SINH HOẠT HỘI NAM CA TQLC
TÂN HỘI TRƯỞNG TOÁN QUỐC KỲ NAM CALI
MỪNG TÂN NIÊN TẶNG QUÀ
MỪNG SINH NHẬT 65 NĂM TQLC
MŨ XANH NAM CA MỪNG LỄ TẠ ƠN
SINH HOẠT HỘI BẮC CA
KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG
HỘI ĐÔNG BẮC HOA KỲ VÀ VÙNG PHỤ CẬN
‘
MỪNG SINH NHẬT 65 NĂM BINH CHỦNG
NGÀY QUỐC HẬN 2020 TÂN NIÊN CANH TÝ
SINH NHẬT BINH CHỦNG 2019 PICNIC VỚI CỘNG ĐỒNG
NGÀY QUÂN LỰC 2019
SINH HOẠT LIÊN HỘI ÚC CHÂU
KỶNIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG
9
BAN PHỤ TRÁCH
TÔN THẤT SOẠN Chủ Nhiệm
TRẦN NHƯ HÙNG Chủ Bút
NGUYỄN TRUNG VIỆT Trình Bày
VÕ PHƯỚC TIÊM Thủ Quỹ
QUÁCH NGỌC LÂM Phân Phối
PHAN VĂN ĐUÔNG Phân Phối
*Bài vở xin gửi về: Email " [email protected]
*Tài chánh Yểm trợ xin đề Pay to:
VNMC Association_Memo : DAC SAN SONG THAN
Gửi tới TIÊM VÕ P.O.BOX 989 ALIEF, TEXAS 77411
*********
MỤC LỤC
SỐ THỨ TỰ TỰA ĐỀ TÁC GIẢ TRANG SỐ
1 Lá Thư Sóng Thần 2020 Ban Biên Tập
Ban Biên Tập
2 Hình Sinh Hoạt TH và Các HĐ Ban Biên Tập 1-8
9
3 MỤC LỤC
4 Đôi Dòng Cảm Nghĩ Tango 11
Đồ Sơn 13
5 Tri ân ĐT Hoàng Tích Thông
6 Trâu Điên Đồ Sơn Captovan 16
7 THƠ _Ơn Em Hai Tiếng Ông Thày Dzuy Linh 22
Phạm Vũ Bằng 23
8 Trận Đánh 03/75 Quân Khu I
9 Chuyện Làm Đặc San Sóng Thần Khôi An 44
Nguyễn Văn Lễ 62
10 Trận Đánh Đầu của C/U Mén
11 Huế Bình An Với Ba lần
Thấm Máu Thủy Quân Lục Chiến Lê Quang Liễn 69
Bồng Sơn 78
12 Tình yêu thời Chinh Chiến 92
Phuhotrac 94
13 Buông Súng Cầm Viết Lê Đình Đơn 102
Đông Triều 36
14 Tiểu Đoàn 8 và Tôi
15 Hành Trình Tìm Về An Dương
16 Sinh Hoạt các Hội Đòan:
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
10
Hội Nam California 115
Đông Băc Hoa Kỳ, Houston vâ Vùng Phụ Cận 116
Liên Hội Úc Châu Trần Như HÙng 122
17 Thủy Quân Lục Chiến DESMOINES, IOWA Saigon 124
18 NT Saigon Viếng Thăm Saigon Nhỏ & Saigon 131
Chuyến Đi CA Đầy Tình Thương Người Bầu Trai 134
19 Y Công Đại Úy Captovan 136
20 Kiến Hòa _ Quê Hương Lửa Đạn Tân An 142
21 Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương Dạ Lý 147
22 Thu Hát Cho Người Lâm Thế Truyền 151
23 Những mùa Xuân qua Huỳnh Văn Phú 162
24 Như vầng trăng khuya Vi Vân 172
25 Quân Khu IX Ơi. Chào Mi! Phan Công Tôn 182
26 Những Chuyện Không Ngờ & Nguyễn Văn Dõng 189
THƠ _ Đáy Không Định Nguyên
27 Những Dòng Nhật Ký Giang Văn Nhân 197
28 Trâu Điên Trần Thành Nghĩa Lạt Ma Kha Lạt 200
29 Pháo Thủ MX Vũ Quang Vinh Lưu Văn Phúc 203
30 Viết về một Mũ Xanh & Huyền Nga 208
THƠ Âm Thanh Captovan
31 Phải chăng là định mệnh Tường Thúy 211
32 Tưởng Nhớ các MX:Thương Tiếc Đại Bàng Cao Kiều Công Cự 223
33 TBhằnưgơng Tiếc MX Lê Văn Huyền Saigon 228
34 Thương Tiếc V.T.Phạm Văn Tình Nguyễn Minh Đức 234
35 Thảm Kịch của Chiến Tranh & Huy Phương 242
THƠ_Gửi Người Chiến Sĩ Năm Xưa Hiếu Melbourne 245
36 Nén Hương Lòng Diễm Nga
37 THƠ_Gió Thời Gian & Tìm Chốn Dung Thân Tuấn Truyền Tin 248
38 Một Tấm Lòng Nhân Ái Đố Sơn 249
39 Anh Còn Nợ Em Hoa Biển 251
40 Con sáo Bạc Má Và Người Tù Giang Văn Nhân 256
41 Chuyến Đi Úc Châu Huy Lễ 260
42 Tình Với Nghĩa Kha Lạt 263
43 Công Tác Xã Hội Thạch Thảo 265
44 Tù Cải Tạo, Những Vui Buồn Khó Phai Lê Văn Nguyên 268
45 THƠ Lời Cám Ơn Muộn Màng Lê Văn Châm 281
282
46 lNl HẠC_Đất Nước Lâm Nguy NTgruaynêgnThủy
47 BÁO CÁO TÀI CHÁNH Tổng Hội Trưởng 285
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
11
.
ĐÔI DÒNG CẢM NGHĨ
--------------------------
Bài phát biểu của Cựu Đại Tá TLP/SDTQLC nhân Buổi Lễ
Tưởng Niệm Cố Thiếu Tướng Bùi Thế Lân tại Chùa Pháp
Luân, Houston, TX ngày 16/3/2014
***
Kính thưa Chư Vị Hòa Thượng, Thượng Tọa và Tăng ni.
Kính thưa Quý Đồng Hương, Đại diện các Hội Đoàn và gia
đình cố Thiếu Tướng Bùi Thế Lân.
Trước hết, chúng tôi xin thay mặt cho các cựu quân nhân TQLC hiện diện nơi đây ngày
hôm nay, có lời cám ơn Ban Tổ Chức đã gửi thư mời chúng tôi đến tham dự buổi Lễ Tưởng
Niệm Cố Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, nguyên cựu Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC mà chúng tôi đã
từng phục vụ trước 30 tháng Tư, 1975.
Tướng Lân đã vĩnh viễn chia tay người thân, bạn bè và chiến hữu vào một buổi sáng
mùa Đông, ngày 14 tháng Giêng Năm 2014. Ông ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, như còn trong
giấc ngủ. Ông đã xếp lại cuộc đời mình sau khi đã trải qua biết bao thăng trầm của dòng lịch
sử trên quê hương, Tổ Quốc Việt Nam.
Xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1954, năm 1956 ông về Binh Chủng
TQLC và tiếp tục đi lên từ chức vụ chỉ huy đại đội, tiểu đoàn rồi Tư Lệnh Phó đến Tư Lệnh Sư
Đoàn. Ngoài ra giữa khoảng thời gian đó, ông cũng đã từng đảm nhiệm chức vụ Tham Mưu
Trưởng của SD/TQLC.
Với khuôn khổ và thời lượng của một bài phát biểu, chúng tôi không sao nói đủ hết
những gì Tướng Lân đã đóng góp cho Binh Chủng nói riêng và cho Quân Đội nói chung.
Trong đời binh nghiệp, ở giai đoạn cuộc chiến cam go nhất, khốc liệt nhất, nhiều hy sinh nhất,
Tướng Lân đã để lại cho anh em chúng tôi rất nhiều kỷ niệm khó quên. Điển hình trong cuộc
hành Quân Lam Sơn 719 bên Hạ Lào năm 1971, cũng như cuộc phản công tái chiếm Quảng
Trị năm 1972, ông có những ước tính chính xác về mọi tình hình để đi đến quyết định nhanh
chóng, đúng đắn. Ông khai thác đúng mức việc sử dụng hỏa lực chiến lược và chiến thuật để
đập tan mọi nổ lưc của địch trong thế công cũng nhu thế thủ, tiết kiệm được nhiều xương máu
cho binh sĩ.
Ông là vị Tưóng Lãnh có tài thao lưọc với đầy đủ khả năng về tham mưu cũng như tác
chiến. Ông không có tham vọng chính trị, con đưòng thăng quan tiến chức của ông hoàn toàn
do công trạng ngoài chiến trường.
Đặc biệt tại Quảng Trị, trong giai đọan Sư Đoàn TQLC phải thay cho Sư Đoàn Nhảy
Dù, ông đã sát cánh cùng các đơn vị trong 51 ngày đêm tấn công không ngưng nghỉ, để cuối
cùng các Cọp Biển đã cấm ngọn cờ vàng 3 sọc đỏ trên Cổ Thành Quảng Trị vào ngày
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
12
16/9/1972. Quân và dân Quảng Trị không sao ngăn được niềm vui chan hoà nước mắt khi nhìn
ngọn cờ vàng ngạo nghễ tung bay trên Cổ Thành bên bờ Nam Sông Thạch Hãn.
Sau trận Quảng Trị, Tướng Lân được thăng cấp Chuẩn Tướng thực thụ và được tưởng thưởng
Đệ Tam Đẳng BQHC. Ông cũng được Chính Phủ Hoa Kỳ tưởng thưởng Huân Chương
“LEGION of MERIT’ với biểu chuơng “Chiến Công Xuất Sắc”. Đây là huy chương danh dự
cao quý nhất dành cho những người có công đặc biệt của các nước đồng minh với Hoa Kỳ.
Cho tới hôm nay, không những chỉ có những "người lính già” đã từng tham dự trận chiến nầy,
mà cả đồng bào, cũng cảm thấy lâng lâng niềm vui chen lẫn bao xúc cảm dâng trào, khi nghe
lại bản “Cờ bay trên Quảng Trị thân yêu”.
Những năm khi Sư Đoàn TQLC còn hành quân ở Quảng Trị, trong mùa bão lụt, ngoài
việc lo lắng cho các anh em binh sĩ ngoài tuyến đầu, Tướng Lân cũng quan tâm đến việc giúp
đỡ di chuyển cư dân địa phương đến các nơi an toàn và cung cấp thực phẩm để tạm thời cứu
đói cho họ. Sau bão lụt, ông còn cho tổ chức những toán dân sự vụ TQLC để trị bệnh cho dân
chúng, sửa chửa nhà cửa và trường học trong vùng bị thiên tai.
Kính thưa Quý Vị,
Có sinh thì có tử. Vạn vật vô thường. Không ai tránh khỏi quy luật sinh, lão, bệnh, tử. Chúng
ta chào đời cùng tiếng khóc, nhưng cũng không có nghĩa là khi từ giã cõi tạm nầy, chúng ta sẽ
cùng có chung "một cách” để ra đi. Với những gì đã đóng góp cho đời, cho dân, cho nước, lấy
lý tưởng, nhân ái, từ bi, làm nền tảng, giờ nầy trên cõi bồng lai siêu thoát, Tướng Lân chắc chắn
đã thanh thản nhẹ gánh ưu phiền, không còn quan tâm lo nghĩ sự thế nhiễu nhương, bỏ sau lưng
những khen chê do hệ lụy sau cuộc chiến mà ta không nắm toàn quyền chủ động. Và giờ đây,
chắc chắn ông cũng đang thảnh thơi mĩm cười được gặp lại bao chiến hữu đang chào đón người
anh cả nơi miền êm ả, không còn nghe tiếng súng.
Kính thưa Quý Vị,
Đại Tướng Mc Arthur, trong lời kết thúc bài diễn văn cuối cùng để chia tay dân chúng trước
Quốc Hội Hoa Kỳ, có nhắc lại lời ca của một bài hát đã có từ trước, nguyên văn như sau: “Old
soldiers never die, they just fade away”, xin được tạm dịch: “Những người lính già không bao
giờ chết, họ chỉ mờ nhạt dần”.
Cũng vậy, trong ý nghĩa đó, Tướng Lân đã “xếp lại cuộc đời mình và mờ nhạt dần”.
Chúng tôi, những cựu chiến binh già TQLC, rồi cũng sẽ mờ nhạt dần, hôm nay tụ tập nơi đây,
xin nghiêng mình tưởng niệm người anh cả của Binh Chủng Mũ Xanh, đồng thời cũng xin ghi
ơn những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống vì Tổ Quốc Việt Nam.
Kính thưa gia đình cố Thiếu Tướng Bùi Thế Lân,
Chúng tôi, những mũ xanh năm xưa đã từng sát cánh bên Niên Trưởng Lân, chia sẻ cùng ông
những khó khăn ngoài chiến trường hay vinh quang trong chiến thắng, hôm nay hiện diện nơi
đây để thắp nén hương lòng tưởng nhớ Vị Tư Lệnh cuối cùng của Binh Chủng, đồng thời cũng
xin kính gửi đến thân quyến người quá cố lời phân ưu chân thành.
Xin trân trọng kính chào và cám ơn tất cả Quý vị ./.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
13
Vài hàng tri ân
NT Đại Tá HOÀNG TÍCH THÔNG,
một cấp chỉ huy có nhiều công trận cho binh chủng
Đại Úy Hoàng Tích Thông
Tháng 12 năm 1964 anh nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên và tháng 4 năm
1965 anh đã xuất sắc chỉ huy Tiểu Đoàn đánh tan một Trung Đoàn của Sư Đoàn Sao Vàng khi
chúng tấn công vào vị trí đóng quân đêm của TĐ2 tại Ấp Phụng Du, Tam Quan, Bồng Sơn.
Đây là chiến thắng lớn nhất của Vùng 2 lúc đó. Chiến Đoàn Trưởng TQLC là Trung Tá Nguyễn
Thành Yên. Bốn Đại Đội Trưởng của TĐ2 là Đại Úy Phạm Nhã, Đại Úy Nguyễn Văn Hay,
Đại Úy Nguyễn Năng Bảo và Đại Úy Ngô Văn Định đều được ân thưởng Đệ Tứ Đẳng BQHC
kèm ADBT với ngành Dương Liễu.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
14
Thiếu Tá Hoàng Tích Thông, 1965 (giữa) cùng với Đại Úy Phillip Monahan,
Cố Vấn trưởng TĐ (trái) và Thiếu Úy Đặng Văn Sơ, Trưởng ban 3 TĐ (phải), 1964
Tiểu Đoàn được BTTM ân thưởng ADBT trước Quân Đội cho Hiệu Kỳ Tiểu Đoàn lần
thứ 4 và tất cả quân nhân tham dự trận Phụng Du được mang giây Biểu Chương mầu QCBT.
Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson cũng ký ân thưởng Navy Presidential Unit
Citation cho Hiêụ kỳ Tiểu Đoàn và và một buổi lễ trang trọng được tổ chức tại BTL/TQLC trại
Lê Thánh Tôn năm 1967. Anh rời Tiểu Đoàn cuối năm 1965 lãnh trách nhiệm chỉ huy Chiến
Đoàn A TQLC dự trận Mậu Thân ở Saigon và Gia Định, xong đem quân ra Huế năm 1968.
Đặt dưới quyền chỉ huy của SĐ1 BB và phối hợp với TQLC Hoa Kỳ trong cuộc hành quân
này, Chiến Đoàn A TQLC do Anh chỉ huy gồm TĐ1 của Thiếu Tá Phan Văn Thắng, TĐ4 của
Thiếu Tá Đỗ Đình Vượng, TĐ5 của Thiếu Tá Phạm Nhã đã đánh tan các đơn vị VC xâm nhập
vào Huế.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
15
Trung Tá Hoàng Tích Thông (phải) chứng kiến Đồ Sơn và Cố vấn trưởng Chiến Đoàn
gắn lon Đại Úy cho Trung Úy Carl White, USMC, Cố Vấn TĐ 2 TQLC, 1968
BCH/CĐ và các TĐ 1, 4, 5 cùng các đơn vị Pháo Binh TQLC tham dự hành quân này
được Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon ân thưởng Army Presidential Unit Citation cho các
đơn vị trên năm 1968 trong cùng danh sách ân thưởng với SĐ1 BB.
