – Phái đoàn toàn là người Công giáo coi sao được, mình phải mời các tôn giáo khác như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo nữa chứ (Cha Quỳnh đang giữ chủ tịch Mặt Trận Liên Tôn Giáo). Thiếu điều kiện “hòa đồng” tôn giáo là không đi. Ông Thiệu và ông Cabot Logde thỏa mãn tất cả quyết định của cha Quỳnh về thành phần trong phái đoàn. Hắn được Cha kêu đi chung với tư cách phụ tá trưởng phái đoàn. Trong khi chờ đợi Tòa Bạch Ốc ấn định ngày giờ, hắn liên lạc “trạm giao liên” xin lệnh thượng cấp của hắn có cho phép đi Mỹ hay không. Hắn giải thích, đi quan sát nước Mỹ tận mắt để hiểu thêm về chiến lược, ý đồ chiến tranh Hoa Kỳ và nâng cao uy tín của


hắn đối với dư luận quốc tế qua tư cách phụ tá trưởng phái đoàn. 15 ngày sau đó, lệnh từ Hà Nội chuyển qua trạm trung gian “Trung ương tình báo Mìền” cấm hắn đặt chân qua Mỹ. Lý do dễ hiểu, nhân viên Cụm A22 không được phép hoạt động ngoài nước Việt Nam. Hơn nữa, tông tích hắn dễ bị lộ tại Mỹ khi CIA có dịp siêu tra phiếu lý lịch. Giờ chót, Cha đổi ý hủy bỏ chuyến đi Hoa Kỳ, viện lý do hồi này sức khỏe yếu kém, ngồi máy bay đường xa không tiện. Vắng mặt Cha, phái đoàn tự nhiên nhiên rã. Quả thật Hoa Kỳ muốn cha Quỳnh viếng thăm Hoa Thịnh Đốn. Cuối năm 1965, hàng loạt phái đoàn Hoa Kỳ đến Sàigòn trực tiếp liên lạc cha Quỳnh. Dư luận Mỹ bắt đầu biết Cha là người có uy tín chống chủ nghĩa vô thần, uy tín trong Giáo hội và chính trường Việt Nam. Họ còn biết Cha là loại người không thể mua chuộc. Ở vị trí thuận lợi này hắn thu lượm nhiều tin tức cực kỳ quan trọng gởi ra Hà Nội do “thế lực” hàng ngày liên lạc với giới chức Mỹ. Mùa Giáng sinh năm 1965, nhằm đầu năm dương lịch 1966, cha Quỳnh nhận được thơ mời dự lễ của Linh mục Tuyên úy Quân Đội Hoa Kỳ. Trong buổi lễ có nhiều Giám mục địa phận New York đang viếng thăm Việt Nam. Cha thảo luận với hắn: – Theo Cha, mình đừng đi. Vô đó gặp các linh mục của Đức Hồng y Spellman, Cha thấy chướng mắt lắm. – Con nghĩ mình nên đi, dù Cha không ưa các linh mục của Đức Hồng y Spellman. Cha Quỳnh chưa nghe theo, hắn lý phục qua đề tài khác: – Mới tuần rồi, ông Thiệu cử ông Chiểu vô đây, xin Phát Diệm mình phái người vô Gia Long để gần ông thường xuyên và trao đổi vấn đề thời sự. Bằng chứng như vậy, cho thấy ông Thiệu muốn ngả hẳn về Công giáo. Ông tuy “đạo theo”, nhưng cũng là con chiên, mình không nên thoái thác, thưa Cha. – Ông Thiệu muốn thì cũng được. Cha chưa biết cử ai đây? – Theo con nghĩ, Linh mục Trần Ngọc Thuận tánh tình điềm đạm, khiêm tốn, có thể yêu cầu Cha vô đó giúp ông Thiệu. Giúp ông Thiệu xong, mình phải lo cho ông Kỳ, vì tướng Kỳ cũng vừa yêu cầu. Bên Ủy Ban Hành pháp trung ương mình nhờ Cha Nguyễn Quang Lãm.


– Hai linh mục đó đâu biết chính trị, làm sao nói với người ta? – Mấy ông tướng đâu cần giỏi chính trị. Mấy ổng chỉ cần các vị linh mục đứng bên cạnh. Nếu có vấn đề gì cần thiết, các Cha về trình lại để Cha quyết định. Vị trí của chaThuận và cha Lãm không phải là cố vấn, hai Cha giữ nhiệm vụ trung gian giữa chính quyền và giáo xứ Bình An. – Thôi như vậy cũng ổn. Chuyện các linh mục Mỹ, hãy để họ ở xa mình, như vậy có thể họ kính mình hơn. – Từ trước đến nay, người Mỹ cố tránh ta, mà ta cũng không muốn gần họ. Đức cha Lê Hữu Từ được cả thế giới kính phục, nhưng không bao giờ người Mỹ nhắc nhở đến ngài. Họ mời Cha qua Mỹ, Cha từ chối. Giờ họ mời Cha dự lễ Giáng sinh, mình từ chối nữa, bắt buộc họ phải hiểu mình có chính sách kỳ thị họ. Cha Quỳnh hơi lúng túng: – Dù có gặp, Cha biết nói chuyện gì với họ? Rao giảng đạo Chúa, họ cũng không hiểu! – Cha đừng ngại, họ sẽ có thông dịch, hoặc họ sẽ cử những linh mục thông thạo tiếng Việt tiếp chuyện với Cha. Mối xích mích do cái chết hai ông Nhu, Diệm chưa nguội lạnh. Nên họ cần hai Giáo hội trao đổi để cảm thông nhau hơn. Đức Khâm sứ từng bảo, họ hòa hoãn với mình, mình phải đáp trả lại. Tình thân hữu giữa hai Giáo hội không vì vụ đáng tiếc của ông Diệm mà đào sâu thêm hố ngăn cách . Cha Quỳnh xiêu lòng, đồng ý nghe theo hắn đi dự lễ Giáng Sinh với các linh mục Hoa Kỳ. Các linh mục tuyên úy Hoa Kỳ lễ độ tiếp Cha một cách mến phục. Lúc trở về, Cha lộ vẻ vui mừng. Cha nói với hắn: – Có nhiều người biết con, Cha nói con là séminariste (sinh đồ chủng viện). Con nên gặp họ đi. 6. Vào cuối năm 1965, cường độ chiến tranh Việt Nam bộc phát dữ dội. Quân đội Hoa Kỳ tăng lên 180.000 quân. Những trận đánh đẫm máu diễn ra giữa Hoa Kỳ và VNCH với Việt Cộng trên toàn cõi miền Nam, ở Núi Thành, Ba Gia, Đồng Xoài, Vạn Tường, Pleime, Đất Cuốc, Bầu Bàng,


Dầu Tiếng … Không quân Hoa Kỳ và VNCH oanh tạc các căn cứ quân sự CS ngoài Bắc Việt. Tướng Thiệu và tướng Kỳ bỏ dinh Gia Long, dọn qua Dinh Độc Lập. Mỗi tuần ngày chúa nhật, cha Nhuận và cha Lãm vô nhà thờ Bình An phúc trình tin tức Dinh Độc Lập cho cha Quỳnh nghe. Hạ tuần tháng 3-1966, cha Quỳnh cho hắn biết: – Con nên chuẩn bị tiếp ông này đi. Ông là Linh mục Tuyên úy Hải quân Hoa Kỳ, nhiều lần muốn gặp con. Mình từ chối hoài, coi không tốt. – Ông Linh mục đó người như thế nào? – Con chớ lo lắng. Đây là vị Linh mục rất thú vị. Ông có trí nhớ như bộ tự điển, tánh vui vẻ, tháo vát và dễ gây cảm tình mọi người. Ông ta tên là O’Connor. – Nhưng mình chưa biết rõ O’Connor giữ nhiệm vụ gì tại Việt Nam ? – Rồi con sẽ biết. Cha lái xe đi chung với hắn tới Nha Tuyên Úy trong Bộ Tư lệnh Hải quân, bến Bạch Đằng. Linh mục O’Connor cao lớn, tóc màu vàng nhạt, mắt xanh vắt, vui vẻ bước ra bắt tay Cha và hắn. Ông nhã nhặn tự giới thiệu: – Tôi tên O’Connor, Tuyên úy Hải quân Hoa Kỳ. Cha Quỳnh giới thiệu hắn: – Đây là giáo sư Hoàng Đức Nhã, người giúp đỡ ông Thiệu, ông Kỳ rất nhiều. Linh mục O’Connor âm thầm quan sát hắn: – Qua lời Cha, tôi biết giáo sư đã lâu, mãi đến mới được gặp mặt. Tôi có ý muốn kết thân giáo sư lâu dài để mình trao đổi những chủ đề nghiên cứu về thần học. Cha Quỳnh cáo lui ra về, cố ý để hắn ở lại tự do trò chuyện với Linh mục O’Connor. Linh mục O’Connor hết sức cởi mở: – Chúng ta sẽ thảo luận thẳng thắn. Do đó, tôi xin nói rõ nhiệm vụ tôi ở Việt Nam, điều này tôi chưa hề tiết lộ với một ai, ngoại trừ Cha và giáo sư. Tôi là đặc phái viên của Đức Hồng y Spellman. Tổng thống Johnson phái tôi sang đây, tìm hiểu tình hình tại chỗ để giúp Tổng thống có một quyết định chính xác. – Tôi rất hân hạnh được nghe Linh mục giải thích.


