binh Cộng Sản, xạ thủ phòng không. Hết Chúng tôi giờ này như những con thú bị
đạn, anh thay băng đạn khác, nhả đạn tiếp thương, miệng la, “A !…A!… A!… Biệt
tục, cái thây ma toe tua từng mảnh. Rồi anh Động!… Sát!” tay bóp cò M 16 nhắm những
ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc rống lên. cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp.
Người ấy là Chuẩn Úy Thiều!
Một trái thủ pháo ném trúng lưng tôi, tôi
Tôi cứ để cho người sĩ quan trẻ khóc, khóc chụp nó ném đi hướng khác, trái thủ pháo nổ
cho vơi hận thù, cho vơi nỗi thương tâm. trên trời, thủ pháo CộngSản nổ chậm hơn
lựu đạn M 26 của ta, sát thương cũng không
Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn bằng M 26 của ta.
100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Tôi
không thể nắm vững được con số tổn thất Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không còn
của quân bạn là bao nhiêu. Chúng tôi đã xử biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những
dụng đến những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những
con quái vật T 54 để đánh quả lựu đạn sau
ống M 72 cuối cùng. Tôi gọi Thiếu Úy Thủy
và cho lệnh anh đi gom góp lựu đạn của cùng.
những người đã tử trận về chia cho những
người còn sống để đánh địch lần chót. Tôi đã leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần
tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả
Dưới ánh đèn xe, những người lính xâm mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp
lăng trong đợt xung phong này hình như mở chốt quả mini thì một cái đầu địch nhô
không còn hăng hái như hai đợt trước; họ lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của
bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật
nhấp nhô. Như vậy là địch đã mất tinh thần! giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ
Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu
“Ùm!” thì những anh bộ đội CộngSản cũng thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp
quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh
rừng. móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay
tròn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang
Thế là đèn pha vụt tắt. Dưới chân đồi có sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích
tiếng rên la của lính CSBV bị thương. Hai sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi
khẩu M 60 tưới đạn không thương tiếc về thoát chết trong đường tơ kẽ tóc !
hướng có những tiếng rên la đau đớn ấy.
Chúng tôi giờ này như những con cọp bị
Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi
ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi.
theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên Trong đám bụi mù, một Biệt Động Quân đã
đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, bỏ được một trái M 26 vào trong lòng chiếc
trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng T 54 hướng ĐĐ 4/TĐ 82 khiến nó quýnh
tôi. Trên thành xe không có tên xạ thủ phòng quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật
không nào! Những đứa nạp đạn đại bác thì nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị
thò đầu lên thụp đầu xuống ném những trái đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn tên
thủ pháo xuống những cái lều poncho và CSBV nhảy xuống, chúng chưa đứng vững
những hố cá nhân. thì năm sáu họng M 16 đã nhả hàng trăm
viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng Biệt Động còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi
chết không kịp than tiếng nào. không tên của quê hương.
Có vài Biệt Động Quân còn bám trên pháo Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới
tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần
chúi mũi M 16 vào miệng pháo tháp bóp cò thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt
vô vọng. Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi
đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ. Đoàn bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng
xe biến dạng trong đêm. tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh
qua bờ bên kia.
Đêm ấy tôi đã sống sót sau một trận chiến
đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc đời Đêm 28/4/1975, chợ chiều rồi! Không ai
mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp
Chiếc máy PRC 25 của tôi cũng bẹp dí. ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối,
Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững tôi cho đơn vị dấu đội hình trong bãi mía.
trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia
cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng
tiếc rẻ. người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm
qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng
Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến
xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im
miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng
72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không bắc, cạnh một gốc bằng lăng, Đại Úy Hoàn
có, không yểm cũng không có. Tôi quyết TĐP/TĐ 82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên
định cho đơn vị rút lui. trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả
chục người lính can trường yên nghỉ trên
Một trái mìn cóc nổ dưới chân Chuẩn Úy ngọn đồi này cùng ông. Gió ngàn lồng lộng,
Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi hoa mía bay lồng lộng…
kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung
toe ra như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Sáng 29/4/1975 tôi nhìn về hướng căn cứ
Trung vào cái lều sập của Đại Úy Hoàn, cái LongBình, có vài cột khói đen bốc lên từ
xác Đại Úy Tiểu Đoàn Phó đã bị pháo 100 nóc các nhà vòm. Người ta lại đốt gia tài,
ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, người ta lại rút đi rồi ! Người ta rút đi đâu?
tay chân văng một ngả. Tôi chụp cái máy Tôi vẫn còn ở sát địch quân, vậy mà người
PRC 25 của ông ra lệnh cho Trung Úy Trần ta lại nỡ bỏ tôi mà đi, như ở QuảngĐức,
Văn Phước ĐĐT/ĐĐ 3 cho người dìu Chuẩn Blao! Kiểm điểm lại quân số,
Úy Trung xuống đồi. Rồi tuần tự, các Đại
Đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân cả tiểu đoàn còn được 107 người!
đồi.
Tôi lấy cái PRC 25 rà những tần số quen.
Trên đồi, những anh hùng Pleime vừa tử Tôi bắt được giọng nói của Hằng Minh và
trận, nằm phơi thân trên miệng hố cá nhân. Đại Tá Hiếu, Sư Đoàn 18 đang lún càng tại
Không có tiếng rên la nào cả, tất cả đã ra đi TrảngBom ! Khi biết điểm đứng của tôi, Đại
êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm Tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 Căn Cứ
28/4/1975 máu chúng tôi, máu những người
LongBình.
Muốn đi về LongBình tôi phải tạt qua ngã Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng SàiGòn.
HốNai. Pháo hai bên Quốc Cộng đều tập
trung trên vùng này. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn (!) chuẩn bị lên
đường.
Vậy là, đội pháo ta đi! Chúng tôi đi như
những cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn Tới ngã ba TamHiệp chúng tôi gặp một bộ
nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn nổ chụp phận của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, cùng là dân
trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế Vùng 2 mất đất, thấy thương nhau, tay dơ
mà đi, hướng LongBình, Okay! Tiến lên! vẫy vẫy…
Nơi ô cửa sổ hai bên đường, có những Cầu xa lộ đã bị xe tank CSBV chận đường,
họng súng AK chĩa vào đoàn quân đang di chúng tôi rẽ vào thành phố BiênHòa.
chuyển; chúng tôi không màng tới chúng;
chúng tôi cứ đi trong mưa pháo; pháo bạn từ Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho
hướng tây dội tới; pháo địch từ hướng đông đơn vị đi dọc theo đường xe lửa, ngang qua
câu sang. Pháo cứ rơi; những người trúng những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn
đạn ngã xuống; những người chưa trúng đạn mặt buôn phấn bán hương thò ra, ánh đèn
cứ bước đi; những bước đi không hồn; vàng hiu hắt, đôi câu vọng cổ vang theo sau
đường phố đầy hố đạn, đường phố đầy xác lưng người chiến bại,
người…
“Anh ơi! Bỏ gươm đao, bỏ mộng khanh
Tôi vào tới vòng rào Căn Cứ LongBình tướng công hầu mà về với em đi! Chiến cuộc
vào lúc buổi chiều. Tôi là dân Vùng 2 không đã tàn rồi! Anh ơi! Anh ơi! ”
biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm
cái cổng số 10 thì biết nó ở đâu? Tôi thấy Chúng tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng
một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ Huy/ tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang, tôi cho
Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân bỏ trống, vậy đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ
là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Đếm đầu trống bên đường. Từng đoàn quân xa, chiến
thuộc cấp trong sân, Tiểu Đoàn 82 Biệt xa có Biệt Động Quân và lính Dù tùng thiết
Động Quân giờ ấy còn 67 người! Như thế là đi qua mặt chúng tôi, hướng về SàiGòn.
chẵn 40 người chết rải rác trên đoạn đường Khoảng 8 giờ sáng thì không còn chiếc xe
mưa pháo từ HốNai về tới LongBình! nào đi qua đó nữa. Lúc này trong ngôi chùa
bên kia đường tàu, những nhà sư áo vàng
Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi đang chất đồ đạc lên xe, xe hướng về Sài-
ngủ như chết. Đến ba giờ sáng 30/4/ 1975 Gòn. Ít lâu sau xe của họ lại quay trở lại
Trung Úy Trâm, Sĩ Quan Truyền Tin Tiểu chùa không hiểu vì lý do gì.
Đoàn dựng tôi dậy,
Tôi cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn
– Có tin từ liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút cách ThủĐức chừng vài cây số người lính có
về SàiGòn! radio loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh
đang kêu gọi đầu hàng! Tôi cho quân dừng
Tôi uể oải ngồi dậy, lại, tạt vào một quán cà phê bên đường. Bà
chủ quán thấy tôi, ái ngại vặn nhỏ volume
– Mẹ kiếp! Về SàiGòn! Về SàiGòn làm cái cái máy thu thanh.
con mẹ gì đây!
“Hết rồi! Chị cứ mở lớn cho tôi nghe với! Chúng tôi xiết tay nhau cảm thông. Vinh
Hết rồi! Chị ơi!” quang đành bỏ lại sau lưng, đau lòng mà bỏ
lại sau lưng! Trước mặt chúng tôi, những
Bà chủ quán mở radio lớn hơn, và tôi nghe ngày sầu thảm bắt đầu…
rõ từng lời kêu gọi của ông Tổng Thống,
ông tân Tổng Thống nước ViệtNam Cộng- Tháng Ba năm 1979 tôi được đưa từ Trại
Hòa mà tôi không rõ ông ta đã lên ngôi lúc Cải Tạo PhúSơn 4, TháiNguyên về Trại
nào! NamHà A, PhủLý. Tôi là thành phần của
toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại,
Ngoài cổng có cái xe Jeep từ hướng Sài- nên bị giải về đây với cái còng trên tay.
Gòn chạy lên, một người trông dáng như Tư
Lệnh bước xuống hỏi anh Biệt Động Quân Khi chúng tôi nhập trại, những người tù
trước ngõ điều gì đó, rồi chiếc xe trở đầu trẻ tuổi can tội Vượt Biên và PhụcQuốc
phóng đi. Khi tôi ra ngoài đường thì người chào đón chúng tôi, những kẻ mang còng,
lính nói có Thiếu Tướng Đảo hỏi tin Thiếu bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng.