Năm 1970 hành quân sang Miên anh đã chỉ huy TĐ2 Trâu Điên do Trung Tá Nguyễn
Xuân Phúc Tiểu Đoàn Trưởng tấn công vào thị trấn Prey Veng đánh tan đơn vị cấp Trung Đoàn
VC. Hiệu Kỳ TĐ2 được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 8 và các quân nhân
trong Tiểu Đoàn có mặt trong cuộc hành quân này được mang giây Biểu chương mầu Tam
Hợp. Anh thuyên chuyển ra khỏi binh chủng năm 1971 sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 để
đi nhận trách nhiệm Tư Lệnh Phó SĐ2 BB. Có thể nói mà không sợ nhầm anh là người có
nhiều công trạng nhất ở binh chủng trong thời gian bắt đầu có những cuộc chạm súng ác liệt
trong cuộc chiến.
Anh xứng đáng mang bảng tên mầu Tím chữ Đen và phù hiệu Trâu Điên trên cánh tay phải.
Đồ Sơn 2/2020
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
16
Captovan
TĐ2/TQLC đã có nhiều vị Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm, nhưng chỉ mang danh Trâu
Điên từ thời Thiếu Tá Lê Hằng Minh sau trận An Quý 1965, tới Trung Tá Ngô Văn Định,
Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc và cuối cùng là Thiếu Tá Trần Văn Hợp. Trong 4 Trâu Điên
Trưởng này thì 3 vị đã hy sinh! Tôi có dịp phục vụ dưới quyền 4 anh với nhiều điều buồn vui,
nay xin nhớ lại như một nén nhang dâng lên các anh đã khuất và tâm tình với anh còn lại, đó
là Đồ Sơn Ngô Văn Định.
Phải nói ngay mà không sợ mang tiếng là nịnh thượng cấp, theo tôi, Đồ Sơn Ngô Văn
Định là một trong những quân nhân có nhiều huy chương nhất với 21 ngành Dương Liễu, Đệ
Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương từ khi còn là Trung Úy Đại Đội Trưởng TĐ.2/TQLC. Đệ
Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương khi là Tiểu Đoàn Trưởng và Đệ Tam Đẳng khi là Lữ
Đoàn Trưởng
Đồ Sơn cũng là một trong 2 Lữ Đoàn Trưởng TQLC chỉ huy trận tái chiếm Cổ Thành
Quảng Trị. Tôi không thể biết hết nói nhiều về những chiến công của ông mà chỉ xin ôn lại
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
17
những kỷ niệm “buồn vui” của một đại đội trưởng với Trâu Điên Trưởng Đồ Sơn quanh cuộc
chiến.
Tôi phục vụ dưới quyền chỉ huy
của Đồ Sơn Ngô Văn Định từ 1966-1969,
tính tròn là 3 năm, đây là vị Tiểu Đoàn
Trưởng lâu đời nhất của tôi, tôi theo ông
liên tục trong mọi cuộc hành quân khắp 4
vùng chiến thuật, qua nhiều trận lớn nhỏ, tôi
nhận thấy, ngoài tài chỉ huy, Đồ Sơn còn là
cấp chỉ huy “mát tay”, ít ra là đối với
đã giúp tôi thoát chết
riêng cá nhân tôi, ông tấc, nhưng kỷ niệm
nhiều lần trong gang là khi ông vừa về làm
buồn đầu tiên với tôi TĐ2/TQLC
Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh.
thay thế Cố Trung Tá Phó Nguyễn Xuân
giới thiệu các sĩ quan
Khi Tiểu Đoàn
Phúc hướng dẫn và
trong Tiểu Đoàn cho tân TĐT Đồ Sơn trên
căn nhà lầu ở hậu cứ Thủ Đức, trại Lê Hằng
Minh, anh Phúc giới thiệu tôi với Đồ Sơn
và nói:
-Đây là Thiếu Úy Cấp, mới từ TĐ5
đổi về, đánh đấm cũng đựơc lắm.
Chả hiểu Đồ Sơn đã đọc hồ sơ quân bạ của tôi chưa, nhưng khi hai ông vừa bước đi thì
tôi nghe Đồ Sơn nói nhỏ với anh Phúc: “Đánh đấm được thì sao TĐ5 lại thải ra?”
Đúng, ít khi nào đơn vị cũ lại buông ra một quân nhân đánh đấm được và cấp chỉ huy
đơn vị mới sẽ kém vui khi phải nhận “hàng thải” từ đơn vị khác thuyên chuyển đến, cũng
chính vì cái chuyện “đánh đấm” mà tôi bị đuổi khỏi đơn vị cũ-TĐ.5 để về TĐ.2.
Nhưng thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu ông Đồ Sơn mới biết “hàng thải” của TĐ.5 là
tôi cũng không đến nỗi tồi lắm. Chỉ trong vòng 1 năm, từ trận Kinh Cái Thia, Cai Lậy ngày
31/12/1967 đến trận Mậu Thân 1968 tại Saigon, rồi từ ngày 14 đến 17 tháng 9/1968 trận Cầu
Khởi và Bời Lời, Đại Đội 1 của tôi đã góp công cùng toàn thể Trâu Điên trong những trận
chiến, đã được 3 lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội, nói nôm-na là kiếm cho quân
kỳ Tiểu Đoàn 2 được thêm 3 nhành Dương Liễu. Đáng nhớ nhất là trong một cuộc hành quân
vùng Cầu Khời Bời Lời này, Đại Đội của tôi đã phải thay tới 4 lần cố vấn Mỹ*
(*Xin nói rõ thêm: Một Tiểu Đoàn TQLC đi hành quân luôn có 2 cố vấn Mỹ, cố vấn
trưởng đi với TĐT, cánh A, cố vấn phó đi với TĐP, cánh B. Nhưng khi một đại đội hoạt động
biệt lập thì được một cố vấn đi theo để sẵn sàng yểm trợ hỏa lực và tải thương)
Ngày 14/9/1968, Đại Đội của tôi nhảy “diều hâu” xuống vùng Cầu Khởi, phía Bắc
quân Khiêm Hanh, (Tây Ninh), vì đi một mình nên có cố vấn Mỹ đi theo. Vừa chạm đất liền
bị Tiểu Đoàn 14D/VC bao vây tấn công, chúng tôi trong tình trạng thập tử nhất sinh, “ngài”
cố vấn Mỹ rét quá nên nhân chuyến tải thương, ông ta leo lên trực thăng đi luôn. May mà Đồ
Sơn đã kịp thời đổ quân TĐ2 (-) xuống ngay sau lưng địch khiến VC chúng hốt hoảng phải
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
18
nới vòng vây đại đội tôi để quay ra chống cự với Trâu Điên đang bao vây chúng phía ngoài
và cuối cùng chúng đành phải “bỏ xác bạn chạy lấy người”
Sau trận Cầu Khởi, ngày 17/9 TĐ2 lại đổ bộ trực thăng ngay vào mật khu Hố Bò (TN),
nhưng mới thả xuống được ĐĐ1 của tôi và ĐĐ3 của Trần Văn Thương thì bị đụng nặng,
súng phòng không quá mạnh và địa thế không cho phép Tiểu Đoàn đổ quân tiếp tục nên ĐĐ1
và ĐĐ3 cầm cự tới ngày hôm sau Tiểu Đoàn (-) mới xuống đầy đủ. Suốt đêm đó, TĐT Đồ
Sơn và Ban 3 Lâm Đồng Đinh Xuân Lãm luân phiên bay C&C đề hướng dẫn “Hoả Long”
yểm trợ. Tiếng nói của Đồ S ơn, Lâm Đồng và Hỏa Long đã giúp chúng tôi giữ vững vị trí
trước những đợt tấn công dồn dập của VC trong đêm. Trong cuộc hành quân nhẩy vào Hố Bò
này, đại đội tôi lại nhẩy đầu và có cố vấn Mỹ đi theo, vừa chạm đất là Captain White bị
thương. Cố vấn Mỹ mà bị thương thì Mỹ họ phải tải thương ngay và sau đó mới có cố vấn
khác thay thế. Đồ Sơn cho lệnh tôi thả khói tím đánh dấu để trực thăng thả CV khác xuống
thay thế. Nhưng rất tiếc là súng phòng không VC mạnh quá và VC cũng thả khói màu tím nên
trực thăng nhầm LZ, thả lộn cố vấn vào tuyến địch khiến đại đội tôi lãnh “đại họa” là phải đi
tìm cố vấn về bằng mọi giá.
Sau nhiều cố gắng Đại Đội tôi tìm và mang được CV về, nhưng anh ta bị trọng
thương vào nách và vai nên lại phải tải thương anh ta ngay. Tiểu Đoàn chưa kịp có cố vấn để
bổ sung, nhưng tình hình quá nặng nên buộc lòng Chiến Đoàn Trưởng Saigon phải đưa CV
khác của Chiến Đoàn xuống cho tôi để họ lo hỏa lực yểm trợ và tải thương. Khi đụng trận, có
CV để xin yểm trợ hỏa lực và tải thương thì tuyệt, nhưng các chàng CV cũng ưa báo cáo…
nên tôi không thích có CV đi theo
Hôm sau, trong khi đang lục soát, thu dọn chiến trường và chuẩn bị đóng quân đêm thì
Tiểu Đoàn được lệnh di chuyển ngay để B52 “trải thảm” vùng này. Đại Đội 1 và Đại Đội 2
của Đệ Đức đi trước, Đại Đội 4 của Vũ Đoàn Dzoan bao chót. Khi Đại Đội 4 của Đại Úy Vũ
Đoàn Doan chưa rời khỏi vị trí thì hai đại đội đi đầu là tôi và Đệ Đức bị đụng nặng ngay,
tiếng B.40 và RPD nổ ròn, quân ta đã bị thương và tử thương, trời đang tối dần, tối dần!
Trong đêm giữa rừng sâu, lệnh thượng cấp bắt di chuyển gấp, trả mục tiêu lại cho
B.52, nhưng lại bị địch cầm chân! Đây là lúc khó khăn nhất của cấp chỉ huy, Tiểu Đoàn
Trưởng Đồ Sơn đã quyết định: “Ta ở lại chiến đấu, không nhường mục tiêu B52” và Đồ Sơn
đã thông báo quyết định này cho 2 cố vấn Mỹ biết.
Thực tế chiến trường đang xẩy ra trước mắt buộc 2 cố vấn của Tiểu Đoàn phải làm
việc khẩn cấp với hệ thống cố vấn cao hơn để xin hủy bỏ hay chuyển hướng các phi vụ B.52
đang từ Thái Lan hướng về mục tiêu mà TĐ2/TQLC còn đang kẹt tại chỗ. Đây là một việc
làm vô cùng khó khăn, thời hạn ấn định TĐ2 rời khỏi mục tiêu đang cạn dần, đêm lạnh mà
các cố vấn lau mồ hôi trán liên tục. Cuối cùng, cố vấn tiểu đoàn thở phào nhẹ nhõm báo cho
Đồ Sơn biết B52 đã phải “nhường” mục tiêu lại cho TĐ2. Tin loan ra khiến chúng tôi an tâm
diệt cộng, không còn lo hỏa lực của bạn từ trời rơi xuống.
Trong chiến trận, chuyện KQ bạn đánh lầm quân ta cũng không hiếm, nhưng B52 thì
chưa bao giờ xẩy ra. Bốn mươi năm sau, khi ôn lại chiến trường xưa, Đồ Sơn tâm sự:
-Khi quyết định ở lại chiến đấu mà không di chuyển theo lệnh trên, tôi biết sẽ gặp khó
khăn lắm nhưng dịch đang bao vây, không thể hy sinh thêm đồng đội vì bất cứ lý do gì. Vả lại
kinh nghiệm cho tôi biết B52 sẽ không bao giờ dám trải thảm một khi còn có người Mỹ trong
vùng mục tiêu. Lúc đó trong tay mình (TĐ2) còn có 2 cố vấn Mỹ mà.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
19
Sau 3 năm theo chân Đồ Sơn
khắp bốn vùng chiến thuật, bị thương
lai rai thì có nhưng đến khi Đồ Sơn bị
trọng thương thì tôi cũng bị trọng
thương theo bị loại khỏi vòng chiến và
rời TĐ2/TQLC từ đấy.
Xin gửi lời cám ơn muộn màng
đến Đồ Sơn, là Đại Đội Trưởng, đôi
khi tôi thường “khắc khẩu” với Tiểu
Đoàn Trưởng, nhưng nhờ hợp “mạng”
nên Đồ Sơn đã nhiều lần giúp tôi thoát
hiểm trong đường tơ.
Kính chúc Đồ Sơn luôn bình an
mạnh khỏe, vui vẻ cùng con cháu và
các đàn em đến vấn an sức khỏe của
Đồ Sơn. Sau đây tôi xin phổ biến lại bài viết đã được Đồ Sơn dịch sang tiếng Mỹ
***
Trâu Điên And Cố Vấn Reunion 46 Years Later (1969-2015)
Trâu Điên Major Tô Văn Cấp
In 1968-69, General John Sheehan was a U.S. Marine Captain, and served as the
Senior U.S. Marine Advisor for the Trau Dien Battalion. The battalion was under the
command of Do Son at the time. On January 18, 2015, General John Sheehan sent Do Son an
e-mail to let him know that he will be travelling to San Diego to attend the christening of a
U.S. Navy Ship. General Sheehan suggested a reunion with Do Son in San Diego. Knowing
that Do Son lives in San Jose, and travelling may not be convenient for Don Son, General
Sheehan also offered other ways to meet him. Do Son replied to General Sheehan:
_“I am now 80 years old, but I always carry with me the gratitude I have for you and
other Covans for your service in the long and difficult Vietnam War. I never forget that you
had saved my life when I was critically injured on the night of January 06, 1969 in Ca Mau.
You, especially, are not only my brother-in-arms, but a true friend. When I think of the
battles of Mau Than and Boi Loi, Tay Ninh, in 1968, I think of you because you were the
Covan of the famous 2nd Vietnamese Marine Corps Battalion (Trau Dien). Together, we
fought these battles valiantly.
It has been 46 years since we last saw each other. Now I know that you will be in San
Diego for the christening of the Navy Ship, I plan to make a trip to San Diego to meet you
and your wife.”
Do Son’s daughter, Theresa Ngo, recently moved to San Diego. Her Department at
Lockheed Martin in San Jose relocated in San Diego and she moved with her job. Her
husband and children still live in San Jose and would reunite with her at a later time. Do Son
told General Sheehan that he planned to stay with his daughter, and would like to invite
General Sheehan and his wife for a Vietnamese dinner at his daughter’s house.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
20
General Sheehan had originally suggested a get-
together at a Vietnamese restaurant but decided
to accept Do Son’s offer for a reunion at his
daughter’s house. Before travelling to San Diego,
Do Son had asked me (To Van Cap) to join Do
Son for a reunion with General Sheehan. I
regretted I could not make it due to personal
reasons, knowing I may not have a secondchance
to join them for a reunion lik e this. When Covan
Sheehan met Do Son, he was in his U.S. Marine
combat fatigue. In the same manner, Do Son
greeted his Covan in his TQLC combat fatigue. It was 46 years ago that they fought side by
side and then went on their separate ways. The reunion was long overdue for them to renew
their friendship, and to catch up with soldier’s life and death stories between them
during the Vietnam War.
Meeting Do Son’s daughter, Theresa Ngo, General Sheehan told her that he had met
her before in Vietnam. Do Son was surprised but remembered that his wife had took Theresa
to visit him upon the Battalion return from a combat mission at the Trau Dien Battalion Rear
Base Camp in Thu Duc, 1968. Theresa was only seven years old. Not only General Sheehan
has a very good memory, but he is a great ice-breaker. He put everyone at ease in joining the
conversation.
Do Son recounted some memorable moments with his Covan during the reunion:
“Before dinner time, I asked General Sheehan if my daughter’s family and I could have a
picture taken with him and his wife, General Sheehan took out a TQLC beret that he brought
with him, and happily wore it for the occasion.
. He must have kept the same TQLC beret that he wore 46 years ago all these years.
The unspoken gestures of the General said it all, an unwavering friendship of a Covan for his
South Vietnamese Marines.”
Do Son continued:
“General Sheehan also opened an envelope, and took out a combat mission map of
Cau Khoi and Boi Loi, Tay Ninh in 1968. The map shows the location where Captain To Van
Cap had saved his Covan, Fist Lieutenant Joe Bagerstock when Begerstock’s helicopter
mistakenly dropped him off in the enemy’s territory. General Sheehan also showed me a VC
handwritten map of Gia Dinh, Thu Duc that the Trau Dien Battalion seized in Mau Than
battle. General Sheehan gave these maps to me as a gift. These gifts are priceless to me. I
treasure this reunion, and I would not miss it because there may not be another chance for us
to get together since I am up in age, and we live some three thousand miles apart.”The
reunion between General Sheehan and the Trau Dien Battalion Commander on February 07,
2015 speaks of an unbroken bond between a South Vietnamese Marine and his Covan. The
last time they were together was 46 years ago. Since then, the Covan had risen to the top of
his military career to become a four-star General of the United States. With all those 46 years,
the General has never forgotten his South Vietnamese Marine whom he served as a Covan,
and neither was the South Vietnamese Marine who has always remembered his Covan as his
brother-in-arms, and also the one who had saved his life.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
21
Sau khi nhận được bài viết “Trâu Điên Hội Ngộ” của Tô Văn Cấp, Ông John
Sheehan (LN2) gửi Tiểu Doàn Trưởng Đồ Sơn và Đại Đội Trưởng Tô Văn Cấp hai diện thư
sau đây:
John Sheehan [email protected]
To: Trau Dien Col Dinh:
My very dear friend; first, I am happy that you are better. , I am also very touched by
your article. I will always treasure our professional and personal relationship. I think you
underestimate how much you taught me. I became a better officer because of my relationship
with you and the other Marines of Trau Dien.
