The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-10-20 23:00:48

Cuối Đường Vương Mộng Long

Cuối Đường Vương Mộng Long

Cuối đường cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu
chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu
(Hồi ký của Vương Mộng Long) Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ
này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng
“Vinh quang một đời của người cầm quân của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội,
là một món nợ. với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương
Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi
cấp của mình!” binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu
Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy
(Vương Mộng Long) Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất
tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về.
—o— Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từ
chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung,
1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng
đô Sài Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên
đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một đường rút lui từ HốNai về LongBình ngày
quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1
sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi hôm qua.
rút về tới LongBình thì Bộ Chỉ Huy Liên
Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở
đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân LongBình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc
của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo
gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ
BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đang lên xe chạy về hướng SàiGòn. Giờ này
Đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào
nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ
được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-
tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức Đức và từ LongKhánh, đó là, trong lần rút
nào, chỉ vắn tắt một câu, bỏ BiênHoà này, tôi không thấy dân chúng
bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe
–“Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài- nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang
Gòn!” đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng
thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ lưng chúng tôi, thành phố BiênHòa có lẽ đã
LongBình, rồi từng bước, rút về hướng thủ rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi
đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng SàiGòn.
tới Cầu Hang (BiênHòa) thì mỏi mệt quá, tôi Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen
cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán
cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn
Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn
nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt
địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang.
Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất
cho những người bạn đã kiêu dũng nằm

xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ
chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ
tới. đang nép mình trong lòng mẹ, vào những
buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình
1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường
đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê chờ đợi quyết định của tôi
Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã
khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và
xanh, về hướng ThủĐức. Tư lệnh đã quay thương yêu như thế này. Trong mười năm
lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng
chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng
này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh,
Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện,
buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ những người lính dưới quyền tôi vẫn không
thù của chúng tôi là “những người anh xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay,
em” Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở
buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi
cuộc chiến tranh ViệtNam hai mươi năm đi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có
vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời
bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi, được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết
ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống
–“Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng
không?” thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông
tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm
“Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn
cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng
này?” Thống Việt Nam Cộng Hòa được nhỉ? Sao
một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông
sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng?
Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu
khóc sướt mướt, hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết
trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ
–“Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana,
Hu…hu …hu…” Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.

Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, Hướng TânUyên có tiếng trống múa lân
trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thùng! thùng!…thùng… thùng… nghe lớn
thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi dần… lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân
nhau, chửi thề, quát tháo, than van… quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh
CộngSản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ GiảiPhóng MiềnNam đi đầu, tiếp đó là cái
sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên
quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác
chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động

cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ
Tiếng loa vang vang, núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ
trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn
–“Hoan Hô MặtTrận GiảiPhóng Miền- chạy chết.
Nam!”
Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về
– “Hoan hô!…Hoan hô!” hướng SàiGòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại
dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho
Thùng!… Thùng!… Hoan hô!…Hoan chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi
hô!… Thùng!… Thùng!… Tiếng loa và đi ngang khu núi đá vôi BửuLong thì thằng
tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải- Don đưa ống nghe cho tôi,
Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
“Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”
–“Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải
không?” Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh,
Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,
Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một
dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai
bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-
ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây
vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác chờ lệnh!”
cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ
tránh đạn. giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn,
không có vẻ gì là lo lắng.
–“Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những
người lính cuối cùng của đơn vị. Nghe ba tiếng “ĐườngSơn Quán”, tôi
chợt nhớ thời 19711973, ở BCH/BĐQ/QK2
“Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?” Thiếu Úy có một biệt đội BiênVụ (Viễn Thám) do tôi
Thủy băn khoăn hỏi. thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy.
Sáu toán BiênVụ trang bị AK, dép râu, nón
“Thì cứ đi về hướng SàiGòn, tìm xem có ai tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các
ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên
giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609,
Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá
biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh,
mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm. dọc TrườngSơn Đông, phá Ngầm 24 trên
sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng
“Thùng!… Thùng!…Hoan hô!…Hoan hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào
hô!” , chúng tôi đi được chừng nửa cây số từ phương Bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập
thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng. các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm
bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng
“Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong
Sĩ Phi lại đổ quạu. phim HồngKông. Họ quen gọi tôi là “Anh
Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng
“Cành! Cành! Cành!… Cành!… Cành! gai mây PleiTrap Valley hay trong rừng
Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được
ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn

tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất
nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội tươi,
rừng chung với họ để thi hành những nhiệm
vụ gay go do QuânĐoàn II giao phó. Tôi và “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau
họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng rồi các anh ơi!”
cha. Khi cuốn phim “ĐườngSơn Đại-
Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù
DiệpKính, DiênHồng, Thanh Bình, ở Pleiku, cho “hòa bình” có ở ngay trước mắt, hiệu
thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần
danh “ĐườngSơn ĐạiHuynh” chỉ vì tôi có nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một
cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu của Hạ Sĩ Phi, một của Trung Sĩ Tài, được
Long, tài tử chính của phim này. đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

Sau khi “Anh Hai” vào PleiMe nhận Tiểu Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì
Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có
giặc với cái phong thái “ĐườngSơn” khiến người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh,
quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới
CaoNguyên mút mùa, làm sao biết được ở gần, tôi nhận ra một du kích Việt Cộng,
SàiGòn cũng có cái quán được đặt tên như quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du
trong phim võ hiệp của kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia,
phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK
Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng
độ của ĐườngSơn Quán thì máy liên đoàn thì hai bên đường có tiếng la,
đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên
đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai “Bắn! Bắn!… Không cho đứa nào chạy
chiếc xe be từ hướng ThủĐức chạy lên. Xe thoát!”
ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những
“Có phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đó người lính ViệtNam CộngHoà trên hai chiếc
không?” xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành
những cái bia sống. “Hòa bình” rồi, tại sao
“Phải rồi! 82 đây!” người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi
chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung
“Lên xe đi! Tôi chở các ông về ĐườngSơn để buông súng?
Quán!”
“Choác! Choác! ….Choác!”
“Có ai ở đó không?”
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ.
“Đông lắm! Có lẽ các ông là những người Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang
tới sau cùng” ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu
tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu,
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng.
Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc Thùng nước xe bể, hơi nước
xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. phun “phì…phì…” che kín đầu xe. Tôi
Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không
có thế để đứng, những người lính đành phải

phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể
mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ Sĩ Đinh
khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh
du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu
vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh
như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc
được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh, xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên
tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác.
“Đưa tao!” Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay,
B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!…” -
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. “Choác! Choác!…” – “Xoẹt! Xoẹt!…” -
Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ “Oành! Oành!…” Hai bên đường, địch vẫn
MặtTrận phủ trên mình thằng du kích. Tôi tiếp tục ào ra. Xác ViệtCộng đè lên nhau
ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi từng lớp, ngổn ngang.
hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau
nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!” một “Cành! Cành! Cành!…” Trên xe, Hạ Sĩ
trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân
nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã thù, vừa la rú như người mất trí,
ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16
mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; –“Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết!
máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể Tụi mi cũng chết!”
còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu
B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối
đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả
một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch
Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên
vườn có những luống đậu, dây leo. Một đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều
băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác
cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ những Biệt Động Quân bị thương đem đi
vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài trên
vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế xe thứ nhì đã được di chuyển xuống
không biết xoay trở cách nào để phản công.
Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài
tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai,
LongBình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ
thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài
cho ngày hôm nay. vòng chiến.

Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại.
tưới như mưa vào những người lính còn ViệtCộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân
đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi chúng cũng chết! Những người lính Biệt
rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm Động cuối cùng của PleiMe, Vùng 2, ruột đổ
đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như
khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành
bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự
vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay

và cả…răng cũng được xử dụng. Trong phút của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ
giây tuyệt vọng, những chiến sĩ ViệtNam Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho
CộngHoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ
đấm đá, cào cấu, cắn xé… Binh Nhứt Liêu Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn
Chí Cường (gốc ChợLớn) trước khi chết, mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi,
còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào thều thào,
mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú
Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn “Chạy đi!…Ông thày…chạy đi!…”
mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người
tình phụ). Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề
đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng bên mình tôi, nổ“toang toác!” trên mặt lộ.
người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi,
rướn người, quơ quào được một băng M16 lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào
ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, –“Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” đó
là tiếng Trung Úy Trâm.
bên hông trái xe,
“Toác!Toác!” “Chíu! Chíu!” đạn địch
–“Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !” đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được
một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn
“Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!” ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như
một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn
Đạn phòng không của ViệtCộng quét sát vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm
mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. đặt tôi xuống đất.
Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui
qua thân người bị đạn, hất thân mình người Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt
đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ
tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có
chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây.
Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ Sĩ Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi
Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng
bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ
mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào tới gia đình vợ con tôi ngoài BanMêThuột.
cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất
chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã
khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú
Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần lên như con thú,
hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là
mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút –“Ôi!…Ôi!… Ông Trời ơi!…Ông Trời
chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám ơi!…ơi…ơi…”
dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng
nhiều. Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng
vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một
giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn

cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt –“Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo
văng trên mặt ruộng. mayor với cái quần xàlỏn. Mình làm sao
đây, Thái Sơn?”
–“Trâm ơi ! Làm ơn! …Cho anh chết! Trâm
ơi!…” Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-
moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng
Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách
Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân
lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác xuống. Thế là xong!”
đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu
đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải
anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm
làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu –“Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em,
đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. thày ơi! “
Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì
một nông dân đạp xe tới chặn đường, Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức
nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau.
–“Ông Thiếu Tá bị thương hả?” “Hu … hu… hu….”

Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn
đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo.
Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ
tôi. Ông cụ có vẻ động lòng, xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma
không có người chết, mà những người đang
–“Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau,
chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng
đâu!” tôi khóc vùi.

“Cám ơn cụ!” Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ
hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên
Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay tôi, nói nhỏ,
người dân tốt bụng.
–“Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn.”
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội
Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên
đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong theo.
sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập
trung. Một cái rờ moọc xe GMC chất đầy –“Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng
súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra
đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu
cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi.
Chú đứng quan sát một phút, rồi thở Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu
Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa
dài,

Thiếu Tá đi dấu. Không để cho chúng nó –“Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng
bắt.” ThủĐức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ
cây dừa nghiêng…”
Xe chạy trong đường làng quanh co một
đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập Tên ViệtCộng chỉ huy liếc mắt vào trong
cửa một căn nhà gỗ, mái dừa, nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

–“Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho “Chứ hai anh kia làm chi rứa? ”
con!”
“Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh
Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di- miệng.
Cư,
–“Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính
–“Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về
nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng
cho tao đỡ lo!” biềt.” Bà cụ phân trần.

“Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai Thằng ViệtCộng hết nghi, quay sang đồng
anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con bọn, nó ra lệnh,
của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà
lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh
làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho
về ngay. Mẹ đừng lo!” chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận
đấy! Tụi nó có súng!”
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai
đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy
truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa
đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà, cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy
xe. Nửa giờ sau anh trở về,
–“Hai đứa lấy quần áo ‘sivin’ của thằng
Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà –“Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó
binh cho tao đi dấu!” đi hết rồi.”

Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không?
dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.
dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân,
anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây.
lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh
nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động
đường có tiếng đối đáp, nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi,
ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót
–“Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính bao la.
rằn ri Ngụy chạy qua đây không?”một
giọng Nghệ Tĩnh gặng hỏi. –“Thưa Mẹ! Con đi!”

“Thưa Mẹ! Con đi!”

“Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta
cùng!” cởi bỏ quân phục nơi ĐườngSơn Quán (?)

Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra Còn cách ngã ba xa lộ ĐạiHàn chừng hơn
tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ
ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên
tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank
bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về T54 đang cháy. Có vài cán binh CộngSản
hướng ThủĐức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và BắcViệt ôm AK chặn không cho bộ hành và
chú Hải còn trông theo. xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt
ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ ĐạiHàn. Lúc
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân
người hướng về ThủĐức. Chợt sau lưng tôi của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về
có tiếng gọi, SàiGòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi
tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong
“Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” biển người xuôi ngược.

Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Chúng tôi về tới ThịNghè thì mặt trời xế
Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám bóng. Giữa cầu ThịNghè là một chiếc M41
lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp,
qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có
loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im vết máu đã khô, nhưng không thấy xác
tiếng súng. Chúng tôi vào ThủĐức. Nhà nhà, người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ
cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe CảnhSát quân phục ViệtNam Cộng Hòa, dây đạn,
cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. nón sắt, ba lô…
Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của.
Cổng TrungTâm CảiHuấn ThủĐức mở Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc
toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ
ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để
người tay mang băng đỏ chở nhau trên hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm
Honda, trên xe Ford CảnhSát. Xe chạy nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc.
nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm
phố. ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan CảnhSát,
Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà ĐạiSứ HoaKỳ.
Tới chợ ThủĐức, chúng tôi may mắn đón Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di
được chiếc xe Lamb chạy đường ThủĐức, tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.
Thị Nghè, giá sáu trăm đồng một người.
Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ,
tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề
áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về đường, sát tường rào Sở Thú, những người
hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn,
áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh,
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó rượu bia…

Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm
trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò

tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi
tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ- tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ
Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài
có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí
biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn Minh”. Có một anh Bắc Kỳ, tuổi lửng lơ,
hay mất. nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một
cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô
Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở ThủĐức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán
cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “ChiêmTinh cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà
Gia TrầnCẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,
Tay, Đoán VậnMệnh”. Bác Cẩm là thân sinh
của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước –“Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm
xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm rồi!”
chầm lấy tôi,
–“Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” anh
“Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh BắcKỳ mừng rỡ.
Hai ơi!”
Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn
Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau,
mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con
chúng tôi rẽ vào LongBình. Phước đi thẳng lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng
một lèo, theo xa lộ về tới SàiGòn. câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá,
Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên ra anh không?
nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi
biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, Qua văn phòng ỦyBan NhânDân Xã, đến
chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên
nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-
chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười
cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82
tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong
địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng.
12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho Những người nằm xuống đã sang thế giới
anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy
Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một
áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay,
như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ,
không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương
tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một khói.
số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh
em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng
nữa. rưng,

Thời gian trôi… –“Các chú tha lỗi cho anh…”

Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những đang lúc thất nghiệp, nên nhận lời làm đầu
cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm lãnh một mũi gồm hai anh thanh niên trốn
đẫm máu của những anh hùng PleiMe. Hình nghĩa vụ quân sự là Thanh và Hòa (bạn
như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, Thanh) và một cậu bé mười lăm tuổi, thằng
thiết tha, não nuột, Út, em của Thanh. Vì tình trạng trộm cắp
nơi mỏ vàng, với sự hiện diện của hàng trăm
“Thày ơi! Chạy đi!… Thày ơi!…” tay chơi anh chị tứ chiếng đủ loại, tôi phải
gởi cái bóp giấy tờ tùy thân tại nhà ông bạn
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt ĐườngSơn Đại- già. Lý lịch của tôi được dấu. Trong chuyến
Huynh đẫm lệ… đi này bọn bộ hạ gọi tôi là Bác Hai, đôi khi
chúng gọi tôi là Bác Hai BắcKỳ. Thằng Ba
KẺ SĂN VÀNG Chiến, em của thằng Hai Thanh, đang chạy
xe thồ và bạn thồ của nó sẽ lo việc chuyển
HỒI KÝ vận chúng tôi vào vùng mỏ.
CỦA VƯƠNG MỘNG LONG
Chúng tôi trang bị hai chỉ vàng rồi lên
BĐQ Vương Mộng Long tốt nghiệp khóa đường vào Hiếu Liêm một sớm mai rực rỡ
20/TVBQGVN. Anh phục vụ tại LĐ2/BĐQ nắng hè. Trong những lần "ra quân" trước
từ khi ra trường cho đến đầu tháng 475.Cấp đây ở SuốiNho, ĐơnDương, Nắp Bắc, tôi
bậc, chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn thấy những khu vực khai mỏ đều được xem
Trưởng, TĐ82/BĐQ Anh đã bị CS giam giữ như "vùng oanh kích tự do" của dân kiếm
13 năm, qua các trại tù từ Nam ra Bắc. xái. Chúng tôi đến, đi, chặt rừng, đào núi,
lọc quặng, khai mương, ngăn suối, chẳng ai
Anh chị được 4 cháu, gia đình hiện đòi hỏi giấy tờ khai báo phép tắc rườm rà.
đang sinh sống tại Seattle, WA Ngoài Lần này chúng tôi cũng được tự do đi về
những chiến công thời trai trẻ, điều đáng không ai cấm cản, duy có việc chặt rừng,
khâm phục nơi anh là tuy định cư muộn, anh phá núi phải cần một cái giấy phép khai thác
vẫn theo đuổi việc học và đã tốt nghiệp B.A. rừng của Ủy Ban Nhân Dân xã HiếuLiêm
Social Science & Communication tại (Đồng Nai). Lệ phí chính thức cho một tờ
University of Washington năm 2003. (Hình giấy phép chỉ có năm ngàn. Nhưng phải chờ
chụp tháng 1074) hai, ba tháng sau đơn xin mới được chấp
thuận. Trong khi đó giấy phép tuôn ra bên
*** cửa hông thì chỉ một buổi hay một ngày là
Một chiều đầu mùa hè 1989, bên bờ hồ có kết quả, giá "chui" hơi đắt một chút, hai
phân vàng! Tờ giấy phép của UBND xã chỉ
đập thủy điện TrịAn, gió nhẹ và mây quang, có mấy dòng : Cấp cho đương sự quyền khai
mặt hồ gợn sóng, tôi ngồi hàn huyên cùng thác diện tích 10 mét x 10 mét trong rừng
một ông bạn già cựu hạ sĩ quan QLVNCH. HiếuLiêm trong thời hạn 30 ngày.
Chúng tôi ngồi nhâm nhi đôi ba chung.
Rượu vào lời ra, ông ta biết tôi đã từng đơn Mỏ vàng HiếuLiêm cách đập TrịAn
thương độc mã vào rừng đào vàng, đào thiếc (BiênHoà) khoảng hai giờ xe thồ, nằm trong
kiếm cơm trên mỏ vàng SuốiNho, GiaKiệm, một khu rừng nhiệt đới đất đỏ, cây cao, tàn
mỏ vàng K3, ĐơnDương và mỏ thiếc Nắp- rộng. Nơi này ngày xưa là phần địa đầu
Bắc (Lap Bé Nord) ĐàLạt. Thế là tối hôm ấy chiến khu D của Việt Cộng. Đường lên dốc,
thằng Hai Thanh, con trai lớn của ông bạn xuống đồi quanh co. Ngày chúng tôi lên
tôi, bái tôi làm thầy, nó đề nghị tôi qui tụ và
chỉ huy một "mũi" (tổ làm việc) đi kiếm
"xái" (quặng mỏ) trong rừng HiếuLiêm. Tôi

