The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2022-12-16 19:49:57

Những Nẻo Đường Tiếng Việt- Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng

Nhung neo duong tieng Viet Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng

thương gởi NGUYỄN THỊ VIỆT NGỮ

Từ chiếc nôi trong tiền sử mịt mờ
Em thơ ngây đã lên ngôi thần tượng
Bước chập chững lên ngai vàng tư tưởng
Anh ngất ngây nhìn bóng dáng thân hình
Quyện mảnh hồn trong trắng nét nguyên trinh
Thướt tha qua vòm trời Đông Nam Á
Những cuộc tình duyên kéo dài nghiệt ngã
Không làm mất đi duyên dáng thanh tân
Của từng âm thanh, từng tiếng từng vần
Đã hòa hợp làm ra chùm tiếng Việt
Như giòng sữa thơm ngọt ngào tinh khiết
Của người xưa ấp ủ tặng người sau
Tiếng Việt còn vang vọng đến phương nào
Trên nẻo đường của giòng người Nam Việt

Dã Vân 1981

BỐN NGÀN NĂM RÒNG RÃ BUỒN VUI

Ta thường nói "cây có cội, nước có nguồn". Nguồn gốc của chúng ta là ông bà tổ tiên, nguồn
gốc của ông bà tổ tiên là nòi giống. Nòi giống thì một phần khác nhau ở tiếng nói. Tiếng nói là
một trong những điều rõ ràng nhất làm cho ta biết được giòng giõi/dòng dõi của ta. Nhưng có
thật là ta biết được nguồn gốc tiếng Việt qua những sự kiện khách quan hay là do thành kiến
thông thường mà vì quen nghe rồi đâm ra tin là có thật?

Từ lâu, ta thường nghe nói là nòi giống ta bắt nguồn bên Tàu, là một nhánh của nòi giống
Tàu, tiếng nói của ta là biến thể của tiếng Tàu (sic) v.v. Ta không chối cãi là có nhiều điểm làm
cho ta phải tin như vậy vì địa thế, quá khứ lịch sử và văn hóa có nhiều dính dáng ràng buộc với
nước Tàu. Tuy nhiên, những sai lạc về suy diễn đã là mây mờ che phủ cái quá khứ thật sự của
ông bà ta mấy ngàn năm nay. Thí dụ như hồi xưa khi người Tàu qua nước ta, ông bà ta đã có
chữ viết chưa? Những khai quật cách đây khoảng 70 năm của bà Madelene Colani tại Đông
Sơn, Thanh Hóa đưa ra tài liệu về 17 sắc dân Mường và tiếng nói cùng nếp sống của họ mà cụ
Nguyễn Trãi gọi là "song viết".

Bốn giòng chữ trên một trống đồng Bắc Sơn, khoảng 2000 năm, đương nhiên không phải là
chữ Nôm hay chữ Tàu, đã có trước cả chữ Nôm rất lâu, có thể là để đánh dấu một biến cố quan
trọng, tên một triều đại hay một vị vua chúa, hoặc ghi nhận một trận đánh lịch sử. Hơn nữa, cách
đây 100 năm, ông Lacouperie, giáo sư ngôn ngữ tại đại học London, trong sách "Beginning of
Writing" xuất bản tại đó, cũng đã trưng bằng cớ của bốn mẫu chữ của người xưa ở Đông Nam Á
mà không phải là chữ Tàu. Có điều là cả 100 năm sau mới có mẫu chữ này trên trống đồng tìm
thấy ở Bắc Sơn mà dĩ nhiên ông ấy không được biết đến. Tài liệu này chứng tỏ hồi xưa cách đây
khoảng 2,300 năm và hơn nữa đã có những mẫu chữ viết của các dân tộc Đông Nam Á, không
thuộc Tàu hay Ấn Độ vì không giống tí nào với các mẫu chữ xưa của Tàu hay của Ấn Độ đồng
thời. Nếu có chữ viết riêng biệt từ xa xưa thì tiếng nói hẳn cũng riêng biệt, không phải là tiếng
Tàu hay tiếng Ấn Độ.

Một thành kiến và ngộ nhận sai lầm nữa là cho rằng cái gì bên Tàu là của Tàu hay do Tàu mà
ra. Sự thật là hồi xưa, khoảng 2500 năm về trước, người Tàu chính cống chỉ ở một vùng đất nhỏ
phía trên trung lưu của sông Hồng Hà. Họ thuộc bộ lạc tên là "Hoa" hay "Pa" ở miền Trung của
Tàu nên gọi là Trung Hoa. Từ đó mà xuống tận biển Nam là một vùng đất mênh mông có nhiều
giống dân khác hoàn toàn, khác dân Hoa về tiếng nói cũng như lối sống, đã ở đó từ ngàn xưa.

Sử Trần Trọng Kim nói rằng (nhà Ân) nước Tàu ở phía trên sông Hoàng Hà. Bên này sông
Trường Giang là man di hết cả. Một dẫn chứng lý thú là theo sử Tàu, Khổng Tử (551-479 BC),
cũng không biết gì về các sắc dân đó cả. Ngài bảo với ông Tư Mã Ngưu, một người học trò sắp
di cư về Nam: "Ta không biết gì về miền Nam! Chỗ đó nguy hiểm lắm. Có về đó mà sống phải
cẩn thận. Dân ở đó nghe đâu là dân Tam Miêu. Họ nói tiếng khác với ta. Phong tục cũng khác.
Ngay cả cây cối miền đó cũng khác. Thức ăn cũng khác. Họ trồng lúa mà ăn. Họ uống một thứ
nước giải khát từ một lá trong rừng gọi là lá chè. Chúng ta thì chỉ ăn kê và lõa mạch. Ta không
biết chè là gì (theo tài liệu Shafer “Ancient China").

Hai trăm năm sau, ông Mạnh Tử (372-289 BC) nói về người nước Sở (T'su) vùng Hồ Nam
bây giờ: "... Họ là những Nam Man, man di mọi rợ, nói tiếng líu lo. Họ không phải là người

chúng ta."
Rồi thì, dưới áp lực bành trướng của người Hoa, tràn xuống hay xâm nhập lần lần, những

nhóm dân khác phải đi lần xuống miền Nam của miền Nam. Một vài bộ lạc bị đồng hoá, bị lấn
lướt. Một vài sắc dân khác, nhẫn nhục để cho bị cai trị, mất dần dân tộc tính, sáp nhập vào dân
Tàu. Lại một vài sắc dân khác bị mắc bẫy vào guồng máy cai trị của Tàu, ăn bổng lộc của Tàu,
nhận tước vị của Tàu, mặc dù máu mủ bản xứ, nhưng giới cầm đầu là quan lại cho Tàu, có muốn

cưỡng lại hay làm gì cho đồng bào của họ cũng không được (thời ta bị 1000 năm Bắc thuộc).
Khi các triều đại Tàu không đủ sức mạnh thì họ chỉ yêu cầu các sắc dân ấy triều cống nhẹ nhàng,
nhưng khi chúng hùng hổ tràn về phía nam qua các cuộc viễn chinh thì các sắc dân kia, ai không
chịu nổi, tất nhiên phải di cư về nam, đến đâu hay đó, đến những vùng mà ảnh hưởng của Tàu
chưa hề có.

Không biết bao nhiêu giống dân đã đi về miền nam, lớp này qua lớp khác. Công cuộc ấy kéo
dài cả mấy ngàn năm mà cho đến nay vẫn còn chưa xong vì theo bản đồ nhân chủng lớn nhất của
Trung Cọng thì vẫn còn # 50 triệu người khác giống và khác tiếng nói, sống phần lớn ở miền
Hoa Nam, trong đó có 20 triệu người Zhuang (gốc Tai), 10 triệu Yi và Zang (gốc Tây Tạng) và
25 sắc dân khác, ít nhiều từ vài chục ngàn người cho đến 5, 6 triệu người (người Hmong, người
Dao …).

Qua hơn 2000 năm, các giống người ấy đã liên tiếp di dân về miền nam của miền nam, theo
kiểu "dùi cui đánh đục thì đục đánh săng", dần dà lai giống với đa số thổ dân ở tại chỗ từ ngàn
xưa. Xin nhấn mạnh là những người thực sự là bản xứ tại vùng mà bây giờ gọi là Bắc Việt, Bắc
Lào và Bắc Thái Lan. Những người ấy là ai? Họ đã ở đó từ ngàn xưa, không đâu tới mà cũng
chẳng đi đâu cả, sống ở đó và chết ở đó từ lâu lắm trước khi các nhóm người xa lạ kia, ở miệt
trên lấn xuống mà ở chung đụng. Họ mới thật là ông bà tổ tiên của chúng ta chứ không phải là
cái bọn người Hoa Nam bị Tàu đuổi xuống, lại càng không phải là cái bọn Tàu từ Hoa Bắc lấn
chiếm Hoa Nam!

Chúng ta bây giờ là máu huyết pha trộn lai giống của dòng Mon Khmer với các nhóm người
kể trên qua bao nhiêu ngàn năm, qua mấy trăm đời người, mà phần nhiều họ là dân Tai-Kdai
(Thái xưa) cùng với dân Dao và Hmong xưa chứ không phải là Tàu Quảng Đông, Tàu Quảng
Tây, hay Tàu Vân Nam bây giờ (vì vậy mà trong tiếng Việt hiện nay pha trộn 42% gốc Tai cổ
xưa và cũng còn có trên ba trăm tiếng gốc Hmong trong đó, mà chưa kể 28% ngôn ngữ ta có gốc
Mon Khmer, gốc bản xứ).

Theo ông Terrien de Lacouperie trong tài liệu "Les Langues du Mondes"/1887 thì tổ tiên
người An Nam và người Mường là kết quả pha gíống và pha tiếng nói của dòng Tai ở Hoa Nam
với dòng Mon Khmer của miền Đông Nam Á, nhưng vì An Nam bị Tàu cai trị suốt 1000 năm và
ảnh hưởng thêm 1000 năm nữa nên phong tục và ngôn ngữ đã vay mượn của Tàu rất nhiều; tuy
vậy mà vẫn còn mang nặng nhiều nếp sống nguyên thủy của đại tộc Indonesian cùng với ngôn
ngữ của rất nhiều các nhóm thổ dân ở Đông Nam Á.

Giả thuyết này vẫn còn giá trị vì nay thì "êkip" ngôn ngữ của Encyclopedia Britannica đã
đánh gục cái thành kiến sai lầm là nguồn gốc Tàu của tiếng Việt và tiếng Mường Việt nay đã
nằm gọn trong cái nôi ngôn ngữ Đông Nam Á, không còn là một thứ tiếng "mồ côi bí mật" nữa,

a mystery language.
Giả thuyết xưa cho là người Việt xuôi Hồng Hà và người Lào Thái xuôi sông Mê Kông mà

xuống chỉ là một lập luận sai lầm ngay cả về phương diện địa lý nữa.
Mặc dù dòng sông là dòng sống nhưng số người sống bên cạnh một dòng sông lớn đâu có

nhiều bằng số người sống dọc theo tất cả mọi nhánh sông nhỏ đã tạo thành ra nó. Dòng sông là
một đường chỉ tay mà cái lưu vực của nó là cái bàn tay, rộng lớn hơn cái đường chỉ tay rất nhiều.
Hơn nữa, đừng quên rằng từ ngàn xưa đã có người sống trên vùng đất đó rồi chứ đâu phải đất
trống trời sinh ra để đợi dân Thái, dân Mèo, dân Dao hay dân Tàu xuống mà ở.

Tại Hoà Bình cách đây 30 ngàn năm đã có di tích con người. Tại Đông Sơn cách đây 2500
năm cũng vậy, họ đã để lại nhiều di vật, trong đó có hàng trăm trống đồng! Hoabinhian và
Dongsonian trở thành những cái tên quốc tế mà ít ra là những người có học cũng từng nghe đến
và đương nhiên là họ để lại cho dân Giao Chỉ rất nhiều tiếng một để mà nói.

Các cuộc di dân, dù vĩ đại đến đâu, cũng không ra khỏi cái thực tế ngàn đời là phải lai giống
với các người sống tại chỗ. Và chính cái đám dân tại chỗ đó, dù tiếng nói của họ cũng pha trộn
theo với tiếng nói của kẻ phương xa đến, nhưng vẫn không bị tiêu diệt hay đồng hoá hoàn toàn,
mới thật là nói tiếng nói của ông bà chúng ta. Thành thử mỗi một tiếng nói sau mấy ngàn năm
chung đụng là một sống sót tuyệt vời pha trộn cả vinh quang lẫn ô nhục và sau cùng là kết hợp
dù là đồng lòng tự ý hay là miễn cưỡng bất đắc dĩ. Mà tiếng nói nào cũng vậy, không riêng chi
tiếng Việt. Tiếng Pháp có đến 46% tiếng gốc của Đức, chỉ có 58% là của La Tinh, Hy Lạp! Có
ai ngờ thế không (theo Encyclopedia of Languages / David Crystal). Tiếng Mỹ thì còn quậy hơn
nữa, vay mượn tùm lum của mọi thứ tiếng khác trên thế giới chứ đâu phải là một đứa con chính
thống của giòng Anglo Saxon đâu (theo American Heritage Dictionary). Ảnh hưởng của tiếng Ả
Rập còn rất nhiều trên tiếng Spanish đến nỗi người ta còn ví tiếng này như là một đứa con ngoại
hôn của dòng Indo European!

Giờ ta trở về với tiếng Việt! Từ khoảng 1 triệu người cách đây 2000 năm, nay chúng ta là 89
triệu! Ít ai biết là nay tiếng Việt đứng thứ 12 về số đông người nói, dựa trên tiêu chuẩn một tiếng
nói chính thức của một quốc gia dân tộc. Ai cũng biết rằng nay nó là một tiếng nói quốc tế, hiểu
theo nghĩa là đi đâu cũng thấy nó, khoảng chừng 3 triệu người sống khắp nơi trên thế giới văn
minh và tự do dân chủ sau cái biến cố kinh hoàng và tàn bạo của tháng tư đen năm 1975.

Hồi tôi qua Đức, thấy một cô bé Việt ngồi đọc sách trước nhà thờ lớn nhất thế giới ở Cologne.
Lần tôi đi thăm cái trống đồng ở Vienna, người gác bảo tàng viện ở đó cũng bập bẹ "chào ông".
Trên Vạn Lý Trường Thành năm 2000, tôi nghe người Việt nói choẹt choẹt. Con số gần 3 triệu
người Việt trốn chạy cọng sản nay đem lại mùi vị quốc tế cho tiếng Mường của ông bà chúng ta,
mà cũng là cho tiếng Việt của năm 2012!

Tóm lại, theo nhận xét về Việt Nam, trích nguyên văn trong Encyclopedia Britannica, bài

Vietnam, History of:

"In spite of a growing number of ethnographic and archeological studies covering the

territory historically occupied by Vietnam, all knowledge about the origin of the Vietnamese

people remain hypothetical, but a long held notion that identified the Vietnamese with one tribe

of the Viet of Southern China (Yueh in Chinese) has been abandoned.

Though the Viet, who, circa 334 BC, were driven by the expanding Chinese from their habitat

south of the Yangtze river, moved further south, and might have entered the Red River Delta,

gave the Vietnamese people its name, the theory that regards them as direct ancestors conflicts

with ethnographic and biological evidence, all of which point to strong social and cultural

affinities between the Vietnamese and people of the Tai and Indonesian families.

The dominant view is that the Vietnamese originated in the Red River Delta and represent a
racial and cultural fusion, the various elements of which are still not fully determined.”

(@ Encyclopedia Britanica 1999)

Cái nếp sống của dân Giao Chỉ, Cữu Chân, Nhật Nam ngày xưa vẫn còn cho đến ngày nay,
mặc dù có pha trộn nhiều đường nét văn hoá vay mượn từ mọi sắc dân khác chung quanh và cả
dân Tàu, lẽ dĩ nhiên. Mặc dầu vẫn còn nhiều điểm chưa biết rõ, cái rõ ràng nhất là tiếng Tàu
không chung một gia đình với tiếng Việt. Nó chỉ là một ông hàng xóm lấn lướt và hoạnh hoẹ
muôn đời.

BẬT MÍ NHỮNG BÍ MẬT CỦA TIẾNG VIỆT

Cách đây đã lâu, nhà văn Bình nguyên Lộc đã có "toan tính" lột trần Việt Ngữ. Gần đây giáo
sư ngôn ngữ Nguyễn Đình Hòa cũng dọa sẽ không cho tiếng Việt "điểm phấn tô son” nữa, một
hình thức lột trần khác. Hôm nay, tôi sẽ lần lượt bật mí những bí mật từ ngàn xưa của cô nàng
Nguyễn Thị Việt Ngữ.

Gần 3 triệu người đã bỏ nước ra đi kể từ năm 1975, nay gần một nửa là người trẻ. Hiện nay
tiếng Việt là chất keo sơn đang làm cho chúng ta khắng khít với nhau. Nếu chúng ta hờ hững,
cọng đồng Việt sẽ không còn hiểu được nhau nữa, nói gì đến lớp trẻ sau này! Ngược lại, nếu ai
trong chúng ta cũng tự nhủ với lòng mình đừng để cho tiếng Việt trong lo`ng ta lu mờ đi, mỗi
tuần chỉ vẻ cho con cháu trong nhà nói tiếng Việt nhiều hơn một chút, đúng hơn một chút, là ta
đã đóng góp vào sự giữ gìn tiếng Việt, cái linh hồn của chúng ta ở nước ngoài.

Dù ở đâu, ta cũng không muốn mất gốc, mất cái lẽ sống là nói tiếng Việt trong lúc sống theo
lối Việt, cái mà cụ Nguyễn Trải đã nói là cái "song viết" / "nếp sống" của chúng ta đó, chứ chẳng
phải là cái "rông vát", cái "nô bộc", cái "sớm tối" hay cái "thong thả" của một vài học giả Hán
Việt.

Hãy làm chuyện đó ngay, và làm hàng ngày. Càng dễ làm nếu ta bỏ đi những ý nghĩ sai lầm
về tiếng Việt.

Nhà ngữ học Logan đã tìm gia phả cho tiếng Việt từ năm 1859 và viết rằng: "The vernacular
Annamese language, though full of Chinese idioms, belonged to thế same family as the Mon in

Burma" (Mon-Annam formation, pp 152-183, Journal of the Indian Archipelago N.S / vol. iii,

1859).
Vậy thì Mon là gì? Họ còn có tên là Môn, Mòn, Rmon, Rman. Mon là tiếng nói của dân

Mòn bên Miến Điện. Chừng hơn 1 triệu người Mòn ở vùng miền biển và núi phía Dông Nam
Rangoon cách 150 km. Từ ngàn xưa dân này ở khắp nước Miến Điện khi người Miến xưa đang
còn ở miền Tây Nam đất Tàu bây giờ. Họ khá văn mình và đã có chữ viết từ 1400 năm qua.
Tiếng Mon và chữ Mon đã góp phần xây dựng lên tiếng Miến và chữ Miến nên đã ảnh hưởng
nhiều và lâu bền vào văn hoá và ngôn ngữ của Miến Điện, Kampuchia và Thái Lan nữa. Nhưng
người Mon hiện nay đã bị mất nước!

Hồi xưa họ ở khắp cả Miến Điện và cả một phần đất Thái Lan. Sau hơn ngàn năm kèn cựa
với Miến và Thái, họ đã mất hết đất nhưng họ vẫn hơn về phương diện văn hoá và ngôn ngữ và
cả hai dân tộc Thái và Miến đều phải công nhận phần đóng góp lớn của dân Mòn cho tiếng nói
của họ, và họ không ngớt nhắc nhở đến trong các sáng tác văn hoá.

Nếu bạn có sang thăm Thái Lan hay Miến Điện, bạn sẽ thấy hàng trăm đền đài xưa của người
Mon lập ra mà được người Thái và Miến tu bổ để tiếp tục thờ, cũng như di tích hàng trăm bia đá
có khắc chữ Mòn xưa, bằng chứng hùng hồn về nét chung cùng văn hoá và nếp sống văn tự và
ngôn ngữ giữa ba dân tộc Mon-Miến-Thái.

Về phần Khmer và Mon thì hai dân ấy quá giống nhau về tiếng nói nên xem như hai anh em,
các nhà ngữ học gọi chung là Mon Khmer, không tách rời ra được, cũng như giữa Mường và
Việt vậy đó.

Viêt Nam ta bị Tàu lấn lướt đã trên 2000 năm nên dấu vết ảnh hưởng của Mon gần như khó
thấy, nhưng thật ra tiếng Việt, qua tiếng Mường, quá giống với tiếng Mon Khmer, nên các nhà
ngữ học nhất quyết ghép nó vào gia đình Mon Khmer dù cho phần đông người Việt không biết
Mon Khmer là cái quái gì? Mặc dù hiện nay tiếng Mòn được xem như là tiếng gốc gác của vùng
ngôn ngữ Đông Nam Á, không một dân tộc, sắc dân hay bộ lạc nào mà tiếng nói lại không có
pha trộn ít nhiều tiếng Mon vào!

Việt Nam nằm trong vùng trái độn là bán đảo Indo-China giữa hai khối người khổng lồ là Tàu
và Ấn Độ nên từ xưa đã chịu ảnh hưởng của cả hai nền văn hoá và ngôn ngữ ấy. Nhưng chúng ta
ít biết đến ảnh hưởng của Mon và Ấn Độ trên ngôn ngữ và văn hoá của ta.

Tiếng Việt xa tiếng Mòn cả 1000 cây số, chứng tỏ tính cách vượt thời gian và xuyên không
gian của hai ngôn ngữ xưa Mòn và Việt.