The one thing I have learned over the years is that rank is not as important as
friendship. The bond created by being a band of brothers stretches over time and distance.
The kindness shown to Peg and myself by you and your family will always be remembered.
Please pass my thanks to Yvonne and warm regards.
Take care of your self my friend
Trau Dien
Jack
-------------------------------------------------------------------
John Sheehan [email protected]
To: Trau Dien Major To Van Cap
I am deeply touched by your article. Each time I rad it, I remember how proud I am
be be include as a member of the Trâu Điên family.
My reunion/visit with Col. Dinh and his family in San Diego was a very special event
for myself and my wife. For years my wife had heard stories and seen pictures of the famous
Col.Dinh. She was both impressed and touched with the humble manner of this true warrior.
We could not have been more welcome in their home.
That evening, was a memory we will both share because it was so very special.
Major To Van Cap, I was very disappointed that you were not able to attend. The
bravery of the Marines of your company to save First Lieutenant Joe Bagerstock was not
only an act of bravery but also demonstrated the special relationship between the VNMC and
the USMC.
That is a bond that was forged under fire and transcends time and distance.
I have include a copy of a picture of one of your Marines that help save Lt. Bagerstock.
(Sorry the picture is not clearer but it is like us over fifty years older)
One brief personal story. Frequently when I attend a USMC event I wear my VNMC tie
(a treasured gift) The younger Marines all ask about the VNMC and they are fascinated with
its history and battle exploits.
Thank you again for writing of this special reunion. I will always remember the
leadership example and bravery of Col. Dinh . I became a better U.S. Marine because of him.
Semper Fi. Trau Dien
Jack Sheehan
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
22
ƠN EM HAI TIẾNG ÔNG THẦY
(tặng Hòa Sầu - Thần Ưng gãy cánh)
Hoàng Hoa Lũng, Tháng Chạp 2019, Dzuy Lynh
Ơn em hai tiếng "ông thầy" ...Thầy Trò tay nắm trong tay
Đẫm tình đồng đội tháng ngày điêu linh Bốn mươi năm lẻ tình này chưa phai
Trường Sơn nắng lửa mưa sình Thương thằng chân vất trên đoài
Chiến trường khốc liệt chúng mình có Xót thằng múc mắt, nhìn ngày như đêm
nhau
Thương Em giữa cái cối nêm
Chiến chinh... cơn lốc qua mau Hàn vi cơ cực trên chêm dưới chèn
Giày Saut áo trận bạc màu chinh nhân Đừng xưng "lính lác" nữa nghen!
Thời gian như áng phù vân Khiến anh xấu hổ quan hèn bỏ nhau...
Trôi theo vận nước phong trần đời trai
Rồi như nước chảy chân cầu
Xưa từng xứng mặt anh tài Thuận duyên, mình sẽ uống nhầu một
Máu đào tô thắm kỳ đài cờ treo phen
Rừng sâu núi thẳm cheo leo Say cho cờ đỏ hóa đen
Vượt ghềnh băng thác quân reo trận tiền Ói; ban cho đám chó phèn cẩu hoang!!!
Ông Thầy, hai tiếng nối liền Lác từ Lính lác đến Quan
Thằng Em nhớ gọi từ miền xa xăm Dầm phèn sông rạch lác đan râu mờ
Cố hương tù ngục tối tăm Thần Ưng gãy cánh từng giờ...
Quân thù phương Bắc hòng hăm đoạt về Vùng năm chiến thuật sân cờ gặp nhau!
Việt Nam cuộc sống nhiêu khê Ve câm phượng héo Hòa sầu
Thương Em anh cũng tái tê cõi lòng Từ mùa quốc nạn gãy cầu nhục, vinh
Tìm đâu những phút thong dong Hồn thiêng sông núi đoái tình
Tuổi già sức yếu vẫn mong một ngày... Giặc tan thù nát... chúng mình bên nhau.
***
Đêm thức chờ mặt trời,
nhớ mấy thằng em.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
23
MX Phạm Vũ Bằng
Sau mấy tháng làm Địa Phương Quân "trấn thủ lưu
đồn" tại xã Triệu Phong, Đông - Bắc tỉnh Quảng Trị,
TĐ9/TQLC di chuyển tới làng Gia Đẳng-Quảng Trị để
dưỡng quân. Gia Đẳng là một làng đánh cá ven biển vì vậy
khí hậu ấm áp khô ráo khiến chúng tôi thoải mái hơn là tại
Triệu Phong, tuy nhiên một tuần lễ sau, khoảng đầu tháng
3/1975 tôi nhận lệnh thuyên chuyển về Bệnh Viện Dã Chiến
Sư Đoàn TQLC và bàn giao chức Trung Đội Trưởng QY
TĐ9/TQLC cho một bác sĩ mới ra trường.
Vì không thích về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn
TQLC và hơn nữa vì cảm nhận được tình hình chiến
trận đã đến lúc căng thẳng, tôi tình nguyện về Đại Đội Quân
Y Lữ Đoàn 258/TQLC và tôi được tạm thời bổ nhiệm làm
y sĩ điều trị tại Lữ Đoàn này vào ngày 08/3/1975 mà không
ngờ tôi sắp bước vào một cuộc gió tanh mưa máu đang ập
đến toàn thể Quân Đoàn I.
Ngày 8/3/1975 tôi trình diện Đại Đội Quân Y Lữ
Đoàn 258/TQLC, đại đội này đóng chung với Bộ Chỉ
Huy Lữ Đoàn 258/TQLC tại làng Mỹ Thủy- Quảng Trị. Làng Mỹ Thủy tọa lạc tại phía
Nam Gia Đẳng mấy cây số, cũng giống như tất cả các làng đánh cá ven biển tỉnh Quảng
Trị, làng này có những hàng dương liễu yểu điệu trong gió, cát trắng, biển xanh hiền
hòa, nước trong nhìn tận đáy, nếu không có chiến tranh thì nơi đây sẽ là một điểm du lịch
nên thơ, chỉ huy Đại Đội Quân Y là Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Lê Minh, dưới quyền ông là BS
Nhi và BS Duy. Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258/TQLC là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ
Đoàn Phó Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ9/TQLC của tôi.
Phòng thủ tỉnh Quảng Trị lúc đó thì:
-Phía Bắc có Lữ Đoàn 369/TQLC.
- Phía Tây có Lữ Đoàn 147/TQLC.
- Phía Đông là Lữ Đoàn 258/TQLC.
Ngày 8/3/1975 Trung Đoàn Bình Trị Thiên Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tấn công
một vị trí của của Tiểu Đoàn 4 TQLC- Đồi 51 phía Tây Bắc Sông Bồ, đồng thời một lực
lượng Việt Cộng (VC) khác uy hiếp ấp Hiền Lương khoảng 2 cây số Tây Bắc Mỹ Chánh,
sáng hôm sau, ngày 9/3/1975, Tiểu Đoàn 4 TQLC và Thiết Kỵ phản công, chỉ trong một
buổi sáng, hai lực lượng CSBV bị đẩy lụi, chạy trốn về phía núi để lại hơn 100 xác chết
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
24
Ngày 13/3/1975, được tin Ban Mê Thuột thất thủ, tôi buồn bực đi lên BCH/LĐ thì
gặp Trung Tá Lượm, ông mời tôi ăn trưa và tâm sự:
-“Cái” chiến lược đem 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị ra Quân Khu I để giữ đất không khá
được, VC gom quân để đánh chỗ này chỗ khác mà Tổng Trừ Bị lại bị giam tại Quân Khu
I cho nên ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột, đất QK I có mất một phần mà quân còn
thì mình chiếm lại được, quân mất thì làm sao giữ đất!
Trầm ngâm rồi Tr/Tá Lượm giải thích thêm:
-Hai SĐ Dù và TQLC có hậu cứ tại Saigon và Thủ Đức nơi gần phi trường và hải
cảng, nếu VC tập trung quân đánh ở bất cứ nơi nào tại Miền Nam thì chỉ vài ngày đến 1
tuần là cả 2 SĐ có thể tăng viện cho vùng đó. Từ sau năm 1972 cả 2 Sư Đoàn Dù và TQLC
bị giam tại Quân Khu I vì vậy khi VC đánh Phước Long tháng 12/74 và Ban Mê Thuộc
3/10/75 mình không có quân Tổng Trừ Bị tiếp viện cho nên mất 2 nơi này.
Ông tiếp:
-Sử dụng Tổng Trừ Bị như Địa Phương Quân làm tinh thần chiến đấu binh sĩ sa sút,
hơn nữa Tổng Trừ Bị đang ở thế chủ động trên chiến trường trở thành thế bị động trên
những cứ điểm mà địch biết rõ, và khi một đạo quân đã căng ra để giữ đất muốn rút đi tiếp
viện một chỗ khác thì rất khó vì địch sẽ truy kích, cản đường nhiều khi không rút được,
mình đã bị trúng kế “diệu hổ ly sơn” rồi!.
Trung Tá Lượm còn nói về nhiều vấn đề khác nhưng không liên quan đến bài viết
này, riêng câu “mình bị trúng kế điệu hổ ly sơn rồi” làm tôi suy nghĩ suốt 40 năm qua,
không biết ai là kẻ tung kế này!?
Trong những năm 1966, 1967,1968 CSBV mỗi năm đều tung quân ra quấy phá
Quân Khu I, chúng đã bị các đơn vị Tổng Trừ Bị Dù và TQLC từ hậu cứ tại Saigon và Thủ
Đức tới Quân Khu I trong thế chủ động đánh đuổi chúng vào rừng núi, sau chiến thắng
Tổng Trừ Bị rút về hậu cứ để nghỉ-bổ xung quân số và sẵn sàng cho những trận chiến khác.
Năm 1968 (Mậu Thân) chúng đánh lớn và thua lớn, thiệt hại nặng nề. Theo wikia.org
thì trong năm 1968 có 181.149 tên VC và CSBV bị giết, khiến chúng phải dưỡng quân 3
năm đến năm 1972 CSBV gom góp đám thanh niên mới lớn tại Miền Bắc rồi nướng trên
100.000 quân trong trận 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa tại Miền Nam.
Tóm lại từ 1966 đến 1972 với chiến pháp Tổng Trừ Bị sẵn sàng tại hậu cứ chờ quân
CSBV xuất đầu lộ diện bất cứ nơi nào tại Miền Nam VN thì ta mang quân Tổng Trừ Bị
khỏe mạnh, trong thế chủ động đến tiêu diệt quân CSBV đang mệt mỏi, đã lộ diện và ở thế
bị động, chiến pháp này đã thành công, VNCH đã chiến thắng CSBV tại khắp mặt trận. Vì
vậy muốn chiếm Miền Nam thì phải bó tay hai Sư Đoàn Dù và TQLC, điều này người “bạn
đồng minh” Mỹ biết rất rõ.
Năm 1971, tên Kissinger bí mật đến Tầu, dọn đường cho năm 1972, Kissinger và
Nixon qua thăm Trung Cộng chính thức, không biết chúng ăn bả gì của Tầu mà sau đó
ngoài mặt Mỹ vẫn là đồng minh của VNCH nhưng sau lưng họ đã bí mật liên kết với Tầu
Cộng và tay sai là CSBV để triệt hạ Miền Nam VN, sự phản bội này đã dần dần được giải
mã. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong chương “Mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Saigon”
của cuốn sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” thì từ năm 1971, sau khi qua Trung Cộng tên
Kissinger đã xui Nixon bán đứng VNCH cho Trung Cộng và tay sai là CSBV, khi Nixon
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
25
sợ mất mặt nước Mỹ, tên Kissinger đã hiến kế: “Cứ đổ cho VNCH là bất lực và yếu kém
(incompetence)”, từ đó chúng đã thực hiện dần dần kế hoạch làm suy yếu VNCH!.
Bước đầu tiên là “giam” 2 Sư Đoàn Dù và TQLC tại Quân Khu I, Tổng Trừ Bị
VNCH đang ở thế chủ động biến thành bị động giữ đất trong các cứ điểm đã lộ rõ. Thật
vậy, sau chiến thắng của VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lửa, CSBV bị kiệt quệ, chúng đã phải
ký Hiệp Định Paris 1973, Quân Khu I yên tĩnh, cớ sao lại phải giữ 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị
tại đây? Tổng Thống Thiệu, người có thẩm quyền điều động Tổng Trừ Bị và Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh Quân Khu I) người nhận và có thể cũng là người đã yêu cầu
giữ Tổng Trừ Bị tại Quân Khu I, là 2 người có liên quan, không biết trong bóng tối Người
Mỹ có dính dáng gì đến quyết định này không?
Sau khi mất Phước Long và Ban Mê Thuột, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu họp
với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I ngày 13/3 và 19/3/191975 tại
Saigon để tái phối trí lực lượng. Không ai biết rõ nội dung hai buổi họp này! Đã có nhiều
bài viết về các buổi họp, nhưng không sát với thực tế, nên tôi đã lấy tin tức từ Phó Đề Đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải là người gần với Tướng Trưởng
nhất và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn của Tổng Thống
Thiệu, cả hai đều viết giống nhau, và theo hai nhân chứng này thì Quân Khu I (QKI) đã
được tái phối trí như sau:
1.QKI trả Sư Đoàn Nhẩy Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH.
2.QKI giữ lại Sư Đoàn TQLC để cùng với 3 Sư Đoàn Bộ Binh cơ hữu 1, 2, 3 và
Biệt Động Quân- Thiết Kỵ co cụm tử thủ 3 cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai, nếu vì lý do
gì không giữ được cả 3 cứ điểm trên thì bằng mọi giá phải giữ Đà Nẵng.
Hồi ký của Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT/QL/VNCH viết về phiên họp ngày
19/3/1975 giữa Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Trưởng như sau:
Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
Kế hoạch thứ nhất:
Nếu Quốc lộ 1 (QL1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ
Chu Lai về Đà Nẵng.
Kế hoạch thứ hai:
Nếu QL1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng,
nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng
bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chính do bốn Sư Đoàn Bộ Binh và bốn
Liên Đoàn BĐQ đảm nhận.
Trong tinh thần trên, Sư Đoàn Nhẩy Dù rời Quân Khu I vào hạ tuần tháng 3/1975.
Ngày 16/3/1975 LĐ369/TQLC rời Quảng Trị đến Thượng Đức Quảng Nam để thay
thế Nhẩy Dù.
Ngày 18/3/1975 LĐ258/TQLC (trong đó có tôi) rời Mỹ Thủy-Quảng Trị đến Nam
Thừa Thiên để bảo vệ Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng.
PHÒNG THỦ CỨ ĐIỂM THỪA THIÊN- HUẾ:
Để viết phần này, tôi dựa vào tài liệu từ phỏng vấn và hồi ký của:
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
26
-Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí-Lư Lệnh Lực Lượng Tây Bắc Huế.
-Wipekida Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH.
- Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Đỉnh Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh.
- Và phỏng vấn những người liên quan khác.
Lưu ý: Tôi chỉ kể quân chính quy của 2 bên, không nói đến các lực lượng Địa
Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát của VNCH, các lực lượng Du Kích, Đặc Công của
CSBV.
Lực Lượng VNCH Tại Thừa Thiên-Huế:
1-Tây Bắc: LĐ147/TQLC, LĐT là Đại Tá Nguyễn Thế Lương, gồm 4 Tiểu Đoàn
3, 4, 5, 7/TQLC, 1 Đại Đội Viễn Thám, TĐ 2 Pháo Binh TQLC, Liên Đoàn 14BĐQ gồm
3 tiểu đoàn và 1 Đại Đội Viễn Thám.
Tất cả các lực lượng trên được chỉ huy bởi Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí.
2-Tây Nam: SĐ1BB gồm 4 trung đoàn và 1 Đại Đội Hắc Báo, 1 Đại Đội Trinh Sát,
các thành phần yểm trợ như 3 tiểu đoàn pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn pháo binh 155 ly,
Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh.
3-Yểm Trợ: Yểm trợ cho toàn mặt trận Thừa Thiên-Huế là Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh gồm
Thiết Đoàn 20 Chiến Xa có 51 chiến xa M48 mới tinh, (nên nhớ chiến xa M48 là khắc tinh
của chiến xa CSBV T54), Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh gồm khoảng 100 chiếc M113 và M41,
các Tiểu Đoàn Pháo Binh 155 Ly.
