The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập
Cụm A22
Lái Buôn Tổng Thống
Trần Trung Quân

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2023-03-02 22:48:41

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập Cụm A22 Lái Buôn Tổng Thống Trần Trung Quân

Tình báo chiến lược Hà Nội tại dinh Độc Lập
Cụm A22
Lái Buôn Tổng Thống
Trần Trung Quân

nhưng chúng không biết ta sẽ phản công mãnh liệt khi chiến dịch đợt hai mở màn. – Tôi cũng vừa gởi mật tin là hai cuộc hành quân nhằm bao vây R. do Westmoreland phác họa mang tên Attelboro và Cedar Falls. – Đừng lo. Bộ tư lệnh R. đã chuẩn bị đầy đủ. Giờ ta lo chuyện đáng lo, hôm qua đồng chí có nói đồng chí có khả năng đưa người vào chính phủ Ngụy, nhưng không có người? – Đó là điều tôi đang băn khoăn. – Hạng người đó cỡ nào? – Phiếu lý lịch “trong trắng”, quá khứ không dính Việt Minh, có chút danh nhân sĩ, theo đạo Thiên chúa càng tốt. “Đồng chí” Tô khẳng định: – Chúng tôi sẽ tìm người giống như điều kiện đồng chí đòi hỏi. Qua ngày hôm sau cuộc họp tiếp diễn. “Đồng chí” Năm Sang tức Đỗ Mười mở đầu cuộc họp, giới thiệu một nhân viên mới từ Sàigòn vô hồi đêm qua. Ông ta nước da trắng bạch, dáng vóc thư sinh, ăn nói chậm rãi, tỏ ra cân nhắc từng câu nói. Đỗ Mười giới thiệu: – Đồng chí C16. (C16 thuộc lưới nằm vùng trong các cơ quan chính quyền VNCH, không thuộc khâu gián điệp chiến lược). Rồi hướng về phía hắn nói: – Còn đây, đồng chí Hai Long, Cụm A22. Siết tay chào mừng cán bộ C16. Hắn lên tiếng: – Tôi biết C16 từ ba năm nay rồi. Cán bộ C16 phân bua: – Xin báo cáo, nhiều lần nhờ đồng chí Hai Long giới thiệu tôi với Dinh Độc Lập, nhưng anh Hai nhất quyết cự tuyệt. C16, tên thật Bùi Nhượng Thắng, bí thư kiêm cố vấn chính trị cho thiếu tướng Đỗ Mậu cựu Cục trưởng An ninh quân đội VNCH. Bùi Nhượng Thắng theo ông Đỗ Mậu từ năm 1957, khi vướng lệnh động viên 1960, tướng Đỗ Mậu đồng hóa Thắng vào ngành An ninh quân đội và làm việc riêng cho ông. Năm 1964, Thắng nhảy ra làm ký giả với bút hiệu Nhị Hà, toàn viết những bài đả kích chính quyền VNCH nhưng một mực bênh vực tướng ỗ Mậu. Đỗ Mười nói tiếp:


– Bây giờ ta bàn thẳng vấn đề “đặt người” vào bộ máy cao cấp Ngụy quyền. Vậy, đồng chí C16 có là người đúng với tiêu chuẩn do đồng chí Hai Long đặt ra không? Tên Thắng báo cáo với vẻ không tin tưởng người mình tiến cử sẽ được chấp thuận: – Tôi xin giới thiệu với các anh, người có đủ điều kiện để chúng ta cài vô chính phủ Ngụy là anh Huỳnh Văn Trọng. Anh Trọng quê quán Đà Nẵng, thuở nhỏ học trường Dòng Đa Minh (Dominicain), sau bỏ áo chủng sinh , tiếp tục học Luật và lấy vợ thành lập gia đình. Giựt xong bằng cử nhân Luật, Trọng di chuyển vô Huế ngồi ghế dự thẩm, sau ở toà Sơ thẩm Đà Nẵng. Tới năm 1950, anh Huỳnh Văn Trọng làm Bộ trưởng Phủ thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ thời chính phủ Nguyễn Phan Long. Nội các Nguyễn Phan Long sụp đổ, anh gia nhập đảng Xã Hội và trở lại Huế. Đến thời ông Diệm, anh Trọng vô Sàigòn hoạt động cho lực lượng Hòa Hảo, làm Đổng lý văn phòng cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Văn Nhiệm trong chính phủ Liên hiệp lúc ông Diệm còn là thủ tướng. Ông Huỳnh Văn Nhiệm theo ông Bảy Viễn, ly khai chính phủ, định dùng quân sự lật đổ ông Diệm, anh Trọng trở thành mục tiêu truy nã. Anh Trọng ẩn náu trong Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn. Tòa đại sứ Mỹ biết anh, kêu anh đến dạy tiếng Pháp và tiếng Việt cho nhân viên Toà đại sứ. Có cây dù Tòa đại sứ Mỹ che chở, anh thoát khỏi sự truy nã của chính quyền ông Diệm. Anh Trọng gia nhập Phật giáo, soạn kế hoạch chống ông Diệm, giúp quý vị thượng tọa. Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, anh nghỉ dạy học ở Tòa đại sứ Mỹ, nhận làm kế toán sổ sách cho hãng chế tạo phim Kodak. “Đồng chí” Tô (bí danh cố thủ tướng VC Phạm Văn Đồng) cằn nhằn: – Ông Trọng này quá sức hoạt đầu! “Đồng chí” Ba Văn nhận xét về lý lịch Huỳnh Văn Trọng: – Lý lịch tạm coi như gần đúng mẫu người mà đồng chí Hai Long đòi hỏi. Bây giờ tôi muốn biết tư tưởng chính trị của ông ta. Bùi Nhượng Thắng tức C16 khui tư tưởng ông Trọng: – Tôi và anh trọng quen nhau hồi còn học Luật Khoa ở Hà Nội. Lúc đó, Đảng cử tôi vào Hà Nội học, tình cảnh tôi rất thiếu thốn, anh Trọng thương tình đưa tôi về giúp đỡ. Anh Trọng đang là nhân viên nội các chính phủ Nguyễn Phan Long, nên nhà anh an toàn hơn những chỗ khác. Anh Trọng là hạng người không chính kiến, háo danh, nhưng anh lại có bà chị ruột


từng cộng tác hàng ngũ Việt Minh. Mỗi khi bất mãn chính quyền Ngụy, anh Trọng tự trách: “Biết vầy, hồi đó theo Việt Minh cho rồi!”. Nên lưu ý tâm trạng của anh Trọng ở điểm nầy. Khi cần, có thể cảm hóa anh. Ngày 20-9-1954 (tức hai tháng sau khi ký hiệp định Genève), Cục Điệp Báo Miền cử tôi vào Nam công tác, theo dõi những tên lãnh tụ tôn giáo phản động cách mạng, tôi đến nhờ vả anh Trọng. Rồi cũng nhờ anh, nhờ tướng Đỗ Mậu, tôi làm công cán ủy viên ở Bộ Nội vụ sau khi chính phủ ông Diệm đổ. Những năm gần đây, gia đình anh bị phá sản. Vợ anh kiếm chuyện gây gổ anh suốt ngày, rồi bỏ con ra Đà Nẵng ở. Anh ở lại Sàigòn với hai cháu nhỏ. Vợ chồng tôi mang ơn cũ, bồng hai đứa nhỏ về nuôi phụ anh. Anh tỏ ý chán đời cùng cực. Anh hiểu mặt trái Pháp, Nhựt, Mỹ và các triều đại của Ngụy quyền. Đôi khi anh than vãn, là anh lỡ làm hỏng đời anh, vì chọn sai lý tưởng nên uổng công phục vụ. Trong Tòa đại sứ Mỹ, rất nhiều học trò học tiếng Việt, chưa mãn nhiệm kỳ rời Việt Nam, tôi lợi dụng anh khai thác tin tức khá chính xác. Tôi khuyên anh nên liên lạc những nhân viên cao cấp Mỹ trong Tòa đại sứ và xin việc làm đang thời nhờ đó mà tiến thân. Anh chán chường, dứt khoát từ chối. Năm 1964, tôi đưa “Cương Lĩnh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” cho anh đọc. Dò xét thấy anh tán đồng nội dung của Cương Lĩnh, tôi liền nói:”Nếu như Mặt Trận chính thức nhờ anh lấy một số tin tức trong Toà đại sứ Mỹ, anh có vui lòng giúp không?”. Anh vui vẻ nhận lời. Phần lớn tin tức tôi chuyển về R. từ tháng giêng đến nay đều do anh Trọng phụ trách cho tôi. Ba Văn tức Võ Nguyên Giáp hỏi: – Anh Trọng có nghi ngờ anh là người của Đảng không? – Dạ thưa có. Nhưng không bao giờ anh hỏi tôi về chuyện này. “Đồng chí” Tô hỏi Hai Long: – Sao, mẫu người thế ấy có đủ điều kiện của anh chưa? – Dạ đủ. Hạng người như thế, nếu chúng ta khéo giựt dây, họ sẽ giúp ta thành đạt nhiều công tác trọng yếu. Hắn tìm hiểu gia cảnh Huỳnh Văn Trọng: – Tình cảm anh ấy đối với vợ ra sao, mà để chị ấy ra Đà Nẵng sống ly thân với anh. – Ít ai thương vợ bằng anh ta. Anh rất khổ tâm vì thất nghiệp cầm canh, nhà túng quẫn, rước vợ trở về không khỏi gặp lại cảnh gây lộn hàng ngày.


– Bây giờ mình xuất ra hai trăm ngàn (tiền VNCH năm 1967) mua xe cộ, sắm quần áo cho chị, cho con cái, lo tất cả nhu cầu vật chất cho gia đình anh Trọng, tôi nghĩ rằng anh sẽ mang ơn chúng ta. Mà mang ơn chúng ta tức là mang ơn Đảng vậy. Bùi Nhượng Thắng xác nhận: – Làm thế thì mình cải tử hoàn sanh cho anh Trọng rồi còn gì. “Đồng chí” Đỗ Mười ra chỉ thị cho C16: – Phải liên tục giáo dục anh ta giác ngộ lý tưởng cách mạng, lý tưởng Cộng sản. Bỏ ra số tiền lớn đó mua đứt tâm hồn anh ta, nếu anh ta có khuynh hướng tạo phản sau này, đồng chí Hai Long có quyền thay mặt tôi xử tử anh ta. Cuộc họp tan hàng trong bầu không khí “sẽ thắng Mỹ”. Đồng chí Tô, Ba Văn còn bận di chuyển qua Khu C họp với các tướng Trà, Thanh, Độ, Tấn thảo luận các kế hoạch phản công lại tướng Westmorland. ☆ Linh mục O’Connor tới thăm xứ đạo Bình An với chiếc cặp táp đựng tài liệu nặng kịt. Hắn ra tận cửa đón Cha. Cha trải tấm bản đồ lên bàn: – Tôi trả lời câu hỏi của giáo sư hôm trước đây. Chúng ta sẽ mở một cuộc hành quân hỗn hợp Việt-Mỹ có mật danh Junction City, phối hợp nhiều lữ đoàn Hoa Kỳ và các chiến đoàn tổng trừ bị quân VNCH, đánh chớp nhoáng vào mật khu Dương Minh Châu (thuộc tỉnh Tây Ninh, nằm về phía Bắc, sát biên giới Cao Mên), phong tỏa Cục R. Cuộc hành quân tối quan trọng, nhằm giải tán các cơ quan đầu não Hà Nội ở Miền Nam. Các khu vực sẽ bị lấp kín đường lui quân của địch ngay từ ngày đầu hành quân. Vòng vây siết lại chầm chậm, để chờ mũi đột kích do Biệt Kích Nhảy dù trực thăng vận phóng xuống ngay trung tâm Cục R. Cuộc hành quân có thời hạn chấm dứt, nhưng lực lượng án ngữ, tiền đồn tại các khu này không có thời hạn rút quân. Chúng ta lập căn cứ cắt chiến khu Cộng sản ra làm nhiều mảnh, mà bước trước tôi có nói với giáo sư chiến thuật: “Maquis dans maquis”. Hắn gật gật đầu giả đò thán phục kế hoạch: – Tôi nghĩ chúng ta sẽ thu lượm kết quả tốt đẹp như từng mong đợi. Linh mục O’Connor bỗng nhiên dè dặt trở lại:


– Lạy Chúa, binh nghiệp của đại tướng Westmoreland được quyết định trong cuộc hành quân này. Cầu nguyện Chúa phù hộ ông ta. Trong căn phòng nhỏ, khiêm nhượng, dưới ánh đèn lờ mờ (làm bộ mở đèn ngủ), hắn vẽ li chi từng chi tiết cuộc hành quân Junction City để báo cáo thượng khẩn vô cục R. B52 có 3 ngày trải thảm bom xuống “vùng tự do oanh kích” trong một chu vi 50 cây số vuông thuộc chiến khu VC có tên Dương Minh Châu. Cuộc hành quân Junction City chính thức khai diễn lúc 4 giờ sáng ngày 21-2-1967 và gom quân vào chiều ngày 19-4-1967. Các đơn vị liên quân Việt-Mỹ không chủ động được chiến trường khi cuộc hành quân tiếp diễn đến ngày thứ 21. Ở trận địa khắp mọi nơi, VC đã bày sẵn chiến trường, chọn trước những mục tiêu nào sáp trận, những mục tiêu nào nhử quân Việt Mỹ sa lầy sâu vào trận địa. Tóm lại, địch biết cuộc hành quân mà cuộc hành quân không biết địch. Cục R. đã được báo động trước, nên liên quân Việt-Mỹ không giữ được yếu tố bất ngờ. Tướng Westmoreland phải lui quân để tránh sa lầy thêm nữa. Rồi Linh mục O’Connor buồn bã kết luận cùng hắn: – Đã tới lúc ông Westmoreland xét lại chiến lược “Lùng và Diệt địch”. Hình như Việt Cộng đang tính làm một cái gì trên quốc lộ số 9 dọc tới biên giới Lào. 8. Sàigòn, trái tim miền Nam nước Việt, thành phố thân yêu của người xưa, của người hôm nay và của mọi thế hệ. Thành phố lớn lên dưới thời Pháp thuộc, trải qua bao nhiêu vinh nhục theo mệnh nước, bừng nhựa sống sau khi giành được độc lập năm 1954. Sàigòn kiêu hãnh vì đẹp, vì duyên dáng và hiếu khách nên được đời tặng danh hiệu: “Hòn ngọc viễn đông”. Thành phố có tình, có ơn nghĩa, có cưu mang và có hiếu thảo. Chiến tranh làm cho Sàigòn giảm bớt danh dự, bị mang tiếng là một thành phố trụy lạc, sống vội vàng bất cần ngày mai. Những con đường yên tĩnh, núp dưới bóng cây xanh che mát bóng sức nóng miền nhiệt đới. Những con đường nên thơ, hò hẹn, bảo thủ, lo sợ thời cuộc đồng hóa thành “con đường ngoại nhân”. Giờ thay đổi hết thảy. Quân xa ầm ầm chở binh sĩ Hoa Kỳ, mặt cháy nắng, quần áo bám bụi đất, gây tiếng động suốt ngày


đêm trên đường phố. Các tòa bin-đinh sừng sững mọc lên đáp ứng dân cư ngoại quốc đổ xô đến Sàigòn. Khách sạn thi đua xuất hiện, nhà tắm hơi, phòng trà, vũ trường, phòng tẩm quất, động mãi đâm nhan nhản hiện ra thách thức xã hội, một xã hội có truyền thống chọn luân thường đạo lý làm lối đi cho “nhân sinh”, cho công dân, cho nền giáo dục của Việt Nam. Lỗi tại chiến tranh, không đỗ thừa chiến tranh thì tại vận nước, hoàn cảnh, định mệnh, trên 100 ngàn cô gái sống nghề “bán trôn nuôi miệng” (theo thống kê bộ Xã Hội VNCH tháng 4-1969), bám vào lính viễn chinh Hoa Kỳ và lực lượng ma-cô, chạy áp phe, chợ đen, chợ trời, chợ đời ồn ào sinh hoạt theo “thương trường đô-la”. Có người Mỹ, có đô-la. Có đô-la tức phải có thế lực đô-la. Đồng đô-la bức hiếp tinh thần “đói cho sạch, rách cho thơm”, đè bẹp nhân tính con người. Sàigòn vào những năm 1964- 1969, ngột ngạt mùi khói chiến tranh, cay xé mùi thuốc súng đảo chánh, tiếng gầm rú xe hơi, xe gắn máy, tiếng nhạc giựt gân, tiếng phi cơ oanh tạc rít trên bầu trời, tiếng đại bác VC pháo kích, tiếng hoan hô, tiếng đả đảo và tiếng nói ” yêu nước, thương đân, bảo vệ quê hương đến giọt máu cuối cùng” của các tập thể chính trị nhảy đầm, chính trị thờ đô-la, chính trị bỏ chạy. Tại Sàigòn, trung tuần tháng 6-1967, VNCH trân trọng công bố luật bầu cử Tổng thống và Thượng Nghị Viện. Sàigòn lại ồn ào náo động vì những sinh hoạt cổ động ứng cử. Các đảng phái chính trị, các nhóm quân phiệt nô nức đưa người nhảy ra tranh cử. Con số ứng cử viên nhằm ôm chiếc ghế Tổng thống và phó Tổng thống có 11 liên danh ráo riết vận động. Người ta thấy hiện lên những liên danh đứng riêng của ông Nguyễn Văn Thiệu, ông Nguyễn Cao Kỳ, cụ Phan Khắc Sửu, cụ Trần Văn Hương và luật sư bồ câu Trương Đình Du. Một điều hết sức lạ lùng, 11 liên danh tranh cử Tổng thống VNCH không trực tiếp xin phiếu người công dân mà âm thầm chạy đến nhà thờ Bình An xin cha Quỳnh ủng hộ. Cha Quỳnh bàn luận với hắn phân công chia nhau tiếp riêng từng liên danh. Sau cùng, Cha nhận tuyệt đối ủng hộ liên danh tướng Nguyễn Văn Thiệu và cụ Trần Văn Hương. Phần hắn tế nhị giới thiệu ông Nguyễn Gia Hiến, Chủ tịch lực lượng Công giáo di cư, cộng tác với liên danh ông Nguyễn Cao Kỳ, Nhị Hà tức C16 trợ giúp liên danh cụ Phan Khắc Sửu.