Để làm chứng cho liên hệ anh em của hai tiếng nói này, tôi xin đưa ra đây một số thí dụ:

Tieng Viet Tieng Mon

đau đớn a-đon
dằn vặt h-yằn h-wăt
rao mỏ
k-moh
tùm lum a-lum (tất cả, mọi, khắp)
xuề xòa swa (dễ, giản dị)
uống nước uông đak
mà có chồng
ma co giôn
lúa, ló*
s-lo / s-ro
mà có hai con
viết lách ma ko kôn bi

lekh

Chú ý: Tiếng Mòn rất giống tiếng miền Bắc Trung Việt hơn vì qua mấy ngàn năm, người
Việt miền Trung gìn giữ được nhiều tiếng xưa của ông bà trong khi người miền Bắc liên miên
gánh chịu tới tấp sóng gió văn hoá từ Tàu tràn xuống nên đã quên đi nhiều tiếng nói xưa của ông

bà.
Tiếng Khmer rất giống tiếng Mon, như hai anh em ruột, nên các nhà ngữ học không tách rời

chúng ra được và tiếng Việt lại rất giống cả hai. Cả ba tiếng nói Mòn-Khmer-Việt như là ba
nhánh của một cây ngôn ngữ khổng lồ. Nay ta và họ không nhìn ra nhau nhưng xưa đã là anh
em cật ruột, cùng gốc gác, chung tiếng nói từ khi ta chưa hề biết ta là Giao Chỉ mà họ cũng chưa
hề biết họ là Mon hay Khmer nữa, vào cái thời thôi nôi lúc đầu của mọi tiếng nói con người.

Dòng Mon Khmer đã lai tiếng với giòng Taic từ mấy ngàn năm về trước. Taic là gốc sinh ra
các thứ tiếng Thái, Lào, Shan giữa Miến Điện và Tháí Lan, và tiếng Zhuang/Choang bên Hoa
Nam, nơi mà hồi xưa chưa phải là của dân Tàu. Vấn đề lai tiếng nói đang còn bàn cãi nhưng
càng ngày càng rõ là muốn phân biệt nguồn gốc khác nhau thì khó, mà nhận xét về lai tiếng thì
quá rõ. Trong toàn thể tiếng Việt có 45% tiếng cùng một gốc với Thái và 28% tiếng cùng một
gốc với Mòn Khmer.

Tinh Thần Đặc Biệt Của Tiếng Việt

Theo các nhà ngữ học thì tiếng Mỹ là thứ tiếng nói vay mượn rất nhiều từ ngữ của các tiếng
khác trên khắp thế giới, vì vậy mà nó rất dồi dào và sống động. Nó là tiếng nói số một của loài
người hiện nay. Theo tôi thì tiếng Việt cũng không thua kém chi. Nó đang đứng thứ 12 về số
đông người nói [83 triệu] và đang lan ra khắp thế giới tự do từ cái biến cố 1975. Nó có một
nguồn gốc rất là đa dạng vì qua 2,3 ngàn năm nó đã mượn rất nhiều tiếng Tàu mà xài, rồi gần
đây lại còn mượn hàng trăm tiếng một của Pháp mà nói, bây giờ đã trở thành tiếng Việt rồi. Thí
dụ như béret, kaki, kilo, gara, accu, v.v… Các bạn có thể kể ra vài trăm tiếng như thế.

Hiện nay, tiếng Việt lại còn đang dùng rất nhiều tiếng Anh Pháp Mỹ vay mượn như computer,
battery, charge, v.v. Mượn như thế sau này một thời gian sẽ Việt hoá và trở thành tiếng Việt
luôn. Đó là một điều rất hay, tiếng Việt dồi dào thêm, có thêm nhiều cách nói, nhiều ngữ vững,
nhiều cách phô bày tư tưởng. Nhưng ta nên để ý rằng dù có nói bao nhiêu thứ tiếng khác nhau đi
nữa, ta cũng chỉ có một thứ chữ abc hiện nay để viết, ta không còn viết chữ Nôm nữa, ta không
còn viết chữ Tàu nữa, ta không còn biết chữ khoa đẩu là chữ gì nữa, và sẽ không bao giờ. Như
trong câu nói sau đây: cho xe vô gara, rồi check giùm cái bình điện, nếu hết charge thì câu điện
giùm, vô nhà coi công to [compteur] tháng này tiền nước bao nhiêu. Có đến mấy ngôn ngữ khác
nhau của cả thế giới trong câu nói ngắn đó mà ta không ngờ!

Một chuyện lạ hơn nữa là, cách đây mấy ngàn năm, ngoài tiếng Tàu ra, ông bà ta còn dùng
không biết bao nhiêu là tiếng nước ngoài ở Đông Nam Á Châu mà ta cứ tưởng đâu là tiếng Việt
của ta, không ngờ đó là tiếng nói của biết bao ngôn ngữ láng giềng, mà lại không phải là tiếng
Tàu. Thí dụ ta nói tha thiết thiết tha, vắng vẻ, đủng đỉnh, đó là tiếng Thái! Vơ vẩn vẩn vơ, đó là
tiếng Lào đó bạn. Chân tay, chân mây là tiếng Khmer đó. Một ngày, một hai ba bốn năm, đó
cũng là tiếng Miên luôn!

Cụ Nguyễn Gia Thiều cách đây khoảng 200 năm đã viết: "Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán".
Đành hanh là tiếng gốc Chàm đó, có nghĩa là ganh ghét, ganh tị. Cụ Nguyễn Trải cách đây
khoảng 600 năm có nói: "Tuy rằng bốn bể cũng anh tam". Tam là tiếng Mã Lai, có nghĩa là
thằng em trai. Trong câu "Hai chữ công danh tiếng vả vê", vả vê là tiếng Lào xưa, có nghĩa là
trống vắng mà bây giờ người Việt không còn ai nói nữa. Người Việt nói cái dùi cui hay đùi cui
thì người Indonesia và Malay cũng nói là đulkul!

Hai tiếng nôm na mà ai cũng cho nôm là nam, vậy thì na là gì? Thật ra, nôm và na đều có
nghĩa gốc là xưa, cũ, lâu đời, đã có từ lâu. Các từ điển Lào Thái Khmer đều có ghi hai tiếng nôm
na theo lối chữ abc của riêng họ và đều giải thích như vậy. Tiếng Nôm là tiếng nói xưa của người
nước ta, đã nói như vậy từ lâu, trước khi ông bà ta gặp người Tàu. Chữ Nôm chỉ là cách ghi lại
tiếng Nôm mãi sau này.

Cả thảy 27 ngàn 400 tiếng Việt như vậy, ta cùng nói chung tiếng nói của không biết bao nhiêu
là ngôn ngữ anh em chung quanh ta, đến nỗi không có một tiếng Việt nào mà lại không có chung
đồng nguyên (gốc gác) với một vài ngôn ngữ khác ở miền Đông Nam Á này. Những tiếng
Khmer, Lào, Thái, Chàm, Malay, Indonesia, Nùng, Hmong, Bahnar, Rhade, v.v. bao bọc tiếng
Việt trong một vòng dây thân ái của tình anh em ngôn ngữ mà chúng ta không ngờ đến đó thôi.

Nhưng tiếng Việt có một điểm rất lạ, dễ thì dễ mà khó cũng thật là khó, vì ta tưởng là ta viết
được tiếng Việt là ta hiểu được tiếng Việt. Thật ra, ta không hiểu tiếng mẹ đẻ của chúng ta ra làm
sao cả. Ta nói đau đớn mà không hiểu đớn là gì! Đớn là tiếng Mon, có nghĩa là đau cái đau của
lòng mình. Ta nói rộn rịp mà không hiểu rịp là gì! Rịp là bận việc, gốc tiếng Lào Thái! Ta nói

săn sóc, chăm sóc mà chẳng hiểu săn là gì và sóc là gì! Săn là theo dõi, sóc là sức khoẻ, gốc

Sanskrit/Pali.

Có cả thảy chừng 10 ngàn tiếng Việt gốc gác như vậy! Thành thử dù cho ta có biết viết chữ
Nôm hay chữ Tàu đi nữa, ta vẫn không thể nào bíết ý nghĩa của mỗi từ ngữ trong tiếng Việt của
ta đâu! Điều này đòi hỏi phải có một trình độ và khả năng hiểu biết ý nghĩa nguồn gốc của mỗi
chữ, mỗi âm, mỗi từ trong tiếng Việt mà con số lên đến gần 10 ngàn tiếng đơn như vậy.

Chỉ có một cách qua được cái khó khăn vượt bực đó. Đó là phải có một bộ từ điển nguồn gốc
tiếng Việt, tham khảo khắp cả 58 thứ tiếng lớn nhỏ ở Nam Á Châu từ tiếng Thái, Lào, Khmer,
Miến, Malay, Indonesia cho đến những tiếng nói thiểu số với vài ba trăm ngàn người, tiếng
Mường, tiếng Nùng, tiếng Hmong, tiếng Chàm ....Chúng đều có đóng góp âm thanh, giọng nói
và ý nghĩa gốc gác hay làm nguồn cội ban đầu cho vô số từ ngữ trong tiếng Việt.

Những Con Đường Đi Không Tới

Vâng, không bao giờ tới …nếu ta đi trật đường! Tôi muốn nói đến những giả thuyết về sự di
chuyển của con người kể từ khi có con người.

Hàng ngàn nhà bác học đã cho là từ Africa mà con người đi khắp thế giới. Từ đâu cũng
được… nhưng nó kì cục ở cái chỗ là với cái thời gian dài dễ sợ luôn kể từ khi có con người
[2 triệu năm] thì một nửa quả đất là 20 ngàn kilomét nào có nghĩa lý gì, chia cho 2 triệu năm,
mỗi ngày chỉ đi có 33 millimét [chưa dài bằng cái chữ này! Chậm hơn là con sâu bò gấp trăm
lần, ai không tin làm cái toán chia thấy liền!] Cho nên hãy dẹp ba cái giả thuyết vớ vẩn ấy đi mà
phải biết là con người có mặt trên khắp thế giới từ đời xưa, khi mà ông Bành Tổ chưa có tổ mà ở,
khi mà Mathusalem cũng chưa có biết lem nhem là gì thì đã có con người và dĩ nhiên có tiếng
nói của nó. Đừng nghĩ rằng sắc dân này nọ vì không chịu nhau mà sinh ra tiếng nói khác nhau,

màu da khác nhau, nhóm máu khác nhau, DNA khác nhau.
Cái sức sống và nếp sống quá mạnh của con người đã làm ra thế giới ngôn ngữ chứ đâu có

phải ăn rồi chỉ lo di chuyển khắp nơi. Đất đâu cũng là đất, nước đâu cũng là nước, cần gì phải đi
chỗ khác mà sống. Nên nhớ là cách đây cả mấy trăm ngàn năm làm gì có trồng trọt, mắc mớ gì
mà phải đi chiếm đất của nhau. Nói dị đoan như Giao Chỉ là ngón chân giao nhau. Trời đất! Nói
tàm bậy như đạo Hoa Lang là vì xưa có người Bồ Đào Nha đem qua bán một thứ vải có hình hoa
lan. Nói tưởng tượng như: “Văn Lang là cau sọc, văn là vẽ mình, lang là quan lang.” Nói xạo
như Hồng Bàng là to lớn vĩ đại. Nói huyền thoại kiểu "cò con ăn đêm" như lạc điền là ruộng có
con chim Lạc / vây nếu con chim Lạc bay lạc mất thì gọi là ruộng gì bây giờ? Thật ra, Lạc #
LO-k có nghĩa là lúa, chỉ có vậy thôi!

Cả vùng Đông Nam Á rộng mênh mông đều gọi lúa là luá cả. Người Tàu chỉ gọi lúa là hoà
cốc để phân biệt với các thứ cốc loại khác mà họ ăn. Nên biết là Khổng Tử không ăn lúa gạo và
không uống nước chè [theo sách Ancient China của Shafer], ổng nói: “Ta không biết lúa là gì, ta
chỉ ăn kê và loã mạch.” Hồi đó lúa là một món ăn mới, chưa hợp cái miệng của Khổng Tử, Lão
Tử. Chẳng qua là 2000 năm nhập tâm cái chữ Tàu rồi nhìn đâu cũng thấy là Tàu. Cái cách suy
nghĩ "wishful thinking" ấy đã tiêm nhiễm vào nền Hán Việt học lâu đời.

Họ không biết rằng biển học mênh mông có ngay tại chỗ ở Đông Nam Á chứ không phải chỉ
là 7500 cái chữ Tàu độc diễn trên một mặt trận văn học suốt 2000 năm đâu! Mấy chục cái nền
móng văn học, ngôn ngữ của các nước ở Đông Nam Á đang chào mừng đón mời chúng ta đó.
Nguồn gốc tiếng Việt và các thứ tiếng kia đều nằm trọn trong cái nôi ngôn ngữ đã từ ngàn xưa
mà chúng ta thờ ơ, không chịu để mắt tới.

Mấy ngàn chữ đệm này đều có nghĩa cả, chỉ tội là mình nào có biết được cái gì đâu!
Ngay giờ đây các văn khoa đại học bên nhà cũng vẫn cứ lơ là sự tìm học hiểu các tiếng nói và
văn hóa Đông Nam Á. Họ được các nhà ngữ học chỉ cho biết là tương lai tiếng Việt sẽ trổ sắc
thêm hương nếu muốn học hỏi chung với các trường văn khoa đại học Thái, Lào, Khmer, Mmon,
Miến Điện, Mã Lai, Indonesia nhưng họ vẫn không chịu tìm hiểu.
Hãy đưa hàng ngàn sinh viên văn khoa đi khắp các trường đại học ở Bangkok, Jakarta, Kuala
Lumpur, Rangoon, Vientiane, học tiếng của họ và dạy tiếng Việt cho họ. Lợi ích sẽ cho cả đôi
bên và ta cũng như các tiếng nói khác sẽ rât vui mừng mà thấy rằng chúng nó giống nhau biết
bao nhiêu. Tiếng Việt sẽ có giá trị rõ ràng hơn nhiều mà các tiếng kia cũng thấy họ là "anh em
ngôn ngữ" với chúng ta.
Biết nhau rõ thì sẽ thương yêu nhau. Đó là cái mà ai cũng muốn và làm được, và phải làm
cho tiếng nói của chúng ta. Chỉ cần một chút tin tưởng và rất nhiều thiện chí.

Dòng Sông Tiếng Việt

Dòng Sông Tiếng Việt bắt nguồn từ nhiều nơi: Khasi, Munda, Mon-Khmer, Chàm, Malay,
Indonesia. Sau khi chảy qua 5000 năm # 5000 km thì có thêm hai nguồn nữa là: Mường (Hoà
Bình và Đông Sơn) và rồi nhận thêm dòng chảy của các nhánh sông bên Hoa Nam, các nhánh
Man (Miao,Yao) và các nhánh Bách Việt.

Dòng sông Việt lúc ban đầu chảy qua vùng Nam Á Châu, sau đó chảy qua vùng Đông Nam Á,
và cuối cùng ở vùng Hoà Bình - Thanh Hóa rồi chảy ra hai cửa biển ấy, ta tạm gọi là cửa Hoà
Bình và cửa Đông Sơn. Khúc sông cuối rất lớn và có hình một cái vòng cung bao gồm châu thổ
sông Mã, vùng sông Đà và có trổ một nhánh qua châu thổ sông Hồng. Đến đây thì xảy ra nạn
hồng thủy Tàu cách đây 2500 năm.

Lịch sử Tàu đã xen vào và vẽ lại dòng chảy của con sông Việt với nhiều sai lầm vì dựa trên
bản đồ Tàu mà ghi chép tư tưởng của mấy người Tàu viết sử cho Tàu cách đây hơn 2000 năm.
Vì thế mới:

1) Có cái hiểu lầm về tiếng Việt là có nguồn gốc Tàu (Hán Việt?) (sic).
2) Có cái hiểu lầm về "nói tiếng Hán Việt là nói tiếng Tàu." Khi ta nói cho 89 triệu người
Việt hiểu thì ta vẫn nói tiếng Việt 100% vì người Tàu họ đâu có hiểu gì, dù mượn nhiều từ ngữ
Tàu mà nói theo cách nói của mình (cái nhà nhỏ, cái muỗng lớn, dòng thanh thủy, sông Hương

Giang).
3) Có cái hiều lầm là viết chữ Tàu là viết chữ Hán Việt (sic). Người Tàu có thay đổi cách

viết chữ Tàu thì đó là chuyện của Tàu qua 2000 năm. Có người Việt nào dám sửa đổi chữ Tàu
đâu, vậy sao lại bảo là chữ Hán Việt? Làm gì có chữ Hán Việt, chỉ có chữ viết của Tàu mà ta
đọc trẹ đi nhưng cái chữ và cái ý nghĩa của nó vẫn là 100% Tàu. Rồi khi ông bà ta bày ra chữ
Nôm chừng 700 năm trước thì đó là chữ Việt chứ đâu phải là chữ Hán Việt, vì chỉ có ông bà ta
hiểu và đọc thôi. Đó là cái hiểu lầm kỳ quặc về tư tưởng Hán Việt.

Thật ra, mọi dòng sông ngôn ngữ của con người đều có chia xẻ dòng nước: cùng trôi, cùng
nổi và cùng chìm với nhau trên một vùng sinh sống rộng lớn mà ta khó tưởng tượng ra được.
Trường hợp của dòng sông tiếng Pháp hay của dòng sông tiếng Mỹ cũng thế thôi. Hiểu theo
cách này thì tiếng Pháp có gốc Âu Châu cổ chứ đâu có chỉ là gốc La Tinh, Hy Lạp cổ mà thôi
đâu? Hiểu như vậy thì tiếng Mỹ cũng có gốc Âu Châu cổ xưa như là tiếng Pháp vậy thôi, qua cái
tiếng trung gian là tiếng Anh. Nhưng khi ai nói là dòng sông Việt bắt nguồn từ vùng Nam Á
Châu và chảy ra biển ở hai cửa Hòa Bình và Đông Sơn thì không ai chịu tin vì cái tư tưởng đúc
khuôn theo Tàu đã làm cho người Việt "mụ" người đi, không còn dám suy nghĩ ra ngoài cái
khuôn sáo, cái ước lệ, cái sai lầm của sách vở xưa củaTàu.

Năm mưoi năm sau này, ngữ học quốc tế trở thành một khoa học thật rõ ràng và thấy rằng
tiếng Việt không bắt nguồn từ tiếng Tàu vi` khoa học này đã không còn đặt nặng các chữ viết
của nhân loại nữa, mà nó lại đặt nặng cái quan trọng vào 5000 cái tiếng nói của loài người. Và
nhờ thế, khoa học so sánh các tiếng nói (comparative linguistic) tiến vượt bực và cho ta biết
sau 150 năm tìm kiếm là: tiếng nói của ông bà ta bắt nguồn ngay tại chỗ, đó là miền Nam của Á
Châu chứ không phải là miền Bắc của Á Châu (Tàu) @ tài liệu của Encyclopedia Britannica và
của nhiều loại bách khoa từ điển lớn trên thế giới đều nhận xét như thế. Tiếng nói con người là
một số âm thanh nói ra (dù ít hay nhiều) mà có ý nghĩa thì được một số người sống trên một
vùng (dù nhỏ hay lớn) hiểu một cách mà thôi ("chân" khác với "tay"!) Còn cái chữ viết, sinh
sau đẻ muộn, muốn thay thế cho tiếng nói, tỏ ra không quan trọng cho bằng vì nó chỉ là áo quần
cho tiếng nói thôi, chứ làm sao mang theo tư tưởng con người được! .

Các bạn sẽ cho là lạ lùng, nhưng nếu bạn viết l-ù-ng, bạn có hiểu là gì không? Đau đớn, nếu
bạn viết đ-ớ-n, bạn có hiểu là gì không?

Có chừng 50% tiếng Việt mà ta không hiểu được, mặc dù ta nói ào ào, là vì ta chưa biết được
cái nguồn gốc, cái ý nghĩa lúc ban đầu của nó. Vì vậy mà bộ từ điển Nguồn Gốc Tiếng Việt ra
đời sau 25 năm thai nghén (nghén là gốc tiếng Lào, Thái viết và đọc là khénh, có nghĩa là có
bụng, có mang, có chửa.) Bộ từ điển nảy giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của tất cả 9700 tiếng
một Việt như là: ăn / uống / chạy / nhảy / leo / trèo / chân / tay / mặt / mũi / trời / đất / núi / sông
/ lên / xuống / qua / lại / tới / lui … Nó cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của chừng 27400 tiếng
ghép Việt qua mấy chục ngàn năm chung sống và chung đụng giữa người Việt và các người khác
(Mon, Khmer, Chàm, Mon-Khmer, Thái, Lào, Nùng, Hmong v.v.) dựa vào con số to tát của
chừng 275 ngàn tiếng một của 58 thứ ngôn ngữ khác nhau ở Đông Nam Á, đồng nguyên với
27400 tiếng Việt của ta. Nó cũng cho thấy rất chi tiết và phân tách cái cách ăn nói của người
Việt (# văn phạm, ngữ pháp) rất giống với văn phạm của các giống người đó. Nó cho thấy muôn
ngàn cái khác nhau trong căn bản giữa cách nói phô/văn phạm Việt và Tàu (nhà nhỏ / tiểu ốc).

Cái cách nói của một ngôn ngữ rất là quan trọng. Dù cho ta có mượn hàng ngàn tiếng Tàu mà
nói, dù ta có mượn hàng trăm ngữ vững Pháp, Anh, Mỹ thì ta vẫn nói tiếng Việt vì ta đem nó vào
câu nói của ta, mà không có ai bắt chước được cách nói và câu nói của ta cả.