Các lực lượng kể trên được gọi là Quân Đoàn I Tiền Phương và được chỉ huy bởi
Trung Tướng Lâm Quang Thi, ông cũng là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I. Đây là 1 đạo quân
thiện chiến hàng đầu của Quân Lực VNCH, đạo quân này sẽ đánh bại bất cứ lực lượng
CSBV nào.
4-Nam Thừa Thiên và Quốc Lộ 1:
-Liên Đoàn 15BĐQ gồm các Tiểu Đoàn 60, 61, 94 BĐQ. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn
15 BĐQ đóng tại Phú Bài. Liên đoàn này trải quân sâu về phía Tây cách Quốc Lộ 1 khoảng
5 cây số.
-Lữ Đoàn 258/TQLC gồm TĐ1 và TĐ8 ém quân ven QL1 từ Bắc Cầu Truồi đến
Cầu Đá Bạc- Phú Lộc. BCH LĐ258 đóng tại phía Bắc Sông Truồi cùng với Đại Đội B
Viễn Thám, Tiểu Đoàn trừ 1 Pháo Binh 105 Ly.
Lực Lượng CSBV Tại Thừa Thiên-Huế:
Lưu ý: Tôi chỉ kể quân chính quy, không kể du kích địa phương, đặc công.
Theo tài liệu Wikipedia CSBV thì lực lượng Chính Quy CSBV tấn công vùng Huế-
Thừa Thiên gồm:
-Sư Đoàn 324 với 3 trung đoàn, Sư Đoàn 325 với 2 trung đoàn, 1 trung đoàn đã
tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột và yểm trợ cho cả 3 mũi tấn công Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam có Lữ Đoàn Xe Tăng 203, Lữ Đoàn Pháo 164, Sư Đoàn Phòng Không 673.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
27
TƯƠNG QUAN QUÂN SỐ CỦA HAI BÊN TẠI CHIẾN TRƯỜNG HUẾ THỪA
THIÊN:
Tôi chỉ kể những tiểu đoàn chính quy tác chiến. Nên nhớ 1 tiểu đoàn Bộ Binh quân
số khoảng 500-600 binh sĩ. Tiểu Đoàn TQLC có quân số khoảng 700. 1 tiểu đoàn CSBV
quân số khoảng 300-400 binh sĩ.
-VNCH: Tổng cộng 24 tiểu đoàn tác chiến gồm: .
LĐ147/TQLC (4 tiểu đoàn).
Liên Đoàn 14BĐQ 3 tiểu đoàn.
SĐ1BB gồm 4 trung đoàn mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn như vậy là 12 tiểu đoàn.
LĐ258/TQLC có 2 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 15BĐQ 3 tiểu đoàn.
-CSBV:Tổng cộng 15 tiểu đoàn gồm Sư Đoàn 324 có 3 trung đoàn mỗi trung đoàn
3 tiểu đoàn, Sư Đoàn 325 có 2 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn.
TRẬN ĐÁNH TRÊN QUỐC LỘ 1 HUẾ-ĐÀ NẴNG NAM THỪA THIÊN.
(Từ phần này đến những đoạn sau, tôi viết dựa theo kinh nghiệm của chính tôi,
phỏng vấn những quân nhân tham dự trận chiến thuộc Lữ Đoàn 258 TQLC và Liên Đoàn
15 BĐQ, riêng với Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang-Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61BĐQ và
Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo-LĐT/LĐ258/TQLC lúc đó. Tôi đã phỏng vấn họ 10 năm
trước, khi tôi viết bài “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”.
Phía CSBV tôi dựa theo hồi ký của tên Thiếu Tướng Nguyễn Đức Huy lúc đó là
Phó Tư Lệnh-Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 325 CSBV, điều cần phải nêu ra là hồi ký của
tất cả bọn cán binh CSBV đều được viết theo đơn đặt hàng của Ban Chính Huấn CSVN,
nên có nhiều khoác lác bịa đặt, tôi chỉ lấy ra những phần hợp lý)
Ngày 18/3/1975, LĐ258/TQLC rời Mỹ Thủy- Quảng Trị, đoàn xe dài đưa chúng tôi
ra QL1, khi qua cầu Mỹ Chánh thì “được” CSBV chào đón bằng mấy trái cối 82 ly, nhưng
không có thiệt hại. Chúng tôi qua Huế mà lòng bồi hồi thương tiếc vì linh cảm rằng đây là
lần cuối cùng.
Địa điểm đóng quân mới của LĐ258 tại phía Nam Tỉnh Thừa Thiên, từ phía Bắc
Cầu Truồi đến Phú Lộc.
Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm-Lữ Đoàn Phó cho biết Lữ Doàn có nhiệm vụ:
-Bảo vệ giao thông và tiếp tế trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa Thiên.
-Làm thành phần cản hậu nếu Quân Đoàn I Tiền Phương rút về Đà Nẵng.
Cùng nhiệm vụ với LĐ258/TQLC có Liên Đoàn 15BĐQ, bộ chỉ huy đóng tại Phú
Bài các tiểu đoàn đóng sâu trong núi phía Tây còn, TQLC thì ém quân ven Quốc Lộ 1,
tuyến phòng thủ từ Bắc Sông Truồi đến Phú Lộc.
Quân rút thì dân cũng chạy theo, người dân Quảng Trị-Huế đã có quá nhiều kỷ
niệm đau thương với CSBV, năm Mậu Thân 1968 CSBV đã chôn sống trên 5.000 người
dân Huế bao gồm cả đàn bà và học sinh. Năm 1972 CSBV đã xả súng tàn sát mấy ngàn
dân
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
28
Tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 258/TQLC
Quảng Trị gồm thường dân, đàn bà trẻ em khi họ bỏ trốn khỏi vùng giao tranh trên
“Đại Lộ Kinh Hoàng”, chiến pháp của CSBV là “Tam Dân”- dùng dân lành làm bia đỡ
đạn, dùng dân để lấy lương thực, dùng dân để lấy tin tình báo, vì vậy khi dân chạy trốn thì
bị chúng khủng bố và tàn sát dã man.
Từ ngày 18/3/1975 đến ngày 21/3/1975 người dân Quảng Trị-Huế đã bỏ nhà cửa
ruộng vườn, theo Quốc Lộ 1 chạy về Đà Nẵng, họ dùng tất cả phương tiện xe hơi, xe gắn
máy, xe đạp và đi bộ để chạy giặc đầy trên Quốc Lộ 1, bất kể ngày đêm. CSBV không bỏ
lỡ cơ hội này nên các dàn đại pháo 130 ly của chúng đã xả đạn không thương tiếc vào đoàn
người, nhiều người trúng đạn ngã gục nhưng những người phía sau vẫn hoảng loạn đạp lên
những người xấu số để đi, chính quyền địa phương Quân Đoàn I hầu như bỏ rơi họ, tôi
không thấy các toán y tế săn sóc sức khỏe cho dân, tôi cũng không thấy các toán an ninh
cảnh sát thanh lọc lũ đặc công CSBV đang trà trộn trong dân để lọt vào Đà Nẵng, Lữ Đoàn
258TQLC đã tự động làm công tác “dân sự vụ”, các toán Quân Y săn sóc sức khỏe, cứu
thương, cung cấp lương thực cho dân, các binh sĩ thì mai tang những người xấu số.
TRẬN ĐÁNH:
Trước khi nói về trận đánh tôi xin làm một bản so sánh quân đội hai bên tại Mặt
Trận Nam Thừa Thiên:
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
29
-CSBV: Sư Đoàn 325 có hai trung đoàn bộ binh bí số 18 và 101, (Trung Đoàn 95
đã tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột), như vậy là 6 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn CSBV có
quân số từ 300 đến 400 vậy thì tổng cộng CSBV có khoảng 2400 quân bộ binh.
-VNCH: 3 Tiểu Đoàn BĐQ, mỗi tiểu đoàn quân số khoảng 500, như vậy khoảng
1500 BĐQ, 2 tiểu đoàn TQLC quân số khoảng 600- 700 mỗi tiểu đoàn như vậy là 1400
TQLC, 1 đại đội viễn thám khoảng trên 100 TQLC, vậy thì VNCH có khoảng 3000 Quân.
Theo binh thuyết thì lực lượng tấn công phải có quân số và hỏa lực gấp 3 lực lượng
phòng thủ, nhìn bản so sánh trên ta đã thấy lẽ hơn thua rồi!
Từ ngày 21/3/1975, CSBV nổ súng tấn công tuyến của Liên Đoàn 15BĐQ phía Tây
cách QL1 từ 3-5km, chúng có gây một số thiệt hại cho BĐQ nhưng không chọc thủng được
phòng tuyến này và chúng cũng không biết đằng sau BĐQ có Lữ Đoàn 258 TQLC ém
quân. Riêng tuyến Cầu Đá Bạc-Phú Lộc có nguyên cả Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ, vài nhóm
quân CSBV cấp trung đội bị BĐQ đánh tan tác chạy dạt tới gần Quốc Lộ 1 đã bị TQLC
tiêu diệt. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC phía Bắc Sông Truồi, tôi nhận được nhiều
thương binh, đa số thương binh TQLC bị thương vì đạn pháo kích còn BĐQ bị thương do
đạn súng bắn thẳng.
Sáng ngày 24/3/1975, Đại Úy Q… Trưởng Ban 2 Lữ Đoàn mang đến một tên tù
binh CSBV, tên tù binh ốm yếu vàng vọt bị thương tại chân cần tiểu giải phẫu, khi y tá bầy
ra bộ tiểu giải phẫu gồm dao kéo, kìm kẹp, kim chỉ, thằng CSBV hoảng hốt tưởng là tôi
sắp tra khảo, nó quỳ xuống đất lạy như tế sao miệng lắp bắp: “Lậy quan, xin quan tha cho
con, con xin khai hết”.
Theo lời khai thì hắn là trung úy đại đội trưởng thuộc Trung Đoàn 101. Ngày
23/3/1975, thủ trưởng của hắn cho biết Phú Lộc đã được giải phóng, sai hắn mang quân
đên tiếp thu, khi đến gần vòng đai Phú Lộc thì bị phục kích (Tiểu Đoàn 8 TQLC) cả đại
đội bị tiêu diệt, hắn bị thương nhưng giả chết nên bị bắt làm tù binh.
Từ ngày 18/3/1975 đến 24/3/1975, CSBV pháo rất nhiều vào Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn
258TQLC tại ven Quốc Lộ 1, chúng pháo bằng đại bác tầm xa 130 Ly, không có súng cối,
điều này cho chúng tôi biết chúng đã bị chận từ xa quốc lộ ngoài tầm của súng cối.
Trận chiến tại Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên có 3 đặc điểm sau đây:
1-Sáng ngày 23/3/1975 đài phát thanh CSBV loan tin chúng đã chiếm được Phú
Lộc và cắt QL1 tại đây. Hình như có sự ước hẹn với nhau như một vở kịch nên liền sau đó
đài BBC và VOA đồng loan tin y hệt như vậy. Hai đài này không có ký giả tại đây tại sao
chúng lại loan tin thất thiệt? Chúng tôi liên lạc với Bộ Chi Huy Tiểu Đoàn 8 TQLC tại Phú
Lộc thì được biết quân ta vẫn bình yên. Tin “mất Phú Lộc” tuy không đúng sự thật nhưng
đã gây đau thương cho Quân Đoàn I, vì nếu muốn rút Quân Đoàn I Tiền Phương về Đà
Nẵng trên Quốc Lộ 1 thì phải qua Phú Bài, Cầù Truồi, Cầù Đá Bạc, Phú Lộc. Cái tin “mất
Phú Lộc” không hề được Quân Đoàn I kiểm chứng nhưng đã khiến Trung Tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn I Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng Tư Lệnh Phó Lâm Quang Thi quyết định
rút Quân Đoàn I Tiền Phương qua ngả Thuận An để gây bao đau thương cho đạo quân
thiện chiến này.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
30
2-Xin nhắc lại: “Cái tin thất thiệt CSBV chiếm Phú Lộc làm rung động cả Quân
Đoàn I vậy mà Quân Đoàn đã không kiểm chứng” và đính chính để nâng cao tinh thần
quân dân Vùng I Chiến Thuật.
3-Trong suốt trận chiến tại Nam Thừa Thiên, chúng tôi quân dân Vùng I Chiến Thuật. 3-
Trong suốt trận chiến tại Nam Thừa Thiên, chúng tôi
Quân Y L/Đ 258 săn sóc đồng bào trên QL1. Cầu Truồi trước khi bị QĐI phá
như một đạo quân bị bỏ rơi, mặc dù đây là một trận đánh cấp sư đoàn quan trọng đến sự
sống còn của cả quân đoàn nhưng không có một cấp chỉ huy Quân Đoàn I nào đến thăm,
không có một máy bay nào bay trên trời, không có ký giả chiến trường, hoàn toàn không
có ai, mặc dù Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Huế có 20km, và
cách Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn I tại Đà Nẵng 30 phút trực thăng. Ngay cả khi có tin “vịt”
Phú Lộc thất thủ cũng không có cấp chỉ huy Quân Đoàn nào gọi máy hỏi thăm kiểm
chứng, làm như mọi chuyện đã được an bài.
5 giờ sáng ngày 25/3/1975, Lữ Đoàn 258 TQLC được lệnh bỏ tuyến phòng thủ Quốc
Lộ 1 phía Nam tỉnh Thừa Thiên để rút về Đà Nẵng, theo Trung Tá Lữ Đoàn Phó Huỳnh
Văn Lượm thì lệnh này do đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh. Vì Cầu Truồi đã
bị Công Binh Quân Đoàn I phá trước đó nên quân xa không sử dụng được, chúng tôi được
lệnh đi bộ. Chúng tôi ra đi trong lòng buồn bực vì đang chiến thắng mà phải rút đi, đồng
thời cũng lo lắng cho quân bạn tại Thừa Thiên-Huế vì đoạn đường này là huyết mạch duy
nhất để tiếp tế hoặc rút lui về Đà Nẵng của đạo quân Tiền Phương Quân Đoàn I. Cùng rút
với TQLC có một số BĐQ của Liên Đoàn 15, tất cả quân xa và pháo binh TQLC đều bị bỏ
lại sau khi phá hủy.
Đến Sông Truồi, chúng tôi thấy Cầu Truồi đã bị phá, Cầu Truồi gồm 2 cầu, cầu sắt
cho xe lửa đổ gục xuống sông, cầu cho xe hơi bị mìn thủng một lỗ lớn bằng 2 cái bàn. Để
tránh pháo của CSBV, chúng tôi lội qua Sông Truồi nước trong vắt và chỉ sâu đến đầu gối.
Cả Lữ Đoàn 258 TQLC đi bộ trên Quốc Lộ 1 qua Cầu Đá Bạc và Phú Lộc mà không thấy
một tên CSBV nào và cũng không có một phát súng của CSBV bắn về phía chúng tôi. Qua
khỏi Phú Lộc cả Lữ Đoàn được xe GMC Quân Vận đón, đoàn xe đưa chúng tôi qua Đèo
Hải Vân rồi về đến Căn Cứ TQLC tại Non Nước Đà Nẵng khoảng 10 giờ tối cùng ngày
25/3/1975.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
31
Viết đến đây chúng tôi lại có một thắc mắc mà suốt 40 năm không có câu trả lời.
Chúng tôi đã giao tranh với Sư Đoàn 325 CSBV từ 18/3/1975 đến 25/3/1975 tại Nam Thừa
Thiên mà không thấy chúng có chiến xa, có thể vì địa thế núi rừng tại đây nên chúng không
mang được chiến xa đến. Đơn vị chiến xa gần nhất là Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ VNCH gồm 51
chiếc M48 mới tinh và trên 100 chiếc M41, M113 của Quân Đoàn I Tiền Phương còn đơn
vị chiến xa CSBV lúc đó còn tại Quảng Trị. Như vậy tại sao phải phá Cầu Truồi? Tôi nghĩ
mãi mà chỉ thấy có 2 giả thuyết:
1-Cấp chỉ huy QĐI quá hoảng hốt và không nắm vững tình hình chiến trường.
2-Cấp chỉ huy QĐI vì một lý do gì không muốn Đoàn Quân Tiền Phương VNCH về
Đà Nẵng với đầy đủ khí cụ và chiến xa vì nếu vậy thì cuộc chiến tại Quân Khu I sẽ kéo dài
rất lâu…
Cách đây trên 10 năm, tôi có gặp Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 61BĐQ tại Las Vegas, lúc đó ông chưa qua đời, ông cho biết:
Tối ngày 25/3/1975 Thiếu Tá Quang rút Tiểu Đoàn 61 BĐQ từ đồi 500 phía Tây
Quốc Lộ 1 về Phú Lộc, từ đấy Tiểu Đoàn 61BĐQ đi ngược về Phú Bài-Huế rồi ra Thuận
An, ông có tả Cầu Truồi bị phá giống như tôi viết phía trên, ông cho biết từ Phú Lộc đến
Huế đường đi an toàn không gặp CSBV. Khi đến Thuận An thì đơn vị của ông mới gặp
Quân CSBV.