– Theo quan niệm của Tổng thống Johnson, mối bang giao giữa VNCH và Hoa Kỳ lật qua trang sử mới, quân đội Hoa Kỳ sẽ chiến đấu sát cánh bên cạnh quân đội VNCH và Hoa Kỳ trực tiếp chịu trách nhiệm chiến tranh VN. Quan niệm của Tổng thống gây ra nhiều bất đồng chánh kiến từ phía Quốc hội, từ phía lực lượng phản chiến và nhiều ý kiến đối lập không xác thực. Vì thế, Tổng thống muốn có phúc trình trung thực tình hình VN. Tôi phục vụ độc lập, ngoài nhiệm vụ do Tổng thống và Đức Hồng y Spellmen ủy thác, tôi chịu trách nhiệm với chính mình. Hiện tôi rất cần giáo sư cộng tác với tôi, giúp tôi am hiểu thêm nhiều khía cạnh thiết yếu mà người khác không thể giúp được. Giáo sư có kinh nghiệm quan sát chính trường VN, và hơn thế nữa, giáo sư hiện tận tình giúp đỡ cho những nhà cầm quyền VNCH. Hắn mừng thầm trong bụng, quen được đặc phái viên Đức Hồng y Spellman là bắt khối vàng quí báu. Hắn nhún nhường: – Linh mục khen tôi quá lời, tôi chỉ làm theo lệnh cha Quỳnh. Nhưng ngài đã đặt tin cậy nơi tôi, tôi hứa sẽ làm tròn những gì ngài giao phó. Hắn đổi giọng xưng hô: – Thưa Cha, Cha đang phục vụ một công vụ nặng nề, Cha cho phép tôi bày tỏ những cảm nghĩ thầm kín của tôi đối với Hoa Kỳ. Tư tưởng tôi bị hình ảnh hai ông Nhu, Diệm ám ảnh. Ông Diệm người VN yêu nước, Hoa Kỳ đã thủ tiêu khi bất đồng quan điểm. Nếu tôi suy luận không lầm, Giáo hội Hoa Kỳ phải song song chịu trách nhiệm với chính quyền đối với 3 cái chết ông Diệm, Nhu, Cẩn! Quá khứ tôi liên hệ chặt chẽ với sự ra đi vĩnh viễn của một Tổng thống. Trong hiện tại, định mệnh xui khiến ràng buộc tôi vào nhà lãnh đạo đương nhiệm. (Năm 1966, ông Nguyễn Văn Thiệu chưa trở thành Tổng thống). Khuôn mặt Linh mục O’Connor đổi sắc buồn rầu: – Tôi thông cảm và chia sẻ tâm trạng giáo sư dành sự thủy chung đặc biệt cho cố Tổng thống Diệm. Đức Hồng y Spellman, người đỡ đầu cố Tổng thống rất ân hận về chuyện này. Rút kinh nghiệm chuyện đã qua, Tổng thống Johnson đã thành lập “Ủy ban đặc trách về vấn đề Việt Nam” Đức Hồng y Spellman đích thân điều động. – Thưa Cha, đại sứ Cobot Logde vừa trở lại! Ông mặc áo dài gấm đội nón lá Việt Nam khi về Mỹ. Người ta phong ông “Công dân số 1 Việt Nam”, nhưng người Công giáo chúng tôi nghĩ không đẹp về ông đại sứ.


– Tôi xác nhận, ông Logde bây giờ là người của Tổng thống Johnson, không còn là nhân viên cố Tổng thống Kennedy. Lẽ cố nhiên chính sách mà ông thi hành tại Việt Nam sẽ phải khác. Câu chuyện “hấp dẫn” phải tạm gác lại khi cha Quỳnh lái xe tới kêu hắn ra về. Linh mục O’Connor hẹn một ngày rất gần sẽ tới Bình An thăm cha. ☆ Linh mục O’Connor nay trở thành người bạn thân xứ đạo Bình An. Thành kiến ác cảm với người Mỹ đối với cha Quỳnh đã bị linh mục O’Connor dùng cảm tình chinh phục. Cha rất mến cha Tuyên uý Công giáo Hoa Kỳ. Cha thường bỏ ngang những buổi nói chuyện chính trị với ông Hà Thúc Ký, luật sư Trần Văn Tuyên để ngồi tâm tình với Linh mục O’Connor suốt cả ngày. Vì Linh mục O Connor là người rất thích tìm hiểu tập quán VN, tánh tình mộc mạc, không khách sáo. Khi có dịp trả lời những câu hỏi lui về dĩ vãng của đời mình, Cha ngồi suốt đêm không biết mệt. Và Linh mục O’Connor say mê ngồi nghe. Thường thường Cha kết luận câu chuyện bằng ý tưởng bi quan : ” Cả đời tôi, tôi không làm gì nên tội, khi trả xác lại cho đất, tôi về với Chúa. Nhưng ở trên nước Chúa, bỏ lại thế gian một VN bị Cộng sản thống trị, tôi đau lòng lắm”. Hắn khéo léo khích động Linh mục O’Connor nói lên sự thật trong những lúc bước ra khỏi đề tài tôn giáo, thần học và chính trị. Hắn dùng những câu nghe nghịch lý, chọc giận vị Linh mục để ông khách có những sở hở mà khai thác. Nhưng Linh mục O’Connor thuộc hàng tay tổ thận trọng, những gì cần nói, ông nói thao thao bất tuyệt, những gì cần giới hạn, cạy miệng ông cũng không nói. Linh mục O’Connor giao du rất rộng rãi với giới chức Mỹ và VNCH. Địa hạt quân sự, Linh mục tiếp xúc hàng tuần với tướng Andrei Good Pasteur, phó tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở VN, tướng Lewis W. Walt, tư lệnh Thủy quân lục chiến. Lãnh vực chính trị, Cha quen thân với các nghị sĩ, chính khách như Morse, Dirkson, Mansfield, Fullbright.. Cha cũng viết bài đăng trên các tờ báo uy tín như Christian Century, Christian Science Monitor, The Catholic World… Cha có kiến thức thâm sâu nhiều môn như thần học, chính trị, kinh tế và rất giỏi về binh pháp nữa. Khi tranh luận, gặp những chỗ không chắc chắn, ông ghi vào cuốn sổ tay, về tra cứu, rồi trở lại trả lời cho người đối


thoại. Cá tính hồn nhiên, thương người, Cha thích giúp đỡ người khác. Cha sợ khói thuốc lá, nhưng ráng tập hút làm bằng điếu cầy để làm vui lòng cha Quỳnh. (Linh mục O’Connor có thể cả đời không làm hại ai chỉ trừ có một lần, vì quyền lợi tổ quốc của Cha, Cha tường trình với ông Colby, giám đốc cơ quan CIA bắt sạch Cụm A22. Có người nói Cha là nhân viên cao cấp CIA , đội lốt Linh mục Tuyên úy. Không có bằng chứng, nên khó xác nhận. Nhưng không có Cha làm “bạn thân” với cha Quỳnh thì năm 1968, CIA không thể nào phá vỡ tan tành Cụm A22, tình báo chiến lược VC, bình yên hoạt động tại miền Nam đúng 14 năm). Hắn nhân danh một con chiên tận tụy hy sinh cho Công giáo, yêu cầu Linh mục O’Connor cao thượng giúp đỡ hắn bồi đắp tinh thần, giữ vững niềm tin để hết mình với Giáo hội. Hắn kể lể nền chính trị VN hiện thời rất hỗn loạn, cần biết rõ chủ trương của Giáo hội Hoa Kỳ, rồi dựa theo đó dẫn dắt giáo dân Việt Nam. Hắn đòi hỏi cha O’Connor thông báo các hoạt động quân sự Mỹ, chiến lược như thế nào, và VN phải làm gì trong những ngày sắp đến. Lấy tư cách là nhân viên tham mưu, là bạn ông Thiệu, hắn nói với Cha bằng lời Thánh Kinh: “sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho bạn”. Trên cương vị “bạn cùng khuynh hướng chính trị” hắn sẽ ở bên cạnh ông Thiệu để hướng dẫn ông chống Cộng theo binh thuyết đồng minh vạch ra. Do đó, Cha phải cố vấn chính phủ Hoa Kỳ tối đa bảo vệ ông Thiệu, đừng để tai họa giống như ông Diệm xảy ra cho ông Thiệu. Muốn ông Thiệu thực hiện đứng đắn chủ trương của Hoa Kỳ, tốt nhất là hãy có thiện chí cộng tác trực tiếp với hắn… Cha O’Connor biểu lộ sự chân tình hợp tác với hắn bằng cách xác nhận : “Tôi sẽ làm theo ý kiến giáo sư”. Một hôm cha Quỳnh thố lộ tâm sự với hắn: – Thời gian gần đây, cha Tuyên úy tỏ vẻ rất mến con. Ông nói với Cha, con là người có căn bản chính trị sâu sắc, bộ óc thần học cao siêu, phân tích vấn đề chính xác, có khả năng phục vụ hữu hiệu cho Giáo hội VN. Cha O’Connor hứa sẽ giúp con thu thập về kiến thức quân sự để con yểm trợ đắc lực cho ông Thiệu. Nhận thấy hắn còn thiếu sót về bộ môn binh pháp “đồng minh”, Linh mục O’Connor giảng cho hắn nghe tình hình lãnh đạo tại Tòa Bạch Ốc. Theo đó, hiện có rất nhiều quan điểm đối lập, di biệt trong các ý kiến tranh