Bộ từ điển này sẽ "dứt điểm" cái ý nghĩ sai lầm của các nhà học giả cho rằng tiếng Tàu đã
sinh ra tiếng Việt (sic) và nó sẽ làm cho ta vui mừng khi biết rằng ông Leonard Bloomfield, nhà
ngữ học Mỹ nổi tiếng khắp thế giới trong "Language" 1930, đã khen: "Vietnamese is a great
cultural language of Southeast Asia" (Tiếng Việt là một tiếng nói văn hoá lớn ở Đông Nam Á).

Những khám phá thích thú về nguồn gốc tiếng nói và văn tự Việt nam của Bs
Nguyễn hy Vọng

Tôi gặp bs Vọng tại một ngày cuối đông 1983 ở Seattle.
Trong cuộc hàn huyên vội vàng nhưng cởi mở, bs Vọng cho biết về những dự định cho một chương trình
bề bộn với nhiều công lao cho việc tìm lại nguồn cội ngôn ngữ Việt.

Bs đã nghiên cứu và sưu khảo về văn tự và tiếng nói người Việt bao lâu rồi?
- từ khoảng hai năm nay, khi tôi về thành phố này.

Bs có dự định viết thành sách không ?
- Hiện tôi chưa định, theo tôi ít nhứt cũng phải 10 năm hơn mới đủ tài liệu.Vấn đề này phải thận

cẩn thận. bất cứ một yếu tố nào cũng phải chứng minh chứ không nói qua được vì công việc này
hoàn toàn khảo cứu chứ không phải là gỉả thuyết

Nguyên do nào thúc đẩy Bs đi tìm nguồn cội tiếng Việt?
- Buồn ! ngoài giờ khám bịnh, tôi chỉ đọc sách. Từ khi qua đây tôi thấy như bị bứng mất gốc từ đó

tôi muốn tìm lại nguồn cội của mình và việc này đã dắt tôi lạc vào một khu rừng từ đó tôi không
ra được nữa vì cây này dẫn qua cây kia làm tôi lạc lối , riêng một chuyện đọc các sách về ngôn
ngữ Việt có lẽ mù mắt cũng không đọc hết, mọi người đều viết, Anh Mỹ, Pháp, Nhật, Áo, Nga, cả
người Nga nữa, riêng người Đức viết nhiều hơn hết từ 150 năm rồi, viết còn nhiều hơn người
Pháp nữa.

Hồi còn ở đại học y khoa, bs có chú trọng và viết gì về tiếng Việt hay không ?
- Không , nhưng tôi có học 5 năm chữ hán, hồi trung học, giờ đã quên nhiều. Ba tôi đã dạy chữ hán

cho hoàng tử Bảo Long, con vua Bảo Đại.

Ngoài chứng chỉ chuyên khoa về bệnh tâm thần [psychiatry] Bs có chứng chỉ gì về ngôn ngữ học
không?
- Tôi chỉ nghiên cứu, tôi không có chứng chỉ nào về ngữ học. tôi nghĩ rằng sẽ không có vì tôi cũng

lớn tuổi rồi

Trong quá khứ bs đã thuyết trình nơi nào chưa?
- Chưa, tôi cũng chưa phổ biến công việc này,lbuổi nói chuyện tại chùa phật giáo Seattle là lần đầu.

Có lẽ tôi sẽ phổ biến lần lần trên báo chí

Qua sự khảo cứu, bs có hy vọng gì về tiếng Việt ở đây sau một vài thế hệ không?
- Cũng có mà cũng không, 56 triệu người bên Việt nam thì có nhiều hy vọng, còn ở đây, thời gian

sẽ làm mai một đi và rất ít hy vọng. Một ngôn ngữ như là một sinh vật, có sống có chết. Bây giờ
cũng có nhiều ngôn ngữ đang chết. Nhóm người nói tiếng gốc Việt xa xưa chỉ còn 400 ngàn
người ở bên Miến điện. họ nói chừng 500 tiếng một giống tiếng Việt, mình nói uống nước, họ
cũng nói “uông đak”

Ngoài bs ra, có học giả nào nghiên cứu không ?
- Ở đây thì không có ai. ở Úc thì có Gs Nguyễn đăng Liêm rất giỏi. Ở Illinois, có Gs Nguyễn đình

Hòa rất lỗi lạc. Tôi rất mong làm quen với Gs và nhiều học giả khác.

Bs nghĩ gì về sự dạy một em bé Việt ở Mỹ về tiếng Việt ? Còn như con bs thì thế nào?
- Với các con tôi đang nói nửa tiếng Việt, nửa tiếng Anh; thì tôi dạy trò chơi tiếng Việt, thí dụ bắt

đầu bằng chữ L và kết thúc bằng chữ Đ [lác đác, lục đục, lận đận, long đong, lao đao, lờ đờ, lừ

đừ, thay phiên nhau kiếm chữ cho đến khi cả thầy và trò đều “bí” ! theo tôi chỉ trong 15 phút các
cháu đã học được rất nhiều, không ngờ... chứ còn đem truyện Kiều ra dạy thì các bé không hiểu
và chả nhớ cái gì là cái gì !

Trôi theo dòng chuyển dịch của lịch sử, chúng ta đang sống trongmột khung cảnh ngày càng xa rời
nhân bản. Chúng ta cứ đánh mất dần dần bản chất của mình, bơ vơ và vô danh giữa sự biến hóa phi
thường của tạo vật. chúng ta lãng quên dần nguồn cội qua những tiến bộ kỳ lạ của khoa học kỹ thuật và
hình như chỉ có quá khứ mới có đủ mãnh lực khiến trái tim ta xúc động về mỗi hoàn cảnh nàơ đó trong
cuộc đời.

Một phần trong thiên sưu khảo về nguồn gốc tiếng nói và văn tự Việt, xem thêm bài 4000 năm ròng rã
buồn vui sau đây đã được bs Vọng trình bày một cách súc tích và công phu trong buổi nói chuyện văn
hóa của chùa việt nam Seattle tổ chức vào chiều ngày 18 tháng 12 năm 1983.

Bằng một giọng trầm ấm và hấp dẫn, bs Vọng trong suốt 168 phút đồng hồ đã dẫn dắt người nghe đi
ngược về một thời trong quá khứ đã xa thật xa mà người nghe đôi khi phải nhắm mắt lại mới tưởng tượng
được.

Với những lý luận vững vàng và những dẫn chứng cụ thể bằng video tape phóng chiếu trên TV, bs
Vọng lần lượt trình bày nguồn gốc người Việt qua những hình trống đồng đông sơn Thanh hóa đả được
tìm ra từ hơn trăm năm trước cùng với những khám phá kỳ lạ và lý thú của các nhà khảo cổ khắp năm
châu.

Bs Vọng đã dẫn dắt người nghe trôi dần về một quá khứ xa xôi, đi ngược về nguồn để tìm lại tổ tiên
dân tộc Việt qua sự chuyển dịch của thời gian và quên lãng .

Trong bối cảnh khiêm nhường mà thân mật của chùa Phật giáo Seattle, cử tọa đã đứng dậy và vỗ tay,
một sự vỗ tay không ồn ào và náo loạn như qua một bản new wave, punk hay rock; mà là sự ngưỡng mộ
đầy chân thành và quý mến đối với bs Vọng trong sự về nguồn, về quá khứ của tổ tiên, những tiếng vỗ tay
quyện lấy một niềm bồi hồi luyến nhớ quê hương xa...

Phóng viên Nguyễn tấn Lai @ báo Đất Mới, Seattle / 1983

Nhìn th£ng vào tiếng ViŒt

Theo ông Swadesh, m¶t nhà ngôn ng» học, ÇÙa con nít nào cÛng chÌ cÀn Ƕ 200 tiếng m¶t là Çû nói rÒi !
Theo tôi có lë là ít hÖn n»a. Xin ÇÜa ra Çây vài chøc tiếng Çó :

con, mË, cha, anh, chÎ ...
tr©i, ÇÃt, mÜa, n¡ng, gió, nܧc, m¥t tr©i, m¥t træng, Çêm, ngày, mây, sao,

Çá, cát, sån, bøi, khói, lºa, lånh, nóng, Ãm, mát ...
ngÒi, ÇÙng, n¢m, chåy nhäy,leo, trèo, Çi, bܧc, bò, lết, bay, bÖi, l¶i, ljn, t§i, r© mò,

b¡t, chøp, ôm, gi», nói, kêu, la, hét, cÜ©i, khóc, nhìn, thÃy, nghe, run, s®
æn, uÓng, nuÓt, c¡n, nhai, ngû, hít, thª / lau, chùi, quËt, quét, rºa

tóc, tai, m¥t mÛi, má, c¢m, miŒng, lÜ«i, ræng, râu, lÜng, vai, chân, tay, ngón, móng,
da, thÎt, xÜÖng, máu, mû, m«, trÙng/ bøng, c°, vú
ÇÀu, Çuôi, lông, tóc
mô, tê, ræng rÙa, ni, n§ [riêng cho con nít miŠn Trung]
nhiŠu, ít, còn, có, không, ÇÜ®c, không ÇÜ®c, muÓn, thèm, thích, Üng, Üa, khát,
Çói, chết, sÓng, giết,

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10...
to, nhỏ, dài, ng¡n, trên, dܧi, trong, ngoài, gÀn, xa, Çây, Çó
vuông, tròn, dËp, méo / xanh ÇÕ tím vàng, tr¡ng Çen, xám,
khô ܧt, chäy / ÇÀy, cån, m§i cÛ
chim, cá, chó, chí, chu¶t, mèo... cây, lá, h¶t,

chú š : Çây chÌ là tåm th©i, còn rÃt nhiŠu n»a...nên nh§ là em bé này chÌ m§i 3, 4 tu°i!

RÒi tØ 3 Çến 5 tu°i, em bé nào cÛng biết ÇÜ®c >200 tiếng Çó và tình mË con nÄy nª suÓt Ç©i, rÒi tØ năm

Çến sáu bảy tu°i, h†c thêm Ƕ 300 tiếng n»a là Çû.dùng cho tiếng nói h¢ng ngày cûa m¶t ngÜ©i trung bình

dù là Mỹ, Anh, Pháp, Tàu, ViŒt hay Esquimaux, hay bÃt cÙ ai, dù không Çi học bao gi©. Đó là tôi nhÃn

månh Çến s¿ quan trọng vô cùng cûa mË dåy con, không có cái Çó thì bao nhiêu cái l§p học cÛng vô ích.

Tiếng ViŒt chì l¡m, sau 2000 næm bÎ lŒ thu¶c mà vÅn còn, tØ 1 triŒu ngÜ©i Ç©i Giao chÌ, nay Çã gÀn 90

triŒu ngÜ©i, ÇÙng hàng thÙ 12 vŠ sÓ ngÜ©i nói trên thế gi§i, chÌ thua có 11 nܧc khác là Tàu, ƒn Ƕ, MÏ,

Nam dÜÖng, NhÆt, Brésil, Th° nhï kÿ, Nga, Mexico, ñÙc, Çông ngÜ©i hÖn cä Pháp và Anh [hÒi 1939,

Pháp có 37 triŒu ngÜ©i, ta chÌ m§i 25 triŒu ! ]

Tiếng Tàu rÃt kÿ lå, không ai biết nó ª Çâu mà ra, và thÆt ra có Çến 8 thÙ tiếng Tàu khác nhau, mà chÌ

có ch» viết của nó là thÓng nhÃt thôi. Tiếng Hán ViŒt thì gÀn v§i tiếng Tàu Quäng Çông nhiŠu hÖn chÙ

ch£ng æn thua gì Çến tiếng Tàu B¡c kinh, m¥c dÀu Tàu nó muÓn cái tiếng B¡c kinh phäi là chuÄn cho cä

nܧc Tàu; còn lâu ! Çó chÌ là wishful thinking / nh»ng ÇiŠu nó muÓn cho nó, nói ra nhÜ th‹ thÆt tình có

luôn, chÌ vì ch» Tàu chÌ là 7500 cái hình vë, bi‹u diÍn ra cái š muÓn cûa nó mà nó gọi là cái tØ. ThÆt ra

ch» Tàu làm gì có ch», mà chÌ có nh»ng hình vë, Ç‹ v ẽ ra [sic] nh»ng š nghï cûa con ngÜ©i, thí dø nhàn

là hình vë m¥t træng trong cºa s°, m¡c m§ gì mà phäi hi‹u là nhàn [relaxed]? nếu m¥t træng ngoài

cºa s° thì gọi là gì bây gi© ?!

Không ai biết tåi sao, k‹ cä Kh°ng tº cho Çến Mao tråch Đông.

ChÙ còn tiếng ViŒt ta thì hai viết là hai, ba viết là ba, con nít 6 tu°i cÛng viết ÇÜ®c ngay mà hi‹u ngay,

mà dù có là ông TrÀn trọng Kim Çi n»a thì cÛng không hi‹u gì hÖn ÇÜ®c, cái tính cách hi‹u biết th£ng vào

ch» cûa ch» a b c là nhÜ vÆy [direct and immediate incept]

Các bån có biết là Tàu nó bắt chước mÜ®n đọc theo khá nhiŠu tiếng kh¡p thế gi§i Ç‹ mà nói không?
mà nó cÙ l© Çi làm nhÜ thº là đó là tiếng cûa nó :

inspiration thì nó Çọc là yên sï phi lí thuÀn,
club là câu låc b¶,
Asia [tiếng Hy låp] nó gọi là Á tế Á,
nó dÎch ch» hippopotamus ra hà mã, vì hippo là con ng¿a còn potamus là con sông, thÆt ra Çó chÌ là m¶t
ÇÎnh nghïa [mÜ®n cûa Hy låp] ch£ng xÙng Çáng là m¶t cái tên, cÛng nhÜ nếu ta gọi là ‘con ng¿a nܧc’
ch£ng hån, cÛng may ta không gọi vÆy vì ta làm biếng, b¡t chܧc theo Tàu mà Çọc là hà mã luôn thành ra
cä Tàu và ViŒt ÇŠu ‘bé cái lÀm’!
Cái nghèo nàn cûa tiếng Tàu thÃy rõ khi nó phäi Ç¥t ra nh»ng tiếng m§i cho nh»ng š niŒm m§i.
HÕa tiÍn là cái tên lºa, chÙ thật ra có gì giÓng nhau gi»a cái tên lºa v§i cái missile kh°ng lÒ Çâu?! vÆy mà
bọn ÇÌnh cao trí tuŒ tܪng Çâu là væn minh l¡m m§i dùng hai ch» Çó, chúng nó hÕi ông NguyÍn hiến
Lê...tåi sao låi dùng ch» hÕa tiễn làm gì, nên goi là tên lºa nhÜ chúng tôi [sic]cho nó gọn !.
Nhà học giä miŠn Nam cûa chúng ta bäo v§i chúng nó là : ‘m¶t ngọn Çèn dÀu v§i tia sáng laser Çâu có
dùng chung m¶t tên v§i nhau ÇÜ®c!’

Trong 150 næm vØa qua, NhÆt bän væn minh hÖn Tàu quá nhiŠu nên Ç¥t ra cä hàng chøc ngàn tØ ng»
khoa học kÏ thuÆt rÒi mÃy ông Tàu LÜÖng khäi Siêu và Khang h»u Vy cùng sau này HÒ Thích, chÌ viŒc lÍ
mÍ khuân vŠ Tàu mà xài ké ngon lành Çó thôi , cÛng nhÜ hàng træm ngàn tØ ng» khoa học hiŒn nay trong
tiếng Pháp Anh MÏ là do các nhà bác học Anh MÏ Pháp ñÙc Ç¥t ra ch§ Çâu phäi mÃy ông Hy låp hiŒn
nay sức mấy mà Ç¥t ra Çâu !

Mà Tàu thì lúc nào cÛng khoe là nó không mÜ®n tØ ng» cûa ai mà nói hết, thÆt ra chúng nó vay mÜ®n
nhÜ Çiên, mà chÓi Çó thôi. Còn nhÜ nh»ng ngoåi lŒ vŠ ngôn ng» thì tiếng nói nào chä có. Trong tiếng MÏ
thì wistful và wishful cÛng m¶t nghïa thôi, meat và meet thì chÌ m¶t âm mà viết hai cách Ç‹ có hai nghïa
khác nhau.
Trong ti‰ng Pháp thì roide và raide chÌ m¶t nghïa là cæng, cÙng, hay là gratis và gratuit là free
Trong tiếng ViŒt thì cÛng thế ! có rÃt nhiŠu trÜ©ng h®p nhÜ vÆy, thí dø

viết là m¶t nhÜng cä 40 triŒu ngÜ©i Trung và Nam Çâu có cùng phát âm ? ngÜ©i Trung và Nam thì
phát âm là m¶k mà thôi! ngÜ©i B¡c thì phát âm lÅn l¶n gi»a s và x, gi»a tr và gi [ tuy r¢ng họ vÅn hi‹u
m¶t cách thôi, cÛng may, nếu không thì họ nói là giái cây [fruits] luôn thì nguy quá, ho¥c tìng hìng chíng
chÎ chíng em thì khó nghe quá.

Thành thº, ép bu¶c viết theo m¶t cách thôi cÛng có l®i cho s¿ thông hi‹u, vä låi dù sao thì cÛng là ép
bu¶c, cÛng tåi cø Alexandro de Rhodes mà ra cä vì thÆt tình cø Ãy viết cho ngÜ©i B¡c mà thôi!

B¢ng chÙng Çâu? có ngay! Çây là m¶t trang ÇÀu cûa t¿ Çi‹n cûa Alexandre de Rhodes, ông ta có nói là
viết cho tiếng nói cûa ngÜ©i Çàng ngoài [B¡c kÿ] mà thôi, mà °ng lÀm là tiếng nói Çàng ngoài cÛng là
tiếng nói cûa Çàng trong ! [xem giòng ch» sev tunchinnensis [ # có nghïa là, hay là, ho¥c là, cÛng nhÜ là
tonkin] [sic]

Cái lÀm l§n Çó cọng thêm cái th©i gian hai træm næm nh»ng ch» viết Ãy chÌ lui t§i qua låi trong Çám
tân tòng theo Çåo chúa bl©i cûa ông ta thôi, ch» viết Ãy nhÜ th‹ làm¶t thÙ mÆt mã vŠ tôn giáo, nên không
có änh hܪng cho cä toàn dân, rÒi sau này cÛng ch£ng có tØ Çi‹n nào sºa låi nh»ng sai lÀm Çó trong suÓt
cä 250 næm, nên khi Pháp nó b¡t bu¶c xài ch» quÓc ng» thì cái nguÒn tài liŒu xưa nhÃt vÅn là tØ Çi‹n Ãy vì
vÆy mà cä nܧc xúm nhau låi viết theo lÓi B¡c kÿ trong khi hai phÀn ba dân chúng låi ch£ng Çọc và phát
âm theo lÓi B¡c kÿ m¶t tí nào

hen [gà mái] trong tiếng Anh, tܪng nhÜ không có âm Çó trong trong ViŒt nhÜng mà có, vì ngÜ©i
Quäng trÎ nói là cái

chénh, rÃt giÓng v§i âm này, không có ngÜ©i ViŒt nào phát âm ÇÜ®c âm này, trØ ra ngÜ©i Quäng TrÎ,
Çã lå chÜa?!

ngÜ©i Huế và Saigòn thì nói là cái chéng, âm nghe rất tròn
ngÜ©i b¡c thì nói chén, âm nghe vừa phải
ba miŠn nói ba cách, rÒi thì m¶t miŠn låi nói hai ba cách, m¥c dÀu cÛng viết là chén mà thôi;
còn nhÜ em ngÜ©i hà l¶i [hà n¶i!] thì làm xao mà Çòi thÓng nhÃt và chong sáng cái mÓc xì, ch§ ÇØng nói
chi Çến cái chuyŒn Çòi tiếng B¡c làm chuÄn hay là không chuÄn!
ñó là tåi Al de Rhodes không š thÙc ÇÜ®c r¢ng mÅu âm trong tiếng ViŒt có thÙ Çọc dài, có thÙ Çọc
ng¡n, có thÙ Çọc vØa phäi :