đường trời trong, gió nhẹ. Trên không có vào buổi chiều mưa to gió lớn. Mấy ngày
những cánh diều hâu bay lượn vòng vòng. sau, đội xe thồ không thấy anh bạn thồ trở
Những con ve sầu đã bắt đầu rả rích bài ca lại. Trên đỉnh dốc có mùi thối bay xa. Người
mùa Hạ. Tiếng ve rên rỉ được giữ nhịp bằng ta tìm thấy xác cậu bé chết rữa trong rừng,
tiếng lốc cốc của chim gõ mõ từ trên thân ruột gan bị heo rừng moi ra ăn lê lết trên mặt
cây bằng lăng mốc thếch. Đàn sẻ rừng ríu rít đất, mùi thịt thối nồng nặc cả một khu. Cậu
trong đám cỏ non. Bọn chích choè, chèo bẻo bé bị trấn lột, hạ sát, thủ phạm là anh bạn
đang xòe thồ. Dân kiếm xái thương tình đồng nghiệp
nên đã lấp lớp đất mỏng che tấm thân lạnh
đuôi, chí choé chuyền cành đuổi nhau. lẽo của cậu bé đào vàng vắn số. Vài ngày
Trong rừng sâu âm u, vẳng lại tiếng róc rách sau mối đất ùn lên khiến cho mộ cậu bé
suối rừng ngọt ngào. Tiết tháng Năm, hai thành một núi đất khổng lồ trong rừng.
bên đường hoa khoe sắc. Bướm đủ màu bay Khách qua đường ghé thắp nén nhang cầu
lượn chập chờn trên hoa. Đường càng lên cho hương hồn cậu sớm phiêu diêu...
dốc càng hẹp dần, hương rừng càng ngất
ngây. Chỉ cần đưa tay, tôi đã vớt được một Người ta đồn với nhau rằng cậu linh
cành hoa rực rỡ bên vách núi. Tôi cảm thấy thiêng lắm! Ai có thắp nhang, cúng quảy,
mình đang lạc vào nơi thiên đường bừng khấn vái cậu, đều được cậu phù hộ mau
bừng sức sống. Ngồi sau lưng thằng Chiến trúng mạch, khấm khá ra về. Rồi người ta
trên yên xe thồ, lòng tôi phơi phới. Miền gọi cậu là cậu Linh. Vì thế cái mả ấy có cái
Nam đang trong mùa hoa nở. Quê hương tên là Mả Cậu Linh. Từ dạo ấy, con đường
yêu kiều rực rỡ. Quê hương ta đẹp quá! Lâu qua dốc đổi hướng, tạt sang bên trái đỉnh
lắm rồi tôi mới có cảm giác về vẻ đẹp của dốc vài chục mét để người qua đường tiện
quê hương. Tôi hát nho nhỏ một mình nghe, ghé thắp nhang vái cậu Linh xin phù hộ độ
câu ca cũ, "Hoa vẫn nở trên đường quê trì. Một chị bán quán ngoài xã, đã bỏ xã, bỏ
hương. Ôi! quê hương ta đó!..." quán, vào đây bán nhang đèn, hương hoa,
ngay dưới dốc. Chẳng mấy chốc chị phất to,
Trước khi tới khu khai thác, chúng tôi cổ có kiềng vàng, chuyền vàng, tay có nhẫn
phải xuống xe vượt bộ qua một cái dốc khá
cao. Trời chợt đổ mưa, đường dốc, trơn vàng, vòng vàng.
trượt, phải mất cả nửa giờ chúng tôi mới lên
tới đỉnh dốc. Nơi đỉnh dốc, thằng Thanh chỉ Ở cái mỏ vàng HiếuLiêm này mỗi ngày
cho tôi thấy một nấm đất to như cái lô cốt và tôi khám phá thêm một điều mới lạ. Mới dẫn
gọi đó là mả cậu Linh. Có vài người đang thì "quân" vào vùng được một vài giờ, ăn xong
thụp khấn vái trước mả ra chiều thành khẩn bữa cơm, uống xong bát nước chè tươi, tôi
lắm. Hoa quả, vàng mã, chất đầy mặt đất, đã thấy ruột mình sôi lên rột rột... rồi thì
mà đèn nhang thì nghi ngút mịt mù. Thanh bụng quặn đau, đi cầu. Đi cầu xong vừa về
giải thích rằng hiện tượng này mới có cách tới lều, bụng lại lâm râm, lâm râm đau.
đây chừng một tháng thôi. Số là một hôm có Thằng cu Hòa dẫn tôi đi gặp ông bác sĩ An
cậu bé 16 tuổi trúng mạch được cả chục cây. để xin thuốc. Ông bác sĩ đóng đô bên bờ
Bạn cùng mũi với cậu ra về ngay sau khi suối. Cái chòi của ông chia làm hai ngăn,
chia chác. Cậu còn nấn ná đãi đằng bạn bè ngăn ngoài là nơi hành nghề y khoa vỏn vẹn
vài ngày sau mới dứt áo ra đi. Giầu rồi, cậu chỉ có một cái chõng tre trên để một cái
không hẹn trở lại. Cậu ôm vàng trước bụng rương gỗ chứa thuốc men, bông, băng,
và thuê riêng một chuyến thồ về BiênHòa alcohol, thuốc tím thuốc đỏ. Ngăn trong là
tư thất với một cái giường tre, một cái bàn

tre đặt cạnh cái bếp làm bằng ba cục đá suối với đồ ăn thức uống có hàm lượng kiềm cao.
xếp châu đầu thành ông táo. Bếp nhà bác sĩ Tại các mỏ vàng, nước giếng, nước suối có
An lúc nào cũng khói lửa nghi ngút, nồi chứa hàm lượng kiềm rất cao (?) Nước suối
nước nấu kim chích sôi o...o... suốt ngày. ở đây uống hơi chát. Nếu pha trà thì nước trà
Trước chòi treo một cái biển gỗ cỡ 20 x 40 cũng có màu xám xịt. Nước uống chính là
cm, nền xanh, chữ trắng, "Phòng Mạch Bác nguyên nhân gây ra cái bệnh đường ruột của
Sĩ An". Tụi nhỏ truyền khẩu với nhau, nào tôi. Muốn tránh, tôi chỉ cần ngưng uống
là bác sĩ rất giỏi, bệnh gì ổng cũng rành, nước trong khu này thôi, không phải dùng
cũng trị được dứt nọc. Thêm vào đó, nếu thuốc thang gì cả bệnh sẽ tự nó chấm dứt.
bệnh nhân là dân đào xái bị ngã bịnh trước Nghe theo lời chỉ dẫn của ông bác sĩ, đêm
khi chạm xái, bác sĩ cho nợ tiền công và tiền đó tôi uống nước ngọt loại chứa trong bình
thuốc cho đến khi xái đã lọc xong thành hai lít thay cho nước trà. Sáng hôm sau tôi
vàng. Bịnh nhân con nợ có thể trả công bác hết bị Tào Tháo rượt. Thế là, cứ vài ngày
sĩ An bằng vàng hay tiền cũng đựơc. Nếu thằng Chiến lại thồ vào cho Bác Hai một
anh nào "mo" thì ông chữa thuốc thí công bình nhựa 20 lít nước suối lấy từ ngoài xã.
(mort, tiếng Pháp có
Tuy xa thành phố, nhưng trong khu mỏ
nghĩa là chết, ý nói thất bại). Ông bác sĩ An vàng HiếuLiêm này không thiếu thứ gì, từ
là người sinh ra ở quê hương của Bác nên nước ngọt, bia, rượu, thuốc lá, bánh kẹo, tới
giọng ông nói nặng lắm. Năm tôi có cơ rau cỏ, thịt cá, kể cả dụng cụ đào vàng như
duyên gặp ông nơi rừng thiêng nước độc này xẻng, khiên, xà beng, cuốc chim, thuốc nổ
thì ông đã ở tuổi trên năm mươi. Bà vợ của C4 dùng phá đá, và thủy ngân (để tách vàng
bác sĩ lại là người miền Nam, còn rất trẻ và khỏi các kim loại khác). Có cả chục cái quán
trông thật hiền hậu. cóc cung ứng đủ mọi mặt hàng nhu yếu cho
dân đào vàng. Thậm chí khi bạn trúng lớn,
Sau vài câu xã giao, bác sĩ An nhận ra cần có vũ khí để áp tải số vàng kiếm được
tôi là người Bắc, ông liền vồn vã hỏi han về nơi an toàn, bạn cần thuê vài khẩu K54,
huyên thuyên: "Này đằng ý ơi! Nhìn cái AK 47, bạn cứ hỏi quán cô Nghĩa là có
phong thái của đằng ý, tớ đoán chắc rằng
đằng ý không phải tay xoàng. Bộ "bảng đỏ" ngay.
hả? (bảng đỏ nói lái thành bỏ Đảng) Vô
Nam lâu chưa? Gia đình vợ con ra răng? Bởi Bất cứ "mũi" nào có "bãi" đều có thể mở
lý do chi mà đằng ý phải đày đọa như ri? Tớ một trang trong sổ nợ của cô Nghĩa. "Mũi"
cũng là dân "bảng đỏ" (bỏ Đảng) đây! Anh là một tổ thi công (tổ làm việc), quân số tùy
hùng mấy khi gặp gỡ. Ngồi đây tâm sự với nghi. Có mũi quân số đông cả chục người,
nhau chơi, đừng ngại!" Ông bác sĩ bỏ Đảng khai thác hai ba giếng. Có mũi chỉ có hai
đâu có biết rằng người đứng trước mặt ông cha con của một gia đình. "Bãi" là một
lại là một cựu sĩ quan Tiểu đoàn trưởng Biệt khoảnh đất vuông mỗi chiều mười mét
Động Quân của QLVNCH, vừa mới được không hơn không kém. Muốn có bãi thì dân
tha ra từ trại tù cải tạo. Phần thì đang bị đau lùng xái phải đăng ký với xã. Thủ tục đăng
bụng tháo dạ, phần thì e ngại buổi sơ giao, ký thì như tôi đã tả ở phần trên: hai phân
tôi chỉ ậm ừ cho qua câu chuyện. Sau khi vàng. Thời buổi này cái gì cũng chi bằng
cặp nhiệt, bác sĩ An hỏi tôi rất kỹ về dạng phân, bằng chỉ. Vào tới vùng hành sự, tôi
phân, triệu chứng lâm sàng. Anh nói rằng tôi mới phát giác ra rằng chẳng cần ghé văn
là một trong số ít người có cơ thể nhạy cảm phòng xã xin giấy đăng ký cho phí thời giờ,
mua trao tay tại hiện trường một cái giấy

phép với con mộc đỏ chói cũng chỉ ba, bốn sâu xuống lòng đất, chuyền đất lên miệng
phân là cao. Ngay khi chúng tôi vừa hoàn tất giếng). Tôi chỉ phải tản số đất đã moi lên
công việc phát quang cái bãi mà tôi đã chọn cho gọn ghẽ. Công việc này cũng không nhẹ
thì một người đàn bà trung niên, giọng nói nhàng mà rất tốn sức, tốn công. Lớp đất đào
rặt BắcKỳ 75 tới tìm tôi để ký giao kèo tiếp lên trong những ngày đầu phải gánh ra đổ
tế. Từ gạo, thịt, mắm, muối, kem đánh răng, nơi bờ suối, cách lều cả trăm mét dưới dốc.
khăn mặt, xà bông cho tới cái lều vải tiểu Những ngày cận xái thì tôi chỉ việc đổ đất
đội cho bốn thày trò tôi đều được thím Xuân mới moi lên ngay nơi chúng tôi ăn ngủ.
cung cấp. Phí khoản đều ghi vào sổ nợ tên Chúng tôi làm việc gần như suốt đêm ngày.
Bác Hai có đóng ngoặc (Bác Hai Bắc Kỳ). Chỉ nghỉ, ngủ vài giờ rồi lại tiếp tục công
Thím Xuân đồng ý cho chúng tôi thanh toán việc. Tôi phải bấm giờ để ba đứa nhỏ thay
sau khi cạn giếng, nghĩa là sau khi đã bán nhau mõi cho công bằng. Hai thằng đào
xong số vàng dưới lòng đất của cái diện tích dưới giếng, một thằng ngồi trên miệng giếng
mà tôi đang căng lều hạ trại. Mười bốn năm kéo gầu đất xái. Cứ hai tiếng đồng hồ chúng
sau chiến tranh, tôi đã sống như một tay săn lại nghỉ giải lao. Thằng Thanh làm một điếu
vàng chuyên nghiệp trong những phim Cao- 555 thì hai đứa kia cũng gắng rít mỗi đứa
Bồi ViễnTây của Mỹ. Đây là chuyến trở về một điếu. Thằng Hòa chơi một chai bia
chiến trường xưa lần thứ tư của tôi. Oái oăm Chương Dương thì hai đứa kia cũng chơi
là chuyến đi nào cũng có chuyện buồn, theo ngay, mỗi đứa một chai. Chẳng đứa nào
chuyện vui để nhớ. chịu phần thua lỗ cả.Tóm lại tinh thần đồng
đội của dân đào vàng rất cao. Tinh thần
*** tranh đấu cũng rất cao. Bắt tay vào việc là
Quả thực, chuyện đào vàng chẳng có gì ăn hút cái đã! Ăn hút đồng đều, không ai
ganh tị. Chỉ có cô Nghĩa và thím Xuân là lời
nên thơ, mơ mộng. Ngoài nỗi khổ vì muỗi thôi! Tôi nghĩ thầm không biết tới ngày cân
mòng, lo sợ sập hầm, lo "xái rỗng" (quặng lọc xong xuôi, số vàng thu được có đủ để
chứa ít vàng quá) không thu hoạch được thanh toán tiền ăn hút cho bốn người chúng
chút bụi vàng nào, phí công. Ngoài ra còn
cái nguy cơ bị sang đoạt bởi những tay hảo tôi hay không?
hán thương phế binh VC có vũ khí. Khác
với đất ĐàLạt và Đơn Dương, những nơi tôi Công việc đãi xái cũng rất là vất vả.
đã kinh qua trong các lần đi khai mỏ trước Người đãi phải cúi khom lưng cả buổi trên
đây. Cấu trúc các tầng đất ở HiếuLiêm làm dòng suối, tay lắc cái khiên chao qua chao
cho dân đào vàng đổ mồ hôi, sôi nước mắt, lại, giữ làm sao cho nước mới vào khiên
vất vả hơn nhiều so với đất vùng cao. Sau thay nước cũ, nhả đất xuống dòng mà đừng
bốn, năm thước đất mùn đen thì tới đất đỏ để bột quặng trôi đi. Tụi nhỏ gọi công việc
pha đá cuội, đá tổ ong. Hết đá cuội và đá tổ này là "múa nước". Tôi thì tuyệt đối không
ong lại tới đất pha đá giăm. Xuống sâu gần có đủ cái khéo tay để làm công việc này. Tôi
hai chục thước mới thấy đất chuyển sang đành làm nghề chuyển vận và bốc xái trong
màu trắng nhờ nhờ. Lúc này cũng là lúc "hi bao đổ vào khiên để đồng bạn làm công việc
vọng vươn lên. "Đất sét mầu xám pha lẫn còn lại. Khi công tác múa nước hoàn tất, thì
từng cục quặng sắt rỉ là dấu hiệu phần vỏ bọn nhỏ vác bao bột quặng đi tới chòi ông
của lớp đất trộn quặng vàng. Đoạn đường từ Lâm Thầu người Tàu ChợLớn nơi cuối dốc
miệng giếng tới lớp đất xám là đoạn đường để mua thủy ngân và làm công tác lọc tinh
đứt ruột, rã rời hai tay. Tôi là trưởng mũi vàng. Tôi lo thu dẹp rửa ráy đồ nghề, khiên,
nên không phải thay phiên "mõi" đất (đào chảo, bao bì, cuốc xẻng rồi chuyển vận

chúng về lều. May thay, sau khi thanh toán thời kỳ đông đảo nhất. Lều trại đó đây, ước
sòng phẳng sổ nợ cho cô Nghĩa và thím lượng dân số đào vàng nơi này cũng cỡ bốn,
Xuân, giếng vàng đầu tiên cũng đem lại cho năm nghìn người là ít. Họ đến từ PhátDiệm,
chúng tôi đủ số vốn hai chỉ lúc đầu tới bãi. họ gọi con trâu trắng là "con tâu tắng". Họ
đến từ MóngCái, từ TuyênQuang, họ nói
Hôm sau tôi cho quân nghỉ mệt ba ngày tiếng Nùng, tiếng Tày. Họ đến từ miền
trước khi khởi công một giếng mới. Trong Trung, giọng Quảng, giọng Huế. Họ đến từ
ba ngày nghỉ dưỡng quân này, thằng Hòa và CàMau, họ chuyện trò với nhau bằng tiếng
thằng Út thay nhau nấu cơm. Ăn sáng xong,
đứa thì đi phụ đãi ngoài suối lấy công, đứa Miên...
thì đi nhập sòng. Cờ bạc ở đây chỉ có món
xóc dĩa. Những con bạc đặt cược bằng tiền, Mặt trời hừng hực tháng Năm. Dòng
vàng, đồng hồ, dụng cụ khai thác mỏ. Thẻ nước đầu nguồn trôi xuôi, càng về cuối
chứng minh nhân dân đôi khi cũng có thể nguồn càng đục. Dòng nước thành mầu cà
dùng làm vật cầm cố. Có vài ổ bán dâm dọc phê sữa đặc. Người ta lội tới mắt cá, bắp
bên bờ suối. Trong những cái lều che bằng chân, đầu gối. Tay khiên chao nhanh, mắt
vải nhựa, những người con gái trẻ bán dâm không rời những hạt vàng óng ánh trong đáy
trên những cái chiếu trải dưới đất. Những cô khiên. Lượng cát óng ánh nhiều hay ít là
gái hành nghề ở đây không phấn son lòe niềm vui, là nỗi thất vọng. Đủ loại người tìm
loẹt. Họ cũng là những người đào xái một sống nơi chiến trường xưa, trên con suối đục
thời, đã "mo" nên không thèm đào nữa, đành ngầu đất đỏ. Những tiếng hát cất cao, ngây
đem thân xác cho đàn ông "đào" để kiếm ngô, giọng Bắc, Trung, Nam chen lẫn nhau.
cơm sống qua ngày. Họ đi la cà các bãi. Những giọt mồ hôi đọng trên trán, trên má
Móc ngoặc được khách thì dẫn về lều. Tiền những khuôn mặt cháy nắng xạm khô.
trả trước, trôn trao sau. Ra khỏi lều, người Những tiếng cười vô tư bên những tiếng thở
bán dâm và kẻ mua dâm lại trở thành đôi dài chán chường...
người không quen.
Tới cuối đồi, tôi ngừng bên những giếng
Buổi trưa, tôi thả bộ lang thang dọc bờ vàng cũ. Dăm em bé gái trai, tuổi cỡ lên
con suối đục ngầu đất đãi xái. Dân đãi vàng chín, lên mười, thân mình gầy guộc đang
làm việc cần cù, bất kể đêm, ngày. Ban ngày chuyền từng gàu đất xái chúng mót được lên
chúng tôi đãi xái dưới đèn mặt trời. Ban mặt đất. Tôi tò mò hỏi, "Có khá không các
đêm, dọc hai bên bờ suối có hàng chục ngọn em?" Một bé gái trả lời, "Tụi con mót cả
măng sông và đèn khí đá. Đôi khi, đêm vui ngày không đủ ăn chú ơi! Họ 'cạo' láng quá!
hơn ngày. Nhạc từ những cái máy thu băng 'bợn' còn ít lắm chú à!" Tôi xoa đầu bé cảm
oang oang, bốn hướng tám phương. Nhạc thông. Thương cho bé, mới tí tuổi đầu đã vất
vàng, nhạc kháng chiến, nhạc disco, bi kịck, vả vì đời.
hài kịch, vọng cổ xen lẫn nhau. Cùng lúc
người nghe có thể thưởng thức cả giọng ca Tôi theo cái thang dây xuống thám hiểm
nữ đang lên Cẩm Vân, cùng giọng ca nam vùng đất thế giới của DiêmVương. Sâu hai,
đang xuống Quốc Hương, xen lẫn điệu ngân ba chục thước dưới lòng đất, ở tầng quặng
xàng xê bất hủ của Thành Được và Bạch mỏ, vách ngăn giữa các giếng được đánh
Tuyết. Lúc này khúc Lambada NamMỹ thông để lấy xái. Lớp đất sét có quặng chỉ
đang thịnh hành. Khúc ca này đã lần mò vào dày chừng ba, bốn thước. Tôi đứng giữa một
tới tận rừng xanh. Mỏ HiếuLiêm đang ở vào căn hầm rộng mênh mông. Mặt đất dưới
chân tôi bị cạo sạch sành sanh. Trên trần là
lớp đất sét trộn đá giăm, dưới nền cũng là