Vốn đã hiềm khích sẵn, nay thêm tổng tuyển cử và đứng riêng liên đanh, sự liên hệ giữa hai ông Kỳ, Thiệu càng thêm rạn nứt. Chính trường vào lúc ấy, tướng Kỳ là một ngôi sao nổi bật, có nhiều triển vọng thắng cử hơn ông Thiệu. Tại hội nghị Honolulu, phái đoàn có ông Thiệu, ông Kỳ và tướng Nguyễn Hữu Có, Bộ trưởng Quốc Phòng, nhưng hai vị kia ngồi bên tướng Kỳ ngậm họng uống nước ngọt suốt buổi họp. Trong khi tướng Kỳ hoạt bát, gây cảm tình giới chính phủ Mỹ do bản tính chịu chơi, ngang tàng và muốn nói gì thì nói. Dưới ánh mắt Tổng thống Johnson, ông Thiệu mẫu người thâm trầm, ăn nói chững chạc nhưng nhiều thủ đoạn. Dù Tổng thống Johnson có mến tướng Kỳ nhưng Đức Hồng y Spellman đã chấm ông Thiệu thì Tổng thống Johnson phải ưng ý theo Đức Cha. Một nhóm tướng trẻ không ưa ông Thiệu, đứng sau lưng thúc ông Kỳ tách riêng ra ứng cử. Ông Kỳ tự tin mình sẽ thắng, cho nên liên danh Kỳ – Lộc (Luật sư Nguyễn Văn Lộc, hiện nay sống ở Houston, tiểu bang Texas Hoa Kỳ) ra đời tranh ghế Tổng thống và phó Tổng thống. Tướng Thiệu mời ông Trịnh Quốc Khánh đứng chung liên danh. Ngày 2-7-1967, một cuộc họp tổ chức tại Bộ Tổng Tham mưu, nhóm tướng trẻ ngã về phe ông Kỳ, lớn tiếng yêu cầu ông Thiệu rút lui ra khỏi quân đội, ứng cử trên tư cách dân sự, để tránh chia rẽ vì hai quân nhân cùng nhân danh quân đội khi tranh cử. Ông Thiệu biết rõ, giải ngũ rời hỏi quân đội, ông sẽ trở nên tay trắng và thất cử là cái chắc. Ông nhất quyết phản đối, nêu lên lý do: “Không ai có quyền buộc tôi giải ngũ trong lúc này”. “Tình huynh đệ chi binh” giữa hai viên tướng từ ấy biến sang thù nghịch. Trong thời gian này, hắn bảo tên Hoè chuẩn bị hồ sơ hợp lệ nạp đơn ứng cử Thượng Nghị Viện. Hòe tự nhận xét, hắn rất khó có đủ số thăm đắc cử, vì tên tuổi ít người biết và thành tích đấu tranh gian lao của hắn chỉ nằm ở phạm vi chiến đấu bảo vệ người vợ không “bị” ngoại tình. Nhưng hắn giải thích với tên Hòe, tên tuổi chủ nhiệm tờ báo kinh tế “Vừng Đông” cũng đủ bảo đảm hốt số phiếu khá lớn, phần còn lại mạng lưới tình báo chiến lược Cụm A22 lo. Tên Hoè vẫn giữ nhiệm vụ sứ giả liên lạc giữa hắn và ông Thiệu. Tên Hòe ra vô Dinh Độc Lập, dinh Quốc Khách, Bộ Tổng Tham mưu như ăn cơm bữa để mang thư tay trao ông Thiệu, hoặc thư hồi âm của ông Thiệu trao lại hắn.


Tên Hòe kể lại với cha Quỳnh, theo hắn nhận xét hồi gần đây, ông Thiệu quả thật con người có đủ “chiến pháp” gian hùng, bản tính xảo quyệt, óc đa nghi, nhưng quá háo danh. Ông Thiệu thích nói một chuyện mà ai cũng không tin, là ông, người chủ chốt trong cuộc đảo chánh cố Tổng thống Diệm. Từng tuổi ấy, ông thú nhận ít khi nào nói thật, nhưng lần này ông đành nói thật là ông sợ tướng Nguyễn Cao Kỳ, chỉ cần ông Kỳ bỏ tánh bộp chộp một chút, có óc tổ chức một chút thì ông bị văng ra khỏi chính trường ngay tức khắc, vì “cờ” đang ở trong tay ông Kỳ. Bên cạnh đó, lại còn mất ăn mất ngủ, không biết Hoa Kỳ có tiếp tục xử dụng ông nữa không. Ông nhắn với tên Hoè, tha thiết ngỏ ý muốn gặp riêng cha Quỳnh để thảo biện pháp đối phó ông Kỳ. Hắn đề nghị với Cha, gặp ông Thiệu lúc này không thuận lợi, mặt công khai cần phải đứng ở vị thế trung lập với 11 liên danh ứng cử. Tạm thời, ông Thiệu hãy phái người đến Bình An nói chuyện mật là được rồi. Hai ngày sau, ông Nguyễn Văn Hướng đại diện ông Thiệu lái xe tới nhà thờ Bình An. Ông Hướng đang nắm chức Tổng Thư ký Liên minh dân tộc cách mạng dân chủ xã hội, một lực lượng vừa mới thành lập để đứng sau lưng hậu thuẫn ông Thiệu. Đồng thời ông cũng giữ nhiệm vụ cố vấn, vừa đại diện cho liên danh vận động tranh cử của tướng Thiệu. Hắn hỏi ông Hướng: – Mình cần so sánh thế lực tương quan chênh lệch giữa hai liên danh của quốc trưởng (Ông Thiệu) và liên danh của ông Nguyễn Cao Kỳ để có lối giải quyết hiệu quả. Theo ông, quốc trưởng có quyết định như thế nào? – Quốc trưởng lo lắm, nếu không tăng cường thêm sự ủng hộ từ nhiều phía, phần thất bại đã thấy trước. Giáo dân di cư đoàn kết bỏ phiếu ông Kỳ. Dân miền Nam có cảm tình liên danh ông Phan Khắc Sửu – Phan Quang Đán. Những thành phần có thành kiến với Ông Sửu và ông Kỳ sẽ dồn thăm cho luật sư Trương Đình Du. Như vậy, số phiếu bị phân tán, không tập trung vào liên danh của quốc trưởng. Hắn nói: – Ông phân tích tình hình như vậy rất chính xác với thực tế. Ông Hướng ngỏ lời yêu cầu: – Vì cần ổn định bộ máy chính quyền VNCH, Cha đã không ngần ngại giúp đỡ cả quốc trưởng lẫn ông Kỳ. Tuy nghiên, trong giai đoạn hiện


nay, ông Kỳ tách rời quốc trưởng, ra ứng cử riêng, quốc trưởng là con chiên, ông Kỳ theo đạo Phật, con xin Cha giúp quốc trưởng kêu gọi giáo dân dồn phiếu cho quốc trưởng. Nếu đạt được cương vị Tổng thống, hợp hiến, quốc trưởng sẽ thực thi chính sách quốc gia theo sự chỉ đạo và khuyến cáo của Cha. Chúng ta sẽ không được gì, nếu quyền hành VNCH nằm trong tay tướng Kỳ, một người ngoại đạo. Hắn trả lời thay cha Quỳnh: – Lẽ dĩ nhiên Cha không ủng hộ những liên danh ngoại đạo. Cha sẽ ủng hộ quốc trưởng, vì quốc trưởng là con chiên của Chúa. Xứ đạo Bình An sẽ bảo đảm tận tình ủng hộ quốc trưởng. Nhưng, quyết định thành hay bại trong cuộc bầu phiếu này ở nơi Tòa đại sứ Mỹ. Quốc trưởng bằng mọi cách phải tìm sự ủng hộ triệt để ở đây. – Dạ, đó là mối lo lớn nhất của quốc trưởng. Chúng tôi nhận thấy ông Kỳ có ảnh hưởng mạnh mẽ với Tòa đại sứ, trong khi quốc trưởng không có. Con xin Cha và giáo sư đặc biệt giúp quốc trưởng vấn đề tìm ủng hộ trong Tòa đại sứ. Hắn đóng kịch trên khuôn mặt cố tạo ra vẻ đắn đo, lưỡng lự. Sau khi ông Hướng đi rồi, hắn nói với Cha, hắn sẽ xúc tiến kế hoạch liên lạc Tòa đại sứ Mỹ xin ủng hộ ông Thiệu. Hắn đang suy nghĩ, nghiên cứu từng khía cạnh lợi hại để đưa Huỳnh Văn Trọng vào chính quyền trong lúc này. Hắn thường bàn với tên Thắng C16 về cá tính, đời tư và tiểu sử Huỳnh Văn Trọng. Trọng xác thực là một gã hư đốn của xã hội đang có chiến tranh, loạn lạc, được chiều chuộng vuốt ve, rồi bị hất hủi ruồng bỏ. Mang mặc cảm bị bỏ rơi, Trọng chủ tâm chống lại xã hội do tự ái, do tư thù. Trước khi được kết nạp, Trọng đã trải qua giai đoạn thử thách sự trung thành với lưới nằm vùng, bây giờ đến giai đoạn chót, trắc nghiệm tinh thần gia nhập của Trọng xem sao. Tên Thắng yêu cầu Trọng đi mượn một chiếc xe hơi du lịch, nhờ Trọng đích thân lái đưa một “người quen” của tên Thắng ra vùng VC kiểm soát, cách Sàigòn 80 cây số về hướng Tây Bắc. Trọng hoan hỉ nhận lời, không do dự, thi hành công tác theo lệnh tên Thắng. Trọng chu toàn nhiệm vụ một cách cẩn thận, dè đặt và có óc mạo hiểm tình báo. Tên Thắng tiến cử Trọng gặp liên đanh Cụ Phan Khắc Sửu – Bác sĩ Phan Quang Đán. Bác sĩ Đán vui mừng tiếp nhận Trọng, chân thành mời


Trọng tham gia ủy ban vận động tranh cử. Bác sĩ Đán thay mặt cụ Sửu hứa với Trọng nếu liên danh thắng cử, chức Bộ trưởng Nội Vụ giao cho Trọng. Trọng yêu đời, phấn chấn hẳn lên. Từ một nhà chính trị thất sủng, một người thất nghiệp bị vợ bỏ, được tên Thắng kiếm việc làm, bắc thang cho lên lên lâu đài danh vọng, thử ai mà chẳng mừng và chẳng thọ ơn người bạn cho mình ơn nghĩa. Một số học trò cũ trong Tòa đại sứ Mỹ còn nghĩ tình thầy, cam kết sẽ nâng đỡ Trọng, nếu Trọng đoạt được chức vụ trong chính quyền tuyển cử. Và nguồn tin từ Tòa đại sứ xì ra, Trọng biết liên danh Sửu – Đán chỉ đóng vai trò chia thăm, phân tán sự ủng hộ liên danh Kỳ – Lộc, liên danh ông Thiệu – Khánh mới thực sự chạy tới mức. Tên Thắng báo cáo với hắn: – Trật hết rồi anh Hai ơi! Anh Trọng cho biết liên danh Sửu – Đán không có gì hy vọng. – Anh Trọng lấy tin của ai? – Của đệ nhất tham vụ Tòa đại sứ, Conlom. Sau khi anh Trọng yêu cầu ông ta ủng hộ liên danh hai ông Sửu – Đán thì Conlom trả lời :”VNCH đang có chiến tranh chống Cộng sản, Hoa Kỳ cần một chính phủ gốc quân sự để đương đầu lại Hà Nội”. – Anh Trọng nghĩ sao? – Anh ta buồn. Phần tôi quá thất vọng. Dịp may đưa anh ta vào chính quyền Ngụy đã mất. Anh Trọng cần có chức vụ để quyến rũ chị trở về sống với anh. – Canh bạc này mình đã dự tính, không sai đâu. Anh đừng lo, tôi vẫn có cách khác gài anh Trọng vô chính quyền. Con đường Sửu – Đán bế tắc, mình chọn con đường “Công giáo” đưa anh Trọng đi. Một tuần sau, hắn đối diện với Trọng ở tại nhà tên Thắng. Dưới mắt hắn, Trọng là một người cao lớn, tóc ngả màu bạc trắng, trí thức với cặp kính gọng vàng, ăn nói điềm đạm, tướng tá bệ vệ trong bộ côm-lê. Khuôn mặt phương phi, cân đối, cái đẹp theo lối quan triều đình, nhưng đã nhuộm màu “sương gió” vì bị thời cuộc hạ bệ. Bề ngoài, Trọng có tác phong của một chính khách. Cử chỉ mực thước, cung cách giao tế theo lễ nghi quen thói triều kiến “hoàng thượng”. Hắn đề cập nguyên nhân nào biết đến Trọng:


– Anh Thắng giới thiệu về anh từ lâu, anh có hoài bảo tham gia chính quyền kỳ này. Tôi nghĩ, anh là người có đạo, khối Công giáo không từ nan giúp anh nhiều việc. Trọng thoái thác bằng giọng điệu chán chính trị, nhưng đói khát danh vọng: – Thú thật, tôi ê ẩm cảnh phong ba chính trị, cảnh chạy đua giành giựt quan trường. Nhưng vì anh Thắng khuyến khích, xô đẩy, tôi nghe lời giúp đỡ liên danh hai ông Sửu – Đán. Tuy nhiên, vẫn thấy mình cô đơn, thiếu bạn bè tiếp tay và nhân lực yểm trợ. ̣- Chuyện hai ông Sửu – Đán mình nên quên đi, hai ông ấy không có tư thế nắm quyền chính. – Tôi cũng đoán ra điều ấy. – Anh nên hợp tác với liên danh ông Thiệu. – Tôi chưa có dịp quen ông Thiệu. – Chúng tôi sẽ có cách làm cho anh gần ông Thiệu. Nhưng để tạo uy tín cho anh, chúng ta phải xúc tiến một chiến thuật nhỏ. Vì tôi không để cho ông Thiệu nghĩ anh là người xin việc làm, mà phải tha thiết cần anh. Thái độ phân vân, lo lắng biến mất trên khuôn mặt ông Trọng. Được tiếng tôn trọng sĩ diện và sống cho mặc cảm, Huỳnh Văn Trọng tươi tỉnh nói với hắn: – Các anh biết rõ tâm trạng, tình thế gia đình tôi, lo chu đáo như vậy thì quý quá. Tôi đâu có gì đền ơn các anh? – Đã là bạn giúp nhau, còn đặt thành ơn nghĩa thì chưa phải là bạn. Quên chuyện đó đi. Tôi đề nghị anh liên lạc lại Conlom, nói với y, anh về suy nghĩ, có quyết định không tiếp tục giúp liên danh Sửu – Đán nữa, vì hiện giờ ông Thiệu cậy tôi đứng ra giúp ông, làm trung gian, tổ chức một buổi họp mặt giữa người đại diện Tòa đại sứ và ông ta, ngõ hầu xin Tòa đại sứ yểm trợ ông ta. Tôi tin là Conlom cũng đang chờ có dịp gặp ông Thiệu, vì Tòa đại sứ Mỹ đã kỳ vọng ông Thiệu đắc cử kỳ này. – Việc đó không khó đối với tôi. Tôi vẫn thường xuyên tới lui sứ quán với tư cách giáo sư dạy Pháp và Việt văn cho họ, thực hiện những điều mà anh Thắng đã từng biểu tôi làm. Hắn đi guốc trong bụng Huỳnh Văn Trọng: Trọng đoán biết hắn là cấp trên của tên Thắng, nên đương sự trình bày ước vọng thầm kín:


– Tôi với anh Thắng bạn với nhau hàng mươi năm. Chúng tôi thân nhau như ruột thịt, anh Thắng hiểu hoàn cảnh gia đình tôi, tận tình giúp đỡ tôi… Hắn ngắt lời Huỳnh Văn Trọng: – Anh chớ ngại, chúng tôi sẽ giúp anh đạt ý nguyện. Việc cần kíp bây giờ, anh nên ra Đà Nẵng đón chị về, sở phí tốn kém chi dụng trong gia đình có chúng tôi lo liệu giúp anh. Trọng xúc động rướm nước mắt: – Dạ… – Nếu như Conlom đồng ý giúp anh, anh tức khắc gặp đại diện ông Thiệu, cho biết anh thuộc người đại diện phía Hoa Kỳ phụ trách vận động cho ông Thiệu tranh cử thì họ sẽ tiếp anh như thượng khách. Anh nên nhớ, anh sẽ vô Dinh Độc Lập trên tư thế đó. Cả bọn chia tay ra về với tâm trạng vui vẻ, chờ đón nhận kết quả tốt đẹp. Trưa ngày hôm sau, Trọng tươi cười báo cáo hắn, thuật lại diễn tiến cuộc gặp gỡ với Conlom, cho biết người đại diện của ông Thiệu sẽ được tòa đại sứ Hoa Kỳ niềm nở tiếp đón. Trọng còn cho biết, ông Conlom đã thay đổi thái độ kính trọng và cần thiết tới hắn ta. Ông Hướng nhận được tin, vội vã phóng xe tới nhà thờ Bình An. – Vừa nghe anh Hòe trình bày, ông Thiệu quá mừng, giục tôi vô đây kiếm giáo sư. Đâu ngờ sự việc xảy ra tốt đẹp như vậy. – Ngoài đặc phái viên Đức Hồng y Spellman, Tổng thống Johnson, Bình An chúng tôi có đường dây liên hệ trực tiếp với Tòa đại sứ Mỹ, yêu cầu đệ nhất tham vụ vận động hỗ trợ ông Thiệu. Sự liên lạc có nhiều hứa hẹn. Đại diện của Tòa đại sứ nhờ người trung gian mời ông Thiệu gặp họ, người đó thông báo lại cho ông và ấn định chương trình cuộc họp nay mai. – Theo ông giáo sư, tôi sẽ phát biểu những gì khi gặp họ? – Ông ta là đại diện Tòa đại sứ Hoa Kỳ, nhưng đồng thời cũng là giáo dân của xứ đạo Bình An, Giáo hội tin cẩn, giao ông ta nhiệm vụ móc nối sứ quán Hoa Kỳ để ủng hộ ông Thiệu. Anh nên nói thật những yếu điểm của liên danh ông Thiệu, những khó khăn bị thế lực liên danh ông Kỳ lấn áp, các vấn đề khác, mình bàn sau. – Giáo sư có thể cho tôi biết danh tánh người đó? – Bernard Huỳnh Văn Trọng.