æ không có thÆt, nó chÌ là a mà Çọc ng¡n Çi thôi / thº Çọc ba và b¡c xem !
â không có thÆt, nó chÌ là Ö mà Çọc ng¡n Çi thôi / thº Çọc b§ và bÃt xem !
anh và æn chÌ là m¶t âm thôi, nhÜng phäi viết khác nhau Ç‹ cho nghïa khác nhau !
ngoài dÃu s¡c ra, Çúng ra phäi có thêm m¶t dÃu s¡c ‘cao’ khác n»a Ç‹ phân biŒt hai giọng s¡c vØa và s¡c
cao
thí dø : ánh và ách
/ ܧc và Ùc
/ hát và hách
/ chát và chách
/ mát và mách
/ rát và rách
cÛng thì dÃu s¡c mà giọng cao giọng thÃp khác nhau rÃt nhiŠu, thành thº cái th¿c tế cûa âm ViŒt, mà m¶t
trÈ em nào cûa ba miŠn cÛng dÍ dàng nhÆn thÃy cái khác biŒt ngay, trong khi Çó thì các ông ngôn ng», các
ông væn phåm, các ông tØ Çi‹n låi không thÃy ho¥c có thÃy Çôi chút thì l© Çi vì họ không hiểu ÇÜ®c tåi sao
nó nhÜ thế mà cÛng ch£ng buÒn ÇÜa vÃn ÇŠ Ãy ra m° xë, mà chÌ muÓn xin hai ch» bình yên cho tiện việc
sổ sách cho rÒi!
Låi thêm cái chuyŒn hÕi ngã, họ cÛng lÀm lÅn to!.
Ai cÛng cho là tiếng ViŒt có sáu dÃu giọng huyŠn ngã n¥ng hÕi s¡c không, làm nhÜ th‹ Çó là m¶t cái
khuôn vàng thܧc ngọc [sic]cho cä dân ba miŠn! Làm gì có chuyŒn Çó!
2 phÀn 3 dân ViŒt [nghïa là Ça sÓ] ngÜ©i Trung và Nam chÌ có m¶t giọng cho hÕi/ngã mà thôi, gọi nó là
dÃu giọng gì cÛng ÇÜ®c, nhÜng chÌ có m¶t mà thôi, nên họ không š thÙc, không phân biŒt, không biết
ÇÜ®c là trong tiếng nói cûa họ có cái giọng lÃp láy Çó mà họ cÛng không cÀn biết Çến, họ chÌ phát âm m¶t
giọng thôi, vØa hÕi mà vØa ngã, chÌ nói m¶t cách thôi, không phäi hÕi mà cÛng ch£ng là ngã, cho nên cách
phân biŒt không cÀn thiết v§i họ, viết cách nào thì nghĩa cũng không thay đổi
Tåi sao nhÜ vÆy? tåi vì ông cø Al de Rhodes Çã viết ch» cho tiếng B¡c kÿ mà thôi ch§ không phäi cho
tiếng ViŒt cä ba miŠn, °ng viết cho miŠn B¡c mà thôi [tunchinensis] xem b¢ng chÙng sau Çây, trang mª
ÇÀu thÙ 10 trong tØ Çi‹n cûa °ng có vi‰t ch» l§n và rõ ràng là : LINGUAE ANNAMITICA sev
TUNCHINENSIS brevis declaratio
có nghïa là bän trình bày tiếng An nam hay là tiếng Tunchin [Tonkin/ B¡c kÿ/ ñàng ngoài]
Ổng không biết Çến cái s¿ th¿c nghiŒt ngã cûa dÃu giọng ba miŠn là chúng nó khác nhau rÃt nhiŠu, mà các
ông học giä ba phäi hiŒn nay thì cÙ m¶t m¿c cho là ‘cÛng ÇÜ®c Çi’, thành ra qua hÖn træm næm, ngÜ©i B¡c
trách khéo là tåi sao Trung và Nam låi không chÎu viết hÕi ngã cho Çúng
Tr©i ÇÃt, ngÜ©i ta Çâu có hÕi Çâu có ngã hÒi nào Çâu mà bäo là chÎu v§i không chÎu?!
CÛng nhÜ thÆt là vô lš vô nghïa nếu ngÜ®c låi ngÜ©i Trung và Nam cÙ Çi trách móc ngÜ©i B¡c là tai
sao không chÎu viết và Çọc cho phân biŒt rõ ràng các phø âm / s / v§i / x /
tr v§i gi / gi v§i d mà gÀn 99,9% ngÜ©i B¡c Çọc và viết lÀm!,
họ làm gì có š thÙc phân biŒt ÇÜ®c nh»ng cái Çó [nhÜ là ngÜ©i Trung và Nam] hÒi nào Çâu , cái Çó gọi là
cái gene cûa ngôn ng», không có cái gene Çó thì chÎu thôi, cho vàng Ç‹ Çọc theo ngÜ©i khác cÛng Çành
chÎu thua

cÛng nhÜ có cho vàng mÃy anh ba Tàu cÛng vÅn nói là : mister plesident, I eat fly lice [sic] k‹ cä Kh°ng
tº cho Çến Mao tråch ñông, nếu có sÓng låi Çi n»a! cÛng nói nhÜ vÆy thôi!

Các bån biết không, trong âm R cûa tiếng ViŒt ta có khoäng 500 tØ mà không hŠ có m¶t tiéng hán viŒt
nào chen vào ÇÜ®c.

Tåi sao ? là vì Tàu nó không có cái mà tôi tåm gọi là cái gene / R / .. mà Çã không có cái Çó thì làm sao
có th‹ lÆp l© Çánh l¶n sòng mà chen/xen vào R ÇÜ®c vì vÆy tiếng Tàu, Çành ÇÙng ngoài, ghé m¡t nhìn
chÖi thôi!

Cái âm R , v§i 500 tiếng m¶t b¡t ÇÀu v§i nó, là m¶t b¢ng chÙng hùng hÒn r¢ng tiếng ViŒt không phäi
là chung m¶t giòng họ v§i tiếng Tàu bao gi© cä, m¥c dÀu qua hÖn hai ngàn næm bÎ chèn ép vŠ tiếng nói và
ch» viết, trong khi Çó thì các tiếng nói ª ñông Nam Á, anh em ngôn ng» cûa ta, Ƕ 4 trăm triŒu ngÜ©i,
ÇŠu nói và phát âm R m¶t cách dÍ dàng!

Các bån hãy lÃy bÃt cÙ tØ Çi‹n ViŒt nào mà xem phÀn ch» R Çi, thº xem có m¶t tiếng hán viŒt nào xen
vào trong Çó không? m¶t tiếng cÛng không!
Tính cách Ƕc lÆp cûa vÀn R trong tiếng ViŒt là hoàn toàn ! không chÓi cãi ÇÜ®c, nó nhÜ là m¶t ÇÎnh ÇŠ
cho nh»ng ai hi‹u lÀm vŠ nguÒn gÓc cûa tiếng ViŒt , vÓn Çã b¡t nguÒn tåi chỗ là miŠn ñông nam Á, tØ
ngàn xºa ngàn xÜa, khi Tàu chÜa phäi là Tàu mà ViŒt cÛng chÜa phäi là ViŒt,
khi mà nh»ng š niŒm mãi sau này m§i có nhÜ lÎch sº, væn hóa, væn minh, xã h¶i, th©i gi©, tôn giáo, học
hành, væn chÜÖng cÙ xen vào trong các nhÆn xét vŠ ngôn ng» mà làm sai låc cái nguÒn gÓc thÆt cûa tiếng
ViŒt và nòi giÓng ViŒt Çi, làm cho ta khó mà thÃy rõ cái gÓc gác cûa giòng giÓng ta ª Çâu n»a, làm nÄy
sinh ra nh»ng lš thuyết v§ vÄn và vi‹n vông mà Çã nhÜ là nh»ng khuôn vàng thܧc ng̀ọc gi°m nó làm
cho ÇÀu óc ta quá sai lÀm vì quá tin tܪng vào Çó, nhÜ là m¶t thÙ ‘’kh°ng tº viết ‘’vào m¶t bu°i ch® chiŠu
ế Äm cûa tÜ tܪng.

Mong r¢ng bộ TØ Çi‹n nguÒn gÓc tiếng ViŒt này, v§i 270 ngàn dÅn chÙng vŠ tính cách anh em cûa các
ti‰ng nói ñNÁ, së Çánh gøc nh»ng š nghï sai lÀm vŠ nhiŠu khía cånh thích thú cûa tiếng ViŒt rÒi chuy‹n
hܧng qua nh»ng nhÆn xét Çúng Ç¡n hÖn vŠ nguÒn gÓc thÆt cûa tiếng nói ÇÀu lòng cÛng nhÜ cuÓi Ç©i cûa
ngÜ©i ViŒt chúng ta.

Những chặng đường tiếng Việt

Sau đây là chuyện tình đã lỡ giữa Nguyễn thị Huế và tôi:
“Em đi ngã nớ mà anh tìm ngã ni, ngó đã tội nghiệp chưa tề” !

Nàng lũi như cuốc, tôi tìm không ra là đáng kiếp “tui”, dù cho tui có lui hui lúi húi, lui cui lụi cụi, lui
thui lủi thủi đi tìm đã 27 năm rồi.

Mặc may mô rứa, sau khi lờ anh đã hai ngàn năm, em lại email cho anh một phát, mà lại không bỏ
dấu, vậy mà trúng phóc, phước ba đời nhà anh.

Khi gặp nhau lại, thấy em trổ mã, tui mừng hết lớn, trách em sao nỡ không bỏ dấu, tí nữa thì tui đọc
không ra .. thì em cười trừ

“ tiếng Việt của mềnh dấu mô mà biểu bỏ dấu” ? (làm tui xệ một cây).
-Bây giờ nói chuyện tâm tình đàng hoàng, nghe em…, vậy chớ nguồn gốc em / tiếng Việt, ở mô mà ra
?”
- Con người thì phải có một chỗ mà chui ra chớ .. thì tiếng nói của con người cũng phải có một chỗ
mà ra

- Vậy thì từ khi có con người mình, cái tiếng nói của mình phải đi theo mình chớ ? không lẽ nó đi theo
trai à ?”

- Ờ, anh giỏi đa, đã tìm ra được một manh mối rồi đó”.
Manh mối thứ nhất : con người ở mô, tiếng nói ở nấy”

Giao chỉ hồi xưa là vùng sông Hồng bây giờ.

- Đúng, nhưng ông bà của người Giao chỉ, họ ở đâu?
-Họ gốc ở vùng hạ lưu sông Mã mà tới[xưa là sông mẹ, sông mạ, có nghĩa là sông lớn] quanh vùng

Đông sơn đó… và họ cũng ở vùng sông Cả, cũng có nghĩa là lớn, của Nghệ An .. và họ cũng ở vùng sông
Chu , cũng có nghĩa là lớn luôn [xem nguồn gốc của chữ sụ trong từ điển Nguồn gốc tiếng Việt.]

Hãy nhìn vùng này từ vệ tinh và đừng có tin vào những cái đường phân chia giả tạo ranh giới giữa
các nước. Chỉ có núi sông biển hồ và đất đai là cái thực tại muôn đời phân chia tiếng nói
[đai là tiếng Việt gốc Miên đó các bạn ơi, người Miên nói tức đai thì người Việt nói đất nước, nghĩa
bóng cũng như nghĩa đen luôn, dễ sợ chưa, tức là nước, đai là đất.

Từ Đông sơn Thanh hoá qua vùng Hoà bình, Ninh bình. rồi mới tới vùng sông Hồng, xưa là sông Lô,
sông Cái chứ hồng chi mà hồng !

Lô và Cái đều có nghĩa là to lớn, đó .. cái vùng ấy đã nuôi nấng ông bà của mềnh từ 30 ngàn năm về
trước lận, chớ còn ba bốn ngàn năm lịch sử viết lách trên giấy có nhằm nhò chi mô !

Hãy xem một cái chậu ở Hoà Bình, có tuổi là 30 ngàn năm , hiện để ở Smithsonian đó. Dễ sợ chưa,
đẹp chưa ?

“Huế ơi, em năm nay mấy tuổi mà đẹp dữ rứa” ?
“Anh này kì ! galant thì không được hỏi tuổi người ta nghe”

- Rứa thì tui hỏi tới, ông bà của ông bà chúng ta.. của người ở Hòa bình đó, họ ở mô tới ?
-“Anh cứ hỏi tới hoài thì tui cũng nói tới luôn, thì họ ở đó và xung quanh đó, rồi đẻ con đẻ cháu ra, họ

còn ở khắp vùng Đông nam Á mênh mông và họ nói một thứ tiếng chung mà bây giờ chia ra cả thảy là
176 tiếng nói khác nhau”

[Vậy mà một nhánh nhỏ của nó là tiếng Việt nay đã trổ mã ra 90 triệu người, đông thứ 12 trong số các
tiếng nói của loài người đó, ngon lành không, và đã lan ra khắp thế giới, kể từ ngày miền Nam không còn,
tiếng Việt đã có tầm vóc quốc tế rồi, có nghĩa là đi đâu khắp thế giới cũng nghe thấy nó].

- Em muốn cho anh hiểu, mà này, anh có hơi chậm hiểu đó nghe anh.. rằng ta đừng có bị cái gông cùm ý
nghĩ làm cho ta “đụt” đi, không còn suy nghĩ đúng đắn nữa,

Ta cứ tưởng rằng người Giao chỉ thì nói tiếng Giao chỉ, người Đông sơn thì nói tiếng Đông sơn, người
Tàu thì nói tiếng Tàu, Pháp thì nói tiếng Pháp [sic]
[thật ra thì ai cũng biết là người Pháp nói một hình thức của tiếng La tinh, đâu có nói tiếng Gaulois nữa

!]
Người Việt mình thì khác hẵn, vẫn còn nói tiếng của ông bà từ mấy ngàn năm nay
Người Tàu thì nói một thứ tiếng có gốc gác nơi tiếng Tạng, tiếng Mãn châu, tiếng Mongol xưa và tiếng

Hồi / miền tây của Tân cương bây giờ … và một điều bí mật đang được bật mí lần lần, tiếng Tàu đã , qua
ba bốn ngàn năm mượn khá nhiều các tiếng một của các dân tộc ở miền nam sông Dương tử mà nói mà
rồi cứ khăng khăng cho là của họ, không chịu nhìn nhận là đã mượn tạm rồi lờ đi.

Cho nên mãi đến bây giờ qua bốn ngàn năm mà vẫn còn 7, 8 thứ tiếng Tàu khác nhau, không hiểu được
nhau, phải viết mới hiểu nhau được, nghĩ có chán không ?

- Thôi em ơi, nói chuyện Ba Tàu nghe chán quá, nói lại chuyện tiếng Giao chỉ nghe sướng hơn.
- Thì rứa đó, qua mấy ngàn năm, ông bà chúng ta, qua tiếng nói của bà Trưng bà Triệu, xuống đến Trần

hưng Đạo, Lê Lợi, rồi đời con đời cháu đời chắt, đời chiu, đời chit luôn , rồi cho đến nay, 2012, đi rải rác
khắp thế giới mà vẫn còn nói tiếng nói cũa ông bà cha mẹ đó, mà chỉ có thay đổi chút đi thôi,

“Em nói anh nghe “đã” lắm, nhưng mà bằng chứng có nhiều không” ?
Một đống bằng cớ nhét đầy họng anh luôn. Nè ! người tiền Việt là người Mường , có phải không ? Phải,

vậy thì hai bà Trưng là người gì ? nếu không là Giao chỉ thì cũng là Mường thôi, dù là nhánh Mường nào
đi nữa trong số 17 nhánh Mường.

Mà anh có biết Mường họ cũng có chữ viết riêng từ đời xửa đời xưa không?

-Thật không, hay em tính chọc quê anh đó ?
Không, em nói thiệt đó, xem đây một tuồng chữ xưa của người Mường người Thái ở miền nguồn của ba
tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh [tài liệu nghiên cứu của tác giả , có thêm phần trích dẫn tài liệu Nguyễn đổng Chi
và Trần trí Dõi]xem hình trang sau

- Sao giống như nhền nhện ?!
- Cũng có hơi giống, vì đó là tuồng chữ xưa của ông bà, ý nghĩa của hai chữ nôm na là như vậy đó

[vernacular, demotic, old writing]
Nôm cũng như Na đều có nghĩa là xưa, cũ, đã có từ lâu , chứ không phải là “nam”. Người Tàu xưa

khi thấy tuồng chữ ấy, không hiểu là gì nhưng khi nhìn thì thấy nó` giống như con nòng nọc nên gọi nó là
khoa đẩu / khwa-tow là con nòng nọc, tiếng Tàu. Chứ còn nôm không phải là nam mà ra…đâu, nhưng
các ông Hán Việt đã hiểu lầm từ ngàn năm nay.rằng nôm là nam [sic]

Cách viết tuồng chữ này còn tiến bộ hơn lối chữ abc của La mã nữa vì nó là syllabic nghĩa là viết sao
đọc vậy theo âm tiết trong khi tuồng chữ abc thì vô nghĩa khi viết hay đọc ra thì mấy con chữ a…b ..c..
bơ vơ một mình, như cái xác không hồn]

Cách viết này bắt chước theo tuồng chữ xưa của Ấn độ gọi là chữ devanagari [xứ của thần thánh] mà
tất cả các dân tộc đông nam Á đều bắt chước viết theo [Lào, Thái, Khmer, Myanmar, Burma, Bali, và cả
Chàm và Giao chỉ và Mường xưa nữa]

rồi sau đó nó mất dần đi vì khi chỉ một mình Việt xưa của ta bị bọn Tàu vừa đô vừa hộ, cấm dân ta
viết chữ khoa đẩu [theo nhận xét của nhà bác học Trương vĩnh Ký] và ép dạy cho ta chữ của chúng nó
qua một ngàn năm rồi sau đó ta mới đặt ra chữ nôm.

Còn cái chữ Tàu thì chỉ là những hình vẽ phải ép đọc và ép hiểu, mãi đến nay vẫn là một cái gông cùm
tư tưởng bằng đá
[a millstone around their neck] cho bảy tám thứ tiếng Tàu không hiểu nhau được của hơn ngàn triệu
người Tàu khi nói với nhau.

-Anh chịu thua em rồi đó…hiểu không nổi
-Không nổi thì cho anh chìm xuồng luôn, người chi mà cái mặt thì khá mà cái má chữ nghĩa thì buồn

hiu [tiếng Huế nói vậy đó] cứ nhìn vô mấy mẫu chữ xưa này thì biết liền, có chi mô nờ”

-Thôi mà em, tội nghiệp anh
Nàng háy tôi một phát :

”cho đáng cái bản mặt , mấy ngàn năm ni chạy theo mấy con đĩ Tàu, rồi may cái áo nôm mà mặc vô cho
tui, rồi đi nói tiếng tây bồi tây bút, rồi làm mọi cho ba tàu lần nữa, rồi làm bồi cho mấy thằng Nga , Tàu,
mấy thằng Cuba đói rách”

- Ê khoan khoan, đừng nói anh nghe, anh đây vô can, làm ăn và sống theo ông bà lương thiện mà em !
-Thì tui cũng tha thứ cho anh một lần, coi đây nè…

[Mình nghĩ thầm : coi xong mấy chữ này, muốn túi mắt túi mũi luôn, thì ra mấy lâu nay mình rớt xuống
giếng như một thứ con ếch văn hoá, khung trời hiểu biết nhỏ hơn cái miệng giếng, thôi đành xưng tội lần
nữa, xưng với em cũng “đã” lắm, xưng với ai đâu mà xệ !]

-Thôi đừng có ví von nữa, lo mà đánh vần lại tiếng Việt đi, kẻo mà chim bay về núi túi rồi, anh không
toan liệu mà anh ngồi rứa răng.

- Lạy em cả tơi cả nón Huế, anh sức nghỉn mô còn nữa mà đánh với đá.
“ Anh răng túi dạ rứa, nghe nói anh học sáng lắm mà, đánh đây là đánh cái vần, đánh cái nghĩa, cũng
như đánh một sợi dây chuyền hay đánh một cái khăn đóng,
“tiếng nói của ông bà mình rất là cao sâu về ý nghĩa, nếu anh biết được năm ba chữ Pháp chữ Anh thì
anh có thể dịch ra là :
to spell, to fit together, to match up, to fashion, to assemble, to construct, to shape up, to fabricate, to
model, to to appariate, to adapt, to form, to mould , to accord, to suit together, to adjust, to harmonize …
chứ còn chữ Tàu có vần mô mà đánh với đá”

Thôi thôi, xin em, can em, you tha “me” nghe “you” ?! anh biết em zồi, chịu thua em zồi từ lâu zồi, em là
xố zách, em có ní nắm.

- “Anh thì cứ nói xà đùa, xà oà xá óa cho qua chuyện, cái chuyện nguồn gốc của anh em mình là lôi thôi
lắm, chứ không phải như mấy ông Hán Việt ba xạo nói là tiếng Việt từ tiếng Tàu mà ra, người Việt cũng
từ người Tàu mà ra, rồi khi “đủ điều kiện thuận tiện thì trở thành người Việt luôn, nói tiếng Việt luôn”
[sic]

-Trời đất, ui chao, ai mà ăn nói kì cục zậy hả em ?
[Nói nhỏ, thấy cái miệng em Huế thương lắm, cứ ưng cắn một cái hai cái, mà sợ em cắn lại cho hai ba

cái, rồi mình chịu hết nổi, sức nghĩn mô nữa mà học chữ khoa đẩu với em, thì mình mất cả chì lẫn chài…
nên chịu phép ngồi nín khe như con cá nghe kinh của Chu mạnh Trinh ... mà nghe em giảng bài…nghe
giảng không ngán mà ngán cái vụ em “bắt trả bài” thì ớn vì cô giáo quá dễ thương!]

Tiếng Việt cả hồn lẫn xác

Abugida là một tiếng Phạn có nghĩa là cả hồn lẫn xác
Ta thường nói : bài viết có hồn, hồn thơ lai láng, linh hồn, hồn thiêng sông núi, thoát hồn,

hoàn hồn, nhập hồn, cầu hồn, gọi hồn, cô hồn, vô hồn, không hồn …
Hồn là cái tư tưởng, mượn cái âm thanh là xác để nhập vào và sinh ra cái tiếng, cái tên gọi,

cái từ
Không hồn hay không xác thì chả ra cái gì, có hồn không xác thì ai biết cái hồn cho, có xác

không hồn thì cũng bỏ đi
Mọi ý niệm tôn giáo đều phải nhắc đến cái hồn, huống gì là những ý niệm về ngôn ngữ
Tiếng Việt là con đẻ của mối tình giữa nàng Nguyễn thị Hồn Việt [tư tưởng Việt] và chàng

TrầnThanh Việt [âm thanh Việt] sinh ra cả thảy 12,206 tiếng một là đám con cháu từ mấy chục
ngàn năm về trước, và đại gia đình này đã sinh thêm ra chừng 100 ngàn tiếng ghép cháu chắt,
chắt chiu, rồi chiu chít qua mấy trăm đời và mấy ngàn năm giòng giõi

Mãi gần đây, chỉ mới cách đây 2000 năm thôi, qua mối lái của tiếng Tàu có nuôi thêm 2734
đứa con nuôi gốc tiếng Tàu và gần đây hơn nữa có cho mượn thêm chừng 500 người giúp việc
tiếng Tây tiếng Anh Mỹ để cho hợp với đòi hỏi mới của khoa học và chuyên môn thế kỷ vừa qua
vì chúng nó vượt trội hơn mình.