luận hình thành chính sách cống Cộng tại VN. Sự mẫu thuẩn giữa phe quân sự với dân sự đang kịch liệt chống đối nhau. Tướng Wetstmoreland quyết định đem Thủy quân lục chiến dọc bờ biển quân đoàn I, và quân đoàn II. Giai đoạn kế tiếp đẩy mạnh các cuộc hành quân hỗn hợp “lùng và diệt địch”. Hoa Kỳ muốn giải quyết chiến tranh chớp nhoáng trên phương tiện “quân sự hiện đại” và “cơ giới hiện đại”. Qua một phần giải thích của Linh mục O’Connor, cuối năm 1965, hắn đã có một khái niệm tổng quát về căn bản chiến lược của Hoa Kỳ áp dụng ở VN. ☆ Chỉ trong một năm, thời gian rất ngắn, lịch sử không kịp biên chép hàng loạt biến cố tranh giành quyền lợi. Một năm, có 12 tháng, nhưng đã có 7 vụ đảo chánh người phản người, bạn phản bạn, tướng phản quân đội. Ngoài tiền tuyến, lính ghì chặt tay súng, hy sinh tánh mạng bảo vệ từng tấc đất. Tại hậu phương, các tướng ngồi Mercedes, hút xì gà, đeo sao lấp lánh, đeo súng lủng lẳng họp bàn ăn nhậu phè phởn rồi trở mặt đảo chánh cướp ngôi bá chủ. 7 cuộc đảo chách trong một năm, con số bi thảm cho nền móng đoàn kết hàng ngũ quốc gia. Lớp tướng già thân Pháp bị phế thải. Thế hệ tướng trẻ nắm chủ quyền chia phần xôi thịt. Người nào cũng đòi ăn hết và ăn một mình. Vì lý do đó, mầm mống đảo chánh vẫn còn nẩy nở trong đầu óc của những ông tướng muốn thăng chức bằng “nghề” đảo chánh. Tướng Nguyễn Chánh Thi, ông là “chuyên viên đảo chánh”, nhiệt tình phò tá ông Nguyễn Khánh hạ bệ các tướng Đôn, Kim, Xuân. Tuy nhiên, ông cũng thề chết bỏ không đội trời chung với ông Khánh trong thời kỳ nhóm tướng trẻ lật ông Khánh. Trở về từ Nam Vang, cấp bậc đại tá bị bôi xóa trong sổ quân bạ sau khi mưu toan truất phế ông Diệm thất bại, ông Thi lên trung tướng chưa đầy 2 năm do công trạng góp nhặt qua 6 cuộc đảo chánh trước. Lần này, ông không thèm phò tá ai nữa, một mình đứng lên nổi loạn đòi làm quốc trưởng. Ông Thi người có tài tổ chức đảo chánh, có óc mưu lược phản quân đội, trí nhớ trả thù cá nhân không ai sánh bằng. Bao nhiêu tài cán đó được các “chiến hữu” xử dụng hiệu quả vào công việc nổ súng đảo chánh. Để trả ơn, người ta gắn cho ông ba sao, ban cho chức Tư lệnh Quân đoàn I kiêm vùng I chiến thuật. Ông cảm thấy chưa đủ, bất bình, rồi tự so sánh: “Tao như vầy mà tụi nó ép tao giữ chức tư lệnh quân đoàn. Thiệu nó giỏi hơn tao sao?”. Ông Thiệu đi với Cha. Ông


Thi đi với Thầy, cảnh đời, đó là chuyện thường. Tướng Thi mời Thượng tọa Thích Trí Quang giữ chức “lãnh đạo tối cao” về mặt tinh thần. Thầy Thích Trí Quang, thần tượng phong trào lật độ ông Diệm, bạn “đồng minh” với đại sứ Cabot Logde, thấy hồi nầy dư luận và các chánh quyền nối tiếp bỏ quên, Thầy buồn. Thầy thuộc típ người hiếu động, say mê đấu tranh chống VNCH (nhưng kể từ 1975, hơn 13 năm nay Thầy không đấu tranh tuyệt thực chống nhà cầm quyền Cộng sản!!). Thời gian qua Thầy vắng bóng xuống đường, ngồi nghiêm nghị tụng kinh chờ các nhiếp ảnh báo chí chụp hình đăng lên trang một. Ông Nhu, Diệm chết rồi, lần này Thầy chống hai ông Thiệu-Kỳ. Đặc biệt hơn nữa, viên tư lệnh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ lại khoái ông Thi, tuyên bố hợp tác mở cuộc hành quân “liên minh Việt Mỹ” đảo chánh các tướng Thiệu, Kỳ. Ông Kỳ gọi điện thoại thông báo đại sứ Cabot Lodge đề nghị trừng phạt viên tư lệnh Thủy quân lục chiến. Ông Cabot Logde trấn an tướng Kỳ: – Vụ này xảy ra bất ngờ, tôi sẽ có biện pháp với viên tướng đó, thủ tướng hãy yên tâm. – Tôi sẽ ra Đà Nẵng ngay bây giờ, để xem thử quân đội Hoa Kỳ có dám bắn rớt máy bay thủ tướng Việt Nam không. Tới Đà Nẵng, tướng Kỳ ra lệnh các đại đội pháo binh quay họng súng, canh tọa độ vào Bộ chỉ huy sư đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Ông căn dặn các sĩ quan pháo thủ, nếu phi cơ do ông lái bị lính Mỹ bắn rơi, thì lập tức nả trọng pháo san bằng bình địa căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Nhận được công điện Cabot Lodge, viên tướng Thủy quân lục chiến khiếp vía, xuống nước năn nỉ xin gặp ông Kỳ. Ông Kỳ vẫn còn giận, trả lời chỉ cho gặp trong 5 phút. Viên tướng “đồng minh” với ông Thi trình bày: – Mặc dầu là cố vấn Quân đoàn I, nhưng tôi không hề biết cuộc hành quân của ngài ở Đà Nẵng. Thưa ngài thủ tướng, theo tôi, tình hình quân sự hiện giờ rất yên tĩnh. – Rất tốt. Tuy nhiên, tôi phải tái lập chủ quyền của chính phủ trung ương tại đây. Một vài đơn vị nổi loạn chống chính phủ. Chuyện này, chuyện nội bộ của VNCH. Thiếu tướng là quân nhân Mỹ, nên đứng bên ngoài.


Ông Kỳ tái lập trật tự nhanh chóng, súng có nổ nhưng không gây thiệt hại nhân mạng.Thượng tọa Thích Trí Quang bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan dẫn độ về Sàigòn. Cao trào chống chính phủ của Phật giáo ở miền Trung chìm lắng xuống. Thượng tọa Thích Trí Quang bị quản thúc ở một bệnh viện, đường Duy Tân do bác sĩ Nguyễn Duy Tài quản trị. Thượng tọa tuyên bố tuyệt thực. Đại sứ Cabot Lodge điện thoại cho ông Kỳ, lo lắng hỏi sức khỏe của Thượng tọa: – Nếu Thầy không ăn thì hết, kéo dài thêm Thầy sẽ chết. Ông Kỳ trả lời ông đại sứ Mỹ: – Thưa ông Đại sứ, ngài đừng bận tâm lo lắng, tôi bảo đảm thầy Thích Trí Quang sẽ sống nhăn…Bởi vì, ông ta là nhà tu hành thuần túy thì ông ta sẽ chết. Nhưng thầy là một nhà chính trị siêu đẳng, mặc áo cà sa, nên thầy không chết. Thầy đang được nuôi ăn kín đáo, sâm Đại Hàn đổ cho thầy uống mỗi đêm để sống và tiếp tục làm chính trị. Lời quả quyết của ông Kỳ về sau hoàn toàn đúng. Trục liên lạc giữa Dinh Độc Lập, Tòa Khâm sứ và linh mục O’Connor đã tạo cho xứ đạo Bình An và hắn một môi trường vô cùng thuận lợi. Hắn chưa cần thiết trực tiếp liên hệ với hai ông Thiệu – Kỳ. Hắn tìm cách gợi ý thúc đẩy cha Nhuận và cha Lãm gắn bó Dinh Độc Lập. Qua hai Cha này, hắn khai thác những tin quan trọng từ bên trong Tổng thống phủ. Cuộc liên lạc với linh mục O’Connor với riêng hắn ngày thêm thân thiết. Linh mục kín đáo, không chịu công khai tiếp xúc ông Thiệu, và năng lui tới gặp gỡ cha Quỳnh thường hơn lúc trước. Một hôm, Linh mục O’Connor bỗng đề nghị với hắn: – Nếu không có gì trở ngại, xin giáo sư giới thiệu tôi yết kiến Đức Khâm sứ Angelo Palmas. Cha Quỳnh có cho tôi biết, giáo sư là người được Đức Khâm sứ thương mến. – Tôi thấy không có gì trở ngại. Có thể nói, Cha là vị linh mục Mỹ đầu tiên được Đức Khâm sứ tiếp kiến. Cha cứ định ngày giờ, tôi sẽ trình với Đức Khâm sứ trước. – Đầu tiên, nhờ giáo sư chuyển lên Khâm sứ danh thiếp vấn an sức khỏe Đức Cha. Riêng ngày viếng thăm, tôi sẽ nói với giáo sư sau. Đức Khâm sứ nhận được danh thiếp, ngài tỏ ý vui mừng, hỏi hắn: – Cha sẽ đáp lễ như thế nào cho phải?