– Đâu ai xa lạ. Ông giữ bộ Nội Vụ thời quốc trưởng Bảo Đại. – Chính xác hơn là thuộc nội các Nguyễn Phan Long. Sang qua thời ông Diệm, ông bị truy nã, nên trốn dạy học trong tòa đại sứ Mỹ. Không hiểu sao ông Đán, ông Sửu quá nhanh mời ông Trọng hợp tác vận động, và hứa giao cho ông bộ Nội Vụ nếu đắc cử. Tôi liền kéo ông ta về phía mình. Theo tôi, kẻ chăn chiên phải ủng hộ con chiên, chứ không nên lo người ngoại đạo! – Dạ, đúng thế. Ông Thiệu có bảo nếu thắng cử thì công việc nội các chia nhau trách nhiệm, ơn đền công trả sòng phẳng. Ông Thiệu không bao giờ quên ơn Bình An. – Tôi nghĩ, người đầu tiên mà tân Tổng thống phải cắt đặt chức vụ, chính là anh. Ông Hướng nhẹ thối thác: – Dạ, khả năng điều khiển công việc quốc gia của tôi thấp kém, nhường người khác tài cao hơn mình. – Anh khiêm tốn đó thôi, cương vị cố vấn, anh phải gánh vác nhiệm vụ thủ tướng khi có tân Tổng thống. – Cám ơn anh, tôi sợ mình chưa xứng đáng. Hắn cố ý tạo cho ông Hướng yên tâm, trong số cận thần phò ông Thiệu hiện nay, không ai dám lăm le ghế thủ tướng mà ông Hướng đã mặc cả với Thiệu cách đây một tháng. Chương trình tiếp xúc diễn ra đúng kế hoạch. Ông Hướng hân hoan đón Huỳnh Văn Trọng trước cửa Văn phòng cố vấn chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, cũng là nơi đặt ban tham mưu vận động tranh cử liên danh Nguyễn Văn Thiệu. Huỳnh Văn Trọng diễn xuất tài hoa trong vai “người đại diện Tòa đại sứ Mỹ”, cử chỉ trầm mặc, nói ít, nghe nhiều, nghiêm nghị trên tư cách phe “đồng minh” VN. Tuy vậy, vẫn sẵn sàng tỏ ra bặt thiệp, rộng lượng, và sốt sắng vì quyền lợi giáo hội mà chân tình giúp con chiên Nguyễn Văn Thiệu. Ông Hướng đặt hết kỳ vọng trong lúc giải bày bằng những lời lẽ rất trân trọng, tha thiết yêu cầu “người đại diện” nói lại Tòa đại sứ Hoa Kỳ hỗ trợ ông Thiệu. Hỏi ông Hướng cặn kẽ về mọi mặt, Huỳnh Văn Trọng hứa sẽ tận tâm tranh dành sự ủng hộ ông Thiệu nơi sứ quán Mỹ. Đồng thời ấn định luôn thời gian đưa ông Hướng vô thăm xã giao Tòa đại sứ Mỹ. Ông Hướng


hết lời cảm ơn Huỳnh Văn Trọng và không quên hứa ngược lại sẽ nói ông Thiệu đền ơn xứng đáng khi “công thành danh toại”. Ông Hướng lịch sự đưa Huỳnh Văn Trọng ra tận ngoài cổng Văn phòng Cố Vấn. Ngày hẹn đã đến. Huỳnh Văn Trọng dẫn ông Hướng vào giới thiệu Tòa đại sứ. Một cuộc tiếp xúc sơ giao, thân mật quanh một cái bàn nhỏ tại Câu Lạc Bộ sứ quán. Phía Hoa Kỳ, ngoài Đệ nhất tham vụ Conlom, người ta thấy còn có sự hiện điện của ông Calhoun, phụ tá chính trị của đại sứ Bunker, (ông Bunker vừa thay ông Cabot Lodge). Huỳnh Văn Trọng giữ phần xướng ngôn viên, giới thiệu chủ nhà lẫn khách viếng thăm. Hai bên trao danh thiếp, ghi địa chỉ, số điện thoại tư gia. Ông Hướng đứng lên, nhân danh cố vấn chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia ngỏ lời cám ơn nồng nhiệt tấm chân tình và sự quý mến của Sứ quán dành cho ông Thiệu, và sự ủng hộ dành cho ông Thiệu trong lần tranh cử này. Ông Hướng cũng cám ơn Bernard Trọng có thiện chí dàn xếp cuộc gặp gỡ hôm nay. Hai ông Conlom và Calhoun đều đặc biệt cám ơn Trọng đứng ra giới thiệu cho hai ông quen được vị cố vấn của ông Thiệu rồi họ chúc lành, chúc phước, chúc đạt thành danh lợi lẫn nhau. Tướng Thiệu nhờ cha Trần Ngọc Nhuận chuyển lời đến nhà thờ Bình An nhiệt liệt khen ngợi hắn và cám ơn Cha đã móc nối Sứ quán ủng hộ ông ta. Một sớm một chiều, Huỳnh Văn Trọng bỗng trở thành nhân vật quan trọng, ung dung ra vào Dinh Độc Lập, được cả ban tham mưu vận động tranh cử ông Thiệu kính nể. Theo như ông Conlom nói hôm trước, Sứ quán đồng ý giao ông Trọng giữ vai trò liên lạc với ông Thiệu và Sứ quán. Ông Hướng xin điện thoại nhà ông Trọng. Đương sự khăng khăng chối từ, nói rằng khi cần liên lạc đương sự, hãy vào nhà thờ Bình An nhắn giáo sư Hoàng Đức Nhã thì có mặt đương sự ngay. Ông Hướng cho đây là lối làm việc có tổ chức, có hệ thống trên dưới, chứ ông Hướng đâu biết Huỳnh Văn Trọng đang đi ở đậu, lang thang nay chỗ này, mai chỗ khác, làm gì có điện thoại tư gia. Do bản tánh bẩm sinh, “đặng chim quên ná, đặng cá quên nơm”, biết chắc Hoa Kỳ triệt để ủng hộ mình, ông Thiệu thẳng thắn đuổi ông Trịnh Quốc Khánh ra khỏi liên danh, công bố liền liên danh mới: Nguyễn Văn


Thiệu – Nguyễn Văn Hướng. Cân đo uy tín, ông Khánh cũng bằng ông Hướng. Ông Thiệu cần ông Hướng hơn, vì ông ta người tâm đầu ý hiệp lại thân tín, và cũng muốn khích lệ ông Hướng hết mình chạy kiếm phiếu cho mình. Một buổi tối từ Dinh Độc Lập trở về, tên Hoè học lại cho hắn biết tình cảnh mất ăn mất ngủ hiện giờ của ông Thiệu. Tuy rằng Mỹ đã đóng đấu bảo đảm, nhưng vốn có tính đa nghi, ông Thiệu nghi luôn cả liên danh mình không đủ uy tín đắc cử. Cứ phập phồng lo sợ số phiếu phân tán sang liên danh ông Kỳ, trường hợp ấy, liên danh Sửu – Đán sẽ có cơ thắng cử. Tướng Thiệu biểu Hoè nói lại với hắn tìm thêm mưu kế mới hạ liên danh ông Kỳ. Hắn tới thảo luận chuyện này với Linh mục O’Connor: – Ông Thiệu suy luận không sai, tình hình này, phe dân sự có thể thắng cử. – Nếu vậy, tại sao hai ông Thiệu, Kỳ không gộp lại đứng chung một liên danh, đoàn kết như vậy, sức mạnh lá phiếu sẽ bay về hết cho hai ông. – Thưa Cha, đó là giải pháp lý tưởng, nhưng con sợ tướng Kỳ không chấp nhận. – Đức Hồng y Spellman muốn Tổng thống VN là người Công giáo, thì ai dám cưỡng lệnh ngài, kể cả Tổng thống Mỹ. – Giáo hội VN cũng nuôi ước vọng đó, nên đổ hết công sức giúp ông Thiệu. – Yên tâm. Chuyện phải đi đúng như vậy. Tôi sẽ bàn luận với ông Bunker. Tôi tin ông ta có đủ thẩm quyền giải quyết những trường hợp phức tạp, ép buộc hai ông Kỳ, Thiệu đứng chung liên danh. Vài ngày sau đó, Linh mục O’Connor nói với hắn là đã đàm luận với đại sứ Bunker, và ông đại sứ cũng tán thành quan điểm của Cha, hy vọng sẽ dàn xếp ổn thỏa vụ đứng chung liên danh Thiệu-Kỳ. Phía sau hí trường chính trị VN, ông Bunker chạy nước rút vận động theo kế hoạch Linh mục O’Connor, kết quả đưa đến Đại Hội Đồng Quân Lực họp tại Bộ Tổng tham mưu, gần 40 tướng lãnh tham dự. Chủ đề thảo luận: Hai tướng lãnh trong một ghế Tổng thống. Tướng Linh Quang Viên phát biểu: – Dân chúng sẽ bảo quân đội đang ở thời kỳ rạn nứt trầm trọng, chia rẽ tình quân đội, tôi nghĩ một người phải hy sinh cho một người ra ứng cử.


Tướng Nguyễn Bảo Trị nêu ý kiến: – Theo tôi, giải pháp có thể thực hiện được là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nên giải ngũ, tranh cử với tư cách dân sự. Tướng Vĩnh Lộc phản ứng: – Tại sao người giải ngũ không là tướng Kỳ, mà cứ bắt buộc là trung tướng Thiệu. Buổi tranh luận tiếp tục. – Cả hai cùng tranh nhau, số phiếu phải phân tán sang liên danh dân sự, ghế Tổng thống sẽ trả lại cho ông già hiền hơn cục bột là cụ Phan Khắc Sửu! Quan điểm vừa nêu lên được đa số hội viên nhìn nhận đúng. Tướng Kỳ nổi giận: – Ông Thiệu muốn thay mặt quân đội ứng cử Tổng thống cứ để ông làm. Tôi sẽ trở về quân đội, sống với anh em Không quân. Lời tuyên bố của tướng Kỳ giữa cuộc họp sôi nổi có ngụ ý là lời cảnh cáo và đe dọa. Tướng Hoàng Xuân Lãm phát biểu: – Anh Thiệu ra một mình chắc gì lấy hết phiếu. Nếu đã từng kêu gọi đoàn kết, thì đề nghị anh Kỳ hãy tỏ thiện chí đoàn kết trước đi, sao anh không đứng chung một liên danh với anh Thiệu. Cả hội trường vỗ tay đùng đùng. Tướng Kỳ nghẹn họng, cay đắng trong lòng khi chấp nhận đứng liên danh với ông Thiệu. Nhưng nhóm tướng trẻ lại lo sợ trong tương lai, ông Thiệu sẽ thu gọn quyền hành khi trở thành tân Tổng thống. Họ liền thảo ra một điều luật, đồng ký tên xác nhận, nếu liên danh Thiệu – Kỳ đắc cử, thì Tổng thống phải tuân theo ý kiến quân đội. Sau đó họ thành lập một cơ chế mới, lấy tên là Quân Ủy Hội, gồm các tướng lãnh từ thiếu tướng trở lên và phó Tổng thống giữ chủ tịch Quân Uỷ Hội, bộ trưởng Quốc Phòng giữ chức phó chủ tịch. Cơ chế Quân Ủy Hội lập theo cơn bốc đồng tùy hứng của nhóm tướng lãnh, hiến pháp VNCH ban hành 1-4- 1967, không có nhìn nhận, thành thử ông Thiệu vẫn là Tổng tư lệnh tối cao QLVNCH. Còn đòi gì nữa, Đức Hồng y Spellman đã kiểm nhận, tướng Kỳ chịu nhượng bộ, ghế Tổng thống chắc 100% về tay ông Thiệu. Nhưng ông ta vẫn lo sợ, âm thầm biểu tên Hoè đi hàng đôi, móc nối liên danh hai ông


Phan Khắc Sửu – Phan Quang Đán nếu đắc cử, dành cho ông ghế bộ trưởng Quốc Phòng. Sự lo âu của ông Thiệu không có gì quá lố. Sự thật, ngày khui thùng phiếu, liên danh Thiệu – Kỳ chiếm số phiếu với tỷ lệ chỉ có 33 phần trăm tổng số phiếu bầu cử ngày 3 tháng 9-1967. Ông Trương Đình Du chiếm số phiếu cao nhất, nhưng không có ai chỉ định ông làm Tổng thống, đành cúi mặt vô ngồi khám Chí Hòa về tội thân “trung lập”. 5 giờ đồng hồ sau khi tuyên bố trúng cử, anh ruột ông Thiệu, ông Nguyễn Văn Kiểu, đi chung với ông Hướng tới nhà thờ Bình An, thay mặt Tổng thống cảm ơn cha Quỳnh và hắn. Trước hai ngày làm lễ tuyên thệ nhậm chức, qua trung gian cha Trần Ngọc Nhuận, Tổng thống Thiệu nhắc nhở cha Quỳnh là sau Thánh Lễ, đúng như lời cam kết trước đây, nhà thờ Bình An sẽ tiến cử một người làm phụ tá Tổng thống, cùng lo chung việc nước. Vì phải kết hợp với ông Kỳ, nên ông Hướng bị loại ra khỏi liên danh Nguyễn Văn Thiệu, và bôi xóa luôn lời hứa bổ nhiệm ông Hướng làm thủ tướng. Tổng thống Thiệu phải dành ghế thủ tướng lại cho luật sư Nguyễn Văn Lộc, người thân tín ông Kỳ, thực thi đúng những lời giao ước buổi đầu. Ông Hướng nhận một chức cho có chức, Tổng thư ký Tổng thống phủ. Tên Hòe thất cử vào Thượng Nghị Viện, nhưng hắn vận động cho tên Hoè nhanh chóng vào làm công cán ủy viên Văn phòng Tổng thư ký phủ Tổng thống, phụ tá ông Hướng. 9. Đầu năm 1967, quân số VC xâm nhập vào miền Nam nhiều trăm ngàn quân, cùng nhiều trăm ngàn quân khác do VC tuyển mộ tại chỗ gia tăng cường lực chiến tranh để đáp lại số quân Hoa Kỳ và đồng minh tham chiến tăng lên hơn 1 triệu người. Pháo đài oanh tạc cơ B52 nâng lên trên 800 phi vụ mỗi tháng. Tổng thống Thiệu giữ đúng lời trả ơn Huỳnh Văn Trọng. Một hôm vào ngày Chúa nhựt , Trọng báo cáo với hắn rằng Tổng thống Thiệu chuyển lời qua ông Hướng, sẽ mời Trọng vô Dinh Độc Lập làm phụ tá ông Thiệu,


đặc trách về chính trị và ngoại giao. Trọng nhận xét cử chỉ ông Hướng không được hài lòng. Sau cuộc bầu cử vừa qua, Huỳnh Văn Trọng trở thành ân nhân Tổng thống Thiệu và đang có thế lực trong Dinh khi vai trò đương sự thay mặt ông Thiệu liên lạc Tòa đại sứ Hoa Kỳ chưa kết thúc. Đồng thời ông Thiệu cũng mời hắn giữ chức phụ tá đặc trách kế hoạch chiến lược. Hắn không được lệnh thượng cấp cho phép tham gia chính quyền VNCH, nên nại lý do sự có mặt của hắn sẽ là mối đe dọa chiếc ghế của ông Hướng. Ông Hướng bỏ nhiều công sức phò tá ông Thiệu, kết quả chẳng có gì, ngay cả giấc mộng thủ tướng cũng không thành. Hắn biểu Trọng chuyển lời lại Tổng thống, hắn cám ơn và xin đứng ngoài chính phủ, vẫn tiếp tục giúp ông Thiệu ở cương vị như trước giờ. Sau đó chuyện mời hắn vào Phủ Tổng thống được mọi người lờ đi. Tên Hòe được ban cho chức Công cán ủy viên văn Phòng tổng thư ký Phủ Tổng thống. Tuy nhiên, tình thế ở trong Phủ khiến hắn không khỏi lo âu. Từ trước nay, ông Hướng có một người thân tín phụ tá ông là Mai Quốc Đống ở chức đổng lý văn phòng. Ông Mai Quốc Đống là sĩ quan biệt phái, tốt nghiệp khóa huấn luyện chống chiến tranh du kích ở Mã Lai, đảng viên Việt Quốc, có trình độ học vấn, có trình độ nghiên cứu các chiến dịch CS, viết lách rất hay. Ông Mai Quốc Đống quản trị tủ hồ sơ mật (vị trí lý tưởng cho gián điệp CS hoạt động), làm công việc con thoi hàng ngày giữa ông Hướng và ông Thiệu. Ông Đống có thể hiểu lầm tên Hòe chực hờ chiếm đoạt chỗ ông Đống (CS muốn thật). Hắn thảo luận với tên Hoè, tạm thời cứ đứng chân trong chân ngoài. Tên Hoè nhận việc Phủ Tổng thống, cùng lúc vẫn liên tục làm việc ở Tổng đoàn Công kỹ nghệ, kiêm chủ nhiệm tập san kinh tế “Vừng Đông”, mới ra vài số đầu đã có tiếng vang (dư luận nghi ngờ tờ báo không viết về kinh tế, mà chĩa mũi dùi mạ ly các đảng phái quốc gia). Ẩn dưới chức vụ mới, tên Hoè quyết tâm khai thác “thế lực” của một nhân viên cao cấp trong Phủ, mở rộng sự giao du với các vị Bộ trưởng, các cơ quan và lưỡng viện Quốc hội, quý vị dân biểu, nghị sĩ. Hòe biết cách khiêm nhường, tỏ ra mình lép vế, nên chinh phục tình cảm ông Mai Quốc Đống không mấy khó khăn. Hắn nói với Hòe, cần công tác chi, cứ giao hắn, hắn phụ ông Đống một tay. Hắn đề nghị ông Đống, muốn nắm tình hình tổng quát diễn biến hàng ngày, phải lập một phòng bản đồ liên lạc chặt chẽ giữa Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha cảnh sát, Cục an ninh


quân đội, cập nhật các diễn tiến trên bản đồ những việc chủ yếu về tình hình quân sự, trận đánh lớn, chiến dịch hành quân, an ninh toàn quốc, và an ninh Biệt khu thủ đô. Ông Đống thấy sáng kiến có óc tổ chức, nên làm theo ý kiến tên Hòe. Ông Đống cởi mở, trao đổi tin tức cho Hoè biết các việc xảy ra trong Dinh Độc Lập mỗi ngày, cho đọc những tin tối mật, những bản nhận định tình hình và chính sách quốc gia VNCH… Không kể những tập tài liệu kinh tế, tài chính, nông nghiệp, khoa học trên tư cách chánh sự vụ Hiệp Hội Công Kỹ Nghệ Gia, tên Hoè còn thu thập đều đặn những dữ kiện quân sự, chính trị, ngoại giao ở cấp độ “bí mật quốc gia” của chính phủ VNCH. Từ năm 1965, Nha Tuyên Úy Công giáo hoạt động mạnh mẽ hơn những năm trước, các linh mục được đào tạo ở viện Hamilton nắm hầu hết các chức vụ lãnh đạo tinh thần cho hơn 200,000 quân nhân Công giáo. Mang danh nghĩa phụ tá Linh mục Hoàng Quỳnh, hắn bám sát Nha Tuyên úy Công giáo, tổ chức gài cán bộ nằm vùng VC đội lốt sĩ quan đồng hóa Tuyên úy vào nhiều cơ sở chỉ huy trong Bộ Tổng tham mưu. Cựu thiếu tá Trần Thiện, nguyên phó tổng chỉ huy lực lượng Tự vệ Phát Diệm, cảm thấy khó sống được gần cha Quỳnh vì cha ghét Thiện bất tài nhưng tự kiêu, tự đại, cạy cục hắn kiếm cho một việc làm lấy kế sinh nhai. Hắn dựa uy tín linh mục O’Connor, xin vị chỉ huy căn cứ Hoa Kỳ vùng Lai Khê (sư đoàn 25 bộ binh Mỹ đóng quân), thầu giặt quần áo cho ông Trần Thiện làm. Không bao lâu, ông Thiện giàu, cảm ơn hắn rối rít. Hắn biểu trả ơn bằng cách cung cấp tinh hình sinh hoạt trong căn cứ để hắn trình lên Ủy ban Công giáo trung ương nắm vững tinh thần chiến đấu của binh sĩ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Đang ngồi chăm chú đọc báo, bỗng thấy có một bóng người đi nhanh vào nhà hắn. Nhìn ra, hắn giật nẩy người lên khi nhận ra người đó là Năm Sang tức Đỗ Mười, Cụm trưởng Cụm A22. Năm Sang đeo kính mát hiệu Pierre Cardin, mặc sơ mi trắng, quần tây ủi thẳng li, đi giày Ba-ta trắng. Cách ăn diện của Năm Sang không che hết được những khuôn mặt có nước danh xanh mét, mất máu do rét rừng hành thâm niên. Hắn chột dạ, lo lắng. Hắn tối kỵ tiếp “đồng chí” trong gia đình. Năm Sang cần chuyện chi thượng khẩn nên phải đích thân xâm nhập thành phố, xông thẳng tới nhà hắn mà không cho giao liên báo trước? Năm Sang đoán biết hắn lo sợ, trấn tĩnh:


– Sẵn dịp đi thanh tra vùng và cơ sở nội thành, tôi ghé thăm sức khỏe “đồng chí”. – Cám ơn thủ trưởng. “Bác” vẫn mạnh? – “Bác” đặc biệt gởi lời chúc mừng anh em Cụm A22. Hắn trịnh trọng kéo ghế mời Năm Sang ngồi. Nhà có tủ lạnh, nhưng hắn cũng đi ra ngoài mua hai chai bia. Trong lúc chờ người bán lấy ly, đập nước đá cục, hắn đảo mắt nhìn trước nhìn sau, thấy không có gì khả nghi, hắn bưng hai ly bia về nhà. Cạn hai ly bia, hắn lấy xe gắn máy đèo Năm Sang tới một quán cà phê, trên đường Đề Thám, bỏ “thủ trưởng” ngồi đó, cắm đầu chạy đi tìm tên Thắng. Nửa giờ sau, hai tên thuộc hạ tìm cho Cụm trưởng chỗ ngủ trong đêm, ở tầng trên, nhà một luật sư hồi hưu người Pháp, đường Hồng Thập Tự, ông luật sư về Pháp nghỉ hè, giao ngôi biệt thự cho quản gia trong nom. Ông luật sự này là bạn học luật sư Nguyễn Hữu Thọ, ông Thọ đang giữ chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Năm Sang cho biết lý do tại sao hắn vào nội thành bất ngờ: -Đã hết giai đoạn 1964-1966, chính quyền Ngụy đắc cử hợp hiến, dân chủ phổ thông đầu phiếu, Hoa Kỳ triệt để bảo hộ, đường lối công tác tình báo cũng theo đó thay đổi. Chỉ đạo mới, phải sắp xếp lại mạng lưới nhân sự, không tuyển thêm nhân viên, thay đổi cách liên lạc, không cần xử dụng trạm Cục R. để đưa tin như thường làm, từ nay, chúng ta sẽ có phái đoàn kiểm soát ngưng bắn, “đồng chí” Ba Lan tới Sàigòn, họ giúp gởi tin, ngoài ra các Tòa đại sứ thuộc những quốc gia phi liên kết đều có đường dây chuyển tin. Cuối cùng, Cụm A22 nên gián đoạn liên lạc với các tổ chức ám sát nội thành, tình báo nội thành để tránh liên lụy nếu các tổ kia bị địch khám phá. Năm Sang hỏi: – Tổ chức đưa người nằm cạnh Thiệu trong Dinh Độc Lập, đồng chí tiến đến đâu? – Thiệu bắn tiếng qua linh mục Nhuận, yêu cầu cha Quỳnh đưa thêm người công giáo vô Phủ trực tiếp giúp y. – Vậy thì tốt quá. Có thêm người, Cụm ta có thêm sức mạnh. Như đồng chí đã lãnh hội, Cụm chúng ta hoạt động song song với các “Lưới” khác: Chuẩn bị sắp xếp chiến trường, trinh sát mục tiêu, theo dõi chiến sự nội bộ địch, ám sát, bắt cóc, thủ tiêu cán bộ cao cấp Ngụy và đầu sỏ Mỹ.


Chúng ta sẽ mở chiến dịch đánh mìn vào nội thành (đặt chất nổ), pháo kích gây tiếng vang, đánh đặc công trước khi mở tổng tấn công. Nghĩa là khi nổ súng tổng tấn công, chúng ta làm cả ba nhiệm vụ: phát triển lưới hoạt động, phục vụ gián điệp, và chiến đấu bên cạnh đại quân tiến chiếm thủ đô Sàigòn. Bây giờ điều lo trước tiên là phương tiện giao thông, chuyển vũ khí, đạn dược từ khu vào nội thành. – Tôi nghĩ đó là trách nhiệm chung của chúng ta, nhưng công tác thì nên tách ra từng phần vụ. Năm Sang cứng ngắc ban quân lệnh: – Không được. Cụm phải ráng sức thi đua làm cả ba nhiệm vụ. Đồng chí đừng sợ những công tác kia có phương hại đến nhiệm vụ gián điệp trường kỳ của đồng chí. Trận đánh sắp tới là trận đánh kết thúc cuộc xâm lăng đế quốc Mỹ, trận đánh quyết định. Chúng ta phải hy sinh tất cả. Hắn trả lời: – Như vậy tôi đã rõ vấn đề. Năm Sang “chỉ đạo” tiếp: – Căn cứ lệnh trên vừa chỉ đạo, Cụm A22 phải nắm ba mục tiêu cùng một lúc: Dinh Độc Lập, Tòa đại sứ Mỹ, Cục an ninh quân đội và Tổng nha cảnh sát, chụp sơ đồ, vẽ vị trí phòng thủ, điều ra lực lượng bảo vệ. Sau hết, bám chặt Tổng thống Thiệu. – Tôi hoàn toàn tuân lệnh cấp trên. Riêng nhiệm vụ bám sát Bunker, tôi sẽ nghiên cứu lại mạng lưới, vì CIA và tình báo Ngụy không tầm thường như chúng ta đánh giá. Năm Sang bắt tay hắn, nở nụ cười hớn hở chờ tin thắng trận trong cuộc tổng tấn công Sàigòn sắp tới. Vừa tới nhà thờ Bình An, ông già gác cổng chạy lại nói: – Cha chánh xứ căn đặn, nếu ông giáo tới, kêu ông giáo lên văn phòng gặp Cha gấp. Cha Quỳnh bỏ điếu cày xuống: – Mình sắp có khách, bàn trước với con, không rồi trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. – Ai vậy, thưa Cha? – Ông Kiểu. Tối hôm qua ông vô đây nhắc lại vụ cha Nhuận nói bữa đó. – Lại chuyện xin thêm người vô Dinh Độc Lập?


Rít một hơi thuốc kéo dài thoải mái, nhả khói mù mịt căn phòng, Cha từ từ nói: – Cha nói với họ, mình đưa người vô trong đó nhiều lắm rồi, người đâu còn nữa mà xin? Chừa lại còn phục vụ Giáo hội chớ. Ông Kiểu bảo, Tổng thống không xin người làm phụ tá, mà cần một người có kích thước hiểu rộng chính trị, uyên bác chiến lược đứng ra công khai phò Tổng thống. Nói rõ ra, ông Kiểu muốn xin một người làm cố vấn cho Tổng thống. Hắn im lặng, mỉm cười đắc thắng. Cha Quỳnh tiếp: – Cha đi guốc trong bụng Tổng thống. Ông ta đang ngồi ghế Tổng thống nhưng bụng dạ lúc nào cũng như dầu sôi lửa bỏng. Ông ngán tướng Kỳ lắm. Chức thủ tướng lại giao người ông Kỳ nắm. Ông Thiệu bị sức ép cả hai phía. Tổng thống cần người Công giáo, mà phải là thứ công giáo di cư cơ, ngồi cạnh ông để bắt nạt tướng Kỳ. – Mình vẫn tiếp tục trả lời như cha Nhuận đã trình tháng trước: Công giáo không bao giờ bỏ Tổng thống, vẫn ủng hộ, tiếp tục ủng hộ, về phần cung cấp nhân lực, phải chờ kiếm người. – Ông Kiểu nói trắng ra, Tổng thống muốn con làm việc. Thời gian gần đây, để tạo uy thế hắn thường xuất đầu lộ diện dưới danh nghĩa thầy Bốn, giáo sư dạy triết. Lệnh ban xuống từ đây hắn phải tranh thủ tăng cường tên tuổi nổi lên giữa chính trường miền Nam do đường dây phụ tá “đỡ đầu” Tổng thống. Hắn buộc phải rời khỏi nơi đồn trú nhà thờ Bình An, mở rộng địa bàn qua Dinh Độc Lập. – Cha là bề trên của con, Cha trả lời như vậy, nếu con chối từ, sanh ra tự ái ông Kiểu. Ông Kiểu tự ái tức Tổng thống cũng tự ái, rồi sinh ra xích mích với Bình An, không tốt. Câu nói của hắn làm Cha vui lòng: – Thầy làm cố vấn Tổng thống, Tòa Khâm sứ sẽ tán thành, Phát Diệm mình cũng không cản trở. Cha không thích ông Thiệu, vì ông “đeo theo”, đảng Đại Việt, tánh tình “nắng sớm mưa chiều”, sáng vầy, chiều khác. Vô đó, con thử lập ra công thức: Dựng lên một Poli-Bureau, gồm ông ThiệuKiểu-Nhã. Sau lập chung Poli-Bureau: Nhã-Hướng-Kiểu, gọi là ban cố vấn đoàn. – Con sẽ làm theo ý Cha, có lợi cho ông Thiệu, cũng có lợi cho mình. Con đứng chân trong chân ngoài đặng có thời giờ lo cho Cha. Hắn lấy xe cha Quỳnh lái tới Dinh Độc Lập.


Hơn ba năm trôi qua, hắn mới có dịp trở lại chốn cũ. Nơi đây, lần đầu hắn tới với tư cách phụ tá Đức cha Lê Hữu Từ, ngày đó làm việc dưới quyền ông Nhu như một công chức đặc biệt cho Phủ. Ngày nay hắn tới trên danh nghĩa được Tổng thống mời làm “quân sư”. Và hắn nghĩ, ông Thiệu cần chớ hắn không cần ông Thiệu. Đã bao nhiêu năm rồi, hắn nuôi một ước mơ duy nhất, chứng kiến được cái ngày cờ đỏ sao vàng cắm lên Dinh Độc Lập, binh đoàn bộ đội giẫm nát Sàigòn, biển lửa của chất nổ phá tan Sàigòn rồi dựng lại một thành phố khác, tên khác, tẩm liệm cái tên Sàigòn, đặt nền cai trị kỷ luật sắt máu trong một chế độ “chính phủ dành toàn quyền xử bắn công dân” mà hắn cho là chế độ thần thánh, bỏ công hàng chục năm theo đuổi. Hắn cũng tin vào số phận. Số phận đưa đẩy hắn nổi trôi trên những chặng đường gian lao công tác, số phận cũng đưa hắn đến đỉnh đài vinh quang “làm thầy” Tổng thống. Nếu vậy, số phận Sàigòn cũng không tránh khỏi lọt vào tay chủ nghĩa Cộng Sản. Ngồi lái xe, hắn có cảm tưởng hắn đang đi tới đích cuộc chơi. Cuộc chơi chiến tranh. Tập thể chỉ huy của hắn và cả hắn lấy chiến tranh là trò nô đùa, làm bàn đạp tiến thân, người Việt Nam có chết xác cao hơn núi, mặc kệ, tập đoàn phục vụ chủ nghĩa vô sản quốc tế vẫn mở trừng mắt, lạnh ngắt lương tâm bước qua thi hài người dân mà tiến tới mục tiêu. Ông Kiểu và ông Hướng tiếp hắn ở trong ngôi biệt thự hai tầng sơn màu xanh đậm, tọa lạc cánh trái Dinh Độc Lập. Ông Hướng vồn vã bắt tay hắn, nói lời chào mừng rồi nhường lại cho ông Kiểu dẫn hắn lên lầu Dinh trình diện Tổng thống Thiệu. Sau khi Dinh Độc Lập bị Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cứ thả bom, ông Diệm cho xây lại trên nền cũ, một dinh mới kiến trúc tân thời, tuyệt đẹp. Dinh có 4 tầng lầu, uy nghiêm, đồ sộ. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên giải kiến trúc La Mã, hiểu ý ông Diệm thực hiện một công trình hiện đại nhưng phảng nét cổ truyền Á Đông. Bên ngoài là những dãy cột trắng giống hình cây trúc, biểu hiệu tinh thần người quân tử. Trên chót nóc dinh, có một lầu hóng gió, tạm gọi Tĩnh Tâm Lầu, và một ô vuông nhỏ dành cho trực thăng lên xuống. Bên trong, các phòng được ngăn chia bởi những tấm kiếng, dày, trong suốt như pha lê, buông rèm vải nhung màu để điều hòa nhiệt độ. Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm không có dịp


cắt băng khánh thành Dinh Độc Lập, một công trình do ông ra lệnh thực hiện. Ông Thiệu ngồi trong phòng làm việc, mặc quân phục, đeo lon trung tướng. Cả hai ông Thiệu, ông Kỳ, dù đã trở thành nguyên thủ quốc gia, nhưng vẫn thích mặc quân phục, đeo huy chương lủng lẳng. Khuôn mặt đầy đặn, lộ ra nét sung mãn quyền tước của cuộc đời; miệng nhỏ, môi ướt át như môi thiếu nữ. Nếu không có mớ tóc nhuốm bạc phía sau ót, cái bụng có dấu hiệu phình ra, người ta nhìn ông Thiệu trẻ hơn tuổi 46. Những ai chưa lần nào biết mặt ông Thiệu, lần đầu tiên vô Dinh Độc Lập, dễ gây ra ngộ nhận tưởng rằng ông Thiệu là một sĩ quan tùy viên cho Tổng thống hơn là một người có dáng dấp Tổng thống. Bằng giọng miền Trung, Tổng thống Thiệu cởi mở tiếp khách: – Hôm anh Kiểu về thuật lại, cho biết anh giáo nhận lời, tôi rất hài lòng. Công anh giáo rất lớn. Một lần nữa tôi cám ơn anh. Hôm nay, tôi nói thật, việc quốc gia bây giờ anh em chúng ta san sẻ nhau lo lấy. Tôi có những việc ngay cả người nhà cũng không nói được, họ có hiểu gì đâu mà nói. Tôi coi anh giáo là người tâm phúc. Việc lớn có liên hệ đến quốc gia, tôi cùng thảo luận với anh, chúng ta xem nhau như ruột thịt. Đó là phần anh lo giúp tôi. Còn bổn phận tôi, anh giáo cần bất cứ chuyện chi cứ nói, tôi lo. – Về mặt cá nhân, tôi tạm thời thấy chưa cần gì, nên không vội phiền Tổng thống. Nhưng tôi xin ghi nhận sự quan tâm của Tổng thống đối với tôi. Tổng thống Thiệu hơi ngạc nhiên, tại sao hắn không đòi hỏi xin xỏ vật chất, rồi nói: – Anh là người cố vấn tôi, tôi phải lo điều kiện vật chất để anh hoàn thành công vụ. Chỗ làm việc, ông Hướng lấy một phòng cạnh tôi, tiện dịp liên lạc. Phần phụ cấp hàng tháng, tiền bạc, xe cộ di chuyển, chỗ ở tư gia, chính phủ lo hết cho anh. – Thưa Tổng thống, hiện nay tôi chỉ cần một chỗ làm việc là đủ. Những thứ khác, tôi xin Tổng thống khi nào cần. Tiện đây, tôi cũng trình trước với Tổng thống, tôi vừa làm việc ở đây, nhưng còn phải lo bổn phận trong xứ đạo Bình An cho Giáo hội. Tôi đã thỉnh ý Cha. Tôi chỉ giúp Tổng thống vì mến trọng Tổng thống, tôi không ăn lương chính phủ, như vậy có lợi cho công việc của tôi ở Giáo hội hơn. Nhận phụ cấp xe cộ, nhà cửa e