Cái hay của tiếng Việt, linh hồn và xác của dân Việt là rât “mắn” đẻ con :
Nói có 600 cách nói
lời có 42 cách đưa lời
tiếng có 146 cách lên tiếng,
giọng cũng không chịu thua, có ít nhất là 55 cách nói về đưa giọng và nhấn giọng

Cả mấy tiếng một đó cọng lại có chừng gần 1000 cách nói phô, phô bày, bày tỏ tư tưởng, ý
nghĩ của người Việt trong khi tiếng Pháp chỉ có nhiều lắm là chưa tới 200 cách để làm cái
chuyện đó và tiếng Anh Mỹ cũng chừng ấy thôi

Vì là một sinh ngữ có cả xác lẫn hồn / abugida / , có dời sống riêng biệt nên tiếng Việt luôn
luôn lột xác, có những tiếng xưa không ai nói nữa [cổ độ thệ thủy, thanh thủy, thu thủy,… hàng
ngàn những tiếng như thế]

- có những tiếng rất cần nói , rất dễ nói, nói rất thoải mái, như là ăn uống chạy nhảy, ỉa đái
leo trèo tay chân mặt mũi ... không bao giờ vô dụng, hàng chục ngàn những tiếng như thế

- có hàng ngàn những tiếng Tàu con nuôi giờ đã bị cho ra rìa vì nghe ẹ quá, đâu ai muốn
nói đến:

- khoa đẩu, tri thù, hồ điệp …

- có những tiếng con ruột cũng bị lơ là : ốt dột, chừ răng, mựa có lo chi, v.v..

- có những tiếng mới học mót theo Tàu và Nhật cũng bị vất bỏ như là : yên sĩ phi lý
thuần, á tế á, thượng uyển, yên chi thảo, Pháp lang sa, Anh cát lợi, Cựu kim sơn …

Tại sao thế? Tại vì cái đám người dân Việt tầm thường đi cày đi cấy đi buôn đi bán mới thật là
đang xét xử, cầm cân nảy mực, cân nhắc, so đo và tính toán cho mọi tiếng nói của dân Việt ..
chứ không phải là những nhà văn, nhà trí thức nhà chuyên môn, nhà học giả nào mà làm được

cái đó cả. Họ nói tiếng Việt và cùng lúc đó họ đóng góp cho tiếng Việt có một sức sống bền bĩ,
chứ không phải là những tác phẩm văn học mà làm được cái việc sàng sẩy đó
Chuyện Kiều khá hay ho, nhưng giờ đây cả mấy ngàn tiếng Tàu điển tích và văn chương khách

sáo trong đó đã khôngđược người Việt xài và dùng mà nói nữa
Vậy mà vẫn còn lại chừng 10000 cái tiếng Việt từ muôn đời được nói thoải mái được dùng để
nói hằng ngày với cái cách nói phô rất dặc biệt của tiếng Việt mà không một ngôn ngữ nào
giống nó cả :
ăn cơm ba chén lưng lưng, uống nước cầm chừng để bụng thương anh
rượu là cơm bữa, gái là bướm đêm
trời mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ, anh thương một người có mẹ không cha.
lạt mềm buộc chặt, già néo đứt dây …

Cái túi khôn của tiếng Việt là ở đó !

Hiểu lầm về nguồn gốc tiếng Việt

Sau Çây là m¶t vài cái mà mÃy ông khäo cÙu nói bÆy!
MÃy °ng nói là ngÜ©i MÜ©ng chÌ có ª trên vùng ÇÃt ViŒt mà thôi!

ThÆt ra có ngÜ©i MÜ©ng ª tuÓt bên B¡c Lào lÅn l¶n v§i ngÜ©i Mèo và Khå mu
MÃy °ng nói ngÜ©i ViŒt thì ª trên ÇÃt ViŒt mà thôi!

ThÆt ra Çã tØ lâu có ngÜ©i ViŒt ª bên Cao ly [Ç©i nhà Lš].
Ngoài ra còn có ngÜ©i ViŒt ª bên Lào tØ lâu, bộ tộc người Yuon, Çó là chÜa k‹ gần 3 triŒu ngÜ©i ViŒt

kh¡p thế gi§i tØ sau 1975
Sau Çây là nh»ng ÇiŠu mà mÃy ông học giä Tàu và ViŒt nói tÀm bÆy

MÃy °ng nói là ông bà mình gÓc ª hÒ ñ¶ng Çình và gÓc tØ dân Yueh ª Triêt giang bên Tàu !
ThÆt ra xem bän ÇÒ hÒ ñ¶ng Çình thì biết, quanh hÒ này chÌ có ngÜ©i Mèo / Hmong ª Çã tØ lâu mà có

ai dám baÕ là ngÜ©i Mèo là ông bà ngÜ©i ViŒt Çâu?!
Ngoài ngÜ©i Mèo và ngÜ©i Yao và ngÜ©i Zhuang ... Çâu có ngÜ©i ViŒt nào bên Tàu? NgÜ©i Mèo

ngÜ©i Yao còn Çó, không lë ngÜ©i ViŒt låi không Ç‹ låi dÃu vết nào cä ?
Dọc theo sông HÒng hà, ngÜ©i Yao và ngÜ©i Yi ª "tràn Çìa"! [xem bän ÇÒ] không lë låi coi họ là

‘không có m¥t’ trong cái phÜÖng trình : ngÜ©i ViŒt là ai ? mà chÌ Çi vọng ngoåi cái giÓng dân Yue nào
Çó ª Çâu Çâu bên Tàu.

Có chØng 500 tiếng ViŒt b¡t ÇÀu b¢ng âm / R / mà không có tiếng ‘hán việt’ nào trong Çó cä!, vì Tàu
nó không có nói R ÇÜ®c ! [ nó nói I eat fly lice / tôi æn cÖm chiên !].

Tr©i ÇÃt, vÆy thì làm sao mà tiếng Tàu sinh ra tiếng ViŒt cho ÇÜ®c! trong khi Çó thì tÃt cä các dân t¶c,
b¶ låc ñông nam Á ÇŠu phát âm R m¶t cách t¿ nhiên và dÍ dàng!

Ông Maspero nghiên cÙu vŠ ngôn ng» rÃt sâu r¶ng và cho là tiếng ViŒt gÓc Thái xÜa. ñiŠu này Çúng
m¶t phÀn l§n vì hiŒn nay có 46 % tiếng ViŒt là ÇÒng nguyên v§i tiếng Thái ! NhÜng còn Ça sÓ 54 % còn
låi thì sao? không thÃy ông Ãy nói gì!

RÒi m¶t sÓ ông ngôn ng» khác låi cho r¢ng không phäi thế, tiếng ViŒt là gÓc Mon Khmer vì có 36 %
tiếng ViŒt là ÇÒng nguyên v§i tiếng Mon Khmer.

VÆy thì 64 % còn låi thì gÓc gì ?! cÛng không nghe mÃy ông kia giäi thích tåi sao?!
RÒi gi© Çây thì mÃy °ng bäo tiếng ViŒt là gÓc Austro Asiatic m§i Çúng [sic] theo Haudricourt và nhiŠu
ngÜ©i n»a

NhÜng mà cái gÓc Ãy là gì m§i ÇÜ®c chÙ? Nó rÃt rÃt mÖ hÒ [miŠn nam cûa Asia]! miŠn này có cä træm
vùng nói tiếng khác nhau mà ch£ng æn nhÆp chi v§i ViŒt cä / các °ng låi không cho tiếng Lào Thái vào,
dù là họ cÛng thu¶c vŠ nam Á chÙ b¶ họ là Phi châu à ?!

Các °ng låi cÛng không cho tiếng Chàm và Malay vào Çó, ch§ b¶ nó là tiếng Úc châu sao?!
Trong khi Çó thì có Çến 22,9 % , 2871 tiếng Chàm lÅn l¶n vào trong tiếng ViŒt cûa ta!

Tåi sao låi không Çi tìm cho hết nguÒn gÓc ÇÒng nguyên cûa tÃt cä các tiếng m¶t ViŒt mà ta thÜ©ng
nói [chØng 10 ngàn tiếng] mà không ÇÜ®c bÕ sót m¶t tiếng nào! rÒi thì sau Çó phân tích ra m§i biết ch¡c
chúng nó là gÓc nào.?

B¶ TØ Çi‹n ÇÒng nguyên ViŒt-ñông nam Á Çã làm ÇÜ®c viŒc này, sau 22 næm tìm tòi và Çã tìm ra
nh»ng s¿ kiŒn sau Çây:

1/ Không m¶t tiếng Việt nào mà không có nguÒn gÓc, tØ a Çến y‹ng
2/ Mọi tØ ÇŠu có m¶t vài cho Çến 40 ÇÒng nguyên khác nhau [xem các tØ chân / tay / chim / chu¶t /
cá...] chÙ không phäi m¶t vài nhÆn xét lÈ tÈ và nghèo nàn nhÜ trong các bài nghiên cÙu tiếng ViŒt cûa các
°ng tØ trܧc Çến nay.

Nói chung thì tiếng ViŒt ÇÒng nguyên v§i tiếng Thái Lào tØ # 36% Çến 46%

v§i tiếng Khmer # 28% đến 36%

v§i tiếng Chàm # 15 % đến 32%

v§i tiếng Mòn bên Myanmar # 9 %

HÒi nào Çến gi© không ai cho là tiếng Chàm chia xÈ cái gì v§i tiếng ViŒt cä, m¥c dù cái th¿c tế cûa Ç©i

sÓng dân ViŒt và nܧc ViŒt ÇÀy dÅy nh»ng cái hŒ løy mÒ hôi nܧc m¡t và máu v§i dân Chàm và ÇÃt

Chàm!

K‹ cÛng lå. ai cÛng muÓn chÓi bÕ s¿ th¿c tế mà Çi lÖ mÖ v§i nh»ng cái lš thuyết viÍn vông; nhÜng

khoa học không cho phép nói lên nh»ng ÇiŠu mÖ hÒ viÍn vông, mà khoa ng» học cÛng là m¶t khoa học

d¿a vào s¿ kiŒn có th‹ Çếm, thÃy rõ chÙ không d¿a vào nh»ng nghe nói và nh»ng phÕng Çoán tào lao*

S¿ th¿c là Çã có nhà ngôn ng» học nào, tØ trܧc Çến nay, Çi tìm hi‹u nguÒn gÓc cho tiếng ViŒt mà

không bÕ sót nguÒn gÓc của m¶t tiếng nào cä.không? ChÜa có ai, chÜa hŠ có m¶t ai, dù là Maspero,

Logan, hay Haudricourt ...!

VÆy mà quy‹n tØ Çi‹n này Çã làm được cái viŒc Çó, trọn vËn, ÇÀy Çû, không thiếu m¶t tØ m¶t ch» nào,

và không hŠ d¿a vào m¶t lš thuyết nào, dù hay ho hÃp dÅn Çến Çâu, mà chÌ d¿a vào cái th¿c tế so sánh

cûa # 10000 tiếng/ tØ ViŒt, so sánh, Çọ, ÇÃu, thº sÙc v§i chØng # 250 ngàn tiếng một ÇÒng nguyên cûa

cácngôn ngữ chung quanh tiếng ViŒt.

`Hình thái cûa tiếng ViŒt

Các nhà ngôn ng» học thÜ©ng cho là tiếng ViŒt không có hình thái [sic], còn các tiếng Pháp Anh v..v..
thì có.

Thí dø: Pháp có indéfinissable, Anh có paradoxically...
ThÆt ra, hình thái tiếng ViŒt có ...và có rÃt tinh vi và có rÃt nhiŠu, rÃt phÙc tåp, rÃt Ça dång, m¥c dù là
tiếng Ƕc âm:

ch¶p [to catch]~ th¶p
trÜÖng ra...træng ra [tiếng Huế] # giæng ra [tiếng B¡c]
chÆn låi...ch¡n låi
chÖ hÖ ch»ng hºng...s»ng s©
chÒm h°m... chòm hÕm, chÕm hÕm
can ngæn / cän ngæn
Vì tiếng Anh Pháp ... không có giọng, không có ǰi phø âm Ç‹ thay š nghïa nhÜ tiếng ViŒt nhÜ nh»ng
thí dø trên Çây!
Họ d¿a vào affix, prefix, suffix, infix mà ghép thêm Ç‹ tåo ra tiếng m¶t còn ta lÃy ngay các phø âm mà
thay ǰi hình thái:
bËp, dËp, chËp, lép, mËp, nép, rËp, hËp, xËp, xép
chết và giết [làm cho chết]
hay là ta ǰi dÃu giọng: lim, lìm, lìm, lÌm, lÎm [ÇŠu có nghïa hÖi khác nhau chút thôi]
Ta cÛng có infix chÙ! Xin hãy xét các thí dø sau:
chæm ~ ch¢m hæm
ganh < cành nanh, Çành hanh
x°m, chÒm ~ chÒm h°m
trën # bën lën
ch© # x§ r§
chÖ hÖ ch»ng hºng # s»ng s©
Họ cÛng có tiếng ghép nhÜ ta:
grammaticalement, unconstitutionally là gì nếu không phäi là ghép, dù có viết dính vào nhau hay không
cÛng thế thôi. Còn ta thì chæm chú, chæm nom, chæm sóc, sæn sóc, sæn Çón, to l§n, xa xôi v..v..
Cä mÃy chøc ngàn tØ ghép đôi Çó , dù ta viết r©i ra, chÌ khác có thế thôi. Ta thì ghép Çôi ghép ba ghép
bÓn, họ ghép tØ 2 Çến 3, 4, 5 tØ gÓc låi v§i nhau.
Họ cÛng có queer funny # ghép Çôi.
Tiếng Pháp cÛng có hàng ngàn tiếng ghép Çôi nhÜ vÆy [attrape-mouches, avant-propos, ...]
Ta thay ǰi dÃu giọng chút ÇÌnh là ta thay ǰi hình thái chút ÇÌnh và cÛng là cách thay ǰi š nghïa chút
ÇÌnh luôn!
Đo ÇÕ, chÀm chÆm, tim tím...cä ngàn cách thay ǰi hình thái Çó chÙ!
Khi ta Çäo ngÜ®c hai tiếng, có th‹ làm cho š nghïa khác Çi [tiếng Âu MÏ không có Çäo ngÜ®c, thế thôi].
Xa cách là nghïa bóng /cách xa là nghïa Çen, cÛng là m¶t cách thay ǰi hình thái mà họ không có Çó thôi!
Khi ta ghép hai tØ låi khác chÙc næng væn phåm thì š nghïa cÛng thay ǰi:

rung chuông [to ring the bell]
khác v§i rung rinh [shaky / branlant]
và khác v§i chuông rung [th‹ thø Ƕng]
Khi thay ǰi phø âm cùng một nhóm, š nghïa cÛng ǰi:
chuyŒn [story] khác v§i truyŒn [novel, history]

Tiếng Anh cÛng thế: story khác v§i history [a big story!] dù cùng m¶t nguÒn gÓc!
Tiếng Pháp do La Tinh mà ra nhÜng cÛng ǰi khác š nghïa m¶t khi hình thái thay ǰi:

cheval / cavale
chevalier / cavalier

chevalerie / cavalerie
chevauchée / cavalcade ...
ThÆt ra, tiếng ViŒt dù là nhiŠu ÇÖn âm hơn nhÜng mọi tiếng ÇÖn âm Ãy cÛng có hình thái cûa nó và thay
ǰi luôn qua chiŠu dài lÎch sº cûa các ngôn ng» ÇÒng nguyên [cognatic languages].
Thí dø: muÓi < mói < boi < amboi < ambol < ampÖl < ampil [chuy‹n biến qua tiếng
ViŒt...Chàm...Khmer khác gì [salt/ sel ] chuy‹n biến Çâu!
Thái: kluk klæk ~
ViŒt: lúc l¡c [!]
CÛng thế thôi, ai dám bäo là hình thái không hŠ thay ǰi?
Tiếng ViŒt là m¶t sinh ng» 100% và hình thái thay ǰi hoài mãi vì vÆy mà có Çến ba miŠn tiếng ViŒt
nói khác nhau dù nó s© s© ra Çó!
Khuynh hܧng thay ǰi hình thái còn nhiŠu và månh hÖn là trong các tiếng Pháp Anh, họ phäi mÃt mÃy
træm næm colour m§i ǰi ra color .
Trong khi Çó thì hiŒn nay cä mÃy chøc triŒu ngÜ©i B¡c nói là:
zung zing, tìng hìng chíng chÎ mà mÃy chøc triŒu ngÜ©i Trung và Nam dù có muÓn b¡t chܧc nói theo
cÛng không ÇÜ®c. Cái lÜ«i và các cái genes æn nói cûa ba miŠn khác nhau nhiŠu quá, cÙ chuy‹n mình

hoài, và së không bao gi© chuÄn hóa ÇÜ®c vì tính chÃt næng Ƕng cûa m¶t tiếng nói rÃt là sinh ng» / sÓng

Ƕng nhÜ là tiếng ViŒt cûa chúng ta!
TØ khi có hai miŠn, Çàng trong và Çàng ngoài, tØ 1556, gÀn næm thế k› rÒi thì tiếng ViŒt ba miŠn thay

ǰi hình thái và š nghïa rÃt nhiŠu, ông Maspéro Çã nghiên cÙu nhiŠu vŠ hiŒn tÜ®ng này cä 100 næm vŠ
trܧc.

So sánh v§i các ngôn ng» Lào, Thái, Chàm, Khmer, Malay ta cÛng thÃy hình thái tiếng ViŒt thay ǰi
nhiŠu, khi ta so sánh nh»ng t° h®p ÇÒng nguyên cûa chúng nó.

ch¥p ...chøp...th¶p
Çay < tay
chân < chÖng
chu¶t / trâu / cọp / mèo / rÒng / r¡n / ngựa , dê, khỉ, gà / chó .., heo / lợn.
Ta gọi là inter linguistic morpheme change.
Thí dø: research [English] và recherche [Pháp]
Có cä hàng ngàn trÜ©ng h®p nhÜ thế trong tiếng Anh-Pháp, cÛng nhÜ hàng chøc ngàn c¥p tiếng [word

pairs] nhÜ thế gi»a các ngôn ng» anh em nhÜ: Khmer-ViŒt-Thái-Lào-Chàm-Malay.

Các nhà ngôn ng» Anh Pháp vÅn chÜa š thÙc ÇÜ®c quan trọng cûa classifiers [tiếng phân loåi] trong
tiếng ViŒt vì họ không có hình thái Çó, nên họ lúng túng trong khi nghiên cÙu và tìm hi‹u hình thái tiếng

ViŒt [mùi thÖm, mùi thÓi ...chó nhà, chó sói ...] nên họ vÅn hi‹u lÀm là tiếng ViŒt không có hình thái thay
ǰi nhÜng mà ông Terrien de Lacouperie , cách Çây 100 næm, Çã bác bÕ quan niŒm sai lÀm cûa họ.

Ông Ãy bäo r¢ng: "Không có tiếng nói nào là ÇÖn âm tØ lúc khªi ÇÀu cä, ch£ng qua là Çã bÎ ÇÖn âm
hóa lÀn lÀn qua th©i gian, không gian và nhân gian, qua s¿ nhÀm lÅn gi»a cái ch» viết và cái âm phát ra
không bao gi© ÇÒng dång ÇÜ®c."

@ La Chine avant les Chinois
Và cái ch» viết Çã Çánh lØa và làm thÃt vọng cái âm / cái tØ / cái tiếng, nhÜ m¶t cái áo quÀn không bao
gi© vØa v¥n cho thân hình l§n nhanh cûa m¶t sinh vÆt dÆy thì!

Låi n»a, m¶t tiếng ViŒt có th‹ vØa là Ƕng tØ, vØa là danh tØ, vØa là tïnh tØ / trång tØ nên làm cho họ
tܪng lÀm là thiếu hình thái Ça dång nhÜ tiếng nói cûa họ.
ThÆt ra, trong tiếng Anh Pháp thiếu gì nh»ng trÜ©ng h®p tÜÖng t¿:

[to kick và kick] [baiser, un baiser]
Cä ngàn tiếng nhÜ vÆy, hình thái có thay ǰi gì Çâu?
ñiŠu bÃt ng© nhÃt là hiŒn nay theo The Cambridge Encyclopedia of Language, ông David Crystal xác
nhÆn là tiếng Anh là m¶t tiếng ÇÖn âm phÀn nhiŠu, 51%, chÙ không phäi là Ça âm nhÜ ta tܪng, nói chi
Çến tiếng ViŒt!
Nói chi Çến nh»ng quan niŒm sai lÀm và lỗi th©i vŠ s¿ thiếu hình thái [sic] cûa tiếng ViŒt !

KHÚC NHẠC ĐỒNG QUÊ

Nếu ta chịu bỏ công và thì giờ đi từ Bắc vô Nam, từ Lạng sơn Cao bằng xuống lần lần qua từng làng xã,
quận huyện mà vào tuốt tận mũi Cà mâu rồi sang từng làng xã Hà tiên Rạch giá… tại mỗi nơi ta ghi âm
tiếng nói của người ở đó, ghi chừng 200 tiếng thường nói hằng ngày như là : ăn ngủ chạy nhảy leo trèo,
tay chân mặt mũi, to nhỏ lớn bé, lâu dài xa gần, lên xuống qua lại v.v.. ta sẽ có đuợc hàng ngàn
nhưng "mẫu ghi âm" như thế để so sánh và nghe đuợc khúc nhạc đồng quê của tiếng Việt ba miền.
Nó như là một chuỗi âm thanh không âm nào giống âm nào mà cái nhìn chung thì cho đó là tiếng Việt ba
miền, nhưng trong mỗi miền lại đã có hàng trăm cái giọng khác nhau với ít nhiều hiểu đuợc hay không
hiểu.