Tá, vì anh ta mới từ phía sau đoàn quân di
chuyển lên đây, nên anh không rõ tôi ngồi Hôm sau có người nhắn với tôi rằng Chủ
trong quán nước, anh nói với Thiếu Tướng Nhật tới Thiếu Tướng Đảo chờ mời tôi ăn
rằng anh không biết ông tiểu đoàn trưởng ở cơm ở buồng số 1.
chỗ nào cả, xin Thiếu Tướng chờ một lát để
anh ta đi kiếm, nhưng Thiếu Tướng Đảo đã Trưa Chủ Nhật đó tôi tới buồng 1 gặp
vội vã ra đi. người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng
Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ, Đại
Ngày 10 tháng 5 năm 1975, tôi đang ngồi Tá Phúc Tỉnh Trưởng LongKhánh, và Đại
uống cà phê trước cửa nhà ông chiêm tinh Tá Khoái CHT/BĐQ/QK1.
gia Trần Cẩm số 144 đường NhậtTảo, Chợ-
Lớn thì bên kia đường một người tóc húi Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi
cao, vừa xuống yên chiếc xe đạp thể thao. rất vui khi bắt tay Tư Lệnh.
Tôi gọi, Bữa cơm ấy có tôi, Tư Lệnh, Tướng Sang và
một người quen của Tướng Sang.
– Tư Lệnh! Tư Lệnh!
Tư Lệnh cầm tay tôi, giọng nói đầy hưng
Tướng Đảo ngơ ngác một lúc rồi nhận ra tôi, phấn,
ông bước sang nhập bàn với tôi và chú
Trung – Những bạn trẻ như em đã làm qua tỉnh
ngộ, xét lại mình. Từ nay qua sẽ sống xứng
Úy Phước, con trai bác Cẩm. đáng hơn!
Tư Lệnh nói hôm 30 tháng Tư ông có Tôi chẳng hiểu ý Tư Lệnh muốn gì, nhưng
quay lại tìm tôi ở cái quán cà phê bên đường tôi tin chắc có điều lạ đang chuyển biến
để rủ tôi đem quân trốn về Vùng 4, nhưng trong tâm tư Tư Lệnh (?)
không thấy tôi, nên dự định không thành.
Những buổi chiều sau đó, mỗi khi đi lao
Tôi nhìn vào mắt Tư Lệnh, an ủi ông, động về, chúng tôi đều tụ tập bên bờ giếng
trước buồng 7 để nghe Thiếu Tướng Đảo,
– Số mệnh mà Tư Lệnh ơi! Đại Tá Trí, Đại Tá Quy, và Đại Tá Minh hòa
nhạc. Họ là những nhạc sĩ siêu quần, tiếng Sáng hôm sau một cái xe Molotova bít
đàn của họ có thể ví với tiếng đàn của một bùng đến trại NamHà A đem Tướng Đảo và
siêu “Band”, nhất là cây măng đô lin của vài ông tướng khác đi mất biệt.
Đại Tá Minh.
Sau khi chia tay nhau ngày ấy ở Trại Cải
Chuyện tụ tập đàn ca đến tai ban chỉ huy Tạo NamHà A, tôi và Tư Lệnh chưa có dịp
trại. Thằng “chèo” Lực xuống yêu cầu ban gặp lại nhau.
nhạc và khán giả giải tán. (Ở trại NamHà A
chúng tôi gọi những tên công an coi tù là Tam nhân đồng hành trên Liên Tỉnh Lộ
“chèo”, hay “phường chèo”). LongKhánh, Bà Rịa tháng Tư năm xưa thì
có hai người bị giữ trong trại tù 13 năm là
Những người trẻ tuổi hô to, tôi và Đại Tá Hiếu, người thứ ba là Thiếu
Tướng Đảo thì bị nhốt lâu hơn. Ông và ba vị
– Đả đảo “chèo” Lực! tướng nữa của Quân Lực ViệtNam CộngHòa
là những người sau cùng của chế độ được
Lời qua tiếng lại, lũ “chèo” ùn ùn kéo xuống tha khỏi gông cùm 17 năm sau khi Miền
vây quanh đám đông. Nam sụp đổ.
Tướng Đảo lớn tiếng, Bây giờ là tháng Tư! Ba mươi năm đã trôi
qua. Bao nhiêu lần kỷ niệm xưa hiện về.
– Anh không đủ tư cách nói chuyện với Tháng Tư nào cũng chở đầy nỗi buồn!
tôi! Anh về gọi Trung Tá Xuyên, trại trưởng
xuống đây nói chuyện với tôi! “Hằng Minh đây Tiên Giao gọi! Tháng Tư
lại về rồi Hằng Minh ơi!”
Trung Tá Xuyên không xuống, mà đoàn
vệ binh thì càng lúc càng đông hơn. Chúng VƯƠNGMỘNGLONG
lùa tù về buồng, khóa cửa lại, khóa cả cửa ra
sân lớn, không cho các buồng giao thiệp với
nhau.
THỜI THẾ, THIỆN, ÁC tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về
và ….CON NGƯỜI Sài Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7. Thay
quần áo xong, tôi được đưa vào phòng
Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn
Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp Pleiku bệnh. Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá
đón tôi vào Bệnh Viện 71 DãChiến HoaKỳ già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là
để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71
chính thức nhập viện để được giải phẫu một DãChiến. Hình dáng của bà ta thật là cao
vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại
đường về trình diện Tổng Y Viện CộngHòa vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự
theo quyết định của Bác Sĩ Trung, GiámĐốc tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của
Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều
đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác
mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ
hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và
quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được mang kiếng trắng. Hai vị thày
xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X
thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên
cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên
nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả
tái khám. Nào ngờ, kết quả lần khám này xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn
cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi
chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ. Chợt
vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực
Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy
tục chuyển tôi về Tổng Y Viện CộngHòa vì ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương
nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. binh băng kín nửa người phần dưới. Theo
sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ
Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá quan Việt Nam. Người sĩ quan ViệtNam đó
liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông là ĐạiÚy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi
trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung quen biết.
tá HoaKỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh
Viện 71 DãChiến HoaKỳ trước, nếu chữa Anh Tư là dân TìnhBáo, đang tăng phái
không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7. ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của
Mỹ tại HàmRồng. Thấy bệnh nhân là một
Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung người ViệtNam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư
lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi
trường CùHanh và Bộ TưLệnh QuânĐoàn Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của
II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại
binh Mỹ từ các chiến trường CaoNguyên đưa vào đây?
Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được
cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo Có phải người của “moa” đâu? ViệtCộng
đó!
ViệtCộng à? Dù là QuốcGia hay CộngSản, thì con người
nào cũng có một trái tim, biết yêu thương,
Thằng ViệtCộng này vướng Claymore ngoài và biết giận hờn.
rào trại DakSéang. Mỹ bắt được, đem về
Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 Một năm trước đây, trong trận DakTô
(HoaKỳ). (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự
như người cán binh CộngSản này. Ngày đó,
Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ
không dùng xe mà phải xử dụng tới trực còn hình bóng người mà tôi yêu thương
thăng? nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần
trước khi bị ngất đi.
“Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô”
sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray
chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai QuânCảnh
đoàn, đưa anh ta về đây. HoaKỳ được gửi tới canh gác trước phòng
chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng
Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.
chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư
thôi. Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng
giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một
Hắn thuộc đơn vị nào vậy? ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ
cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm
Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra
ngay. Chưa hỏi được câu nào. khỏi đùi trên của một anh lính HoaKỳ. Anh
Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng
giấy tờ gì sao? mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị
cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống
Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho
bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. bác sĩ.
Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau
chưa muộn. đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc,
kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải
Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt- luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh
Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn
mình. tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại
“Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ nhanh tay
luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng
hắn yêu thương người mang tên Xuân này một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã
lắm? tẩy trùng.
Tôi gật đầu, tán đồng, Ca mổ của anh lính HoaKỳ chấm dứt thì tới
phiên anh tù binh CộngSản.
Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên
chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ
phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra
chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước,
hoàn thành công việc này khá dài.Nhìn
những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má nhanh
hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X”
suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.
trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra
khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ
miệng hét lên: ngang, như người ta đang băm một cái bánh
mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ
” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới
ư…” dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh
tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với
Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm
tận tình săn sóc tên ViệtCộng, không khác gì do cô y tá hứng.
đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ
trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau
trên mặt người tù. Dù biết rằng người được nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu
chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.
dỗ dành:
Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không
“Don’t worry! Don’t worry! You will be chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian
Okay!” ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi
sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương
Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru cứu chữa.
của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang
đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên
Vết thương cũng được may vá và băng bó ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới
xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két!
lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ. Là Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi
bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi
nửa người bên trái nặng như đeo chì. cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân
tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi
Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với
Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên những nhát dao đang cào, nạo xương sườn
vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào
đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi
quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi
dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa
mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt
bàn tay. tôi đã xám xịt như chàm?
Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc
tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc
này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn,
một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá
sức chịu đựng của một người lính ViệtNam ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái
CộngHòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu sương sườn.
la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt
đời. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông
bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn
Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người,
binh ViệtNam CộngHòa khác đã từng lên nằm im như cái xác.
bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải
chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm
rằng, mình còn may mắn hơn những người ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ
này rất nhiều… thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt
Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác
đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi
Quân mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc
Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống bột trụ sinh màu vàng như nghệ.
rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai
Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ.
tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương
ra. bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở
giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng
Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng
mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, cứu
thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.
thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh
hùng thời Tam Quốc này quá! Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng
che miệng, tôi không thấy miệng họ cười,
Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa
chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh hoàn tất.
sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh!
Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi
lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm. trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao
quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy
“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, thuốc, việc cứu người là mục đích tối
rồi rơi xuống mặt bàn. thượng. Mạng sống của mỗi con người đều
quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn
Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-
đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, Sản hay QuốcGia.
đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu
đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay! Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi
khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước
“Here it is!” vào.
Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống
cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.
tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82
Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như Không hút thì thôi! Tớ hút một mình. Thuốc
giọng của một hiền mẫu: của đế quốc, không thèm hút!
“Oh! My baby! My baby! You will be Okay! Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào.
My baby…” Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút
thì nằm đó mà ngửi khói.
Anh lính Mỹ và tên cán binh ViệtCộng cũng
sững người, trố mắt. Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi
người một khay thức ăn, gồm một bánh mì
Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm
anh lính Mỹ và tên cán binh CộngSản được nho.
y tá đẩy theo sau.
Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn
Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống tên cán binh BắcViệt thì nằm quay mặt vào
giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay tường không thèm chạm tới cái khay.
lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm Trước khi quay gót đem theo cái khay của
cây. tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc,
rồi dịu giọng,
Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu Take it! It’s good for you! Tôi chêm thêm,
giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm
một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì
ba người. thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi! Cô y tá
Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn nhìn tôi, đồng tình,
ĐồngMinh, bên phải là tên cán binh Cộng
Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng May you tell him to take it?
dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ
sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ
gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi. thêm,
Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính
Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ, Thank you! Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì
đói đấy!
Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài,
nhả khói. Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau
một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm
Tôi trao bao thuốc cho tên ViệtCộng, kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.
Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm! Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn,
la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải
Không thèm! tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi
đọc truyện cho anh ta nghe.
nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta
gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,
Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt- Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ
Cộng, nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba
tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy,
Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ
mà sợ. Lần này thì hắn ta không từ chối sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không
nữa. thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ
cho tôi uống Erythromycin với liều lượng
Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.
“tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm. Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ
được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay
Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn. go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt
E mấy? quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng
Hăm Tám (28) gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền
nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi
Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 phịch xuống nệm, thở dài.
Mặt Trận B3 CộngSản BắcViệt, nên khai
thác tiếp, Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở DakTô. Trận “Này! Này!”
đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là
may lắm đó! Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng,
đừng làm ồn lúc đêm khuya.
Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi
Cấp chức gì? sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.
Trung úy ĐặcCông. Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào,
anh cán binh hỏi nhỏ,
Quê ở đâu?
Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không? Tôi
Hải …”Rương” ngạc nhiên,
Làng nào? Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Hỏi gì mà lắm thế? Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn
thật thà,
Thôi không hỏi nữa!
Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các
Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì
chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, cười,
quay mặt sang anh bạn ĐồngMinh. Cậu bé
đã ngáy khò khò.
Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ Anh trung úy ViệtCộng rụt rè cầm bao thuốc
thế mà anh cũng tin! lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay
phải của tôi, lắc lắc vài cái,
Anh ViệtCộng ngẩn người, ra chiều suy
nghĩ, rồi lẩm bẩm: Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng
“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các
tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho anh có độc ác đâu?
chính mình anh ta nghe thôi. Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm
gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ
Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi tay vẫy tôi lần cuối.
dò.
Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch
Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc
con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.
biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé
Ty không? Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái
bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng
Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
lòng.
“Don’t throw it away! Keep it for memory!”
Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở bà dặn dò.
về phòng cho tôi uống thuốc.
Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn
Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân- phòng.
Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm
Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì SưĐoàn “Take care! Good bye! My son!” phút chia
4 HoaKỳ lại xuất hiện. tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói
của bà run run.
Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh
giường bệnh của tên tù Phiến Cộng, Hết lo Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai
chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi! tôi: “Her son was a Ranger like you!”
Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay
tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng
quan Việt, Mỹ đỡ tên tù CộngSản lên ghế bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường
lăn. về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở
ViệtNam.
Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán
binh, Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải- Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm
Dương… giác lâng lâng, ngọt ngào.
Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm
nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai
của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như
tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con,
thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa
thấy thương, như là thương con mình… chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên
*** ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,
Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24
Biệt Động Quân xuống ĐứcLập tăng cường Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973
cho TiểuKhu QuảngĐức để tham dự cuộc hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc
hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. rồi.
Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-
Phòng 2 TiểuKhu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ Dương, nên buột miệng,
chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 DãChiến,
tôi hỏi anh Tư, Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!
Anh Tư gật gù,
Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy
ĐặcCông ViệtCộng? Có khi hai người là bà con cũng nên? Tôi
cũng gật gù theo,
Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu
hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi
phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài
địch của chúng ta thôi. Bắc. Nếu như hắn là con của những người
này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.
Tôi biểu đồng tình,
Anh Tư phụ họa,
Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình.
Những tên cán binh đang đánh nhau với Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn
mình thì có thù oán gì với mình đâu? nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu
xương thôi. Mấy thằng CộngSản “cội” đang
Tôi hỏi tiếp, ăn trên, ngồi trốc ở ngoài HàNội mới là
nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi
Sau này anh có còn gặp lại y không? da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù
của chúng mình!
Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển
giao anh ta cho Phòng Nhì QuânĐoàn II ***
ngay. Giữ lâu làm gì?
Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau
Tôi nhắc anh Tư, ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên
trung úy ĐặcCông ViệtCộng tới Bệnh Viện
Anh có nhớ chuyện thằng ViXi đó cứ gọi tên 71 DãChiến Hoa Kỳ, thì tôi và anh Tư đã
Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp
Xuân là ai không? thiếu tá của khu K 3 trại TamHiệp, Biên-
Hòa.
“Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy
chuyện này rồi.
Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi
đợi chờ ngày bầu cử QuốcHội nước Việt- ới:
Nam ThốngNhất. Chúng tôi còn ở trong
Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng “Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”
bách làm các công tác lao động nặng.
Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù
Khóa 19 VõBị của anh là Trần Văn Bé được cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác
trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân.
ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác.
cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ
chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm
ai dẫn súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo
độ. bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm
đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận
Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B của lán trưởng.
với tôi trong Trường VõBị thời sinh viên sĩ Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã
quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn
tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn
không lạ gì nhau. tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh
cờ,
Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng
tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới
Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ
gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng quan nào của ViệtNam CộngHòa đã mạo
Khóa 5 Thủ Đức với Trung Tá Hoàng Kim hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại,
Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều
Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài hơn là tiếng người ta.
lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh
Quảng Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên
đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu- chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn
Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu phòng nhận lệnh.
Trưởng TiểuKhu ngày xưa đã mang biệt
danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là
Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán
Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày viên, rồi tuyên bố:
anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm
Lệ. “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên
Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé
Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có còn tại đào. Các anh đừng hoang mang,
tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn
dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại trại, sẽ mang họa vào thân.”
vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát
một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán
con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh
vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?
Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc
quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn ác dữ!
anh Khóa 19. “Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên
ViệtCộng quản giáo K 3.
Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên
họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng
nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của
trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường
trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.
mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh
Tư ra. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng
phất nét u sầu, như đang mang tâm sự
Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc không vui, như đang nhớ thương ai.
sân thì thầm,
Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà
Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn
bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một
anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư cán bộ ViệtCộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi
thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng
đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên
móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước cán binh này lắm,
thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm
hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài BắcThái
đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải
nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!
chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng
viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang
anh Tư đã nát bấy, nên K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là
anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.
chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc
cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh.
vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại
Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường
không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân,
bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù
khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong nhân
cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay
xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên
thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho
cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói
chung, hắn ta được lòng nhiều người.
lán. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.
Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu
lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã
Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh CẩmLệ
vốn là sinh viên đại học YKhoa, ly khai vào còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ
“bưng” nhân Tết MậuThân, ngày trở lại vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít
SàiGòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, người dám làm: Trốn trại!
cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết
trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!
buồn!
Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà
Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình
thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh ra đánh đổi lấy TựDo.
trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào
dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-
anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng
nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể không hay biết mảy may mưu đồ của hai
một người cùng màu da, cùng nguồn cội với ông.
anh ta.
Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy,
Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy
tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu
khuôn mặt điển trai. mạng một tên ViệtCộng sắp chết vì nội xuất
huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ
Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư
Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông lại bị những tên ViệtCộng khác bắn nát tứ
thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để
rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai
sang phụ trách khu K 4? làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới
chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất
Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn
thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng.
đưa cho tôi chiều hôm trước. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình
ảnh cô y tá Hoa Kỳ tận tâm chăm sóc một tù
Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi binh bị thương, không cùng màu da và ngôn
hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
buồn rầu của người Niên Trưởng.
“Don’t worry! Don’t worry! You will be
Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực Okay!”
từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,
Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có
nguyên bánh CẩmLệ này về, rồi tự tay vấn chuyện người chiến thắng đã đem địch quân
lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho
ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên ngựa kéo lê tới chết.
tích sự gì cả!
Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi
cung cách đối xử với người dưới ngựa của ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng
Việt Cộng cũng không văn minh hơn chút kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã
nào. chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng
Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ chuyền.
ngoắc tay,
Lẹ lên! Lẹ lên! Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.
Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên,
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”
đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ
gọi tên ai đó:
Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng
nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi “Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường
gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không …ơi!…ực!… ực!…ực!…”
có lính canh.
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc,
Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư!
Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.
Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp
kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện
tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi,
ra. tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con
tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng
“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..” trành chìm dần xuống đáy biển khơi.
Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức,
từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp không rên được nữa.
chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng
không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm
chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi lũi trở về nhà giam.
năm vừa qua, khó có thương binh nào phải
lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn
tình trạng hiện thời của người thất trận nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối,
Phạm Văn Tư. cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra
trong vòng rào nữa.
Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những
đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ
thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các
người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phiên gác đôi.
phút này.
Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng
Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng
Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham
về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng
không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa. thanh truyền về trại âm thanh của những
loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai
Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối
lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt.
Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm
Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành
trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào.
Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa
Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh VõBị ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.
bên Lán 17.
Hiện tượng khác thường này khiến người ta
Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô
đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào. Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt
Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị động của con người dưới trần gian.
bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng
vòng trên cao, cất tiếng kêu thương. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan
ViệtNam CộngHòa đã động tới lòng Trời?
Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay
được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh không?
Tư.
Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên,
Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị ViệtCộng bắt chính là lúc Thượng Đế đưa bàn tay thương
trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các
ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một bạn tôi tới bến bờ TựDo.
anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập
nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng
Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.
Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách
Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Những anh tù đại diện có mặt trong phiên
44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai
đi từ Trại HócMôn. Anh Quang bị vệ binh người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một
bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái
thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban
Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.
tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở
Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi
Thịnh lại là dân cùng ngành TìnhBáo với sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã
anh Tư và anh Bé. phải trả giá cho TựDo bằng chính sinh
mạng của họ.Sau ngày Ba Mươi tháng Tư
Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện
Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. đã nhường chỗ cho cái Ác.
Hôm đó là một ngày nắng gắt.
TựDo, BácÁi, CôngBằng chỉ còn là kỷ niệm.
VIÊN NGỌC NÁT Qua ngày thứ tư thì chúng tôi bị đưa xuống
phà để về Trại 9 bên hồ Thác Bà, Xã Cẩm-
(HỒIKÝ‐VƯƠNGMỘNGLONG‐K20)
Nhân, YênBái.
“Người yêu nước có thể bị giết.
Nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc thì bất diệt.” Hai bạn đồng hành của tôi, Thiếu Tá Trụ
và Đại Úy Cả bị nhốt trên nhà kho của trại.