đất sét pha đá giăm. Không khí dưới đáy không có ai lãnh việc này, tôi tình nguyện
giếng lạnh lẽo vô cùng. Ánh sáng mặt trời từ làm việc với họ. Giao kèo chỉ có một ngày
trên cao theo những lỗ giếng chiếu xuống thôi vì ngày kia tôi đã bắt đầu một giếng
đáy như những ngọn đèn pin trắng. Ngửa mới không thể đi theo họ được. Sáng hôm
mặt nhìn lên, chỉ thấy một khoanh trời xanh sau tôi nhận tiền thù lao trước, làm việc
xa tít, lâu lâu bay qua vài sợi mây trắng. thông ngôn sau. Ngày hôm ấy chúng tôi đã
đi qua hết cái diện tích của mỏ vàng Hiếu-
Những em bé đang mót xái cách tôi Liêm, từ đầu dốc Cậu Linh cho tới triền đồi
không xa, vậy mà tôi không nghe được tiếng hướng tây, nơi những cây nọc phân khu mới
chúng nói chuyện. Xái dưới chân không còn. đóng ranh. Giấy phép khai thác khu đất này
Chúng dùng xẻng đâm ngược lên tầng vách chưa được phổ biến. Chúng tôi la cà từ
đất trên đầu, hi vọng tìm được những cục giếng này sang giếng khác. Tôi thông dịch
quặng vàng lẫn trong đất đá trên trần hầm. chuyện mua bán thì ít, mà thông dịch những
Những bé con đang tìm miếng cơm dưới câu hỏi về thời thế, gia cảnh của dân mõi xái
chân Thần Chết! Có lúc đất đá sụp từng khối thì nhiều. Những người Thái có vẻ thích
trên đầu chúng khiến bọn nhỏ hoảng sợ chạy nghe chuyện lạ bốn phương hơn là việc mời
dang vội ra xa. Chờ vài giây, chúng trở lại chào khách hàng. Người TháiLan lớn tuổi
bới vét đống đá tìm những cục xái còn sót, nhất cẩn thận ghi chép những điều ông ta
gom thành từng cụm rồi chuyển vận lên mặt nghe được vào quyển sổ tay dày. Lâu lâu
đất. Khi bọn nhỏ đi khỏi, căn hầm im lặng ông lại dở ba lô lấy cái máy ảnh nhỏ chụp
như tờ, không cả tiếng côn trùng. Tôi chợt hình hoạt cảnh đang diễn ra trên khu khai
nghĩ, chỉ cần một chấn động nhỏ trên mặt thác mỏ. Đi từ sáng tới chiều chúng tôi chỉ
đất là cả khu rừng nặng hàng triệu tấn trên bán được vài cái mền. Ban đêm ở đây cũng
kia sẽ đổ xụp xuống lấp kín căn phòng lạnh lắm, nhưng những kẻ đào vàng khốn
khổng lồ này trong giây phút. Tôi đảo người khổ như chúng tôi thì đâu có thời giờ để ngủ
quan sát một vòng, tôi có cảm tưởng như mà cần tới mền? Trước khi chia tay chiều
đang đứng dưới một bầu trời đầy mây đen hôm ấy, tôi chỉ dẫn cho những người Thái
kịt mênh mông. Đất dưới chân tôi bốc hơi thương buôn con đường lên cao nguyên để
lành lạnh. Tôi thấy hai ống chân mình có vẻ bán chăn nylon. Họ có vẻ không thiết tha
như muốn mềm nhũn từ từ. Quanh tôi không lắm với việc lên ĐàLạt rao hàng.
có ai. Quanh tôi im lặng quá. Tôi chợt rùng
mình. Tôi tìm sợi dây thang, vội vàng leo Hỏi ra, tôi được biết người cao niên nhất
nhanh lên miệng giếng. trong bọn họ là một cựu chiến binh thuộc Sư
đoàn MãngXàVương của Quân đội Hoàng-
Mặt trời xế bóng, có ba người đàn ông gia TháiLan, một đơn vị đồng minh đã có
đeo mỗi người một cái túi đựng đầy hàng lần hiện diện ở LongThành thời chiến tranh.
hóa bên hông. Họ đang đứng trước lều của Chuyến đi này của ông không có chủ đích
ông bác sĩ An hỏi han điều gì đó. Tôi thấy buôn bán, mà chỉ mượn cớ về thăm nơi
bác sĩ An và họ nói chuyện với nhau bằng chiến trường xưa thời tuổi trẻ. Ông ta đang
tay, miệng bốn người xí xô om xòm. Khi tới trên đường tìm hứng để viết lại hồi ký đời
gần tôi nhận ra ba người lạ là người Thái- ông. Ông ta hi vọng thiên hồi ký này có thể
Lan. Họ nói chuyện bằng Anh Ngữ, họ hỏi đem về một số tiền nhuận bút lớn lao, đủ
xem có ai biết tiếng Anh thì giúp việc họ cho ông sống dưỡng già. Tôi không thiết tha
bán những cái poncho line hoa hòe. Họ sẽ lắm với đám người này, vì tôi vào lại chiến
trả công mười lăm nghìn một ngày. Thấy trường xưa chỉ với mục đích tìm gạo sống

qua ngày, tôi không có gì hứng thú với việc Một hôm, tôi vừa đổ gầu đất xuống bờ
trở về rừng tìm ý viết văn như họ. Chiều ấy suối, quay lưng định trở về giếng làm
chuyến kế tiếp thì nghe có tiếng đàn ông
chúng tôi chia tay. quát tháo,"Mày không nộp hết túi vàng cục
đó cho tao thì tao vặn họng mày!" Tò mò tôi
Tôi về tới lều thì thằng Út kể cho tôi dừng lại quan sát. Bên bờ suối, một hảo hán
nghe chuyện chị bán nhang đèn bị cướp. to lớn đang kẹp cổ một cô gái cỡ mười bốn
Chiều qua trên đường về nhà chị bị phục mười lăm tuổi. Tay anh ta lần mò trước
kích giữa rừng. Lúc chiếc Honda hai bánh ngực cô giành giựt cái gì đó. Cô gái vừa cố
của chị đổ dốc thì kẻ gian đã giựt một sợi ôm chặt cái túi áo vừa khóc lóc, "Em lạy
dây dù căng ngang con đường xe be vừa hẹp anh, vốn liếng đào đãi cả tháng nay, em chỉ
vừa rậm rạp. Chiếc xe bổ nhào. Từ bìa rừng, có ba chỉ. Mẹ em đang bịnh nặng chờ ở nhà.
hai người đàn ông bịt mặt bằng áo thun đen Anh mà lấy hết thì em không còn tiền thuốc
ào ra lôi chị và chiếc xe vào sâu trong bụi thang cho mẹ em. Mẹ em chết mất! Em lạy
lau. Chúng trói chị lại, nhét giẻ vào miệng anh ngàn lạy. Em làm đứt dây lều của anh,
chị, lột hết nhẫn, vòng, kiềng, cà rá và cả đôi em đã thay bằng dây dù loại xịn đền cho anh
bông tai vàng của chị. Chúng vứt chị nằm rồi. Anh tha cho em, anh ơi! hu..hu...hu..."
trên đám cỏ lác cho kiến tha, rồi leo lên xe Người đàn ông nắm tóc cô gái mà quay, hắn
Honda của chị nổ máy chạy đi mất tiêu. Chị nghiến răng,"Tổ mẹ mày! Dây lều của tao,
hì hục suốt đêm mới tự cởi trói được. Chị lết mày phải đền bằng thứ dây 'gin'. Tao không
ra tới giữa đường nằm chờ người đến cứu. chịu cái thứ dây dù đó. Ở đây cái gì cũng
Gần sáng, có mấy tay bảo tiêu có súng, sau tính bằng vàng. Không đền tao giết!" Vừa
khi chuyển xái về nhà thân chủ, trên đường nói hắn vừa đấm đá túi bụi vào ngực, vào
trở lại rừng, họ thấy chị nằm giữa đường bèn mình cô gái đáng thương.
cứu chị về bãi. Chuyện chị nhang đèn bị
cướp chắc cũng được truyền khẩu trong dân Cuối cùng, hắn chộp được cái túi nylon
gian vùng mỏ này được vài ngày. Ngày sau, dấu trong áo ngực của cô gái. Người thanh
tuần sau người ta lại quên chuyện ấy thôi. Ở niên bỏ bao vàng vào túi rồi buông cô bé ra.
đây, mỗi ngày xảy ra cả trăm vụ lộn xộn. Đủ Cô bé mặt mũi đầy máu, ôm lấy chân anh
thứ chuyện tào lao.Tôi nghe tụi nhỏ kể lại, thanh niên, nắm chặt vạt áo hắn, cô cố gắng
tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua! Chẳng hứng thú giựt lại cái túi nylon.
tìm hiểu thêm làm gì. Đụng độ trong cái chợ Người đàn ông liên tiếp đấm đá cô gái. Hắn
trời này là chuyện thường ngày. Qua đường, tìm đủ mọi cách thoát khỏi bàn tay cô gái.
vô ý chạm vai một yêng hùng, nếu không có Cuối cùng hắn quật cô bé lăn quay ra đất rồi
lời xin lỗi kịp thời có thể gây nên cảnh sứt nhổm mình định chạy đi. Cô gái vội nhào
đầu lỗ trán. Vô tình ném cái tàn thuốc lá vào ôm chặt chân chàng hảo hán, miệng cô
trước mặt một tay chơi cũng là hành động la bải hoải," Bà con cô bác ơi! Cứu con!
châm ngòi cho một cuộc chiến tranh. Ngoài Người ta ăn cướp vàng của con. Ăn cướp!
ra, còn cả ngàn nguyên nhân gây ra ẩu đả. bà con ơi!" Thấy tôi đứng nhìn, cô bé cầu
Đánh nhau vì gái, vì cờ bạc, vì chia chác cứu, "Chú ơi! cứu con với! anh này cướp
phần hùn, vì mõi xái lấn lằn ranh, và vàng của con chú ơi!" Tôi chưa biết tính sao,
thì tay hảo hán đã hăm he, "Này! Đừng có
vì vân vân... Cái khó bó cái khôn, cái khổ dính vào nghe cha! Coi chừng lỗ mũi ăn trầu
làm con người dễ dàng nổi khùng, rồi trút đó!" Tôi xua tay, nhẹ giọng,"Chuyện đâu
cái khùng ấy lên đầu đồng loại. còn đó. Anh cứ thủng thẳng mà giải quyết.

Sao lại nặng tay với phụ nữ như thế, ngó sao ngược tay trái anh ta ra đàng sau. Anh đang
được." Nghe vậy, người thanh niên nộ khí cố gượng đứng lên, nhưng đành
xung thiên,"Đ.M! Mày có phải ông nội tao
không mà lên mặt dạy khôn tao? Tao uýnh tự động quỳ xuống, khi tôi xoay tay anh một
chết mẹ mày bây giờ!" Đúng là cái ách giữa vòng chín chục độ theo chiều kim
đàng! Tôi phân bua với những người đồng đồng hồ. Mặt anh nhăn nhúm vì đau. Mồ hôi
cảnh đang đãi xái dưới suối,"Bà con nghe có anh chảy ròng xuống má. Tôi nghe anh ta
được không? Tôi thấy đàn ông ăn hiếp đàn rên, "ư! ư! ư!..." trong họng. Bà con tụ tập
bà thì tôi có ý kiến. Anh này hàm hồ, hỗn kín xung quanh la ó như cái chợ, "Đánh chết
hào như vậy thì bà con tính sao?" Bà con mẹ nó đi! Đồ ăn cướp!" Tôi móc túi anh lấy
chưa nói gì thì anh hảo hán đã dấn cho tôi cái túi nylon đựng mấy cục vàng ròng đưa
một bạt tai khiến mắt tôi nổ đom đóm. Anh cho cô bé. Cô bé vội vã bỏ vàng vào túi,
co cẳng bồi thêm một cái đạp ngay hông tôi; miệng lúng búng "Cám ơn chú!" rồi cô ta
tôi té bò càng bên bờ suối. Tôi vừa lồm cồm cắm đầu vụt chạy về hướng dốc cậu Linh
bò dậy lại bị thêm một cái tát ngay má phải. khuất bóng. Đợi cho cô bé chạy đã xa, tôi
Thế là, tôi chẳng còn nghĩ hơn thiệt, phải mới buông tay anh thanh niên ra. Tôi đẩy
trái gì nữa. Tai tôi đã ù, mắt tôi đã đổ lửa. nhẹ, anh ta ngã chúi về phía trước. Tôi
Tôi không kìm được tiếng rú man rợ thoát ra chống một đầu đòn gánh sát mũi chân phải.
từ miệng mình, "A! ...A!...A!...!!!". Bàn chân phải sẵn sàng hất cái đòn gánh lên
cao phòng hờ một đòn phản ứng cấp thời.
Tôi hất đôi quang gióng xuống đất. Cái Nhưng anh thanh niên không còn hung hăng
đòn gánh trở thành cây côn. Cái đầu côn nữa. Anh lết mình trên cát như con chó đánh
thốc lên một đòn rất nhuyễn và thuần thục. hơi thấy mùi cọp. Anh ta gắng lết cho xa đầu
Bài côn BìnhĐịnh do một võ sư xuất thân từ ngọn côn. Anh nhìn tôi với đôi mắt lạc thần.
quê quán của vua QuangTrung truyền dạy Anh lượm vội đôi dép râu TrườngSơn rồi ù
cho tôi ở Pleiku thời 1966 67 đã bị bỏ quên té chạy về phía con dốc hướng tây, nơi đầu
nhiều năm, nay được đem ra thi thố giữa nguồn con suối. Tôi đứng nhìn theo bóng
rừng xanh. Mũi côn vừa thọc trúng hàm đối anh ta, lòng chùng xuống, man mác buồn.
phương thì tôi tự động tạ người xuống thấp, Tôi tự cảm thương cho cái thân tôi! Cạn ao,
tay tôi xoay cây côn một vòng trên đầu lấy bèo xuống đất, tôi đang tranh sống trong
đà. "Vèo!" cây côn chúc xuống quét sát mặt một thế giới không luật pháp, không cả tình
đất, cắt ngang ống quyển tên thảo khấu. Bị người. Đâu có ngờ, cuộc đời tôi lại có ngày
liên tiếp hai đòn chí tử, chàng hảo hán qụy bị đẩy đưa đến cái khúc quanh thê thảm này!
gối xuống. Phát côn thứ ba, bổ xuống từ trên
cao trúng vai anh ta, kết thúc bài học vỡ Đấy! Cuộc sống của dân Goldseeker
lòng "Tam Côn Khai Môn" Đó là bài đầu miền Nam vào thời 8890 đại để là như thế
trong ba mươi sáu bài "Đoạt Mệnh Côn" đấy! Muốn nghĩ rằng nó nên thơ, thì nó nên
BìnhĐịnh, bài nào cũng kết thúc bằng một thơ. Nếu cho rằng nó thảm sầu, thì quả thực
thế sát thủ. Theo đúng bài bản, thì phát bổ nó quá thảm sầu. Thời gian thì cứ trôi. Mặt
xuống phải nhắm ngay đỉnh đầu địch thủ, trời lặn rồi lại mọc. Ngày nào cũng là quá
nhưng tôi chợt hồi tâm, nhích tay cho nó dài, đối với những kiếp người sống đọa đày
chệch sang bên, dù sao thì anh ta cũng trầm luân trong tăm tối, không tương lai. Tôi
không phải là một tên lính MãnThanh! Lúc nghĩ đến thân phận mình và đồng bào mình.
này vị hung tinh rũ người xuống như cọng Chỉ vì cái ngày ba mươi tháng Tư năm ấy,
bún. Tôi bước lên một bước, tay phải vặn chúng tôi đã đánh mất đất nước, mà cả đất