Như vậy trong ngày 25/3/1975 từ Phú Lộc TQLC xuôi Nam về Đà Nẵng, BĐQ từ
Phú Lộc lên Bắc tới Huế an toàn. Như vậy thì Quốc Lộ 1 Huế Đà Nẵng trong thời gian từ
18/3/1975 đến tối ngày 25/3/1975 đã không bị CSBV cắt đứt.
Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC lúc đó cũng
đã khẳng định:
-Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/1975 vẫn an toàn để rút Quân Đoàn I
Tiền Phương về Đà Nẵng và Lữ Đoàn 258TQLC có thể giữ đoạn đường này thêm nhiều
tuần lễ nữa.
Khi viết các dòng chữ kể trên, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu về Trận Chiến Trên
Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên tháng 3/1975 của nhiều tác giả không tham chiến trong trận
đánh này, hầu hết đều lấy tài liệu của CSBV hoặc của Mỹ viết rằng Phú Lộc bị CSBV
chiếm trong ngày 23/3/1975!
Tôi khẳng định rằng từ ngày 18/3/1975 đến ngày 25/3/1975, Cầu Đá Bạc và Phú
Lộc được Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ, không hề lọt vào tay quân CSBV. Nếu mất Phú
Lộc thì Lữ Đoàn 258 TQLC, trong đó có tôi đã không thể về Đà Nẵng trên Quốc Lộ 1
an toàn trong ngày 25/3/1975.
Tên tướng Nguyễn Đức Huy tư Lệnh Phó Sư Đoàn 325 CSBV khi khoác lác viết
rằng đã chiếm được Phú Lộc và 10 km Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên vào ngày 23/3/1975
đã không biết rằng có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân tại đây. Hắn còn láo khoét là đã bắt
được Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ (Thiếu Tá Quang) trong ngày 3/23/1975.
SỐ PHẬN CỦA QUÂN ĐOÀN I TIỀN PHƯƠNG.
Để viết đoạn này, tôi đã phỏng vấn Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải
Quân Vùng 1 Duyên Hải và trước đó Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC khi tôi
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
32
viết hồi ký “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”, Đại Úy Chánh Văn Phòng Tư Lệnh TQLC.
Ngoài ra tôi cũng tham khảo hồi ký của Ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch
Và Phát Triển kiêm Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hồi ký của Đại Tá TQLC
Nguyễn Thành Trí lúc đó là Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế, hồi Ký của Thiếu Tá Phạm
Cang Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 TQLC, hồi ký của các TQLC Phan Văn Đuông, Cao
Xuân Huy là các quân nhân tham dự trận đánh…
Nói chung thì tình hình Huế-Quảng Trị không sôi động, quân CSBV bám sát quân
ta nhưng đã không có trận nào lớn hơn cấp đại đội. Tại tuyến Tiểu Đoàn 7TQLC có 5 chiếc
T54 của CSBV bị M48 của ta bắn hạ 3 chiếc 2 chiếc còn lại bỏ trốn, ngoài ra có một đoàn
tầu CSBV xâm nhập hải phận của ta, chúng bị M48 bắn và bỏ chạy, quân ta vô sự, ngoài
Huế thì CSBV dùng pháo tầm xa 130 Ly pháo khích.
Theo Đại Tá Nguyễn Thành Trí thì Tướng Tư Lệnh Lâm Quang Thi nhận thấy khó
giữ được Huế và tin rằng Phú Lộc bị thất thủ do đó không dùng được Quốc Lộ 1 để lui
quân về Đà Nẵng cho nên Tướng Tư Lệnh triệu tập phiên họp ngày 24/3/1975 tại Căn Cứ
Hải Quân Thuận An lúc 14.30, phiên họp này gồm có:
-Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh QĐI Tiền Phương
-Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
-Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế.
-Đại Tá Hy, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I Tiền Phương
-Đại Tá Duệ Tỉnh Trưởng Thừa Thiên.
-Trung Tá Chỉ Huy Căn cứ Thuận An
Buổi họp này kéo dài không lâu và kết quả là:
1-Bỏ Huế-Quảng Trị.
2-Lực Lượng Tây Bắc Huế bỏ chiến xa, đại bác, chiến cụ nặng trang bị nhẹ rút về
Cù Lao Thuận An rồi xuôi Nam đến cửa Tư Hiền. Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng bỏ chiến xa,
đại bác, chiến cụ nặng trang bị nhẹ rút về cửa Tư Hiền.
3-Hải Quân và Công Binh Quân Đoàn I sẽ lập cầu phao tại cửa Tư Hiền để Đạo
Quân Tiền Phương băng qua, sau đó xuôi Nam. Hải Quân sẽ bốc quân từ từ, phần còn lại
sẽ quay trở lại Quốc Lộ 1 về Đà Nẵng.
Kế hoạch rút quân này được Chuẩn Tướng Điềm và Đại Tá Hy mang về Đà Nẵng
trình Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, được chấp thuận và sau đó được mang về Thuận
An lúc 17.30 cùng ngày 24/3/1975. Lệnh rút quân được thi hành lúc 1800 ngày 24/3/1975.
Như vậy chỉ trong mấy tiếng đồng hồ từ 2.30PM đến 6PM ngày 24/3/1975 số phận
của Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn I đã “được” định đoạt!
Rút một đạo quân cấp quân đoàn cần sự điều nghiên tính toán và thiết kế của Bộ
Tổng Tham Mưu, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với sự hợp tác của Tư Lệnh Không Quân
và Hải Quân. Lệnh rút quân này đã được thiết kế bởi 2 ông tướng và mấy ông tá trong vòng
vài tiếng đồng hồ nên có phần thiếu sót.
Vứt súng bỏ chạy ra biển không phải là một cuộc rút quân, quân ta mạnh hơn địch
và đang chiến thắng tại sao phải rút? Phiên họp ngày 24/3/1975 của Quân Đoàn I Tiền
Phương chẳng qua chỉ là màn kịch để cấp chỉ huy Quân Đoàn I Tiền Phương bước lên tầu
về Đà Nẵng một cách hợp pháp.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
33
Đà Nẵng: Chiều ngày 24/3/1975, sau khi họp với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
về lệnh rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh
Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bàn luận với ban tham mưu của ông gồm 3 vị Hải Quân Đại
Tá mưu lược, đã nhận ra những điều bất lợi của lệnh rút quân này, ông mời Thiếu Tướng
Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC cùng đến gặp Trung Tướng Trưởng.
Buổi họp lúc 6 PM ngày 24/3/1975 tại Đà Nẵng, có Thiếu Tướng Hoàng văn Lạc,
Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Phó Đề Đốc Thoại trình bày lên Trung Tướng Trưởng những điều sau đây:
1-Vì thời gian cấp bách chỉ có 12 tiếng, vì Hải Quân đang bận lấy quan tại Chu
Lai, vì thời tiết khí tượng xấu cho nên Hải Quân không thể tổ chức hoàn hảo để bốc 1 đạo
quân trên 20.000 quân vào ngày 25/3/1975, và cũng vì khí tượng xấu và thời gian cáp bách
nên Hải Quân và công binh không thể thực hiện được cầu phao qua cửa Tư Hiền.
2-Vứt bỏ súng đại bác và chiến xa để bỏ Huế-Thuận An sẽ có một phản ứng dây
truyền làm mất tinh thần binh sĩ không những tại Đà Nẵng, toàn thể Quân Khu I mà còn
lan tới Quân Khu 3 và Quân Khu 4, hơn nữa khi ta rút bỏ Huế-Thuận An thì CSBV sẽ rảnh
tay để mang 2 Sư Đoàn 324, 325 cùng với súng đạn, chiến cụ chiếm được về đánh Đà Nẵng
Vì vậy Phó Đề Đốc Thoại đề nghị với Trung Tướng Trưởng:
1-Tử thủ Huế-Thuận An vì quân ta mạnh hơn CSBV tại đây. (đọc phòng thủ Huế
Thừa Thiên phần trên) Hải Quân sẽ lo phần tiếp tế, yểm trợ vì ta vẫn làm chủ trên biển.
2-Nếu vì lý do gì phải bỏ Huế-Thừa Thiên thì tập trung quân gồm 4 trung đoàn của
SĐ1BB, 2 liên đoàn 14,15BĐQ, Lữ Đoàn 147TQLC, Lữ Đoàn 1 Kỵ Kinh với 51 chiếc M48
và hàng trăm chiếc M41,M113 giữ thế chủ động đánh thẳng vào hậu cứ của 2 sư đoàn 325,
324 CSBV rồi về Đà Nẵng trong tinh thần quyết chiến quyết thắng
Tướng Bùi Thế Lân cũng nhiệt liệt đồng ý với Phó Đề Đốc Thoại, Tướng Lân cũng
cho biết là ông có 1 Lữ Đoàn 258TQLC đang ém quân trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa
Thiên sẵn sàng yểm trợ trận đánh, ông nói tiếp: “Đi phía biển tôi sợ sẽ mất hết”
Trung Tướng Trưởng suy nghĩ một lúc rồi nói với 2 ông tướng là ông không thể
thực hiện được kế hoạch này mà không cho biết lý do. Phó Đô Đốc Thoại kết luận: “Có
thể Trung Tướng Trưởng biết những điều chúng tôi không biết”!
6 PM ngày 24/3/1975, Đạo Quân Tiền Phương được lệnh bỏ vị trí chiến đấu, bỏ vũ
khí nặng, bỏ chiến xa đại bác, bỏ lương thực, trang bị nhẹ để đến điểm hẹn là Cù Lao Thuận
An, họ tin rằng khi lên tầu thì họ sẽ có lương thực, nước uống và đạn dược. Dọc đường họ
thấy chiến xa, xe cộ và đại bác vứt đầy đường, 8AM ngày 25/3/1975, cả đạo quân đã có
mặt tại Thuận An, 9.30 AM ngày 25/3/1975 họ được lệnh chờ tại chỗ vì không có cầu phao
tại Cửa Tư Hiền.
Sáng 25/3/1975 tại Đà Nẵng, Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân ra lệnh cho Đại Úy
Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh dùng trực thăng của Tướng Lân bay ra
Thuận An gặp Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147TQLC để trao
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
34
cho ông 1 lá thư kèm theo lời dặn: “Tìm ra Quốc Lộ 1 mà đi”. Đại Úy Đan còn bay đi và
về Thuận An-Đà Nẵng thêm 2 lần nữa để tiếp tế cho Lữ Đoàn 147TQLC. Trên đường về
Đà Nẵng lần thứ 3 ông đã cứu được Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB khi trực
thăng của Tướng Điềm trục trặc máy trên đường về Đà Nẵng bị rơi trên Quốc Lộ 1.
9.30 AM ngày 25/3/1975, tại Dinh Độc Lập, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Tổng
Trưởng Kế Hoạch kiêm Cố Vấn Tổng Thống họp Nội Các và Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi Tướng Khuyên trình bày tình hình QKI
và QKII, trước mặt mọi người, Tổng Thống Thiệu nhấc máy gọi cho Trung Tướng Trưởng
tại Đà Nẵng. Sau đây là nguyên văn cuộc đối thoại:
Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng:
-“Có giữ được Huế hay không?”. (Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia):
Trung Tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”
Tổng Thống Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”
Trung Tướng Trưởng: “Ngày một ngày hai.”
Tổng Thống Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết
định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Trở lại Thuận An: Vào cùng thời điểm của phiên họp nội các tại Dinh Độc Lập, lúc
9.30 AM ngày 25/3/1975, Đội Quân Tiền Phương được lệnh chờ tại chỗ để tầu Hải Quân
vào đón vì không có cầu phao tại cửa Tư Hiền. Theo hồi ký của những Mũ Xanh Lữ Đoàn
147 TQLC thì trước mặt họ có rất nhiều tầu Hải Quân nhưng không có chiếc tầu nào vào
đón, giải thích lý do tầu không vào lấy quân được, Phó Đô Đốc Thoại cho biết: “Vì sương
mù, vì biển động, vì sóng ngầm”!
Chiều ngày 25/3/1975, quân Việt Cộng bắt đầu truy kích, từ những bụi cây, mô cát,
chúng tác xạ vào đoàn quân trên bãi cát trống trải, với số lượng đạn ít ỏi mang theo Đạo
Quân Mũ Xanh vẫn anh dũng chiến đấu.
Sáng ngày 26/3/1975, có 1 chiếc LCU liều mạng vào cứu được thương binh, Bộ
Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 TQLC và khoảng vài trăm binh sĩ, chiếc LCU này cũng bị trúng 1
hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 làm Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Thế Lương bị thương, chiếc
LCU thứ hai bị mắc cạn và từ đó không có tầu nào vào đón, các chiến sĩ Mũ Xanh tiếp tục
chiến đấu cho đến rạng sáng ngày 27/3/1975 sau khi uống những giọt nước cuối cùng, bắn
những viên đạn cuối cùng và ném quả lựu đạn cuối họ mới chợt nhớ là phải dành cho riêng
họ 1 quả lựu đạn. Đây là tâm sự của một MX thuộc LĐ147. MX Đoàn Văn Tuấn viết:
-“Một mùa đại giỗ nữa của gia đình anh em Mũ Xanh lại đến. Đã trên bao năm trôi
qua mà sao vẫn nhớ mãi cái cảnh những người lớn chơi trò trẻ con! Họ ngồi quây quần
bên nhau, úp lá khoai môn lên trái mãng cầu. Những lời bình thản:“Ê, từ từ đã mày, chờ
thằng Toàn đang chạy đến tham gia kia kìa.”. Rồi sau đó... “bùm”!!!
Trời ơi! Đó là thực tế của bạn bè anh em chúng tôi, những người lính Mũ Xanh kiêu
hùng nhưng họ đã phải đi nhặt những viên đạn để chống trả với quân thù! Dùng hàm răng
làm vũ khí và sau cùng thì đành trở về với tuổi thơ, ngồi xúm lại trên bãi cát trắng bờ biển
Thuận An miền Trung thơ mộng. Trời vẫn xanh, biển vẫn rì rào lời mời gọi. Đường về! Ôi
quá xa. “Bùm” những thân người đổ vật ra! Anh em ta đã về nhà, về với đất mẹ thân yêu.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
35
Một thực tế mà trên thế giới ít một nước nào có. Sự tự sát tập thể không khác gì với những
huyền thoại của những người võ sĩ đạo của xứ Phù-Tang. Tinh thần bất khuất ấy vẫn sống
mãi trong ký ức những người còn lại.
Hôm nay ngồi đây, tôi viết những dòng này gửi đến các anh, đến bạn bè, những
người lính MX năm xưa để chúng ta cùng cúi đầu dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ
những người đã nằm xuống tháng 3, tháng gió lớn của gia đình Mũ Xanh.
Còn đây là tâm sự của MX Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng:
-“Ngày 26 Tháng Ba là ngày Người Cày Có Ruộng.
Ngày 26 Tháng Ba là ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một
đại đội du kích Việt Cộng bắt sống.
Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra.”.
Như vậy thì rạng sáng ngày 27/3/1975 toàn thể Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn
I đã tan rã trên bãi biển Thuận An.
Đặc điểm của cuộc rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương là:
1-Quân ta đang chiến thắng tại sao phải vội vã rút quân? Theo Đại Tá TQLC
Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế thì: “Chưa có một vị trí nào đã bị mất
trên hành lang Sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi…Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang
An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị-Huế”.
Và hồi ký tôi đã viết ở phần trên tại mặt trận Nam Thừa Thiên quân ta đã đang
toàn thắng!
2-Kế hoạch rút quân được thiết kế vội vã, thiếu sót, khiến Hải Quân và Công Binh
không kịp chuẩn bị.
3-Các cấp chỉ huy cao cấp của Đạo Quân Tiền Phương đã bỏ rơi quân lính để về
Đà Nẵng: Trung Tướng Lâm Quang Thi và Bộ Tham Mưu Tiền Phương bỏ về Đả Nẵng
ngày 25/3/1975 bằng tàu Hải Quân. Chuẩn Tướng Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
cũng bỏ về Đà Nẵng trong ngày 25/3/1975 bằng trực thăng.
4-Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã được Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại báo trước là Hải Quân và Công Binh sẽ gặp khó khăn, và rút quân
theo ngả Thuận An có thể sẽ mất hết, còn rút quân bằng đường bộ sau khi đánh tan hậu cứ
của 2 sư đoàn CSBV là khả thi, mà Tướng Trưởng không nghe.