(Vương Mộng Long) Tôi không rõ họ bị đối xử ra sao. Còn tôi là
người cầm đầu cuộc vượt ngục này, nên bị
Giữa năm 1978, toán bốn người cựu sĩ quan tách riêng, giam trong nhà kỷ luật, sát với
của QuânLực ViệtNam CộngHòa, tù cải tạo hàng rào khu cưa xẻ thợ mộc. Tôi bị cùm cả
ở Trại 4, Xã CẩmNhân, YênBái, vượt ngục hai chân, còng cả hai tay. Khi ấy đang mùa
lần thứ nhì, nhưng bị thất bại. Đại Úy Lê Bá hè, trong hầm nóng nực, muỗi như trấu, bất
Tường chết trong rừng. Còn lại Thiếu Tá kể đêm, ngày. Da mặt, da cổ, da tay chân
Đặng Quốc Trụ, Đại Úy Trần Văn Cả và tôi của tôi trở nên sần sùi vì muỗi đốt.
(Thiếu Tá Vương Mộng Long) bị bắt đưa về
tạm giam ở Đoàn 776 YênBái. Tôi được phát hai cái ống nứa lồ ô dựng
Ngày đầu, một vệ binh còn rất trẻ tên Lời gần chân nằm. Một ống nứa để đại tiểu tiện,
đã thẳng tay nện một báng súng A.K vào một để chứa nước uống. Tay bị còng, chân
mặt tôi, một cái răng gãy. Tên vệ binh bị cùm, vấn đề đi đại, tiểu tiện quả là một
CộngSản trẻ tuổi này đã nặng tay với tôi, vì cực hình. Nhưng vì bụng đói liên miên, nên
hắn vừa tìm thấy trong ba lô của tôi một bài vấn đề đại tiện cũng khó xảy ra thường
thơ “phản động”. Chưa hả giận, hôm sau y
trở lại. Tôi bị quật thêm một báng súng vào xuyên.
ngực, gãy một cái xương sườn. Cũng do biên bản bàn giao lại từ Đoàn
776, nên từ hôm về Trại 9, ngày nào tôi
cũng trải qua một trận đòn hội chợ, kéo dài
trên, dưới hai tiếng đồng hồ. Tôi bị bắt đứng
giữa phòng trực trại, bốn góc phòng là bốn
vệ binh. Tôi bị đánh chuyền tay từ góc này
sang góc khác, xoay tròn quanh phòng. Má
bên trái vừa lãnh một cú đấm chưa kịp cảm
thấy đau thì má bên phải đã lãnh cú đấm tiếp
theo. Những đợt máu mũi phọt ra ồng ộc
tràn trên má và trên ngực tôi chỉ làm cho
những tên vệ binh trẻ tuổi hăng tiết thêm.
Trọng lượng thân tôi thời này còn chừng
trên ba mươi ký lô là cùng. Những cú đấm
móc tận lực làm cho tôi có cảm tưởng như là
đang “bay” từ góc nhà này, sang góc nhà
khác. Sau mỗi tiếng “hự!” máu tôi lại trào ra
như xối. Không biết máu từ mồm tôi hay từ
phổi tôi phun qua hai lỗ mũi thành vòi? Mặt
tôi bầm tím sưng vù, đôi mắt híp lại, nhìn
một vật hóa hai. Sau khi bị hàng chục cú đá
cật lực vào bụng dưới, cứt đái trong bụng tôi
cứ tự do tuôn ra quần. Tôi cố nín, cũng cơm tù độc nhất trong ngày. Nhiều khi, tô
không nín được. sắn tới tay, tôi chỉ thấy một mớ bầy hầy đất
cát và vài cọng sắn khô cỡ ngón tay. Tôi đói
Lãnh những trận đòn thù như thế này, tôi tới run chân, run tay, đói ngủ không được.
mới thấm ý câu hăm he của tên sĩ quan an-
ninh Trại 9, “chúng ông sẽ đánh cho mày té Hình như không có “chế độ” ẩm thực nào
đái, vãi phân”. áp dụng cho những trường hợp tù cải tạo
vượt trại. Có hôm tôi được một củ sắn lớn
Nhiều lần tôi bị đánh mửa mật xanh, mật cỡ cườm tay, dài một gang. Cũng có ngày
vàng mà vẫn chưa được tha; đến lúc tôi tôi được hai củ khoai lang luộc nặng chừng
mềm như sợi bún, vệ binh mới kéo tôi ra vứt nửa ký. Thường xuyên, thực đơn cho tù trốn
ngoài cửa phòng trực. Có hôm cả giờ sau trại là một tô cháo sắn phơi khô rắc muối.
trực trại mới cho người kè tôi về nhà giam.
Chắc nhiều bạn tù thấy cảnh tôi nằm rũ Từ lâu lắm rồi, không nghe ai nhắc tới hai
như cái xác không hồn nơi góc sân phơi sắn chữ “nhân quyền”. Trong thời gian tôi bị
khô, nên một người được tha về BanMê- cùm ở trại này thì, cứ cách hai hay ba tiếng
Thuột đã đến nhà ông bà nhạc của tôi kể lại đồng hồ, một tên bộ đội đi tuần tra lại ghé
rằng tôi trốn trại và bị vệ binh đánh chết rồi! kiểm soát tình trạng khóa, chốt, còng, cùm
một lần. Trong bóng tối, để chắc chắn rằng
Khi nhận tin này, ông anh vợ của tôi lo tôi còn sống, anh ta thường “tiện tay” khện
quá, vội đề nghị với bà mẹ vợ tôi, “Đừng nói cho tôi một cái bạt tai hay một báng súng để
cho con Loan hay tin chồng nó chết. Nghe nghe tôi la lên oai oái vì đau.
tin này nó không sống nổi đâu! Nó mà chết
thì đàn con nó sẽ bơ vơ…” Đêm nào nghe thấy tiếng chân nhiều người
đi tuần, lòng tôi lại phập phồng,… biết
Những ngày không bị dẫn lên “khung” để đâu?… rất có thể, người ta sẽ ập vào, hè
lãnh đòn, tôi nằm chờ thời gian trôi qua. nhau đè tôi xuống, bịt miệng, khóa tay tôi,
tròng một sợi dây thòng lọng vào cổ tôi, rồi
Một tia nắng xuyên khe mái nứa, in một lôi thân tôi lên xà nhà, như cách đây hai năm
đốm sáng trên nền nhà. Nhìn vị trí đốm nắng họ đã làm, để giết một anh tù vượt ngục bên
di chuyển, tôi biết giờ giấc. Chấm nắng bắt Trại 4. Những cái chết như thế sẽ được
đầu xuất hiện trên vách nhà hướng Tây vào thông báo là “tù tự tử”, thật đơn giản.
lúc kẻng
Một ngày, khi vệt nắng vừa chấm chân
giải lao thứ nhứt của trại (khoảng chín giờ vách tường hướng Tây, từ bên sân của đội
sáng) rồi từ từ di chuyển dần về hướng cưa xẻ, sát hàng rào có tiếng người nhắn
đông. Khi tiếng kẻng báo giờ điểm danh sang, tôi nhận được đó là tiếng thằng bạn
chiều (khoảng năm giờ chiều) thì chấm nắng thân Vũ Văn Bằng,
tới giữa vách hướng Đông, thế là hết một
” Long ơi! Thợ mộc được lệnh đóng ba cái
ngày! áo quan. Chắc tụi mày sẽ bị xử bắn. Trưa
Hàng ngày, tù nhân của nhà bếp đem cho mai tao sẽ đem cơm cho mày. Mày có nhắn
gì cho gia đình thì nói với tao, tao sẽ thư cho
tôi một bát sắn khô nấu nhão nhoét. Anh ta gia đình tao, rồi chuyển cho gia đình mày.
phải để bát sắn nơi cửa buồng giam; tiếp xúc Tao cứ tưởng tụi mày đã đi thoát, không
với người đang bị cùm là điều cấm kỵ! ngờ…”
Khi người tù đưa cơm rời bước, đàn gà của
trại vội tranh giành nhau những mẩu sắn Rồi nó nấc lên, nghẹn ngào…
trong tô. Tới giữa trưa, tên bộ đội trực trại
mới đến mở cửa hầm giam cho tôi ăn bữa Thằng Bằng cũng là dân BắcKỳ Di Cư như
tôi. Chúng tôi thân thiết sáu năm cùng lớp
Trung Học Trần Quí Cáp. Sau khi tốt nghiệp “Ngọc toái bất ngõa toàn, tam tự ngục hàn,
Tú Tài 1, nó tình nguyện đi Khóa 63 A Sĩ- sơn hải khấp
Quan Không Quân. Hồng khinh nhi thái trọng, thiên thu luận
định, nhật tinh huyền.” (Phan Bội Châu)
Thiếu Tá Vũ Văn Bằng là Trưởng Phòng
QuânBáo Sư Đoàn 6 KhôngQuân. Mỗi lần Dịch:
từ tiền đồn về thăm Pleiku, tôi thường gặp
Ngọc nát vẫn hơn ngói lành, nhà tù ba chữ,
nó. núi biển khóc
Nằm trong cùm, nghe tiếng khóc của người
bạn đồng môn, lòng tôi chạnh nhớ ngôi Thái Sơn nặng, lông hồng nhẹ, bàn luận
trường đã đào tạo tôi thành người. nghìn năm, còn thấy sao trời sáng.
Tiếng thày hiệu trưởng Tăng Dục, ngày đầu
Đệ Thất, còn đâu đây, Bảy chục năm sau, tháng Năm năm 1978,
“Trường chúng ta được hân hạnh mang tên một người vì yêu đất nước, yêu đồng bào
Trần Quí Cáp. Cụ Trần là một vị anh hùng cũng đang nằm chờ giờ ra pháp trường.
ái quốc. Thày mong muốn các em chăm chỉ
học hành, để sau này thành đạt, ra giúp Hai người, tôi và cụ Trần Quí Cáp, tuy
nước, làm rạng danh cho trường.” sinh ra không cùng thế kỷ, nhưng đã phạm
cùng một tội: “Tội mất nước” (Phan Bội
Hôm ấy có một vị khách, vốn là một giáo
viên, bạn của thày hiệu trưởng, tới thăm và Châu)
nói chuyện. Vị khách này là thân sinh ra anh Thế mới biết, những người yêu nước có thể
Phạm Phú Nhàn, người ngồi bên cạnh tôi.
bị giết, nhưng tinh thần ái quốc của một dân
Ông khách mở đầu bài diễn văn bằng một tộc thì bất diệt.
câu mà tôi nhớ cả đời,
Trưa nay nghe tiếng khóc của thằng bạn, tôi
“Tụi mi nhớ đây! Thà làm một viên ngọc thở dài, “Thôi thế cũng là xong! Cứ coi như
nát, chứ không làm một viên ngói lành. Nếu một lần ra trận…”
tụi mi không chăm chỉ học hành thì suốt đời
tụi mi chỉ là những cục cứt xái mà thôi!” Mười hai năm lửa đạn, vào sinh ra tử, tôi
đã không ngừng cố gắng để hoàn thành phần
Sau đó ông già dài dòng kể về lý lịch và nào ước vọng của thày tôi ngày đầu Đệ
cuộc đời người anh hùng ái quốc Trần Quí Thất. Là đệ tử của cụ Trần Quí Cáp, tôi đã
Cáp, qua đấy, chúng tôi biết cụ Trần vì yêu noi gương cụ, cống hiến trọn đời tôi cho tổ
quê hương, yêu đồng bào, nên đã bị cầm tù, quốc.
bị đưa lên đoạn đầu đài.
