ĐỨC THANH
NHẬN RA
CHÍNH MÌNH
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
LỜI TỰA
Trong thời gian học Phật thông qua việc xem
kinh, đọc sách, tôi góp nhặt đƣợc một số lời dạy của
chƣ Phật, Tổ và các học giả xa gần. Tôi thấy nên ghi
lại và gửi đến quý độc giả là Phật tử tại gia để cùng
tham khảo biết đâu cũng có đƣợc đôi phần lợi ích cho
hành trình tu học Phật pháp. Tôi mạnh dạn biên soạn
thành tập sách Nhận Ra Chính Mình. Nội dung sách
là lời dạy của chƣ Phật, Tổ, các vị Hòa thƣợng, cũng có
một phần lời dẫn, ý tƣởng và bài viết của tôi trong đó,
mang tính cách chia sẻ cùng bạn đọc. Tài liệu này xuất
bản không có tính chất kinh doanh, chỉ để biếu tặng
quý cƣ sĩ đồng tu. Do khả năng còn hạn chế, nên trong
quá trình biên soạn có phần nào chƣa khế lý, xin quý vị
hoan hỷ góp ý để tôi đƣợc học hỏi và chỉnh sửa lại cho
hoàn thiện hơn. Nếu có những nội dung nào mang lại
lợi ích cho học giả cƣ sĩ tu học thì tôi nguyện hồi
hƣớng công đức này đến tất cả chúng sinh đều trọn
thành Phật Đạo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày 01 tháng 01 năm 2018
Phật tử Đức Thanh
(Đỗ Thanh Tùng)
3
Đức Thanh
MỤC LỤC
LỜI TỰA...........................................................................................................3
NHẬN RA CHÍNH MÌNH............................................................................. . 5
SỰ BẤT TOẠI NGUYỆN.............................................................................. . 8
NHẬN RA NGUYÊN NHÂN KHỔ ĐAU VÀ CHUYỂN HÓA NÓ.............. ..11
A. Thấy các pháp chƣa phải nhƣ chúng đang là.............................. ........ 11
B. Các pháp vô thƣờng mà thấy là thƣờng............................................... 15
C. Các pháp vô ngã mà chấp có ngã sở.................................................... 19
BIẾT ƠN CHÚNG SINH............................................................................... 38
THẤY SỰ ĐỜI NHƢ HUYỄN MỘNG....................................................... . 40
LIÊN HỆ GIỮA TÂM VÀ VẬT.................................................................. . 59
TÌM CÁI VÔ SINH Ở ĐÂU?
HÃY NGAY CÁI SINH DIỆT MÀ NHẬN LẤY!........................................ 67
BIẾT VỌNG NGUYÊN LÀ ĐẠO MỚI KHÔNG VỌNG............................ 75
CÁC LOÀI CHÚNG SINH LÀ CÕI PHẬT CỦA BỒ TÁT........................ . 80
TA LÀ GÌ? TA TỪ ĐÂU ĐẾN? CHẾT ĐI VỀ ĐÂU?................................ . 93
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN........................................................................ 102
TIN TÂM..................................................................................................... 114
SỐNG VỚI BẢN THỂ CHÂN THẬT......................................................... 119
CHÍ CAO MÀ HẠNH CHƢA THEO KỊP.................................................. 141
VẤN ĐÁP GIẢI NGHI............................................................................... . 145
THIỀN-TỊNH KHÔNG HAI....................................................................... 171
MỘT LỐI NIỆM PHẬT............................................................................... 173
HIỆN TRÚ Ở ĐÂY VÀ BÂY GIỜ............................................................. 177
CÁC PHÁP DUYÊN KHỞI LÀ CƠ SỞ
THEN CHỐT CỦA LUẬN NHÂN QUẢ………………………………... 184
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... . 190
4
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
(Câu chuyện giả tưởng về Tướng - Tánh - Thể nghiệm chân lý)
Có một ngƣời muối đƣợc kiến tạo từ ruộng, nghe
nói biển đẹp lắm muốn đến một lần cho biết. Một hôm
nhân dịp trời trong, nắng đẹp anh đi ra biển. Đến nơi,
anh thốt lên:
- Ôi chà! Biển đẹp đến không ngờ, xƣa nay chỉ
nghe thôi, có dịp thấy mới cảm nhận đƣợc cái yên ả,
rộng lớn, hùng vĩ của nó.
Đƣợc một lúc, gió lớn kéo đến, mặt biển không
còn bình lặng, mà lại có những con sóng nổi lên, lúc to
lúc nhỏ, thiên hình vạn trạng. Lúc ấy có một tiếng gọi
vang lên:
- Này! Anh Muối hãy xuống biển chơi đi!
- Sao anh biết tên tôi?
- Tôi với anh chung một nhà mà! Sao tôi lại
không biết.
- Vậy anh là ai? Tên là gì nào?
- Tôi là Biển đây! Đó là tên ngƣời đời gán đặt đó
thôi, chứ thực sự bản thân tôi là nƣớc.
- Sao lúc nãy anh hiền hòa lặng lẽ quá, bây giờ
anh hung hãn quá, nếu tôi xuống anh sẽ nhận chìm tôi
mất, tôi sợ lắm.
- Anh Muối ơi! Sự thật gƣơng mặt của tôi phẳng
lặng nhƣ tờ giấy trắng, nếu ngƣời họa sĩ vẽ cô tiên thì
mọi ngƣời yêu thích, vẽ con cọp con sói thì mọi
ngƣời kinh tởm. Thế nên, tôi vẫn là Biển đây, nhƣng
5
Đức Thanh
tùy thuận theo duyên của gió mà tôi hiển hiện hình
tƣớng có tính tạm thời thôi. Bản chất thực sự của tôi
chính là nƣớc.
- Tôi không dám tin đâu!
Lúc này mây đen cũng kéo đến, anh Biển cất tiếng
mời gọi:
- Anh Mây ơi hãy đến với tôi đi!
- Anh là ai sao biết tên tôi?
- Tôi là Biển đây, tôi và anh là ngƣời một nhà mà!
- Không phải đâu, tôi và anh không thể là một
đƣợc. Thân thể tôi nhẹ nhàng uyển chuyển, tự tại trong
đi lại, có thể ngắm trời, trăng mọi lúc, mọi nơi, không
giới hạn ràng buộc về không gian nhƣ anh.
Biển nói:
- Anh Mây ơi! Anh Muối ơi! Hãy tin tôi! Ba
chúng ta là ngƣời chung một nhà thôi! Do tôi có nhiệm
vụ ở lại làm nhà cho các loài thủy tộc sinh sống nên
ngƣời đời gọi tôi là Biển và có một loạt khái niệm miêu
tả về tôi.
Anh Muối cũng từ Biển thôi, nhân nơi sức nóng
mặt trời và đất ruộng mà có. Anh đƣợc giao nhiệm vụ
lƣu chuyển, hòa nhập vào thân thể muôn loài chúng
sinh, để giúp họ mạnh khỏe, có đời sống tƣơi đẹp,
hạnh phúc.
Còn anh Mây cũng là Biển, nhân nơi mặt trời và
sự dao động của gió đƣa anh đi khắp mọi miền, tƣới
mát cho muôn ngàn cây cỏ, khiến muôn loài chúng
sinh đƣợc lợi lạc lớn.
6
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
Thế nên ba chúng ta chỉ là một, tùy hình tướng,
cái dụng khác nhau mà ngƣời đời đặt tên tôi là Biển,
anh là Muối, còn anh là Mây ứng với khái niệm lỏng,
rắn, hơi để phân biệt nhận dạng, nhƣng tất cả chung
một thể là nƣớc thôi.
Anh Muối, anh Mây nghe Biển nói lý rất đúng
nhƣng tâm vẫn còn do dự.
Cùng lúc đó, nhân nơi gió lớn sấm sét nổi dữ dội,
mây đen kéo lại nhiều hơn, tích tụ lại, đè lên nhau, xô
đẩy nhau tạo thành cơn mƣa lớn đổ xuống, muối cũng
tan chảy ra nhập vào biển cả.
Tức thời anh Mây, anh Muối chứng thực một
chân lý, đồng thanh thốt lên:
- Ồ! Đâu ngờ mình chính là nước.
Do đã đƣợc chứng nghiệm thể của mình là nƣớc,
từ đó mọi khái niệm phân biệt đẹp-xấu, hơn-thua,…
với nhau đã tan biến. Các anh có đƣợc một đời sống tự
tại trong phụng sự chúng sinh dù đang mang một hình
tƣớng ở dạng lỏng, rắn, hay hơi và luôn đang biết mình
chính là nƣớc. 1
1 Tác giả Đức Thanh.
7
Đức Thanh
SỰ BẤT TOẠI NGUYỆN
Phật dạy: Ta bà là cõi khổ, Cái khổ thì vô lƣợng,
tạm chia thành bát khổ và tam khổ.
Khi còn là thai nhi nằm trong bụng mẹ phải chịu
đựng không gian chật hẹp với môi trƣờng máu huyết,
sau chín tháng mƣời ngày thì lọt lòng mẹ. Vừa chui ra
phải chịu một cảm thọ đau đớn do dời đổi từ môi
trƣờng nƣớc ra ngoài không khí, rồi cất tiếng khóc
chào đời (sinh khổ) nhƣ báo hiệu cho một sự khổ bắt
đầu vậy. Theo thời gian thân thể trƣởng thành, đƣợc ba
bốn mƣơi năm rồi đến lúc cũng bị suy kiệt, mắt mờ, tai
yếu, lƣng còng, đi đứng thật là khó khăn (lão khổ).
Thời tiết ở bên ngoài thay đổi, tứ đại bên trong cũng
bất hòa, từ nhỏ đến già phải chịu đau ốm liên miên, hết
chứng bệnh này rồi đến chứng bệnh khác (bệnh khổ).
Đâu chỉ cái khổ do bệnh, song song đó còn cái khổ của
năm ấm (sắc, thọ, tƣởng, hành, thức) hoạt dụng nữa.
Thời tiết nóng lạnh làm thân thọ khổ, tƣởng bị bỏ rơi
nên đau khổ, thấy sắc đẹp sa sút nên khổ,.. (ngũ ấm xí
thạnh khổ). Yêu thƣơng ngƣời này mà chẳng đƣợc ở
bên nhau (ái biệt ly khổ), căm ghét ngƣời kia mà phải
sống chung với họ (oán tắng hội khổ). Cuộc đời với
nhiều ƣớc muốn mà không đạt đƣợc (cầu bất đắc khổ).
Nhƣng thời gian đâu dừng lại, thân thể lại gầy còm
thêm, bệnh hoạn ngày càng dồn dập hơn, đau đớn càng
dữ dội hơn, rồi trút hơi thở cuối cùng, bỏ lại biết bao
ƣớc vọng chƣa thành, tình cảm thƣơng yêu, quyến
8
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
luyến của gia đình và ngƣời thân (tử khổ). Tám sự khổ
nêu trên cũng có thể tóm lại thành ba trƣờng hợp:
- Khổ khổ: Sự khổ đã đến rồi lại chồng thêm
nhiều cái khổ nữa. Ngƣời đời nói “đã nghèo còn mắc
cái eo”. Nhƣ gia đình tôi nghèo khổ, nên lấy vợ cũng
nghèo, làm lụng vất vả, con cái sinh ra không có điều
kiện chăm sóc tốt nên bệnh hoạn hoài.
- Hành khổ: Là các pháp dời đổi vô thƣờng nên
khổ, nhƣ thay đổi về thời tiết, thay đổi về vật chất, thay
đổi về tình cảm bạn bè, vợ chồng,…
- Hoại khổ: Là các pháp vô thƣờng, hủy hoại nên
khổ, nhƣ sự hủy hoại của bão lụt, hỏa hoạn, sự chết
chóc,….
Ngoài ra còn có cái khổ bị thiêu đốt, nung nấu,
gông cùm, xiềng xích của chúng sinh ở cõi địa ngục.
Khổ do khát mà chẳng đƣợc uống, đói mà chẳng đƣợc
ăn của chúng sinh ngạ quỷ. Khổ do sớm sinh, chiều
chết của loài chúng sinh nhỏ bé nhƣ côn trùng, phù du.