không tốt cho hạng người như tôi mang danh thầy Bốn, sống để phụng sự Chúa, chớ không phụng sự nhu cầu vật chất. Người hầu bưng nước uống ra để trên bàn khách. Ông Thiệu tự tay rót rượu Cognac ra hai ly và mời hắn nâng ly. Ông Thiệu uống cạn, phần hắn chỉ uống được phân nửa. Ông Thiệu nói: – Sao yếu vậy, cạn đi chớ. – Quen ở nhà thờ quanh năm, lâu lâu mới nhấm chút rượu lễ với các Cha. Từ từ, trước sau cũng cạn chúc mừng Tổng thống. Thời gian chần chờ khá lâu, Tổng thống mới vô đề: – Tôi đang gặp hai vấn đề, anh cố thu xếp giùm. Một là phía Hoa Kỳ, mình cần phải làm thế nào để khắc phục lòng tin của họ thêm. Điều này hết sức quan trọng. Điều thứ hai, chuyện nội bộ Phủ Tổng thống. Tướng Kỳ người ngoại đạo, đã trở thành địch thủ lợi hại của tôi. Các Cha không hiểu tướng Kỳ lúc nào cũng chờ cơ hội đảo chánh tôi, lật đổ một chính phủ hợp hiến. Nhờ anh giải thích các Cha rõ, ngưng ngay sự ủng hộ ông Kỳ. Phần tôi, tôi sẵn sàng nghe theo sự khuyên bảo của các Cha. Ông Thiệu nói tới đây, ngừng lại chờ hắn có ý kiến. Hắn giải bày ý kiến: – Thế tại sao Tổng thống lại đưa luật sư Lộc lên thủ tướng, chỗ ấy đáng lẽ của ông Hướng? – Mình buộc lòng nhịn ông Kỳ. Tôi mời ông Kỳ và gia đình vô dinh Gia Long, ông không chịu, một lần nữa lại mời ông dọn vô ở luôn trong dinh Phó Tổng thống ở cánh trái Dinh Độc Lập, nhưng ông Kỳ nhất quyết ở trong Bộ Tư lệnh Không quân. Hắn nói lơ lửng: – Chắc ông Kỳ thích không khí phi trường Tân Sơn Nhất? – Không phải vậy. Ông Kỳ rất thương bà vợ trẻ, đẹp, đáng tuổi con ông ta. Bà Kỳ rất thích sống ở đây với gia đình chúng tôi. Riêng việc này, ông Kỳ nhất định không chiều bà. Ông Kỳ quyết tâm ở lại Tân Sơn Nhất, lái máy bay hù chính phủ và các tướng lãnh. Đợi ngày tháng thuận tiện, ông làm lại đảo chánh. Tôi rất ngán cái tánh ẩu của ông Kỳ. – Chúng ta quá kinh nghiệm đảo chánh và phản đảo chánh. Cảnh giác là điều tốt. Nhưng tôi khuyên Tổng thống chớ lo ngại, hiện tình không cho phép mọi cuộc đảo chánh xuất phát từ bất cứ phe nào. Tướng Kỳ chưa dám xử dụng phi cơ thả bom Dinh Độc Lập, chẳng qua đại sứ Bunker


không bật đèn đỏ đó thôi. Tướng Kỳ có máy bay, Mỹ cũng có máy bay nằm bên cạnh, mà lại tối tân hơn. – Vì vậy, tôi rất cần anh lo giao du mật thiết bên phía Tòa đại sứ thay tôi. – Việc này chúng tôi và giáo xứ Bình An vẫn làm. Chúng ta có Đức Hồng y Spellman che chở, có ông Bunker bảo vệ, Tổng thống yên tâm. – Còn một việc nữa, anh lo nốt dùm. – Xin Tổng thống cho biết nội vụ. – Tôi có hai ông anh ruột, là ông Nguyễn Văn Kiểu và Nguyễn Văn Hiếu, mình cũng phải lo cho mấy ổng, chẳng lẽ em là Tổng thống mà để anh thất nghiệp sao. Nhờ anh nói với Cha mai mối liên lạc Tòa thánh Vatican ở La Mã, tôi muốn gởi ông Hiếu làm đại sứ tại Ý Đại Lợi. – Còn phần ông Kiểu, Tổng thống tính sắp đặt cho đi đâu? – Tính giao ổng làm đại sứ lưu động, liên lạc ngoại giao với Hoa Kỳ, xin anh nói linh mục O’Connor can thiệp với Tổng thống Johnson một tiếng. – Tôi xin nhận lời làm trọn phận sự cả hai việc Tổng thống giao phó. Ông Thiệu không đá động đến tình hình quân sự, hắn cụt hứng, và cảm thấy không dám lạm bàn qua đề tài khác, nếu Tổng thống chưa đề cập. Linh mục O’Connor vui mừng khi gặp lại cha Quỳnh, vì đạt được sự hòa đồng giữa Thiên Chúa giáo với nhà cầm quyền VNCH, và sự hợp tác cởi mở giữa Giáo hội Hoa Kỳ và Giáo hội Việt Nam. Cha Nhuận xin Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình lập một nhà nguyện riêng cho ông Thiệu và gia đình, hàng ngày nhắc nhở Tổng thống về đức tin Công giáo, khuyên nhủ vợ con Tổng thống mỗi ngày đọc kinh, dự Thánh lễ ít ra mỗi tuần hai lần. Riêng Tổng thống phải dọn mình, đọc kinh, lần hạt, hết lòng gần Chúa hơn. 10. Dinh Độc Lập, trên sân thượng có một căn phòng hứng gió. Người vẽ kiểu kiến trúc đặt cho cái tên: “Thiên phương Tĩnh tâm lâu”. Những căn phòng khác hoàn toàn bịt kín bằng kính nhằm giữ điều hòa không khí, còn


Tĩnh tâm lâu xây hai hàng cột bao quanh. Đứng ở đây quan sát bốn phía có thể thấy trọn vẹn Sàigòn, đường phố, cao ốc, tòa bin-đin v.v. Nhà kiến trúc có thâm ý dành cho những nhà lãnh đạo quốc gia sau một ngày một mỏi lo việc nước, lên đây ngắm bốn phương trời tìm những giây phút yên tĩnh, giảm bớt sự căng thẳng thần kinh. Nhưng những ông tướng trẻ lãnh đạo VN, đầu óc còn hiếu động, sau giờ làm việc thích những môn giải trí ồn ào hoặc xoa mạt chược hơn là một mình lên Tĩnh tâm lâu thiền tịnh. Họ đã biến Tĩnh tâm lâu thành nơi khiêu vũ đãi khách nhộn nhịp. Nhưng đứng về mặt quân sự, Tĩnh tâm lâu có một vị trí rất thuận lợi để quan sát toàn diện những cơ sở phòng thủ dinh Độc Lập mà VC đang chuẩn bị đánh lớn vào đầu năm tới. Cũng ở đây, quan sát viên có thể lưu ý thấy rõ sự bố phòng của các vị trí hỏa lực phản công, và những địa điểm chiến thuật bao chung quanh dinh Độc Lập, nhằm giữ nhiệm vụ tiếp viện trường hợp Dinh bị tấn công bất ngờ như Thành Cộng Hòa, Lữ đoàn Dù đóng chốt vườn Tao Đàn, Liên đoàn 5 Cảnh sát đã chiến án ngữ dọc theo đại lộ Thống Nhất. Len lỏi vào Văn phòng tổng thư ký ông Hướng, tên Hoè đã ăn cắp được bản đồ phòng thủ dinh Độc Lập và Tòa đại sứ Mỹ. Hắn nắm rõ quân số, các loại vũ khí nặng nhẹ bảo vệ hai khu này, và sơ đồ di tản nhân viên sứ quán trong trường hợp khẩn cấp. Để chuẩn bị chu đáo cuộc tấn công, Năm Sang tức Đỗ Mười mở rộng địa bàn hoạt động của Cụm A22. Gần một tháng thảo luận, tính toán, đề nghị, Bùi Nhượng Thắng đã được ông Đỗ Mậu đứng sau lưng yểm trợ cho ra tờ Thám Tử. Thắng vẫn đóng vai ký giả, có thẻ hành nghề do bộ Thông Tin cấp. Hằng tuần, vào ngày thứ hai, hắn gặp Thắng trao tin tức, kiểm điểm bản phân công tác. Cụm A22 lại được bổ sung một nhân viên mới. Nhân viên mới là Vũ Hữu Ruật. Hắn từng liên hệ làm việc chung với Vũ Hữu Ruật năm 1953 tại Hà Nội. Ruật do Cục Chính trị bộ gài vô hoạt động trong hàng ngũ công giáo năm 1954. Năm 1960, mật vụ ông Ngô Đình Cẩn phát giác, tống giam Ruật. Hắn được trả tự do qua lệnh ân xá của Hội đồng cách mạng sau khi đảo chính ông Diệm. Ra khỏi tù, Vũ Hữu Ruật gia nhập đảng Tự do Dân Chủ của ông Hướng. Và hắn đang giữ chức Tổng ủy viên Tuyên-Nghiên-Huấn (Tuyên truyền, nghiên cứu, huấn luyện) của Đảng Tự do Dân Chủ, chủ tịch Đảng hiện thời là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.


Cả tháng nay, các tổ nằm vùng nội thành thuộc tiểu đoàn 202 Đặc công đã chuyển ồ ạt vũ khí, đạn dược, chất nổ vào Sàigòn để trang bị cho cán bộ đánh đặc công. Nghiên cứu sa bàn trận đánh, hắn thấy dinh Độc Lập nằm ở vị thế sâu trong Sàigòn, không có pháo đài phòng thủ kiên cố, ngoài hai hàng kẽm gai mỏng manh. Nhưng bộ binh VC khó mà đánh thẳng từ ven đô tới đây trong một đêm tiến quân, các công sự bê tông cốt sắt, vũ khí nhẹ không thể phá vỡ. Khi thấy chiếc trực thăng riêng ông Kỳ nằm trên bãi đáp ở tầng thượng, sát bên Tĩnh tâm lâu, hắn vội ghi chú thêm trong bản báo cáo: đề phòng quân địch sẽ dùng trực thăng tiếp viện dinh Độc Lập. Hà Nội đánh điện yêu cầu Cục R. điều nghiên rõ các địa thế khu, vùng, miền khi mở trận đánh, đồng thời tìm hiểu cặn kẽ ý định Bộ Tổng tham mưu VNCH sẽ làm gì trong mùa khô 1967-1968? ☆ Ông Thiệu rất hài lòng sau khi dàn xếp thành công đưa ông Hiếu đi nhậm chức đại sứ ở Ý Đại Lợi và ông Kiểu giũ chức đại sứ lưu động, thường trực vận động tại “hành lang” Quốc hội Hoa Kỳ. Lựa đúng lúc tâm trạng ông Thiệu vui vẻ, hắn khai thác: – Đến nay, Tổng thống có kế hoạch quân sự nào vạch ra để dự liệu đối phó với tình hình chiến tranh hiện giờ chứ? – Hai năm qua, chiến lược đánh VC thường thường do Hoa Kỳ đảm trách. Tôi nhiều lần phản đối, họ vẫn làm ngơ. Tin tức tình báo họ nắm, vì họ có đủ ngân khoản trả lương hàng chục ngàn nhân viên CIA. Trong chính phủ, ai cộng tác với CIA, tôi cũng không biết. Họ biết trước các hoạt động quân sự VC, nhưng họ lại không cho mình biết. Tới bây giờ, phần VNCH chưa có kế hoạch gì. Chúng ta còn phải chờ họ yểm trợ từng kế hoạch. – Mùa khô đã đến, họ có thảo luận với Tổng thống kế hoạch tấn công vào các chiến khu VC chưa? Ta phải biết rõ ý đồ VC, ta cũng phải nắm vững ý định quân sự về phía Mỹ. Công tác thảo kế hoạch chiến lược, ta không thể giao ông bộ trưởng Quốc phòng hoặc Bộ Tổng tham mưu tự ý thực hiện. Tôi nghĩ, ông Westmoreland không làm đúng phận sự một đồng minh khi chưa trực tiếp tường trình chiến lược quân sự của họ sắp tới. – Westmoreland vừa nói cho tôi hay, ông ta sẽ tiếp tục phản công lần thứ ba theo chiến lược “Lùng và diệt”.


– Ông ta có nói, cuộc phản công sẽ nhắm vào khu vực nào không, thưa Tổng thống? – Người Mỹ cũng kín lắm, đợi khi ra tay họ mới thông báo. Chắc họ còn quan sát, nghiên cứu thế trận. – Người Mỹ không đếm xỉa tới chúng ta, nên đợt phản công vừa rồi kết quả hạn hẹp! Ỷ vào sức mạnh vũ khí, khinh thường chiến lược và kế hoạch, họ sẽ thất bại. Theo tôi, những nhà am tường chiến lược quân sự, hình như không tán thành kế hoạch ông Westmoreland. Tổng thống Thiệu trở nên quyết liệt: – Tôi từng nói cho họ rõ, muốn thắng VC nhanh chóng, họ nên làm như đã làm ở Đại Hàn trước kia. Dồn lực lượng đánh ra hậu phương miền Bắc VC giải quyết tận gốc rễ chiến tranh. Địa dư VN và Đại Hàn giống nhau, nằm đài cạnh bờ biển Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ ở thế thượng phong trên mặt biển. Đổ quân lên Bắc Việt, cắt ra từng mảnh nhỏ, lập căn cứ chiến đấu tại đó như Bắc Việt lập chiến khu ở miền Nam. Đánh thẳng vào hậu phương địch, tôi tin rằng Bắc Việt sẽ dừng bước xâm lăng, nghiêm chỉnh thương thuyết và chấp nhận hòa bình VN như chúng ta từng đòi hỏi ở họ. Hắn lái ông Thiệu vào điểm chính để hắn đạt mục tiêu: – Người Mỹ sống trong xã hội dân chủ. Do lẽ đó, chính quyền luôn luôn bị áp lực dư luận, bị quốc hội kèm kẹp, họ không thể mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, làm vậy họ bị thế giới lên án có hành động xâm lăng. – Họ sẽ làm bế tắc mọi chương trình giải quyết VN. Đưa quân sang nhỏ giọt, vô tình dập tắt những lối phản công bất ngờ về quân sự. Đúng ra phải tung quân ồ ạt, đánh nhanh đánh mạnh và chấm dứt chiến tranh trong một năm hay một tháng, dư luận đã đặt trước sự việc đã rồi, làm sao phản ứng kịp. – Ngày nay khác ngày xưa. Năm 1967 không giống năm 1950. Tổng thống Johnson đâu phải tổng thống Eisenhower. – Đúng. – Tạm gác lại những gì ta chưa có. Hoa Kỳ đưa sang đây phân nửa lục quân, phân nửa không quân, phân nửa hải quân, phối hợp gần 1 triệu quân VNCH, vậy mà không thắng nổi chiến tranh. Ta không thắng VC, chẳng qua ta không nắm được mưu đồ VC, không biết địch sẽ làm gì và ta phản ứng những gì. Lực lượng CIA đông đảo, nhưng họ làm việc quá tệ.


– Đặc ủy trung ương tình báo chúng ta còn tệ hơn nhiều. Tôi sẽ kiểm tra cho tổ chức lại. Anh nói đúng, từ bao nhiêu năm ta không biết địch nhưng địch lại biết ta. Qua phần nói chuyện với hắn, người ta có bằng chứng ông Thiệu quá lệ thuộc vào Hoa Kỳ, binh thuyết chiến tranh tự vệ dân tộc ông cũng bị chi phối và người khác quyết định thay ông. Linh mục O”Connor đem lại cho hắn nhiều nguồn tin đáng giá: – Tôi có trình Tổng thống Johnson một bản nghiên cứu, phân tích kết quả cuộc hành quân Junction City. Tôi quả quyết đến lúc Hoa Kỳ phải thay đổi chiến lược. – Tổng thống Thiệu hiện bi quan, hai cuộc phản công vừa qua chưa đủ sức ngăn cản mức bao vây của quân VC. – Quan niệm của Tổng thống là đúng. VC vẫn gia tăng quân sư, tích lũy lực lượng và mức độ xâm nhập cao gấp 7 lần so với năm 1962. Khai thác tù bình, tin tức cho thấy VC sắp dùng đại quân tổng tấn công để gây tiếng vang, tạo sự hoảng hốt trước ngày bầu cử ở Mỹ. Hắn ra dáng điệu tỏ vẻ lo lắng: – VC có thể tấn công Sàigòn không? – Có thể! Mặt khác, VC đang dồn lực lượng phong tỏa quốc lộ số 9. Dường như họ đang tạo một khu Điện Biên Phủ nhỏ nhử quân Mỹ. Ông Johnson vừa chỉ thị ông Westmoreland không nên để xảy ra một Điện Biên Phủ thứ hai. – Thưa Cha, con sẽ cố vấn ông Thiệu, hướng dẫn ông ta phát triển mặt quân sự ở điểm nào? – Tôi tiếc cuộc đảo chính 1963, đã hủy diệt tất cả công trình Ấp Chiến lược. Theo dõi đặc tính của chiến tranh VN hiện nay, không có kế hoạch nào hữu hiệu hơn kế hoạch Ấp Chiến lược. Suy nghĩ một hồi, bỗng cha O’Connor hỏi hắn: – Ông giáo sư có nhận định thế nào về tinh thần chống Cộng của ông Thiệu? – Cực đoan chống Cộng. Nhưng Tổng thống quá ỷ lại vào Hoa Kỳ. – Đáng lo ngại là ở chỗ đó. Giáo sư cố gắng xây dựng cho ông Thiệu từ từ hiểu rằng, cương vị Tổng thống phải mạnh dạn nắm chủ quyền nội bộ quốc gia, chiến tranh này phải do người VN trực tiếp gánh lấy. Người Mỹ không có quyền ở đây lâu.


Hai người im lặng, thả hồn suy tưởng đi mỗi hướng. Linh mục O’Connor có ý ngưng buổi nói chuyện ở đây, hắn vớt vát thêm mẩu tin cuối: – Thưa Cha, ước lượng ý đồ VC trong mùa khô này là quan niệm của riêng Cha, hay quan niệm chung của Bộ Tư lệnh quân sự Hoa Kỳ? – Tôi biết giáo sư lo xa. Giáo sư cứ cho đó là ý kiến chung của giới chức thẩm quyền Mỹ. Các quan sát viên thời cuộc VN có ghi nhận. Cuối năm 1967, xảy ra một số trận đánh dồn dập, có tính chất mở màn. Thượng tuần tháng 11- 1967, VC tấn công vũ bão sư đoàn 1 bộ binh Hoa Kỳ và sư đoàn 5 VNCH ở Lộc Ninh. Chiến trường Cao Nguyên nổ ra trận Đắc Tô, đôi bên thiệt hại nặng nề, Lữ đoàn Dù VNCH phải xin bổ sung tân binh. Vào tháng 12 và 1-1968, các mặt trận, kể cả vùng đồng bằng Cửu Long trở nên yên tĩnh. Bản đồ báo cáo hành quân hàng ngày của phòng 3 Bộ Tổng tham mưu VNCH, phòng họp Tổng thống Thiệu, không có dấu hiệu cho thấy VC sẽ đánh lớn. Hắn “cố vấn” theo luận điệu ru ngủ Tổng thống Thiệu. Mùa khô đã qua nửa mùa mà ý đồ VC cứ quanh quẩn các cuộc tấn công “lấy tiếng”. Các giới chức Mỹ, luôn cả Đức Hồng y Spellman phấn khởi trước tình hình chung toàn quốc khá yên tịnh. Người ta dự đoán đúng, VC chỉ dồn sức ép, gây áp lực các tiền đồn vùng hỏa tuyến như Khe Sanh, Tà Cơn trên lộ số 9. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trấn đóng ở đây, rừng núi trùng điệp, địa hình tương tự Điện Biên Phủ. Nguồn tin tình báo ghi nhận VC đưa những sư đoàn chủ lực bao vây Khe Sanh, cố ý làm lại Điện Biên Phủ thứ nhì. Trận đánh địa chiến, xáp lá cà sắp diễn ra. Ông Thiệu nghe xong, phủi tay trách nhiệm căn cứ Khe Sanh, cho đó là bổn phận Mỹ, Mỹ lo liệu lấy. Ông yên lòng, cận Tết mà địch quân không đánh mạnh, có thể rảnh rang về quê vợ ăn Tết. Tướng Westmoreland mở đợt phản công thứ ba, đẩy quân VC xa Sàigòn. Ông Thiệu vừa kể lại với hắn, ông đã chỉnh đốn xong một phần guồng máy quốc gia như: chọn người bà con của ông là ông Ngô Khắc Tỉnh, coi Bộ Giáo Dục, chuẩn tướng Trần Văn Hai nắm Tổng nha Cảnh sát, chuẩn tướng Nguyễn Khắc Bình nắm Đặc ủy trung ương tình báo. Sự bổ nhiệm tướng Bình do CIA đề cử.