Tiếc thay, đất nước tôi đã tới thời mạt vận,
Tôi lớn lên, tự hào và hãnh diện là một đứa nên tôi đành chấp nhận những tai ương
con của cụ Trần. Tôi cứ nhớ mãi hai danh từ giáng xuống số phận mình.
“viên ngọc nát”‘ và “cục cứt xái” mà ông bố
anh bạn học của tôi đã đem ra ví von trong Đêm hôm đó tôi thức trắng. Tôi nằm im,
câu truyện khuyên nhủ tụi nhỏ. nhắm đôi mắt lại, mường tượng ra trong trí,
từng khuôn mặt của những người thân.
Tháng Năm năm 1908 cụ Trần Quí Cáp đã Trước hình ảnh mỗi người, tôi lẩm nhẩm
bị đưa ra pháp trường, xử trảm ngang lưng. nhắn nhủ lời vĩnh biệt. Lần lượt, tôi chia tay
Ngày đó khóc bạn, cụ Phan Bội Châu đã với mẹ tôi, rồi tới vợ tôi, cùng ba đứa con
viết,
gái.
Đến lúc phải tưởng tượng ra khuôn mặt
thằng con út thì óc tôi quay mòng mòng. Tôi
không làm sao vẽ ra trong trí khuôn mặt của
thằng con. Nó sinh ra ba tháng sau ngày
Miền Nam sụp đổ, lúc đó tôi đã ở trong tù Chúng tôi bị dẫn đi một vòng quanh chợ
rồi. CẩmNhân để cho dân địa phương coi mặt.
Cũng may, lần này dân chúng chỉ đứng nhìn
Trưa hôm sau thằng Bằng năn nỉ anh bạn theo ba người tù bị trói một cách tò mò,
tù trưởng bếp để nó thay anh ta đem phần ăn không có ai chạy theo ném đá hay đả đảo, sỉ
một ngày sắn khô cho tôi. Nó đứng ngoài nhục chúng tôi như thời 1976.
cửa buồng giam, miệng cười hô hố, Năm 1976, sau khi bị bắt vì tội vượt ngục
– Long ơi! Chiều hôm qua, sau khi đóng lần đầu từ Trại 3, tôi và Thiếu Tá Đặng
xong ba cái áo quan, về lán tao không ngủ Quốc Trụ đã bị trói ngoặt cánh khuỷu, rồi bị
được. Tao buồn, tao thương mày, tao khóc dẫn riệu qua đây để dân địa phương bày tỏ
suốt đêm. Sáng nay tao mới biết, Trại 7 có lòng căm thù “Ngụy Quân ác ôn”. Chúng tôi
năm thằng chết đuối vì bị chìm mảng khi đi bị ném đá sưng đầu, sưng cổ.
chặt nứa. Nhưng Trại 7 chỉ có hai cái áo
quan, nên tụi tao phải đóng thêm Cùng thời gian đó, toán bị bắt bên kia sông
Hồng, về qua đây cũng bị dân đánh đập tơi
ba cái nữa. Thế mà tao cứ ngỡ là áo quan để bời, Thiếu Tá Hồ Văn Hòa gãy xương sườn,
dành cho ba đứa tụi mày… Thằng Bằng Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm sưng vù hai
chưa dứt lời đã có tiếng vệ binh quát tháo, má, Thiếu Tá Trần Tấn Hòa dập mũi.
– Anh kia! Đem cơm cho “phạm” xong là Riêng toán đi từ Trại 4 là bị “chiếu cố” kỹ
phải đi ngay. Lớ ngớ ở đây tôi cho một báng càng nhứt: Đại Úy Nguyễn Tấn Á bị đánh
súng bây giờ. bằng đòn gánh, xệ vai trái, Thiếu Tá Chu Trí
Lệ bị quật lọi cẳng chân, Thiếu Tá Nguyễn
Lúc đó vệt nắng nằm ngay giữa nền nhà, Hữu Đông bị đấm lòi mắt. Không những
đúng Ngọ! Anh bạn Thiếu Tá Vũ Văn Bằng thế, ba anh này còn bị nhốt trong chuồng
vừa báo cho tôi một tin vui. Như vậy là, ít trâu, bị dân quân nắm tóc, dúi mặt vào hố
nhứt tôi cũng còn sống thêm một, vài ngày phân trâu bò nhiều đợt, xém chết ngạt.
nữa!
Trong hai năm bị giam giữ ở đây, chúng
Nhưng vừa cảm thấy vui đó, lòng tôi lại tôi có nhiều dịp đi lao động “vần công” với
chùng xuống ngay. Bởi vì, suy nghĩ lại, thì các hợp tác xã nông nghiệp của dân địa
đó cũng là một tin rất buồn, vì tôi vừa mất phương. Qua những lần tiếp xúc ấy, người
năm đồng đội. Mai đây, ở một nơi xa xôi dân có lẽ đã nhận ra rằng, những sĩ quan
nào đó, trong Nam, sẽ có năm gia đình đau ViệtNam CộngHòa không phải là những kẻ
khổ vô cùng khi được báo tin này. “ác ôn” như họ từng nghe chế độ BắcViệt
Chuyện ra pháp trường của tôi đã không tuyên truyền. Dần dà, dân chúng nơi này đã
xảy ra. Hôm sau chúng tôi bị chuyển trại. Ba nhìn chúng tôi với đôi mắt khác xưa. Càng
người bị trói quặt hai tay ra đàng sau. Thêm ngày, dân trong vùng càng tỏ ra thân thiện
vào đó là một sợi thừng được buộc vào cánh với chúng tôi hơn.
tay phải của tôi, luồn qua lưng anh Trụ, tới
cánh tay trái của anh Cả. Đi hướng nào, Rời chợ CẩmNhân, vệ binh dẫn chúng tôi
chúng tôi cũng bị dính chùm. nhắm hướng Lũng Ngàn: thế là chúng tôi về
lại Trại 4!
Hai khẩu A.K kèm chúng tôi rời Trại 9 vào
giờ tù tập họp đi lao động. Những khuôn Tháng Tám năm 1976 tôi đã bị cùm ở
mặt hốc hác vì đói khát của đồng đội đang buồng giam Trại 4 hơn ba tháng trời. Rồi
hướng về phía chúng tôi. Có đôi bàn tay gầy cũng từ nơi này, đầu năm 1978, tôi lại xuất
guộc đưa lên má vội vàng quệt nước mắt. phát cuộc vượt ngục lần thứ hai.
Nay bị đưa trở lại nơi đây để chấp cung thì Tên Tưởng ló đầu bên cửa sổ đầu hồi, đôi
quả là điều đáng sợ đối với tôi. mắt chớp chớp, miệng cười cười,
Cũng như ở bên Trại 9, hai bạn tôi bị nhốt –Anh Long ơi! Mạnh khỏe chứ?
trên ban chỉ huy. Còn tôi bị cùm riêng trong
nhà kỷ luật nơi góc trái cổng trại, sát hàng –Thưa anh bộ đội, tôi vẫn khỏe.
rào, bên bờ suối.
–Người ta đồn, nửa đường, máy bay lên
Vừa đặt chân vào phòng giam, tôi đã nhìn thẳng của Mỹ đến đón, nhưng các anh thích
thấy một cái cùm mới cáo cạnh. Cái cùm đi bộ cho khỏe chân, nên mới bị bắt lại, có
chân này tinh vi và chắc chắn hơn cái cũ đúng không?
nhiều. –Tôi không biết chuyện này anh bộ đội ạ!
Trước đây, năm 1976, chân người bị cùm –Mình “nhớ” anh muốn chết! Anh có “nhớ”
có thể duỗi dài thoải mái, hai chân sát đất
trong buồng giam. mình không?
Lần này cùm làm bằng hai tấm ván ghép,
mỗi tấm được khoét hai nửa vòng tròn vừa Tôi lặng thinh.
cổ chân. Sau khi gác hai cổ chân tù nhân lên
hai hình bán nguyệt của tấm ván dưới, cai tù –Anh đi vắng mấy ngày? Anh nhỉ?
sẽ kéo sập tấm ván trên xuống và khóa chốt.
Thế là, tù nhân chỉ còn cách nằm ngửa, vắt –Tôi trốn sáu mươi bốn ngày.
hai chân lên cao 45 độ. Chân người bị phạt
sẽ lòi ra ngoài ô cửa sổ đầu hồi. Lính canh Tên bộ đội gỡ cái băng đạn A.K ra khỏi
không phải đi tới cửa buồng giam, mà chỉ súng, nhoài người qua cửa sổ,
cần bước qua cổng chính là đã nhìn thấy đôi
chân người có tội rồi. – Sáu mươi tư ngày! Kỷ lục đấy!
Sau này tôi mới biết, cái cùm đó được Hắn dơ cao cái băng chứa đầy đạn A.K gõ
hoàn thành chỉ vài ngày trước khi chúng tôi xuống hai chân đang bị cùm của tôi, rồi lớn
bị giải về đây. Người vẽ kiểu cùm là viên tiếng dõng dạc đếm,
Thượng Úy ViệtCộng tên Xuyên, Chính Trị – Một!…Hai! …Ba!… Bốn!…
Viên của Trại 4. Người tù thợ mộc được
giao nhiệm vụ đóng cái cùm lại là một cựu Sống của cái băng đạn giáng trên xương ống
Hải Quân Thiếu Tá VNCH, bạn cùng lớp quyển làm cho tôi thót tim. Tôi la lên,
Trần Quí Cáp của tôi. “Ối!… Ối!…Ối! …”
Thấy tôi đau líu lưỡi, Tưởng cười khoái trá.
Còng tay là một cặp khoen sắt rèn số 8 vừa Nó cười bằng miệng, và cười cả bằng đôi
sát với cổ tay. Khóa của nó là loại khóa cửa, mắt,
lớn bằng bàn tay, nặng chừng một ký lô. Cái
khóa này đè trên ngực làm cho tù nhân khó – Anh Long đi vắng sáu mươi tư ngày. Tôi
thở vô cùng. khổ vì anh sáu mươi tư ngày. Tôi sẽ gõ chân
anh sáu mươi tư lần để anh nhớ! Mười hai!