Khổ do mƣa bão hoành hành mà không có chỗ trú, hạn
hán không có nƣớc uống, bị ăn nuốt, xé xác lẫn nhau
đối với loài chúng sinh là động vật nơi hoang dã. Khổ
do bị hành hạ, đánh đập, mổ bụng, cắt cổ đối với chúng
sinh là vật nuôi lấy trứng, lấy thịt,…
Các thứ khổ não của chúng sinh khó có thể nói hết
đƣợc. Ngay cả những lúc vui vẻ, sung sƣớng, no đủ,
giàu sang,… cũng vẫn nằm trong sự khổ, vì tất cả
những cái đó đều vô thƣờng nên sẽ dẫn đến sự bất toại
nguyện. Nhƣ một cảm thọ về lạc thú, nó sẽ không tồn
9
Đức Thanh
tại lâu, là vô thƣờng; nhƣng với cái tâm mu n ư c của
mình, ngƣời thọ dụng bám víu vào chúng, muốn nắm
giữ chúng, muốn kéo dài thời gian hƣởng thụ, nếu
không đƣợc nhƣ ý muốn thì sinh buồn rầu, thất vọng.
Hoặc hƣởng thụ cái gì đó nhiều quá, lâu quá, thừa mứa
quá rồi sinh tâm nhàm chán, rồi đi tìm cái lạc thú khác
lạ hơn, mới hơn, cƣờng độ mạnh hơn, với một sự đầu
tƣ hết sức cực nhọc. Đôi khi còn phải trả giá cho những
hành động gây nghiệp bất thiện của mình về việc ấy.
Đơn cử nhƣ khi con ngƣời sử dụng chất gây nghiện tìm
đƣợc một cảm giác sảng khoái, lâng lâng của cơ thể,
cảm giác này tồn tại không lâu, sử dụng nhiều lần sẽ bị
nhờn, rồi lại tìm những thứ khác gây ảo giác mạnh hơn,
dài hơn. Việc thọ dụng này tốn kém khá nhiều tiền, tài
sản, khi trở thành con nghiện rồi thì họ phải hành động
tạo tác bằng mọi biện pháp bất chấp về nhân phẩm, đạo
đức, pháp luật để duy trì cái ảo giác này. Hành động
này phải trả một cái giá rất đắt, nhƣ mất hết tài sản,
thân thể bệnh hoạn, tàn phế, lƣơng tâm bị giày vò đau
khổ, đôi khi còn bị tù tội. Thế nên, dù là một cảm thọ
lạc thú trong đời thƣờng cũng vậy, thì chính ở nội tại
của nó đã hàm chứa s n cái nhân tố ất to i nguyện
trong đó nên mới nói thọ là khổ.
10
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
NHẬN RA NGUYÊN NHÂN
KHỔ ĐAU VÀ CHUYỂN HÓA NÓ
A. Thấy các pháp chưa phải như chúng đang là
Bản thể của các pháp là vắng lặng, sáng suốt,
thƣờng hằng chẳng có biến hoại. Tuy không biến
hoại mà thƣờng hay tùy duyên sinh khởi ra hiện
tƣợng giới một cách không ngăn ngại. Khi các pháp
sinh khởi nó không tự nói nó sinh, khi nó hoại diệt
cũng chẳng nói là mình diệt. Sự xuất hiện của
nó chẳng phải để trình hiện cho một chủ thể nào cả,
nó xuất hiện như đang là, bởi nó không có tự
tánh cố định, nó là vô ngã. Các hiện tƣợng giới dù là
muôn màu muôn vẻ mà cũng chẳng có rời bản thể bất
sinh bất diệt của nó.
“Mặt trời sẵn ánh an mai.
Hoa thơm vẫn chẳng vì ai giữa rừng.
Trăm hoa ua nở tưng ừng.
Mùa xuân miên viễn âu từng ngoài tâm.” 2
Con ngƣời nhìn thấy, nhận xét sự vật hiện tƣợng
trên vũ trụ này chƣa đúng nhƣ thật, không phải thấy
chúng như ang là. Sự thấy này gián tiếp xuyên qua
cặp mắt kính của tự ngã. Cặp mắt kính tự ngã là gì? Ta
hình dung cặp mắt kính tự ngã nhƣ đƣợc cấu tạo bởi
nhiều tấm lăng kính siêu mỏng, nhuộm màu, đƣợc ép
2 Mặt trời ban phát ánh sáng một cách tự nhiên. Hoa nở - hƣơng thơm cũng
không có tác ý để phục vụ cho ai. Sự sinh trƣởng của vạn vật là pháp duyên khởi,
chúng nhƣ đang là. Dù thế nào đi nữa, cái hiện tƣợng muôn màu, cái mùa xuân
bất tận này cũng đâu có ngoài cái thể chân thƣờng nơi tâm - Đức Thanh.
11
Đức Thanh
sát lại với nhau. Màu của tấm lăng kính chính là tƣ
tƣởng của tôi, quan niệm của tôi, thành kiến của tôi,
tập quán của tôi, tôn giáo của tôi, kinh nghiệm của tôi,
triết lý nhân sinh mà tôi ƣa thích. Rồi đến điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội nơi tôi sinh sống, trạng thái
tâm lý của tôi nhƣ tôi đang vui, đang buồn, đang lo
lắng, đang sợ hãi, đang cầu mong, trông chờ một điều
gì đó,…
Ở sát na đầu tiên (một sát na gần bằng 1/100 giây)
sự thấy chƣa có thức tình xen vào, ví dụ cho cái thấy
xuyên qua tấm lăng kính trong suốt không màu. Với
cái thấy này, thế giới hiện tƣợng đƣơc chiếu hiện nhƣ
đang là. Nhƣng sự thấy này đâu dừng ở đó, bởi con
ngƣời có tâm chấp trƣớc, tức là sự thấy xuyên qua các
lớp lăng kính đã nhuộm màu tƣ tƣởng, tình cảm, rồi nói
cái này là đẹp, cái kia là xấu, cái này là phải, cái kia là
quấy… Xuyên qua các lăng kính nhuộm màu thì không
thể thấy đƣợc sự vật nhƣ đang là, ta gọi là sự thấy có
chấp trước. Một khi có chấp trƣớc thì cái mà ta nhận
thức đƣợc chỉ là cái cái bóng của thế giới hiện tƣợng
mà thôi. Để làm rõ, ta lấy vài ví dụ điển hình về sự
thấy có chấp trước này:
- Thấy theo quan niệm, tư tưởng của mình. Phải
biết quan niệm thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp
với điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của nó. Quan
niệm cũng thay đổi theo từng địa phƣơng, từng quốc
gia nhƣ việc dạy con cái, trách nhiệm của cha mẹ với
con cái trong gia đình,..
12
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
- Thấy theo tập quán của mình. Nên biết, tập quán
có tính cách truyền thống theo từng vùng miền, từng
địa phƣơng, từng đất nƣớc. Nhƣ việc giao tiếp, ăn mặc
chẳng hạn. Ở thành thị đi làm công sở thì mặc thế này
là gọn gàng. Ở nông thôn, để phù hợp với công việc
đồng áng thì phải mặc nhƣ thế kia là tốt hơn. Ở miền
núi để phù hợp với việc săn bắn, chống lại cái giá lạnh,
ngụy trang với thú dữ nên trang phục màu sắc có khác.
- Thấy theo thành kiến của mình. Thành kiến
giống nhƣ cái thấy đã đƣợc ƣớc định, khuôn rập từ
trƣớc. Nhƣ có thành kiến trƣớc với việc gì, với ai thì
khi tiếp xúc nhận thức của ta không còn khách quan
nữa. Thƣơng nhau thƣơng cả đƣờng đi, ghét nhau ghét
cả tông ti họ hàng. Thời đi học, ở ký túc xá, đa phần
chúng tôi cùng quê với nhau, có vài anh là ngƣời địa
phƣơng khác cùng ở chung phòng, sinh hoạt hằng ngày
thấy các anh hay nói chuyện văn hoa, lại có bản tánh
hay khoe, hay cãi, lúc nào cũng thể hiện mình hiểu biết
hơn ngƣời. Hình ảnh ấy gây ấn tƣợng mạnh, tôi nhƣ bị
ám ảnh và có thành kiến với những ngƣời cùng quê với
các anh ấy. Khi ra trƣờng, lập gia đình nhiều năm rồi
mà thành kiến đó vẫn bám chặt trong tâm thức tôi.
Biểu hiện bên ngoài là sự khó chịu khi ai nhắc tới địa
phƣơng đó, hoặc trong giao tiếp chỉ nghe giọng nói
thôi, thì trong tôi đã thiếu sự thiện cảm ban đầu. Đôi
khi mình cũng biết nhận định một vấn đề rồi áp dụng
chung cho toàn thể là sai, nhƣng thành kiến nhƣ ăn sâu
quá làm tôi khó chuyển hóa.
13
Đức Thanh
- Thấy với tâm c ng cao ngã m n của mình. Tức
là thấy kiến thức, tƣ duy, đạo đức,… của ta là cao tột
nên không có tâm khiêm hạ, khi gặp ngƣời khác có
kiến thức uyên bác, biện luận giỏi, đức hạnh trong sáng
đƣợc nhiều ngƣời mến mộ, tâm sinh ganh tị, đố k .
Thấy ai khen ngƣời ấy mình khó chịu, ai chê bai ngƣời
ấy thì mình ùa theo, khoái chí, tìm tòi những sơ suất
nhỏ rồi phê phán với dụng ý giảm thiểu uy tín của họ.
- Sự thấy bị ám ảnh. Sự thấy bị chấp trƣớc bởi
ngôn ngữ, âm thanh, tƣởng tƣợng một hình ảnh nào đó.
Một dịp nọ, tôi ra đƣờng thấy một bảng hiệu đề
tên công ty sản xuất thƣơng mại Toàn Cầu, rồi nhìn
căn nhà của công ty sao mà hẹp quá. Mặc dù chƣa có
phê phán gì, trong tâm chƣa khởi niệm so sánh, nhƣng
có một cái gì đó ngầm ngầm (khó diễn tả) nhƣ một sự
chê bai nhƣng chƣa đƣợc hình thành vậy. Quán sát lại
mới thấy bởi vì ta thƣờng nghĩ (chấp) Toàn Cầu là có
phạm vi rất rộng lớn, gặp hình ảnh thực tế chẳng nhƣ ý
nghĩ nên tâm nhƣ có chút vƣớng mắc. Hoặc nhƣ khi
nghe đến tiên nữ thì bộ óc ta liền có ấn tƣợng một cô
thiếu nữ rất xinh đẹp, dịu dàng, uyển chuyển, bay
lƣợn,… Hình ảnh, ký ức này huân tập qua chuyện kể,
tranh vẽ,… Cũng nhƣ vậy, khi nghe danh từ hật ta
liền tƣởng tƣợng trong đầu hình ảnh một vị Phật với
vóc dáng cao lớn, thanh tú, đầu tóc xoắn, khuôn mặt
hiền từ,…. những suy nghĩ này là do tâm ta chấp trƣớc
qua hình tƣợng, hoặc qua chuyện kể. Thực ra, danh từ
hật là một thuật ngữ chỉ sự giác ng không phân biệt
14
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
tôn giáo, tông phái. Vị Phật ta thờ là Phật Thích Ca,
Phật hóa thân.
Vì vô minh che lấp, sự thấy của con ngƣời phải
gắn liền với cặp mắt kính tự ngã, nhƣng họ vẫn an
nhiên không hay biết, cũng nhƣ loài cá ở biển đâu tự
biết mình mặn. Con ngƣời lầm tƣởng rằng mình là sáng
suốt, là thông minh, là thấy biết các sự vật đúng nhƣ
thật, từ đó sinh khởi nhiều thứ tri kiến, tình chấp; cho
đó là tƣ tƣởng, là lẽ sống của tôi, rồi ôm lấy phiền
muộn khi có ai đó xúc phạm đến nó.