Sự hiềm khích tạo thành ác cảm giữa ông Kỳ và ông Thiệu tiến tới chỗ thù nghịch muôn đời. Ông Kỳ biết tường tận ông Thiệu đang củng cố vi cánh, gom góp quyền hành về một mối, tỉa dần những người theo vi cánh ông Kỳ, rồi dồn ông Kỳ vào các bàn tiệc hoặc ngồi chơi xơi nước. Thế ông Thiệu đang lên như diều gặp gió. Ông Kỳ đành lặng lẽ chịu đừng chờ cơ hội tốt. Phòng làm việc Tổng thống và Phó Tổng thống đặt ở lầu ba. Văn phòng ông Thiệu bên phải, văn phòng ông Kỳ bên trái. Họ chia rẽ ngay cả lối đi trên tấm thảm. Ông Thiệu đi phía phải, ông Kỳ đi mãi phía trái. Chẳng khi nào hai ông đi giữa tấm thảm, và tới ngày mất nước chưa bao giờ hai ông đặt chân qua phần bên kia tấm thảm. Lần thứ nhất, hắn vô văn phòng Phó Tổng thống thăm ông Kỳ. Tánh ông ưa nói, đụng đâu nói đó: – Tôi không phải con chiên, cũng không phải con Phật. Tôi đối xử Phật giáo ra sao, ai cũng biết. Tôi thân Công giáo là muốn Công giáo giúp tôi. Thế thôi. Tôi là con chung của Phật, của Chúa. Anh do Giáo hội biệt phái vô phò ông Thiệu, cũng là giúp cho cả tôi. Anh nhắc nhở ông Thiệu, theo tinh thần biểu quyết của Hội đồng Quân lực chỉ định lúc tôi và ông Thiệu ra tranh cử, là phải tuân theo biểu quyết của Hội đồng. Ông phải san sẻ bớt quyền lực qua tôi là Phó Tổng thống, chớ ác ý biến tôi thành thứ bù nhìn. Kể từ khi chấp chánh với chức Phó Tổng thống, ổng không hề bàn luận chuyện quốc gia với tôi, còn lờ đi bản biểu quyết của Hội đồng. Như vậy, coi được sao? Thời lật ông Hương, chính tôi năm lần bảy lượt đề nghị ổng lên thủ tướng, ổng một mực từ chối. Lúc bấy giờ, tướng nào cũng lạnh cẳng không dám nhận, nên Kỳ này phải thế mấy ổng nhảy vô! Ông Khánh phá rối hết chuyện nọ tới chuyện kia, cũng một tay tôi đánh Nam dẹp Bắc. Truất phế ông Khánh, đưa ông Khánh lên phi cơ tống ra ngoại quốc, cũng Kỳ làm chớ ai vô đây! Nguyễn Chánh Thi toa rập với Phật giáo quậy miền Trung, Kỳ này bay ra tận nơi dẹp loạn! Bao nhiêu gian nan, khó khăn mình tôi lãnh hết. Hội nghị với Johnson ở Honolulu, từ chính trị, quân sự, tới xin đặt cái đài truyền hình cho dân xem, Tổng thống Mỹ mến phục, cũng vẫn là Kỳ này! Ông Johnson mời tôi vô phòng riêng tặng hình, không thèm ngó tới ông Thiệu. Bây giờ mọi chuyện xong xuôi, sóng yên gió lặng, ông Thiệu ngồi không hưởng một mình. Nhờ anh nói ông Sáu (Ông Thiệu thứ Sáu) một tiếng. Ông cứ tiếp tục cái mửng này, tôi coi bộ không xong đâu nhen!


Ông Kỳ rất thích lái phi cơ, đi đâu cũng dùng phi cơ riêng do tự tay ông lái, không cần có phi công phụ đi theo. Mỗi ngày, ông lái phi cơ trực thăng từ Tân Sơn Nhất tới dinh Độc Lập đi làm. Thành thói quen, mỗi sáng ông lượn một vòng, giơ tay chào mọi người rồi mới đáp xuống bãi cỏ trước dinh. Không hiểu vì sao, gần đây, ông nổi hứng cho máy bay hạ xuống ngay nóc dinh Độc Lập. Bãi đáp lại nằm ngay trên phòng ngủ ông bà Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu bực lắm, nhưng cố nhịn để tránh gây gổ với ông Kỳ thêm. Bà Thiệu cằn nhằn với hắn: – Cả nhà tôi không ngủ nghê gì được với cái máy bay mắc dịch của ông Kỳ. Anh nghĩ coi, có ai làm thủ tướng, Phó Tổng thống mà còn khoe khoang nghề lái máy bay, đưa vợ đi chợ, đưa bồ đi chơi, cũng tự mình lái phi cơ. Ông nhà tôi, thường làm việc đến khuya, sáng dậy trễ, đang ngon giấc thì máy bay ông Kỳ ầm ầm hạ cánh ngay trên đầu. Tôi sắp đau thần kinh vì chiếc trực thăng của ông Kỳ! Trong sân Dinh thiếu chi chỗ đậu, cứ nhằm ngay trên đâu người ta mà đáp xuống. Ác vừa vừa nó chớ! – Bà nên bảo ông Hướng trình khéo ông Kỳ một câu. – Bảo gì được, ông Hướng cũng ngán ông Kỳ, ngay cả nhà tôi cũng sợ ông Kỳ, nói ra hiểu lầm sanh – Vậy bà nên trực tiếp nói. Đàn bà nói dễ hơn. Biết đâu ông Kỳ nghe xong rồi thay đổi vị trí đáp phi cơ của ông. Hai ngày sau, hắn tới dinh Độc Lập, thấy trực thăng của ông Kỳ đáp lịch sự ở bãi cỏ trước dinh. Bà Thiệu cười thắng cuộc: – Gia đình tôi thoát nạn rồi! Chiều hôm kia, tôi nói thẳng ông Kỳ, tôi định trồng mấy bụi bông trên sân thượng, nhưng trực thăng quạt gió mạnh quá chừng (hai chữ “quá chừng” giọng người Mỹ Tho hay xài). Ông Kỳ nói: “Tôi sơ ý, sao ông Thiệu không nói sớm tôi một câu?” Nên bữa nay trực thăng đậu xuống bãi cỏ rồi. Hắn đem những lời nhắn gởi của ông Kỳ trình lại ông Thiệu. Ông Thiệu cảnh cáo: – Tôi làm theo hiến pháp qui định. Hiến pháp có ghi Tổng thống làm việc chi cũng phải hỏi ý kiến Quân ủy hội đâu? Quân ủy là cái khỉ gì, tôi cũng chưa để ý trong đó có những ai! Nhờ anh hãy nắm chắc phía đồng minh Hoa Kỳ, tôi loại xong thủ tướng Lộc, thì tôi sẽ gạt luôn ông Kỳ.


Hắn tiếp tục ru ngủ ông Thiệu bằng những tin tức mỗi ngày thiệt hại tinh thần chiến đấu của Hoa Kỳ, tác chiến giảm sút, chiến lược không hợp với địa hình VN. Hắn làm bộ rỉ tai góp phần khuyên can, giảng hòa giữa ông Thiệu và ông Kỳ. Đề tài này chiếm nhiều buổi thảo luận, tốn thời giờ. Bà Thiệu hăng hái tham gia góp chuyện, theo nữ tánh của bà, nhưng ảnh hưởng đáng kể đến ông Thiệu. Những lời khuyên can của hắn có dụng ý đổ lửa thêm dầu. Ông Thiệu ngủ quên, lỡ mang ơn hắn, có thể nghe theo hắn. Nhưng trong Dinh, có một người không ngủ quên, không nghe theo hắn, người đó là nhân viên Đặc ủy Trung ương tình báo VNCH, do tướng Nguyễn Khắc Bình gài vô bảo vệ ông Thiệu. Những ngày đầu năm 1968 (Tết dương lịch) bình thản trôi qua. Sàigòn say sưa trong cơn mê cuồng nhiệt vật chất, chánh trị, tranh chấp, lừa đảo, phản bội, chợ đen, đầu cơ tích trữ. Chợ trời ồn ào những buổi buôn bán đô la xanh, đô la đỏ, hàng PX, hàng siêu thị, hàng quân tiếp vụ, bạch phiến. Nhân phẩm con người mất giá trước hối suất đô la. Lực lượng ma cô, gái mãi dâm, trên 300 băng du đãng hoành xã hội. Dân số tị nạn VC đổ vô Sàigòn gia tăng khủng khiếp, Sàigòn sống trong bầu không khí ngộp thở. Giữa tháng 01-1968, ông Trần Thiện, chủ thầu giặt ủi ở căn cứ sư đoàn 25 bộ binh Hoa Kỳ đóng tại Lai Khê về Sàigòn, báo tin cho hắn biết, không hiểu sao một số tiểu đoàn đang hành quân trên biên giới Tây NinhCam Bốt, thình lình có lệnh rút khẩn cấp về đóng ven đô Sàigòn. Hắn đổ mồ hôi trán, mất ngủ trọn đêm, tự hỏi: Không lẽ CIA biết tin sắp có tổng tấn công, trong khi chính phủ VNCH không hề hay biết? Hắn chạy đến Nha Tuyên úy Hải quân Hoa Kỳ, gặp cha O’Connor hỏi: – Thưa Cha, nguyên do nào tướng Westmoreland hủy bỏ ngang cuộc hành quân biên giới Cao Mên? – Cuộc hành quân vẫn tiếp diễn. Sao giáo sư có thắc mắc này? – Tình báo ông Thiệu báo cáo, có nhiều tiểu đoàn trong cuộc hành quân bỗng dưng được lệnh rút về trước. – Tin đó không hoàn toàn sự thật. Chuyện như vầy, tướng Weyand, Tư lệnh các lực lượng dã chiến vùng III chiến thuật, nghe tin CIA phát hiện những dấu vết chuyển quân của VC chung quanh Sàigòn, nên xin Westmoreland rút bớt quân về trấn đóng khu ngoại ô Sàigòn, phòng ngừa


một chiến dịch nào đó mà VC sẽ làm trước hoặc sau Tết âm lịch. Nhưng chúng tôi chưa vội tin, vì VC vốn giỏi chiến thuật nghi binh. – Thưa Cha, như vậy cũng không có gì thay đổi lớn? – Chẳng có gì, ngoại trừ CIA báo cáo có tổng tấn công trước hoặc sau Tết âm lịch năm nay. Tuy nhiên, ông Westmoreland không chú ý lắm bản báo cáo của CIA, ông chỉ chú tâm hoạt động của địch trên đường số 9 và căn cứ Khe Sanh. Hắn gặp ông Thiệu tường thuật những ghi nhận của người Mỹ về tình hình Khe Sanh và đường số 9. Tướng Westmoreland rút bớt quân về tăng cường an ninh thủ đô và chi viện quân cho mặt trận Khe Sanh. Hắn giấu kín những dấu hiệu VC sẽ tấn công Sàigòn, do CIA báo cáo. Ông Thiệu một lần nữa lờ luôn vụ Khe Sanh, ông chỉ muốn Sàigòn đừng có lộn xộn là ông yên lòng. Cận ngày Tết, tướng Westmoreland tới tiếp xúc ông Thiệu bàn những chi tiết ngưng bắn đã thành “tục lệ” hàng năm nhân dịp Tết Nguyên Đán. Tướng Westmoreland nhấn mạnh: – Hoa Kỳ nhận được tin Bắc Việt sẽ đánh lớn Tết này. Họ đánh toàn bộ miền Nam trong một đêm hoặc một ngày theo chiến thuật Tổng nổi dậy, cướp chính quyền VNCH. Tôi yêu cầu Tổng thống nên hủy bỏ lệnh ngưng bắn, ra lệnh cấm trại binh sĩ và cho tăng cường hỏa lực phòng thủ. Ông Thiệu trả lời rất tự tin, theo lề lối của một lãnh tụ có óc nhận xét thiển cận và không biết gì về thời cuộc (không biết thật! nên năm 1975 ra lệnh bỏ cao nguyên, phá banh hàng ngũ quân đội VNCH): – Với tôi, VC chưa làm được gì, một vài trận đánh lẻ tẻ họ cố ý tạo tiếng vang. VC chưa dám và chưa đủ sức đánh thẳng vô Sàigòn. Đại tướng chớ quá lo lắng. Tình hình an ninh năm qua chúng ta bình định được hơn 60%. Phương diện chính trị, tôi cần thỏa hiệp ngưng bắn vào những ngày Tết cổ truyền VN nhằm chứng tỏ với thế giới một khuôn mặt hoà hoãn của VNCH. Thêm vào đó, hủy lệnh ngưng bắn, binh sĩ chúng tôi sẽ hoang mang, cho rằng tình hình VN chưa được cải thiện tốt đẹp như tôi có hứa với quốc dân đồng bào tôi. Tôi dự tính cho quân nhân đi phép về gia đình ăn Tết 50%, đây là một phần thưởng xứng đáng chính phủ ban cho họ. Tướng Westmoreland ngao ngán:


– Nhưng thưa Tổng thống, phương tiện tình báo CIA có một lịch sử hoạt động chính xác, họ ít khi báo cáo sai, vì người của CIA lúc nào cũng có mặt trong bộ chỉ huy CS Hà Nội. – Vẫn sai như thường. CIA không hiểu VC bằng tôi, tôi từng đánh VC hơn hai mươi năm qua. – Nhưng để bảo vệ quân nhân Mỹ trong những ngày VC và VNCH tuyên bố ngưng bắn, Hoa Kỳ không tôn trọng lời tuyên bố của hai phía. Chúng tuyệt đối không tin VC có thiện chí ngưng bắn. Trái lại, họ đang chuẩn bị đánh lớn, đánh mạnh thẳng vào dinh Độc Lập. – Tôi chiều ý đại tướng, tôi sẽ không ngưng bắn với VC ngoài vùng I chiến thuật. – Những vùng khác, thời gian ngưng bắn bao lâu? – 48 giờ. Nhưng chúng tôi rút xuống còn 36 tiếng. Lệnh này lập tức hủy bỏ nếu VC vi phạm. Ông Thiệu nói cho hắn nghe buổi viếng thăm của Westmoreland. Ông kết luận Hoa Kỳ quá bi quan tình hình những ngày Tết Việt Nam, họ sợ VC tấn công bất ngờ. Đó là lối sợ ám ảnh của những nhà chính trị yếu bóng vía. Ông Thiệu cho biết, ông không tin CIA báo cáo đúng. Phủ Tổng thống, bầu không khí sinh hoạt những ngày cuối năm uể oải, mệt mỏi. Gặp nhau, câu hỏi đầu tiên: Tết này có về quê ăn Tết không? Mua sắm những gì? Tinh thần nghỉ hưởng xuân rộn rịp trong lòng mọi người. Hắn chuẩn bị thật chu đáo cho riêng hắn. Trận tấn công VC diễn ra, Sàigòn bắt buộc phải giới nghiêm. Hắn phải chứng minh những giấy tờ đặc biệt để có thể di chuyển khắp nơi mà không bị nghi ngờ. Cố vấn Tổng thống đi đâu lên miệt Củ Chi trong khi dinh Độc Lập bị ăn pháo kích, hắn trả lời ra sao khi bị cảnh sát chận hỏi bất ngờ. Hắn nghĩ cách đi thông suốt lộ trình vùng VC qua vùng VNCH. Suy nghĩ rồi, hắn liền nhờ tới tổ chức viện trợ Công giáo quốc tế Caritas mà hắn hiện là ủy viên. Hắn đến lấy sẵn một chứng minh thư của Caritas, và xin một lá cờ Hồng Thập Tự phòng khi hữu sự. Ông Thiệu cho người kêu hắn tới Dinh. Ông bà Thiệu ngồi trước một cành đào và một danh thiếp chúc Tết đầu năm, ông Thiệu nói:


-Ở Hồng Kông vừa gởi về cành đào, hiếm lắm, vợ chồng tôi nghĩ dịp Tết này phải tặng Cha. Bà Thiệu xen vào: – Mong ông giáo trình lại với Cha, đây là tấm lòng kính mến đối với Cha của vợ chồng tôi. Cha sinh trưởng miền Bắc, chắc sẽ nhớ cành đào trổ nụ mỗi độ xuân về. Hắn thay mặt cha Quỳnh rối rít cám ơn ông bà Thiệu. Tên Hoè chờ hắn ngoài cổng Dinh, miệng xuýt xoa: – Cành đào đẹp quá! Hắn cười: – Mình nhận đem về tặng Cha. – Phải để trong nhà thờ Bình An, dành cho mọi người thưởng thức. – Mình nói bạn nghe một tin thắng lợi mới: Ông Thiệu vừa cho quân nhân nghỉ phép 50% ăn Tết Nguyên đán. Ông Hướng đã gởi thông tri cho các báo đăng sáng sớm ngày mai. – Lạy Chúa! Chúa thương người Cộng sản chúng con! – Vùng I chiến thuật thì không có lệnh ngưng bắn. Bác ở ngoài Bắc nghe tin này chắc sẽ vui mừng và dân miền Nam sẽ rộn ràng nghe đại bác nổ thay tiếng pháo mừng xuân thắng lợi của Đảng ta. Trưởng khu đặc công Sàigòn Chợ Lớn, Trần Bạch Đằng, vừa gắn xong đài vô tuyến liên lạc từ Sàigòn ra thẳng Lộc Ninh qua “trạm” B2 tiền phương của cục R. Trạm liên lạc này đạt trong trụ sở Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, cạnh chùa Vĩnh Nghiêm, đường Công Lý. Hắn đến đánh tin gởi đi tối khẩn với nội dung như sau: “Có lệnh ngưng bắn dịp Tết Stop. Thời hạn 36 tiếng đồng hồ Stop. Trừ vùng I Stop. 50% quân số đi nghỉ phép Stop.” 11. Khi viết lại về khúc sử này, có thể có sử gia bắt đầu như sau: ‘Năm Mậu Thân (1968) đó, lịch hai miền Nam Bắc Việt Nam khác nhau, chênh lệch 24 giờ. Mùng Một Tết Nguyên Đán của miền Nam đến trước một ngày so với miền Bắc v.v…”