Điều này không lạ gì, vì tiếng nói nào cũng như vậy, tiếng Tàu, tiếng Tây, tiếng Anh Mỹ … nhưng
người ta có nghiên cứu nhiều về chuyện đó, còn người Việt mình thì chưa có ai làm cả, cho đến nay.

Vì vậy sinh ra nhiều sự hiểu lầm về tiếng Việt ba miền, người thì nói là chỉ có một thứ ngôn ngữ cho
ngưới Việt, kẻ thỉ bảo là cách một rặng núi đã không hiểu nhau nói chi đến tiếng Việt Cà-mâu đem so với
tiếng Việt ở Lạng-sơn.!

Có thật là cam quýt trồng chỗ đất này thì ngọt, chỗ kia thì chua nhưng cam vẫn là cam, quýt vẫn là
quýt không ? Có thật là có một cái gì bất biến gọi là cái muôn đời của tiếng Việt không ?

Cái mà ta gọi là nguồn gốc đó có thật không? hay chỉ là một cách nói để che đậy cái thiếu hiểu biết của
chúng ta về tiếng Việt?

Nếu bảo rằng người Việt gốc từ dân Yueh bên Tàu thì tại sao bây giờ chả ai biết dân Yueh nó nói tiếng

gì?
Nếu bảo người Việt gốc Thái ? theo Maspero thì tại sao trong tiếng Việt có đến 28% tiếng Mon và

Khmer trong đó ?
Nếu bảo người Việt thuộc gốc Mon Khmer [các nhà ngữ học đa số theo thuyết này] thì tại sao lại có

42% tiếng Thái Lào trong tiếng Việt ?
Nếu bảo người Việt là gốc Austro Asian thì nào có khác gì bảo tiếng Pháp thuộc gốc Âu châu ! hay là

con cá nó sống vì nước!
Thành thử ta phải xét đến cái nguồn gốc đa dạng của tiếng Việt mà chớ vội cho nó vào một ngồn gốc

nào sớm quá.
Trước hết ta phải tìm cho ra nguồn gốc của từng tiếng một : chim, chuột, cá, cây, lá, mèo, chó, đi

đứng chạy nhảy…
Phải tiếp tục tìm cho ra hết, không bỏ sót một tiếng Việt nào, dù là địa phương hay xưa hay ít nói …

chúng nó có cả thảy 27400 tiếng [đon, kép, ghép hai, ghép ba, ghép bốn]. Sau khi xong, phải đếm xem
tiếng nào có nhiều nguồn gốc nhất {đó là lá / leaf, leaves], nó có đến 58 tiếng nói khác ở Đông nam Á
cũng phát âm như vậy và cũng hiểu là lá !

Rồi thì đếm xem có bao nhiêu ngôn ngữ lớn nhỏ [nhiều hay ít người nói] đã dự phần, chung dòng
chung gốc, chung nguồn chung cội với chừng ấy tiếng Việt : thưa , cả thảy là 58 tiếng nói. Rồi thì hãy
làm bản đồ xem thử chúng nó ở nơi nào trong thế giới loài người? thưa chúng nó đều ở cả vùng Đông
nam Á chứ không hề ra khỏi vùng đó. Rồi thì thử tìm xem bao nhiêu phần trăm tiếng Việt là gốc Thái,
gốc Lào gốc Kampuchia, gốc Mã lai, v.v.. ?

Thành ra ta có thể nói một cách chung là tiếng Việt ta có gốc Đông nam Á, vì cái gốc đó nó rải rác trên
1 triệu cây số vuông và # 400 triệu người nói, lớn gấp ba Viêt nam và đông gấp năm lần dân Việt ! Và ta
sẽ thấm thiá cái câu chuyện trăm trứng trăm con của ông bà chúng ta, không hẵn là huyền thoại đâu. Đó
là cái cách hiểu của người xưa, thật xưa, về cái tiếng nói khác nhau của con người.

Và thời gian, mấy chục ngàn năm là ít đã là cái nguyên nhân làm ra cái khác nhau đó.
Các bạn cũng biết là ngôn ngữ nào cũng có độ vài ba chục ngàn tiếng thường nói là cùng. Cho là 30
ngàn đi thì sau 30 ngàn năm đã thay đổi hẵn nếu mỗi năm chỉ khác đi một tiếng ! Thấy chưa ? Cái thời
gian dài kinh khiếp đó làm cho ta không thể nào tưởng tượng ra đuợc là nhưng thay đổi tí ti nhỏ giọt đó
đã làm thay đổi hẵn bộ mặt lúc đầu của tiếng nói con người !

Nên ta đừng lạ là tại sao các tiếng nói con người lại khác nhau đến thế mà phải biết mừng cho chúng
nó là sao còn giống nhau đến thế ?! sau khi trải qua một thời gian thay đổi lâu dài [quá sức tưởng tượng
của con người] .Giồng gì đâu ?! bạn sẽ hỏi thế ! giữa tiếng Việt - Miên ?!

Này nhé, nều bạn khéo léo nhận xét một chút thì :

tay chân người Miên cũng nói là đay châng

dơ tay lên thì nói là giơ đay lơng !

đặt tay xuống đặk đay xóh

đất đai đai

đốt pháo đôk phao

năm mới ch-năm th-mây

một ngày mới muôi th-ngày th-mây

luôn tay luôn chân ruôl đay ruôl châng

Đó, chỉ có những biến đổi nhỏ nhặt như thế sau ba chục ngàn năm, bảo sao các nhà ngữ học không dồn
tiếng Việt vào chung với tiếng Miên [Khmer] ?

Thật ra phải xem trọn 27400 tiếng một của Việt và lấy ra đuợc 28% chung gốc với Miên, thì bạn mới
thấy đuợc sự giống nhau hết biết luôn giữa hai thứ tiếng anh em đó, nhưng đó lại là một chuyện khác ! Sẽ
có 58 lần như vậy vì tiếng Việt giống nhau với 58 thứ ngôn ngữ khác ở Đông nam Á, kể cả với tiếng
Mường, lẽ tất nhiên… ví các nhà ngữ học đều xem tiếng Mường là tiếng "tiền Việt" vì không có tiếng nào
giống tiếng Việt cho bằng nó !

Cái vẻ vang của tiếng Việt

Cách đây 2000 năm, khi chữ "minh" muốn chơi với tiếng Việt thì bị chữ “sáng” đá cho một đá văng
ra ngoài giường, thành thử đành phải đánh bạn với bạn bè bên Tàu của nó mà thôi:
minh bạch, minh mẫn, minh nguyệt …không ai chịu nói là minh sáng hay là sáng minh gì cả.

Còn chữ sáng thì chỉ “chơi” với bạn bè Việt của nó mà thôi: sáng sủa, sáng trăng, sáng mai, sáng
như gương, gương sáng, ánh sáng, trong sáng, hừng sáng, vầng sáng, sáng dạ, học sáng,
không bao giờ thèm chơi với Minh nên không có cặp Minh Sáng bao giờ cả!

Cái sự hiểu lầm là có quá nhiều tiếng Tàu trong tiếng Việt sinh ra từ quan niệm độc tôn tiếng Tàu.
Nhưng mà người Việt buôn thúng bán bưng, đi cày đi cấy thì lại “cóc cần” nói tiếng Tàu làm chi, khi họ
không biết chữ. Họ bèn bày ra một cách để học tiếng Tàu! Họ cặp đôi tiếng Tàu vào tiếng Việt mà vẫn
chọn lọc rất kỹ! Họ bày ra những cặp tiếng như : xuất ra, nhập vào, thượng lên, hạ xuống, trừ bớt,
cọng thêm, sinh sống, già lão, truy lùng, đánh chiếm … Cả mấy ngàn tiếng cặp đôi như thế mà không
người Tàu nào hiểu được là cái chi chi.

Thành thử ra, những tiếng Hán Việt là tiếng Tàu 100%, mà qua 2000 năm rồi ta vẫn không phát âm
cho đúng; trong khi chính hàng ngàn tiếng thật sự là Hán Việt lai 50% Tàu 50% Việt, như các cặp tiếng
trên đây, thì lại tưởng lầm là tiếng Việt 100%.

Lời kêu gọi của tiếng Việt

chúng ta, các anh em,
những nguời "gan cùng mình"
khoác áo tò mò,
một hai không chịu dấu ngã lòng
mà chỉ thích đặt nặng dấu hỏi
cho mọi tiếng Việt
đang còn ngơ ngác
truớc cái nôi rách của tiếng nói
người Việt x ưa,

khi Giao chưa phải là Yao
mà Chỉ cũng chưa hẵn là Yi,
mà đang còn là
Kiao-Tchi / Tzao tchi !!

khi bạc bẽo chỉ mới là mỏng mà thôi,
khi hiên ngang chỉ là xiên và ngang
khi dõng dạc chỉ là cao và rộng

khi Mã Viện chưa xây Kiển thành,
và tên nó đang còn là Ma Yuan !

giờ, ta phải làm sao đây ?
phải tiếp tục tò và mò chứ sao ?!
không chấp nhận thương # đau
không bằng lòng đau # đớn
không chịu vội mà vã
không khứng rộn mà rịp

cho đến khi nào tiếng nói ông bà ta
rõ mà vẫn ràng
dứt mà vẫn khoát
rạch mà vẫn ròi
đành mà cứ là rành

không còn nôm, na nữa
không còn mách qué nữa
không còn bị mang tiếng oan
là đệm nữa !

khi đâu vào đó,
nói đâu có đó
nói chi có nấy
nói chi hiểu nấy
có chứng có cớ
có sách có vở
có tích có tuồng
có xác có "hồn"

ra vạch ra vẻ

khi tiếng nói con nhà
sẽ không còn là tiếng con nuôi
hay tiếng con "mày"
chẳng Tàu chẳng Việt
chẳng Việt chẳng Tàu

chừng nào tiếng Việt không còn
"dở dở ương ương
lừng khừng lựng khựng"
như nguời mất tiếng
như xác không hồn
không ra đâu vào đâu

thì chừng đó, chúng ta,
những kẻ lạc loài, 5, 7 đứa
sẽ ngẫng mặt mĩm cuời
và bằng lòng gác bút

Chỗ đứng của tiếng Việt trong thế giới

Tiếng nói là “lịch sử nói ra“, lịch sử chỉ là “tiếng nói để lại”.
Tiếng Việt hiện nay là thứ tiếng có đông người nói đứng hàng thứ 12 trên thế giới trong khi đất đai
Việt nhỏ bé chỉ là thứ 60. Nay vừa đem dâng vừa bán dạo, chỉ còn đứng thứ 63. Với 85 triệu người nói,
nó chỉ đứng sau Tàu, Ấn Độ, Anh, Mỹ, Nga, Nhật, Pakistan, Indonesia, Malaysia, Brazil, Tây Đức, Ý,
Mexico, Ả Rập và Nigeria.
Năm 1939, Pháp có 36 triệu người, nay cũng chỉ chừng 61 triệu; trong khi Việt hồi đó chỉ là 21 triệu
nay đã 89! Ngầu quá ta!
Từ lâu. tiếng Việt không ra khỏi nước Việt [zero diffusion] trừ một vài nhóm nhỏ ở bên Lào, Thái Lan,
Cam Bốt và Pháp. Nay sau biến cố kinh hoàng tháng tư 75, đã có gần ba triệu người Việt sống khắp nơi,
những nơi không ngờ đến, như Do Thái, Brazil, Puerto Rico, Nhật Bản, Thụy Điển.
Một điểm son của tiếng Việt là khá thuần ròng, nói thì hiểu, dù có đôi chút khác giọng hay phát âm
nhưng chỉ một cách nói [ngữ pháp] giống nhau. Không ai nói là nhỏ nhà, dù có cho 1000 đô đi nữa,
trong khi cả 1000 triệu người Tàu dù có cho vàng cũng không nói là ốc tiểu!
Những nước khác ao ước như thế mà không được, Tàu có 8 ngôn ngữ khác nhau, không hiểu nhau,
Thụy sĩ nói 4 thứ tiếng mà không hề có tiếng Thụy sĩ.
Pháp cũng có đến 73 thứ tiếng nói khác nhau, dù là ai người Pháp cũng biết nói tiếng Pháp!
Ấn Độ, Nga, Phi Luật Tân, Nam Dương thì ôi thôi, cả trăm tiếng nói khác nhau mà đều là chính thức,
nghĩa là ngang hàng nhau theo luật lệ của nhà băng [có ghi những tuồng chữ ấy xem như bắt buộc trên
giấy bạc của họ !].
Gần đây, Tích Lan, loạn cào cào và giết nhau vì ngôn ngữ một phần, còn tiếng Tagalog ở Phi Luật
Tân vẫn là Tagalog … không lớn lên được vì dân Phi chỉ muốn nói tiếng Mỹ cho nó tiện!

Mà tiếng Anh Mỹ nó tiện lợi thật. Nó đứng đầu thế giới, nó là tiếng nói của tự do, the language of
freedom, Ở đâu có nó thì độc tài không có.

Có đi qua Tàu mới biết chúng nó học tiếng Anh Mỹ như điên mà vẫn dốt và trưng ra những bảng hiệu
tiếng Anh ngô nghê buồn cười vì viết tiếng Anh Mỹ theo kiểu Mao xếnh xáng …

Còn Việt Nam ta thì trong nước dành nhau loạn cào cào khoe tiếng Anh bồi, Mỹ bồi trong các sách du
lịch của chúng nó là childish garden [vườn trẻ] trong công viên Phan Thiết.

Ai không tin, xem quyển sách du lịch chính thức của họ in ra cho cả thế giới xem
Nếu theo tiêu chuẩn “quốc ngữ’ thì tiếng Việt đứng thứ 10 vì chỉ có 9 nước khác là trên chân về tiêu
chuẩn đó [tài liệu Liên Hiệp Quốc năm 1982 của ông Carl Haub]. Ông bà Giao Chỉ của ta đã để lại cho
con cháu một tiếng nói quí báu làm sao!
Tiếng Việt còn thì ta còn, nhưng ta có muốn còn không, hay cam tâm làm nô lệ cho Tàu khựa một lần
nữa?
“Khựa” là tiếng mỉa mai bọn Tàu đang xâm chiếm Hoàng Trường Sa của ta. Người Việt trong nước
gọi cái bọn Tàu là Tàu khựa. Khựa là khứa, dân khách trú, dân làm khách, nhưng cho gì cũng ăn, ăn
luôn cả cứt chim ngoài Hoàng Trường Sa.
Trên vùng Đông Nam Á thì Việt Nam quay lưng ong ra biển, uốn éo theo Trường Sơn, đội đầu muôn
thuở đất Hoa Nam là đất xưa của mình, chẳng biết hướng đến phía mặt trời lặn bao la bí mật của Ấn Độ
bao giờ, nhưng đó mới là đất nguồn của tiếng nói người Việt xưa.
Việt Nam như một con thằn lằn vắt vẻo với 3 ngàn cây số biển mà chỉ rộng 30 cây số nơi cái eo ếch
của mình. Nhìn vào bản đồ mà xem ! 55 dân tộc thiểu số chiếm hết 8 phần mười chỗ sống mà 80 triệu
người Việt lại chen chúc trong có 2 phần 10 đất.
Tính mạo hiểm kể như không có, tính cần cù chịu đựng quen thói quần tụ níu kéo vào nhau đã làm thui
chột những mở mang kinh tế và xã hội ngàn năm.

Văn hoá Hoà Bình, theo Heine Geldorn và Bernard Karlgren, đã từ # 30 ngàn năm lan ra khắp ĐNÁ
theo một vòng cung vĩ đại [trích dẫn Chambers Encyclopedia]. Tại sao? Bể dâu chỉ là tưởng tượng, sự
thật của đất đai còn ghê gớm hơn nhiều.

Cách đây chừng # 15 ngàn năm, cả vùng Đông Nam Á chỉ là một vùng đất mênh mông vì hồi đó nước
biển chưa bao quanh Việt Nam như bây giờ.

Nếp sống con người Hoà Bình truyền xuống Đông Sơn [Madeleine Colani 1920] và những khám
phá động trời gần đây của đại học Hawai đã kích thích nhiều tìm tòi khác khắp vùng này và để tâm vượt
bực vào nó như một đất mới, terra incognito của khảo cổ và ngôn ngữ, và đây, đaị học Hawai đã khám

phá ra là:
Lúa gạo là của con người Đông Nam Á tìm ra cách trồng, không phải là Tàu.
Đúc đồng cũng có trước và biết trước ở Đông Nam Á chứ không phải từ Tàu mà chuyền xuống cho ta,

vì nếu ta học nghề của Ba Tàu hồi đó thì đã đúc rồng đúc phượng hay đúc ba cái chữ Tàu nguệch ngoạc
hồi xưa chứ đâu lại đi đúc mấy trăm cái trống đồng toàn những cảnh thụt ống bễ, đúc trống, câu cá, bắn
chim, xay lúa giã gạo, đôi khi lại có cảnh hai người nam nữ trần truồng giao cấu nhau khắp 4 góc mặt
trống như trên mấy cái trống đồng ở musée Finot, Hà Nội, tới đó mà xem biết ngay.

Qua 1000 năm, ta có văn hoá cặp đôi theo Tàu nhưng ông bà ta có một nếp sống khác hẵn và không
hề dựa hơi Tàu bao giờ.

Những câu chuyện Việt ngữ

Cái ý nghĩ, khi được nói rõ ra và ai cũng xài một cách giống nhau thì trở thành một cái ý nghĩa, và khi
có từ điển giải thích thì trở thành một định nghĩa, "định" được ít hay nhiều, sai hay đúng là tùy theo khả
năng của nguời viết từ điển.

Chữ dictionary hay wortbuch [sách tiếng] là dễ hiểu, còn như phân biệt từ điển với tự điển, chẻ sợi tóc
làm hai… thật ra cũng không quan trọng gì, vì đối với tiếng Tàu, nó sống nhờ nơi cái hình vẽ mà gọi là
chữ / tự đó, nên cái chữ viết Tàu nó định đoạt sự sống còn của tiếngTàu, họ có đến 6-8 tiếng nói khác

nhau !
Người Việt không có chữ viết hồi xưa mà tiếng Việt vẫn còn, mà lại còn một cách ngon lành là vì đời

sống của tiếng Việt không hề định đoạt bởi cái chữ Việt, dầu là chữ "khoa đẩu', chữ nôm hay chữ abc
hiện nay. Vậy thì nó dựa vào cái gì mà tồn tại qua mấy ngàn năm?

Nhờ vào cái phát âm của nó khá đồng nhất, từ một triệu người cách đây 2000 năm cho đến 80 triệu
người Việt bây giờ, không như tiếng Tàu, đọc đến 6-8 cách mà chỉ viết một cách, nhờ đó mà sống còn
nhờ cái “xi măng chữ viết” đó nhưng vì thế mà không dám thay đổi chữ viết, dù là Khổng Tử hay Mao
Trạch Đông, vì nếu viết chữ Tàu theo cách abc thì sẽ bị tan rã về văn hoá và chính trị.

Vì vậy mà các nhà ngữ học Tây Phương vẫn nói rằng cái chữ viết của Tàu là "a millstone around their
neck", chứ còn tiếng Việt, muốn viết bằng chữ nôm hay chữ abc, nó cũng là tiếng Việt thôi, không ai đọc
hơn ai, thua ai, khác ai cả cho dù đó là một em bé 6 tuổi hay là ông Phạm Quỳnh hay Trần Trọng Kim đi
nữa.

Tuy vậy, có đôi khi phát âm trẹ, khác đi một chút mà sinh ra hiểu lầm, và đó là những câu chuyện
"giui giui" về Việt ngữ.

Câu chuyện vui mở đầu:
Từ ngữ: "vênh váo như bố vợ phải đấm"
1/ Nếu là phải đấm thì vô nghĩa, funny…có gì mà vênh váo? Thật ra, phát âm câu ấy là: vênh váo như bố
vợ "phải đám” có nghĩa là "kiếm được, gặp được một đám, một mối lương duyên cho con gái mình!

Tiếng Việt còn có tương đương: phải duyên, phải phận, phải đôi phải lứa, phải kiếp, phải cách, phải
lẽ, phải lòng, phải đạo v.v..nhiều lắm, đó là nghĩa tốt.

Còn như "phải", nghĩa xấu, cũng có: phải gió, thằng phải gió nó đ… em ra!, phải bịnh, phải bị, phải
thua, phải phạt vạ…

Câu chuyện bí mật thứ hai của Việt Ngữ:
/ mặt trời hay mắt trời?

Tất cả mấy chục ngôn ngữ ở Đông Nam Á [Khmer, Lào, Thái, Miến Điện, Malay, Indonesia, Chàm
[cả thảy chừng 400 triệu người ] đều có ý nghĩ, ý nghĩa, định nghĩa, phát âm, phát vần, phát giọng, viết ra
là m-ă-t, và đều hiểu là con mắt của trời.

Không có một ai hiểu là cái mặt của ông trời cả, trừ ra người Việt. Sao vậy cà?
Hiểu là mắt thì có lý, hợp lý, hợp nghĩa, hợp ý hơn nhiều.
Thí dụ: / ánh "mắt" trời……thay vì "ánh mặt" trời?
/ tia sáng của con mắt trời thay vì tia sáng "của cái mặt" ông trời? / mắt trời chiếu sáng, chứ sao cái mặt
mà lại chiếu sáng được?
/ con người tiền Việt đã thấy con mắt của mình và gọi nó là mắt.
/ nhìn lên trời, họ gọi cái vật tròn và rất sáng ấy là con mắt luôn, dù chỉ một con [sic].
Còn như gọi nó là cái mặt thì hơi kì quặc, thiếu nhiều thành phần cơ thể [anatomical] quá để tạo ra một
ý niệm so sánh rằng đó là cái mặt, dù là cái mặt của Ông ấy…ông Trời!
Ý niệm rằng đó là con mắt thần thì dễ có hơn.