“Nhƣ thể bức tranh vẽ ác quỷ, tội nhân ở địa ngục,
con rồng hoặc con cọp từ bàn tay ngƣời. Con ngƣời vẽ
ra, nhìn ngắm rồi sợ hãi. Thật ra ngay nơi hình ảnh
chẳng có gì phải sợ. Tất cả đều là tác phẩm từ ngọn bút
lông do ông tƣởng tƣợng vẽ ra, phân biệt mà có. Xƣa
nay không một vật, ngoại trừ điều ông tự tạo từ vọng
tâm hƣ dối.” 3
Một văn hào ngƣời Pháp, Jean Rostand, trong
quyển “Ce que je crois”, có nói: “Kẻ ngu thì tƣởng là
mình biết, ngƣời trí thì biết là mình tƣởng.” 4
B. Các pháp vô thường mà thấy là thường
Tất cả sự vật trên thế gian này không cố định,
chúng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng. Thời
tiết thay đổi, hạn hán, bão lụt,… muốn chúng theo ý ta
3 “Nhƣ thể… hƣ dối” Vô Niệm, trang 130, Suzuki - Thuần Bạch biên dịch.
4 Quyển "Ce que je crois" viết “les téméraires croient qu‟ils savent, les sages
savent qu‟ils croient”. Trong Ý Tình Thân, trang 41, Thầy Thích Trí Siêu
dịch: "Kẻ ngu thì tƣởng là mình biết, ngƣời trí thì biết là mình tƣởng.”
15
Đức Thanh
là không đƣợc. Các tế bào trong thân thể ta cũng sinh
diệt theo từng giây. Tâm ta khi vui khi buồn, ý muốn
của ta có lúc thế này, lúc thế khác,… Ta không thể làm
chủ đƣợc mình và sự vật bên ngoài. Chúng do hội tụ đủ
yếu tố nhân duyên thì hình thành, khi không đủ duyên
thì hoại diệt, không thể theo ý của mình đƣợc.
Nhƣng sống ở đời gần nhƣ ai cũng bị cái tâm
mu n ư c nó sai xử. Muốn sự vật theo ý mình thì đâu
có đƣợc, bởi chúng sinh diệt theo nguyên lý duyên
khởi, ta đâu thể nắm bắt đƣợc. Ví dụ nhƣ tôi là nhà
nông canh tác cây lúa, muốn đạt năng suất cao, tôi phải
cập nhật đầy đủ thông tin kỹ thuật canh tác về giống
lúa đang trồng, hằng ngày phải siêng năng tƣới tiêu,
làm cỏ, bón phân,… để cây lúa phát triển tốt. Tôi cũng
ƣớc vọng mùa này thu hoạch đƣợc khấm khá hơn,
nhƣng do thời tiết thay đổi lúa bị lép hạt, mùa năm nay
bị thất thu. Ngƣời hiểu đạo biết năng suất không phải
đƣợc do mong cầu mà phải hội đủ nhân duyên nhƣ: hạt
giống, đất, nƣớc, ánh sáng, phân bón, khí hậu, thời
tiết,… các yếu tố này nếu đầy đủ, phù hợp thì mới
đƣợc kết quả tốt. Hiểu đƣợc nhƣ vậy nên tâm không
thấy khổ đau.
Biết đƣợc lý nhân duyên thì dù làm công việc gì
ta cũng phải hết sức cố gắng, nhƣng kết quả là thành
hay bại còn tùy thuộc vào duyên, bảo nó nhƣ ý muốn
của ta thì không đƣơc. Trong kinh doanh cũng vậy, ai
cũng mong đƣợc nhiều lợi nhuận, nhƣng thị trƣờng
khách quan theo quy luật cung cầu, nếu cung ít mà cầu
16
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
nhiều thì ta trúng, nếu cung nhiều mà cầu ít coi nhƣ là
lỗ nặng. Lại nữa, có ngƣời kiếm ra đƣợc nhiều tiền, có
ngƣời thì bôn ba lặn lội vất vả mà vài đồng xu cũng
khó kiếm. Nên biết sự may rủi nào ở hiện tại cũng có
nhân duyên ở đời quá khứ. Ngƣời có thiện duyên đời
trƣớc thì dễ cảm ứng những điều may mắn, kết quả đạt
đƣợc nhƣ ý muốn trong đời này. Ngƣời tạo ác duyên
trong quá khứ thì hiện đời thƣờng gặp rủi ro, buồn
phiền, trái ý.
Trong Kinh Duy Ma Cật, Phật thuyết: “Ví nhƣ chƣ
Thiên cùng ăn cơm đựng trong chén bát quý báu, nhƣng
tùy theo phƣớc đức của họ mà hình sắc cơm có khác. Xá
Lợi Phất! Cũng vậy đó, nếu lòng ngƣời ta thanh tịnh, liền
thấy công đức trang nghiêm của cõi này.” 5
Để tránh bớt khổ đau, thất vọng, khi làm bất cứ
việc gì hãy để ý, quan tâm đến quá trình nhiều hơn,
chớ nên mong chờ quá nhiều vào kết quả, vì kết quả
còn tùy duyên. Tức là khi làm việc gì ta phải nghiên
cứu đầy đủ các nhân duyên nào làm ra một quả tốt, rồi
đầu tƣ, tác động tích cực làm cho các duyên đó đƣợc
hình thành và phát triển thuận lợi đúng nhƣ định hƣớng
của mình. Khi đã làm hết sức rồi mà không nhƣ ý
mình, thì nên chấp nhận nhƣ vậy, buồn phiền chẳng
mang lại sự khả quan hơn nữa đâu.
Các pháp là vô thƣờng, mà thấy là thƣờng còn sẽ
mang lại khổ đau. Nhƣ trƣớc kia, tôi có huy động đƣợc
một nhóm anh chị em cùng tham gia công việc sƣu tầm
5 “Ví nhƣ… cõi này” Kinh Duy Ma Cật, trang 32, Đoàn Trung Còn dịch.
17
Đức Thanh
chế biến thảo dƣợc cung cấp miễn phí đến các phòng
khám bệnh từ thiện, nhằm chăm sóc bệnh nhân nghèo.
Nhóm từ thiện này đƣợc đặt tên là “Nhóm Hoa Tâm”.
Công việc làm cũng trôi chảy, đƣợc chính quyền thành
phố tặng Bằng khen. Sau một thời gian tôi tiếp nhận
một công việc từ thiện khác, cần đầu tƣ nhiều thời gian
hơn nên nhóm này đã tan rã. Những lúc rảnh rỗi nhìn
thấy tấm Bằng khen treo còn đó, tôi bùi ngùi xúc động
nhớ lại những công việc của mình, rồi tự hỏi “Nhóm
Hoa Tâm” đã đi về đâu? Nhóm Hoa Tâm chỉ còn lại
trong ký ức của tôi mà thôi. Suy nghĩ một lúc, tôi nhận
ra “Nhóm Hoa Tâm” là một cái tên tạm đặt trong một
điều kiện nào đó. Bản thân nó là một tổ hợp nhiều phần
tử, khi đủ duyên thì thấy nó hiện, hết duyên thì không
thấy nó nữa, nó chẳng có đến, mà chẳng có đi đâu cả.
Do ta lập danh (đặt tên) cho nó và đã có thời gian gắn
bó với nó, rồi bất giác lầm tƣởng nhƣ nó là cố định.
Lúc này bỗng nhiên nhớ lại mà không thấy nó nên tâm
có một trạng thái xúc cảm. Thực sự các pháp là vô
thƣờng, chúng không có một tự tánh cố định, nó chỉ có
tên gọi, chứ không có thƣờng còn. Và tâm tôi bình thản
hơn khi nhớ lại bài kệ trong Trung Quán Luận của Bồ
Tát Long Thọ:
“Các Pháp nhân duyên sinh.
Tôi nói chính là không.
Đó gọi là giả danh.
Cũng là nghĩa Trung Đạo.” 6
6 Bát nhã Tâm kinh thiền giải, trang 13, 14 - Đƣơng Đạo.
18
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
C. Các pháp vô ngã mà chấp có ngã sở
+ Chấp thân tứ đại này là Ta
Con ngƣời, phần thân thể vật chất (sắc) do tứ đại
(đất, nƣớc, gió, lửa) duyên hợp hình thành, luôn biến
đổi, không có tự tính cố định. Do vô minh khát ái chúng
ta thấy thân này là thiệt, là thƣờng còn nên phải lo cho
nó đƣợc đầy đủ, sang trọng hơn ngƣời. Vì thế cả một
đời ngƣời cứ sống trong lo âu sợ hãi. Lúc còn nhỏ hằng
ngày lo học, cố gắng tiêu hóa một khối lƣợng kiến thức
lớn của nhà trƣờng, vào lớp sợ thầy cô khiển trách, đến
kỳ thi lo lắng không biết có làm bài đƣợc không. Học
xong phải lo kiếm việc làm, vào cơ quan lo bị mất việc.
Công việc tốt, tiền lƣơng nếu tạm ổn thì lập gia đình, lo
sắm xe, sắm nhà, sắm vật dụng gia đình, lo chăm sóc
con cái, lo gom góp để trả nợ vay mƣợn. Ngƣời thành
đạt trong kinh doanh lo thu nhập của mình bị sụt giảm,
lo du lịch giải trí, lo mua sắm thời trang, phƣơng tiện
theo kịp thời đại sợ ngƣời ta chê cƣời là mình lạc hậu.
Lại có ngƣời đã dƣ dả rồi mà vẫn cứ bôn ba lặn lội lo
kiếm tiền. Với lòng ham muốn vô tận của mình, ngƣời
ta viện đủ mọi lý do nhƣ: Sở dĩ tôi còn bôn ba kiếm tiền
là trách nhiệm này, trách nhiệm nọ, hoặc nói là làm cho
vui nhƣ một cách ngụy biện, nhằm tự trấn an, đè nén
những lo âu sợ hãi ở tâm mình. Vậy đó, con ngƣời,
trong đời sống phần lớn thì đã lo ư c cái ăn, nhưng a
phần chưa ăn ư c cái lo. Tức là, hằng ngày cái ăn, cái
mặc,… đã tạm đủ rồi; nhƣng ta lúc nào cũng chƣa thắng
(ăn) đƣợc cái lo, lo cho ngày mai không biết ra sao?
19
Đức Thanh
Ngƣời kiếm tiền khó thì lo có cái ăn, cái mặc hôm nay,
rồi lo cho ngày mai. Ngƣời có thu nhập ổn định, không
dƣ lắm, thì cố gắng làm để chi tiêu và lo để dành khi
tuổi già. Những ngƣời thu nhập cao, lo tài sản đủ nuôi
sống cả đời mình, đời con, đời cháu, rồi ganh đua, sợ
không giàu bằng ngƣời khác.
Chuyện kể, có một nông dân nọ đào đƣợc tƣợng
A la hán bằng vàng rất quý ở vùng núi hoang. Ông vui
mừng vì phần còn lại của đời ông sẽ đƣợc sung sƣớng.
Hàng xóm cũng mừng khi thấy gia đình ông đƣợc sung
túc, đầy đủ hơn kể từ ngày có của báu này. Một thời
gian ngắn sau họ thấy ông không vui, cả ngày mặt mày
ủ rũ và cứ thở dài. Hàng xóm tò mò đến hỏi: “Hiện giờ
ông thành triệu phú rồi còn gì nữa mà buồn?” Ông nói:
“Buồn quá! Vì tôi suy nghĩ không biết 17 tƣợng A la
hán còn lại kia đang chôn ở đâu?” 7
Một đời lo toan, sợ hãi trong đƣợc-mất, giàu sang,
sắc dục, danh vọng, quyền lực,… tƣởng thân này là
còn mãi, mà quên đi sự vô thƣờng, cái già yếu thật sự
đang cùng vận hành song song. Ngài Tuệ Trung
Thƣợng Sĩ trong bài kệ Khuyên ời vào o đã diễn tả:
“Thời tiết xoay vần xuân ến thu
Cái già sồng s c ã lên ầu,
Giàu sang ngó l i trơ tràng m ng,
Năm tháng mang theo chất h c sầu…” 8
7 “Chuyện kể… đâu?” Góp nhặt cát á, trang 66, Phạm Cao Hoàn biên dịch.
8 “Thời tiết… hộc sầu…” Xuân trong cửa Thiền, trang 563 - Hòa thƣợng
Thích Thanh Từ.