Ngay buổi chiều đầu tiên, tôi đã bị tên vệ Mười ba! Mười…
binh Lê Văn Tưởng tới “hỏi thăm sức khỏe”. Tôi đau đến chảy nước mắt, đau nhảy nhổm,
đau quằn quại, giẫy đành đạch.
Vệ binh Lê Văn Tưởng và vệ binh Hồ
Ngọc Thắng, biệt danh “Thắng Bo” là hai Vệ binh Lê Văn Tưởng vẫn tỉnh bơ, mặt
hung thần của Trại 4. Thấy bóng dáng hai không đổi sắc, tay nó dơ lên, giáng xuống,
tên này từ đàng xa, anh em bạn tù đã run rồi. đều đều… Ống chân tôi sưng lên, rồi tóe
máu. Mắt tôi bắt đầu hoa, tai tôi ù như sắp
điếc đặc.
Đau quá, tôi điên tiết, ngồi bật dậy. Tôi dơ
hai tay có cái còng lên cao, nện một phát
thẳng cánh, trúng cổ tay thằng mất dạy.
Bất ngờ bị một cú đau điếng, nó buông rơi —–o—–
băng đạn. Mặt nó đổi sắc thành màu tím. Nó
nghiến răng, rít lên, Đêm tháng Năm, muỗi vo ve…
– Tiên sư cha nhà mày! Ông cho mày biết Ngoài rào có tiếng chân người lội lõm bõm
tay. Từ nay mày chỉ còn nước bò thôi, hết đi dưới nước; chắc đó là ông già Khê người
được nữa rồi! Con ơi!… dân tộc Tày? Đêm nào già Khê cũng đi cắm
Nó cúi xuống rút con dao găm đeo trên dây cần câu cá dọc theo con suối.
lưng. Một tay nó cầm bàn chân phải của tôi, Nhà của già Khê nằm sát rào Trại 4. Trước
tay kia dí mũi dao vào nhượng chân. Chỉ khi trốn trại, mỗi lần tôi đi ngang qua rào,
một giây đồng hồ nữa là gân nhượng chân ông cụ tốt bụng này thường dúi cho tôi một
tôi bị cắt! Tôi sẽ thành phế nhân! gói ớt hiểm, kèm với lời dặn dò,
– Ngừng tay ngay! “Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, nhớ mỗi
ngày làm một quả ớt hiểm để chống sốt rét,
Tiếng quát của ai đó làm cho tên khát máu ngã nước!”
chùn tay, mũi nhọn của con dao găm vừa
chạm lớp da khuỷu chân tôi thì ngừng lại. Có ánh đèn pin loang loáng, rồi tôi nghe già
Người vừa quát là cán bộ Vấn. Khê lớn tiếng hỏi người nào đó,
–Đồng chí có nhiệm vụ gì ở đây? Sao lại –Làm gì mà ngồi đây thế? Thấy hết hồn…
định cắt gân chân người ta? tưởng ma! Người kia trả lời,
–Suỵt! … Suỵt!… Cháu… ngồi …chơi…
–Thủ trưởng ơi! Thằng này hỗn láo quá! Nó Tiếng người này nhỏ nhí, nhưng tôi vẫn
chửi tôi. Tôi phải dạy nó một bài học. Cán nghe được đó là tiếng vệ binh Đèo Văn
bộ Vấn nghiêm giọng, Thắng. Trại 4 có hai vệ binh tên là Thắng.
–Chuyện gì cũng phải báo cáo với cấp trên. Đèo Văn Thắng người CaoBằng, hiền như
Đồng chí không được tự tiện. bụt nên chúng tôi gọi là “Thắng Phật”. Tính
nết “Thắng Phật” trái ngược hẳn với “Thắng
Hung thần họ Lê đi vòng sang cửa chính, Bo” Hồ Ngọc Thắng người BắcThái rất độc
khom mình lượm cái băng đạn. Nó lườm ác dữ dằn. Gặp điều không vừa ý, “Thắng
lườm nhìn tôi với đôi mắt căm hờn, Bo” đánh tù không nương tay. Chữ “Bo” là
– Tiên sư cha mày! Số mày còn may lắm từ chữ “Porteur” tiếng Pháp, có nghĩa là
đấy! Tôi cũng nghiến răng, trợn mắt, nhìn “phu khuân vác”. Biệt danh của hai vệ binh
ngay mặt nó, tên Thắng đều do anh em tù Trại 4 đặt ra, và
–Tổ mẹ mày! Đồ con chó! Cán bộ Vấn ra truyền miệng với nhau.
lệnh,
Già Khê lại lớn tiếng thắc mắc,
–Đồng chí Tưởng ra khỏi đây ngay! Từ
nay, nếu không phải phiên trực, tôi cấm –Ngồi chơi mà chong súng như canh kẻ
đồng chí léo hánh tới đây. trộm? Có báo động hử?
Chờ cho tên Tưởng qua khỏi cổng, cán bộ –Không…không…cháu ngồi chơi mà…
Vấn mới bước tới sát cửa phòng giam, nhỏ
giọng nói với tôi, –Ừ! thôi nhá! Có rảnh vào nhà rít điếu thuốc
–Chuyện đâu còn có đó. Anh Long yên chí lào rồi hãy về…
nằm nghỉ đi, đừng lo nghĩ gì cả.
–Vâng…vâng…
Viên Trung Úy CộngSản tên Bùi Văn Vấn
này là dân HảiDương. Anh ta làm quản giáo
ở đây từ ngày mới lập trại.
Sau đó tôi nghe mấy tiếng “Thịch! Thịch! Bị hai cái báng súng đánh vào vai, đau lắm,
Thịch!…” trên nền đất, có lẽ già Khê đang nhưng vẫn không nao núng, tôi cứ ngồi ôm
dậm dậm gót chân vài cái cho ráo nước? chặt cây cột cửa không chịu buông.
Rồi tiếng chân bước xa dần, đêm trở lại với Sau cùng, thằng vệ binh đành quàng khẩu
mớ âm thanh hỗn độn của ếch nhái, côn súng ngang vai để hai tay nó được tự do nắm
trùng… Tôi đang thiu thiu sắp ngủ thì có cổ áo tôi, lôi ra cửa. Biết mình không đủ sức
bóng người bước vào. Người đó vỗ nhè nhẹ vật nhau để cướp súng, tôi đành ôm cánh tay
kẻ thù, nhe răng cắn tới tấp. Đau quá, nó
bên hông tôi, đành buông tôi ra. Tay xoa chỗ bị cắn,
– Dậy! Dậy mau! Ban chỉ huy trại thấy anh miệng nó chửi,
tiến bộ nên xét tha cho anh về lán đấy! –Đồ chó cắn càn! Tôi la lên,
–Anh muốn bắn tôi phải không? Bắn thì
Tên vệ binh cúi xuống lấy chìa khóa mở bắn bây giờ đi! Tôi không ngu mà bước ra
còng tay cho tôi, rồi y đi vòng ra ngoài đầu cổng cho anh bắn đâu! Tôi biết tỏng…
hồi tháo chốt cái cùm chân. tòng… tong… âm mưu của anh rồi!
Bất ngờ nghe lệnh được tha về đội lao động, Hình như câu nói đó làm cho tên vệ binh
tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Tôi chưa chạm nọc, nó ấp úng,
đứng vững, tên bộ đội đã thúc giục,
–Đi mau! Anh lên “khung” gặp trực trại, ký –Ấy! Ấy! Tôi không bắn anh đâu! Mà sao
giấy tha rồi về lán cho sớm! Tôi thấy ngoài anh biết? Ơ …ơ …ơ…
trời tối đen như mực, nên chùn bước,
–Tối thế này làm sao thấy đường mà đi? Bộ dạng bối rối của thằng cai tù kèm với
Mọi đêm, các anh dẫn tôi đi đâu cũng có cái câu “Mà sao anh biết?…” khiến tôi suy ra
đèn bão mà? ngay, “Đúng rồi! Tụi nó gài cho mình không
đèn đóm đi ra cổng để giết mình! Mấy thằng
–Hôm nay chỉ lên ký cái giấy thôi, cần gì bộ đội chong súng ngoài kia đang ngồi phục
đèn với đóm? kích chờ bắn mình chứ đâu phải ngồi chơi?”
Thấy chết đến nơi, tôi đánh nước liều, chõ
Linh tính báo cho tôi biết, hình như có điều mồm về hướng các lán tù, tôi gào lên,
gì không ổn, nên tôi vội ngồi bệt xuống bực
cửa, –Anh em ơi! Người ta giết tôi! Anh em ơi!
Chúng nó bắt tôi đi ra khỏi rào để bắn tôi!
–Tôi không đi đâu! Muốn tôi đi, phải có Anh em ơi! Cứu tôi với!
đèn, đi không đèn thì vệ binh gác trên chòi Ngay từ lúc đôi bên giằng co, đã có vài
sẽ bắn tôi chết! người tù ở Lán 1 và Lán 5 ló đầu ra theo dõi.
Nghe tiếng tôi kêu cứu, họ cũng hét ầm lên,
Tên bộ đội thấy tôi ngồi ì ra trước thềm, –Không được giết người! Không được giết
bèn rút túi, lấy ra một khúc nến. Y bật quẹt người!
đốt nến lên, trao cho tôi,
–Đây! Đèn đây, anh cầm lấy rồi đứng lên đi –Chúng nó giết tù! Anh em ơi! Chúng nó
đi! giết tù! Anh em ơi!
Tôi ù lì, Tiếng la lớn nhứt tôi nghe được, rõ ràng là
tiếng của Đại Úy Phạm Xuân Độ. Gặp cảnh
– Nếu anh đưa cái đèn bão, tôi sẽ cầm đi bất ngờ, tên bộ đội đứng ngẩn người, không
ngay. Cây nến này ra gió là tắt liền, tôi biết xử trí ra sao.
không đi đâu! Tức quá, nó quát ầm lên, Bỗng có ba tiếng súng chỉ thiên phát ra từ
chòi gác ngoài cổng trại. Rồi một tốp bộ đội
– A! Cứng đầu hả? Anh không đi, tôi điệu
anh đi! “Huỵch! Huỵch!”
ôm A.K chạy túa vào sân. Tên trưởng toán “Ộc!…Ộc! Phè!…Phè!…” Máu từ ngực tôi
vệ binh thét lớn, vọt qua hai hàm răng, văng tung tóe trên đùi
– Tù làm loạn hả? Vào lán! Đóng cửa lại! và trên nền ván gỗ.