Câu chuyên vui thứ ba:
"ăn cháo đá bát" /miền Trung và Nam [có nghĩa là vô ơn bạc nghĩa]
nghe có vẻ hợp lý.
"ăn cháo đái bát / miền Bắc # cũng nghĩa đó, nhưng thử hỏi, lấy cái hợp lý hợp tình hợp cảnh

mà xét, có ai dám ăn tô cháo người ta cho ăn mà ngay sau đó dám ngang nhiên vén, mở, hay tụt quần
/váy mà đái vào đó không?
Hỏi tức là trả lời!

Câu chuyện thứ tư:
"tai vách, mạch rừng"

Tôi thích thành ngữ này vì nó đối chọi chan chát.
/ cái vách cũng nghe được,
/ khu rừng cũng có mạch nước ngầm chảy ra …,
ý nói con người nên cẩn thận, cái bí mật gì cũng có thể bị tiết lộ.

Nhưng có người lại cho là:
"tai vách, mạch "dừng"
"dừng" là cái nan tre của một tấm phên giữa hai lớp đất sét trát hai bên, họ giải thích như thế…

Nhưng nếu vậy thì "mạch" của cái 'dừng" là cái gì vậy ta?
Lại vô nghĩa! à hén!

Phải hiểu là « mắt của cái dừng » tấm phên tre có nhiều kẻ hở giữa các nan tre như là những con mắt.

Nh»ng cái bÃt ng© lš thú trong khi tìm hi‹u tiếng ViŒt và nguÒn gÓc Nam-Á

Có m¶t nhà ngôn ng» học rÃt Ç¥c biŒt là ông Paul Benedikt.
Ông này, có lÀn Çến Saigòn chÌ m¶t ngày mà tìm ra bao nhiêu là tiếng ViŒt dính líu v§i các ti‰ng khác
ª ñông nam Á, và ông này Çã vi‰t nhiŠu vŠ nh»ng gì mà ti‰ng Tàu Çã vay mÜ®n cûa các ti‰ng nói khác ª
ñông nam Á, giäi tÕa cái huyŠn thoåi sai lÀm là ai cÛng phäi mÜ®n ti‰ng và ch» Tàu mà dùng, trong khi
tiếng Tàu ch£ng cÀn mÜ®n tiếng cûa ai cä.
Nh»ng khám phá m§i cûa ông Benedict Çã Çäo ngÜ®c vÃn ÇŠ ai mÜ®n cûa ai và làm sáng tÕ thêm vŠ
s¿ Çóng góp Çáng k‹ cho ti‰ng Tàu tØ nh»ng ti‰ng khác cûa các dân t¶c trong vùng ñông nam Á [South
East Asian linguistic influence upon the Chinese].
TØ 1967, các ông Benedickt và Jerry Norman Çã nghi ng© vŠ tên cûa các con vÆt næm tu°i / tš sºu dÀn
mão v..v...là do Tàu mÜ®n cûa các ti‰ng nói Nam Á
Nh»ng ch» Tàu Ãy rÃt lâu Ç©i, ÇÜ®c viết lên các mänh xÜÖng tØ mÃy ngàn næm vŠ trܧc, khi miŠn
Nam sông DÜÖng tº chÜa phäi là nÖi sÓng cûa ngÜ©i Tàu [theo ông Shafer trong sách Ancient China.]
ThÆt ra tØ næm 1935, nhà khäo c° Georges Coedes cÛng Çã có nh¡c Çến tên các con vÆt trong con
giáp [chu¶t, trâu, thÕ, rÒng, r¡n v..v..] sao mà giÓng nhau quá gi»a các ti‰ng Khmer, Lào, Thái và MÜ©ng,
ViŒt, m¥c dù cách Çây 70 næm rÒi,m ấy ông h ọc gi ả Hán Việt ai cÛng tin là ti‰ng ViŒt là do tiếng Tàu
mà ra [Phåm Quÿnh và nhiŠu ông khác]
SuÓt 31 næm qua , chúng tôi Çã góp nh¥t ÇÜ®c nhiŠu tài liŒu ngôn ng» so sánh [comparative linguistic,
cognates studies] chÙng tÕ m¶t cách rõ ràng là các ti‰ng nói ª ñNÁ ÇŠu có chia xÈ m¶t nguÒn gÓc chung,
mà có rÃt nhiŠu tên hoa, trái, lá, cây và nh»ng con thú vÆt ÇŠu ÇÜ®c các ngôn ng» trong vùng Çó g†i tên
giÓng nhau và Ç¥c biŒt là tên các con vÆt næm tu°i.
Sau Çây là bäng so sánh lš thú mà các bån džc chÌ cÀn nhìn vào cÛng thÃy ngay s¿ giÓng nhau gi»a
các ti‰ng nói anh em ª ñNÁ , và thÃy ngay s¿ khác biŒt v§i ti‰ng Tàu
Bäng so sánh dܧi Çây, chÌ phiên âm thôi, nhÜng có chua thêm tên các con giáp trong ti‰ng Hmong và
ti‰ng Khasi [chung dòng Mon Khmer v§i Vietnam ta] Ç‹ cho bån džc dÍ thÃy s¿ giÓng nhau Çó, dù là
ti‰ng Hmong không cùng m¶t dòng ngôn ng» v§i ti‰ng ViŒt. Bäng so sánh tên các trái cây miŠn nhiŒt ǧi
giÓng nhau bi‰t chØng nào trong khi rÃt xa lå v§i các tên Tàu cûa chúng nó. Hai bäng so sánh này chÌ là
hai trong hàng bao nhiêu bäng so sánh khác trong quy‹n
TØ Çi‹n các ti‰ng ÇÒng nguyên v§i ti‰ng ViŒt ª ñNÁ gÒm cä thäy 275 ngàn ti‰ng m¶t lÄn ti‰ng ghép
[compound words] ÇÒng nguyên v§i nhau [cognatics] làm thí dø và b¢ng chÙng cho nguÒn gÓc Nam-Á
cûa ti‰ng ViŒt v»ng ch¡c nhÜ Çinh Çóng c¶t trong khi giä thuy‰t ti‰ng ViŒt tØ ti‰ng Tàu mà ra Çã bÎ ê-kíp
ngôn ng» h†c cûa Encyclopedia Britanica bÕ rÖi.
Hãy nghe nh»ng nhÆn xét m§i mÈ nhÃt vŠ nguÒn gÓc ti‰ng ViŒt tØ Encyclopedia Britanica và Encarta
Microsoft 2000 :

... a long held notion that identified the Vietnamese with one tribe of the Yueh of southern China has been
abandoned ...
... the theory that regards them [the Yueh] as direct ancestors of the Vietnamese conflicts with
ethnographic and biological evidences

quan niŒm lâu Ç©i cho r¢ng ngÜ©i ViŒt là m¶t trong nh»ng b¶ låc Yueh hÒi xÜa ª miŠn nam
nܧc Tàu bây gi©; quan niŒm Ãy Çã bÎ gåt bÕ

cái giä thuy‰t cho r¢ng dân Yueh ª bên Tàu là t° tiên tr¿c ti‰p cûa dân t¶c ViŒt mâu thuÅn v§i
nh»ng b¢ng c§ d» kiŒn nhân chûng và sinh h†c hiŒn Çåi

.. all points to strong social and cultural affinities between the Vietnamese and people of the Tai and
Indonesian families
... the Vietnamese people represents a racial and cultural fusion...

m†Î [s¿ kiŒn] ÇŠu cho thÃy r¢ng có nhiŠu Çi‹m rÃt giÓng nhau vŠ væn hóa

và xã h¶i gi»a các giÓng ngÜ©i ViŒt, ngÜ©i Thái [gÓc Tai] và ngÜ©i Indonesian

... modern day Vietnamese share many cultural and linguistic traits with other non-Chinese peoples living
in neighboring areas of Southeast Asia
.. the Vietnamese language is distinct, it can be described as a fusion of Mon Khmer, Tai and Chinese
elements

ngÜ©i ViŒt ngày nay chia xÈ nhiŠu nét væn hóa và ngôn ng» v§i nhiŠu dân t¶c không phäi là

Tàu, Çã và Çang sinh sÓng ª nh»ng vùng lân cÆn v§i h† tåi ñông nam Á
Cái ti‰ng nói cûa h† thì riêng cho h†, có th‹ xem nhÜ là m¶t h‡n h®p gi»a dòng ti‰ng Mon

Khmer, các ti‰ng Tai và ti‰ng Tàu

It is now generally believed that the Lac people were the result of a mixture between Australo-Melanesian
inhabitants who had lived in the area since Paleolithic times and Asiatic people from China, who later
migrated into the area

ngày nay ngÜ©i ta ÇÒng š nghï r¢ng các b¶ t¶c dân Låc[Tàu nói là Lo]xÜa là k‰t quä cûa m¶t s¿
lai giÓng gi»a các ngÜ©i Australo Melanesian[Nam ñäo/các Çäo miŠn nam] Çã sinh sÓng tåi ch‡, v§i các

s¡c dân Á châu [không cÙ gì ngÜ©i Tàu] Çã tràn xuÓng, mãi vŠ sau này

The official language of Vietnam is the Vietnamese, a member of the AustroAsiatic language
family, a distinct language although it has some similarities to other languages of Southeast Asia and to
Chinese.

It's syntax is closer to Khmer

ti‰ng ViŒt là ti‰ng nói chính thÙc cûa Vietnam, m¶t nhánh ngôn ng» cûa dòng h† Austro Asiatic [Nam
Á][miŠn Nam Á châu] m¶t thÙ ti‰ng nói riêng biŒt m¥c dù nó có nhiŠu s¿ giÓng nhau v§i các ti‰ng nói
khác ª ñông nam Á và cä v§i ti‰ng Tàu n»a.

Ng» pháp /cách nói và Ç¥t câu/ cûa ti‰ng ViŒt giÓng v§i ng» pháp cûa ti‰ng Khmer
(theo Encarta Microsoft 2000]

Ông Lê ng†c Trø, cách Çây 40 næm, Çã gán cho rÃt nhiŠu ti‰ng ViŒt nh»ng cái âm hܪng ÇÒng

nguyên giä tåo [false cognatic inferences ] v§i âm Hán ViŒt mà không hŠ ÇÜa ra b¢ng chÙng có thÆt vŠ

ÇÒng nguyên v§i các ngôn ng» khác ª ñông nam Á :

chÌ sinh ra [sic] giÃy

tranh sinh ra giành

chûng sinh ra giÓng

chính sinh ra giêng [sic]

/ chính nguyŒt là tháng giêng !

khang sinh ra xÜÖng

cÃp sinh ra gÃp

cÜÖng sinh ra giŠng [- mÓi]

ti‰t sinh ra T‰t

täi [chuyên chª] sinh ra chài [ghe chài][?!]

Ta hãy xem Çây nguÒn gÓc [cognates] thÆt s¿ cûa các ti‰ng ấy :

GIƒY [paper / papier]
MÜ©ng : k-chÃy
Burma : s-giu‰y
[n‰u bäo là âm này là Tàu thì tåi sao ngÜ©i MÜ©ng và Burma còn phát âm giÓng ViŒt hÖn nhiŠu ? ]

GIANH [to dispute, compete, vie for, to accaparate, take from][se disputer, entrer en compétition,

s'emparer de]

MÜ©ng : chènh, chèng

Nùng : cheng tranh giành

Thái : pr-chành

gièng

chjing giành nhau

Mon : k-giành

Khmer : pr-chèng

chèng

kòn-nhèng

chòn-chèng

Indonesia : saing giành gi¿t

[n‰u bäo là do ch» tranh cûa Tàu mà ra thì tåi sao không nói là cånh giành, giành thû, giành chÃp, chi‰n
giành ! màlåi nói là cånh tranh, tranh thû, tranh chÃp, chi‰n tranh?]

GIỐNG [species, gender, race]
[espèce, genre, race]

Hmong : t-zÓng
Thái : kh-yong

kh-giÓng

GIÊNG [tháng giêng ]

[first month of the lunar calendar]

[premier mois lunaire]

/ không phäi là do ch» chính ? mà ra !

vì nguÒn gÓc và nghïa nó khác h£n:

Thái : chiêng giêng

ÇÜÖn chiêng tháng giêng

ÇÜÖn kiêng tháng giêng

Nùng : chiêng giêng

hÜÖn chiêng tháng giêng

Lào : ÇÜÖn giêng tháng giêng

Burma : a-yiêng [ÇÀu tiên, trܧc hết ]

Pali/Sanscrit : yir id

Chàm : bulæn Çhia tháng giêng

[nếu bäo là do ch» chính cûa Tàu mà ra, thì tåi sao không nói là giêng trÎ, giêng quyŠn, giêng sách [sic]
v..v..
mà låi nói chính trÎ, chính quyŠn, chính sách] ?

XÐ÷NG [bone]
[os]

m¶t ti‰ng rÃt hay nói : [b¶ -, - xóc, - xÄu, gãy - v..v...]
Hàng chøc ÇÒng nguyên cûa hàng chøc ngôn ng» anh em v§i ti‰ng ViŒt dܧi Çây, cho thÃy quá rõ nó
nguÒn gÓc tØ Çâu:

Mܩng : xang

Nùng : xang

Khmer : x-Üang

Aslian[bên Malaysia] : xÜÖng

Hmong/Mèo : x-âng

Bahnar : x-ang , k-xang

Sedang : k-siang, k-xiang

Katu, Bru : ng-ang

Rengao : k-xâng

Mdrah, Didrah, Todrah

[gÀn Kontum] : k-xeng

Palaung/Wa : x-ang

Mundari, Santali

[Çông b¡c ƒn Ƕ]: xang, zang, jang

[hàng chøc s¡c dân này Çâu có dính dáng gì ljn Tàu Çâu, h† ÇŠu phát âm nhÜ ViŒt vÆy]

GƒP [hurried, hasty, urgent]

[urgent, en hâte, hâtif]

Thái : khu-Ãp gấp

khÃp g ấp, hấp [- tấp]

hu-ap háp gấp gáp

h-ngÓp h-ngap id

Lào : hÃp / rÃp id

hÃp rÎp gÃp và r¶n rÎp !

hÃp pày Çi gÃp

Khmer : hi-Ãp gâp

Malay: gapah gấp

Chàm : h-gÃp gÃp, v¶i

Saora[dòng Munda} : s-gÃp gấp

[cä vùng ngôn ng» ñông nam Á mÃy træm triŒu ngÜ©i cÛng nói vÆy, Çâu phäi riêng chi gi»a ViŒt và Tàu

Çâu? mà bäo là gÓc Tàu!]

GIỀNG [- mÓi]
English : established customs, habits, patterns of transaction, business or ways of life
Francais : coutumes, habitudes de vie, pratiques de transactions

m¶t ch» nghe âm hܪng rÃt làViŒt và có vÈ quê mùa, vÆy mà dính gÓc v§i Thái Lào thuÀn ròng và Çúng

ÇiŒu !

Thái : yiŠng [ki‹u cách, cách

thÙc ÇÜ©ng lÓi]

jiêng id

Khmer : riŠng hình thÙc, ki‹u

mÅu, mô hình

Lào : yiŠng s¿ s¡p x‰p, x‰p

Ç¥t, dàn x‰p

[ch» giŠng t¿ nó Çã có nguÒn gÓc rõ ràng]

TẾT [ngày -, æn -, pháo -, chúc -, lÍ -, h¶i -, mØng -, Çi -, bi‰u -, quà -, s¡m - // - nhÃt, - ta, - tây v.. v..]

TẾT là ngày h¶i hè ÇÀu næm

Eng : ‘’lunar new year festival’’, celebration, holidays

Fr : [fête] du nouvel an oriental, du calendrier lunaire

m¶t tiếng ‘nhÙc nhÓi’ vŠ š nghïa, Hán ViŒt cho là nó džc trË cái âm cûa Tàu là ti‰t [season,

time, climate change...]

tØ Çi‹n Huÿnh tÎnh Paulus Cûa :

ti‰t ÇÀu næm [sic]

TØ Çi‹n Khai trí ti‰n ÇÙc : không hŠ cho r¢ng t‰t là ti‰t .

TØ Çi‹n cûa Al de Rhodes : có nh¡c ljn nh»ng tØ ng» :

t‰t næm, t‰t ai, æn t‰t

NhÜng coi chØng, cä mÃy chøc ngôn ng» ª ñông nam Á không dính dáng gì ljn Tàu cÛng nói nhÜ vÆy!

S¿ th¿c cái lÀm này không bé tí nào, nó lÀm l§n l¡m và lÀm lÅn Çã hÖn hai ngàn næm nay rÒi, hãy xem

xét trong các ngôn ng» sau Çây:

Nùng : Tét T‰t

nièn Tét næm T‰t

Chàm : Tít T‰t [lÍ tháng næm cûa lÎch Chàm]

bæng Tít æn T‰t [bæng là æn]

bùlæn Chêt tháng T‰t

Khmer: Chêtr lÍ tháng næm [lÎch xÜa cûa Khmer]

- tháng gió mùa b¡t ÇÀu th°i ngÜ®c låi

- tháng cûa mùa gió nÒm ª ñông nam Á

- tháng cûa mùa mÜa ljn trên løc ÇÎa ƒn

và miŠn ñNÁ

[Tùy theo vÎ trí tØng nܧc từ tây sang đông, mÜa ljn v§i gió mùa tØ cuÓi tháng tÜ Ç‰n cuÓi tháng næm ]

-tên tháng 4 và 5 cûa lÎch ƒn xÜa :

khae Chết tháng T‰t [tháng 4 dÜÖng lÎch]

/ khae là tháng

tháng T‰t Khmer # 13 tháng tÜ dÜÖng lÎch

Thái : Th‰t # TẾT

Th‰t khal mùa t‰t, nh»ng ngày t‰t

[annual Th‰t celebration / new year propitious ritual]

Th‰t Thày T‰t Thái

/ Thái new year ritual celebration

Tr‰ts # T‰t

[tØ Çi‹n Francais -Thái cûa Pallegoix]

trêts chŠn Chinese new year [ chŠn là Tàu]

chêt fifth lunar month # mid April

trôts [lÍ h¶i ÇÀu mùa mÜa cûa lÎch Thái xÜa,

cuÓi April-May]

Trôts faræng dÎch là T‰t ‘hoa lang’

[western new year]

chú š : faræng # Hoa lang # occidental, western

Zhuang : SIT T‰t cûa ngÜ©i Zhuang bên Quäng Tây, m¶t / b¶ t¶c thu¶c dòng

Tai, họ Çông Çến 25 triŒu

ngÜ©i, nói tiếng Tai / Thái xÜa

đuon Sit tháng t‰t [yearly monsoon festival ritual

celebration]

Mon in Burma : k-Têh first days of Mon new year

Chàm : k-Teh

Nepal : Teej [Teetj Brata] lÍ ÇÀu næm cûa ngÜ©i Nepal

[theo báo NgÜ©i ViŒt ngày Oct 9, 1992 sÓ báo 305]

Mustang : Tij, Tij-i ngày lÍ mùa mÜa ljn [xÙ

Mustang ª sát v§i Nepal]

ñông B¡c ƒn Ƕ : Teej # monsoon festival / theo National geographic [swinging in celebration,

village girls sing the ancient melodies of Teej , the festival marking the return of the monsoon and the

promise of prosperity] .

Kh°ng tº cÛng không hŠ nói tết là do tiết mà ra !
Ông nói r¢ng :
...’ ta không biết "Tết" là gì! nghe Çâu Çó là tên cûa m¶t ngày lÍ h¶i l§n cûa bọn ngÜ©i Man [sic] họ

nhäy múa nhÜ Çiên, uÓng rÜ®u và æn chÖi vào nh»ng ngày Çó mà không phäi là nh»ng ngày ÇÀu næm cûa
chúng ta.
Nghe Çâu họ gọi cái ngày đó là "Tế-så "‘[sic]
[theo kinh LÍ kš] trích dẫn trong @ Ancient China by Shafer

Nếu Kh°ng tº nghï r¢ng tiết sinh ra tết, sao låi còn Çi phiên âm m¶t cách khá vøng vŠ là Tế-så làm gì ?
Ch» tiết cûa Tàu dù là Ç©i Kh°ng tº Çi n»a làm sao mà trË cái âm thành ra tế-så ÇÜ®c? Bªi vì °ng

không nghï nhÜ thế!