– Theo con hiểu, Linh mục rất mong đón nhận sự cảm tình của Đức Khâm sứ. Vậy, con trình Đức Cha, cứ viết danh thiếp đáp lễ là đủ rồi. Đức Khâm sứ nghe lời hắn. Khi gặp linh mục O’Connor, trao lại tờ danh thiếp của Đức Khâm sứ, cha Tuyên úy Hải quân Hoa Kỳ tươi cười: – Lần thứ nhứt trong đời, tôi giao dịch với các cha Bề trên của Tòa thánh Vatican, tôi vui mừng lắm, vì được Đức Khâm sứ mến trọng hồi âm cho tôi. Nhiệm vụ làm con thoi, Linh mục O’Connor đi lại Sàigòn – Washington như cơm bữa. Gặt hái thành quả tốt đẹp của chiến lược “lùng và diệt địch”, tướng Westmoreland trở nên tự tin hơn. Các cuộc hành quân lớn hỗn hợp ViệtMỹ tảo thanh VC cấp sư đoàn tái lập an ninh ở Củ Chi, Bến Cát, ngoại ô Sàigòn, Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình Định khiến cho CS Hà Nội phản ứng vụng về hoặc thu hẹp trở lại chiến thuật du kích. Tháng 8-1966, Linh mục O’Connor trở lại Sàigòn, lần này Linh mục phấn chấn hiện rõ lên khuôn mặt hiền từ của ông. Hắn moi tin tức: – Washington quan niệm thế nào về chiến lược của ông Westmoreland áp dụng từ đầu năm đến giờ? – Họ nhận định: VC thua, VNCH thắng. Nhưng mâu thuẫn giữa ông Logde và Westmoreland càng trở nên tồi tệ. – Ông Logde báo cáo tình hình VN rất bi quan? – Đúng vậy. Ông còn nói, 400 cuộc hành quân hỗn hợp của Mỹ và đồng minh 6 tháng qua coi như đổ xuống biển, không đánh tan nổi sư đoàn chính quy VC. Quân số VNCH hao hụt nặng nề, quân Mỹ tăng cường giúp nước bạn không kịp. – Quan niệm của Tổng thống Johnson? Suy nghĩ hơi lâu, Linh mục cẩn thận từng lời nói: – Tổng thống cho rằng chiến tranh VN là chiến tranh kỳ quặc, không có qui ước và không thể nhận diện kẻ địch. CSVN ngoan cố, bền bỉ chịu đựng, khao khát chiến tranh. Phe phản chiến thành công khi xúi ba thanh niên cuồng tín chế xăng tự thiêu. Nội bộ Hoa Kỳ chia năm xẻ bảy, tình hình xã hội căng thẳng. Trong khi ấy, các tướng tư lệnh quân sự cương quyết đòi tăng thêm quân, đòi leo thang mức độ oanh tạc Bắc Việt. Ngay


cả bộ Quốc Phòng, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia cũng hòa hợp với phe quân sự. – Họ là ai, thưa Cha? – Thí dụ như ông George Bund và Mac Namara. Chính họ chinh phục Tổng thống tiến đến chỗ có lối nhìn lạc quan. Họ lượng định, để thắng VC, Hoa Kỳ phải gởi tới VN quân số 600.000. Ông Mac Namara cho con số 450.000 là đủ. Nhưng phe diều hâu bu quanh Tổng thống đông hơn phe bồ câu, Tổng thống quyết định tăng quân số tham chiến 600.000 trở lên. Khuynh hướng gia tăng quân số có ngụ ý đương đầu lại ứng cử viên Nixon, phe Cộng Hòa đưa ra khẩu hiệu : “Dùng sức mạnh quân sự tối đa để nhanh chóng kết liễu chiến tranh VN”. Mặc dầu bị quốc hội dồn ép Tổng thống Johnson tin rằng ông còn kịp tranh thủ thời gian để đưa thêm quân vào Việt Nam. – Hiện nay chúng ta sẽ làm gì trong khi chờ Tổng thống gởi thêm quân sang cho tướng Westmoreland? – Giáo sư khỏi phải bi quan nhiều. Tòa Bạch Ốc theo đề nghị của tướng Westmoreland, các cuộc hành quân phản công và giữ đất đợt hai tin chắc sẽ thành công hơn. Chỉ tiếc một điều, Hoa Kỳ đã phá hư Ấp Chiến Lược do ông Nhu để lại. Người Mỹ ít khi nuối tiếc quá khứ, trừ trường hợp phải nghiên cứu cho vấn đề sửa chữa những sai lầm cũ mà thôi. – Như vậy con có thể hiểu Hoa Kỳ sẽ tái xây dựng Ấp Chiến Lược? – Gần đúng vậy. Maquis dans maquis. (đánh du kích trong khu du kích). – Con chưa nắm vững ý cha. – Mai mốt trở lại câu chuyện. Bây giờ còn quá sớm. Linh mục O’Connor nhảy qua đề tài khác: – Thời gian qua ở Mỹ, tôi đã thảo luận quá nhiều công việc với Đức Hồng y Spellman. Chính vì lý do đó, bữa nay tôi tới thăm giáo sư. Tôi đã giới thiệu giáo sư với Đức Cha. Đức Cha có hứa, nội năm nay sẽ gặp cha Quỳnh và giáo sư khi viếng thăm Việt Nam. Hắn lộ sự reo mừng trong ánh mắt: – Ôi! Ngài qua thăm Việt Nam? Đức Ngài cho phép con gặp Đức Ngài ư? Linh mục O’Connor long lanh tròng mắt, cảm động như chia sẻ niềm vui của hắn: – Nghị trình không thay đổi. Chắc chắn ngài sẽ gặp giáo sư.


Câu hỏi quay cuồng trong tâm trí hắn. “Maquis dans maquis”, “Du kích trong chiến khu du kích”, bao hàm ý nghĩa gì? Có thể đặt lên nghi vấn đây là chiến thuật mới của Hoa Kỳ? Hắn rất chú trọng theo dõi để nắm vững ý đại tướng Westmoreland phản công đợt hai đặng kịp thông báo cho Chính trị bộ ngoài Hà Nội. Chiến thuật này phải chăng là ván bài quyết định thắng trận vào mùa khô 1966 của VNCH? Làm sao hắn biết trước? Làm sao Hà Nội phải biết trước tất cả chiến thuật mà Hoa Kỳ và VNCH chuẩn bị đánh VC? Nhưng hắn đành chờ đợi, chưa có cơ hội thuận tiện khai thác thêm nữa. Linh mục O Connor một thầy tu đức độ, một nhà học giả uyên bác, kiến thức rộng rãi, nhưng hắn không thể không nghi ngờ rằng Cha không phải là thầy tu thật sự. Ngài quá thông minh? Thông minh đến độ có những câu hỏi còn phôi thai trong đầu óc hắn, thế mà ngài đã trả lời trước rồi. Câu chuyện được chuyển sang chủ đề “Giáo hội”. Cha giảng nghĩa cho hắn có chút khái niệm về sinh hoạt và đường lối Công giáo Hoa Kỳ tại VN. Hắn cần nên học hỏi một vài căn bản chủ yếu để khi yết kiến Đức Hồng y Spellman sẽ không bỡ ngỡ. Cẩn thận và từ tốn, Đức Khâm sứ rất chăm chú ngồi nghe hắn phúc trình thời khóa biểu chuyến viếng thăm của Đức Hồng y Spellman. Giữ nhiệm vụ “thông tín viên” qua sự liên hệ chặt chẽ giữa hắn và linh mục O’Connor – đặc sứ lưu động của Tổng thống Johnson, mang tới cho Tòa Khâm sứ nhiều tin tức cần thiết. Càng ngày, Đức Khâm sứ càng tỏ ra tin cậy và thương mến hắn. Tuy nhiên, khi nghe trình bày xong, Đức Khâm sứ có vẻ lo lắng cho hắn, vì ngài e ngại hắn chưa đủ đức tin, am tường tinh thần Tòa thánh Vatican, dễ làm cho hắn bị lung lạc nếu Giáo hội Hoa Kỳ có quyết tâm chiêu dụ hắn. Chương trình có nhiều thay đổi vào giờ chót, Đức Cha Bề trên tới Sàigòn không phải là Đức Hồng y Spellman, mà lại là Đức Hồng y Pignedoli của Tòa thánh Vatican, do Đức Giáo hoàng Paul VI chỉ sang chúc lành VN tháng hạ tuần tháng 9-1966. Đức Hồng y Pignedoli mời các giám mục Việt Nam mở cuộc họp thảo luận trọn một tuần lễ. Đức Cha chính thức nhắc nhở giáo dân hãy nỗ lực kiến tạo hòa bình VN bằng giải pháp chính trị, ngưng đổ máu. Cha Quỳnh được dự những cuộc họp tập thể giám mục và họp riêng với Đức Hồng y Pignedoli và Đức Khâm sứ Tổng giám mục địa phận Sàigòn.