Đứa nào lớ ngớ ngoài hiên chúng ông bắn Tôi ói máu liên tục. Lúc này, trước mắt tôi
bỏ mẹ! Nghe chưa? chỉ còn những đốm sao chớp chớp, lập lòe.
Có tiếng lên đạn, “Cà róch!… Cà rách!…” Rồi tất cả tối sầm lại, đen đặc. Tôi gục đầu
hôn mê trên chiếc còng tay…
Tôi bị tống năm, sáu báng súng vào ngực, “Lai tỉnh đi Long! Long ơi!… Lai tỉnh đi
vào lưng, rồi bị đẩy vào nhà kỷ luật trở lại. Long!…”
Hai phút sau, còng, cùm khóa xong. Vệ binh
tản mát dần. Cảnh vật lại yên tĩnh như Tôi mở mắt ra, thấy mình đang nằm thoải
không có gì xảy ra. Trại tù đèn tắt tối thui, mái trên nền đất nhầy nhụa, hôi tanh, tay
nhưng tôi yên tâm nhắm mắt ngủ, vì tôi tin không còng, chân không cùm. Ông thầy
tưởng rằng qua khe vách liếp của các lán tù, thuốc Nam của trại một tay bóp miệng cho
thế nào cũng có vài đôi mắt đang theo dõi sự tôi thở, tay kia không ngừng giựt giựt mớ
an nguy của tôi. tóc mai bên thái dương tôi.
Cán bộ Nghiễm trực trại, đang đứng trước
Sáng hôm sau, trước khi nghe tiếng kẻng cửa theo dõi. Thấy tôi mở mắt tỉnh lại, y
xuất trại lao động, có bốn, năm người bị gọi buột miệng,
lên trình diện cán bộ an ninh của trại, trong
số này có anh Phạm Xuân Độ. Đại Úy Biệt – Tưởng đi luôn rồi chứ!
Động Quân Phạm Xuân Độ là một người
đàn em trong đơn vị tôi. Tôi và Độ thân Sau đó y ra lệnh cho tên lính gác,
nhau như anh em ruột.
Khi đi ngang qua nhà giam, Độ lớn tiếng, – Dẫn nó ra suối!
cốt cho tôi nghe, “Thái Sơn ơi! Đàn em
không bỏ đại ca đâu! Đại ca ơi!” Thế rồi, sau nhiều ngày ủ mình trong bộ
Tôi ngồi nhìn theo bóng chú Độ, lòng bồn quần áo kaki đầy máu me, cứt đái hôi thối,
chồn, thấp thỏm không yên. tôi được đi tắm. Sức yếu, hai chân lại đau,
tôi đi không nổi, đành phải bò. Tới cổng, tôi
Chừng một tiếng đồng hồ sau, nhóm tù níu vào hàng rào đứng lên, cố gắng lần mò
dính líu tới vụ lộn xộn đêm qua được thả về. từng bước. Có hai anh bạn đánh liều chạy
Ngang qua chỗ tôi ngồi, Độ lại phát thanh tới đỡ, dìu tôi đi. Thấy thế, vệ binh cũng làm
bổng, ngơ.
“Thái Sơn ơi! Chỉ có một tờ kiểm điểm,
không nhằm nhò gì.” Nghe vậy, tôi mới thấy Trong lúc tôi đi vắng, một anh bạn tù bị bắt
lòng nhẹ nhõm, hết lo âu. làm công tác vệ sinh nhà giam với một
Mấy cái báng súng đêm trước đã khơi động thúng tro. Tới suối, tôi tụt hết quần áo, lết
những chấn thương cũ trong thân thể tôi. Tôi nhanh xuống dòng nước mát. Hai tên lính
chợt thấy ngực mình đau nhói một cách kỳ canh đã ghìm súng ngồi sẵn trên bờ. Cán bộ
lạ. Nghiễm ra điều kiện,
“Bục!…Bục!…Ục!…Ục!…” – Anh Long có mười phút tắm gội. Cấm
không được lặn!
Ruột gan tôi như đang lộn lạo, sôi sùng Tôi bỏ ngoài tai lời đe dọa, cứ gục đầu
sục. Có một vật gì tròn tròn, mềm mềm như xuống uống đầy một bụng nước, rồi lặn
cái bong bóng đang tìm đường chui qua cổ ngụp, vò đầu vò tai. Những con cá lòng tong
họng tôi để thoát ra ngoài. bu vào gặm nhấm lớp da phủ vảy máu mủ
chưa khô trên ống quyển. Lúc đầu, răng cá
làm cho những vết thương chân của tôi thật Oái oăm làm sao! Cục đường trong miệng
là đã ngứa. Sau đó máu tươm ra, tôi bắt đầu lại nằm kẹt ngay chỗ cái răng đã bị tên Lời
cảm thấy xót, thấy đau. đập gãy, tôi đau điếng người! Cả hàm răng
Buổi chiều, trực trại sai hai bạn tù kè nách tê tái, cứng đờ, cục đường nằm trong họng
đưa tôi lên phòng làm việc. Tôi phải viết hai mãi không chịu tan.
tờ tự kiểm, phải thành tâm hối hận về hành
động trốn trại vừa qua để xin ban chỉ huy Hai ông bạn tù vừa ném đồ ăn cho tôi, một
trại khoan hồng. Tôi nại cớ hai tay bị cùm, ông là Hải Quân Thiếu Tá Trần Văn Căn,
bị đánh, đã tê dại, không cầm bút được. Thế bạn cùng lớp Trần Quí Cáp, người thứ nhì là
là một anh bạn gốc Không Quân đang ngồi Đại Úy Vương Thành Lân Khóa 19 VõBị.
tỉa bắp trên kho bị điệu vào ghi chép tờ tự Lâu ngày mới thấy chất ngọt, nước dãi trong
khai cho tôi. Tôi nói anh bạn muốn viết gì mồm tôi tiết ra ào ào, nuốt không kịp.
thì viết, rồi tôi nhắm mắt ký bừa, không cần
đọc lại. Lúc nộp hai tờ tự kiểm cho cán bộ, Tới trưa hôm đó mới khổ! Tôi chưa kịp cởi
hình như anh ta đã ghi lộn họ Vương của tôi quần đã bị “Tào Tháo” đuổi, bắt tại chỗ! Tay
thành họ… Nguyễn thì phải? còng, chân cùm, tôi đành nằm chịu trận.
Chờ mãi, tôi mới thấy bóng dáng ông thầy
Trong thời gian chờ cán bộ của Nha Quân- thuốc Nam trước cửa nhà bếp. Tôi lên tiếng
Pháp Bộ QuốcPhòng CộngSản từ HàNội về gọi, rồi mắc cỡ, nói với ông ta rằng vì bị
chấp cung, tôi không được đi ra ngoài. Mọi trúng gió, tôi đã “bĩnh” ra quần.
sinh hoạt tiêu, tiểu đều ở ngay chỗ nằm. Ông lang sốt sắng chạy vội lên gặp cán bộ
Hằng ngày, ông thầy thuốc Nam của trại có trực trại. Tôi được “chiếu cố” cho ra suối
nhiệm vụ đi vứt cứt đái cho tôi. Biết tôi bị tắm rửa lần nữa.
nội thương, ông ta lén dấu cho tôi vài viên
xuyên tâm liên. Ông thầy thuốc này cũng là Hai ngày sau, vào lúc xế chiều, cán bộ Vấn
tù cải tạo. Tù mắc bịnh gì ông ta cũng cho xuất hiện. Đứng chân trong, chân ngoài
uống xuyên tâm liên! Từ thời ông ta đảm ngạch cửa, anh ta dặn dò,
nhận công tác y tế của trại, tôi chưa thấy ai – Ngày mai có người từ trên Bộ xuống
chết vì xuyên tâm liên cả. chấp cung. Tính mạng của anh coi như an
toàn rồi đấy! Tôi cũng mừng cho anh. Có
Ngày Chủ Nhật, trại được nghỉ lao động. điều là cần kín miệng.
Hai cổng trước sau đều bị khóa. Tên lính Nói vừa xong câu, anh ta vội vàng xoay
gác trên chòi cao ngồi ngủ gà ngủ gật. Các lưng, bước đi.
bạn tù túa ra sân, người thì tay chân bận bịu
với ca cóng trong việc nấu nướng, kẻ tụ họp —o—
đánh cờ, vài anh khác mải mê tập thể dục,
dưỡng sinh. Có bóng người lạng qua cửa Chín giờ sáng ngày hôm sau, tôi ngồi đối
mặt với một thượng úy của Nha QuânPháp
nhà cùm. Cộng Sản. Công tác chấp cung xảy ra đúng
“Vèo!…Vèo!…Độp!…Độp!…” vài cục ba ngày.
đường thẻ và mấy củ khoai lang luộc được Ngày thứ nhứt…
quăng vào nhà kỷ luật.
Hai củ khoai bay tuốt vào góc phòng, ngoài Tay nhấn cái nút “Play” màu trắng, đồng
tầm tay với. Còn hai cục đường vì nhẹ, nên thời với cái nút “Record” màu đỏ của chiếc
rơi nơi bục cửa, tôi chụp lẹ, rồi đưa ngay cassette để trên bàn, tên cán bộ bắt đầu cuộc
vào mồm. thẩm vấn,
– Trong thời gian ở Trại 4 này, cán bộ và vệ binh mới tập họp xong. Chỉ cần năm phút
chiến sĩ của trại có làm điều gì trái với chính phù du ấy là ta đã lên tới Lũng Ngàn rồi!”
sách của Tiếng gõ nhịp bút chì chợt ngừng thình
lình. Tôi liếc mắt thấy vẻ mặt hơi thất sắc
đảng và nhà nước khiến cho anh và các trại của tên cán bộ. Hình như hắn ta đã thấy mắt
viên khác bất mãn không? Tôi thoáng nghĩ, tôi đang dán vào cái giá súng?
“Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, mình có Y vụt xô ghế, đứng dậy,
nói ra những hà khắc, bất nhân của cán binh
trại này, chưa chắc hắn ta đã làm được điều – Thôi anh về nghỉ, ngày mai ta làm việc
gì thay đổi. Mà không chừng, tố cáo những tiếp.
gì mình chứng kiến, có khi còn mang vạ vào
thân…” Tôi chột dạ, nhưng cũng không tỏ vẻ bối
Hai bàn tay xếp trên đùi, tôi tránh đôi mắt rối. Phải chống hai tay lên ghế lấy đà, tôi
người đối diện, mới từ từ đứng lên được. Lúc này tôi chợt
sực tỉnh: sức tôi yếu quá! Tôi đứng còn khó
–Thưa cán bộ, tôi thấy rằng ở trại nào thì khăn, nói chi tới chuyện chạy, nhảy, leo
chế độ cũng như nhau. Tôi không có điều gì
để khiếu nại cả. trèo?