nước tôi thành một trại tù khổng lồ. Năm đầu hạ năm 1965, cũng có trận mưa đá bất
1988 ra khỏi cái nhà tù con, tôi lại cùng chợt như hôm nay. Những viên nước đá to
những người khốn khổ nhất của đất nước như quả trứng gà vãi trên tàn thông năm lá,
này tranh sống trong một nhà tù lớn. rồi lăn tưng tưng trên nền cỏ, bên miếu
ThầnHổ, trời lạnh quá, giữa trưa, tháng
*** Năm...
Chúng tôi khởi công đào giếng vàng thứ
Một thằng bạn sinh viên sĩ quan cùng
nhì vào một buổi sáng trời u ám lất phất đại đội còn điếu Oakland cuối cùng, chuyền
mưa rơi. Mặt trời bị mây che kín mà rừng tay nhau năm đứa. Khói thuốc ngọt như mật.
già thì tối om. Tôi gắng chuyền nhanh từng Điếu thuốc được chuyền nhanh qua những
gầu đất, nặng như những gầu bùn khi đi tát ngón tay ướt và trắng bệch vì lạnh. Hình như
ruộng đào ao thời còn lao động khổ sai trong hôm ấy không một sợi khói nào kịp bay
trại cải tạo NamHà A, Z30C, hay Z30D. Mồ thoát trong không trung. Khói thuốc chui
hôi che mờ con mắt. Mồ hôi chảy ròng ròng vào buồng phổi tuổi trẻ. Những lá phổi còn
xuống má, qua cằm, xuống ngực. Mồ hôi trẻ khỏe đầy sức sống. Những lá phổi hút
làm nóng lớp da bụng. Mồ hôi chảy xuống từng ngụm khói thuốc gọn gàng dứt khoát,
ướt cả cạp quần. Đúng Ngọ, gió chợt ngừng, như tấm giấy thấm loại thượng hạng ép trên
tôi nghe như có ai đó vãi từng đợt đá sỏi trên giọt mực tím rơi trên giấy trắng học trò ngày
tàng cây cao. Mưa đá! Những cục nước đá thơ ngây tiểu học. Điếu Oakland qua tay
nhỏ bằng hạt ngô nhảy tưng tưng từ đọt lá năm chàng tuổi trẻ, sinh viên sĩ quan khóa
này xuống đọt lá khác, rơi vãi trên nền đất 20 ĐàLạt. Trời lạnh quá! Khói thuốc chưa
mới. Thoáng chốc, mặt đất đã trắng xóa vì kịp bay thì điếu thuốc đã tàn...
mưa đá. Hạt mưa đá lớn dần, bằng hạt đậu,
bằng trứng cút, rồi bằng trứng gà. Trời tối Ngày ấy, sau cơn mưa, chúng tôi tiếp
thui, và nhiệt độ hạ rất nhanh. Da bàn tay tôi tục bài chiến thuật "Tiểu Đoàn Phản Phục
săn lại vì lạnh. Những vết vân tay nổi rõ lên Kích" trên đoạn cua chữ "U" bên đồi 1441
màu bạc nhợt nhạt. Tôi thấy gai ốc nổi cùng đất đỏ, thông xanh. Con đường uốn khúc
người. Tôi cảm như bầu trời là một tảng quanh co. Những anh lính "Kà" giả địch dấu
băng khổng lồ đen kịt đang phà khí lạnh mình dưới bụi sim hoa tím, lúc nào cũng
xuống những tàn cây trên đầu. Ôi! Sao trời chuẩn bị câu, "Tôi đầu hàng rồi ! Đừng bắn
lạnh thế! Giữa trưa, tháng Năm... nữa ông Thiếu úy ơi !" khi chúng tôi oai
dũng tiến về phía họ ẩn nấp, sau một pha
Trên đồi, những dòng nước bắt đầu len xung phong phản phục kích tuyệt vời qua
lách quanh gốc cây. Những dòng nước đỏ màn khói đỏ, khói vàng, khói trắng, khói
ngầu tìm đường xuống dốc. Nước bắt đầu đổ tím, khói xanh, và khói đạn mã tử!
ào ào vào miệng giếng đang đào. Tôi cho
quân tạm nghỉ. Chúng tôi dùng một tấm vải Rồi Đại úy Mỹ phê bình trận đánh một
nhựa che trên miệng giếng. Khi ba đứa nhỏ cách tổng quát. Rồi Trung úy Đức rút ưu
đã leo lên khỏi miệng giếng chui vào lều, tôi khuyết điểm. Cứ thế, hai năm dài, lặp đi, lặp
mới theo chân chúng ngồi bó gối nơi cửa ra lại . Những bài lý thuyết với những trường
vô. Tôi mồi một điếu thuốc CửuLong, nhìn hợp xử lý, những câu giải đáp a, b, c
những hạt mưa đá lăn trên mặt đất, nghĩ khoanh. Những buổi thực hành trên đồi
ngợi mông lung... thông ĐàLạt, đương đầu với địch giả, trong
màn khói đạn mã tử. Những buổi dạ hành,
Nhớ chuyện cũ, ở chân núi hướng đông xuyên đêm. Những chuyến di chuyển địa
của ngọn Lap Bé Nord, ĐàLạt, một ngày

hình tìm cọc mốc dưới trăng. Những phiên Đã đến ngày chúng tôi bắt đầu công việc
gác đêm đông sương mù lạnh lẽo trên đồi gom xái. Xái chuyển tới mặt đất thì được
Bắc. Tất cả những kinh nghiệm tự tin đó đã đóng thành bao, chất quanh lều. Sau đó
gom góp lại làm vốn liếng hành trang cho chúng tôi mới từ từ chuyển xái xuống suối
những người trẻ tuổi lớn dần, rồi trưởng để đãi lấy tinh. Với dân đào vàng thì ngày
thành, vững tâm đi vào chiến trường. Ôi thời này là ngày hạnh phúc nhất. Tôi cầu mong
gian qua như tên bay! Đã có biết bao nhiêu đợt thu hoạch kỳ này sẽ khấm khá hơn lần
lần mưa đá kinh qua trong đời. Năm thằng trước. Giếng bên cạnh của hai
tuổi trẻ chuyền tay điếu Orland ngày nào, thì
một thằng thành phế binh, ba thằng đền nợ cha con ông người Quảng mới trúng bảy
nước. Hai mươi bốn năm sau lần mưa đá ấy, cây. Giếng của chúng tôi sát nách giếng cha
còn lại mình tôi, một Kẻ Săn Vàng... con nhà ấy, có rẻ cũng được năm cây! Tôi
nhẩm tính trong đầu, chi phí đâu đó xong
Trời gầm trên ngọn cây. Chớp giật liên xuôi, mỗi người chắc mẩm có cả cây bỏ
hồi. Mưa như cầm chĩnh đổ. Cứ như vậy bọc! Tôi nghĩ đến đàn con đang ở SàiGòn
suốt đêm và kéo dài cho tới chiều hôm sau, chờ tin tôi, như những con chim non đang
mưa mới nhẹ hạt dần. Nước đã tràn qua bờ trông chờ con chim mẹ kiếm mồi... Tôi mơ
be miệng giếng. Nước cuốn trôi xuống chân màng hình dung trước mắt, một mâm cơm
đồi những gì cản đường. Dòng suối hiền hòa gia đình có canh, có cá. Tôi nghĩ tới tuần
hôm qua, nay trở thành con sông nhỏ chở sau, khi tôi mang vàng về, các con tôi sẽ có
đầy củi cành rác rến, nước đỏ ngầu. Tôi cứ tiền trả tiền học. Tôi sẽ mua thêm vài tấm
ngồi bó gối nhìn ra ngoài trời. Điếu thuốc tôle nhựa để che những lỗ dột trên lầu cho lũ
này tiếp nối điếu thuốc khác trên môi, tôi con đỡ ướt lúc gió mưa. Tôi sẽ mua dự trữ
ngồi nghĩ vẩn vơ toàn những chuyện ngày một số chỉ thêu để con gái tôi có sẵn chỉ mà
xưa. Trời càng về chiều càng lạnh hơn. Đêm thêu hàng cho khách đặt hàng thêu. Tôi sẽ
đó tôi bị cảm lạnh. Trong lúc cơn sốt rét mua một cái máy thu thanh cho bọn nhỏ học
rừng hành hạ tôi, thì ngoài kia mưa vẫn rơi. Anh Văn. Vợ tôi sẽ mua để dự trữ sẵn trong
Nhưng rồi chuyện gì cũng qua. Mấy hôm nhà một tạ gạo, vài chai nước mắm, phòng
sau mặt trời lại trở về soi những tia nắng ấm đói cho con...
trên cuộc đời những kẻ bất hạnh nhất trần
gian. Chúng tôi bắt đầu trở lại. Những giọt Trời hừng đông, người ta bàn tán với
mồ hôi lại đổ xuống mảnh đất chiến trường nhau rằng, ngày mười chín tháng năm, ngày
xưa. Những gầu đất tiếp tục khơi sâu lòng sinh của "Bác", Huyện đội sẽ cho cán bộ bất
giếng. Từ quán cô Nghĩa vang vọng lại thần vào kiểm tra an ninh khu vực khai thác
giọng hát ngọt ngào thuở nào, Khánh vàng này. Tin tình báo nhân dân nhanh thật!
Ly,"Trời ươm nắng cho mây hồng... Mây Hèn nào mới gà gáy sáng, tôi thấy đã có
qua mau, em nghiêng sầu...Ngoài kia lá như mấy anh thanh niên hì hục chuyển hai thùng
vẫn xanh ..." Tôi chợt thấy một niềm vui nhỏ súng đạn từ cái quán của cô Nghĩa đem phân
nhen nhúm trong lòng, nơi rừng thiêng nước tán đi đâu đó không ai rõ.
độc này, chợt phút giây, tìm lại được cái gì
đó gần gũi, ấm cúng ngày cũ. Giếng đã cạn Sáng sớm, thím Xuân đem lên một con
đá sỏi, bắt đầu vào lớp đá giăm, chúng tôi gà trống đã luộc chín và một nồi xôi đậu
mừng vui vì sắp tới ngày "hi vọng vươn lên" xanh. Chúng tôi lần lượt thắp nhang khấn
của giếng vàng thứ nhì. vái cám ơn Thổ địa đã phù hộ. Sau khi ăn
sáng, chúng tôi chuẩn bị đánh giây đai
những bao xái để dễ dàng chuyển vận.

Khoảng mười giờ sáng, nơi đầu dốc cậu trình giấy phép khai thác rừng. Từng toán ba
Linh có tiếng súng bắn chỉ thiên, một cái loa người đến mỗi bãi hỏi giấy phép. Sau đó họ
cầm tay oang oang ra lệnh, "A lô! A lô! Ai ở làm biên bản, bắt người trưởng mũi ký tên.
đâu ở tại chỗ! Có đoàn kiểm tra an ninh kinh Có vài người bị đưa đến tập trung hướng
tế của huyện thi hành nhiệm vụ thanh lọc. bên kia đồi, nơi cuối dốc, ở đó có một
Yêu cầu bà con sẵn sàng xuất trình giấy khoảng đất bằng phẳng với những súc gỗ cũ
phép khai thác củi cho nhân viên chính mục. Mỗi toán kiểm tra gồm ba bộ đội thì có
quyền. Đây là công việc bảo vệ an ninh và một tên là sĩ quan, từ một sao một gạch, tới
quyền lợi cho bà con. Xin bà con cứ yên tâm bốn sao một gạch, tức là từ Thiếu úy tới Đại
sinh hoạt bình thường, đừng gây lộn xộn. úy. Tôi nhủ thầm, "Gớm! Sao mà quân đội
Hãy tiếp tay với chính quyền củng cố an nhân dân có nhiều sĩ quan dữ vậy!" Một
ninh huyện nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của Thượng úy Cộng Sản và hai tên bộ đội tiến
Hồ ChủTịch! A lô! A lô!" Thằng Thanh ghé tới lều tôi. Mắt chúng sáng lên khi thấy hai
tai tôi nói nhỏ, "Con với thằng Hòa phải dãy gần ba chục bao xái đã đóng bì gọn ghẽ.
tránh mặt, vì tụi con trốn nghĩa vụ. Bác Hai Với giọng Miền Trung tên Thượng úy
và thằng Út ở lại trông coi bãi xái. Hết động, trưởng toán hỏi tôi, "Giấy phép khai thác
tụi con trở lại." Sau đó nó và thằng Hòa lủi
vào rừng mất hút. Tiếng loa oang oang tiến rừng của anh mô? Đưa tui coi!" Tôi trình cái
lại gần. Nhạc vàng vụt tắt. Trên đồi, vài dân giấy phép mới mua lại tại bãi tuần trước với
mõi vàng dấu vội những bao xái trong lùm cái giá ba phân vàng. "Chứng minh nhân
bụi. Có người ném các bao xái xuống giếng dân của anh mô?" Tôi nhỏ nhẹ, "Vì ở đây
rồi ném cành lá lên trên che đi. Tôi chưa biết không an toàn nên tôi để chứng minh nhân
phải làm gì thì những cái nón cối xanh đã dân ở nhà." Người sĩ quan CộngSản nhăn
nhấp nhô đó đây. Dẫn đầu đoàn bộ đội là mặt, "Anh nói năng chi lạ rứa? Anh ở ngoài
một sĩ quan cấp lớn của quân đội nhân dân. Bắc mới nhập phải không?" Tôi chống chế,
Đầu hắn đội cái nón cối rất mới, sao vàng "Không, tôi ở trong Nam lâu rồi, nhà tôi
sáng chói, bên hông có K 54, tay có đổng ngoài bến phà mà! " Hắn không để ý gì tới
(đồng hồ), vai có đài (radio), có cặp, mắt có lời tôi nói. Quay qua một tên tùy tùng, hắn
kiếng râm. Miệng hắn toe toét cười khi đi ra lệnh,"Dẫn anh này ra bãi tập trung, giao
ngang qua các quán lều. Cái quân hàm màu cho đồng chí Quang." Tôi quay qua định dặn
đỏ trên cổ áo hắn với một ngôi sao và hai dò thằng Út đôi điều thì thằng nhỏ đã trốn
gạch vàng (Thiếu tá) cho tôi biết lực lượng mất tự lúc nào! Tôi đi trước, khẩu AK và cái
kiểm tra hiện diện trong vùng này cũng phải lưỡi lê đi theo sau lưng. Trên đoạn đường tới
cỡ trên dưới một tiểu đoàn. Như vậy là vòng bãi, tôi còn gặp cả chục người cùng hoàn
ngoài, vòng trong đều có bộ đội, không rõ cảnh nên lòng cũng không lo lắng lắm.
tụi thằng Hoà, thằng Thanh có lọt thoát
Khoảng gần hai trăm người chúng tôi bị
không? tập trung nơi bãi cây. Nơi đây có một cái lều
vải dã chiến vừa được dựng lên vội vã. Có
Hai hàng quân triển khai dọc hai bên bờ một cái bàn gỗ đặt trước cửa lều. Một Đại
nam bắc của con suối. Những tên lính Cộng úy CộngSản đang ngồi trên ghế nhâm nhi ly
sản, AK cầm tay, lưỡi lê đầu súng, mặt lạnh cà phê đen. Tên bộ đội đẩy tôi về phía bàn
như tiền. Chúng đóng trụ, từng tổ hai đứa. giấy và ra lệnh, "Anh trình diện Thủ trưởng
Tổ này cách tổ kia khoảng hai chục thước, Quang đi! " Tôi chưa kịp bước lên thì tên sĩ
trải dài theo con đường mòn bên bờ chờ quan CộngSản đã xua tay, "Thoải mái!
lệnh. Công việc kiểm tra bắt đầu với việc

Thoải mái! Anh cứ thoải mái ra nghỉ ngoài vào đám đông. Những tên bộ đội canh gác
kia, chờ chúng tôi nghiên cứu vấn đề rồi sẽ an ninh lúc đó đang tháo gỡ căn lều dã
giải quyết sau. Nhớ đừng tìm cách thoát ly chiến. Chúng nó chuẩn bị thu quân.
đó nhé! " Sau đó hắn to giọng để những
người khác cùng nghe, "Các anh chỉ được di Sau khi dồn đống giấy kiểm điểm của
chuyển trong vòng đai đánh mốc bằng dây chúng tôi vào ba lô, tên Đại úy phụ tá xách
thừng này thôi! Ai tìm cách thoát ly thì cái ba lô đó đi về hướng dốc Cậu Linh. Hắn
chúng tôi không chịu trách nhiệm bảo toàn vừa nhún nhảy đi, vừa huýt sáo miệng điệu
tính mạng đấy nghe không!" Đám người bị nhạc Lambada NamMỹ. Viên Thiếu tá
câu lưu nghe lời hăm dọa mà xanh mặt. CộngSản trưởng đoàn trịnh trọng hắng
Những tên lính Cộng Sản canh gác bốn góc giọng lấy hơi rồi tuyên bố, "Nhân danh
bãi thì vẻ mặt khó đăm đăm. Những họng trưởng đoàn kiểm tra nhân dân, tôi khen
AK lúc nào cũng lăm lăm chĩa vào đám ngợi các anh đã thành khẩn nhận lỗi và hối
đông như sẵn sàng nhả đạn. Gần hai trăm lỗi. Nhân ngày kỷ niệm sinh nhật của Bác
người chúng tôi ngồi trên cát, trên cỏ, nhịn Hồ, tôi châm chước cho các anh ra về. Nhớ
đói, nhịn khát trong thời gian năm, sáu tiếng lần sau chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy
đồng hồ. Tới xế chiều thì viên Thiếu tá định khai thác rừng của huyện và không
trưởng đoàn kiểm tra xuất hiện. Hắn vẫn toe được vi phạm nữa nghe không!" Mọi người
toét cười, "Thế nào? Bà con có khoẻ không? vỗ tay cảm động. Đôi người còn đến mời
Chờ đợi lâu thế này chắc là bà con đói bụng thuốc lá và xin bắt tay tên sĩ quan trưởng
rồi đấy! Thôi nhé! Mình tranh thủ làm nhanh đoàn. Tôi cũng thở phào nhẹ nhõm. Tôi nói
nhanh công tác kiểm điểm để bà con về nghỉ với một người đồng cảnh trên đường trở về
mệt. Thì giờ là vàng ngọc mà! hì! hì! hì!..." bãi, "Chắc lệnh trên ban xuống, bắt tụi nó
Mọi người thở ra nhẹ nhõm. Tình hình có vẻ kiểm tra, thì tụi nó cũng làm cho có lệ vậy
không đến nỗi căng lắm! Vài người trong thôi, chứ ăn cái giải gì mà khó dễ tụi khố
bọn tôi bạo gan giở thuốc lá ra hút trong khi
chờ đợi viên Thủ trưởng đoàn kiểm tra giải rách áo ôm
quyết vấn đề. Viên Thiếu tá CộngSản đưa
từng xấp giấy có in sẵn mẫu cho bốn tên đàn như mình!" Ông đồng cảnh của tôi cười
em đem phân phát cho mỗi người chúng tôi khẩy, "Chắc tụi nó có nhận trà nước chia
một bản. Đó là mẫu tự khai và kiểm điểm, chác của xã, nên mới dễ dãi với mình. Lần
trong đó chúng tôi phải ghi rõ họ tên, quê trước tụi nó dọn sạch cả đồ nghề, khiên, bao,
quán, nghề nghiệp, ngày sinh, tháng đẻ. Về xẻng, cuốc, chẳng còn gì. Để về bãi mới biết
mục kiểm điểm thì tùy từng người; người kết quả ra sao anh ơi!"
không có chứng minh nhân dân thì hứa lần
sau sẽ đem theo giấy tờ theo mình khi đi xa Tôi về tới bãi cũng là lúc tụi thằng
nhà; người không có giấy khai thác củi thì Thanh chạy bát nháo đi tìm tôi. Thằng
hứa lần sau sẽ xin giấy phép trước khi vào Thanh và thằng Hòa cùng vài trăm người
rừng. Nhiều ông trưởng mũi không biết đọc, không giấy tờ khác trốn trong khu hầm mỏ
biết viết, phải nhờ người khác giúp đỡ. Tôi cũ suốt bốn, năm tiếng đồng hồ. Chẳng có
khai tên mình là Nguyễn văn Hai, sinh quán ma nào thèm tìm đến vây bắt bọn họ. Khi bộ
HàĐông, nghề nghiệp thợ mộc. Tôi nộp tờ đội đã rút đi, có người thông báo, tụi nó mới
tự kiểm của anh chàng Nguyễn văn Hai, Hà- về lều. Nghe thằng Út nói Bác Hai bị điệu ra
Đông, thợ mộc trên bàn rồi lui ra đứng lẫn bãi tập trung thì tụi nó lo lắng cuống quýt
chạy đi tìm. Thằng Út nói lúc bộ đội dí súng
bắt tôi đi thì nó chạy sang lều bác sĩ An, giả
đò đau bụng để theo dõi diễn tiến ra sao.