5-Trong lúc Đạo Quân Tiền Phương bị vây hãm tại Thuận An chỉ có Đại Tá TQLC
Nguyễn Thành Trí còn ở lại ngoài khơi Thuận An, ngoài ra đã không có một cấp chỉ huy
cao cấp của Quân Đoàn I nào, từ Trung Tướng Trưởng đến Trung Tướng Thi, hay Đại Tá
Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I bay thị sát mặt trận để trực tíếp tìm phương cách cứu
nguy cho Đạo Quân Tiền Phương.
6-Không Quân, Hải Quân của Quân Đoàn I còn nguyên vẹn nhưng đã không can
thiệp cứu nguy. Theo Phó Đề Đốc Thoại thì vào thời điểm 24/3/1975 đến 27/3/1975, Hải
Quân có sẵn 12 chiến hạm tại ngoài khơi Thuận An sẵn sàng yểm trợ hỏa lực nhưng không
được lệnh và cũng theo Phó Đề Đốc Thoại thì tại Đà Nẵng Không Quân có trên 40 oanh
tạc cơ A.37 còn tốt khiển dụng, nhưng đã không được lệnh can thiệp để cứu Đạo Quân
Tiền Phương, tóm lại đạo quân này đã bị bỏ rơi.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
36
7-Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không biết về lệnh rút bỏ Huế lúc 6 PM ngày
24/3/1975?, mãi đến 9.30 AM ngày 25/3/1975 trong phiên họp Nội Các và Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia, khi Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng thì ông vẫn chưa biết.
Tổng Thống Thiệu còn hỏi Tướng Trưởng: “Có giữ được Huế không?”.
Tuy nhiên, đây là sự thật hay chỉ là màn dàn cảnh cho lịch sử thì không ai biết.
8- Nếu rút quân theo Quốc Lộ 1, chúng ta sẽ có thể mang về Đà Nẵng toàn thể Quân
Đoàn 1 Tiền Phương gồm lính, chiến xa, đại bác, nếu quân CSBV chặn đường thì với địa
thế trống trải, Hải, Không Quân VNCH còn nguyên vẹn, quân ta thiện chiến và đông hơn
địch, chúng ta sẽ tiêu diệt bất cứ đạo quân nào chặn đường, tất cả đạo quân Tiền Phương
về để giữ Đà Nẵng một thời gian dài. Rút quân bằng Hải Quân thì, nếu may lắm, cũng chỉ
mang về Đà Nẵng quân lính và vũ khí cá nhân, còn chiến cụ nặng phải bỏ lại.
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THẤT THỦ:
Lực lượng chính quy hai bên tại chiến tuyến Đà Nẵng:
-VNCH:
Bắc: Lữ Đoàn 468TQLC tại Đèo Hải Vân.
Tây: Lữ Đoàn 369TQLC tại Phú Lộc.
Lữ Đoàn 258TQLC làm trừ bị tại Căn Cứ Non Nước-Đà Nẵng.
Tây Nam: Sư Đoàn 3 Bộ Binh với 14.000 quân.
Nam: Sư Đoàn 2 Bộ Binh và Liên Đoàn 12 BĐQ.
-CSBV:
Bắc: Sư Đoàn 324, 325. Hai sư đoàn này sau khi tiến vào Huế đã bị bỏ ngỏ, chúng
tịch thu được một số lượng vũ khí đạn dược khổng lồ của Đạo Quân Tiền Phương gồm Đại
Bác 105, 155 ly, 51 Chiến Xa M48 còn mới và hàng trăm Chiến Xa M41, M113, chúng đã
trở thành một lực lượng quân sự hùng mạnh.
Tây: Sư Đoàn 304. Tháng 8/1974, sư đoàn này cùng với Sư Đoàn 324B CSBV và
các thành phần tăng phái yểm trợ của Quân Đoàn 5 và Quân Đoàn 2 CSBV chiếm Quận
Thượng Đức, chúng đã bị Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù đẩy lui, trận chiến kéo dài
đến cuối năm 1974, kết quả CSBV bị thiệt hại 2,000 quân chết và 5,000 quân bị thương,
CSBV dấu xác rất giỏi, nếu Nhảy Dù đếm được 2000 xác địch thì con số thực tế phải cao
hơn nhiều, như vậy thì SĐ 304 CSBV chỉ còn cái tên thôi. Khi Lữ Đoàn 369 TQLC đến
thay Nhẩy Dù từ ngày 16/3/1975 đến 29/3/1975, theo Đại Úy Kiều Công Cự Trưởng Ban
3 Tiểu Đoàn 2 TQLC thì không có hoạt động nào của CSBV tại vùng này.
Nam: Sư Đoàn 2 CSBV và 1 trung đoàn của SĐ 3 CSBV.
Diễn Tiến Tình Hình:
Phần này tôi viết theo chi tiết từ phỏng vấn Phó Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, phỏng
vân Thiếu Tướng Bùi Thế Lân lúc tôi thực hiện hồi ký: “Trình Tổng Thống Tôi Quyết
Định Theo Tình Hình”, các MX Nguyễn Bác Ái, MX Nguyễn Thế Thụy là những người
có mặt cùng với Thiếu Tướng Lân và từ kinh nghiệm của người viết.
LĐ 258TQLC về đến đỉnh Đèo Hải Vân vào 7pm ngày 25/3/75, tôi được lệnh mang
thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân. Tại đây tôi gặp Niên Trưởng Phạm Văn Lương,
ông hứa sẽ săn sóc thương binh của tôi, và cho tôi biết tình hình phía Nam Đà Nẵng bắt
đầu rối loạn. Sau đó khoảng 10 PM ngày 25/3/1975, tôi được lệnh trình diện Y Sĩ Trung
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
37
Tá Nguyễn Văn Thế tại Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC tại căn cứ Non Nước Đà
Nẵng, trên đường đi tôi thấy thành phố Đà Nẵng rất hỗn loạn, đầy dân tỵ nạn, quân nhân
rã ngũ và có thể rất nhiều đặc công VC trà trộn.
Trưa ngày 26/3/75, tôi được lệnh ra bến Thương Cảng Đà Nẵng đón tàn quân của
Lữ Đoàn 147 TQLC. Cả 1 Lữ Đoàn gần 4000 TQLC về Đà Nẵng chỉ trên 1 chiếc LCU duy
nhất, gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, trên 1 trăm thương binh và khoảng vài trăm binh sĩ. Ông
Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 TQLC Đại tá Nguyễn Thế Lương bị thương tại đầu gối do
đạn của VC bắn lúc di tản khỏi bãi Thuận An và tôi đã được lệnh săn sóc ông từ đây.
Ngày 27/3/75, toàn là tin xấu, Quảng Ngãi thất thủ, ½ Sư Đoàn 2 Bộ Binh được tầu
Hải Quân cứu mang về Cù Lao Ré, BĐQ tan hàng phần còn lại rút về Đà Nẵng. Thiếu Tá
Trần Vệ ban 3 SĐ/TQLC có việc phải lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I thì không thấy ai, như
vậy sĩ quan và binh sĩ trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã bỏ đi nhiều, dân chúng tranh nhau
ra phi trường Đà Nẵng để về Saigon, các bến tầu đông đúc hỗn loạn.
Căn Cứ Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải- Đà Nẵng.
Ngày 28/3/75 buổi sáng chúng tôi nhận được lệnh tử thủ Đà Nẵng, trên trời máy
bay L19 phát thanh kêu gọi các quân nhân bộ binh và BĐQ rã ngũ về trình diện đơn vị,
và bây giờ tôi mới được biết Trung Tướng Trưởng đang ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC
tại Căn Cứ Non Nươc.
Tại Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC, tôi và Bác Sĩ TQLC Nguyễn Quang Khoa,
với tinh thần tử thủ, đã thong thả đốt từng lá thư tình và từng hình ảnh của các “em gái hậu
phương”, để nếu chúng tôi có hy sinh thì lũ “cán ngố” sẽ không xem đọc được.
Buổi Trưa 28/3/1975, có một khách không mời là Tổng Lảnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng
AL Francis cùng 2 nhà báo ngoại quốc da trắng, trang bị vũ khí cùng mình đến Căn Cứ
Non Nước xin gặp Trung Tướng Trưởng, không biết tên này đã nói gì với Trung Tướng
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
38
Trưởng để ông đổi ý định tử thủ Đà Nẵng, sau đó hắn dùng trực thăng đi về căn cứ Hải
Quân Vùng 1 Duyên Hải tại Tiên Sa- Đà Nẵng, Chúng tôi cũng nhận được tin tình báo là
CSBV sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân và phi trường Đà Nẵng lúc 11pm đêm ngày 28/3/1975.
Chiều ngày 28/3/1975, tôi được lệnh mang Đại Tá Nguyễn Thế Lương đến căn cứ
Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để tìm thêm phương tiện điều trị cho ông, chúng tôi quá giang
trực thăng của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đến Căn Cứ Hải Quân vì Tướng Lân cũng đến
đó để họp Quân Đoàn.
Chúng tôi đên căn cứ Hải Quân lúc 7pm, Đại Tá Lương được khiêng vào 1 căn hầm
nổi kiên cố xây bằng nhiều bao cát, căn hầm này là Trung Tâm Chỉ Huy Hải Quân Vùng 1
Duyên Hải. Trong hầm có Trung Tướng Trưởng, tôi đã xúc động vì đây là lần đầu tiên
được gặp vị tướng huyền thoại này. Tuy nhiên tôi chưa kịp chào kính ông thì tôi đã phải
săn sóc Đại Tá Lương đang kêu đau, vết thương rỉ máu. Trong căn hầm này còn có Phó Đề
Đốc Hô Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải Quân, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC.
Đại Tá Lương ngồi bệt xuống đất, dựa trên chiếc bàn có điện thoại viển liên và tôi,
bác sĩ của Đại Tá Lương, đang băng bó cho ông, tôi thấy Trung Tướng Trưởng gọi điện
thoại cho Tổng Thống Thiệu. Tướng Trưởng muốn cho 2 ông tướng kia cùng nghe nên
không áp sát điện thoại. Tướng Trưởng xin bỏ Đà Nẵng, Tổng Thống Thiệu không chấp
nhận và lệnh cho ông phải tử thủ Đà Nẵng*.
(*sau này tôi có hỏi Thiếu Tướng Lân và Phó Đề Đốc Thoại về cuộc điện đàm này
và cả hai đều xác nhận những điều tôi vô tình nghe là đúng).
Trung Tướng Trưởng trả lời: “Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình”, rồi
cúp máy. Sau đó ông nói với Thiếu Tướng Lân: “Mình rút đêm nay”.
Trong bài hồi ký trước, tôi đã viết về phiên họp này nhưng vì không liên quan, nên
tôi đã không đề cập đến chi tiết cuộc điện đàm này.
7.30 PM ngày 28/3/1975, Trung Tướng Lâm Quang Thi, Thiếu Tướng Nguyễn Duy
Hinh Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh và một số sĩ quan cấp tá đến họp, trong phiên họp Trung
Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng đêm nay. Thiếu Tướng Hinh xin 3 ngày để rút quân,
Trung Tướng Trưởng không chấp nhận. Trong lúc 2 ông đang thảo luận về thời gian rút
quân, tôi bỏ ra ngoài phòng họp, đi tìm tầu Hải Quân để gửi Đại Tá Lương về Cam Ranh
thì biết lúc chiều vì có tin CSBV sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 11pm, nên Phó Đề Đốc
Thoại đã ra lệnh cho tầu Hải Quân ra khơi để tránh pháo kích, còn 1 chiếc tầu riêng của
Phó Đề Đốc Thoại thì đã bị tên Al Francis mượn để ra tầu HQ5, sau đó không trở về.
Theo nhận xét của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân thì: “Trung Tướng Trưởng chỉ họp
các đơn vị trưởng tối ngày 28/3/75 tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để ra lệnh
rút quân ngay lập tức trong đêm, không có bàn thảo kế hoạch và phương cách rút quân”.
Như vậy thì chỉ có những người có mặt tại buổi họp rút được nếu may mắn, còn binh sĩ
trong các cộng sự phòng thủ xung quanh Đà Nẵng không thể nào rút ngay lập tức được,
cuộc rút quân khỏi Đà Nãng sáng ngày 29/3/1975 đã đẫm máu và hỗn loạn.
9pm ngày 28/3/1975, trong khi Thiếu Tướng Hinh đang xin Trung Tướng Trưởng
thêm thời gian rút quân cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh thì CSBV bắt đầu pháo kích vào Bộ Tư
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
39
Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bằng đại bác 130 ly. Chúng pháo kích rất chính xác và
nhắm vào hầm chỉ huy nơi các ông tướng đang họp.
Khoảng 10.30 pm, người nhái Hải Quân và TQLC bắt được mấy tên tiền sát viên
VC nên chúng pháo kích rời rặc và không còn chính xác. Trận pháo kích này đã phá hủy 2
trực thăng của Tướng Trưởng và Tướng Lân.
Lúc 10.30pm ngày 28/3/1975, buổi họp kết thúc, Tướng Lâm Quang Thi dùng trực
thăng bay ra Soái Hạm HQ5, Tướng Trưởng được 1 trực thăng khác đến đón.
Vì trực thăng của TQLC bị phá hủy nên Tướng Lân và chúng tôi phải theo Phó Đề
Đốc Thoại và cận vệ của ông tự mưu sinh thoát hiểm.
Lúc 11pm CSBV pháo kích căn cứ Hải Quân rất nặng nề, chúng tôi phải bỏ căn cứ
di chuyển bộ xuống chân núi Sơn Trà và mãi đến sáng ngày 29/3/1975 mới đến một bãi
biển hoang vắng, sau đó Tướng Thoại mới gọi được một tầu nhỏ vào đón và sau đó lên
Chiến Hạm 802.
Theo các TQLC tại Trung Tâm Hành Quân tại căn cứ Non Nước thì lúc 12am ngày
29/3/1975 Trung Tướng Trưởng đã bay đến Bộ Chỉ Huy TQLC để qua đêm, 6am ngày
29/3/1975, khi có tầu HQ vào bờ biển căn cứ Non Nước đón TQLC, Tướng Trưởng cùng
những quân nhân TQLC thuộc Trung Tâm Hành Quân TQLC lội ra tàu.
Cũng từ giờ phút này, Quân Dân Quân Khu I như rắn mất đầu tìm đường “tự thoát”
và lũ cán binh CSBV trước đó một tuần đã bị chúng tôi đánh chạy “vắt giò lên cổ” trốn
trong lùm rừng khe núi, giờ thì ngoi ra, chỉ trời vạch đất huênh hoang khoác lác.
Vì lệnh rút quân quá bất chợt và gấp rút nên quân sĩ trong các vị trí phòng thủ quanh Đà
Nẵng không thể đến các bến tầu được và nhất là không có cấp chỉ huy cao cấp nên cuộc
rút những đơn vị còn lại của Quân Đoàn I trong ngày 29/3/1975 tại các bến tầu Đà Nẵng
đã diễn ra trong hỗn loạn và đẫm máu.
TQLC rút quân tại Căn Cứ Non Nước Đà Nẵng ngày 29/3/1975.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
40
Riêng Sư Đoàn TQLC, quân số lúc ra Vùng I Chiến Thuật là 12 ngàn người về đến
Vũng Tầu chỉ còn 4 ngàn TQLC. Tính từ lúc CSBV bắt đầu nổ súng trên Quốc Lộ 1 Nam
Thừa Thiên ngày 21/3/1975 đến lúc Đà Nẵng thất thủ ngày 29/3/1975 thì Quân
Đoàn I đã tan rã chỉ trong 8 ngày.
Đặc Điểm Của Cuộc Rút Bỏ Đà Nẵng:
1-Chưa có một trận đánh lớn nào quanh Đà Nẵng mà cấp chỉ huy Quân Đoàn I đã
quyết định rút.
2-Theo Phó Đề Đốc Thoại thì sáng ngày 28/3/1975, trong cuộc họp Quân Đoàn,
Trung Tướng Trưởng cương quyết bảo vệ Đà Nẵng, chỉ sau khi họp với tên Al Francis với
vỏ bọc là Tổng Lãnh Sự Mỹ, trưa ngày 28/3/1975 tại căn cứ TQLC Non Nước- Đà Nẵng,
ông mới đổi ý và quyết định rút bỏ Đà Nẵng khẩn cấp.
3-Bỏ Đà Nẵng là quyết định của Trung Tướng Trưởng, Tổng Thống Thiệu hoàn
toàn bị bất ngờ. Tôi viết câu này dựa theo phỏng vấn Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân,
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và Hồi Ký của ông Nguyễn Tiến Hưng Cố Vấn Tổng Thống
Thiệu.