Đức Hồng y Pignedoli chuyển lời giảng của Đức Giáo hoàng Paul VI, phải uyển chuyển với tình hình, với thời đại con người, Giáo hội VN cố gắng vượt khỏi đoạn đường bế tắc của Hoa Kỳ. Đức Ngài phản đối những cuộc biểu tình “hiếu chiến”, mang tính chất kỳ thị tôn giáo của một xứ đạo di cư liên hệ khắng khít với ông Ngô Đình Diệm. Giáo dân là giáo dân, ông Diệm là ông Diệm. Trong tình thế mới, Giáo hội VN phải cổ động hòa bình, hòa bình tự quyết của mỗi dân tộc, và thực thi chính sách hòa giải theo chủ trương của Cộng đồng Vatican II. Đức Hồng y Pignedoli hỏi: – Để thực thi chính sách hòa giải của Cộng đồng Vatican I, tôi đề nghị với cha Khâm sứ hãy cử cha Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình và linh mục Hoàng Quỳnh sẽ lãnh đạo Giáo hội VN, đứng bên trong ủng hộ một số giáo dân có uy tín hoạt động chính trị công khai, hợp pháp, để Giáo hội không lôi cuốn quá sâu vào nội bộ chính quyền hiện tại. Nhưng thành phần giáo dân thì các Cha định tiến cử ai? Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình liền đề cử luật sư Nguyễn Văn Huyền. Cha Quỳnh bày tỏ ý kiến: – Tôi đề nghị cử giáo sư Nhã (tức là hắn). Đức Khâm sứ đứng về lập trường cha Quỳnh, giải thích: – Tôi cũng tán thành ý kiến chọn giáo sư Nhã. Luật sư Huyền rất hiền lành, đức độ cao, tư cách được mọi trọng nể, nhưng ông chỉ là chuyên viên hành chánh. Giáo sư Nhã lanh lợi, hoạt bát, đặc biệt tuân lời bề trên trọn vẹn, lúc nào cũng nhiệt tâm thi hành đường lối của Cộng đồng Vatican II. Sáng hôm sau, hắn tới trình diện Tòa Khâm sứ. Khi gặp đức Hồng y Pignedoli, hắn quỳ mọp sát đất hôn nhẫn. Đức Khâm sứ ân cần giới thiệu hắn với đức Hồng y: – Giáo sư Nhã đây, đứa con có hiếu với Giáo hội, sau nhiều năm Bề trên thử thách. Xưa kia giáo sư làm việc với ông Nhu, chế độ trọng vọng, nhưng giáo sư không tham lam quyền hành, vật chất, ngay cả chủ nghĩa duy vật của Hoa Kỳ không cám dỗ được giáo sư, đức tin Thiên Chúa không hề bị lung lạc, con chiên ngoan đạo thuần túy. Đức Hồng y Pignedoli rao giảng cho hắn nghe một hồi, sau cùng Đức Ngài hỏi về quan niệm của Phật giáo, của chánh quyền VN, tổ chức Khối


Công giáo đại đoàn kết của cha Quỳnh, Hội đồng tôn giáo của Linh mục Hồ Văn Vui… Đức Ngài kết luận: – Giáo sư có liên quan mật thiết với Quốc trưởng VN (Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia), và giao hảo tốt đẹp với cả Hoa Kỳ. Vai trò giáo sư rất quan trọng. – Kính trình Đức Cha, con phải làm gì, và phục vụ như thế nào cho hợp ý Ngài? Vì con hằng nguyện trọn đời dâng hiến tinh thần lẫn thể xác để làm đầy tớ của Ngài, là người hầu của Giáo hội. Đức Hồng y Pignedoli trìu mến nhìn hắn: – Đã nghe Đức Khâm sứ giới thiệu từ trước, nhưng nay tôi mới hiểu giáo sư nhiều hơn. Cha nói con rõ thâm ý Đức Thánh cha, Ngài chủ trương đứng trên, đứng ngoài chiến tranh VN, để tìm giải pháp hòa giải đôi bên. Ngài muốn, cái còn lại là Giáo hội VN trong lòng dân tộc VN đau khổ này. Chúa đã dạy: “Bình an cho trần thế”. Đức Khâm sứ, Đức Tổng giám mục và cha Quỳnh sẽ dẫn dắt con thi hành sứ mạng Đức Thánh cha giao phó cho Giáo hội VN. Nhân danh Đức Thánh cha, chúc lành con… Ở tư thế quỳ lạy và thần phục, một lần nữa hắn quỳ hôn nhẫn Đức Cha. Đức Hồng y làm dấu thánh giá, trao cho hắn quyển Thánh kinh bằng chữ La-Tinh và tấm ảnh của Đức Giáo hoàng Paul VI. Nhận được tin, Cục R đặc biệt chú tâm nghiên cứu tới chủ trương của Cộng đồng Vatican tại VN, những chỉ thị của Đức Giáo hoàng Paul VI, những đề nghị của hắn gởi lên Cục Chính trị bộ xin thành lập các phong trào phản chiến, các phong trào đòi hoà bình giả tạo, các lực lượng đòi quyền sống, nghĩa là đòi đủ thứ, miễn sao làm hậu phương VNCH rối loạn trật tự, xáo trộn xã hội, tinh thần chiến đấu của binh sĩ bị lung lạc v.v.. Ngày 24-10-1966, Quân đội đồng minh mở cuội Hội nghị thượng đỉnh gồm bảy quốc gia tham dự: Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan, Đại Hàn Và Việt Nam Cộng Hòa tại thủ đô Manille thảo luận về đề tài “hòa bình và sự tiến bộ ở Á Châu và khu vực Thái Bình Dương”. Cũng ngày này, Tổng thống Johnson viếng thăm căn cứ hải quân Cam Ranh trên đường trở lại Hoa Thịnh Đốn, tuyên bố sẽ gia tăng viện trợ tối đa cho VNCH ngõ hầu sớm đoạt phần chiến thắng trong cuộc tự vệ chống Cộng sản Bắc Việt.


Cuối tháng 10-1966, Linh mục O’Connor trở lại Bình An gặp hắn. Cha hỏi hắn: – Ông Thiệu có ý nghĩ gì về Hội nghị thượng đỉnh Manille và cuộc tiếp xúc riêng với Tổng thống Johnson ở Cam Ranh? – Chủ trương chống Cộng cực đoan của ông Thiệu được nhiệt liệt ủng hộ tại hội nghị. Theo ông Thiệu, từ đây VNCH không còn chiến đấu trong đơn độc. Đột ngột Linh mục đặt câu hỏi: – Ông Thiệu nghĩ thế nào về Thánh lệnh của Đức Giáo hoàng do Đức Hồng y Pignedoli vừa chuyển đến Giáo hội Việt Nam? Hắn hơi bối rối. Mặc dầu Cha Quỳnh và hắn cố tình ém nhẹm chuyện này, nhưng Linh mục O’Connor vẫn biết rành mạch qua một “chi nhánh” đưa tin do CIA đặt bên trong Tòa Khâm sứ. Vì thế, bắt buộc hắn phải nói huỵch toẹt ra: – Tôi có thông báo cho ông Thiệu đầy đủ chi tiết cuộc họp giới hạn và mật, chỉ có vài nhà lãnh đạo tối cao của Giáo hội VN được phép tham dự, về những chỉ thị của Đức Hồng y Pignedoli thực thi chủ trương hòa giải, có khuynh hướng tiến bộ, nhưng ông Thiệu có quyết định riêng của ông, chẳng theo đường lối Vatican II chủ trương, vì ông đang tiến hành chiến đấu chống CS, mà VN là tiền đồn tự do của thế giới. (Lời bênh vực có tính cách ủng hộ triệt để trước một đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ, hắn cố ý gieo mầm cho ông Thiệu mang ơn hắn sau này). Linh mục O’Connor có vẻ hài lòng, ngài nói: – Tôi hết sức sùng kính Đức Thánh cha PauI VI. Hàng triệu người trên trái đất đã bị thu hút qua công cuộc vận động hòa bình của Đức Thánh cha. Nhưng đó chỉ là cái nhìn toàn diện. Ngược lại, ở Việt Nam, hoàn cảnh xảy ra vấn đề riêng biệt. Trên lương tâm của một Linh mục, tôi nhận thấy Tổng thống Johnson không phải là người có tư tưởng phát động chiến tranh hoặc giải quyết vấn đề VN bằng chiến tranh. Hằng bao nhiêu năm , Đức Hồng y Spellman từng mưu cầu hòa bình cho VN. Nhưng mọi giải pháp vô giá trị khi mà Hà Nội quyết tâm dùng quân sự lấy trọn miền Nam. Cội nguồn sâu xa của cuộc chiến tranh tàn khốc này, nẩy mầm từ tham vọng CS Hà Nội thôn tính VNCH. Vấn đề là, Hà Nội phải dừng bước xâm lăng, từ đó, nền hòa bình sẽ lộ diện ra ngay.