Chờ yên việc nó mới dám mon men về lều. dại. Tôi bắt đầu lại cuộc đời với hai bàn tay
Rồi nó mếu máo,"Bác Hai ơi! Xái của mình trắng. Mới đó mà đã mười bốn năm trôi qua.
bị tịch thu hết rồi! Bộ đội đã khiêng đi hết Thời gian trôi, nhưng chính sách của Đảng
rồi!" Tôi nhớ lại, khi lên nộp tờ kiểm điểm và nhà nước thì lúc nào cũng tàn ác, dã man,
trên bàn của tên Thiếu tá Cộng sản trưởng "trước sau như một" Tôi tự trách, "Mình
đoàn, tôi tình cờ nghe y dặn dò tên Đại úy đúng là thằng tối dạ! Kinh nghiệm đau
phụ tá, "Đồng chí nhớ cho người khẩn thương mười mấy năm rồi mà chưa sáng
trương đãi xái ngay tối nay, bên huyện ủy mắt ra. "Thế là công cốc! Cái lều của thày
chia cho cánh mình nột nửa số thu hoạch kỳ trò tôi vẫn còn nguyên, nhưng những bao xái
này đó!" Thì ra cuộc càn quét này, mục đích vàng chất xung quanh lều đã biến mất. Giờ
của huyện là lấy vàng. Trong thời gian này xái trong những bao bì ấy đã được
chúng tôi bị giữ ngoài bãi súc sau đồi thì lực những "đầy tớ trung thành của nhân dân"
lượng vũ trang huyện đã lùng sục khắp các đem đi đãi, vàng sẽ được chia cho những
bãi. Tất cả xái đã khai quật đều bị tịch thu người có công chỉ huy công tác "bảo vệ an
đóng bao khiêng đi hết. Có cả chục cái xe tải ninh và quyền lợi cho bà con" trong cuộc
chờ sẵn ngoài dốc cậu Linh để chở đi những hành quân kiểm tra sáng nay. Đúng như tên
tấn hàng béo bở. Cán bộ giải thích với dân Thiếu tá CộngSản đã tuyên bố, "bộ đội
đào vàng rằng, huyện cho giấy phép "khai không tơ hào đến tài sản của nhân dân!"
thác rừng" chứ không phải để khai thác Chứng cớ là bao, bì, khiên, cuốc, xẻng, đòn,
quặng mỏ. Quặng mỏ là tài sản của nhân đồ nghề khai mỏ vẫn nằm yên chỗ cũ, có ai
dân, đào vàng là xâm phạm tài sản của nhân đụng tới đâu? Chúng chỉ hớt tay trên miếng
dân. Những người trưởng mũi đều bị gán tội ăn của những kẻ đói khổ nhất trần đời.
xâm phạm tài sản nhân dân. Họ bị làm biên Trong rừng chiều, tôi nghe đây đó vang
bản và phải làm tờ tự kiểm điểm. Tất cả xái vọng tiếng khóc than, tiếng nguyền rủa của
vàng họ đã khai thác được đều bị tịch thu những nạn nhân vừa bị cướp.
giao nộp về văn phòng huyện. Mẹ kiếp! Cái
giấy phép, giá chính thức là hai phân, giá Chiều đầu hạ 1989, nắng vàng lóng lánh
chui là ba, bốn phân. Trên thực tế, khai thác trên những đọt lá giữa rừng già. Trời quang
một diện tích vuông, mỗi chiều mười mét, và mây tạnh, nhưng trong lòng tôi cảm thấy
cho dù là rừng cẩm lai cũng không được một lạnh lẽo vô cùng, lạnh hơn là khi trời đang
phân! Thêm tiền công, tiền di chuyển xe cộ, mưa đá trên miếu Thần Hổ, ĐàLạt ngày nào.
ăn uống, thuốc men. Lại một trò "chơi chữ"! Quán cô Nghĩa lại vang lên một bài ca xưa,
Cái đồ ăn cướp cạn! Tôi chợt bật cười, nhớ nhưng giọng ca rất lạ, cuộn cassette được
lại cái thông cáo tháng Năm 1975 của Ủy lén gởi về từ bên kia
Ban Quân Quản SàiGòn ChợLớn ra lệnh cho
Quân Cán Chính của chế độ SàiGòn phải nửa vòng trái đất:
"đem theo 30 ngày tiền ăn khi trình diện học
tập cải tạo" Rồi một tháng sau,"Nhà nước ra "Một ngày tàn chinh chiến ấy, chim đã xa
lệnh cho các anh mang theo 30 ngày tiền ăn, bầy...
chứ nhà nước có hứa sẽ thả các anh về sau Một ngày tả tơi hoa lá, ngóng trông về xa,
một tháng đâu ?"
nhớ thương hình bóng qua..."
Thế rồi từng tờ lịch lật qua, theo nhau,
mười ba tập lịch được bóc đi, tôi về. Tôi về,
vợ tôi đã sắp đuối, bốn đứa con tôi còn nhỏ

Một Giao Thừa trong đời tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh
Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là Nguyễn Cảnh
Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng.
quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Trong cảnh thiếu đói thường xuyên, chúng
Hòa từ nhiều trại tập trung quanh Sài Gòn tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán
đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, đường thẻ, miếng cơm cháy.
Tam Hiệp, Biên Hòa.
Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng,
Vào một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh
Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc kiết lỵ của tù ở đây hầu như bất trị. Anh
Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào trưởng lán 24 tên Trần Thành Trai nguyên là
khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy
lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa Sĩ Tân, Ðà Nẵng. Bác Sĩ Trai luôn luôn xác
quan cấp Thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ định lập trường của anh là quyết tâm “Học
ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu tập tốt” để được tha về với vợ con, vì vậy
Sông Hương ra Bắc (Tháng 7, 1976). Thời mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống,
gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.
về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi.
Người ta đồn rằng, hình như Cộng Sản Việt Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm
Nam đang trên đường tiến chiếm Thái Lan. bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của
Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh
tôi hơn. Nguyễn Phong Cảnh (K10/TÐ) người nằm
cạnh tôi.
Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ
tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không
chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những
quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, người liên lạc được với gia đình thì có
chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, chính những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết,
quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ
nhân của từng người, để xét tha (?).Cũng có vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời
tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để
Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực trình diễn đêm giao thừa.
sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ
đi về đâu. Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện
làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi
Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và
Khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa
hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu
Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương tay.
(K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế
Bình (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi
có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng làm cỏ ngoài rào K3.

Long). Lán Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng
Tam Hiệp của Quân Ðoàn 3. Trại có hai
khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong

nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng
rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu
có sáu khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà
một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi
ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa
này nhìn những cánh F4C, F5A Hoa Kỳ đan
muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng
lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập,
thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời. khói đạn bom cuồn cuộn…
Rồi tới trận Mậu Thân (1968) với những
Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm rãi
nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng
trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo
và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi Cam Ly, Ðà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ
tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên kia hàng đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông
rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn
lộ 1. cao…

Trên Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; Còn nữa…
người người vội vàng buổi chợ cuối năm.
Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi
hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17).
ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những Sĩ quan Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững
cấp tá của QLVNCH, những người bảo vệ lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang,
chế độ đến giờ cuối cùng, và những người thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ
chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đôi lúc trời trong, những phi tuần A37 theo
đây, trong khu nhà tù do chính tay Công nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực
Binh Việt Nam Cộng Hòa xây dựng lên thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ
trước đó nhiều năm. căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội
xuống sân trại vài thùng pin, đạn, gạo sấy,
Sáng nay bầu trời mầu xanh, không một gợn con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy
mây. Từ hướng phi trường Biên Hòa, bên về Đông. Phòng không như lưới, thảy xuống
kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy!
F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng. Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng
còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng
Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm
trên trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không rồi! Cám ơn người anh em Nguyễn Công
Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc Long.
30 tháng 4, có một số phi công của Việt
Nam Cộng Hòa bị trưng dụng để huấn luyện Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,”
cho phi công Bắc Việt lái những máy bay
chúng ta còn để lại. Những chiếc F5 sáng “Thái Sơn đây Hỏa Long gọi!”
như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít
của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến Chiếc AC47 của anh Trần Bạch Thanh
(K16) đã có mặt trên vùng. Những đóm hỏa
binh nao nao.

châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh,
người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm nhất thân vinh!
thấy ấm lòng.
Chín tháng sau ngày chế độ Cộng Hòa sụp
Ðã mất rồi, ngày xưa ấy! đổ, tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh
chẳng bao giờ ngờ:
Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh Trên trời, phi công Việt Cộng đang lái F5,
chim sắt chao lượn trên đầu, trước cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH
người lái không phải là quân bạn. đang dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ
quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi,
Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa! người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người
mang một tâm sự riêng…
***
Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của
Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong
hướng ban Chỉ huy trại hò nhau khiêng một vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng
cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong. chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau
trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu
Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Gì Tá Trần Ðạo Hàm, Thủ khoa K17/VB, bên
Quí Hơn Ðộc Lập Tự Do” được nâng niu kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh
như trứng trên vai những người tù nhễ nhại Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng
mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng Nguyễn Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ
của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn
chân mỗi lúc bước tới trước. lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh
Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng
Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có
Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành vẻ như đang dẫn điểm.
cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai
những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Tôi thấy nhiều người đã để ghế “xí” chỗ tốt
Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng
mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn
chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của
trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại. đài Sài Gòn Giải Phóng. Ai chậm chân thì
không còn chỗ tốt. Thời gian này TV Sài
Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc Gòn Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim
Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời. Những vị nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Ðại úy
Sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ Ðen” của Ba Lan.
mộc của họ bằng những cái bảng “Không
Có Gì Quí” ở trại tù TamHiệp. Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột
nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám
Tôi có quen vài người trong số những người và mạt chược là những môn chơi phổ thông
hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều
CHT/BÐQ/ QLVNCH là Ðại Tá Trần Công anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ
Liễu (K8 VB) và cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc
Dù là Thiếu Tá Trương Văn Vân (K20 VB). lào, thuốc tây để trừ nợ.
Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường
lòng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận Nam Tiểu Học Ðà Nẵng. Chúng tôi là học
trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp
cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một Nhất C.
bức thư “chui” của người nhà giấu trong
ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời Hải là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Ðức, anh
làm đau lòng người đọc, về phục vụ cùng đơn vị BÐQ của tôi ở
Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến,
“Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu
nội của chúng nuôi. Chị đã đi đoàn trưởng TÐ89/BÐQ. Khi đi tù, bạn tôi
lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập không có ai thư
lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên
nuôi dạy con anh.” lúc nào cũng sung túc.

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải
Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ, Quân Thiếu Tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của
rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông suốt trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm
ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để
Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến,
những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột. sau khi đã chia hết phần đường cho người
mua, anh Quý cạo được một chén đường
Tôi bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói ngày chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói
nào: đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi
chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với
“Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được
mất tất cả!” bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút
bổng lộc!
Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý!
Sáng ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực
Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm
mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp. Tôi phụ
không thể giữ nổi. việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung.
Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh
Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì
mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to
Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với như nắm tay.
chúng tôi? Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần
nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có
Lúc này chúng tôi đã mất tất cả rồi Tổng khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài
thống ơi! cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…Anh Cung
không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu
Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi thì hết
một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường gạo.
tán do anh bạn BÐQ Bắc Hải (Phan Văn
Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi, Phan Văn Hải,
cùng Phan Ðộ (K20), Huỳnh Bá An (K20),

“Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn? Cứ nấu Anh Hoàng kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng
tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồtê- LÐ24/ BÐQ của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó
in’, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuyển cho tôi được một bao 555 và một
chuồng xí đâu mà ngán!” lạng cà phê.

Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp
khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán
Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối dóc với Lưu Văn Ngọc (K20), cựu Sĩ quan
đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám Quân Pháp Quân Ðoàn 2.
ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về,
miệng lầm bầm, “đ.m, đ.m…” ***

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ Tối ba mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí
xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán
“cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn
hát, hay ca kỹ mà nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn
có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn
đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái biđông điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải Phóng
bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng xếp Miền Nam che kín cả sân khấu.
hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để
chờ xin một ly nước cơm. Chuyện xếp hàng Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền
trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đi những bản nhạc từ đài Sài Gòn Giải
đả. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được Phóng mà Tô lan Phương là giọng ca chính.
bệnh phù thũng (?). Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để
sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi ta,
Sau này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho
Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ… các
chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép
mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất thành các nhạc cụ.
độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước
cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc Tám giờ tối, buổi “Liên hoan Văn nghệ”
nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có đêm ba mươi Tết bắt đầu.
bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này
có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy? Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như
Có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình
Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. diễn.
Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo
bồi dưỡng nhà bếp của nó. Kế tiếp, người Thiếu Tá Không Quân Hoàng
Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng
Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Võ Bị.
những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng
chuyện thuốc lào. “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên” thì bị
“Cán bộ” chặn lại, đuổi xuống đài. Lý do,
Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái “Nhạc Ngụy ủy mị!” Sau đó, chỉ những bài
Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” hát “giải phóng” được phép trình diễn.
nghe mãi cũng quen tai.

Tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng
“Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca xuân Bính Thìn, mùa xuân đầu tiên của
cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên nước “Việt Nam Thống Nhất” (Mùa xuân
Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu khác, đại đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước)
để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được
nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “ban Chỉ huy trại tuyên dương công lao”
“Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên trước trại.
Chiếc Xe Tăng” vân vân… Khắp sáu K sáng
rực ánh đèn, vang rền tiếng nhạc… Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu
hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc. Một
Năm mới đang từ từ tiến về… mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc
vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có
Ðến khi màn trình diễn của lán 24 vừa được hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm
giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi ấy! Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa
một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi lán. Rối tiếng lên đạn súng AK…
đau đớn nhói tim
Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi,
tôi! làm mắt tôi chói lóa.

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự “Anh kia! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không
nguyện, đang phải đóng vai “dân quân đi “rự nễ” mừng Xuân?”
chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.
Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập
bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy
lắm. gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây “Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao
lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. không giả nhời tôi?”
Thằng Niếu phải đóng vai BÐQ “Ngụy” giơ
tay đầu hàng để anh Dương Bắc Kỳ đóng Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng
vai ông bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”. quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om.
Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ Tôi nghe tiếng chửi:
đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho
tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung “Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy
diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa
không đồng ý. nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ
không biết xấu hổ!”
Anh Trai nói, “ban chỉ huy trại đã ra lệnh”
cho anh phải thực hiện cho được trường kịch Tôi vẫn lặng thinh.
này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách
“Lô gích lịch sử”(?). Và đêm ấy, anh Đội “Rầm!”
trưởng Trần thành Trai đã thực hiện thành
công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam “Chảng!”
4000 năm anh hùng.”
Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán. Nó
còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách

tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của
bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm
hồ tay (Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư trang thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm
của tù) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập nhau tôle trên mái.
trên số 12: Giao Thừa!
Trời đêm Trừ Tịch tối đen.
Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi
mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau
hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hè, là bóng những bụi rau rền, giàn mùng tơi
hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.
xa…
Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu
Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó hát bài “Lá Ðỏ”...
tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ ***
(Viễn Thám) quân số chỉ có năm người, lần
mò trên những nhánh của hệ thống “đường Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá
mòn Hồ chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng, Trần Thành
trong rừng tre gai PleiTrap Valley, hay lúc Trai đã được tha khỏi trại cải tạo. Bác Sĩ
tôi đang chỉ huy cả năm, sáu Trai đã cùng Bác Sĩ Trần đông A, cựu Y sĩ
trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca
BuPrang miền biên giới Việt Miên, tôi mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài Gòn. Tôi
không lần nào quên nghe chương trình Giao cũng đã nghe tin, giờ này, Bác Sĩ Trai đang
Thừa của Ðài Phát Thanh Quân Ðội. là một “Dân biểu” của “Quốc Hội nước
CHXHCNVN”.
Giao Thừa Xuân Bính Thìn là Giao Thừa
đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ
nước tôi, không nghe được câu hát: “Này lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ
công dân ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi…” những bạn Võ Bị, cựu tù lán 24 K3 Tam
Hiệp. Trong số những người bạn đó, thì hai
Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử. người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và
Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như
Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không
trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay
nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và không? Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba
cả thân xác mình cho bài ca đó. mươi năm trước ấy đã trở thành không thể
nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón
Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca năm mới với thân phận một người tù mất
đó. nước…!!!

Một thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền (Seattle, Lập Xuân)
đài… Vương Mộng Long (K20)

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai
vọng lại trên loa phóng thanh,

“Ðổi đời đã tới! Cách mạng đã thành công!”

ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ Một niên khóa trôi qua. Con đường học
hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc
University of Washington (UW) để đón đứa quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh
con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi
thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu
Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các
chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó,
mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì
Thông (Communication) năm Senior. Tôi sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi ViệtNam, vì
chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không sao chúng ta đã thua trận.
bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra
cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử
hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục
trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo
hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông
Shoreline Community College (Shoreline C. sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn
năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ.
C.). Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông
thầy cũ.
So với các trường đại học cộng đồng quanh
vùng, thì học Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có
phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật chừng hơn hai chục học viên, trong đó da
là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu
tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở Á, gồm hai anh Tàu lụcđịa, một cậu bé
lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn
sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có
ngàyđược ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử
giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm
tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc trong chương trình đã kiểm duyệt và cho
mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một phép của Bộ GiáoDục HoaKỳ. Nhưng thực
tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ
lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc fulltime, đi đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn
học fulltime, bận bịu vô cùng. Học kỳ quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn
(quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà
và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ thầy đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo
(credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua.
ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy
ưngý.Trong hai phần ba thời gian đầu của
Vào mùa học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào
thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ViệtMinh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt
ghi danh fulltime để thúc đít thằng con út. ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô
Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân
gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ
năm. của Đế Quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ HoaKỳ ngày đó, đãđưa hàng trăm ngàn thanh niên
là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông- HoaKỳ vào chỗ chết.
Dưong lần thứ hai (19541975). Vì theo lời
thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ
Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục (MidTerm) tôi đều lãnhđiểm (F) bởi vì tôi
và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về
Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái
chiếm ĐôngDương trong khi cao trào dân Cả hai bài đều lãnhđiểm KHÔNG (0) chỉ
chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt
trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã một điều là, lớp History 274 này bị tính
lỗi thời. điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị
đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn University of Washington của tôi sẽ thành
phim cũ về trận ĐiệnBiên Phủ, về Hiệp
Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. mây khói.
Với những trận có âm vang quốc tế như
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà
PleiMe, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu
LongKhánh vân vân… chúng tôi chỉ được cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không
thấy những cảnh thương vong của quân đội phải là người độc nhất có ác cảm với chiến
ĐồngMinh và ViệtNamCộngHòa. Trận tranh, mà TiểuBang Washington tôi đang cư
MậuThân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy ngụ cũng là thành trì củaĐảng DânChủ. Tâm
loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có
thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những ai thông cảm!
phần có lợi cho ViệtCộng. Tôi chưa nghe
được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền.
phía ViệtNam CộngHòa. Thầy mô tả Quân Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì
Lực ViệtNam CộngHòa như một đội quân lớp tương đương với History 274 mà sao tôi
kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng
chiến. Với thầy Dan, chiến tranh ViệtNam là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta
chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc chửi mình, chửi quânđội mình. Càng nghĩ
Phòng HoaKỳ, một sự phí phạm công tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông
quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu
bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi
ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm, hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp
này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ
“Book said!” bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo.
Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy
phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì,
tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao
một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng. chép những tài liệu sử liên quan tới chiến
tranh ViệtNam. Tôi không màng đến vấn đề
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy chuyển tiếp lên University of Washington
tham gia biểu tình chống chiến tranh thời nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng
1960s và nặng lời đả kích lệnhđộng viên nhau” với ông giáo phản chiến này một trận,
rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách

loại chọn lọc (preference) và tìmđược một hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ
quyển SửKý, trong đó, chứa đựng nhiều tài quan Trường VõBị QuốcGia ViệtNam. Và
liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến,
ViệtNam CộngHòa đã thực hiệnđược. Trong vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ
số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài cũng bao gổm cả cái Thung Lũng IaDrang
đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 BiệtĐộng đó.
Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy
những c thu nhận Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm
được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí,
ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là
gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều
những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt
những câu phê bình, những câu chất vấn mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó.
thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo Trong số những người nằm xuống ấy, không
dục học trò của ông, và về những tài liệu mà thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang
ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu
của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất
B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy
làm ở nhà. Thời gian còn lại, thầy sẽ giảng chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần
gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy
giao nộpvào đầu giờ buổi học cuối không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh
cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới của một người lính chiến, thế nào là lòng
bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị khát khao chiến thắng, thế nào là tình
sẵn một mớ ngôn từđao to búa lớn cho một huynh đệ chi binh.
cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn
lòng, nhỏ nhẹ, Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn
hai chục thương binh què quặt của một đơn
Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho vị Biệt Động Quân ViệtNam Cộng Hòa phải
phép tôi được trình bày với ôngđôi điều liên mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang
quan tới sự giảng dạy của ông trong thời theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai
gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài người bị trọng thương; và vì sao một đại tá
phút được không? HoaKỳ đã đưa thân che chở cho một thương
binh ViệtNam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ
Thầy Dan niềm nở, – Dĩ nhiên là được. Ông đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng
có điều gì cần cứ nói. khổng lồ của HoaKỳ đã tiếp tay với bộ máy
tuyên truyền của CộngSản QuốcTế cố tình
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan
mạnh miệng, – Thưa giáo sư, tôi là một tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của
người ViệtNam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ cuộc ChiếnTranh ViệtNam. Từ đó, tên Việt-
quan của QuânĐội ViệtNam CộngHòa. Tôi Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh
còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của
pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt- Chính tên sát nhân này và đảng CộngSản
Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia ViệtNam đã giết oan không biết bao
Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời

gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân
hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ chứng sống. Tôi mongđược nghe thêm. Tôi
tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi không ngần ngại, tiếp lời,
sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-
Sản là tốt đẹp, thìđã không có một triệu dân Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy
miền Bắc di cư vào Nam sau HiệpĐịnh tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho
Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những chính bản thân và giađình tôi để thầy có một
cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu nhận định chính xác về cuộc chiến tranh
thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi ViệtNam đã ảnh hưởng như thế nào đối với
Miền Nam rơi vào tay CộngSản năm 1975. người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan
Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học
trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên
phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng- tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu
Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của
thấy xót xa, cho rằng quân ĐồngMinh tàn mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy
Danđặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch
ác. xảy ra trên TâyNguyên, và ông có vẻ rất
quen thuộc với những địa danh Ban Mê-
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu Thuột, Pleiku, PleiMe, ĐứcCơ, Kontum.
thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết
1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ HỏaLực chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một
cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn “Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc
giường tre là cái Tôi cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ
xác trần truồng của một người vợ lính. Chị chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách
bị ViệtCộng lột hết quần nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông
áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến
nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên trường,
nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã
hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi
nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng trong trận DakTô năm 1969. Cuối trận này
dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê tôi đã phải mở khóiđỏ yêu cầu máy bay đánh
đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa ngay trên đầu mình để cùng chết với quân
theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận
chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho
không kịp chạy khi ViệtCộng tràn ngập căn ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói
cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974. tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa
bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải đường giao thông chằng chịt che dấu dưới
lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi, – rừng già dọc TrườngSơn. Tôi đã chia sẻ với
Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục. ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của
người có cái kinh nghiệm đi toán ViễnThám
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, săn tin dọc biên giới ViệtMiênLào từ Khâm-
để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Đức tới BuPrang vào những năm 19721973.
Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa,
thầy Dan nói nhỏ với tôi,

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi
trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng
82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi
XuânLộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân- cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh
Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con
ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng
của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần
dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra
nhận những bát nước chè xanh, những củ tại Miền Bắc ViệtNam. Tháng 7 năm 1954
khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời gia đình tôi đã cùng gần một triệu người
mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những khác di cư vào Nam để trốn lánh CộngSản.
liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-
mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc
lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn ViệtNam đã thành hai quốc gia,độc lập và
tuyệt vọng, chúng tôiđã chiến đấu kiên có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và
cường như thế nào. đảng CộngSản ViệtNam đã chủ trương, phát
động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và
tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của nhân dân ViệtNam CộngHòa chỉ làm nhiệm
quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu vụ tự vệ. Quân Mỹ và ĐồngMinh vào Việt –
Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một
thì ông giáođã giơ hai tay lên trời, lắc đầu cuộc xâm lược từ phương Bắc.
thốt ra hai tiếng,
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng
“Trời ơi!” tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu,
mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui,
khi mất nước thì số phận của tôi và gần một chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà
triệu quân nhân, công chức chính quyền vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc
ViệtNam CộngHòa ra sao. Ôngđã trố mắt lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân
ngạc nhiên nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời
khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, gian khởi đầu chương trình ViệtNam Hóa
khắp đất nước tôi, chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí,
“Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ
“ReEducation Camp” mà ông đã nghe qua, khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ
trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. nào của quân đội ĐồngMinh bàn giao lại.Để
Những “học viên” trong các trại đó sống chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ
không khác gì những con vật, quằn quại với quyển
cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. History của thư viện, trong đó có sơ đồ các
Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên cánh quân Việt
bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, Nam CộngHòa vượt biên tiến chiếm miền
bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, Bắc CamBốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2,
trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ
sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác

có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa
bên trái là con số 2, như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế
đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy.
Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng Tôi cũng
2 Chiến Thuật, chúng tôi đãđánh đuổi quân không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến,
Bắc Việt tới bờ đông của sông MêKông trên trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu,
đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi
đơn vị trực thuộc LiênĐoàn 2 BiệtĐộng- chiến binh của chính nước HoaKỳ? Thầy ơi!
Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố BaKev, Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã
và đóng quân tại nơi này một thời gian. tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân
Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp
đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm
Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ
giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện
không suy giảm, nhưng chiến đấu trong nay (2000) là Supervisor của hãng mà
cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để
thầy thấy rõ sự khác biệt. “Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng
tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả
một lần tôi đang dàn quân tiếnchiếm một những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng
ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi
của Mỹ ở Đà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt
pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên
nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi
sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử.
bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được
phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng
khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ xưởng nào cũng không mặn mà với những
hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh.
1974, tiền đồn PleiMe do tôi trấn giữ đã bị Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo
một lực lượng địch đông gấp chín lần vây đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này.
hãm 34 ngàyđêm. PleiMe cũng chỉ rộng Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ
bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà cũngđã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một
ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê
địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói
của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay
khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh
hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giữa hai miền Nam và Bắc ViệtNam, làm
giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử.
ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc
như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy học trò những thành kiến sai lầm đối với
nghĩ sao về chuyện này? ViệtNam CộngHòa, làm giảm giá trị sự trợ

giúp của chính phủ và nhân dân HoaKỳ đối những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc
với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo, “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc
Quân Đoàn II hòa tấu.
Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé
ViệtNam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông
tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng
kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình
này không? (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm

Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á (4.00).
Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn
Cậu bé ViệtNam đó chính là thằng con út bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường
của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó có mái che của Shoreline Community
bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ
quan điểm của một người dân Miền Nam. tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày
Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên
cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều
trong những người chứng kiến, tham gia và ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của
trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng
tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi sấm,
được. Tôi đã nói hết nhữngđều cần nói với
giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả. “Long! I’m proud of you!”

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ, Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông
giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về
Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”
nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai
mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo
ViệtNam đầu tiên tới định cư ở HoaKỳ, thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân
chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có vật chính trong phim “Người Dơi”.
thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là
người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã Những người có mặt trong hội trường buổi
hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai
một chiến binh thực thụ. cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của
một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm.
Nghe được những lời nói chân tình từ Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ
miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài
lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm
người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of
pháp ra cho tôi bắt, Washington, tôi về thăm và báo cho ông
biết, ông vui lắm.
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một
chiến công!” Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại
những giòng này (2011) hàng chục ngàn học
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community
ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người
sau chiến thắng PleiMe, tôi đãđứng trước trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một
một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận

năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi “Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một
với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với chiến công!”
nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một Vương Mộng Long K20 VBQGVN Seattle,
tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng, tháng 7 năm 2011

Noel ở Cẩm Nhân lang thang trên sân cỏ SáuKho, rồi tạt vào
căn nhà vòm của những tù binh cấp úy. Vừa
(Hồi ký của Vương Mộng Long k20) bước qua cửa đã có người nhận ra tôi rồi.
Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuýt xoa,
Tháng 7/1976 tàu Sông Hương cập bến Hải- “Thái Sơn! Anh còn sống ư? Độ đây! Em
Phòng. Chúng tôi, khoảng ba ngàn tù cải nghe đồn anh chết ngày ba mươi. Vậy mà
tạo, cựu sĩ quan của QLVNCH, được anh còn đây. Ôi! mừng quá! Anh ngồi xuống
chuyển lên tạm nghỉ một ngày ở SáuKho. đi!”
Trong chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù Anh Phạm Xuân Độ là đại úy sĩ quan chỉhuy
binh đã hao hụt mất hai người. Một người bị hậucứ của Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân.
trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống nước chìm Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Độ
luôn ở TânCảng, Sàigòn đêm khởi hành. mới từ Lực Lượng Đặc Biệt chuyển sang
Người thứ nhì chết trên tàu giữa biển khơi. Biệt Động Quân.

Trước đây, trong tháng 6/1976, cũng đã có Độ cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với bạn
vài chuyến tàu chuyển tù, ghé bến SáuKho. của anh ta,
Nhưng trí tò mò của dân địa phương, nhất là “Đây là TháiSơn, đàn anh của tớ. Xin giới
những đứa trẻ con, vẫn bị lôi cuốn bởi hình thiệu với các bồ, để các bồ quen biết một
ảnh khác thường của đoàn hành khách mới đàn anh, đúng nghĩa một đàn anh”
tới. Người từ phương Nam ra, đi từng cặp
một, tay trái của người đi bên phải, còng với Nghe anh Độ quảng cáo ồn ào như thế,
tay phải của người đi bên trái. Mọi người vai những người bạn của anh ta liền tỏ thiện
mang nặng, đa số đều mặt mày buồn rầu, cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi xuống
xanh xao, thân hình gầy ốm, tong teo. Họ manh chiếu góc nhà. Họ mời tôi hút thuốc
nối đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào trong Nam?
không nhìn ai. Hai bên đường họ di chuyển Tôi có quen, có gặp người này, người kia
là những họng súng AK với lưỡi lê tuốt trần.
An ninh thật là nghiêm ngặt. hay không?

Đoàn tù được lùa vào khu đất rộng, có sáu Sau khi quân đội ta tan rã, nhiều cấp chỉ huy
cái nhà vòm dài và cao bằng tôle . trở thành những cái bia hứng chịu phỉ nhổ
Xung quanh khu nhà vòm này là bãi cỏ của người dưới. Tuy thế, cũng có nhiều cấp
cháy khô, hôi thối, vì đây là bãi đại tiện lộ chỉ huy trở thành nỗi luyến tiếc cho thuộc
thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động cấp, mỗi khi họ nói về kỷ niệm một thời đã
gần đó. Quanh đây, dày dặc hố bom B 52 qua. Cũng may, cái cung cách chỉ huy
khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê nghiêm khắc tại mặt trận và thân ái hòa
sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm. đồng ở hậu cứ của tôi, không làm thuộc cấp
ghét bỏ hay hận thù.
Sau khi được cởi khóa cái còng, tôi gởi balô
cho anh bạn tù Ngô Văn Niếu giữ giùm. Tôi Vì thế mà hôm ấy, ở một nơi nghìn trùng xa
Sàigòn, vào cái thời buổi không còn gì nhục
nhã hơn, thật khó tin còn có người lễ phép
mời mình ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm
cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại
những kỷ niệm oanh liệt, vàng son.

Một người vừa sà xuống chiếu, nhìn tôi gật Buổi chiều, chúng tôi bị lùa xuống các hố
đầu chào thân thiện. Tôi vội vàng gật đầu B52, nước màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc
chào lại. Người sĩ quan này da ngăm ngăm. lên bờ, đỉa đói còn bám từng chùm, lủng
Má anh ta có cái nốt ruồi bằng hạt đậu. lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt mãi
Dáng anh ta quen quen... Tôi ngờ ngợ đã chúng không chịu nhả ra. Sau khi được phát
gặp anh ta ở đâu đó? Anh bạn mới, giọng mỗi người một gói lương khô TrungCộng,
Bắc trầm trầm, tự giới thiệu, đoàn tù được lệnh chuẩn bị đội ngũ chờ xe
lửa để lên đường. Nghe đâu, người ta sẽ đưa
“Tôi tên là Trần Gia Toản, 'Toản Thuốc chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên giới
Lào' . Tôi là em ruột của Trần Gia Toàn TrungHoa, thuộc tỉnh YênBái, TháiNguyên,
cùng khóa với anh. Tôi là bạn thân của Độ.
Tôi có rất nhiều bạn Biệt Động Quân. Bạn Tuyên Quang...
tôi ai cũng thương anh và phục anh lắm. Tôi
đã nghe tên anh nhiều lần. Nay có dịp gặp Chuyến xe lửa Hải Phòng Yên Bái khởi
anh, thật là hân hạnh.” hành lúc nửa đêm. Chúng tôi được dồn lên
những toa chở súc vật. Cứ bốn mươi người
Tôi chợt hiểu, thì ra anh ta là em ruột của một toa, khóa trái bên ngoài. Diện tích của
Trần Gia Toàn, bạn cùng khóa 20 VõBị của toa xe chỉ đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc
tôi. Anh em nhà này giống nhau quá, hèn đứng chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái
nào tôi thấy anh ta trông quen quen. Những cửa tò vò to bằng bàn tay xòe nơi bốn góc.
người tuổi trẻ thích nói thật, không vòng vo, Tôi chui vào chiếm một góc và thò mũi ra lỗ
quanh co. Hiểu nhau rồi thì chúng tôi dễ trở cửa tò vò để thở.

thành thân. Ngồi kế tôi là Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn
Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn. Những nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81
người bạn mới lấy mì gói ra, giấy bao mì gói Biệt Động Quân. Thiếu Tá Mẫn là vị tiểu
trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông
vỉ cơm cháy trở thành cà phê. Bỗng nhiên, Mẫn với tôi thương nhau như anh em.
tôi thành người khách quý của nhóm bạn tù
cấp úy trong góc một căn vòm SáuKho hôm Xe chạy được khoảng một giờ thì không khí
ấy. trong toa bắt đầu ngột ngạt. Lúc lên xe,
trưởng đoàn vệ binh có chỉ định anh cựu đại
Ăn mì xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca úy tên là Thu làm trưởng toa. Từ đầu hôm,
cà phê cơm cháy. Uống cà phê mà không anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ
kèm theo khói thuốc thì không đúng “gu”.
Anh em mời tôi hút thuốc lào. Khi biết tôi sinh.
chưa tập hút được thuốc lào, thì chỉ nháy
mắt sau tôi đã có một bao thuốc lá Sàigòn Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh
GiảiPhóng. Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi
nhường chỗ cho anh. Tôi chưa kịp phản ứng
Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài thì anh Thu đã dện một đạp vào mặt ông già
sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lý Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn
Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú đang ghé mũi vào cửa tò vò hít khí trời. Ông
Nguyễn Ngọc Khoan... Tôi cũng có tin Mẫn vừa ôm mặt, vừa chửi rủa.
những bạn cũ đã chết vì vượt trại như Quách
Hồng Quang và Lê Hữu Thịnh. Anh Thu có dáng dấp của một võ sĩ. Anh
không cao lắm nhưng rất “đô” con. Anh cởi

áo và vắt những dòng mồ hôi vừa nóng vừa Anh chưa kịp la lên thì cái nĩa đã nằm dưới
nồng trên đầu tôi vì lúc đó tôi ngồi dưới yết hầu. Tôi ghì ngược cái nĩa bằng cả hai
chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên tôi, thò tay ngay yết hầu kẻ thù. Nhiều lần đánh lộn
mũi ra lỗ tò vò. Mồ hôi của anh nồng kinh thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau
khủng. Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra xa tôi một này, tôi đã áp dụng thành thạo những đòn
chút. Anh hậm hẹ, cận chiến học từ tuổi lên mười ở TrungTâm
“Đù mạ! Lộn xộn ăn đòn à con! Mày nhỏ Huấn Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-
con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán chỗ. 1954). Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh bãi tập thể
Biết điều thì ngồi êm! Cục cựa ông bẻ răng chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước
à!” cổng Đông làng Vẽ. Ngày ngày chứng kiến
tân binh học
Anh Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng cận chiến, tôi thuộc nằm lòng những thế dao
qua gáy tôi. Mùi hôi nách làm tôi tắc hơi. găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm
Tôi lách đầu cho mũi tôi ghé vào một góc
cửa sổ. Tôi hít lấy, hít để, cái không khí xuôi...
thơm mùi đòng đòng, lúa mới ngoài kia.
Chợt anh trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe
đập vào thành xe nghe “kịch!” một cái, đau chở súc vật, tôi phải xử dụng cái thế đâm
tới hoa cả mắt. ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một
đồng đội. Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm
“Ê ...ê...ê...anh này chơi ác quá vậy?” phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng
Trong lúc quýnh quáng, tôi quýu lưỡi, nói hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc
xàm như một đứa bé. ra khỏi cần cổ nó.