20
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
Thời gian thì cứ trôi, hết mùa xuân rồi lại mùa hạ,
thu, đông. Trên đầu tóc đã bạc, ngẫm nghĩ lại cuộc đời
lúc thăng, lúc trầm, những trải nghiệm vui buồn trong
đời đã trôi qua nhƣ một giấc chiêm bao không thể nắm
bắt đƣợc. Thức giấc, biết chiêm bao là không thật,
nhƣng trong lúc chiêm cũng có cảm thọ vui sƣớng hay
khổ đau phiền muộn theo cảnh vậy. Cuộc đời là một
giấc chiêm bao dài, trong đó con ngƣời thấy có giàu
sang, vinh nhục, đƣợc-mất,… với cái tâm chấp trƣớc
của mình mà ra. Đến tuổi già nó chất chứa đầy ắp cả
hộc sầu muộn. Tâm lúc nào cũng có điều bất an với
những cái Ta ham muốn, cái Ta đƣợc mất, cái Ta ƣớc
vọng chƣa toại nguyện…. Chính điều này đã làm cho
nội tâm của chúng ta thiếu an lạc, hạnh phúc.
Kinh Bát Đ i Nhân Giác Đức Phật dạy: “Điều thứ
ba giác ngộ rằng tâm ta không bao giờ biết chán đối
với dục lạc, luôn muốn đƣợc nhiều, vì vậy tội ác tăng
trƣởng. Bậc Bồ Tát thì không nhƣ vậy, họ luôn nghĩ
đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy
trí tuệ làm sự nghiệp của mình.” 9
Nếu có nhiều ham muốn thọ lạc thì càng mang lại
khổ đau, tội ác tăng trƣởng. Ít ham muốn, sống biết đủ,
thì trí tuệ tăng trƣởng, hạnh phúc có mặt.
Ngƣời biết đủ là biết hài lòng với những gì mình
có đƣợc, đó là ngƣời hạnh phúc, giàu có nhất. Vì ngƣời
9 “Điều thứ ba… của mình” Con ường Bồ Tát nhập thế (Kinh Bát Đ i Nhân
Giác), trang 34, 35 – Hòa thƣợng Thích Viên Giác dịch. Phần chánh văn:
“Đệ tam tri giác, tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trƣởng tội ác, Bồ Tát
bất nhĩ, thƣờng niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.”
21
Đức Thanh
giàu có là ngƣời luôn cảm thấy sung sƣớng, thỏa mãn
với những cái mình đã có. Ngƣợc lại, ngƣời nghèo là
ngƣời luôn thấy thiếu thốn, khao khát những cái mình
muốn mà không đƣợc đáp ứng.
Ngƣời không biết đủ luôn cảm thấy thiếu thốn,
khao khát, luôn tìm kiếm những gì họ muốn nên vẫn là
ngƣời nghèo, cho dù tài sản họ có nhiều đến đâu đi nữa.
Chúng ta thử suy nghiệm: Sự giàu hay sự nghèo,
sự thiếu hay sự đủ gom lại chỉ trong m t ý niệm của
tâm mà thôi. Khi một ý niệm chấp trƣớc về sự giàu, sự
nghèo, rồi so sánh, hơn thua, tị hiềm, hay mặc cảm,
buồn tủi cho số phận,… là tự tạo ra xúc tình phiền não
cho mình. Khi đối cảnh tâm không khởi niệm so sánh
phân biệt, thì tâm vẫn an nhiên, đâu bị sự giàu-nghèo
làm chƣớng ngại. Ví dụ nhƣ có dịp phải ghé thăm một
ngƣời quen, khi ta bƣớc vào nhà thấy quá hoành tráng
về vật chất, nếu phát khởi một niệm về sự giàu-nghèo
rồi nhƣ tự thấy mình hơi quá lép vế. Chính cái trạng
thái tâm lý này dẫn đến thân thể chúng ta co ro, khép
nép, không tự tin trong giao tiếp. Hãy sống một cách
thật tri túc (biết đủ) với cái mình hiện có. Tức là, chúng
ta nên là ngƣời luôn tri túc, an phận. Nếu là ngƣời
nghèo hãy sống an phận với cái nghèo của mình mà
không cần phải để tâm so sánh phân biệt rồi phiền
muộn. Nếu là ngƣời giàu có hãy sống hạnh phúc với
cái có của mình, biết đó là phƣớc báo của mình, đừng
có tham đắm, ƣớc vọng nhiều hơn nữa và phải biết
muốn giữ đƣợc nhƣ thế bền lâu thì ngoài việc thọ dụng
22
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
còn phải khơi thêm dòng chảy phƣớc đức. Việc thọ
dụng của thân nên vừa đủ, hợp lý và cần thiết, không
nên khoe khoang hoặc biểu hiện một lối sống giàu có,
thọ dụng phung phí, thừa mứa của mình làm ngƣời
nghèo khi nhìn thấy sẽ sinh tâm buồn tủi.
Hơn nữa, cái giàu-nghèo đâu có cố định theo
thời gian, là pháp đối đãi trong thế gian. Giàu nhân
Nghèo mà lập, nên chẳng phải là pháp tuyệt đối thƣờng
hằng. Vả lại, tâm này thì vô ngã, không có ai làm chủ
tể, thì lấy ai chịu vinh, ai chịu nhục, ai hơn, ai thua, ai
giàu, ai nghèo đây? Còn bảo thân này giàu, thì có giàu
mãi không? Hay chỉ giàu đƣợc tám chín chục năm thôi
rồi chết, cái giàu này đi về đâu? Khi ta chấp thủ và bám
víu vào những cái gì mà bản chất nó là vô thƣờng, vô
ngã thì chắc chắn sẽ gặt hái khổ đau. Phải biết lòng
tham là đầu mối của sự bám víu, vƣớng mắc. Khi mình
có quá nhiều nhu cầu thì phải hƣớng tâm tìm kiếm,
phải đầu tƣ ý chí, tình cảm, sức khỏe và thời gian để
đạt đƣợc nó. Chính nhƣ thế con ngƣời trở thành kẻ nô
lệ của dục vọng, hằng ngày bị cuốn hút bởi phƣơng
hƣớng, mục tiêu phải đạt đến, đánh đổi cái nội tâm an
lạc của chính mình. Dù là ngƣời nghèo hay ngƣời giàu
đều chịu cùng một qui luật vô thƣờng, khi chúng ta lìa
đời, không mang theo cái gì hết; chỉ trừ những thứ
không đƣợc coi là vật chất. Thế nên, hãy hƣớng về việc
làm giàu đời sống tâm linh, thực tập một đời sống
thánh thiện và siêu thoát, đó là ý nghĩa mục đích tối
hậu của cuộc đời này.
23
Đức Thanh
Trong Kinh Di Giáo Phật dạy: “Ngƣời biết đủ dù
nằm trên đất vẫn an lạc, còn ngƣời không biết đủ dù
đƣợc ở thiên đƣờng vẫn không vừa ý.” 10
Sự vật bên ngoài thay đổi liên tục theo duyên.
Thân tứ đại này cũng thay đổi biến hoại trong từng sát
na. Con ngƣời bình thƣờng, khi tiếp xúc với trần cảnh,
tâm khởi lên ƣa thích cái này, muốn đƣợc cái kia, nhƣ
muốn đƣợc nhiều tiền, muốn có vợ đẹp, muốn có địa
vị, quyền lực trong gia đình và ngoài xã hội,… Tất cả
cái tâm mu n ư c này đều là lòng tham, có đƣợc một
thì muốn hai, có hai thì muốn mƣời,… Khi có đƣợc rồi
thì sợ mất, phải lo cất giấu, trong tâm tràn ngập những
xúc tình phiền não trói buộc. Cuộc sống thật là bận rộn
với những suy tính, lo toan, để tâm rong ruổi theo các
tin tức thời sự, quảng cáo thời trang, phƣơng tiện tiêu
dùng,… Tất cả những việc này là nhằm phục vụ cho
thân đƣợc sung sƣớng, có đƣợc cảm giác êm ái. Nhƣng
cảm giác qua rồi làm sao giữ đƣợc nó, mọi sự níu kéo,
nắm giữ cảm giác là vô vọng. Nhƣ món đồ ăn dù ngon
đến mấy cũng không thể ăn lâu quá một giờ, nếu kéo
dài thời gian chính là khổ thọ, là cực hình. Chúng ta
bận rộn chăm sóc cho thân quá nhiều mà quên mất đi
cái tâm đang khá mệt mỏi.
Con ngƣời tìm lối thoát khỏi trạng thái suy tƣ, lo
âu, bằng cách giải trí nhƣ nghe nhạc, xem kịch hài,
chơi game, du lịch, đi ngủ… Những thứ này chỉ làm
10 “Ngƣời biết… vừa ý” Con ường Bồ Tát nhập thế trong Kinh Bát Đ i
Nhân Giác, trang 37 - Hòa thƣợng Thích Viên Giác dịch.
24
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
dịu đi sự căng thẳng mệt mỏi của tâm, chứ chƣa thật
cho tâm an nghỉ. Bởi vì, dù là hình thức giải trí nào đi
nữa thì tâm cũng phan duyên theo nó, dính mắc vào nó,
cảm giác buồn vui theo nó, kể cả khi ngủ tâm cũng đâu
hẳn đƣợc an ổn vì mộng mị. Hãy dành nhiều hoặc một
ít thời gian trong ngày để cho tâm đƣợc an trụ trong tự
tánh rỗng không, thanh tịnh, hằng sáng của nó, nhƣ khi
nghe một tiếng chim hót, ngắm một nụ hoa,… Với tâm
tĩnh lặng vô sai biệt, ta sẽ nghe một cảm giác thanh
thản, bình yên tràn ngập thực sự trong nội tâm mình.
+ Chấp Tâm này là Ta
Cái mà chúng ta gọi là Tâm (thọ, tƣởng, hành,
thức) của con ngƣời cũng không phải là một thực thể
đơn thuần, nguyên vẹn. Nó chỉ là một chuỗi dài những
chặp tƣ tƣởng sinh khởi liên tục nối tiếp nhau nhƣ vô
cùng tận. Nếu có dịp ra biển, ta sẽ thấy vô vàn lƣợn
sóng nhấp nhô; sóng có to, có nhỏ thiên hình vạn trạng.
Lƣợn sóng này nhô lên rồi lặng rơi trở xuống, truyền
cái lực đẩy của mình cho lƣợn sóng kế đó, lƣợn sóng
sau có hình dạng cao hay thấp, mạnh hay yếu phụ
thuộc vào động năng của lƣợn sóng trƣớc và sức gió
hiện tại tác động. Cũng thế, một chặp tƣ tƣởng hiện
khởi trong tâm, tồn tại với một thời gian rất ngắn, rồi
truyền tải cái khuynh hƣớng, cái tác ý,… của mình cho
chặp tƣ tƣởng kế. Chặp tƣ tƣởng sau là bản hợp tấu của
chặp tƣ tƣởng trƣớc và cảnh duyên hiện tại. Sáng sớm
thức dậy ta gặp một việc không vừa ý, tâm thấy khó
chịu nhƣng chƣa biểu lộ, vì là đang có khách. Buổi trƣa
25
Đức Thanh
lại có một việc bất trắc nhỏ hơi trái ý mình, mặc dù
không gây hậu quả nghiêm trọng lắm, nhƣng Tâm ta
lại quá phẫn nộ. Mới biết cái tƣ tƣởng khó chịu ở buổi
sáng nó ngủ ngầm, chứ đâu có mất, buổi chiều có thêm
một duyên mới nữa thì hiện thành cơn giận với cƣờng
độ lớn hơn. Một ví dụ nữa, khi trong tâm ta chợt nhớ
về một cái gì đó, nhƣ nhớ đến bông cúc chẳng hạn, thì
phát sinh một loạt tƣ tƣởng nghĩ về nó: nghĩ cúc ở đâu
là đẹp nhất, cúc màu gì làm thuốc tốt nhất, cách trồng
cúc nhƣ thế nào,… Những chặp tƣ tƣởng phát khởi
trong tâm vô cùng nhanh chóng, chuyển hóa cho nhau,
làm nhân cho nhau, hết chặp này đến chặp khác; điều
này làm cho ta tƣởng nhƣ có một thực thể đơn thuần.
Trong thực tế có sự trôi chảy của những chặp tƣ tƣởng
kế tiếp nối đuôi nhau nhƣ một dòng sông; không có cái
gì là chủ tể (cái Ta) điều khiển ở phía sau nó.