4-Lệnh bỏ Đà Nẵng quá đột ngột, thời gian rút quân quá vội vã cho nên các đơn vị
trưởng bị bất ngờ không kịp chuẩn bị, không kịp về với đơn vị, hơn nữa binh sĩ trong các
tuyến phòng thủ quanh Đà Nẵng thì quá xa không thể về các bến tầu kịp thời, nên cuộc rút
quân ngày 29/3/1975 đã hỗn loạn và đẫm máu.
5-Trung Tướng Trưởng đã quá cô đơn, theo hồi ký của Phó Đề Đốc Thoại trang
263 thì Quân Khu I có 2 vị Tư Lệnh Phó là Trung Tướng Lâm Quang Thi và Thiếu Tướng
Hoàng Văn Lạc, Trung Tướng Lâm Quang Thi và Ban Tham Mưu Tiền Phương từ hôm
25/3/1975 sau khi bỏ Huế về Đà Nẵng, đã không phụ giúp Tướng Trưởng gì hết cho đến
tối ngày 28/3/1975, khi Tướng Trưởng quyết định bỏ Đà Nẵng, Tướng Thi đã bay ra Soái
Hạm HQ5, nói là để điều hành rút quân, nhưng sau đó ông đã im lặng vô tuyến. Còn Thiếu
Tướng Hoàng Văn Lạc thì ngày 26/3/1975 đã xin phép về Saigon và không trở lại.
Trung Tướng Trưởng đã phải giải quyết mọi chuyện của Quân Đoàn I một mình,
gây ra những quyết định vội vã, đáng lẽ Dinh Đôc Lập và Bộ Tổng Tham Mưu phải gửi
một phái đoàn tướng lãnh cao cấp đến phụ giúp ông, đây là một lỗi lầm lớn của Tổng
Thống Thiệu.
6-Chiếm được Quân Khu I mà không phải đánh vì các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu
Lai đều bị bỏ ngỏ trước khi giặc đến. CSBV đã thu được rất nhiều vũ khí đạn dược, nhiên
liệu, chiến xa đại pháo, chúng không còn sợ Quân VNCH đánh ngang hông hay cản hậu
cắt đường tiếp tế tại lãnh thổ Quân Khu I nữa, nên đã ngang nhiên dùng Quốc Lộ 1 tiến
đánh Saigon, còn quân dân VNCH thì tinh thần suy sụp, chính trị bất ổn, lũ chính khách
thân cộng quậy phá đưa đến việc từ chức của Tổng Thống Thiệu từ đó kế hoạch rút về
Quân Khu 4 để tiếp tục chiến đấu cũng chết theo.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
41
CÂU CHUYỆN TRỌNG THỦY MỴ NƯƠNG TÂN THỜI:
Người Mỹ đã tính toán và âm mưu bán VNCH cho khối Cộng Sản Tầu-Việt từ 1971
sau khi tên Kissinger qua Tầu Cộng, nhất là sau khi cưỡng ép VNCH ký Hiệp Định Paris,
nhưng họ sẽ không bao giờ dám bạch hóa âm mưu này, có rất nhiều bí mật chúng ta không
biết cho nên tôi phải dựa vào các sự kiện lịch sử để suy đoán ra.
Hiệp Định Paris được ký ngày 27/1/1973 giữa Mỹ, VNCH, CSBV và VC, trong
hiệp định này có 1 điều khoản các nước ký kết không được xâm phạm vào nội tình nhau,
nhưng chính nước Mỹ đã can thiệp thô bạo vào nội tình Miền Nam VN, với mục tiêu làm
suy yếu VNCH.
Từ năm 1974 Người Mỹ đã vi phạm những cam kết của Hiệp Định Paris bằng cách
cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, không còn Cam Kết Một Đổi Một nữa, và đến năm
1975 họ bỏ tất cả những cam kết, đồng thời trong bóng tối họ vẫn đi đêm với CSBV với
dã tâm làm suy yếu VNCH.
Như trên chúng ta đã thấy đài BBC-VOA loan tin thất thiệt là Quốc Lộ 1 bị CSBV
chiếm ngày 23/3/1975, làm xuống tinh thần quân dân Quân Đoàn I và đã gây ra cuộc rút
bỏ Huế, sau đó là sự can thiệp cùa Al Francis vào kế hoạch phòng thủ của Quân Đoàn I tại
Đà Nẵng. Không ai biết Al Francis có ảnh hưởng gì đến Trung Tướng Trưởng trong việc
bỏ ngỏ Huế và phá Cầu Truồi trên Quốc Lộ 1.
Theo nhà báo Nguyễn Đức Nam, 1 sĩ quan VNCH được qua Mỹ tu nghiệp năm
1975 thì gần đến tháng 3/1975, Ông được người Mỹ chỉ định lập trại tị nạn tại Arkansor để
sửa soạn đón người VN.
Trong hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng và đoàn tùy
tùng ra Hoàng Sa để nghiên cứu xây phi trường, có 1 người Mỹ với vỏ bọc là Nhân Viên
Tòa Lãnh Sự Mỹ tên là Gerald Kosh, nguyên trung úy L/L Đặc Biệt Mỹ xin đi theo để
“thăm cho biết” Đảo Hoàng Sa, hắn mang đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm, máy truyền
tin tối tân, đặc biệt hắn biết trước sẽ có hải chiến nên đã yêu cầu HQ 16 cho hắn lên bờ
hôm trước, không ai biết nếu hắn đã báo cho Hải Quân Trung Cộng biết về Lực Lượng Hải
Quân của ta, tên này bị Trung Cộng bắt và trả về ngay lập tức.
Trận chiến Phan Rang 3/4/1975 đến 16/4/1975, tại Bộ Tham Mưu Tiền Phương
Quân Đoàn 3, tướng Times của Tòa Đại Sứ Mỹ đả cử một nhân viên với vỏ bọc truyền tin
tên Lewis, hắn đã theo sát 2 Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang, kết quả là khi
phi trường Phan Rang thất thủ 2 ông Tướng VNCH trong khi đào thoát đã bị CSBV biết
trước lối thoát, đón đường chờ sẵn và bị bắt.
Theo ông Hoàng Đức Nhã, Bí Thư Kiêm Tham Vụ Báo Chí của Tổng Thống Thiệu
thì từ đầu năm 1975, người Mỹ đã nối giáo cho giặc bằng cách cắt bỏ hết các viện trợ quân
sự và đã can thiệp vào nội tình chính trị của VNCH bằng cách Người Mỹ ép Tổng Thống
Thiệu từ chức, chuyển giao quyền lực cho một chính phủ bồ câu để dễ thương thuyết với
CSBV, họ cũng yêu cầu TT Lý Quang Diệu của Singapore khuyên răn TT Thiệu nên từ
chức, cuối cùng TT Thiệu phải nhường chức cho Cụ Trần Văn Hương sau đó là Dương
Văn Minh vì vậy đã không có chuyện về Vùng 4 tử thủ, và kết quả là mất nước ngày
30/4/1975.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
42
MX Phạm Vũ Bằng.
Trung Đội Trưởng Quân Y Tiểu Đoàn 9 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Lữ Đoàn 258 TQLC.
Y Sỹ Điều Trị Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC.
Đại Đội Trưởng Quân Y Lữ Đoàn 147 TQLC.
Viết cho Mùa Đại Tang VNCH 30/4-2020
***************************************************************
Phụ Lục- Tài Liệu Tham Khảo.
BBC phỏng vấn Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng về sự kiện rút bỏ Huế:
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-39480825
Wikipedia Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH:
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%B0_%C4%91o%C3%A0n_1_B%E
1%BB%99_binh_Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Na
m_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a
-Sư Đoàn 304 gần bị tan rã tại Thượng Đức: http://batkhuat.net/tl-
tran-thuongduc-1974.ht
-Cộng Sản Bắc Việt quấy phá QK1 1966-1967:
https://hocday.com/trng-dng-mt-cnh-hoa-d-hi-k-hi-k-mt-cnh-hoa-
d.html?page=7
http://tqlcvn.org/thovan/van-mothoi-denho.htm
http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/T-Chien/1967-
LamSon54VungPhiQuanSu.pdf
-Tài liệu wikia.org 181.149 VC-CSBV bị giết trong năm
1968:https://military.wikia.org/wiki/Tet_Offensive
-CSBV tổn thất 100.000 quân trong năm
1972:https://en.wikipedia.org/wiki/Easter_Offensive
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
43
-Phiên họp 3/13/1975 và 3/19/1975, và 3/25/1975 của TT Thiệu:
https://www.youtube.com/watch?v=AYgNsu6WH-I
-Lực Lượng CSBV tại QL1 Huế-Đà Nẵng https://giaoduc.net.vn/Xa-
hoi/Loi-ke-cua-Thieu-tuong-Nguyen-Duc-Huy-ve-tran-chien-giai-
phong-Da-Nang-post166464.gd
-Lực lượng CSBV trên toàn thể QKI kể cả du kích địa phương http:
http://123doc.org/document/1665098-chien-dich-hue-da-nang.htm
https://www.facebook.com/notes/hon-viet/40n%C4%83m-
ng%C3%A0y-th%C3%A1ng-kh%C3%B4ng-qu%C3%AAn-tango-
nguy%E1%BB%85n-th%C3%A0nh-tr%C3%AD-
%C4%91%E1%BA%A1i-t%C3%A1-t%C6%B0-l%E1%BB%87nh-
ph%C3%B3-s%C4%91tqlc/647402328739131/
Tài liệu CSBV tấn công Nam Thừa Thien: SD 325 gồm 2 trung đoàn
18,101, trung đoàn pháo 84, trung đoàn 95 đã tăng viện cho BMT,
Tướng CSBV nói láo là bắt được TĐT Tiểu Đoàn 61 BĐQ và Chiếm Phú
Lộc trong ngày 3-23-1975 mà không biết có TĐ 8 TQLC tại đây.
https://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Loi-ke-cua-Thieu-tuong-Nguyen-Duc-
Huy-ve-tran-chien-giai-phong-Da-Nang-post166464.gd
Tháng 3 Gẫy Súng-MX Cao Xuân Huy: https://www.vinadia.org/thang-
ba-gay-sung-cao-xuan-huy/
Hồi ký của Nguyễn Đức Nam: Mỹ đã sửa sọan Trại Ti Nạn cho dân VN
từ 1975. https://www.youtube.com/watch?v=4nBb0y4FxkU
Hồi ký của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tướng Times gửi nhân viên
Lewis theo Tướng Nghiêm Vĩnh Nghi:
https://dongsongxua.wordpress.com/2017/10/07/tran-phan-rang-hoi-
uc-cua-chuan-tuong-pham-ngoc-sang/
Hồi ký TT Phạm Văn Hồng và CIA Gerald Kosh:
https://www.youtube.com/watch?v=qtgdUdjGUgA
Thư của MX Phạm Vũ Bằng gửi Trung Tướng Lâm Quang Thi:
http://www.conongviet.com/Philo-To/webmar2710-
thu%20tra%20loi%20cua%20bangphong.htm
Tâm Tư Tổng Thống Thiệu Youtube chót, phút 59.30:
http://chepsuvietblog.blogspot.com/2014/10/tam-tu-tong-thong-
nguyen-van-thieu.html
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
44
Khôi An
Mỗi khi đọc Sóng Thần, lòng tôi có rất nhiều
cảm xúc. Một trong những cảm xúc nổi bật nhất là niềm
cảm phục. Là người đã từng làm báo, tôi hiểu rõ phải
tốn bao nhiêu công sức để một tờ báo ra đời. Lớp người
còn trẻ như tôi mà thỉnh thoảng mới làm được một tờ
đặc san cho trường cũ, sau đó phải nghỉ dưỡng sức cả
mấy năm mới dám mơ đến việc làm tờ khác. Thế mà
Đặc San Sóng Thần đã có mặt hơn ba mươi năm qua.
Đằng sau mấy chục quyển báo chắc chắn là những ý
chí vững vàng, những đóng góp hết lòng, và những nỗ
lực lặng lẽ.
Điều gì đã thúc đẩy những bàn tay đã chai cứng
vì cầm súng, đã mệt mỏi, sần sượng với dao rưạ, cày
cuốc trong tù ngục nay lại cầm bút hay gõ máy viết lên
tâm tình hoặc nắn nót tô điểm từng trang báo? Điều gì
khiến những người đã bước vào tuổi làm ông vẫn làm
việc miệt mài để nuôi dưỡng đứa con tinh thần qua mấy
chục năm dâu bể? Càng đọc tôi càng muốn tìm hiểu và ghi lại những câu chuyện làm Đặc San
Sóng Thần ở hải ngoại.
Người xưa đã dạy, “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”; tôi không “biết”
mà lại muốn “thưa” thì chỉ còn cách tìm “cột” mà học hỏi. Thế là tôi bắt đầu lần mối dây, đầu
tiên là viết điện thư hỏi Bác Sài Gòn, đương kim Chủ Nhiệm Đặc San Sóng Thần…
Nhờ các Bác, các Chú tận tình dẫn dắt và chia sẻ, tôi đã gom góp được ít nhiều câu
chuyện. Với thời gian ít ỏi và sự quen biết giới hạn, bài viết này chỉ là một đóng góp nho nhỏ,
vui vui về một phần của thời gian hơn ba mươi năm làm đặc san. Hy vọng những ghi chép này
sẽ gợi lại ký ức của các nhà báo Mũ Xanh để những đặc san sau lại có thêm tâm tình của những
“cây cột” đã chống đỡ Sóng Thần trong suốt mấy thập niên qua.
***
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
45
Tờ Sóng Thần Đầu Tiên
Theo M.X. Trần Thiện Hiệu, Người Thực
Hiện Đặc San S.T. Đầu Tiên Tại Hải
Ngoại.
Tờ ĐSST đầu tiên được phát hành ở
Họp Mặt TQLC lần thứ hai năm 1984, tổ
chức tại Houston, Texas. Tờ đặc san chỉ có
36 trang, do ca/nhạc sĩ Việt Dzũng đánh máy
và in. Chi phí tổng cộng là 700 Mỹ kim do
Thiếu Tướng Cựu Tư Lệnh Lạng Sơn tài trợ.
Hầu hết bài vở trong tờ đặc san do Mũ
Xanh Trần Thiện Hiệu viết, trừ bài Mùa Hè
Đỏ Lửa của Trần Ngọc Nam. Các bài gồm
có :
Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh TQLC và Căn Cứ Hỏa Lực Hồng Hà)
Phòng Tuyến Mỹ Chánh Đã Một Lần Bị Chọc Thủng
(Sau bài này được đổi tên thành Tôi Tay Đôi Với Tụi Nó Đây)
Tiến Về Quảng Trị - Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC
Lữ Đoàn 258 Ngày Tại Căn Cứ Ái Tử
Mùa Hè Đỏ Lửa (do Trần Ngọc Nam viết.)
Lời Chia Sẻ Của Chủ Nhiệm Đặc San Sóng Thần
Trò Chuyện Với Mũ Xanh Tôn Thất Soạn, Đương Kim Chủ Nhiệm Đ.S. Sóng Thần
1. Khôi An kính chào bác Sài Gòn. Thưa bác, trước khi hỏi chuyện về Đặc San Sóng Thần
(ĐSST), xin hỏi bác định cư ở Mỹ năm nào?
Tôi đi Mỹ theo diện HO năm 1993 và định cư ở Des Moines, Iowa. Tôi chọn nơi này
là vì ở đây có hai chiến hữu là Mũ Xanh Hồ Phó Diên và Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa. Diên
sang Mỹ từ 1975; năm 1992, Hòa đi Mỹ theo diện HO và được Diên bảo trợ về Iowa. Sau đó,
hai vị này rất tận tình hướng dẫn và bảo trợ cho các anh em TQLC sắp được đi trong chương
trình HO mà chưa biết định cư ở đâu. Tấm chân tình và những lời khuyến khích của họ làm tôi
thấy yên tâm và ấm lòng nên đã chọn về Iowa.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
46
2/ Xin bác kể về kỷ niệm đầu tiên với ĐSST.
Năm 1993, khi mới sang Mỹ, tôi còn bỡ
ngỡ, thêm vào đó là các phương tiện liên lạc như
điện thư hay các trang mạng chưa phát triển như
bây giờ, do đó ngoài các Mũ Xanh định cư ở Iowa,
tôi không có cơ hội liên lạc với nhiều anh em
TQLC.
Mãi đến năm 1997 tôi mới cùng Mũ Xanh
Phạm Cang đi dự Đại Hôi TQLC ở Nam
California. Tôi đã gặp gỡ ông Tổng Hội Trưởng
lúc đó là Trung Tá Đoàn Trọng Cảo và khá nhiều
đồng đội
Trong lần họp mặt đó, Thiếu Tướng Cựu
Tư Lệnh TQLC đã đề nghị chi hội Iowa đảm trách
việc tổ chức buổi họp mặt TQLC 1998, và chúng
tôi đã nhận lời.