Chưa xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du Tôi nghe tiếng,
côn chẹt cổ tôi, tống tôi vào góc xe,
“Ngồi im! Cục cựa ông bóp chết!” “Em lạy anh, tha cho em!”

Tôi chợt cảm thấy có cái gì đó ứ nơi cổ. Mặt Tôi lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh võ
tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào sĩ và nói nhỏ,
một hơi dài, rồi thở ra từ từ. “Cút về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi.
Tên tao là Vương Mộng Long, tao đã từng
Tôi ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi mò là tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Sau
tìm... mò tìm...Tôi tìm được nó rồi! Cái nĩa khi xuống ga, mày có thể tìm tao bất cứ lúc
U.S nào.”
bằng inox, tôi cài nó trong cái túi bên hông
balô... Ông võ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu bò về
hướng đầu toa, trả lại cái cửa tò vò cho mười
Cú đâm quyết định bị trệch mục tiêu vì thế anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló mũi ra
ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt mắt trái của để hít chút không khí mà sống.
anh võ sĩ, rạch một vết rách sâu trên trán
anh. Tay trái tôi hất mạnh một cái cùi chỏ Tàu đi ngang cầu PhúLương, HảiDương, tôi
ngay cằm anh. xin anh em cho tôi được ngồi lâu hơn một
chút nơi cửa sổ để ngắm nhìn cây cầu tuổi
thơ của tôi. Tôi đã đi qua cây cầu này bằng
đôi chân trần tuổi lên sáu, từ

vùng “Tề” chạy giặc trở về thành phố Hải- Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để
Dương đổ nát điêu tàn. sinh tồn. Đôi người đã khóc, đôi người vẫn
cười. Giờ phút ấy có lẽ không ai còn nhớ
Trong trí nhớ non nớt của tôi chỉ còn: Cầu đến vinh quang. Nơi góc cuối của một toa xe
PhúLương đồng nghĩa với cầu Đen. Cầu dài chở súc vật, mười sĩ quan QLVNCH chia sẻ
lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính nhục nhằn để sống.
gác cầu cũng là lính Marốc da đen. Tôi qua
cầu một ngày cuối năm 1948. Ba góc còn lại của toa xe không có cái trật
tự tự nguyện này. Đã có chuyện không hay.
Từ ấy tôi không còn thấy nó. Cho mãi tới Có ai đó nơi đầu toa bị ngộp thở. Tiếng
đêm nay, tháng 7/1976 tôi mới có dịp qua người nói xôn xao,
cầu lần nữa. Hôm nay, cầu PhúLương có vẻ “Làm hô hấp cho anh ấy đi!”
đen hơn ngày xưa, vì tôi qua đó vào lúc nửa
đêm, trời tối đen như mực. Có tiếng la to,
“Anh bộ đội ơi! Có người xỉu! Anh bộ đội
Tôi nhìn cây cầu nơi chôn nhau cắt rốn từ ơi!”
cái cửa tò vò của một toa xe chở súc vật.
Trong toa xe chở súc vật này là những sinh Tàu vẫn chạy xình xịch, xình xịch...tiếng
vật ưu tú của một dân tộc anh hùng. Những kêu cứu loãng trong không gian, không lời
sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa thành đáp lại.
súc vật. Những con vật này đang tranh sống.
Chúng đang giết lẫn nhau để sống. Xế trưa hôm đó chúng tôi vào ga YênBái.
Toa xe lao nhanh. Động cơ hơi nước phì phà Đang phiên thở hít của tôi, tôi nghe tiếng
“xình xịch!...xình xịch!...” Bánh sắt rít trên người gọi nhau,
tà vẹt nghe “ken két!...ken két!” rợn người. “Tù tới! Tù tới!”
Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát
thành xe. Qua cửa sổ, tôi thấy ánh mắt tóe lửa của vài
người dân đang vội vàng cúi lượm những
Rồi tôi không nhìn được gì thêm, nước mắt viên đá xanh lót đường tà vẹt. Thấy không
đã rơi, nước mắt bốc thành hơi, đôi mắt ổn, tôi thụt mũi vào trong toa.
cay...
Tôi nói với Thiếu Tá Trần Ngọc Báu,
Trời mờ sáng thì tàu đi ngang VĩnhPhúc- Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Pleiku là người
Yên, những hố bom B52 còn như rất tươi kế phiên hít thở,
trên ruộng lúa, dọc hai bên đường tàu. “Đừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó!”
Những đoạn đường sắt ở đây cũng thấy như
mới được đắp vá. Không khí trong xe ngột Anh Báu không tin.
ngạt hơn. Chúng tôi thay nhau cái lỗ tò vò
với tốc độ mau hơn, quyền được thở giảm Vì tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rõ tiếng
bớt. Người được thở tự đếm, “một, hai, ba, reo, “Thằng Mỹ mày ơi!”
bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết!” rồi ngồi
nhích sang một bên, nhường cho người kế Rồi anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu! Một
tiếp. cục đá xanh đập vỡ mũi anh. Hình như hai
cái răng cửa đã nhảy ra khỏi miệng anh.

Khuôn mặt Tây lai của anh biến thành cái Chúng tôi đến cuối hồ ThácBà, hạ trại nơi
mặt nạ máu me bầy nhầy. không xa một xã người Tày. Xã đó tên là
CẩmNhân. Xã thuộc huyện Yên Bình, Yên-
Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, cách biên giới
đạn trung liên chứa nước của ông già ViệtTrung gần 50 km.
TĐT/TĐ81/BĐQ. Đoàn xe lửa bị một trận
mưa đá tấn công tới tấp. Cho tới khi vài viên Bên bờ hồ, nơi một bãi lau sậy được đặt tên
đá lạc vào toa của vệ binh thì tôi nghe tiếng là Trại 3 Liên Trại 4, tôi và anh bạn TĐT/
súng bắn chỉ thiên, tiếng đá chạm thành toa BĐQ Ngô Văn Niếu nằm cạnh nhau.
mới ngưng.
Lán trưởng của tôi lại là anh đại úy tên Thu
Đoàn xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét thì đã có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên
ngừng bánh. Tù được lệnh xuống xe. Tôi là chuyến xe lửa HảiPhòng YênBái. Anh nhìn
một trong những người đạp đất sớm nhứt. tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nhìn
Không đội ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là
về nơi nào đó đã định. Hai bên đường, có chóng quên.
những người dân mặc trang phục Dao, Tày,
Thái, Mán, Thổ, Mường... ngơ ngác trông Tối đầu tiên ở đây, anh Nguyễn Tuyên Thùy
(K10VB) cho tôi biết một tin buồn: Có ông
theo. thiếu tá dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc
tự tử. Dược Sĩ Duy được bó chiếu chôn bên
Tới một ngã ba, cứ một xe rẽ về trái, thì xe cạnh hồ. Như vậy, trong Nam, gia đình anh
kế tiếp rẽ về phải. Thì ra, đoàn tù được chia Duy sẽ là những người đầu tiên biết chồng
làm đôi, một nửa đi về đông bắc qua hồ con họ đang ở đâu.
ThácBà, nửa còn lại qua sông Hồng đi về
hướng tây. Chiếc xe chở tôi đi về hướng Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng
đông bắc. Anh bạn cùng khóa, cùng binh trước. Anh còn nói rằng,
chủng, Ngô Văn Niếu cũng ngồi trên cùng “Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên
một xe với tôi. chuyến xe lửa từ Vinh ra YênBái hồi tháng
Đoàn 776 không đủ phương tiện đưa hết trước...”
đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi được chia
ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt hồ. Toán Anh nói chuyện người chết, người sống
của tôi là toán chót, lên ca nô sau toán đầu nghe nhẹ như không. Mà thực vậy, lúc này
hai ngày, hai đêm. sinh
mạng một người tù thua trận nhẹ như
Hồ ThácBà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây không...
số. Ca nô đưa chúng tôi đi ngược lên đầu
nguồn sông Chảy, lướt chậm trên di tích của Sáng hôm sau anh Thu tập họp đồng đội
một thung lũng cổ. Trong đám đọt cây khô trước lán để truyền lại nội quy của trại cho
giữa làn nước trắng, một gác chuông thánh những người mới tới. Anh phân tích rõ tội
giá đứng lẻ loi, phần dưới của nhà thờ chìm nào sẽ bị hình phạt gì.
trong nước. Nắng mai từ đỉnh núi hướng
đông chiếu xuống mặt hồ, làm cho những Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo,
đợt sóng lăn tăn lấp lánh như dát bạc... cúp phần ăn. Tội phát ngôn bừa bãi có thể bị
cùm, bỏ đói... Tội vượt trại có thể bị xử

bắn...vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai không ý kiến. Tòa giải tán. Không ai dám hé
đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh răng bàn tán về những gì đã xảy ra. Bốn anh
thì sẽ biết tay anh. trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy
trại.
Tôi đi quanh trại, la cà trò chuyện cùng vài
người quen. Những vị này, thời chiến tranh Hai ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi.
ĐôngDương, đã có dịp qua đây, như Trung Toán này gồm có hai người và được coi là
Tá Nguyễn Hữu Phú cựu tham mưu trưởng có “kí lô”. Họ là Đại Úy Biệt Kích Trần
BCH/BĐQ/QLVNCH, Thiếu Tá Hoàng Trung Ginh và Đại Úy Nhảy Dù Tôn Thất
Đình Mẫn Tiểu Đoàn Trưởng TĐ81/BĐQ, Ủy (Ủy là tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư
Thiếu Tá Bùi Ngọc Long Tiểu Đoàn Trưởng Lệnh SĐ Dù /QLVNCH).
Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Đức,
Thiếu Tá Nguyễn Tuyên Thùy Sau khi phát giác có thêm một vụ trốn trại
nữa, cán bộ Chính Trị Trại 3 tập họp tất cả
TCCTCT/TTM. chúng tôi lại, răn đe,
“Các anh sẽ phải trả giá. Không ai thoát
Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi khỏi mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi!
ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân tình Tôi thách các anh đấy!”

quanh khu ThácBà. Giữa đêm đó Vương Mộng Long và Đặng
“Đường xa diệu vợi lắm! Đừng dại mà trốn Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa của
trại! Mất mạng đó em ơi!” tôi cứ nghe các bác BĐQ già Hoàng Đình Mẫn nằm trong
anh ấy can ngăn như thế mỗi khi tôi tỏ ý hành trang của tôi, và chai dầu lửa của anh
muốn...đi. đội trưởng tên Thu cũng nằm trong hành
trang của tôi.
Cuối cùng tôi gặp Đặng Quốc Trụ, người
bạn cùng khóa, anh ta đã từng là tiểu đoàn Vài ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3
trưởng của Trung Đoàn 48/SĐ18 Bộ Binh. Liên Trại 4 bị giải tán, tù nhân được chia
Nghe tôi ngỏ ý tìm bạn đồng hành để đi Lào, cho các trại 5,7,9 kế bên. Một đoàn tù từ bên
anh Đặng Quốc Trụ hưởng ứng ngay... hướng tây sông Hồng được đưa về đây xây
Trại 3 mới.
Chúng tôi chưa biết rõ xã CẩmNhân nằm ở Cái đêm 08/08/1976 tôi và Đặng Quốc Trụ
nơi nào trên bản đồ ViệtNam thì toán trốn trốn trại lần đầu là một đêm mưa, khởi đầu
trại đầu đã nhổ neo. Bốn đại úy gồm một trận bão số 6 khốc liệt. Trận bão này gây
ông ở Tổng Thống Phủ và ba ông pilots. Đi nên mưa gió kéo dài hơn một tuần lễ. Mười
được ba ngày thì bốn Papillons bị bắt lại. ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn quẩn
Tòa án giữa đồng được thiết lập. Không có trong rừng tre, rồi bị vây bắt lại.
lời buộc tội nào từ phía cai tù, mà chỉ có
quân ta kết tội lẫn nhau. Tên ViệtCộng chấp cung tôi đã thẩm vấn tôi
câu đầu,
Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, “Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để
nguyên là phi công trực thăng, đã đề nghị xử anh đi trốn hay không?”
bắn những người đi trốn để anh ta được yên
tâm cải tạo (!) Tôi “thành khẩn” khai báo,

Vài người nữa lên phát biểu ý kiến xin trại
phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương
cho những kẻ khác. Ban chỉ huy trại cũng

“Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi Sau nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai
anh đội trưởng còn ngủ.” cây số đường đồi tới chợ CẩmNhân, chân tôi
đã muốn rã ra rồi.
Tên cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm,
“Lạ nhỉ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng Đến HợpTác Xã NôngNghiệp tôi gặp hai
không hiểu tại sao anh ấy không tự biện anh bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Hoè và
bạch?” Minh Vồ, mừng mừng tủi tủi, hai anh này ở
trại khác, cũng đi gánh gạo chiều nay.
Từ đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có
dịp gặp lại anh Thu, không rõ đã có hậu quả Bên kia đường, có một người vừa đưa tay
gì đến cho anh sau khi tôi đi. vẫy tôi.

Tôi và Trụ được đưa về nhốt ở Trại 4 Liên Tôi tìm trong óc xem có phải anh ta cùng
Trại 4. Tại đây đã có 2 “đồng bọn” đang khóa với mình không? Không!
nằm cùm, đó là Trần trung Ginh và Tôn
Thất Ủy. Hóa ra đó là anh Thu! Thấy anh, tôi nhớ
chuyến tàu hôm nào từ HảiPhòng đi YênBái.
Cuối năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm để Tôi nhớ ra chai dầu lửa anh cố tình treo trên
về đội lao động. Nhiều dân trốn trại đã được lối ra vào của lán tù Trại 3. Đêm vượt trại,
qui tụ về đây trước đó. Trong số ấy có một chỉ cần dơ tay, tôi đã nẫng được chai dầu
băng VõBị, gồm Trần Tấn Hòa (Dù K20), một cách nhẹ nhàng.
Nguyễn Văn Nghiêm (Dù K20), Trần Đăng
Khôi (Dù K16), Hồ Văn Hòa (BĐQ K16), Tôi định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay của anh
Chu Trí Lệ (SĐ23 K16), Trần Thu, thì đoàn tù gánh gạo ấy đã đi xa rồi.

Anh Đặng Quốc Trụ được đưa về Đội 10 Hôm đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng
dưới quyền đội trưởng Lâm Kỳ Sáng (cựu lượng cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến
trung tá), tôi về Đội 11 dưới quyền Đặng hai người.
Kim Bảng (cựu đại úy).
Toản cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước.
Vừa chui vào lán, tôi đã nghe giọng Bắc Kỳ
quen, “Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em Chúng tôi phải hò “Dô ta!” để lấy đà đứng
không?” lên. Toản hò “Dô... ta!”rồi, nhưng Toản
không đứng lên. Toản cúi xuống lượm cái gì
Dù lúc đó là buổi chiều mùa đông, trong lán đó.
tranh tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay
Toản Thuốc Lào. Tôi hỏi,
“Sao không đi Toản?”
“Quên sao được hả chú! Mới tháng trước
đây, chúng mình chia tay nhau ở SáuKho...” Toản cười,
Ngay lúc ấy người đội trưởng bước vào, anh “Em có quà cho đại ca.”
ta nói tôi sẽ được cử đi gánh gạo tiếp tế
chiều nay cùng với đội ở bên CẩmNhân. Anh ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi
cục kẹo đường đen, “Em lượm được cục

kẹo, anh ăn cho hồi sức đã mất trong nhà Thấm thoắt đã mấy chục năm đi qua. Tôi
cùm.” thấy buồn khi nhìn Noẽl trở lại. Tôi thấy
Tôi cảm động, nhận cục kẹo đường đen to buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không còn sức
bằng đầu ngón tay út. để gánh chung cùng bạn một gánh gạo nặng
150kg trên đoạn đường đồi dài 2 km nữa
Toản cười, rồi!
“Anh có nhớ hôm nay là Noẽl đó không?”
Noẽl nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh
Tôi cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản một gạo, nhớ cái vẫy tay của anh Thu, nhớ chai
nửa, dầu lửa, nhớ cục kẹo đường đen ở Cẩm-
“Merry Christmas!” Nhân, và nhớ Trần Gia Toản cùng những
người bạn tù thuở ấy...