+ Chấp cái c a Ta là sở hữu thường h ng
Hằng ngày ta sống với nhiều cái Ta là, bởi sau
mỗi cái Ta là một nhãn hiệu, một khái niệm rồi bám
giữ nó, hài lòng với nó; từ đó lại sinh ra biết bao tri
kiến, tình chấp xung quanh nó, quyết bảo vệ nó đến
cùng. Thế là, nếu ai làm cái Ta là này không vừa ý thì
lửa sân nổi lên, nội tâm bất an, hoặc có khi đối trả lại
bằng hành động không tự chủ của thân và khẩu nữa.
Có một dịp tôi đi khám bệnh, khi vào khám bệnh
lƣơng y hỏi tôi bị bệnh gì? Tôi nói: Bị đau thần kinh
tọa. Bỗng nhiên thấy thầy đỏ mặt và nói: Vậy thì ông
tự chữa chứ đến đây làm gì? Tôi ngơ ngác không hiểu
26
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
tại sao? Thấy vậy thầy bảo: Sao ông biết mình đau thần
kinh tọa? Tôi nói do thầy thuốc trƣớc kia bảo nhƣ vậy,
nên tôi nói lại. Thầy nói: Mai mốt ông đi khám bệnh,
nếu hỏi đau cái gì thì nói đau cái đó, nhƣ đau lƣng, đau
chân, hay đau tay thôi, chứ đừng có định bệnh trƣớc
cho thầy nghe. Về sau tôi đọc sách Đông y mới hiểu ra
“Đau thần kinh tọa” là một kết luận mà sau khi các
thầy thuốc chẩn đoán và sẽ kê toa theo phƣơng đơn.
Qua chuyện này ta thấy, một khi đã chấp thủ Ta
là thầy thuốc thì từ sâu thẳm trong thức tâm đã hình
thành một sự độc tôn, một sự hãnh diện với nó rồi. Thế
là, chỉ với một câu trả lời thật tình của bệnh nhân mà
thầy thuốc tƣởng họ đi trƣớc chuyên môn của mình, rồi
sinh tức giận.
Ta là giám đốc nên ta có toàn quyền trong việc
điều hành, quyết định tất cả các công việc kinh doanh
trong công ty điều đó là hiển nhiên. Nhƣng mỗi khi nói
Ta là giám đốc, thì hình nhƣ bên trong nó còn ngấm
ngầm một sự độc tôn, ta khó mà nhận ra chúng và khi
gặp dịp trái ý nó sẽ phát khởi hiện thành sự tự tôn, mặc
cảm hay cơn giận mà ta không làm chủ đƣợc nó, với
biểu hiện bên ngoài có thể là hành động lớn tiếng quát
nạt không cần suy xét, không để cho ai trình bày.
Ta là đại gia, một khi trong tâm có ý niệm này thì
kéo theo hàng loạt những sự chấp thủ bám víu khác về
hành động, nhân cách, sự suy nghĩ trong cuộc sống
nhƣ: giá trị lời nói của Ta, vị trí của Ta trong xã hội,…
sinh mạng của Ta và gia đình Ta là quý giá chẳng hạn.
27
Đức Thanh
Thế là, mỗi khi con Ta có sự cố dù chỉ một tí thôi thì
tâm ta lo lắng, bất an rất nhiều. Ngƣời đời nói “Ngƣời
giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột” là vậy đó.
Khi chấp thủ về một cái Ta là… thì đã đóng
khung mình trong một cái vỏ chết, giống nhƣ loài ốc
mƣợn hồn, bản thân nó là loài cua, nhƣng mƣợn cái vỏ
ốc chết làm thân, chỉ thò bốn cái chân ra ngoài, đi đâu
cũng lê cái vỏ ốc nặng nề ấy theo. Sự bám chấp vào cái
Ta là này cũng lại nhƣ thế. Nó chỉ làm tăng trƣởng sự
vị kỷ của mình, quên đi tình yêu thƣơng, lòng bao dung
với đồng loại; cũng nhƣ làm ngăn che trí biết sáng
ngời, rộng lớn ở nơi tâm. Nên biết, những kiến thức ta
đang nhận, những kinh nghiệm ta đang có đã đƣợc
nhân loại đúc kết từ hàng ngàn năm. Ta có đƣợc cái Ta
là bác sĩ, Ta là kỹ sƣ,... cũng là nhờ công sức đóng góp
của toàn xã hội; ta đƣợc may mắn có đủ nhân duyên để
nhận nó, thì phải biết trân trọng. Bởi thế, có ngƣời xem
cái Ta là nhƣ một sự tạm ứng mà suốt đời họ phấn đấu
để đền trả nó. Lại có ngƣời xem cái Ta là nhƣ một sự
ngẫu nhiên để rồi thụ hƣởng nó, từ đó thể hiện cách
sống tự tôn.
Ngẫm nghĩ lại cuộc đời chúng ta từ nhỏ đến già
có quá nhiều cái Ta là. Mới sinh ra Ta là một em bé,
lớn lên đến tuổi đi học Ta là học sinh-sinh viên, ra
trƣờng Ta là thầy, Ta là thợ, Ta là chồng-vợ, Ta là
ông-bà,... cuối cùng Ta là nấm mồ. Vậy, cái Ta của
mình nó là cái nào đây? Cái Ta thực sự không hiện
hữu, bởi tất cả cái Ta là nhƣ mây nhƣ khói, nó có đó để
28
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
rồi mất đi, nó là sự vay mƣợn, nó do duyên hợp mà có,
nó có mà không có tự tánh cố định, nên nói là giả danh.
Những thứ của ta nhƣ: nhà của ta, tiện nghi của ta,
tiền bạc của ta, vợ của ta, con của ta, địa vị của ta,
quyền lực của ta,... Trong đời sống với quá nhiều cái
của Ta cùng cái Ta là bao bọc với một lớp vỏ dầy thật
là chắc chắn, và làm nhƣ thể tất cả hợp thành một hệ
thống bảo vệ cho cái Ta này thật là kiên cố. Việc này
làm cho cái Ta cảm thấy an toàn vững chắc hơn nữa.
Cái trạng thái tâm lý này tạo điều kiện cho việc củng
cố hơn nữa cái Ta hiện hữu, tạo cho tâm ta những ảo
tƣởng về một cái Ta bền vững. Điều này có thể biểu
hiện ra bên ngoài là động thái ta giàu có, ta là đại gia,
ta hơn ai hết,.... Và rồi tâm lại phát sinh thêm chấp lễ,
chấp nghĩa, chấp sang, chấp hèn,... ai động đến cái Ta
dù chỉ một chút cũng sinh nổi loạn. Chúng ta thƣờng
thấy ngƣời có nhiều cái của Ta, cũng nhƣ ngƣời có cái
Ta là hơi đặc biệt quan trọng thì rất khó buông xả. Nếu
bảo họ tu hành, kham nhẫn ăn chay, niệm Phật thì rất
khó, trừ các bậc thƣợng căn hay các vị đã gieo trồng
căn lành từ nhiều đời sống trƣớc.
Nên biết, sở dĩ pháp có là do duyên hợp lại mà
có, chúng biến hiện nhƣ huyễn, nên gọi là giả có. Khi
đủ duyên hội tụ ở chỗ này, hết duyên sẽ chuyển sang
nơi khác, cái gọi là của Ta cũng không bền vững theo
không gian và thời gian. Nhƣ khi còn tiền tiêu xài thì
nhà cửa, tài sản là của Ta, vƣờn tƣợc, không gian này
ta tùy ý thọ dụng. Nếu có một biến cố nào đó phải hết
29
Đức Thanh
tiền nhƣ nợ đến hạn trả, thiên tai, con cái đau ốm, tai
nạn hay ăn chơi thế chấp.... thì nhà cửa, không gian
này hiện giờ có còn là của ta nữa hay không?
Nói đến con Ta, từ lúc nhỏ ta cực khổ nuôi nấng
săn sóc, nó nói năng rất lễ phép, vâng lời cha mẹ, gọi
Ta bằng cha mẹ nghe ngọt ngào hạnh phúc làm sao.
Rồi khi lớn lên khuyên dạy không còn nghe, không tôn
trọng cha mẹ, không chấp nhận gia đình, muốn tự do
nên rời khỏi nhà thì cái gọi là con Ta đã đi về đâu?
Nhiều lúc ta cũng nên xét lại, nói là con Ta nhƣng nó
hoàn toàn đâu phải là bản sao của ta đâu, nó là một tập
hợp ngũ uẩn riêng biệt, về phần sắc chất (thân thể, máu
huyết…) thì đôi khi có một số đặc điểm giống ta. Về
phần yếu tố tâm lý nhƣ: thọ, tƣởng, hành thức có phải
là của ta đâu. Tâm lý này một phần đƣợc đúc kết từ
nhiều đời sống trƣớc đó (ta gọi là tập khí) cộng thêm
nhân duyên hiện tại để thể hiện thành nhân cách, hành
động trong cuộc sống này. Bản chất con cái là tốt hay
xấu cũng phụ thuộc vào duyên nghiệp mà nó mang và
tƣ tƣởng tiếp thu ở môi trƣờng hiện tại. Ngoài cái
nghiệp chung giống cha mẹ, con cái có nghiệp riêng
của nó. Bảo nó là của ta, bảo nó phải hoàn toàn giống
ta, sống theo khuôn đúc của ta thì là quá chủ quan. Vì
thƣơng con nên cái tâm ta luôn bận bịu dính mắc vào
nó, ta suy nghĩ rồi tìm đủ cách để nó trở thành một con
ngƣời hoàn hảo nhƣ siêng năng, học giỏi, có đạo đức,
có tác phong tốt. Khi mà nó không đáp ứng đƣợc điều
này thì ta thấy khó chịu, bực bội nó. Chính vì cái tâm
30
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
chấp thủ này làm cho chúng ta không thể thƣơng yêu
con cái một cách trọn vẹn. Khi hiểu sự hình thành của
gia đình, sự ra đời của con cái với mình là một nghiệp
duyên, đã theo duyên thì không có tánh cố định, nên
nói bản chất nó là rỗng không. Biết nó là rỗng không,
thì hãy tùy duyên, hãy để con cái sống bằng con ngƣời
thật, với khả năng thực sự của chúng; thay vì phải theo
những mẫu ngƣời có s n mà ta đã áp đặt. Tôi nghĩ nhƣ
thế này để tự an ủi: nếu ai cũng muốn con mình làm
thầy, vậy thì ai làm thợ, ai làm công nhân? Hãy để
chọn lọc tự nhiên, nếu nó đủ năng lực thì làm thầy, còn
chƣa thì làm thợ. Làm thầy, hay thợ mà làm tròn trách
nhiệm là tốt rồi. Khi tôi buông xả những mong muốn
về sự hoàn hảo của con cái; tôi thấy dƣờng nhƣ dễ
thông cảm với nó hơn, nhận thức khách quan về nó
hơn. Thái độ cởi mở của tôi chắc từ từ sẽ làm cho con
cái hiểu, thay vì chỉ biết phản ứng lại với sự dạy bảo.
Tình yêu trong hôn nhân cũng vậy, hai ngƣời còn
yêu thƣơng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, sống chung
với nhau thì gọi là vợ của ta. Nếu có một biến cố nào
đó, nhƣ ngƣời này không thỏa mãn đƣợc nhu cầu của
ngƣời kia dẫn đến phải chia tay, thì danh từ vợ ta đi về
đâu? Suy ngẫm về vấn đề này qua một câu chuyện thời
Đức Phật còn tại thế.
Một hôm, vua Ba Tƣ Nặc hỏi Mạt Lợi phu nhân:
- Trên đời này ái khanh yêu ai nhất?
Bà đáp:
- Dĩ nhiên thiếp yêu bệ hạ nhất.
31
Đức Thanh
Rồi bà mới hỏi lại:
- Còn bệ hạ, chẳng hay bệ hạ thƣơng yêu ai nhất?
Vua đáp:
- Trẫm thƣơng yêu ái khanh nhất chớ còn ai nữa.
Mạt Lợi phu nhân lại nói thêm:
- Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ cho phép, thì thần thiếp sẽ
nói khác đi một chút.
Vua hơi ngần ngại nhƣng cũng nói:
- Đƣợc ái khanh cứ nói.
Bà thƣa:
- Muôn tâu bệ hạ! Thực ra trên cõi đời này thần
thiếp chỉ thƣơng yêu thần thiếp nhất thôi!