Với hắn những ngày cận Tết Mậu Thân, hắn sống trong trạng thái cực độ căng thẳng thần kinh. Công tác chủ yếu là bám chặt ông Thiệu. Giờ nổ súng sẽ được chọn trong dịp Tết trong thời gian hưu chiến, không biết lúc nào kể từ Giao thừa lịch miền Bắc, và hắn sẽ được bộ chỉ huy chiến dịch VC thông báo biết trước 12 tiếng. Đêm đó, theo dự liệu, hắn sẽ viện cớ xe hỏng máy, để ngủ lại dinh Độc Lập. Thời gian gần đây, hắn thường vô ngủ trong Dinh, gây cho mọi người chung quanh có thói quen, không nghi ngờ gì hắn. Hiện diện ở Dinh lúc súng nổ thì thật tốt đẹp. Tổng thống nào mà chả cần sự hiện diện của cố vấn trong lúc tình hình khẩn cấp. Giải pháp được chọn, mùng Một Tết (lịch miền Nam) hắn sẽ vờ vô Dinh chúc Tết ông bà Thiệu, kéo dài trò chuyện rồi qua văn phòng cố vấn giải quyết một số công việc giấy tờ khẩn cấp đến khuya, vì xe hư phải ngủ lại như thường lệ. Lệnh ngưng bắn bắt đầu có hiệu lực kể từ nửa khuya đêm Giao thừa, 30 Tết, Sàigòn tưng bừng đón xuân bằng đủ loại pháo nổ đùng đùng vang dội thành phố. Năm nay, dân chúng được quyền đốt pháo (chính thức), nên số pháo đốt nhiều hơn năm trước gấp 7 lần. Âm thanh pháo đón xuân ầm ì nổ suốt ngày mùng Một Tết. Hừng sáng, Tên Hoè tới nhà hắn mừng tuổi, đồng thời báo tin tướng Westmoreland đã rút nhiều tiểu đoàn của sư đoàn 5 Hoa Kỳ đưa về gần Tân Sơn Nhất, án ngữ ngã tư Bảy Hiền. Hắn sốt ruột chờ hết buổi chiều hôm đó, tiếng súng lệnh tấn công phải nổ trong đêm nay, vì 36 giờ sẽ trôi nhanh, ngày mai lệnh ngưng bắn hết hiệu lực. Hắn ra vô bồn chồn như người bị cháy nhà. 12 giờ đêm mùng Một Tết (miền Nam), hắn mở lén đài phát thanh Hà Nội nghe. Tiếng người phóng viên vang trong máy giới thiệu đài Hà Nội sẽ trực tiếp truyền thanh đêm giao thừa đón xuân của dân Hà Nội. Sau tiếng pháo nổ lạch đạch trong đài, là tới phần chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh, năm nay Hồ chủ tịch chúc Tết với bài thơ “con cóc” do ông vừa sáng tác: Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng trận tin vui khắp nước nhà. Nam – Bắc thi đua đánh giặc Mỹ, Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.


Chấm dứt phần ông Hồ đọc thơ chúc Tết là phần quân nhạc rỉ rả: Tiến lên! Tiến lên! Thơ “thi sĩ” Hồ Chí Minh được các nhạc sĩ miền Bắc đập lộn giành nhau phổ nhạc, hy vọng kiếm tí danh, may được Đảng lưu ý cất nhắc, đề bạt làm thủ trưởng hoặc trưởng phòng v.v… không chừng. Sáng mùng hai Tết, phát ngôn viên đài phát thanh Sàigòn đọc bản tin chiến sự. Đêm hôm qua, VC lợi dụng hưu chiến tấn công vào một số tỉnh ly, thị xã miền Trung và Cao nguyên, thành phố Đà Nẵng cũng bị tấn công dữ đội. Tổng thống VNCH tuyên bố bãi bỏ lệnh hưu chiến. Hắn mừng trong bụng. VC đã mở màn tổng tấn công, khi nào tới Sàigòn đây? Hắn cần biết để chuẩn bị tiếp tay các tiểu đoàn đặc công và hướng dẫn đại binh tiến vào thủ đô. Nếu ông Thiệu ỷ y, lơ đễnh việc phòng thủ trong những ngày đầu năm, thì binh sĩ Hoa Kỳ có lệnh cấm trại 100%. Đặc biệt hơn nữa, tướng Westmoreland dặn sĩ quan trực hãy đánh thức ông dậy lúc ba giờ sáng. Ba giờ sáng, tức giờ VC khai hỏa tấn công Sàigòn. Như vậy, kế hoạch VC tổng tấn công Tết Mậu Thân, CIA và tướng Westmoreland đã biết trước, nhưng họ vẫn để VC tự do làm, không thông báo cho VNCH cũng không có biện pháp tích cực chống trả. Vì chính trị hay vì lý do nào khác, mà Hoa Kỳ không tìm cách triệt tiêu lực lượng VC từ lúc khởi thủy chuyển quân về gần Sàigòn? Pháo Tết vẫn tiếp tục nổ rền vang suốt ngày đêm. Xác pháo mừng xuân ngập phố phường. Trung tâm thủ đô nườm nượp làn sóng người quần áo sặc sỡ đủ màu xuôi ngược chơi xuân. Thành phố Sàigòn đã quen cảnh thanh bình, hồn nhiên sống thảnh thơi trong lúc chiến tranh hàng ngày bùng nổ ở những vùng phụ cận. Chiều mùng Hai, khoảng 3 giờ, tên Bảy Lai, lão đạp xích lô, trực thuộc tổ nằm vùng nội thành tới nhà hắn chúc Tết. Lúc ra về lão bỏ quên chiếc hộp quẹt giấy. Lịch trình ghi giờ nổ súng là 3 giờ đêm. Hắn lái xe đi báo tin tên Hoè, tên Vũ Hữu Ruật và toàn thể cán bộ cụm A22. Hắn siết chặt tay các “đồng chí” chào mừng giờ “thiêng liêng” đã điểm. Ăn cơm chiều xong, hắn mặc đồ lớn, thắt cà-vạt, lận khẩu Browning sau lưng, đạn lắp sẵn sáu viên, lên xe lái vào dinh Độc Lập. Tiểu đoàn biệt bộ Phủ tổng thống lo canh gác dinh, tình hình không có gì thay đổi. Hắn thả bộ dọc hành lang, các phòng làm việc cửa đóng kín.


Sau đó chầm chậm đi bộ lên cầu thang đến nơi gia đình ông Thiệu cư ngụ, ở lầu bốn. Hắn rất đỗi vui mừng, trừ binh sĩ canh gác, những nhân vật cao cấp trong Dinh hoàn toàn vắng mặt, ở nhà ăn Tết. Vừa lên tới lầu 3, hắn chạm mặt viên sĩ quan trực đêm. Anh ta cấp bậc trung úy, mặc lễ phục chỉnh tề, giơ tay chào hắn: – Năm mới, kính chúc gia đình ông cố vấn vạn sự như ý. – Tôi cũng chúc gia đình trung úy vạn sự may mắn. Tổng thống và phu nhân có nhà không? – Dạ không. Tổng thống cùng phu nhân về Mỹ Tho ăn Tết hồi chiều này. – Tình thế bất an, sao Tổng thống không ở lại Sàigòn? – Dạ tôi không dám biết. – Tổng thống có căn dặn gì không? – Dạ không! – Nghe có tấn công khắp nơi, binh sĩ Hoa Kỳ cấm trại 100%, tôi chạy gấp vô tính ở bên cạnh Tổng thống đêm nay. – ….. – Ông Hướng có tới không? – Dạ, tôi chưa thấy. – Thiếu tướng Đặng Văn Quang có mặt không? – Dạ cũng không, chỉ có đại tá chỉ huy phó biệt bộ. – Khoảng cách hai giờ một lần, anh điện thoại Bộ Tổng Tham mưu hỏi tin tức, báo lại cho tôi biết. – Tuân lệnh ông cố vấn. Bên trong khuôn viên dinh Độc Lập, rừng cây sao với những tàng lá xanh xum xuê phản chiếu ánh đèn rực lên màu lá mạn. Quang cảnh bốn bề vắng vẻ, tĩnh mịch. Số quân nhân phòng thủ Dinh đi phép phân nửa. Phía ngoài, đường Công Lý hai hàng đèn thủy ngân xanh biếc, dập dìu xe cộ xuôi ngược, xe Honda nối đuôi chở khách mừng xuân. Sàigòn đắm mình trong ngày hội lớn, đêm lộng lẫy với ánh đèn điện muôn màu. Hắn buông mình nằm trên chiếc ghế xa-lông, mắt mở trao tráo, ly cà phê đen đặc sẽ giúp hắn tỉnh táo suốt đêm. Tiếng pháo vẫn nổ đì đùng khắp nơi. Kim đồng hồ chỉ mới 11 giờ đêm.


Hướng Tòa đại sứ Hoa Kỳ vừa có một tiếng nổ long trời, rung rinh nhà cửa. Hắn nhìn đồng hồ, kim chỉ đúng 3 giờ. Nhưng sau đó là những tiếng pháo nổ lạch cạch của những người tiếc rẻ đêm xuân , chưa chịu đi ngủ. Thình lình những tiếng nổ lớn, thay pháo Tết làm rung chuyển thành phố. Trong hàng vạn tiếng nổ chát tai, xen kẽ có những tiếng nổ kinh hồn của đại bác và kho tích trữ đạn ở Gò Vấp bị trúng pháo. Các loại súng tiểu liên, đại liên, đại bác, lựu đạn, B40 thi nhau nổ, báo hiệu thành phố đang đứng giữa mặt trận. Viên sĩ quan trực hấp tấp chạy vô báo cáo hắn: – Thưa ông cố vấn, VC tấn công! Hắn giả vờ ngái ngủ: – Ở đâu? – Khắp mọi nơi. Ngoài cổng Dinh có nhiều tiếng súng và lựu đạn nổ. – Anh hỏi Bộ Tổng Tham mưu, sau đó kêu điện thoại báo cáo Phó Tổng thống. Nói rõ Tổng thống hiện không có mặt trong Dinh. Sau khi viên sĩ quan trực đi rồi, hắn ra khỏi phòng, leo cầu thang lên sân thượng. Hắn quan sát phía sau cổng dinh Độc Lập, đang có cuộc chạm súng, cũng phía đó, toán quân VC chờ ám hiệu ba ánh đèn pin chớp. Nhưng chờ khá lâu vẫn chưa thấy. Lính phòng vệ phóng ra các vị trí chiến đấu, cổng Dinh vội vàng khóa chặt lại. Hắn chới với, vì cơ hội dành cho biệt động đội VC đánh đặc công không còn nữa. Tiếng súng thưa dần ở phía ngoài cổng phụ. Hướng Long Bình có đám cháy lửa bốc cao lên tận lưng trời. Từ hướng đó, những tiếng nổ kinh hồn liên tục vọng lên, ánh lửa xẹt như pháo bông của hỏa châu, hỏa tiển 122 ly. Phía Tân Sơn Nhất, đại bác nổ liên thanh, dồn dập. Khu Thị Nghè mất điện. Hắn vừa xuống tới lầu 3 thì gặp viên trung úy lính quýnh báo báo: – VC đang tấn công Bộ Tổng Tham mưu. Ông Bộ trưởng Quốc Phòng, trung tướng Tổng Tham mưu trưởng đều vắng mặt. Toà đại sứ Mỹ, đài phát thanh, Tổng Nha cảnh sát và 6 quận trong thủ đô đang bị tấn công mạnh. Một vài tỉnh lỵ, theo báo cáo sơ khởi của ban trực đã bị VC tràn ngập. Phó Tổng thống trả lời chưa nắm vững tình hình như thế nào, Bộ Tư lệnh Không quân cũng bị đặc công VC lọt vô, trung đội cận vệ đang nỗ lực di tản gia đình ông ra khỏi Tân Sơn Nhất. Hắn ra lệnh:


– Anh xuống dưới đất quan sát đội hình phòng thủ ra sao. Thông báo đại tá tôi sẽ trực tiếp kiểm soát chung quanh Dinh. Khoảng 10 phút sau, viên đại tá báo cáo: – Trình ông cố vấn, tôi đã bố trí lực lượng vào vị trí chiến đấu xong xuôi. – Đạn dược kéo dài được bao lâu? – Đầy đủ, nhưng lực lượng rải ra quá mỏng, vì quân số đi phép quá phân nửa. Xin ông cố vấn kêu tăng viện thêm lực lượng. – Khó có quân tăng cường trong lúc này, mọi nơi đều bị tấn công. Tình hình nguy hiểm, mình hãy tính kế tử thủ hay hơn. – Phía Mỹ có phản ứng gì? – Chưa hiểu sao họ không phản công. – Họ đang tính kế gì của họ đó thôi. Bóng đêm phai lạt đần. Ánh lửa đỏ rực trời thu nhỏ lại, thay vào những đám khói mịt mùng bay khét nghẹt thành phố. Trận đánh đặc công chiếm dinh Độc Lập không diễn ra như kế hoạch hắn dự tính. Trời sáng hẳn, súng lớn, súng nhỏ rộ lớn. Tiếng động cơ thiết giáp ầm ầm vọng lại, quân VNCH bắt đầu phản công mạnh mẽ. Công tác ở đây hắn chuẩn bị hằng bao nhiêu năm, nội công chiếm dinh Độc Lập, giờ thì thành con số không to tướng. Hắn cần đi ra ngoài, tìm trạm giao liên nhận lệnh, thử coi cấp trên có xuống cho hắn lệnh mới nào không. Hắn chần chờ, suy đi tính lại, thấy rời khỏi Dinh lúc này không hợp lý, nên cố đợi ông Thiệu về, lúc ấy đi ra hợp lý hơn. Những tin tức do viên trung úy báo cáo từ đêm qua đến giờ, tổng hợp lại giúp hắn hình dung chính xác một phần cuộc tổng tấn công của VC. Bộ đội xâm lăng VC đánh vào hơn 100 mục tiêu lớn nhỏ, 6 thành phố lớn cùng bị tấn công cùng một giờ, cùng một đêm. Thành phố Huế có tin VC cắm cờ. Ở Sàigòn, VC đánh thẳng vào các bộ phận đầu não VNCH như Đài phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, yếu khu Tân Sơn Nhất, Tòa đại sứ Mỹ… Nguyên buổi sáng, theo lệnh hắn, viên đại tá kêu điện thoại liên lạc với bộ trưởng Nội Vụ, và Tổng thư ký Phủ Tổng thống mời tới Dinh bàn luận tình hình, nhưng đều không có ai trả lời. Trong khi bác sĩ Trần Lữ Y, tổng trưởng Y tế, mang vũ khí bên hông, xông xáo chỉ huy các đội cứu thương


từ 4 giờ sáng, nghĩa là ông Trần Lữ Y có mặt tại nhiệm sở sau hai tiếng đồng hồ VC tấn công. Đến buổi trưa, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ kêu điện thoại thông báo, quân đội Hoa Kỳ đã rải chốt bít các ngã đường dẫn vào thủ đô, chận VC tăng cường thêm quân và phản công mãnh liệt. Quân VNCH phải tự lo lấy phần thành phố, diệt trừ các lực lượng VC đã lọt vào đây Khoảng 1 giờ trưa, tướng Westmoreland trực tiếp chỉ huy một tiểu đoàn thủy quân lục chiến trực thăng vận chiếm lại Toà đại sứ Mỹ. Hắn cảm thấy phải cấp bách báo ngay cho cục R. biết rõ những tin mới nhất này. Hắn nói với viên trung úy: – Quân đội Hoa Kỳ đã phản công khắp nơi. Tướng Kỳ đang chỉ huy tái lập lại trật tự trong thành phố. Giờ phút nguy hiểm ở Dinh đã qua. Điện thoại kêu ông Hướng, ông Mai Quốc Đống tới nhiệm sở ngay. Bây giờ tôi vô Bình An, thăm cha Quỳnh coi Cha có bề gì không. VC chắc đã chiếm xứ đạo từ đêm qua. Lỡ Cha có chuyện chi, tôi mang tội với Đức Khâm sứ và bề trên. Viên trung úy lo lắng: – VC đang bao vây, ông cố vấn đi coi chừng, tôi thấy không an toàn cho ông cố vấn. – Các anh đừng lo cho tôi, hãy lo phòng thủ Dinh đi. Hắn tháo áo giáp, nón sắt và khẩu súng bỏ lại. Có giấy chứng minh của Caritas làm bùa hộ mạng, hắn yên tâm bước ra xe. Phố phường vắng ngắt, nồng mùi thuốc súng. Hắn vừa đi vừa quan sát, xem coi có “ai” theo dõi hắn. Ai biết hắn đi đâu mà theo dõi. Vả lại có theo dõi, thì hắn biết là người theo dõi chỉ để canh chừng cho hắn. Hắn nhắm hướng Tân Định, lái xe gắn máy lách qua các chướng ngại vật do lực lượng Nhân Dân Tự Vệ làm rào cản. Bản tin hắn cần phúc trình lên Cụm trưởng của hắn là: Quân Mỹ án ngữ lối tiến quân VC vô thủ đô và trực tiếp can thiệp phản công chớ không chỉ gián tiếp yểm trợ quân VNCH. Vừa tới đầu đường Hai Bà Trưng, thấy quân cảnh đứng canh gác các ngã tư đường. Có lẽ an ninh chìm quanh quẩn gần đó. Hắn tháo lui, quay đầu xe trở trở về nhà. Về tới nhà, hắn nói: – Anh cần chuyển thư gấp.