Vương Mộng Long k20

(Seattle, Noel 2004)

Nốt Thăng Trầm hay dẫn hai đứa bé ra bờ nước bắt cào cào,
châu chấu. Tôi hay xếp những cái thuyền
Liền vách nhà tôi là nhà thày giáo Như và cô bằng giấy cho hai đứa em thả ven sông. Đôi
giáo Ngọc. Phong cách vợ chồng nhà này lần vừa thả thuyền xuống nước, gió đã thổi
phảng phất nét cao sang, quý phái. Họ trông ào ào cuốn chúng ra xa rồi biến mất trên mặt
rất đẹp đôi. Thày Như có lẽ chưa tới ba sóng ThuBồn. Hai cô bé đứng dương mắt
mươi tuổi, và cô Ngọc cũng chừng hăm lăm, nhìn theo tiếc rẻ.
hăm sáu.
Cô Ngọc là dân Huế Công Tằng Tôn Nữ,
Thuở ấy, vào giữa năm 1956, đoạn cuối con nên giọng ngâm thơ của cô nghe truyền cảm
phố sát bờ sông về hướng SơnPhong,
HộiAn vẫn còn hoang vu. Trước khi Chùa vô cùng. Cô ngâm cho chúng tôi nghe
Sư Nữ được xây lên, thì cái bãi cỏ rộng bát những bài thơ trữ tình xưa. Bài thơ mà cô
ngát bên phải đường, kéo dài cho tới mé đắc ý nhứt có lẽ là bài “Màu Thời Gian” của
nước, là nơi để cho bọn con nít chúng tôi tụ Đoàn Phú Tứ. Tôi được nghe cô ngâm nhiều
tập nô đùa. Thời gian này gia đình tôi ở thuê lần bài này. Rồi tôi thuộc bài thơ này trước
căn nhà sát cạnh bãi cỏ mênh mông đó. ngày bước chân vào Đệ thất.

Liền vách nhà tôi là nhà thày giáo Như và cô Khi những ngón tay thày Như lướt trên cần
giáo Ngọc. Phong cách vợ chồng nhà này ghi ta, tôi có cảm tưởng cả một giàn nhạc
phảng phất nét cao sang, quý phái. Họ trông đang hòa tấu. Tôi ngồi say mê ngây ngất
rất đẹp đôi. Thày Như có lẽ chưa tới ba theo tiếng đàn của thày thánh thót solo một
mươi tuổi, và cô Ngọc cũng chừng hăm lăm, đoạn “Thiên Thai” hay “Chiều Về Trên
hăm sáu. Sông”. Lâu lâu, thày Như kể truyện cho
chúng tôi nghe. Cái giọng Quảng của thày
Thày Như rất đẹp trai. Dáng dấp thày lúc lúc đó sao mà trầm ấm thế! Đôi mắt thày
nào cũng tao nhã, khoan thai. Đặc biệt, thày long lanh. Thày thao thao nói về những
có cặp mắt sáng lóng lánh và đôi mày ngài chiến công của các vị anh hùng lừng danh
hơi xếch. Cô giáo Ngọc mặt trái soan, mũi thế giới. Và có lúc hứng chí, thày kể luôn cả
dọc dừa. Da cô trắng như trứng gà bóc. Cô những trận công đồn, đả viện của ViệtMinh
để tóc dài. Mái tóc cô đẹp mượt mà, mềm thời chiến tranh Pháp
mại như mây. Cặp vợ chồng nhà giáo này có
hai đứa con gái, bé Châu năm tuổi và bé Việt (19451954). Nhiều lần cô giáo Ngọc
Hạnh hai tuổi. Cô Ngọc dạy tiểu học trên phải cau mày ngăn không cho thày quá lời
LaiNghi. Thày Như dạy trung học trong về những đề tài kháng chiến, vào bưng,
Tam Kỳ. Cuối tuần thày lại cưỡi chiếc chống Tây. Lũ nhóc tì chúng tôi, lúc đó mới
Goebel về HộiAn. Chòm xóm thương mến mười hai, mười ba tuổi, coi thày Như như
vợ chồng thày lắm. thần tượng.

Ngày nghỉ, bọn con nít chúng tôi hay tụ tập Những năm sau nhà tôi chuyển địa chỉ lên
nơi hiên nhà này để nghe cô Ngọc ngâm thơ khu Hồ Sen chùa ÂmBổn, nhưng tôi vẫn
và thày Như đàn hát. Bé Châu, bé Hạnh bu thường xuống SơnPhong thăm gia đình thày
theo tôi như anh ruột. Chúng nó cứ tranh Như. Hè năm 1960 gia đình thày Như đột
nhau ngồi trên đùi tôi mỗi khi chúng tôi ngột bán nhà và dọn đi xa. Theo thời gian,
quây quần trước hiên nhà. Chiều chiều tôi kỷ niệm với gia đình nhà này cũng nhạt
nhòa dần trong tâm trí tôi.

Tôi lớn lên, tình nguyện vào Trường VõBị Xin lỗi, trung úy có chuyện chi cần hỏi ai ở
QuốcGia ViệtNam, rồi chọn binh chủng Biệt đây rứa?
Động Quân. Sau Tết MậuThân, Tiểu đoàn Một người đàn bà trung niên đứng bên rào
11 Biệt Động Quân tăng phái cho Task đánh tiếng, khi thấy tôi đang dáo dác dòm
Force South của Sư đoàn 23 Bộ Binh.
Chúng tôi tới Blao tham dự hành quân lùng vào nhà.
và diệt địch. Thôi đúng rồi! Cô giáo Ngọc chứ còn ai? Dù
cách xa gần chục năm, dù cô đã cắt mái tóc
Một hôm, nghỉ quân, tôi lang thang trong dài, uốn tóc cao, tôi vẫn nhận ra khuôn mặt
trái soan và giọng nói Huế Công Tằng Tôn
khu xóm Chùa. Nghe nói, xóm Chùa có nhà Nữ ngọt ngào của cô.
ông già “Bàn đèn thuốc phiện”. Dân “Bắn Cô giáo Ngọc! Em đây! Long đây cô.
khỉ” thường lén lút tụ tập ở đây. Hình như Xin lỗi, tôi không biết trung úy là ai...
ông già Lạc, Thượng sĩ Thường Vụ Đại Đội Cô ơi! Nhà em ở sát nhà cô và thày Như hồi
của tôi cũng hay lai vãng chốn này? Sau đảo cô và thày còn ở SơnPhong, HộiAn. Em hay
chánh 1963, vấn đề cấm thuốc phiện có vẻ sang nhà cô chơi, bế bé Châu, bé Hạnh...
không còn khắt khe như thời Cụ Diệm. Tôi Người đàn bà nhìn thẳng vào mặt tôi, chăm
có cảm tưởng rằng không khí trong con hẻm chú quan sát. Mắt bà lóe lên một tia vui
xóm Chùa này đặc quánh mùi thơm do khói mừng. Bà ngập ngừng, giọng run run,
nhựa của nàng Tiên Nâu. Trung úy... ừ, em Long đó ư? Mới đó mà
gần mười năm qua. Em đã lớn và thay đổi
Xóm Chùa có những nét đặc biệt, khác với quá hí? Em đi lính và làm tới trung úy rồi.
những khu dinh điền chỉ dành riêng cho dân Em vô nhà chơi đi!
BắcKỳ DiCư như TânBùi, TânHóa, Tân- Vâng, em làm đại đội trưởng, đang hành
Thanh, TânPhát. Xóm Chùa quy tụ dân tứ quân vùng này. Như vậy năm 1960 thày cô
xứ đến từ mọi miền. Ở đây dân cư nói đủ đã dọn nhà vào dạy học ở Blao? Cô và thày
giọng Bắc, Trung, Nam, BìnhĐịnh, Thừa- Như dạo này ra sao? Thày có nhà không vậy
Thiên, QuảngNam, ChâuĐốc... Ở đây có đủ cô? Hai em Châu và Hạnh chắc lớn lắm rồi?
mọi thành
phần tôn giáo, HòaHảo, CaoĐài, TinLành, Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi đã đánh thức
Phật Tử sống trộn lộn, gần gũi, sát cánh những kỷ niệm xưa cũ trong tâm hồn cô, tôi
nhau. Tôi nghe từ cuối hẻm, vọng lại tiếng thấy mắt cô rươm rướm lệ,
ngâm thơ,
Ngày đó nhà cô đi vội quá, không kịp thông
“Tóc mây một món, chiếc dao vàng Nghìn báo cho bà con. Từ ấy cô cũng chưa có dịp
trùng e lệ phụng quân vương Trăm năm tình về thăm chốn cũ. Cô hết đi dạy rồi em ơi. Cô
cũ lìa không hận Thà nép mày hoa thiếp phụ đang làm thư ký trong tòa tỉnh. Còn thày thì
chàng” (Màu Thời Gian Đoàn Phú Tứ) đi làm xa, mãi dưới SaĐéc, lâu lâu mới về.
Con Châu năm nay mười bảy, con Hạnh
Cái giọng Huế nữ của ai đó nghe thật là não mười bốn, còn đang đi học. Hai đứa chở
nuột. Tôi chợt có ý muốn được nhìn một lần nhau đi mua gạo chắc
cho biết cái “mày hoa” của người đang
ngâm thơ ra sao? Tôi lần bước tới sát hàng cũng sắp về. Em vô nhà đi!
rào căn nhà có cái sân lát gạch, nơi phát ra
tiếng ngâm. Tiếng ngâm thơ nghe rõ hơn. Tôi theo chân cô giáo Ngọc vào nhà. Căn
Tôi giật mình vì giọng ai nghe quen như nhà hẹp mái tôn trang trí giản dị. Một phòng
tiếng cô giáo Ngọc? khách, một phòng ngủ. Phòng khách có cái

bàn thờ tổ tiên, và một cái phản gỗ. Trên Và như thế là, từ nay tôi cứ việc nại cớ phải
tường, bên trái bàn thờ là cái bảng đen, bên về nhà bà con, thay vì đi theo anh Thiếu úy
phải bàn thờ là cây ghi ta, cây ghi ta của Đại đội phó Đặng Hữu Duyên vào thăm
thày Như ngày xưa. Cây đàn bị phủ một lớp Trường Nông Lâm Súc.
bụi mỏng. Nó được treo trên tường như một Anh Duyên có cô bạn gái tên là Thuấn đang
đồ trang trí. Có lẽ lâu lắm rồi không ai nắn nội trú trường này. Cứ về tới phố, anh
phím đàn... Duyên lại nhờ tôi chở anh ta tới thả trước
Tôi ngồi chưa nóng chỗ thì chị em bé Châu cửa sổ phòng của cô Thuấn. Lần nào cũng
và bé Hạnh đã cỡi Honda chở nhau về. vậy, anh ấy cứ nấn ná giữ chân tôi lại, để
giới thiệu tôi với những cô gái lạ hoắc! Cô
Lần chót tôi gặp gia đình thày Như năm Thuấn có cả chục cô bạn đẹp ngất ngây. Khổ
1960 thì bé Châu mới chín tuổi, bé Hạnh lên một điều là, cô nào miệng lưỡi cũng tía lia.
sáu. Nay hai em hàng xóm bé tí năm xưa đã Tôi vốn là thằng nhát gái. Đứng trước đám
thành hai thiếu nữ duyên dáng, trổ mã. Bé đông khác phái, líu líu, lo lo này, tôi hết hồn,
Châu nhận ra tôi ngay, chỉ muốn rút dù.
Anh Long. Có mấy lần em thấy anh đậu xe
trước Quán Duyên bên kia đường, em ngờ Ngày Thứ Hai tuần sau, đại đội tôi nhận
ngợ, nhưng không dám hỏi. Với lại... con nhiệm vụ bảo vệ căn cứ hỏa lực cho một
gái vô duyên mới đi hỏi thăm con trai pháo đội 105 ly của HoaKỳ và Bộ Chỉ Huy
trước... Liên Đoàn 2 /BĐQ /Hành Quân. Căn cứ này
dự trù thiết lập ngay trên khuôn viên nhà
Hai cô bé lớn lên ở LâmĐồng, hàng ngày máy trà TứQuý. Đồn điền TứQuý đã ngưng
học hành, giao thiệp với bạn bè đồng trang hoạt động từ lâu, nhưng dân chúng vẫn lén
lứa ở đây, nên giọng nói của hai em không ra vào khu vực này để thu hoạch trà hàng
còn chút âm hưởng QuảngNam, Huế của ngày. Vì thế chúng tôi không phân biệt được
cha, của mẹ. dấu tích để lại trên các đường lô là của Việt-
Hôm đó tôi ở lại ăn cơm chiều với gia đình Cộng hay của dân hái trà. Chúng tôi phải rà
cô giáo Ngọc và ngồi chơi tới gần tối mới về soát kỹ từng dãy nhà máy, nhà lô, để chắc
chỗ đóng quân. Khi truyện trò, tôi được cô chắn không đóng quân trên những căn hầm
giáo cho biết ngày đó thày Như bị người ta bí mật của địch.
tố cáo là có tư tưởng thiên Cộng nên mất
việc. Gia đình phải cấp tốc bán nhà và dời Sau khi hoàn tất ba cái chốt chặn làm tiền
vào Blao. Cô Ngọc nhờ một người bạn học đồn xa cho căn cứ, tôi thông báo cho Bộ Chỉ
có thân thế với ông tỉnh trưởng giới thiệu Huy Liên Đoàn về sự tạm ổn định an ninh
vào làm thư ký trong Tòa Hành Chánh. Căn để cơ giới tiến vào. Cuộc chuyển quân diễn
nhà mà gia đình cô đang trú ngụ cũng do ra êm ả.
người bạn cô cho ở nhờ. Còn thày Như, để Tôi đặt ban chỉ huy đại đội dưới hiên phía
dấu tông tích, phải vào SaĐéc làm thư ký đông của văn phòng nhà máy. Từ đây tôi có
cho một hãng buôn nông phẩm của một ông thể quan sát hết khu vực trọng yếu hướng
chủ người gốc Hoa. đông nam căn cứ hỏa lực. Lều bạt của ban
điều hành tác xạ Mỹ nằm giữa sân đồn điền.
Cô giáo căn dặn tôi mỗi khi hành quân về, Lều của Trung Tá Hồ Hữu Dõng, Liên Đoàn
nhớ ghé nhà cô ăn cơm, nghỉ ngơi, đừng đi Trưởng nằm trong vườn cà phê,
lang bang nhậu nhẹt mà hư thân mất nết. Tôi
cũng mừng rằng sau bao năm xa cách, tôi đã
gặp lại một gia đình hàng xóm thân quen.

ngay sau lưng dàn súng mười sáu khầu 105 Trong lều, khói thuốc chập chờn. Ngoài lều,
ly của pháo đội HoaKỳ. sương trắng dâng cao. Anh Duyên thủ thỉ,

Ngay từ khi pháo đội dàn quân chưa xong, Như vậy hết hành quân kỳ này, anh về nghỉ
một máy điện 40KWA đã nổ “bình! bịch! ở nhà bà con. Anh cho tôi mượn chiếc Jeep
bình! bịch!” cung ứng điện cho các máy tính đi vòng vòng. Anh giữ một máy PRC 25. Có
to như những chiếc tủ đứng, đầy đèn, xanh, chuyện gì cần, anh kêu. Năm phút sau, tôi có
đỏ, tím, vàng, chớp nhóa. mặt liền. Được không?
Chiếc máy điện thứ nhì được đặt sát căn lều Tôi chưa kịp trả lời Duyên thì, từ trong núi,
của tôi. Trong trường hợp chiếc máy điện hướng đông, “Cạch!... Cạch!... Cạch! ...
thứ nhất bị trở ngại, chiếc máy thứ nhì sẽ Cạch!...”
được khởi động để thay thế. Và nếu cái máy Tôi vội vàng xỏ đôi chân vào giầy, miệng la
chết tiệt này chạy, thì căn lều của tôi hứng lớn, “Pháo kích! Pháo kích!”
trọn khói thải ra từ cái ống bô to tổ bố của Tay xách sợi dây ba chạc và tấm bản đồ, tôi
nhoài người tụt lẹ xuống hố cá nhân. Thiếu
nó! úy Duyên quơ cái áo giáp chùm lên đầu, rồi
nhảy ào xuống hầm cối 60 ly của đại đội.
Tiếng nhạc xập xình, vang vang truyền đi Binh nhứt Cường và Hạ sĩ Hoàng thủ hai
trong không gian. Máy radio từ đài tác xạ và khầu M16 cũng lăn xuống hố sát bên tôi. Tài
từ các ụ súng tranh nhau phát thanh. Các chú xế Nguyễn Lác lười biếng không chịu đào
lính Mỹ cởi trần, mặt mày hớn hở, mồ hôi hố, giờ này mới quýnh quáng, nhào đại
nhễ nhại, cần mẫn thiết lập công sự. Mấy xuống hố của Hạ sĩ Thọ, người nấu cơm cho
anh lính Biệt Động Quân ViệtNam của Bộ tôi. Thế là chí chóe.
Chỉ Huy Liên Đoàn 2 sau khi căng lều võng Ê! Cứa thèng ni! Mi đè lên đầu tau, mần
xong, cũng nhào sang khu pháo binh bắt tay, răng tau thấy đường mà bắn hí?
bá cổ, bá vai, những người bạn Mỹ. Trong
sân đồn điền, tiếng nói chuyện của những Nhờ “chúc” mà! La chi dữ rứa!
chiến sĩ ViệtMỹ líu lo, om xòm, xí xa, xí xồ,
“Ô Kê! Sa lem! Năm bờ oăn! Gút! Gút! Thường vụ Nguyễn Lạc phản ứng nhanh
Năm bờ ten! Bét! Bét! Năm bờ oăn thảo không kém. Ông già vớ cây sắt vuông PSP
giường!” gõ “Canh! Canh!” vào tấm kẻng sắt treo bên
Nói bằng miệng không thông, đôi bạn đành khẩu súng cối. Nghe tiếng kẻng báo động,
dùng tay ra dấu. Đi hành quân, và đóng quân bên phía quân Mỹ và Bộ Chỉ Huy Liên
chung với Mỹ quả là vui! Đoàn 2 BĐQ mới bắt đầu nhốn nháo.
Theo thói quen nghề nghiệp, tay tôi xoay cái
Chiều xuống, một chiếc Chinook tới “hover” địa bàn về hướng phát ra tiếng cối “depart”
trên sân cỏ giữa khu đóng quân để xịt nước để đo hướng súng. Óc tôi đếm nhẩm từ lúc
cho quân nhân của pháo đội Mỹ tắm rửa sau nghe tiếng “Cạch” cho tới khi nghe tiếng
một ngày bụi bặm, cực nhọc, vất vả. Những “Oành” để đo tầm xa. Thế là tôi có thể ước
chú GI cởi truồng tồng ngồng, thay nhau tính ra gần chính xác tọa độ đặt súng của
đứng tắm dưới những tia nước phun xuống địch.
từ trên trời cao. Khi hai bịch cao su chứa “Xè! Xè! Xè! ....Oành! Oành! Oành!”
nước treo tòn ten dưới bụng con tàu đã xẹp
lép, chiếc Chinook mới bay đi. Tôi đoán chắc rằng ViệtCộng đang pháo
Đêm xuống dần... kích chúng tôi bằng cối 82. Điểm đặt súng
cách chúng tôi chừng 2 cây số. Một khẩu
hướng 1700 ly giác, khẩu kia hướng 1900 ly


Click to View FlipBook Version