– Thánh lệnh truyền phán của Đức Thánh cha, là con chiên của Chúa, trực thuộc Tòa thánh Vatican, tôi không dám vô lễ xét đoán, nhưng tôi cảm thông sự băn khoăn lo lắng của Linh mục. Tôi vẫn hiểu, đánh bại ý đồ xâm lược Cộng sản Bắc Việt không mấy khó khăn, bất hạnh là cuộc chiến sẽ kéo dài ra, gây tổn hại hàng triệu sinh mạng cả đôi bên, quả thực đó mới chính là điều lo ngại của Đức Thánh cha, nên Đức Ngài mới kêu gọi hai bên lâm chiến ngồi vào bàn hội nghị tìm giải pháp cụ thể hòa bình cho Việt Nam. Trái lại, tăng cường quân sự, đổ quân thêm vào VN, nhịp độ tàn phá của chiến tranh vô cùng khủng khiếp. Như ngài đã biết, hồi tháng 7-1966 vừa qua, ông Hồ Chí Minh đã ra lệnh tổng động viên. Quân đội BV xâm nhập công khai, sự hoạt động của họ trên tỉnh lộ số 9, trải dài phía sau lưngTrường Sơn, gây cho nhà cầm quyền Việt, Mỹ lo âu. Hắn dừng lại như tìm phản ứng trên nét mặt thông thái của cha Tuyên úy. Cha O’Connor bình tĩnh phân tích: – Vấn đề lớn, là Hoa Kỳ đặt hết danh dự vào cuộc chiến tranh này. Chúng ta gặp một địch thủ đầy mưu mô hiếu chiến, sau lưng họ lại có Nga Sô, Trung Cộng tận lực tài trợ phương tiện chiến tranh. Nhưng Hoa Kỳ không được phép thua, vì tin vào sức mạnh cơ giới. Thất bại nhỏ trong đợt phản công vừa qua, lỗi ở Tổng thống Johnson quá kềm chế quyền hạn xử dụng quân sự của tướng Westmorland tại chiến trường. – Mới đây ông Thiệu có nêu lên sáng kiến, để nhanh chóng kết liễu chiến tranh, giải pháp đúng nhất là đổ bộ lên Bắc Việt như Hoa Kỳ đã từng tiến hành ở Bắc Hàn năm 1951. – Ông Thiệu khá thiển cận khi phóng ra tầm nhìn thế giới ở thập niên 60. Không lực và Hải lực Hoa Kỳ có khả năng áp đảo Bắc Việt. Có thể oanh tạc tiêu diệt các khu nông nghiệp, kỹ nghệ Hà Nội, cô lập địch thủ bằng mạng lưới mìn phong tỏa hải cảng Hải Phòng. Tuy nhiên, cốt yếu là phải chấm dứt chiến tranh ở Nam phần VN. Chúng ta xây phòng tuyến ở tỉnh lộ số 9 (bản đồ hành chánh VN gọi là quốc lộ), cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, chắn đường tiếp tế VC. Chúng ta mở hành quân thẳng vào những vùng chiến bất khả xâm phạm của VC ở Cao Mên, Lào. Các biện pháp vừa kể sẽ thực hiện trong năm nay. – Họ không thấy có gì trở ngại? – Có. Lúc nào mà chẳng trở ngại. Nhưng Tổng thống Johnson đã quyết định.


– Tôi vẫn chưa thông suốt câu Cha nói hôm trước “Maquis dans maquis”? Có phải mang ý nghĩa là chúng ta cô lập những cơ sở du kích ngay trong lòng địch? Linh mục O’Connor cười thỏa mãn: – Hãy coi như vậy đi. – Con thấy hơi khó. – Có biện pháp chấm dứt chiến tranh nào mà dễ đâu. Hắn đóng kịch ngây thơ, giả vờ như chưa hiểu, buộc lòng Linh mục O’Connor phải giải thích thêm: – Khác với chiến thuật VC. Chúng ta đột nhập sâu vào khu chiến của đối phương, xây dựng căn cứ tại đó, rồi mở rộng tầm kiểm soát ra theo vết dầu loang. Đánh bất thần, chớp nhoáng và phát triển rất nhanh ở giữa vùng kiểm soát của địch. Hắn tỏ vẻ như thấu hiểu vấn đề: – Đây là chiến thuật mới. – Rất lợi hại. Ta sẽ bàn thêm khi đem ra thực hiện. Còn bây giờ, chuyện quan trọng hơn, báo tin cho giáo sư biết: Đức Hồng y Spellman sẽ tới Việt Nam vào Giáng sinh nầy. – Ngài đã hiểu là giáo đân VN sẽ phấn khởi biết dường nào. – Đức Ngài là Tổng Tuyên úy quân đội Hoa Kỳ, nên hàng năm chủ lễ Giáng sinh cho quân đội. Giáng sinh năm nay, danh dự đó, Ngài dành cho các binh sĩ đang tham chiến tại Việt Nam. Hành trình thăm viếng của Đức Hồng y Spellman rất khít khao. Linh mục O Connor báo cho hắn biết, Đứng Hồng y chấp thuận cho hắn gặp riêng Ngài trong lúc dùng cocktail sau khi chủ lễ Giáng sinh khoảng 15 phút, vì còn phải dành thời gian đàm luận với ông Thiệu trước khi rời VN. Đây là dịp may ngàn vàng cho một gián điệp. Hắn cần bình tĩnh khai thác tối đa sự liên lạc giữa hắn với Đức Cha. Thực tế, ảnh hưởng Tòa thánh Vatican đối với ông Thiệu chỉ có trên mặt tinh thần. Giáo hội Hoa Kỳ mới đích thực có thẩm quyền “chấm điểm” sự nghiệp và công danh của ông Thiệu. Nghe tin Đức Cha tới thăm, ông Thiệu cho đây là nỗi mừng lớn nhất đời ông. Bởi vì chức vụ Tổng thống VN lọt vào ai, sẽ thấy rõ kết quả sau cuộc viếng thăm của Ngài. Đức Hồng y Spellman cao lớn, bệ vệ, oai nghiêm trong chiếc áo choàng đỏ và cây thánh giá vàng. Da mặt Ngài hồng hào, khoẻ mạnh. Chiếc mũ


nhỏ chụp trên đầu để lộ mái tóc bạc trắng. Ngài chúc phước vắn tắt, gọn, không nặng nghi lễ lắm rồi đi thẳng vào câu chuyện với thái độ thân mật, nhưng có uy quyền. Lời Ngài nói, thể hiện sự xác định Ngài hiểu rõ đang với ai, tuyệt đối tin tưởng lời đặc phái viên giới thiệu, không cần kiểm chứng trực tiếp với đương sự. Ngài xác nhận Ngài rất ân hận về cái chết ông Diệm. Ngài khen tặng cha Quỳnh: – Cha O’Connor chí tâm ca ngợi tài chăn chiên của cha Tổng, nay gặp, được thấy Cha sức khỏe dồi dao, tôi rất mừng. Cầu mong Cha sớm thành đạt nguyện vọng hòa bình VN của Cha. “Do Thái với những người Do Thái” ( Juif avec les Juifs). Đó là ý Chúa. Kinh nghiệm chống Cộng của Cha, Tòa Bạch Ốc rất lưu tâm. Quay qua hắn, bất ngờ Đức Cha hỏi: – Chính giáo sư là người đỡ đầu quốc trưởng Nguyễn Văn Thiệu? – Kính trình Cha, Giáo hội giao cho con bổn phận, con vui mừng lãnh trách nhiệm. Đức Cha đặt tay lên vai hắn khích lệ tinh thần: – Từ rày về sau, hãy ghi nhớ lời tôi cam kết, tôi sẽ làm tất cả để không tái phạm lần thư hai, tương tự trường hợp ông Diệm, đối với một tín đồ Thiên chúa đang giữ vai trò quốc trưởng VN. Giáo sư yên tâm lo bổn phận của mình. – Nhưng con có được phép biết chủ trương của Giáo hội Hoa Kỳ sẽ thích nghi với hoàn cảnh VN như thế nào không? Chỉ về phía Linh mục O’Connor, Đức Cha nói: – Sứ giả của Cha luôn ở bên cạnh nhà thờ Bình An, giáo sư cần thắc mắc điều chi cứ hỏi trực tiếp. Linh mục O’Connor nhẹ nghiêng đầu nhận lời truyền phán của Đức Cha, không lên tiếng sợ làm phí thời giờ quá ngắn của Đức Cha dành tiếp khách. Tiệc rượu tàn, Linh mục O’Connnor dâng Đức Hồng y một gói quà, ngài cầm lấy và nói: – Cha cũng có chút quà kỷ niệm với quý vị. Tặng phẩm do Đức Hồng y tặng cha Quỳnh, Linh mục O’Connor và hắn mỗi người một chiếc lắc vàng, chạm hình thánh Michel, thánh bổn


mạng của Đức Cha và ngài viết hàng chữ: “Pray for us” (Câu nguyện cho chúng ta) Lúc Đức Cha bước ra xe, Linh mục O’Connor bảo hắn hãy thông báo kịp thời cho ông Thiệu giờ giấc Đức Ngài sẽ tới Dinh Độc Lập thăm quốc trưởng Việt Nam. Cùng lúc đó, cha Tuyên úy thông báo tin mới nhất cho hắn biết: – Đức Hồng y truyền lệnh tôi nói lại với giáo sư, chậm nhất 6 tháng nữa VNCH phải tổ chức tuyển cử. – Nếu Đức Cha muốn như vậy, chắn chắn Giáo hội VN sẽ bảo đảm ông Thiệu đắc cử. – Hãy đợi sau khi Đức Cha tiếp xúc ông Thiệu, tôi sẽ thảo luận với giáo sư thêm. Qua ngày hôm sau, hắn vô nhà thờ Phát Diệm, gặp cha Nhuận thông báo thời gian Đức Hồng y tới Dinh ĐộcLập. Hắn đưa cha Nhuận chiếc lắc và xâu chuỗi đá ngọc, nói: – Hai thứ này, Đức Hồng y vừa tặng con, con xin tặng lại ông Chủ tịch (tức ông Thiệu). Xin Cha nói dùm, con sẽ hết lòng cho vận động cho ông đắc cử Tổng thống sắp tới. Rời Phát Diệm, hắn đi tìm Hòe. Hắn nhận thấy đây là dịp thuận lợi nhất đưa Hòe vô Dinh Độc Lập, hắn tìm cách tiến cử Hòe với ông Thiệu. Hắn nói cho tên Hòe nghe những bản tin quan trọng thu lượm nơi Linh mục O’ Conner và biểu Hòe hãy khuyên ông Thiệu cố gắng chinh phục Đức Hồng y đồng thời gây uy thế cho khối Công giáo. Hắn viết thư gởi cha Nhuận, yêu cầu đặc biệt tiến dẫn Hòe với ông Thiệu vì tên Hòe là người của Trung ương Công giáo đoàn kết. Cuối thư hắn nhắc lại, vì có việc khẩn cấp, xin cha Nhuận tranh thủ đưa Hòe vào trình diện ông Thiệu ngay lập tức. Tới Dinh Độc Lập, Hòe chờ khá lâu mới gặp được cha Nhuận. Xem thư hắn xong, cha Nhuận gấp rút đưa thư cho ông Thiệu. Nhưng vì đã đến giờ tiếp Đức Hồng y Spellman ông Thiệu kêu sĩ quan tùy viên ra biểu Hòe về dinh quốc khách đường Tú Xương, ở đó chờ ông Thiệu. Nếu Hòe lọt được, thì nhiều nhân viên Cụm A22 như Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy … hắn sẽ gài vô sau. Trong thời kỳ tranh chức Tổng thống với ông Kỳ, miễn ai có khả năng giúp ông đạt nguyên vọng, tướng Thiệu đều thu nạp để tạo thêm sức mạnh cho vi cánh của mình.