Vua không hiểu, nói:
- Ái khanh nói rõ hơn cho trẫm biết không?
Bà mới giải thích:
- Bởi vì thần thiếp thƣơng yêu chính mình, nên
muốn bệ hạ ban bố cho thân của thần thiếp đƣợc hạnh
phúc, đƣợc nhiều an vui, mà muốn đƣợc nhƣ vậy thì
thần thiếp phải thƣơng yêu bệ hạ. Có vậy bệ hạ mới
thƣơng yêu, rồi ban bố cho thần thiếp hạnh phúc, cái
này, cái kia… Cho nên vì yêu thƣơng mình mà thần
thiếp yêu thƣơng bệ hạ… Cũng nhƣ bệ hạ cũng chỉ yêu
thƣơng mình bệ hạ thôi. Để làm rõ việc này, thần thiếp
xin ví dụ, nếu nhƣ thần thiếp lại yêu thƣơng một ngƣời
khác thì bệ hạ sẽ nghĩ thế nào? Có phải bệ hạ sẽ chém
đầu thần thiếp hay không? Nghĩa là nếu thật sự bệ hạ
yêu thƣơng thần thiếp bậc nhất, thì trƣớc sau gì vẫn
yêu thƣơng, cớ sau chém đầu? Đó là lẽ thật!
32
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
Vua Ba Tƣ Nặc lúc đó mới hiểu ra. Hôm sau vua
đến thăm Phật, rồi thuật lại việc bàn luận giữa vua và
Mạt Lợi phu nhân, xin Phật xác minh. Phật xác nhận
lời của bà Mạt Lợi phu nhân là đúng. 11
Qua câu chuyện trên, ta thấy tình yêu thế gian
thực sự là yêu cái tự ngã của mình, nó mang tính
tƣơng đối của thế tục. Các pháp do duyên hợp hƣ giả
mà có, chúng không có tự tánh cố định (tánh không),
không tuyệt đối là một cái gì hết mà tùy duyên ngƣời
ta gắn vào nó một cái nhãn hiệu, đối với tình yêu cũng
không ngoại lệ. Nhiều nhà văn, nhà thơ gán cho tình
yêu lứa đôi những nhãn hiệu đẹp, nó cũng không sai
trên nhãn quan thế tục. Là cƣ sĩ học Phật, hãy tập nhìn
tình yêu lứa đôi, hôn nhân, gia đình bằng con mắt Bát
Nhã. Biết tình yêu lứa đôi mang tính tự ngã, không
phải để bi quan, chán đời, lìa bỏ gia đình, mà phải biết
tình yêu này do hội tụ đủ duyên mà có, nó không có
tánh cố định theo không gian, thời gian, nhƣ đủ duyên
hội tụ, hết duyên thì tan. Hiểu nhƣ thế để làm gì? Để
không còn ngộ nhận cho tình cảm này là định mệnh,
bất di bất dịch. Cố tâm muốn sở hữu ngƣời mình yêu,
cố tâm muốn sở hữu ngƣời vợ, sở hữu con cái. Cố tâm
bám víu nó khi đã hết duyên. Sống tùy thuận nơi thế
tục mà vẫn đƣợc tự tại với tâm rỗng rang không chấp
thủ sẽ mang đến tình thƣơng và sự quan tâm theo
nghĩa đúng nhất của tình yêu. Trái lại, mọi ý niệm về
11 “Một hôm… là đúng” Con ường giác ng , trang 60, 61 – Hòa thƣợng
Thích Thông Phƣơng.
33
Đức Thanh
sự chấp thủ nhƣ vợ tôi, dẫn đến động thái, hành động
muốn sở hữu ngƣời mình yêu, sẽ tạo xúc cảm phiền
não cho chính mình. Nhƣng làm sao ở trong thế tục
mà không vƣớng mắc?
Trong Tịnh Đ Chỉ Quyết, có một cƣ sĩ hỏi thiền
sƣ: “Ngƣời tại gia suốt ngày phải đối mặt với vợ con,
quyến thuộc, mắt thấy tai nghe đều là việc chƣớng đạo.
Muốn cắt đứt hẳn thì phải xuất gia, nếu còn ở trong nhà
thì phải có phƣơng tiện khéo léo? Nay muốn đƣợc thầy
chỉ dạy.” Thiền sƣ trả lời: “Tu thiền hay tu tịnh chẳng
luận tại gia hay xuất gia, hãy xem nguyên nhân phát
tâm có chân thật hay không. Nếu phát tâm chân thật thì
ở nhà đoàn tụ với vợ con, quyến thuộc mà trí tuệ
thƣờng sáng suốt, không bị trở ngại. Xƣa nay mắt thấy
tai nghe những ngƣời tại gia đắc đạo rất nhiều, đâu cần
thiết phải xuất gia tham vấn, sau đó mới có thể học
đạo.” Thế nên phẩm Tịnh H nh trong Kinh Hoa
Nghiêm đã chỉ:
“Bồ Tát t i gia
Nên nguyện chúng sinh
Biết nhà tánh không
Khỏi sự ức ách.”
Nếu quả thật biết rõ bản chất của gia đình là rỗng
không, thì tất cả tùy duyên, chẳng sinh tâm tham luyến
vƣớng mắc. Khi bồng con, đùa với cháu, vui cƣời,
mắng giận đều đủ để khai phát bản tính, hỗ trợ cái nhìn
chân chính. Nhƣ thế đâu cần tại gia hay xuất gia. Còn
nếu ngƣời phát tâm không chân thật thì tại gia chẳng
34
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
thể đắc đạo, mà ngay cả xuất gia cũng chỉ là “Ông tăng
vì cơm áo” mà thôi. 12
Khi chơi đùa với cháu, khi nó làm trò,… tâm ta
thấy nó dễ thƣơng, rồi cƣời đùa với nó. Một lúc sau nó
nổi cáu, quậy phá làm tâm ta khó chịu, rồi mắng giận
nó. Vậy nếu nói tâm là mình, thì tại sao trƣớc đó một
lúc lại vui cƣời, sau đó một chút lại mắng giận. Cái
mắng giận là mình hay cái vui là mình. Rồi đứa bé lúc
nãy cƣời, giờ sao lại khóc... Tất cả trạng thái tâm lý
này là tùy duyên, nó không có cái gì cố định, bản chất
của nó là rỗng không, không có tự tánh. Thế nên thiền
sƣ bảo: Khi bồng con, đùa cháu, khi vui cƣời, hay
mắng giận cũng đủ khai phát cái nhìn chân chính là
vậy. Hơn nữa, để tháo g khổ đau hãy thực tập lòng
yêu thƣơng trong sáng, hồn nhiên nhƣ ngắm nhìn một
bông hoa đẹp nơi công viên vậy. Chiêm ngƣ ng bông
hoa bằng một tình yêu say đắm, sảng khoái trong sự
hiện hữu của nó, nhƣng nó không phải là vật sở hữu
của riêng mình.
Chấp ta và sở hữu của ta là nhận lấy khổ đau.
Nhƣng cũng có một cách nhìn nhận sự việc để giảm
bớt khổ đau đối với cái mà tôi đang sở hữu. Hòa
thƣợng Sri Dhammananda dạy: “Đừng nói rằng cái này
là của anh, và cái kia là của tôi. Chỉ nói cái này đến với
anh, cái kia đến với tôi…”. 13
12 “Tu thiền… mà thôi.” Tịnh chỉ quyết, trang 41, 43 - Thích Minh Thành dịch.
13 “Đừng nói… với tôi…” Nhẹ gánh lo âu, trang 20 - Phạm Kim Khánh dịch.
35
Đức Thanh
Thay vì nói một cách quá khẳng định thì nên nói
là cái ó ến với tôi. Khi nói cái ó là của tôi thì thấy
nhƣ chúng cố định, thƣờng còn, bền lâu một cách chắc
nịch đối với mình. Khi mất nó tâm ta thấy bùi ngùi đau
xót. Khi nói cái ó ến với tôi, cách nói này hàm chứa
ngay đó một pháp nhân duyên, có ến, ắt sẽ có i nhƣ
là một cái gì đó thật sự hiển nhiên, chỉ đợi thời gian trả
lời mà thôi. Với cách nhìn nhận này thì khi cái đó mất
đi tâm ta không bị động, không tiếc rẻ, vì biết đã hết
duyên thì nó đi, là tất yếu rồi. Việc này vận dụng cũng
tốt trong cách nhìn nhận về tình cảm lứa đôi. Thay vì
khẳng định cô ấy là của tôi thì hãy nói cô ấy ến với
tôi. Hay vận dụng trong cách nhìn nhận việc sở hữu tài
sản cũng đƣợc, mặc dù nghe hơi chối tai, nhƣ lâu dần
tâm bớt chấp thật về vật chất cũng nhƣ tinh thần. Nhƣ
thay vì nói chiếc xe này là của tôi hãy nói chiếc xe này
ến với tôi.
Để bào mòn bớt tự ngã (cái tôi) của mình, thì
trong lời nói ra đừng để khẳng định cái tôi nhiều quá.
Nhƣ khi nhận định, tranh cãi một vấn đề gì đó, thay vì
nói úng, sai thì nên nói theo tôi nhận thấy nó úng,
theo tôi nhận thấy nó sai. Cách nói này có chứa đựng
pháp nhân duyên, tức cái thấy qua tâm tôi là vậy đó, có
thể cái thấy qua tâm ông chƣa phải là nhƣ vậy.
Hoặc là đa phần chúng ta chấp thân và tâm là
tôi, để tiêu dần chấp cái tôi này thì trong cách diễn tả,
cảm nhận cũng nên tách rời cái nào là của thân, cái
nào là của tâm. Nhƣ khi cảm thấy lạnh ta thƣờng nói
36
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
tôi l nh, thay vào đó nên nói thân ang có cảm giác
l nh. Hoặc khi có cảm giác buồn nổi lên, thay vì nói
tôi uồn, hãy nói tâm ang có m t cảm giác uồn.
Phần ngôn ngữ này khó đƣợc chấp nhận trong giao
tiếp của ngƣời đời, nhƣng để phá chấp dần ta có thể
sử dụng nó trong khi đàm đạo, hoặc trong một điều
kiện nào đó có thể cho phép.
Bản chất thực sự của con ngƣời và sự vật là vô
ngã (không có Ta), vậy mà suốt cuộc đời, chúng ta nai
lƣng ra tạo nghiệp phục vụ cho cái Ta và những cái của
Ta để rồi khi tắt thở bỏ lại tất cả, ngay cả cái thân xác
mà ta hằng yêu quý chăm sóc nó hằng ngày cũng phải
bỏ lại. Ta chỉ đƣợc phép mang theo cái nghiệp mà
chính ta đã tạo tác ở cõi đời này, nó là hành trang qui
định bắt buộc phải cất giữ để rồi phải lãnh thọ quả báo
ở kiếp sống kế tiếp.
37
Đức Thanh
BIẾT ƠN CHÚNG SINH
Khi có chén cơm để no lòng, manh áo để mặc cho
ấm áp, nên nhớ đến công sức của các bác nông dân đã
dầm mƣa dãi nắng cơ cực, cô thợ dệt lao động vất vả
trong xí nghiệp bất kể ngày đêm… Rồi đến những
chúng sinh hữu tình khác (sâu bọ, côn trùng,..) phải hi
sinh mạng sống để cho hạt lúa, sợi bông đƣa đến cho
con ngƣời sử dụng đƣợc hoàn mãn. Nhìn kỹ lại, từ mỗi
vật dụng đến kiến thức, kinh nghiệm ta có đƣợc trong
đời sống này, đều là sự đóng góp, sự hi sinh của chúng
sinh. Nếu có một mình ta trong trời đất này thì ta không
thể tồn tại đƣợc, cái gọi là của ta không phải hoàn toàn
là do ta làm ra đâu, ta chỉ là một phần trong chuỗi
duyên sinh ra nó mà thôi. Con ngƣời tồn tại đƣợc do
mang tính cộng đồng, ta may mắn khi có việc làm
thuận lợi, thu nhập khá hơn, đời sống đầy đủ hơn. Hãy
nên biết ta có đƣợc hạnh phúc nhƣ vầy là nhờ vào sự
góp sức của nhân loại, trong đó có cả những chúng
sinh bất hạnh hơn ta. Thế nên, khi ta có đƣợc một sự
may mắn nào, thì ngoài việc thọ dụng vừa đủ, nên phát
nguyện san sẻ một phần cho những chúng sinh đang
nghèo khó, nhƣ một sự hiến dâng.