Thời gian đó, nơi nào tổ chức Đại Hội
thường kiêm luôn việc biên soạn và phát hành
ĐSST; do đó, chi hội Iowa, với tôi là cố vấn, nhận luôn trách nhiệm phát hành ĐSST 1998. Đó
là kỷ niệm đầu tiên của tôi với đặc san. Nhân vật bỏ nhiều tâm huyết nhất và chăm lo hầu hết
các công việc từ chọn lựa bài vở đến đánh máy v.v… cho Sóng Thần 1998 là Mũ Xanh Phạm
Cang. Năm 1999, ông Phạm Cang lại tiếp tục làm tờ đặc san thêm một năm nữa.
Qua năm 2000, việc biên tập ĐSST do chi hội Nam California đảm trách, đứng đầu là
Đại Tá Phạm Văn Chung. Trong các năm sau đó thì việc biên tập đặc san có khi được giao cho
chi hội ở nơi tổ chức Đại Hội TQLC hàng năm, có khi do Tổng Hội Trưởng ủy nhiệm cho các
cộng sự viên trong Ban Chấp Hành Tổng Hôi, thí dụ như trong những năm Đại Tá Nguyễn
Thành Trí làm Tổng Hội Trưởng thì hai Mũ Xanh cùng ở Houston với ông là Mũ Xanh Nguyễn
Gia Quyết và Mũ Xanh Nguyễn Ngọc Tú phụ trách ĐSST từ 2005 tới 2007.
3/ Thưa bác, nhân duyên nào đưa đến việc bác trở thành Chủ Nhiệm ĐSST năm 2009?
Năm 2008, trách nhiệm biên soạn và phát hành ĐSST được giao lại cho chi hội TQLC
Nam California với Đại Tá Phạm Văn Chung làm Chủ Bút. Năm 2009, khi ông Chung từ chức
vì lý do sức khỏe, Tổng Hội cũng như các anh em Mũ Xanh đã liên lạc hỏi ý một số người để
thay thế, nhưng ai cũng từ chối. Lúc đó, Mũ Xanh Tô Văn Cấp, một thành viên trong Ban Biên
Tập ĐSST thuyết phục tôi đảm nhận chức vụ trưởng ban. Tôi nghĩ rằng mình cũng nên đóng
góp bằng cách đứng ra làm đầu tàu để anh em có người đại diện, có tiếng nói chung mà yên
tâm làm việc. Thế là tôi nhận làm Chủ Nhiệm của ĐSST và Mũ Xanh Tô Văn Cấp làm Chủ
Bút.
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
47
Đến năm 2018, khi Mũ Xanh Lê Quang Liễn nhậm chức Tổng Hội Trưởng TQLC 2018
– 2020, tôi có ngỏ ý trao lại chức vụ Chủ Nhiệm ĐSST cho người khác nhưng ông Liễn yêu
cầu tôi tiếp tục làm. Thế là tôi tiếp tục làm người cố vấn và nâng đỡ về tinh thần cho Ban Biên
Tập ĐSST cho tới nay.
4/ Thưa bác, bác là một trong những vị sĩ quan đầu tiên của Binh Chủng TQLC, Khôi An
tin rằng đức độ và uy tín của bác đã góp phần không nhỏ trong việc nối kết các chiến sĩ TQLC
trong cũng như ngoài Ban Biên Tập để đặc san được phát hành đều đặn trong mười hai năm
qua. Xin bác cho biết, đối với bác ý nghĩa của ĐSST là như thế nào?
Đối với tôi, ĐSST là tiếng nói của TQLC. Đây là nơi các anh em chia sẻ với nhau kỷ
niệm của một thời chiến đấu anh dũng, hào hùng. Tôi muốn mượn lời Mũ Xanh Tô Văn Cấp
rằng người lính Mũ Xanh ngày nay “không còn cầm súng thì cầm viết.” Cầm viết ghi lại kỷ
niệm để chúng ta nhớ mãi và truyền lại cho con cháu. Chúng ta ghi những ngày TQLC sống
oai hùng trong gian khổ và sẵn sàng chết để bảo vệ miền nam. Ghi lại để không quên những
ngày chúng ta chia nhau một nắp bi-đông nước, uống chung một chai bia, ăn chung một bịch
cơm sấy, và nằm dựa lưng nhau trong một chiến hào. Ghi lại những năm tháng cực nhục, bị
đọa đày trong ngục tù của bọn Việt Cộng, gương bất khuất của các Mũ Xanh, và tình chiến hữu
đẹp đẽ dù trong giai đoạn đen tối, bi thảm nhất. Chúng ta cũng cầm viết để kêu gọi anh em
không quên Thương Phế Binh và các chiến sĩ VNCH còn kẹt lại ở Việt Nam…
Mỗi năm, tờ Sóng Thần được phát hành, giống như một đứa con tinh thần được sinh ra
đời. Đó là kết quả do biết bao nhiêu người chung sức, người góp công, người góp của. Có
những người ở tận Canada, ở Úc cũng thường xuyên đóng góp tài chính để in ấn và gởi ĐSST
tới các Mũ Xanh trên khắp thế giới. Từ năm 2020, ĐSST không còn đăng giới thiệu các cơ sở
làm ăn của những người bảo trợ nữa vì điều đó giống như quảng cáo, nghĩa là không phù hợp
với điều lệ dành cho những hội đoàn phi lợi nhuận.
5/ Bác gọi ĐSST là “đứa con tinh thần” của hội TQLC. Điều cho thấy sự quý mến và kỳ
vọng của bác dành cho Sóng Thần. Thưa, bác còn muốn nhắn nhủ điều gì tới người đọc ĐSST
không?
Người lính TQLC có chung một tình yêu binh chủng, một niềm hãnh diện về quá khứ
oanh liệt. Xin đừng vì những cái ảo trong hiện tại mà chia rẽ. Hãy đoàn kết và đóng góp cho
ĐSST vì đó là nơi lưu lại tâm tình của chúng ta. Lưu lại không những để chia sẻ với nhau trong
hiện tại mà còn để lại cho mai sau.
***
Chuyện Mười Năm Làm Chủ Bút Đặc San Sóng Thần
Trò Chuyện Với Mũ Xanh Tô Văn Cấp, Cựu Chủ Bút Đặc San Sóng Thần (2009-2018)
1/Thưa chú Cấp, chú đọc tờ đặc san Sóng Thần (ĐSST) lần đầu tiên khi nào?
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
48
Chú còn nhớ cảm giác đọc khi tờ báo đầu đó không?
Tôi sang Mỹ và định cư ở Nam California năm 1990, sau đó một thời gian mới nối được
liên lạc với các đồng đội TQLC. Thú thật, tôi không nhớ đã đọc được tờ Sóng Thần đầu tiên
năm nào, nhưng tôi nhớ lần đầu tiên tôi góp bài cho ĐSST là do lời kêu gọi của Đại Tá Tôn
Thất Soạn. Khi Đại Tá Phạm Văn Chung làm chủ bút ĐSST khoảng năm 2008 thì tôi chính
thức tham gia vào ban biên tập gồm có các anh Chu Trọng Ngư, Lê Đình Bảo, Quách Ngọc
Lâm, Nguyễn Phục Hưng, Phan Văn Đuông, Lý Khải Bình v.v.. Cho đến năm 2009, khi Đại
Tá Chung nghỉ thì anh em trong ban biên tập đề nghị tôi lên thay thế
2/ Theo Khôi An được biết, chú là chủ bút ĐSST từ năm 2009 đến năm 2018. Xin chú cho biết
nhiệm vụ của chú trong thời gian đó là gì?
Khi làm chủ bút, những việc chính tôi phải lo gồm có: kêu gọi anh em đóng góp bài,
đọc từng bài gởi tới và hiệu đính – nếu cần.
Về nội dung, phải lo sao cho tờ Sóng Thần có bài vở phong phú với những câu chuyện
có ý nghĩa, người thật, việc thật và phù hợp với chủ trương của tờ đặc san của Binh Chủng
TQLC. Về mặt hình thức thì cố gắng không có lỗi chính tả càng nhiều càng tốt, nhưng điều
quan tâm nhất đối với tôi là không chấp nhận loại “ngôn ngữ” sau 30/4/75, gọi nôm na là chữ
Việt Cộng. Dĩ nhiên tôi gặp nhiều khó khăn và than phiền về vấn đề này, nhưng đối với tôi,
một bài dù hay đến đâu mà tác giả dùng những chữ quái đản kiểu như “tham quan”, “bức xúc”
thì tôi thấy không thể đăng như vậy được .
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
49
3/ Thưa chú, Khôi An đã từng làm công việc hiệu đính bài vở nên biết rằng giai đoạn này
mất rất nhiều thì giờ và công sức. Xin chú nói thêm về phần này.
Đúng thế. Phần hiệu đính bài vở mất nhiều thì giờ nhất. Với từng bài viết, tôi đều phải
đọc nhiều lần. Lần đầu để xem câu chuyện có hợp với chủ trương của tờ ST không và có hợp
lý từ đầu đến cuối không. Nếu có chỗ cần bổ túc hay sửa đổi, tôi sẽ liên lạc trực tiếp người viết
để thảo luận việc sửa chữa bài hoặc viết thêm. Cứ bàn bạc, sửa đổi qua lại cho tới khi người
viết và chủ bút đồng ý với nhau thì đó mới là bản cuối. Bản cuối đó sẽ gởi cho Mũ Xanh Chu
Trọng Ngư để layout. Khi layout xong, tôi yêu cầu ông Ngư in bài đó ra giấy trắng để tôi đọc
vì theo kinh nghiệm thì đọc trên giấy trắng dễ tìm thấy những câu văn “què” hoặc lỗi chính tả
hơn là đọc trên computer. Tôi sẽ sửa những lỗi đó bằng mực đỏ để ông Ngư theo đấy mà sửa
lại trên bản layout, có khi một bài phải in ra giấy 2-3 lần. Làm như vậy khá tốn kém thời gian,
giấy, mực và khá vất vả cho ông Ngư, nhưng bù lại tờ ĐSST khá “sạch sẽ”. Theo tôi, một tác
phẩm có ít lỗi chính tả cũng nói lên sự tôn trọng độc giả.
4/ Như vậy có nhiều bài chú đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Chú có thể cho biết đã bỏ khoảng
bao nhiêu thì giờ cho một tờ ĐSST không?
Một tờ ĐSST thường dày khoảng 300 trang, có trên dưới khoảng 20-25 bài viết, không
kể phần thông báo, danh sách đóng góp Quỹ Thương Phế Binh. Có những bài viết chỉ mất
khoảng 1-2 tiếng xem lại là có thể cho layout. Tuy nhiên, có nhiều bài cần sắp xếp lại nội dung,
khi đó tôi sẽ liên lạc với tác giả để trao đổi, có thể vài ba lần. Thời gian trung bình để săn sóc
cho một bài như thế có thể lên đến cả chục tiếng đồng hồ. Dù vậy, đây là sở thích của tôi, tôi
không ngại mà trái lại rất hào hứng, vui vẻ khi được góp phần làm cho những câu chuyện đầy
ý nghĩa được sắp xếp thành gọn ghẽ, mạch lạc hơn.
Hơn nữa, mỗi lần ngồi nói chuyện với nhau, tôi thấy 99% anh em thích kể lại những
chuyện vui buồn đơn vị cũ, chiến trường xưa, những câu chuyện rất hay, rất cảm động chưa
được viết ra, nhất là từ các anh em cấp trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, và binh sĩ. Những câu
chuyện này làm cho ĐSST có nội dung sát với đời sống và chiến đấu thực sự của các anh em
hạ sĩ quan và binh lính. Nhiều anh em ngại viết hoặc không quen viết nên tôi khuyến khích họ
cứ “kể chuyện” ra giấy trắng, rồi tôi sắp xếp lại, giống như là anh em đóng góp một giỏ thực
phẩm, còn việc nấu thành món ăn là tôi lo.
Điều này rất nhiều anh em biết, không phải tôi muốn “kể công” nhưng cô đã hỏi thì tôi phải trả
lời cho rõ ràng, trung thực (cười).
Còn thời gian cho một tờ ĐSST thì tùy thuộc vào sự đóng góp bài vở. Thường thì anh
em góp bài cho tới cuối tháng Hai, từ đó làm việc cho tới cuối tháng Năm thì mang đi in để kịp
phát hành vào dịp Đại Hội TQLC.
5/ Thưa, đối với chú, ý nghĩa của tờ ST là như thế nào? Nói cách khác, Khôi An muốn hỏi
điều gì đã khuyến khích chú đóng góp nhiều công sức như thế trong suốt mười năm?
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020
50
Đối với tôi, lý do chính và lớn nhất là tình yêu Binh Chủng (trong quá khứ, tôi có thể
xuất Binh Chủng hoặc giải ngũ vì thương tật, nhưng tôi đã xin với Lạng Sơn cho tôi ở lại.) Tôi
tin rằng tất cả các chiến hữu Mũ Xanh khác đều giống như tôi, rất trân trọng thời gian chiến
đấu dưới màu cờ TQLC và ghi nhớ mãi chuyện chiến trường xưa. Tôi muốn tờ ĐSST là nơi
lưu lại những kỷ niệm đó để chia sẻ cho anh em ở khắp nơi và cho những thế hệ sau. Điều
thiêng liêng hơn cả là các câu chuyện đều nhắc tới những người đã hy sinh, đó là cách
đẹp nhất để tưởng nhớ họ và an ủi, nối kết với thân nhân của tử sĩ.
Đặc San Sóng Thần không chỉ đem lại niềm vui và sự hãnh diện cho người lính TQLC,
mà tôi còn coi đó như quyển “sử xanh” của Binh Chủng để ghi lại những chiến công, những
câu chuyện thật về người Mũ Xanh đã sống, đã chiến đấu, và đã nằm xuống. Những trang sử
xanh đó cũng bao gồm cả những câu chuyện về gia đình lính, những hy sinh của vợ, con người
lính trong suốt hai mươi năm chinh chiến. Tình yêu giữa người lính và hậu phương cũng là một
điều đáng được nhắc tới. Vì thế, tôi thường ưu tiên cho những bài viết về chuyện chiến đấu,
chuyện đời thật hơn là những chuyện tình hư cấu.
6/ Chú vừa dùng hai chữ “sử xanh” để nói về kỳ vọng của chú dành cho ĐSST. Tuy
nhiên, mọi cuộc chiến đều có hai mặt tốt, xấu, và nếu là “sử” thì phải bao gồm cả hai mặt đó.
Như vậy, nếu ĐSST chỉ nói về những chiến công thì liệu có đủ hay không?
Trước hết, nói rộng ra ngoài đề tài ĐSST một chút, tôi nghĩ ít khi có nhà viết sử hoàn
toàn độc lập, đa số họ viết dựa trên quan điểm chính trị của chính quyền họ phục vụ.
Trở lại với ĐSST, thật ra những bài viết trong ĐSST không chỉ là kể lại những chiến công mà
là kể lại những trận đánh. Những trận đánh có thắng và thua, có vinh quang và mất mát. Chữ
“sử xanh” mà tôi dùng là với ý nghĩa lưu lại những câu chuyện trung thực về những tấm gương
anh dũng chiến đấu, hy sinh, những tấm gương chịu đựng gian khổ và thiệt thòi của người lính
Tổng Trừ Bị TQLC đã hành quân diệt Cộng từ Bến Hải đến Cà Mau. Đó là kỷ niệm hào hùng,
là niềm tự hào của những người lính TQLC.
Cô nói, “Mọi cuộc chiến đều có hai mặt tốt, xấu”. Điều đó đúng với chiến tranh, nhưng
với sự chiến đấu của quân nhân, nói chung, và của TQLC, nói riêng, thì chỉ có “xanh cỏ” -- hy
sinh trong vinh quang, hoặc “đỏ ngực” -- đeo chiến thương bội tinh với ngôi sao đỏ. Do đó
không tìm được điều nào “xấu” trong những cuộc chiến trên ĐSST.
Điều quan trọng nhất là những câu chuyện trong ĐSST hầu hết là xác thực, thỉnh thoảng
có chi tiết nào chưa hoàn toàn đúng sự thật thì thường vì những bài đó đã được đăng từ trước
ở nơi khác nên không tiện sửa đổi hoặc vượt ngoài tầm hiểu biết của ban biên tập.
Ngoài ra, một chủ trương rất quan trọng của ĐSST là bài viết không được đả kích cá nhân,
không soi xét đời tư, và không gây chia rẽ. Ngay cả những bài ca tụng hay “thần thánh hóa”
quá đáng, không hợp lý cũng không được lựa cho ĐSST.
7/ Khôi An biết ĐSST đã phát hành liên tục trên dưới ba mươi năm. Nếu chỉ chuyên
chú vào những chuyện chiến đấu xưa thì có ngại sẽ cạn khô đề tài không, thưa chú?
_______________________________________________________________________
ĐẶC SAN SÓNG THẦN TQLC 2020