Khoảng 2 giờ đồng sau, từ giã Đức Hồng y Spellman, tướng Thiệu không kip thay quần áo, để nguyên bộ lễ phục, vội vã từ Dinh Độc Lập có đoàn xe vệ sĩ hộ tống đi đến dinh quốc khách gặp Hòe. Cử chỉ thân mật, xem như người nhà, ông Thiệu lôi tên Hòe vào phòng riêng, tự tay rót nước trà mời Hoè uống. Tên Hòe tỉ mỉ tường trình lại những lời hắn căn đặn. Ông Thiệu phấn khởi một cách hồn nhiên, kể lại cuộc tiếp xúc với Đức Hồng y diễn ra quá mức thành công. Hòe hơi bỡ ngỡ thấy ông Thiệu đối đãi hắn như một người bạn thân quen nhau từ lâu, thuật đầu đuôi câu chuyện gặp gỡ Đức Hồng y, và biểu Hòe về kể lại cho Cha và hắn nghe. Đồng thời cũng nhắn lời cám ơn hắn đã tận tình giúp đỡ ông. Hắn hiểu rõ tâm trạng lạc quan của ông Thiệu. Tình trạng hiện thời, tất cả quyền lực hoàn toàn nằm trong tay ông Kỳ, cương vị chủ tịch Ủy ban Hành pháp tức thủ tướng chính phủ. Ngược lại, ông Thiệu “ngồi chơi xơi nước” trên chức vụ chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo quốc gia, tức quốc trưởng VN, ngoài bổn phận tiếp khách và chúc Tết ra, không biết làm gì. Vai trò ông Thiệu chìm lỉm trong sinh hoạt quốc gia. Trong khi ông Kỳ nổi bật lên vì bộc trực, phát ngôn bừa bãi và thích làm quân tử Tàu, mặc nguyên đồ bay đi kinh lý hoặc nổi hứng xách khu trục bay thẳng ra thả bom ầm ầm xuống các căn cứ tiếp liệu Bắc Việt như Vĩnh Linh, Quảng Bình… Vụ nổi loạn miền Trung, đích thân ra Đà Nẳng dập tắt ngôi sao Nguyễn Chánh Thi và đôi khi, “gây lộn” với đại sứ Hoa Kỳ trước diễn đàn báo chí quốc tế. Tâm trạng ông Thiệu lúc bấy giờ rất căng thẳng, phập phồng lo sợ Hoa Kỳ loại ông ra khỏi chính trường và đưa tướng Kỳ làm Tổng thống trong danh sách ứng cử sắp tới. Nhưng qua sự toàn quyền chỉ định của Đức Hồng y Spellman, ông Thiệu đã “trúng tuyển”. Dù vậy, ông cũng vẫn chưa hay biết đã được Hoa Kỳ viết tên ông đứng đầu sổ, nếu không có hắn sốt sắng thông báo tin tức. Những tin hắn gởi đến ông Thiệu, làm ông tràn trề hy vọng và mang ơn hắn sâu đậm. Trong đêm đó, hắn biểu Hòe trở lại Dinh Độc Lập gặp ông Thiệu lần nữa. Hắn cố vấn ông Thiệu thể hiện những cử chỉ chuốc cảm tình với Đức Hồng y Spellman. Đề nghị ông Thiệu gởi quà trả lễ Đức Cha, nhân dịp Đức Cha sẽ tới nhà thờ Bình An từ giã cha Quỳnh, rồi hắn sẽ chuyển gói quà của ông Thiệu lên Đức Cha. Hắn chỉ cách ông Thiệu viết danh thiếp,


trên danh thiếp viết hai hàng chữ Việt-Anh. Hàng tiếng Anh: ” Lieutenant General Nguyễn Văn Thiệu, Chairman of the National Leadership Commitee” (Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia). Hàng chữ Việt viết: “Kính xin Đức Cha cầu nguyện cho Việt Nam”. Ông Thiệu ký tên phía dưới. Hắn hướng dẫn cách gói quà, đề nghị ông Thiệu nên gói bằng giấy có in hình con đấu Hội đồng Quân lực và Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, và gởi kèm theo tấm hình, lựa tấm nào chụp có vẻ phúc hậu nhất. Theo hắn, gói quà như vậy, bao hàm ý nghĩ lẫn lộn tình cảm, ngoại giao, chính trị, tôn giáo và kính trọng người mình tặng. Ông Thiệu ngoan ngoãn làm theo sự chỉ dẫn của hắn. Nhận gói quà trong tay, Đức Hồng y Spellman nổi lên ấn tượng tướng Thiệu và hắn tuy hai nhưng mà một. Đức Cha vui vẻ nói: – Tôi muốn hỏi ý kiến giáo sư về ý niệm ai là người sẽ lãnh đạo VNCH sau khi tổng tuyển cử? Nói rồi, Đức Cha đưa hắn một tờ giấy trắng, biểu hắn viết tên, thử xem quan niệm hắn có trùng hợp với Đức Cha không. Hắn đón được tình hình do Linh mục O’Connor khêu gợi trước, nên viết hai hàng chữ, nêu đích danh và thứ bậc những nhà lãnh đạo VNCH trong tương lai: Bậc nhất: Trung tướng N.V.T. Bậc nhì : Thiếu tướng N.C.K. Đức Hồng y lui cui viết khá lâu. Khi bỏ bút xuống, Đức Cha đưa tờ giấy cho hắn xem. Một bản sơ đồ ngoằn ngoèo và chằng chịt liên kết cơ sở hành chánh tối cao của VNCH và tổ chức của Hoa Kỳ. Đức Cha chỉ vào chỗ vẽ khung hình cơ quan cao nhất VNCH, và vẽ ba ngôi sao ở trên, hai ngôi sao ở dưới. (Hình chụp bút tích Đức Hồng y vẽ sơ đồ thành lập nền Đệ nhị Cộng Hòa, có in trong ấn bản này). * Hắn giơ tờ giấy của hắn lên, cũng trùng hợp tờ của Đức Cha. Hắn nói hớn hở nói: – Trình Đức Cha, người lãnh đạo VNCH phải là con chiên của Chúa. Đức Cha đưa hắn danh thiếp, căn dặn: – Có cần tham khảo ý kiến gì, giáo sư cứ trực tiếp viết thư hoặc điện thoại cho tôi.


Hắn xin Đức Cha tờ giấy có bút tích Đức Cha vẽ sơ đồ sắp đặt vị trị lãnh đạo của hai ông Thiệu, Kỳ. Đức Cha nói: – Con cứ giữ lấy. Có được bút tích này, hắn giữ trong tay hồn và xác của hai ông Thiệu, Kỳ. Kể cả Tòa đại sứ Mỹ cũng kính nể hắn, vì hắn đã được Đức Hồng y giáo chủ Giáo hội Hoa Kỳ đặt vào hàng tin cẩn. Nhân dip đầu năm, Tết dương lịch 1967, Hắn ra lệnh Hòe liên lạc với ông Thiệu, đưa ông Thiệu danh sách linh mục Hoa Kỳ, đề nghị ông Thiệu gởi danh thiếp chúc mừng để khắc phục tình cảm Giáo hội Hoa Kỳ. Ông Thiệu làm y lời hắn cố vấn. Hết sức biết ơn, ông Thiệu có vẻ cảm động tấm chân tình của hắn, viết thư nhờ Hòe trao lại, mời hắn tới Dinh Độc Lập bàn luận tình hình thế giới. (Hình chụp bút tích Ông Thiệu gởi hắn có in kèm sách). ** Hắn phúc đáp thư ông Thiệu, từ chối không thể vào Dinh Độc Lập trong lúc này. Khuyên ông Thiệu, cần giúp đỡ gì hãy liên lạc cha Nhuận hoặc tên Hòe, tránh cho những người đối lập ông Thiệu, đặc biệt tướng Kỳ biết là hắn và cha Quỳnh đang bí mật ủng hộ ông Thiệu. Xem thư, ông Thiệu càng phục và biết ơn hắn hơn. Ghi chú: (*) (**) : Trong sách ghi như vậy, nhưng chúng tôi không tìm thấy trong ấn bản hiện đang có trong tay. Thành thật cáo lỗi cùng quý độc giả. (BVCV) 7. Đôi mắt hắn lúc nào cũng có cảm giác cay cay, nhức nhối vì thiếu ngủ ba đêm nay, sau khi chiếc xe đò bỏ hắn xuống quận Củ Chi, ở lại một gia đình “giao liên” chờ “trạm” cho người ra đưa hắn về “Khu” họp thượng khẩn. Tên “đồng chí” dẫn đường xanh xao, nước da vàng màu cỏ úa, chỉ huy trung đội hộ tống, xuyên đồng ruộng nước bên sông Vàm Cỏ, trong đêm tịch mịch, dẫn hắn dò từng bước thuộc phạm vi chiến khu D. Những con mương, lạch sình lầy, những khu rừng xác xơ, đối với hắn thật trở ngại, vì quen nếp sống “công tác nội thành”, phương tiện vật chất đầy đủ, lên xe xuống ngựa đã thành nền nếp rồi.