Nhƣng tâm ta thƣờng có nhiều sự ngã chấp. Khi
giúp đ tài vật gì cho ngƣời khác, thì đôi lúc sâu thẳm
trong tiềm thức của ta đã hình thành cái tâm lý người
cho-k nhận. Cái tâm lý này cho ta cảm giác thanh thản,
thƣ thái,… trong việc làm thiện, thấy mình là ngƣời
cho, bên kia là kẻ nhận. Bên trong phần vi tế của tâm
nhƣ thầm ƣớc định: kẻ nhận phải biết từ tốn, lễ độ, phải
38
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
biết ơn… Nếu bên nhận sơ ý có những cử chỉ thái độ
không nhƣ ý ta, thì tâm ta sinh ra hàng loạt những trạng
thái bực bội, bất an, đôi khi còn đối trả lại bằng hành
động. (Điều này trong kinh Phật nói: bố thí mà còn có
tƣớng ngã, tƣớng nhân.)
Thật ra, đời ngƣời nhƣ một trƣờng sân khấu, vở
tuồng nhƣ là nghiệp chung của toàn xã hội, còn từng
vai diễn là nghiệp riêng của mỗi cá thể, khi thì nhận
vai giàu sang, đầy đủ khi thì nhận vai nghèo hèn,
thiếu thốn với nhiều cái bất hạnh ập đến, làm cho
khán giả khi thì sung sƣớng reo hò, lúc thì ủy mị rơi
lệ đầm đìa. Riêng chỉ có ông đạo diễn lúc nào cũng
chăm chú theo dõi từng cử chỉ, động tác của diễn
viên nhƣng tâm luôn luôn sáng suốt, chủ động vì biết
đây là sân khấu, là kịch bản. Hằng ngày cũng nên
nhƣ ngƣời đạo diễn theo dõi vai diễn, biết cần hỗ trợ
cho vai diễn lúc nào, giúp đ cái gì, xem nhƣ đã hoàn
thành một sứ mạng. Phải xem sự giúp đ này nhƣ là
một sự hiến dâng với tinh thần yêu thƣơng đồng loại,
tinh thần biết ơn chúng sinh vậy. Đƣợc vậy thì tâm ta
sẽ an lạc trong việc phụng sự chúng sinh.
Nhờ ơn chúng sinh góp sức trong cộng đồng xã
hội mà ta có đƣợc đời sống đầy đủ, hạnh phúc này.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều chúng sinh kém may
mắn hơn cần sự sẻ chia của ta. Hãy cùng nhau san sẻ
tài vật vì ngƣời bần hàn với tinh thần Bi n Chúng
Sinh. Một khi sự giúp đ với quan niệm là sự iết
ơn, trả ơn, ền ơn thì tâm ta không có bị ràng buộc
bởi sự chấp trƣớc, sinh ra phiền não, tâm luôn ở
trong trạng thái an lạc, với lòng từ ái bao dung.
39
Đức Thanh
THẤY SỰ ĐỜI NHƯ HUYỄN MỘNG
Đại sƣ Ấn Quang dạy chúng ta: “Phải biết sự vật
giữa đời đều giả dối nhƣ mộng, huyễn, bóng, bọt,
sƣơng, chớp, nhƣ trăng đáy nƣớc, hoa trong gƣơng,
nhƣ ánh chập chờn lúc trời nắng và nhƣ thành của thần
Càn thát bà (nhạc của Thiên Đế, thành quách đều là
huyễn hiện). Duy có một niệm tâm tánh của ta vẫn
hằng còn, trùm suốt xƣa nay, không biến đổi, hƣ hoại.
Tuy không biến hoại mà thƣờng tùy duyên. Theo
duyên ngộ tịnh thì làm Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật, vì công đức sâu cạn, nên phẩm vị có cao,
thấp; theo duyên mê nhiễm thì lạc vào cõi trời, ngƣời, a
tu la, súc sinh, ngạ quỉ, địa ngục, do tội phƣớc nặng
nhẹ, nên sự khổ, vui, có ngắn, dài.” 14
Chuyện kể, có một anh chàng tên Lữ, lên kinh
đô đi thi và bị trƣợt lần thứ ba. Trên đƣờng trở về
nhà, anh ghé vào quán trọ mua một bát cháo kê ăn
cho ấm lòng. Trong lúc nồi kê chƣa chín, Lữ nằm
xuống nghỉ mệt và ngủ thiếp đi. Anh thấy mình trở
lên kinh đô thi lại lần nữa và đậu thủ khoa. Sau đó
đƣợc thăng quan tiến chức làm đến tổng trấn tỉnh
Nam Kha. Rồi anh đƣợc vua trọng dụng phong làm
nguyên soái và gả công chúa cho. Khi có giặc nổi
loạn, vua sai Lữ đi dẹp, đánh đâu thắng đó, khiến các
quan trong triều đình ganh ghét. Trong lúc Lữ đang
14 “Phải biết… dài” Lá thư Tịnh , trang 86, 87 – Hòa thƣợng Thích Thiền
Tâm dịch.
40
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
dẹp giặc ở biên cƣơng, họ sàm tấu gièm pha làm vua
cách chức đuổi Lữ. Sống trong cảnh nghèo khổ gần
mƣời năm, vua hối hận Lữ đƣợc kêu về triều phong
làm tể tƣớng. Chƣa đƣợc bao lâu vua băng hà, thái tử
lên ngôi liền cách chức Lữ. Bị đuổi khỏi triều đình
lần thứ nhì, lúc đó tuổi già lại rơi vào cảnh bần cùng
khốn khổ sau bao nhiêu năm phục vụ cho vua làm Lữ
chán nản lâm bệnh nặng. Trên giƣờng bệnh hấp hối
gần chết, Lữ sợ hãi, hốt hoảng tỉnh dậy. Lúc ấy giờ
nồi cháo kê vẫn chưa chín.15
Trong Tây hương Cực L c Du Ký, ngài pháp
sƣ Khoan Tịnh đƣợc Bồ Tát Quan Thế Âm dẫn đi
tham quan thế giới Cực lạc. Khi ngài thấy bụng đói,
liền khởi niệm ăn, tức thì thức ăn hiện đến, khi ăn
xong tự nhiên bát đũa đều biến mất. Ngài hỏi Bồ Tát
tại sao? Bồ Tát đáp: “Tại ông vọng tƣởng bụng đói
và khao khát muốn ăn cũng giống nhƣ ở thế gian
chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái gì cũng có khi
thức tỉnh ra rồi chẳng có cái gì cả. Ông vọng tƣởng
ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng tƣởng về ăn
không còn, những gì thuộc về vọng tƣởng cũng vì
vậy mà biến mất.” Bồ Tát lại nói: “Tự tánh thanh tịnh
thì không thèm ăn, không thèm khát, không thèm
muốn cái gì ở trong hƣ không, thật ra trong hƣ không
vốn là không có cái gì. Vọng tƣởng dấy lên cũng
giống nhƣ sƣơng mờ đƣợc un lên vậy, cái ý ấy ông từ
15 “Có một… chƣa chín” Tâm và ta, trang 127, 128 – Thầy Thích Trí Siêu.
41
Đức Thanh
từ nghiệm ra, nếu mà lãnh hội đƣợc thì sẽ hiểu ra tam
muội của việc ấy.” 16
Thế giới hiện tƣợng trên cõi đời này là vô thƣờng,
khi tụ, khi tán, khi có, khi không,… biến đổi sinh diệt
nhanh chóng nhƣ làn điện chớp, nhƣ bóng bọt nƣớc,
nhƣ hơi sƣơng buổi sớm, ta không thể nắm bắt kịp.
Thời gian tồn tại của chúng quá ngắn ngủi so với cái
tâm thể bất diệt, nên ví nó nhƣ một giấc mộng. Trong
giấc mộng ta cũng trải nghiệm cảm giác vui, buồn, lo
âu, sợ hãi rõ nhƣ là thật; khi thức giấc mới biết là giả.
Cuộc đời cũng là giấc mộng nhƣng là mộng dài, do vô
minh ngăn che nên ta không nhận ra nó. Khi ngộ tâm
rồi mới biết từ con ngƣời đến cảnh vật là huyễn hóa
nhƣ hoa đốm giữa hƣ không, nhƣ trăng đáy nƣớc
không có gì là chân thật cả. Trăng trong đáy nƣớc là có
hay không? Nếu bảo là có sao ta không vớt lên đƣợc.
Nếu bảo là không sao thấy trăng hiện. Hoa đốm trong
hƣ không chẳng sinh, do mắt nhặm nên thấy có hoa
đốm, khi hết bệnh hoa đốm tự hết.
* Sự vật, hiện tƣợng trong thế gian nhƣ là huyễn
mộng. Duy có một niệm tâm tánh của ta vẫn hằng còn,
trùm suốt xƣa nay, không biến đổi, hƣ hoại.
Ở đây, “niệm” là sự nhớ-nghĩ, sự biết; Tâm là
dụng, Tánh là thể của Chân Nhƣ-Tự Tánh. Niệm tâm
tánh là cái biết (dụng) không rời thể tánh thanh tịnh của
nó. Nói chỉ có một niệm tâm tánh trùm suốt xƣa nay
16 “Tại ông… việc ấy” Tây phương Cực l c du lãm ký, trang 71 - Hữu Từ,
Tâm Hảo dịch.
42
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
nghĩa là chỉ cái biết sáng suốt, thƣờng hằng, không bị
nhiễm ô, vẫn hiện hữu theo thời gian từ xƣa đến giờ mà
không hƣ hoại.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã chỉ cho
vua Ba Tƣ Nặc về Tự tánh không sinh, không động
tịnh, không co duỗi.
Phật hỏi: “Này Đại vƣơng, khi ông mấy tuổi mới
đƣợc thấy sông Hằng?”
Vua đáp: “Khi lên ba tuổi, con đƣợc mẹ bồng đến
yết kiến thầy Trƣờng Thọ, đi ngang qua sông này nên
bấy giờ con đã thấy đƣợc sông Hằng.”
Phật hỏi: “Hôm nay ông thấy sông Hằng, vậy cái
thấy đó có khác không?”
Vua thƣa: “Khi ba tuổi con thấy sông Hằng, đến
lúc 13 tuổi và nay 62 tuổi con thấy sông Hằng cũng
không khác.”
Phật dạy: “Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già
yếu, đầu bạc mặt nhăn, không đƣợc nhƣ lúc còn trẻ.
Vậy nay 62 tuổi ông xem thấy sông Hằng, cái thấy ó
có già tr không?”
Vua Ba Tƣ Nặc thƣa: “Bạch Thế Tôn, cái thấy
không có già tr .”
Phật dạy: “Này Đại vƣơng, thân thể mặt mày ông
tuy già mà cái thấy vẫn không già. Vậy cái nào có già thì
cái ấy sẽ bị biến đổi tiêu diệt, còn cái nào không già thì
cái đó không bị biến đổi sinh diệt. Nó đã không sinh diệt
thì đâu có bị ông làm cho nó sinh tử luân hồi đƣợc”.17
17 “Trong Kinh… hồi đƣợc” Thiền Tịnh song tu, trang 45, 46 - Diệu Nga biên thuật.
43
Đức Thanh
Tự tánh, tánh giác, bản lai diện mục, bồ đề niết
bàn,… cũng là cái thể chân nhƣ hay Phật tánh. Tự tánh
của chúng sinh là giác, không phải vô tri nhƣ cây đá,
nên gọi là tính giác. Tánh giác đó xƣa nay vốn không
tịch, không hình tƣớng, trong lặng nhƣ thái hƣ, chẳng
động chẳng tịnh, rỗng rang, không bờ mé, thƣờng trụ.
Không do nhân duyên mà có, không do năng sở mà
lập, không bị nhiễm ô, cũng không phải do tu chứng
mà đƣợc.