RÒi không lë °ng không nghï nhÜ thế mà ta låi cÙ khÜ khÜ bo bo mà suy nghï nhÜ thế làm gì nhÌ, hÖn
n»a, có cä chøc ngôn ng» khác ch£ng æn thua gì Çến tiếng Tàu mà cÛng låi nói tråi tråi trË trË là # Tết y

nhÜ ª trên làm ta phäi suy nghï låi vŠ cái hi‹u lÀm tết # tiết

CHÀI [kÈ -, ông -, ngÜ©i -, bån -, tay -, thuyŠn -, Çi -, làm nghŠ -, thä -, kéo -, Çan -, quæng -, cÃt -, dª -,
kéo -, vån -, làng - // - lܧi, - cá // chóp -, n¡m chóp -]

~ chài là cái lܧi cái r§, cái ÇÒ Çánh cá, døng cø Ç‹ b¡t cá
~ chài là tung ra, räi ra, quæng ra, vÃt ra, ném ra, lia ra, liŒng ra, làm cho bung ra
~ chài {nghïa bóng} là quyến rû, dø dỗ, mê ho¥c, cho ai bÎ m¡c bÅy, m¡c lܧi, vào tròng # chài gái,
chài y‹m, Çi chài kÈ kh© khåo]

Eng : fish net, fish trap / to throw a fish net, to set a fish trap / to trap, to entrap, to lure into entrapment, to

catch with a snare, to ensnare

Fr : filet de pêche, épervier, tramail, carrelet de pêche / jeter l'épervier / jeter un sort, envouter, captiver

qq par des paroles douceureuses

Pali /Thái : chal cái chài, lܧi, r§

Lào : chal cái chÖm tre Ç‹ chÖm cá

Chàm : chal cái chài, lܧi cá, r§ cá

thrah chal thä lܧi, thä r§ Ç‹ b¡t cá

Indonesia : jala cái chài[lܧi, r§,

døng cø b¡t cá]

mata jala m¡t lܧi

chjala cho vào lܧi, làm

cho m¡c bÅy, gài bÅy

chú š: nghïa bóng cÛng giÓng nhau gi»a vài tiếng Indonesia và ViŒt !

BÃy nhiêu cÛng làm cho ta sinh ra nghi cái quan Çi‹m hán

việt cho là tiếng Tàu tiếng ViŒt m¶t lò mà ra [sic] như ông Lê ngọc Trụ bảo là chài là do tải mà ra ,

ghe chài là ghe tải ! [sic]

CÛng may là có m¶t sÓ ít học giä [NguyÍn háo Vïnh, NguyÍn væn Ngọc, và DÜÖng quäng Hàm] Çã

nhìn xa thÃy r¶ng và mong hi‹u biết rõ thêm vŠ nguÒn gÓc thÆt s¿ cûa tiếng ViŒt, nhÜ ông DÜÖng quäng

Hàm Çã nói, khoäng næm 1941:

..’Lå thay cho nܧc mình, có tiếng nói mà không hŠ ai học tiếng, không Çâu dåy cách dùng tiếng,

không sách nào nói Çến nghïa tiếng, cùng mËo Ç¥t câu...’

chÜa tØng ai nghiên cÙu học hành tiếng An nam cä...

Cái tinh Ç©i cûa ông DÜÖng quäng Hàm là hi‹u r¢ng ch» viết không phäi là tiếng nói, viết ra mà không
hi‹u thì cÛng nhÜ không!

Các nhà ngôn ng» h†c hiŒn Çåi ÇŠu công nhÆn cái Üu tiên cûa l©i nói hÖn ch» viết rÃt nhiŠu [primacy
of the spoken words over their written forms]. Tôi xin ÇÜa ra m¶t thí dø trong hàng ngàn thí dø :

Ta viết ÇÜ®c ch» Çau ǧn, [dù là b¢ng cách viết a b c hay b¢ng ch» Nôm] nhÜng ta Çâu có hi‹u ǧn là
gì?!
Có cä # 5000 ti‰ng ViŒt nhÜ là ÇËp Çë, m§i mÈ, såch së, vui vÈ, da dÈ, v..v.. n‰u chÌ vi‰t mà thôi thì ngÜ©i
ViŒt ta Çâu hŠ có hi‹u là gì ?!

Khuyết Çi‹m mà ông DÜÖng quäng Hàm nhÆn thÃy Çó nay Çã ÇÜ®c b° túc :
B¶ tØ Çi‹n ÇÒng nguyên ti‰ng ViŒt và các ti‰ng ñông nam Á / Vietnamese and Southeast Asian
Cognatic dictionary / Dictionnaire cognatique Vietnamien et Sud-est Asiatique [3500 trang] së cÓng hiến
cho bån Çọc kh¡p nÖi trên th‰ gi§i Çọc ÇÜ®c dÍ dàng vì có ngay ch» viết cûa họ trong Çó, chÙ không phäi
chÌ phiên âm, phiên ch». V§i 275 ngàn thí dø ÇÒng nguyên [cognatic correspondances ] và hàng trăm bän
ÇÒ rõ rang ghi chỗ ª và nÖi xuÃt phát cûa các dân t¶c b¶ låc ª kh¡p vùng ñông nam Á và hàng chục bäng
ng ữ v ững [lexicon] so sánh tiếng ÇÒng nguyên cûa 57 ngôn ng» ñông nam Á so v§i chØng 27 ngàn
ti‰ng ViŒt cûa cä ba miŠn B¡c Trung Nam, Ç‹ cho ai cÛng thÃy, ngÜ©i ViŒt cÛng nhÜ ngÜ©i ngoåi quÓc,
hi‹u và š thÙc ÇÜ®c rÃt rõ ràng là tiếng ViŒt không phäi là do tiếng Tàu mà ra, Trái låi, tiếng ViŒt là anh
em họ hàng v§i bao nhiêu là tiếng nói khác ª ñông nam Á, m¥c dù qua hÖn hai ngàn næm, cái ch» viết
abc khác nhau cûa các thÙ ch» ñNÁ, Çã làm cho ta lÀm tܪng là cái âm, cái tiếng, cái nghïa cûa các ngôn
ng» Çó cÛng khác nhau luôn!
ThÆt ra chúng nó ÇŠu giÓng nhau Çến mÙc ngåc nhiên s»ng s©.

TØ xÜa Çến nay Çã có bao nhiêu là giä thuy‰t vŠ nguÒn gÓc cûa tiếng ViŒt:
Nào là gÓc tØ tiếng Tàu [sic], nào là gÓc Mon [ông Logan] cách Çây Çã 150 næm, nào là gÓc Thái [ông

Maspero] nào là gÓc Mon Khmer [ÇÜ®c nhiŠu nhà ngôn ng» học nhìn nhÆn] rÒi thì ông Haudricourt v§i
nh»ng nhÆn xét vŠ thanh âm tiếng ViŒt, và nhiŠu ông khác n»a, cho là gÓc AustroAsiatic, m¶t dòng họ
ngôn ng» l§n hÖn dòng Mon Khmer n»a.

Không hŠ thÃy có m¶t giä thuyết nào ÇÜ®c dÅn chÙng v§i nh»ng nghiên cÙu chi tiết và hoàn toàn ÇÀy
Çû cä, họ chÌ ÇÜa ra cho hàng chøc ngôn ng», trung bình vài chøc thí dø cho m¶t ngôn ng» là cùng, trong
khi tiếng ViŒt ta có cä trên 10 ngàn tiếng m¶t , có gÓc gác Çàng hoàng và trên 100 ngàn tiếng ghép låi,
[ghép Çôi ghép ba, ghép bÓn nÛa là khác] thì m¶t vài chøc cái thí dø mà họ ÇÜa ra không Çû sÙc thuyết
phøc, không Çû ÇiŠu kiŒn cÀn và Çû Ç‹ minh xác cho bÃt cÙ m¶t nhÆn xét d» kiŒn nào vŠ tiếng ViŒt, dù là
nhÆn xét vŠ các nhÃn giọng, các âm tiết các vÀn ÇiŒu, các tên b¶ phÆn hay giác quan trong thân th‹, tên
cây cÓi, tên hoa lá, tên các trái, các con vÆt v..v...nói chi Çến nguÒn gÓc .

Cái mà bÃt cÙ nhà ngôn ng» học nào chuyên vŠ tiếng ViŒt cÀn có Ç‹ tìm kiếm rÒi làm ra giä thuyết là
m¶t tØ Çi‹n nghiên cÙu 100% c ác tØ ÇÒng nguyên cûa tiếng ViŒt, không ÇÜ®c sót m¶t tØ nào.

Cái cÀn thiết ‘không có không ÇÜ®c’ Çó... nay Çã có.
TØ Çi‹n ÇÒng nguyên tiếng ViŒt-ñông nam Á ÇÜa ra 27 ngàn tØ gÓc gác cûa tiếng ViŒt, së giúp cho
bÃt cÙ m¶t nhà hoc giä nào nghiên cÙu tiếng ViŒt vŠ mọi khía cånh chÙ không riêng chi vŠ nguÒn gÓc cûa
nó, có ÇÜ®c ngay trܧc m¡t và trên tay, hàng træm ngàn b¢ng chÙng s© s©, hi‹n nhiên và th¿c tế vŠ muôn
ÇiŠu muôn vÈ nh»ng chi tiết cûa tiếng ViŒt, so sánh v§i muôn ÇiŠu muôn vÈ nh»ng chi tiết cûa tØng ngôn
ng» khác nhau ª vùng ñông nam Á. Nó së cho họ thÃy n°i bÆt lên hàng chøc ngàn Çi‹m giÓng nhau cÛng
nhÜ hàng ngàn Çi‹m khác nhau, nhÜ m¶t bäng nhÃt lãm [synoptic table] kh°ng lÒ vŠ nguồn gốc tiếng
Việt

Những nhận xét về nguồn gốc Tiếng Việt
Nguồn @ Encyclopedia Britanica và Encarta Microsoft 2000

... a long held notion that identified the Vietnamese with one tribe of the Yueh of southern China has been
abandoned ...
... the theory that regards them [the Yueh] as direct ancestors of the Vietnamese conflicts with
ethnographic and biological evidences.
.. all points to strong social and cultural affinities between the Vietnamese and people of the Tai and
Indonesian families
... the Vietnamese people represents a racial and cultural fusion...
... modern day Vietnamese share many cultural and linguistic traits with other non-Chinese peoples living
in neighboring areas of Southeast Asia.
.. the Vietnamese language is distinct, it can be described as a fusion of Mon Khmer, Tai and Chinese
elements.

It is now generally believed that the Lac people were the result of a mixture between Australo-
Melanesian inhabitants who had lived in the area since Paleolithic times and Asiatic people from
China, who later migrated into the area.

The official language of Vietnam is the Vietnamese, a member of the Austro-Asiatic language family, a
distinct language although it has some similarities to other languages of Southeast Asia and to Chinese.

Its syntax is closer to Khmer.

"Much of the spiritual and imaginative part of their civilization, much of what the world now think of
as typically Chinese was originally among the proto-Thai people south of the Yang Tse, among the
proto Tibetan people of the West and among the proto Mongolian people of the North region, butt was
less clear and less easy for them, the Chinese, to acknowledge or even to realize that they do borrow
ideas and things made and the lifestyle of the foreigners, yes, in fact, they did, and at length."

Edwards Shafer @ Ancient China

The Vietnamese language is distinct, it can be described as a fusion of Mon- Khmer and Tai and some
Chinese elements.

The failure of the Chinese language to assimilate the Vietnamese language underscores the fact that
strong elements of the Viêt culture must have emerged long before China established its rules over
Vietnam".

Encyclopedia Britannica 2003

Though the Viet, who, circa 334 BC, were driven by the expanding Chinese from their habitat south
of the Yangtze river, moved farther south, and may have entered the Red River Delta, gave the
Vietnamese people its name, the theory that regards them as direct ancestors conflicts with
ethnographic and biological evidence, all of which points to strong social and cultural affinities
between the Vietnamese and people of the Tai and Indonesian families. The dominant view is that
the Vietnamese originated in the red River Delta and represent a racial and cultural fusion, the various
elements of which are still not fully determined.

Encyclopedia Britanica 1999
Encarta Microsoft 2000

46

It is of general acceptance that the land south of the Yang Tse kiang was the territory proper of the
native Mon Khmer people, not of the succeeding Chinese.

Professor Luce, Eminent Linguist
"Our Mòn language is essentially the same in Vietnamese"

Nài Pan Hla, Epigrapher, Ministry of Culture / Rangoon

47

Bài Toán Của Tiếng Việt

Trong sự tìm hiểu tiếng Việt, không gì qua mặt được cái đếm. Có nhiều đến đâu cũng đếm được, có ít
đến đâu cũng đếm ra.

Văn phạm không phải là cái gì phức tạp hay mơ hồ đến nổi không đếm được những cách kết hợp tư
tưởng, ý nghĩ, ý nghĩa, cái ngôn, cái ngữ:

âm với âm, thanh với thanh,
giọng với giọng, vần với vận
chữ với chữ, tiếng với tiếng,
từ với từ, câu với câu
Cả hàng trăm cách chuyển, đổi, thay, thế hàng trăm cách ghép, kẹp, lắp, chắp, ráp các hình thái nói
trên, cặp đôi cặp ba cặp bốn lại với nhau, hay xen kẽ vào nhau đều có thể đếm, xếp hàng xếp hạng, đặt
theo hàng ngang hàng dọc để làm ra những bảng con chữ, bảng chữ, bảng vần, bảng nguyên âm, bảng phụ
âm, bảng âm tiết v..v...để có thể nhìn chung cho thấy rõ mọi bề thế, khía cạnh của tiếng Việt.
Chưa có ai làm đầy đủ và chi tiết những cái đó và làm cho thật rõ để cho mọi người đều thấy dễ dàng
mọi cái tầng lớp, cái cấu tạo, cái cấu trúc, cái kiến trúc, cái cách thức mà người Việt xưa đã xây dựng nên
tiếng nói của họ và để lại cho 90 triệu con cháu bây giờ sống khắp quả đất từ năm 1975 đau thương.
Ông Alexandro de Rhodes 1651 đã không làm.
Các học giả Pháp làm từ điển cho tiếng Việt trong 200 năm qua cũng không làm được. Các người Việt
làm từ điển trong 150 năm qua cũng không làm.
Tôi đành phải làm vậy! Nay tôi đã làm được một phần khá khá. Xin trình bày ra đây để các bạn hăng
hái noi theo mà làm thêm. Đúng vậy! Các bạn sẽ làm thêm cho thật đầy đủ, cho thật tỉ mỉ, cho thật chi
tiết, cho thật rốt ráo về mọi vẻ mọi hình dáng của tiếng nói người Việt ba miền, mọi cái chi tiết khác nhau
đã làm ra cái tiếng khác nhau của ba miền.
Văn phạm và ngữ pháp là một phần cần có cho mọi từ điển có ý thức, huống chi đây là một từ điển
chuyên khảo cứu về cái nguồn gốc chung của các ngôn ngữ ở Đông Nam Á mà trong đó có tiếng Việt
của ta.
Trước hết là các hình thức ghép từng đơn vị nguyên âm với nhau. Ta sẽ thấy một điều khá thú vị khi
xem bảng ghép này.
Nếu ta xem chúng nó như những nguyên âm cái / female, ta thấy ngay là hai "cái" mà rập với nhau
chả làm nên trò trống gì, không sinh đẻ ra được.
Các phụ âm thì lại càng tệ nữa, không thể nào ghép nhau được, cũng như hai ông gay mà rập nhau
thôi. Trái lại, khi một ông phụ âm / con chữ đực mà kết hợp với các nguyên âm, các con chữ cái / female
thì ôi thôi tha hồ mà sinh mà đẻ, con cái đầy đàn.
Các con số này sẽ có mặt trong khắp hơn hai ngàn trang từ điển và qua 275 ngàn tiếng đồng nguyên với
tiếng Việt trong Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của BS Nguyễn Hy Vọng.

48

Những tiếng nói anh em

Kể từ 1975, 37 năm rồi, # 3 triệu người Việt bỏ chạy cọng sản nay đã tung bay khắp thế gíới tiếng nói
của người Việt, và làm cho cả thế giới biết đến tiếng Việt.

Nên biết rằng từ ngàn xưa, tiếng Việt đã được nói từ hồ Động Đình qua tới Ấn Độ chân núi Himalaya
và xuống tới 10 ngàn hòn đảo của Indonesia, theo các nhà ngữ học của giòng ngôn ngữ Austronesian.

Tiếng Mường là "tiền Việt", giống nhau 95% với tiếng Việt.
Tiếng Nùng, Thổ, Tày cũng lai 50% Thái Lào, 50% Việt mà đáng kể là họ dùng 100% tiếng Hán Việt.

Dân Hmong ở phiá Tây Nam hồ Động Đình vẫn có # 300 tiếng nói chung với dân Việt.
Người Khasi, ở chân núi Himalaya, vẫn nói cả hàng trăm câu tiếng Việt xưa y hệt như chúng ta [mi
shông h.ơ ni # tôi sống ở đây [sic]
Dân Indonesia và Malaysia [230 triệu] cũng có cả ngàn tiếng một y như tiếng Việt.
Tiếng Chăm có chung cả 3500 từ ngữ thông thường giống với tiếng Việt miền Trung.
[xin xem các bảng so sánh đồng nguyên trong sách này]
Sao vậy? Là vì tiếng Việt chung dòng với tiếng Chăm đã từ mấy ngàn năm về trước chứ không phải chỉ
có từ khi dân Việt mới biết đến dân Chàm, lại càng không phải chỉ mới từ khi Việt đánh nhau với Chàm.
Những tiếng rất tầm thường sau đây cũng chung nhau cái "vốn liếng âm thanh" đó: cá, lá, chim,
chuột, trâu, rắn, gà, chó vv.. từ cái thuở mới có con người ở vùng Đông Nam Á.
Còn nhiều nữa! Có đến 58 ngôn ngữ đồng nguyên với tiếng Việt [trong Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng
Việt] chứ không phải chỉ là gốc Mòn Khmer mà thôi, như các nhà ngữ học nói vậy.
Nhìn chung thì cả vùng Đông Nam Á châu, từ miền nam sông Yang Tse cho đến chân núi Himalaya
qua đến vùng Đông Bắc Ấn Độ rồi xuống đến tận phiá nam của đảo Java nữa, các giống người ở đó đã
nói chung một ngôn ngữ nhưng nay khác nhau vì cái thời gian mấy chục ngàn năm.
Nên nhớ rằng nếu mỗi năm chỉ khác đi một tiếng, một giọng, một âm, một vần, một phụ âm, nguyên
âm nào thì sau 30,000 năm là đã có một ngôn ngữ khác rồi, dù đó là tiếng Pháp, tiếng Tàu, tiếng Việt,
tiếng Anh hay tiếng Ấn Độ.
Cho nên ta đừng lạ gì sao các tiếng nói lại khác nhau quá, mà nên lấy làm lạ là tại sao chúng nó lại vẫn
còn giống nhau đến như thế. Đó là cái mà tôi gọi là cái tính cách rất người của tiếng nói loài người nói
chung!
Khi ta đi tìm cái nguồn sông hay cái gốc cây thì chớ bận rộn về những nhánh sông nhỏ hay nhánh cây
vướng mắt vướng tay, ta sẽ thấy được mau hơn và dễ hơn đâu là cái nguồn gốc ấy!

49

Gia đình ngôn ngữ Nam Á

I. Dòng tiếng nói Nam Á gồm có nhánh Munda và nhánh Mon Khmer
A/ Nhánh Mon Khmer gồm có:
1/ nhóm Mường Việt và nhiều nhóm nhỏ khác
[Mường Việt là con lai của nàng Tai và chàng Khmer]

[vùng nói tiếng Mường trải dài từ Ninh Bình xuống đèo Mụ Giạ]
a / Mường Việt trở thành Mường và Việt

Việt chia ra Việt Bắc [châu thổ sông Cái*# sông
Việt Trung [châu thổ sông Mạ, sông Cả sông Gianh]

II. Người Tàu với 8 thứ tiếng và một thứ chữ hình vẽ, đã lấn xuống từ 2500 năm qua, cho
nên “dùi cui” đánh đục thì đục đánh săng”, các dân tộc Bách Việt nhào xuống miền nam của miền nam,
và cuộc di cư hàng hàng lớp lớp, đa bộ lạc, đa dân tộc, đa văn hoá đa ngôn ngữ và đa văn tự , vẫn đang
tiếp tục [và làm cho các nhà ngữ học “điên cái đầu”, họ không chịu công nhận những tiếng nói ấy là
“mixed” / pha trộn, trong khi chính họ, các tiếng nói bên Âu Châu, cũng là mixed như điên, giữa Latinum
và old Greek và Etruscan và gì gì nữa].

III. Chỉ mới rất gần đây, cuộc nam tiến “bất đắc dĩ”mà rất địa phương và rất hạn hẹp của tiếng miền
Trung đã sinh ra

cái phát âm miền Nam từ cái phát âm Huế
và cái giọng miền nam từ cái nhấn giọng Quảng Nam.

Đó là hai cái bản lề âm thanh và giọng nói mà Alexandro de Rhodes không ngờ đến nên ông ta chỉ viết
từ điển cho âm và giọng của người Bắc mà thôi và làm sinh ra cái hiểu lầm tiếng Bắc là tiếng chuẩn và
phát sinh ra cái thổi phồng quan trọng của hỏi ngã về sau này!

Hai mẫu chữ khoa đẩu, một ở Bắc Sơn và một ở ngay trong lòng đất xưaThăng Long cho biết là
không riêng gì tiếng nói, các tuồng chữ viết ở Đông Nam Á cũng chung đụng, chung chạ, chung nét và
chung ý nghĩa khi lăm le mặc áo cho các lời nói, tiếng nói ở Nam Á vốn đã chia xẻ chung một cái nôi từ
ngàn đời trước đây.

Cái văn hoá Tàu, mà ngọn giáo đi trước, thầy giáo đi sau, đã ép dạy cho dân Giao Chỉ một bài học
để đời, trong khi cái văn hoá Ấn Độ xưa, mà bài kinh bài kệ đi theo cánh buồm lộng gió của các thuyền
buôn, đã ảnh hưởng ngàn đời vào toàn thể vùng mênh mông Đông Nam Á, trừ ra vùng Giao Chỉ, nên đã
xẩy ra cảnh đau buồn của những người anh em họ chung một nôi ngôn ngữ mà đã không còn nhận ra
nhau sau 2100 năm, khi đã đi theo hai ông thầy văn hoá khác nhau.

50


Click to View FlipBook Version