Một du kích hậu cần, khệ nệ bưng bình can nhựa đựng nước giếng để hắn rửa chân tay. (Nên hiểu, thông thường di chuyển quân, các tướng lãnh VC lội bộ hộc xì-dầu, ngay cả tướng Trần Văn Trà hoặc đại tướng Trần Chí Thanh và những lúc dừng quân nghỉ ngơi, cấp chỉ huy sư đoàn trưởng trở lên tự động kiếm nước vũng, nước suối, nước ruộng rửa chân tay. Trường hợp của hắn, hậu cần mang nước giếng theo, dâng cho hắn tắm rửa, lối “chiêu đãi” này được dành cho cán bộ cấp Cục Chính trị bộ). Một hậu cần khác, nấu tô mì gói nóng hổi bưng tới dâng trước miệng hắn. Mỗi “trạm” hắn dừng lại nghỉ chân đều được xây hầm kiên cố, B52 oanh tạc trúng cũng không thấm tháp gì. Đúng 4 ngày sau, đoàn giao liên hộ tống hắn về tới R. Đang ngủ mơ màng, hắn phải thức giấc vì có người vỗ nhẹ vào vai hắn: – Dậy đi đồng chí! Đêm qua về khuya lắm phải không? Hắn mở mắt, thấy ánh mặt trời lóe xuyên qua căn hầm. Người đánh thức hắn là một gã mặc bộ quân phục mới toanh, đeo sao lấp lánh, mừng rỡ nhìn hắn. Tóc gã bạc trắng nhưng nước da còn đỏ au nhờ bồi dưỡng sung túc. Khi ấy hắn la lớn: – Văn..! Anh vô lâu chưa? – Mình cũng mới tới R. từ hai hôm thôi. Mình nói với Sang, thình lình qua đánh thức cậu, xem cậu còn nhận ra mình không sau 16 năm không gặp. Hắn và gã tên Văn trước kia từng hoạt động chung tại mặt trận Hà Nội một thời gian vào năm 1946. Khi bộ đội rút khỏi Hà Nội, hắn lui về Thái Bình lãnh công tác mới, tên Văn viết thư giới thiệu đảng bộ địa phương tiến cử hắn. Phần tên Văn tiếp tục phụ trách công việc quân ủy trên vùng Việt Bắc. Họ xa nhau, đến năm 1953, chuẩn bị chiến trường Điện Biên Phủ, trong lúc nằm vùng hoạt động trong khu Công giáo Bùi Chu, tình cờ hắn gặp lại tên Văn tại liên khu 3. Hắn được tên Sang, lúc ấy là Bí thư liên khu nâng đỡ lên trung ương đảng và được Hồ Chí Minh giao công tác đặc biệt. Mấy năm sau đó, Văn được ủy thác phối hợp với đồng chí Tô kiểm soát lại hệ thống “kiểm tin chiến lược”. Khi trình hồ sơ nhân viên “lưới chiến lược”, có tên Vũ Ngọc Nhã (bí danh của hắn do ông Hồ Chí Minh đặt), Phạm Hùng xác nhận hắn có khả năng phụ trách tổ chức hoạt động trong vùng đất đối phương (lúc đó là quân Pháp) Tên Ba Văn nói:


– Khi được tin đồng chí Mười Hương (Trần Quốc Hương) về Thái Bình, tôi có nhắn lời thăm cậu, nhưng cậu lại chuyển về Phát Diệm trước đó rồi. Trước khi vào đây, tôi có lên Thái Bình thăm gia đình cậu. Ba Văn đứa cho hắn tấm hình có chụp cha mẹ của hắn. Và hình vợ lớn hắn chụp chung với bốn đứa con. Nhận được tin gia đình mạnh khỏe do Ba Văn kể lại, hắn bùi ngùi cảm động, bỗng nhiên hắn thấy nhớ quê hương hơn. Cụm trưởng Sáu Dân nhận chức vụ mới, Năm Sang vừa thay thế giữ Cụm trưởng A22 cách đây một tháng (Năm Sang, còn một bí danh khác nữa là Đỗ Mười, hiện nay, 1989, giữ chức thủ tướng chính phủ CSVN). Tình hình biến chuyển mau lẹ, nhất là vì có đồng chí Ba Văn ngoài Bắc vào, nên Năm Sang kêu hắn vô R, thuyết trình các biến cố đang xảy ra ở Sàigòn. Tên Ba Văn cổ võ hắn: – Ráng lên nhé, ta sẽ đánh Mỹ cút Ngụy nhào, thống nhất đất nước, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và tổ quốc giao cho chúng ta. Vừa lúc ấy “đồng chí” Tô (Phạm Văn Đồng) xuất hiện, cặp mắt giảo hoạt, phát ngôn theo âm hưởng của bề trên xoa dầu cù là thuộc hạ: – Tôi biết Sàigòn chả thiếu món gì. Nhưng tôi muốn mang vô đây tặng cậu chút hương vị miền Bắc. Đi đường biển, nhanh, thoải mái, nên mang được những thứ này. Hắn rưng rưng nước mắt, khép nép nhận gói quà trên tay tên Tô. Tính ra có hơn 20 năm, hắn mới gặp những thứ hương vị miền Bắc này. Hắn mở gói thuốc, đưa lên mũi, say sưa hít thưởng thức mùi thơm một hồi, mới châm lửa nhả khói. Vẫn “tập quán” nói như máy, “đồng chí” Tô thuốc nước thuộc cấp: – Chưa bao giờ đất nước ta có bầu không khí tưng bừng như những ngày vừa qua. Bác Hồ hiệu triệu kêu gọi tinh thần ái quốc chống Mỹ, toàn dân đáp lời Bác tình nguyện xung vào bộ đội đánh giặc Mỹ hàng triệu người. Tình hình chuyển hướng có lợi cho chúng ta. Tòa Thánh Vatican bỏ đi quan niệm lỗi thời, nhìn nhận cách mạng chúng ta là chính nghĩa. Cậu ráng vận động giáo dân làm cách mạng theo lệnh Bác, lái các phong trào Công giáo tiến tới cực điểm tiến bộ, phản chiến chống Mỹ, đòi hòa bình, trung lập Việt Nam. Hãy đặt người Công giáo vào vị trí chiến sĩ Cộng sản , chiến sĩ cách mạng giải phóng đất nước. Nhưng kế hoạch đưa


người của chúng ta vào bộ máy cầm quyền Ngụy, cậu tiến hành ra sao? Cậu có thể đưa một đồng chí nào đó của chúng ta vào chức thủ tướng Ngụy được không? – Thưa khó lắm. Ở hàng bộ trưởng thì làm được. Ba Văn góp ý kiến: – Đưa ai cũng được, miễn rằng họ là người của ta hoặc theo ta. Trường hợp đồng chí, dù có uy tín trong chính giới miền Nam, nhưng không nên xuất đầu lộ diện, chấp nhận tham chính trong nội các Nguyễn Văn Thiệu. Theo tôi, ráng xây dựng đưa Hòe vào làm việc bên cạnh Thiệu là đủ rồi, tham lam thêm, tiến sâu thêm CLA sẽ bám chặt đồng chí. Hắn báo cáo: – Hòe có khả năng nhận công tác. Đồng chí Hòe vừa phát hành tập san “Vừng Đông”, nhiều tiến sĩ kinh tế, chuyên gia Mỹ góp mặt viết bài. Tên Tô lại hỏi: – Đặt Hoè ở chức vụ nào? – Công cán ủy viên chính phủ. – Cao hơn chút nữa được không? – Chưa thể được. Đồng chí Hòe không có nhãn hiệu “chính khách” như CIA quy định trong việc tuyển chọn vào chính phủ ông Thiệu. – Đồng chí toàn quyền quyết định. Nếu chúng ta không có người ở vị trí thủ tướng, thì cố gắng cài người ở vị trí sát cạnh thủ tướng. Ba Văn (bí danh của Võ Nguyên Giáp chỉ xài trong những lần vào miền Nam thanh tra cán bộ) nhận định bản báo cáo của hắn: – Cục chính trị bộ đánh giá rất quan trọng những báo cáo của đồng chí. Căn cứ vào những diễn tiến trên các mặt trận chứng minh tin tức đồng chí cung cấp hoàn toàn chính xác, Đảng điều chỉnh các chiến lược phản công đúng lúc. Đồng chí cứ như thế mà tiếp tục. Về những chiến dịch mới của địch, Đảng chỉ thị đồng chí tranh thủ thời gian gởi tin nhanh hơn nữa. Quân Mỹ đã tăng, hai năm tới sẽ tăng thêm nữa. Nhưng như đồng chí định lượng, Đảng cũng tán thành quan điểm này, Hoa Kỳ không có sức chịu đựng một cuộc chiến bền bỉ kéo dài. Chúng ta sẵn sàng tích lũy lực lượng, chấp nhận kéo dài cuộc chiến 20 năm, 40 năm hoặc vô tận. Tình hình trước mắt, chúng ta đã biết chắc trong mùa khô này, Westmoreland chưa thay đổi chiến lược “Lùng và Diệt”, chúng tấn công sâu vào căn cứ chúng ta, trực thăng vận đổ quân xuống ngay cơ quan chỉ huy của chúng ta,


Click to View FlipBook Version