Thiền sƣ Hoàng Bá nói: “…Tâm này từ vô thủy
tới nay không từng sinh, không từng diệt, không xanh
không vàng, không hình không tƣớng, không thuộc
có không, không kể mới cũ, chẳng dài chẳng ngắn,
chẳng lớn chẳng nhỏ, vƣợt qua tất cả hạn lƣợng danh
ngôn dấu vết đối đãi, chính thẳng đó là phải, động
niệm liền trái. 18
Ví nhƣ hƣ không, không xen lẫn, không hƣ
hoại. Nhƣ vầng mặt trời soi bốn phƣơng thiên hạ.
Khi mặt trời lên, ánh sáng chiếu khắp cả thiên hạ,
hƣ không không từng sáng. Khi mặt trời lặn, bóng
tối che trùm thiên hạ, hƣ không không từng tối.
Cảnh tối sáng tự đuổi cƣớp nhau, tánh hƣ không
rỗng lặng chẳng đổi.” 19
* Thể tánh của tâm thì thƣờng hằng, trùm khắp
xƣa nay, tuy không biến hoại mà thƣờng tùy duyên.
18 “…Tâm này… trái” Truyền tâm pháp yếu, trang15 - Hòa thƣợng Thích
Thanh Từ dịch.
19 “Ví nhƣ… đổi” Truyền tâm pháp yếu, trang 28 - Hòa thƣợng Thích Thanh
Từ dịch.
44
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
Bản tánh nhƣ bể lớn, nước trong lặng, tùy theo
duyên gió mà tạo ra những lƣợn sóng sai khác, nhƣ sóng
to-sóng nhỏ, sóng cao-sóng thấp,… Sóng thì có thiên
hình vạn trạng, nhƣng sóng nào cũng là nước thôi.
Thiền sƣ Phổ Chiếu nói: “…Diệu thể Chân Nhƣ
vốn không sinh diệt, diệu dụng tùy duyên nhƣ có sinh
diệt. Từ thể sinh ra dụng nên dụng ấy chính là thể. Có
gì là sinh diệt? Ngƣời đạt đạo tức là chứng chân thể,
nên sự sinh diệt kia có can hệ gì? Nhƣ nƣớc lấy tánh
ƣớt làm thể, sóng mòi làm dụng. Tánh ƣớt nguyên
không sinh diệt, nên tánh ƣớt trong sóng mòi nào có
sinh diệt ƣ? Nhƣng sóng lìa tánh ƣớt cũng không riêng
có, nên sóng cũng không sinh diệt. Ngƣời xƣa nói khắp
cõi nƣớc là mắt của sa môn, khắp cả nƣớc là già lam,
khắp mọi nơi là chỗ an thân lập mệnh của ngƣời ngộ
lý. Ngƣời đạt chân tâm thì tứ sinh lục đạo một chút liền
tiêu tan. Sơn hà đại địa đều là chân tâm…”.20
* Thể tánh của tâm là thanh tịnh, sáng suốt, không
bị biến hoại, tuy không biến hoại mà hay tùy duyên.
- Theo duyên ngộ tịnh thì làm Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật, vì công đức sâu cạn, nên phẩm vị
có cao, thấp. Thể tánh (tánh giác) này bất sinh bất
diệt, trùm khắp thái hƣ, cái gì dù lớn đến đâu cũng
không có ngoài nó đƣợc, cái gì nhỏ đến đâu cũng
không có trong nó đƣợc. Tánh giác này thƣờng hay
tùy duyên hiển hiện khắp ở mọi loài trời, ngƣời, a tu
la, ngạ quỷ, súc sinh. Mặc dù theo duyên lƣu chuyển
20 “Diệu thể… tâm” Chân tâm trực thuyết, trang 43 - Hòa thƣợng Thích
Thanh Từ dịch.
45
Đức Thanh
trong sáu đƣờng, nhƣng tánh giác ấy luôn thanh tịnh,
chƣa từng ô nhiễm, chƣa từng sinh diệt. Nếu chúng
sinh biết xoay lại, dụng công tu hành, khi đủ nhân
duyên sẽ ngộ đƣợc bản tâm thanh tịnh này thì làm
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, vì công đức
sâu cạn, nên phẩm vị có cao, thấp.
Thiền sƣ Tổ Nguyên nói: “Chúng sinh chẳng ngộ
tâm tánh rộng lớn, không ở trong ngoài mà lại nhận
bóng dáng của trần cảnh. Lầm cho hƣ không bao nhục
thân, nhục thân bao nhục tâm, nhục tâm bao chân tánh,
rồi bị nhiều lớp cột trói và chấp cứng vào tham ái. Há
chẳng biết hƣ không, đại địa, muôn vật, rồi đến thân
tâm đều là những bóng dáng từ diệu minh chân tánh
của ta mà hiện ra. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Các duyên
hội hợp lại bị dao động bên trong, rong ruổi bên ngoài,
mờ mịt nhiễu loạn và tƣởng nhiễu loạn, tất cả cho là
tâm tánh. Một khi lầm cho là tâm rồi thì nhất định cũng
lầm cho bên trong sắc thân. Chẳng biết sự vật bên
ngoài, sắc thân cho đến núi sông, hƣ không, cõi đất,…
tất cả là vật trong diệu minh chân tâm cả”. Sợ e ông
chƣa ngộ, tôi xin nêu ra một ví dụ: Bản tánh nhƣ một
chiếc gƣơng lớn cùng tận pháp giới. Chân tâm mầu
nhiệm chiếu soi nhƣ ánh sáng trong chiếc gƣơng kia.
Núi sông cõi đất, sum la vạn tƣợng, cho đến nhục thân
cùng tâm thức, tất cả đều là bóng trong chiếc gƣơng.
Chúng sinh vì nhận bóng nên phải chìm đắm trong chín
cõi, bốn loài. Nếu nhận gƣơng thì trở về chân tâm
trong chớp mắt”. 21
21 “Chúng sanh… chớp mắt” V n pháp quy tâm lục, trang 86, 87 - Hòa
thƣợng Thích Đắc Pháp dịch.
46
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
- “Theo duyên mê nhiễm thì lạc vào cõi trời,
ngƣời, a tu la, súc sinh, ngạ quỉ, địa ngục, do tội phƣớc
nặng nhẹ, nên sự khổ, vui, có ngắn, dài”. Trong quyển
Cửa Thiền Hé Mở - Hòa thƣợng Thích Thông Phƣơng
ghi một đoạn trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Thể
Bồ Đề Niết Bàn thanh tịnh s n có từ vô thủy. Tức là
chính ông hiện nay, cái thức thể sẵn tự sáng ngời nó
hay sinh các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các
chúng sinh bỏ sót cái sáng su t sẵn có này, nên trọn
ngày tu hành mà chẳng tự giác, uổng i vào các thú.”
Dùng tâm phan duyên làm tự tánh, đó là căn bản
sinh tử từ vô thủy đến nay. Tâm phan duyên là cái biết
theo duyên chớ gì? Còn “Thể Bồ Đề Niết Bàn s n có
từ vô thủy là ở đâu? Tức ngay Cái thức thể sẵn có tự
sáng ngời hiện nơi mình sinh sống ở đây thôi. Cái thức
thể đó là gì? Chính cái biết sờ sờ ở đây, hay cái tâm thể
tinh khôi đây. Chính cái biết còn nguyên vẹn, mới mẻ,
tinh khôi nhƣ nó là nó của tự thuở nào nên gọi thức
tinh. Nó hay sinh ra các duyên, là nó biết cái này, biết
cái nọ, biết đủ thứ không thiếu sót. Biết duyên tức là
sinh, vì khi iết cái nào là có cái ó hiện. Nhƣng khi
nó biết cái gì chỉ nhớ cái ó, nó đồng hóa mình với cái
đó mà quên mất chính nó. Chính vì bỏ sót nó, gọi đó là
mê, là quên đi đƣờng về, nên đi vào các thú.” 22
Vì sao cái biết đã nguyên vẹn sáng ngời lại còn
sinh ra các duyên chi vậy? Tức là nó luôn biết cái này,
22 “Thể Bồ… các thú” Cửa Thiền hé mở, trang 45, 47 - Hòa thƣợng Thích
Thông Phƣơng.
47
Đức Thanh
biết cái kia, biết đủ thứ nên gọi là sinh ra các duyên. Ví
dụ nó thấy bình hoa này, biết là bình hoa và khi ấy nó
chỉ nhớ cái bình hoa mà nó quên mất chính nó. Chính
chỗ đó là lầm, là mê, vì nó đồng hóa nó với bình hoa.
Khi không có bình hoa thì sao? Thì nó lo tìm cái khác
nhƣ cái đèn, cái bàn… để nó biết. Nó luôn tìm cái
duyên bên ngoài để biết. Tức là khi không có cái này
thì nó tìm cái khác để đồng hóa với nó, và khi mất các
duyên thì nó cho là đã mất nó vậy. 23
Ngƣợc lại, biết hết các duyên nhƣng mà không
theo các duyên để rồi quên chính nó. Ví dụ nhƣ nhìn
thấy bình hoa, biết bình hoa thì đó gọi là sinh các
duyên. Có duyên nhƣng vẫn không quên chính nó, tức
là không quên cái tính thấy hiện hữu nơi mình. Cho
nên làm sao giữ cho cái biết luôn luôn sáng ngời trong
duyên mà không để các duyên che mờ. Cho đến nghe
pháp mình cũng phải nghe trong sáng suốt, không phải
cứ lo chăm chú nghe tiếng thầy nói mà quên mất mình
lúc nào không hay, đó gọi là theo duyên mà bỏ sót
chính nó. Ở đây dù nghe tiếng thầy nhƣng vẫn không
quên chính mình thì mới là khéo biết nghe pháp, gọi là
nghe pháp mà không mất mình. 24
Chúng sinh bỏ sót cái sáng su t sẵn có này, tâm
dính mắc vào trần cảnh, tạo tác, gây nghiệp để rồi luân
hồi trong ba cõi, sáu đƣờng. Kinh nói ba cõi do vọng
23 “Vì sao… nó vậy” Con ường giác ng , trang 201, 202 - Hòa thƣợng
Thích Thông Phƣơng.
24 “Ngƣợc lại… mất mình” Con ường giải thoát, trang 77 - Hòa thƣợng
Thích Thông Phƣơng.
48
NHẬN RA CHÍNH MÌNH
tâm mà có. Thế nên trong mƣời phƣơng hƣ không có
vô lƣợng vô số quốc độ với những trạng thái khổ vui
muôn ngàn sai khác. Nguyên nhân thành tựu các quốc
độ sai khác ấy tuyệt đối không do một sức thần thánh
nào hoặc một sự ngẫu nhiên nào tạo thành. Mà do:
- Quốc độ do cộng nghiệp của chúng sinh duyên
khởi. Cộng nghiệp ấy cảm thành quốc độ (y báo)
chung, để chúng sinh tùy từng biệt nghiệp thiện hay ác
mà thọ quả báo hoặc vui hoặc khổ. 25
Nếu trong quá khứ, chúng sinh làm điều phƣớc
đức ít, mà gây điều tội ác nhiều thì cảm báo thành quốc
độ vui ít khổ nhiều.
Có một vị tăng hỏi thiền sƣ Tổ Nguyên: “Từ bản
tâm thanh tịnh chẳng biết do đâu, ngay lúc ban đầu lại
có thân, tâm của ta?” Ngài đáp: “Nguồn chân trạm tịnh,
biển giác lặng trong. Vốn không có đầu mối của năng
sở, thì làm sao có dấu tích của danh tƣớng? Bởi ngay
lúc ban đầu chẳng giác ngộ, bỗng có động tâm, nhân
minh lập ra chiếu (như có m t cái sáng khác) theo
chiếu lập ra trần. Do đó nên kiến phần bỗng chốc hƣng
khởi, rồi danh tƣớng bày khắp, giống nhƣ gƣơng hiện
tƣớng, thoắt khởi ra căn thân. Kế đó tùy theo tƣởng mà
thế giới thành sai khác. Về sau do yêu ghét mà chìm
đắm trong ba cõi, luân hồi không lúc ngơi nghỉ. 26
25 “Quốc độ… hoặc khổ” háp môn Tịnh , trang 12 – Hòa thƣợng Thích
Trí Thủ.
26 “Từ bản… ngơi nghỉ” V n pháp quy tâm lục, trang 92 - Hòa thƣợng Thích
Đắc Pháp dịch.
49