Vợ hắn hỏi: – Ở đâu, em đi đưa cho. – Sau chợ Tân Định. Nhưng em đi bất lợi. – Anh khéo lo, em bồng bé Liên chạy ngược vô Tân Định, chạy trốn VC về hướng đó thì ai nghi ngờ? – Em có biết đường Mạc Đăng Dung không? – Biết. – Hai tiếng đồng hồ em không về, anh sẽ đi tìm. 12. Theo lá cờ Hồng Thập Tự bay lất phất đầu xe Honda C.50, hắn lái nhanh về hướng Chợ Lớn. Khối Hoa Kiều Chợ Lớn lẹ làng tách ra khỏi cuộc chiến. Một số nhà trên đường Đồng Khánh treo cờ VC, lầm tưởng lần này Cộng sản sẽ lên ngôi cai trị. Hiện diện tại Việt Nam hằng trăm năm, sanh trưởng, lớn lên, sống trên xương máu dân Việt, họ là một thứ hoa chùm gởi, một loại ký sinh trùng bám vào cơ thể VN. Bản chất phản bội, người Hoa kiều sẵn sàng ngã theo bất cứ phe phái nào: Việt gian, hay ngoại lai, hay CS hay bù nhìn thống trị VN, miễn họ vinh thân phì da làm giàu trên một quê hương ban cho họ nhiều ân huệ, đối đãi vô cùng rộng lượng. Hắn dừng xa tại cầu Nhị Thiên Đường. Binh sĩ Hoa Kỳ đang truy lùng phía bên kia Cầu Đôi. Trên cầu, súng lên đạn đứng gác trong tư thế tác chiến. Họ chất bao cát lên mái nhà xung quanh gần đó, đặt đại liên, bố trí hỏa lực kiểm soát chặt chẽ. Hắn đi vòng trở lại, tránh xa chỗ lính Mỹ đóng quân, bỏ xe, đi đò qua sông. Xứ đạo Bình An hiện ra trước mặt. Ánh mặt trời lụn dần. Từng đoàn trực thăng võ trang phóng lựu vần vũ trên không trung, khạc đạn xuống lùm cây, ở những đầm lầy, trên đồng ruộng. Phía dưới, hàng chuỗi loạt đạn bắn lên trực thăng. Rõ ràng, ở đó có quân VC trú đóng. Khoảng đường dẫn tới Bình An vắng tanh, không một bóng người hoặc gia súc xuất hiện. Hắn quấn lá cờ Hồng Thập Tự vào bả vai hắn, các toán an ninh VNCH nghĩ hắn là nhân viên cứu thương Hồng Thập Tự thật, nên cho đi dễ dàng. Cách nhà thờ độ hai chục thước, xuất hiện một toán trinh


sát VC, mặc quần kaki màu xanh lá cây, đội nón tai bèo, chân mang dép Bình Trị Thiên. Xa hơn 150 thước, nhiều tốp thanh niên mặc quần cụt, ở trần vác súng trường, súng tiểu liên, và cả súng B.40, họ thuộc lực lượng du kích Miền phối hợp với chủ lực bộ đội VC chống lại trực thăng đang tác xạ. Trực thăng cố ý không bắn vô khu vực nhà thờ mặc dầu phi công thấy rõ VC đang núp trong đó. Một tên lính VC lớn tuổi, chui lên từ bờ ruộng cạnh lề đường, giơ tay ra hiệu biểu hắn đứng lại. Hắn dừng lại, nói: – Tôi nhân viên Ủy ban Công giáo quốc tế cứu trợ nạn nhân chiến tranh, đi vô nhà thờ Bình An. – Ông từ Sàigòn hay Chợ Lớn ra đây? -Sàigòn. – Trong đó thế nào? – Không thấy cảnh sát trên đường, lộn xộn lắm. Nhà nhà đều đóng cửa. Chỉ có dân ty nạn mới dám chạy ngược xuôi. Nhưng tôi nghe tin quân Mỹ đã khóa chặt các ngõ vô Sàigòn. – Ông thấy quân Mỹ đóng ở đâu? – Phía bên này Câu Nhị Thiên Đường. Phía bên kia dẫn vô thành phố không thấy quân Mỹ và quân VNCH. Nếu các anh muốn vô đó, hãy đi đò ngang qua Kinh Đôi. – Ban đêm có đò không? – Cứ trưng dụng đò dân chúng mà qua sông. – Cám ơn. Anh cứ đi. Nhà thờ đông nghẹt giáo dân kéo vô trú ẩn. Họ chen lấn ngồi cả trên Cung Thánh. Không thấy bóng cha Quỳnh. Không lẽ Cha đã đi trước rồi sao? Không ai biết Cha ở đâu. Hắn chạy qua nhà bà Năm, người nấu cơm cho Cha, hỏi: – Cha đâu? – Nhà con đưa Cha sở đi lánh nạn VC. Đêm qua VC bắt dân tập họp, hò la đả đảo đế quốc Mỹ, đọc danh sách kêu tên từng người Tự vệ, bảo bà con ở đâu cứ ở yên đó. – Tôi cần gặp Cha ngay. – Thầy cứ vô mấy dãy nhà quen sau nhà thờ, chắc Cha trong đó.


Hỏa châu soi sáng nền trời, hắn dễ lần vô nhà người quen phía sau nhà thờ. Bất chợt hắn nghe tiếng lách cách lên đạn của một khẩu súng. Một tiếng hỏi nhỏ: – Ai? – Thầy Bốn! – Thầy Bốn nào? – Ông giáo đây! Một thanh niên trạc 16, 17 tuổi cầm khẩu Garant M.1 tiến ra: – Sao thầy không cho người dẫn đường, đi lò mò thế nầy. – Tôi đi tìm Cha. – Thầy Bốn theo con. Dưới ngọn đèn dầu lờ mờ, cha Quỳnh ngồi khắc khổ trong một căn nhà tranh lụp xụp. – Cha vẫn cầu nguyện cho con. Đêm qua con ở đâu? – Con ở trong Phủ Tổng thống. – Ông Thiệu có bình an không? – Dạ ông và gia đình đều bình an. Sao Cha lại ở đây? Họ chưa đánh vô nhà thờ, có gì Cha phải lo? – Cha không tin VC. Họ nói tôn trọng sinh mạng nhân dân, nhưng họ lại làm khác lời họ nói. Cha ngán mấy ông Việt Minh già, họ biết mặt Cha. – Con nghĩ Cha nên ở nhà thờ an toàn hơn. Có giáo dân xung quanh Cha, VC cũng không dám làm bậy. Cha Quỳnh ngồi im lặng, không trả lời đề nghị thiếu bảo đảm của hắn. Hắn hỏi: – Cha khuyên giáo dân đối phó ra sao? – Cha chưa cho lệnh nổ súng. – Cha nên ra lệnh tuyệt đối cấm nổ súng. Lực lượng giáo dân có bao nhiêu đây sao chống nổi VC. Ta hãy chứng minh cho họ thấy mình chỉ là con chiên ngoan đạo, hiếu hòa, có tình thương không ngăn cách biên giới thù nghịch. Tòa Thánh vẫn thường khuyến cáo chúng ta tránh bạo động. – Cha đã nghĩ vậy, nhưng VC có nghĩ như Cha không? – Đừng để họ thấy giáo dân có vũ khí. Khi họ thấy, dù mình không bắn, họ cũng bắn mình. Cha Quỳnh gật đầu hành động theo ý kiến hắn. Hắn thỏ thẻ bên tai Cha:


– Lúc ở Sàigòn con rất lo cho Cha. Bình An cô thế, yếu đuối trước mọi vũ lực, sẽ trở thành bãi chiến trường vô ích, sợ đạn lạc nguy hiểm tính mạng Cha, con liều vô đây, thấy Cha bình an vô sự, con rất mừng. Con sẽ ở lại bên cạnh Cha, khi nào yên ổn con sẽ đưa Cha về. – Việt Cộng cấm người đi vô Sàigòn, mình đi cách nào? – Mình đi bằng đò, qua sông. – Chừng nào? – Sáng mai, thưa Cha. Bây giờ giao người chuẩn bị đò trước. Cha Quỳnh bảo ông đội trưởng đội Tự vệ, ban lệnh cất giấu vũ khí, cấm không nổ súng, và kiếm cho Cha một chiếc xuồng. Một lát sau, Cha nghe theo hắn trở về ngủ ở nhà thờ. Hắn đã hiểu, từ hôm nay, tính nghĩa của Cha đối với hắn khắc sâu hơn. Sàigòn đêm nay, trọng pháo nổ dữ dội hơn đêm trước, ửng một vừng sáng đỏ bao trùm thủ đô. Binh lửa kéo về tận thành phố, chiến tranh không có dấu hiệu lắng xuống. Thỉnh thoảng Cha giật mình trở giấc vì tiếng nổ rền vang. Cha hỏi hắn: – Các tướng lãnh phản ứng trận địa thế nào? – Ông Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết. Đa số tướng lãnh đi Đà Lạt đón xuân. Các bộ trưởng cố tình vắng mặt. – Họ trốn chớ vắng mặt gì. – Con chưa biết họ trốn hay đi phép xa về không kịp. – Chẳng lẽ phen nầy Việt Minh nuốt luôn miền Nam sao? – Con chưa rõ. Tình hình không sáng sủa như mọi người tưởng. Cha thở dài ngao ngán: – Có lẽ Cha đang sống trong ác mộng. Con có nhìn thấy VC không ? – Có, thưa Cha. Rất nhiều, gặp họ dọc đường tới đây. – Lạ nhỉ! Hơn hai chục năm, họ vẫn không thay đổi, vẫn quần áo, dép râu, nón tai bèo, cách ăn nói ngụy biện tuyên truyền, chẳng lẽ họ không già? Rõ ràng đây là lớp con cháu họ bị đẩy vô chiến trường phục vụ chủ nghĩa quốc tế vô sản Nga-Tàu. – Con thấy hơi khác, hồi đó họ đội mũ cối, bây giờ đội mũ tai bèo, vũ khí họ tốt hơn xưa. – Vũ khí tốt, giết người tốt. Tai bèo hay cối cũng một nòi nhau. Trời gần sáng, tiếng động cơ thiết giáp rung chuyển phía Chợ Lớn Cha Quỳnh nói nhỏ:


– Xe tăng Mỹ đó con. – Vậy sáng mai mình có thể đi xe hơi vô Sàigòn. Trời sáng hẳn; xung quanh nhà thờ Bình An không còn một bóng quân VC, có lẽ họ rút vô Sàigòn hoặc lui quân ra xa thành phố vì tiểu đoàn Biệt kích Dù bắt đầu ráo riết tảo thanh các khu vực nghi ngờ có VC ẩn trốn. Cha bỏ xe Peugeot ở nhà thương Chợ Rẫy, ngồi sau xe gắn máy do hắn đèo vô dinh Độc Lập. Đường phố tấp nập bóng dáng cảnh sát đồng phục kiểm soát từng nút chận. Súng vẫn tiếp tục nổ. VNCH qua cơn giao động, chủ động tình hình quân sự, đánh bật VC dần dần ra khỏi thành phố. Hắn hỏi viên thiếu tá trực: – Tổng thống về chưa? – Dạ rồi, thưa ông cố vấn. – Phương tiện đâu Tổng thống về? – Tướng Westmoreland cho trực thăng xuống Mỹ Tho rước Tổng thống và ngài thẳng về Bộ Tổng Tham mưu. – Có Cha Tổng ra thăm Tổng thống. Có cách chi để cho nói chuyện với Tổng thống không? – Dạ để tôi quay điện thoại. Tổng thống Thiệu reo mừng: – Ô Cha! Cha mạnh giỏi? Còn ông cố vấn đâu? – Đang ở trong Dinh với Cha. – Cha làm sao vô đây được? – Thầy Bốn vô Bình An rước Cha ra Ông Thiệu vắn tắt cho Cha hiểu tình hình: – VC đánh khắp nơi, vắng mặt cấp chỉ huy, binh sĩ phản ứng bối rối. Bộ Tổng Tham mưu, chỗ tôi ở cũng bị nó đang tấn công. Tôi tiếp tục vãn hồi trật tự. Cha hỏi anh giáo, ông Hướng có mặt ở đó chưa? Cha trao điện thoại, hắn trả lời ông Thiệu: – Dạ chưa thấy ông Hướng. Tôi sẽ cho người đi tìm ông ta. Tôi chở Cha qua Tòa Khâm sứ ngay bây giờ. – Anh đi cẩn thận, VC đang pháo kích kịch liệt! Viên thiếu tá báo cáo diễn tiến: – Quân VNCH đã tái chiếm Đài phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ, và ở Bộ Tư lệnh Hải quân VC cũng bị đẩy lui. Các mặt trận vẫn còn đụng độ khu


vực Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, quận 3, quận 6, quận 7, quận 8, Nhà Bè, phường Bến Đá, phường Bàn Cờ, ngã năm Bình Hòa, Hàng Xanh, và nhiều nơi ven đô Sàigòn. Cuộc giao tranh ác liệt hiện giờ xảy ra ở Bộ Tổng Tham mưu và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng Cao Văn Viên vừa rút hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến từ Cần Thơ về tăng cường. Vừa ra tối cổng, hắn gặp Hòe hớt hải đi vô, liền xin phép cha Quỳnh, lôi qua ra chỗ khác. Hoè hoảng hốt hỏi: – Mình làm gì bây giờ anh Hai? Em thấy cuộc tổng tấn công có chiều hướng thất bại. – Cẩn thận đề phòng CIA theo dõi mọi cử động của bất cứ ai ra vào trong Dinh lúc này. Văn phòng Tổng thư ký chưa có ai. Anh vào đó cho có mặt rồi vọt về nhà liền, không nên nấn ná ở đây lâu. Xe tăng xếp thành hàng tròn bao chung quanh dinh Độc Lập, tăng cường lực lượng bảo vệ an ninh Tổng thống. Nhân viên Phủ Tổng thống trở lại làm việc như thường lệ. Binh sĩ tra xét giấy tờ nghiêm ngặt. Súng vẫn còn nổ lác đác trong thành phố. Trực thăng đen kịt bầu trời, quần thảo quan sát từng khu vực trong thủ đô và ngoại ô, lâu lâu nã đạn rocket, bốc cao những đám cháy, khói đen mịt mù. Ông Thiệu được hộ tống cẩn thận trở về dinh Độc Lập. Hắn đi qua văn phòng ông Thiệu, chợt thấy ông đang bàn luận với tướng Cao Văn Viên. Ông Thiệu nói lớn tiếng, ông Thiệu nhìn thấy hắn, gật đầu chào, hắn chào lại và đi luôn về phòng hắn. Khoảng 45 phút sau, ông Thiệu kêu hắn vô gặp ông. – Cảm ơn anh, trong lúc vắng tôi anh đã chu đáo mọi công việc. – Nghe tin Tòa Đại sứ Mỹ báo động, rồi nghe lời Tổng thống tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng bắn trên Đài phát thanh, tôi vội chạy vô Dinh lo công việc phụ anh em phòng thủ. – Anh giúp tôi quá nhiều. Hắn dò hỏi: – Nói chung, tình hình bây giờ diễn tiến ra sao, thưa Tổng thống? – Cộng quân thua đậm. Trừ Huế, nơi VC còn chống trả mạnh, các nơi khác quân ta hoạt động mạnh tích cực tảo thanh địch. Tôi ra lệnh ông Viên trong hai ngày phải quét sạch đám tàn quân VC còn kẹt trong Sàigòn. Chúng ta sẽ lấy lại Huế vài hôm nữa. Hắn đưa đà:


– Như vậy mình bớt lo, nền an ninh quốc gia đã sáng sủa. – Cần nhất, sẵn dịp bọn họ lộ diện ra, chúng ta hốt hết mấy ngàn tên nằm vùng. Tôi thấy Đặc ủy Trung ương Tình báo vô cùng đắc lực. – Câu hỏi nầy, thật nhất của tôi, Tổng thống có hiểu không, tại sao Mỹ biết trước VC tấn công Tết này, nhưng sao họ không phối hợp với chúng ta về mặt tình báo. – Westmoreland có khuyên tôi không nên tôn trọng hưu chiến năm nay. Tôi không nghe. Tôi thấy họ hơi kỳ kỳ. Trong lúc tôi ra lệnh ngưng bắn ngoài quân đoàn I, thì ông Westmoreland rút quân từ biên giới Campuchia về phòng thủ Sàigòn. Mình cho binh sĩ đi phép, thì ông ra lệnh quân đội Hoa Kỳ cấm trại 100%, nhưng không nói với mình một câu. Tối 30, bỗng nhiên quân Mỹ báo động, quân VNCH không nhận được tin tức gì. Đêm mùng Một, Cộng quân mở các mặt trận ngoài miền Trung. 8 giờ sáng mồng Hai, đại sứ Bunker đi “viếng thăm” Đệ Thất hạm đội. “Bất chợt” tối mùng Hai VC nổ súng tấn công Tòa Đại sứ Hoa Kỳ và trên 100 mục tiêu. Trong đợt đầu tấn công, VC chỉ nhắm vào VNCH, cố ý tránh mục tiêu Hoa Kỳ. Những ngày đó, quân Mỹ như muốn ngó lơ, bỏ mặc VNCH tự vệ lấy. Họ chỉ lo giải tỏa Tòa Đại sứ và phi trường Tân Sơn Nhất, đến khi VC đánh vào các đơn vị Mỹ, họ mới phản công. Minh thử đặt một giả thuyết, nếu không “ăn ý ngầm”, liệu VC có đám hỗn hào đưa quân vô đánh Sàigòn không? Vì đánh Sàigòn là tự sát. – Tôi cũng nghĩ như Tổng thống, nhưng chúng ta không đủ bằng chứng và chỉ có thể đặt giả thuyết thôi. – Chẳng có gì cả. Ông Johnson muốn ép tôi ngồi vô bàn hội nghị, thương thuyết với VC trước khi Hoa Kỳ bầu cử, chỉ có vậy thôi. Thời gian gần đây, Hoa Kỳ bắt đầu muốn thương thuyết với Bắc Việt. – Thưa Tổng thống, với người Mỹ, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Ông Nhu trước kia từng nói: “Khó mà hiểu hết người Mỹ”. Giả thuyết “ăn ý ngầm” quả có thật, mình cứ cho đó là chuyện mặc nhiên. Nhưng thành phần nào chủ trương “ăn ý” với VC? Phe quân sự hay phe chính trị? Mình cần biết rõ để báo cáo Đức Hồng y Spellman. Tổng thống Thiệu không trả lời. Vào buổi chiều, Một chiếc trực thăng sơn cờ Hoa Kỳ đáp xuống dinh Độc Lập. Ông Bunker từ trong máy bay chui ra. Ông gặp Tổng thống


Click to View FlipBook Version