Ngày thứ nhì…
–Vậy thì, nguyên nhân nào đã khiến anh
vượt trại? Bước vào phòng trực, tôi không còn thấy
cái giá súng A.K trong góc nhà nữa. Bên
–Tôi trốn trại là để đi tìm tự do. ngoài cửa sổ thấp thoáng bóng vệ binh ôm
súng, rảo bước đi qua, đi lại.
–Sao lại phải đi tìm? Bao giờ học tập xong, Chờ cho tôi ngồi xuống ghế, viên sĩ quan
anh sẽ được trả tự do thôi! quân pháp chỉ tay vào một cái bịch giấy dày
cộm trên bàn,
Ngẩng đầu lên, thấy vẻ mặt người sĩ quan
CộngSản không có nét gì là giận dữ, tôi – Tôi đã có toàn bộ hồ sơ quân bạ của anh
đánh bạo, Long ở đây. Đầy đủ hết! Từ bản tướng mạo
công vụ, cho tới từng cái giấy phạt, giấy
–Thưa cán bộ. Cán bộ có thể cho tôi biết, khen, huy chương, khai sinh, giá thú …
đến bao giờ thì khóa học của tôi mới chấm không thiếu bất cứ thứ gì. Nếu không tin,
dứt? Thừ người ra một phút, viên thượng úy anh có thể tự tay kiểm tra lại, xem tôi nói có
nhịp nhịp cái bút chì trên mặt bàn, đúng không?
–Cái ấy cũng tùy, một năm, vài ba năm, tùy Rồi y rút ra đưa cho tôi mấy tờ huy chương
nơi các anh… và bản tướng mạo công vụ của tôi. Thoáng
nhìn thôi, tôi đã biết đó là thứ thật.
Lúc đó mắt tôi chợt nhìn thấy trong góc Thấy tôi có vẻ không hứng thú với việc đọc
phòng một cái giá súng, trên đó dựng bốn mớ giấy tờ kia, hắn từ tốn cất chúng vào bao
khẩu A.K của vệ binh. Một ý nghĩ thoáng trở lại, rồi gật gù,
qua, – Hôm nay chương trình sẽ là nghe vài cuộn
“Hai giây đồng hồ để nhảy từ đây tới cái băng.
giá súng. Một giây chụp khẩu A.K. Một giây
kéo cơ bẩm. Hai giây vượt qua cửa sổ. Một Cuộn băng thứ nhứt dài nửa giờ ghi lại
phút sau có mặt trong vườn sắn. Lính canh phiên tòa ngoài trời, cách đây không lâu, xử
trên chòi gác không thể quan sát được phía một anh tù cải tạo tên Phê (?) trốn trại ở đâu
sau vườn sắn. Phải tốn ít nhất là năm phút, dưới VĩnhPhú hay ThanhHóa gì đó. Tiếng
loa vang vang lời kết tội phát ra từ miệng tài liệu và hồ sơ để xác định tội trạng của
một “cải tạo viên”, có lẽ là trật tự hay thi anh rồi. Tuy nhiên, tôi cũng mạnh miệng
đua, bảo đảm rằng, tội của anh chưa đến mức bị
xử tử hình. Tin tôi đi!
“Tên ngụy quân này đã ngoan cố vượt trại, Sau khi được uống một bát nước lạnh, tôi
không chịu học tập! Đề nghị xử tử!” Hàng tiếp tục ngồi nghe cuộn băng thứ nhì, cuộn
chục người khác nhao nhao tán đồng, băng ghi lời phát biểu của hai vị đại tá bị
“Đồng ý! “…”Nhất trí!”…”Đồng Cộng Quân bắt tại mặt trận BanMêThuột.
ý!”…”Nhất trí!”… Một người nữa phát Cuộn băng chót là một buổi học tập, phê
biểu, bình, kiểm thảo của một nhóm sĩ quan cấp
“Thằng này đã cướp súng bắn lại cán bộ! tướng và đại tá.
Phải xử tử nó ngay!” Đám đông lại thét gào,
“Xử tử!”…”Xử tử!”…”Xử tử!”… Một ý Qua hai cuộn ghi âm vừa rồi, tôi nhận ra
kiến khác, giọng nói của những vị tôi đã từng dưới
“Chúng tôi không an tâm học tập khi tên ác quyền, đã từng thân thiết. Vẫn giọng nói
ôn này còn sống và tiếp tục quấy rối chúng xưa, nhưng những lời tôi nghe được lại như
tôi…” Khán giả dường như đã say máu, từ miệng ai đó, tôi chưa từng gặp, chưa từng
“Xử tử nó đi!”…”Xử tử nó ngay!”…”Xử tử tiếp xúc bao giờ!
nó!”…”Xử tử!”… Trong cơn bão tố cuồng điên, con thuyền
quốc gia của dân tộc tôi chìm nhanh quá!
Đa nghi cách mấy tôi cũng không thể nói Giữa biển khơi không thấy bến bờ, những
cuộn băng này là giả tạo được! Rõ mồn một, người sắp chết đuối thấy vật gì bồng bềnh
đấy là tiếng nói, tiếng la, tiếng hét của đồng trước mắt, cứ ngỡ
đội tôi. Tôi không thể nghe lầm: Đồng đội
của tôi đang tranh nhau đòi giết bạn mình! rằng đấy là một cái phao, đâu ngờ đó chỉ là
Là một tù nhân sắp ra tòa lãnh án, tôi đám bọt nước mà thôi!
không mảy may sợ hãi cái chết, nhưng
những tiếng la hét của những người đồng Thực tình, từ ngày mất nước, tôi chưa bao
ngũ lại làm cho tôi đau đớn vô cùng. giờ có ý oán trách bất cứ ai, kể cả các cấp
Cuộn cassette dài có nửa giờ, vậy mà tôi chỉ huy và bạn đồng ngũ của tôi. Tôi chỉ
cảm như mình đang trải qua một cuộc tra tấn thấy xót thương cho bạn bè mình, và buồn
dài vô tận. Ngón đòn cân não đã có hiệu cho số phận của chính mình.
quả! Lòng đau như cắt, hai lá nhĩ lùng bùng,
đầu tôi choáng váng như muốn nổ tung vì Người cán bộ xếp dọn đồ nghề, rồi nói câu
những tiếng thét đầy man rợ, chấm dứt buổi thẩm cung,
“Xử tử!”…”Xử tử!”…”Xử tử!”…”Xử
tử!”… – Thôi! Mai ta tiếp tục anh Long nhé!
Cuộn băng ghi âm chấm dứt không có đoạn Tôi khập khiễng trên đoạn đường từ ban
kết của phiên tòa. Viên thượng úy xoi mói chỉ huy trại về buồng giam, sau lưng là một
nhìn vào mặt tôi, như tìm đọc phản ứng của họng A. K.
tôi, rồi y bồi theo một câu, như phát đạn ân
huệ, Ngày chấp cung thứ ba…
–Anh Phê bị xử bắn rồi đấy anh Long ạ!
Thấy tôi ngồi lặng thinh, hắn ta nói nhỏ, Viên thượng úy xoa xoa hai bàn tay vào
–Tôi không cần hỏi thêm anh về lai lịch
hay thành tích nữa làm gì. Chúng tôi có đủ nhau,
–Hôm nay chủ đề trao đổi giữa chúng ta sẽ
là: “QuốcGia và CộngSản.” Tôi sẽ không
đánh đập anh đâu. Đừng e ngại, sợ sệt, cứ –Độc lập giả tạo! Thực chất NgụyQuyền
việc phát biểu một cách công tâm. Tôi cho Miền Nam chỉ là tay sai của đế quốc Mỹ.
phép, và khuyến khích anh nói thật lòng
mình, về những gì anh cho là sai, là đúng –ViệtNam CộngHòa là một quốc gia đồng
của hai chế độ. Mục đích chuyến công tác đẳng với các nước khác trên thế giới. Miền
của tôi lần này chỉ có thế! Nam có chính phủ riêng, hiến pháp luật lệ
Tôi ngồi ngẩn mặt ra. Thật là ngoài mức riêng. Tổng Thống và Quốc Hội nước Việt-
tưởng tượng! Tôi đã một lần nếm mùi cái Nam CộngHòa là do dân bầu lên, có nhiệm
“kinh nghiệm thương đau” của kẻ bị tra kỳ hiến định hẳn hoi, sao lại gọi là tay sai
khảo vì tội trốn trại rồi, nên tôi biết, trong được?
thời gian chấp cung, tù vượt ngục nào cũng Tôi ngừng lại, chờ xem ý kiến của người đối
bị đánh cho tới bò lê, bò càng, cả tháng sau, diện ra sao thì thấy y đã tắt máy. Ngồi im
thân mình còn ê ẩm. một lát như để tĩnh tâm, rồi thật chậm rãi,
Tôi nghĩ lần này cũng lại bị đánh, bị buộc hắn ta ôn tồn trở lại,
tội trối chết, rồi phải tỏ ra ăn năn, hối lỗi
những việc mình đã làm, sau cùng là ký bản –Tôi sẽ không đấu lý với anh nữa. Vì nếu
cam kết, hứa hẹn sẽ không còn tái phạm cãi nhau thì anh sẽ ở vào thế yếu, còn tôi ở
nữa…vân vân. thế mạnh, không được công bằng. Từ bây
Ấn nút cho máy ghi âm chạy, thẩm vấn viên giờ tôi chỉ đặt câu hỏi. Anh được tự do trả
hất hàm, lời theo ý anh! Như vậy có được không?
Thấy tôi gục gục đầu, hắn nhấn nút cho máy
–Theo anh, cuộc chiến tranh vừa qua chính quay, rồi tiếp tục,
nghĩa thuộc về phe QuốcGia hay CộngSản?
–Anh nói rằng Miền Nam là tự do, vậy hãy
Tôi đáp liều, diễn tả cái tự do đó thể hiện ra sao ngay
trong cuộc đời của chính anh.
–Mỗi bên tham chiến có lý lẽ riêng để bênh –Tôi lớn lên trong một chế độ mà trong đó,
vực cho chủ trương của phía mình. Người chúng tôi muốn nói gì thì nói, nghe gì thì
Cộng Sản có lý của họ, còn chúng tôi, có lý nghe, đọc gì thì đọc. Không bị ai nhồi nhét
của chúng tôi. tư tưởng này, tư tưởng kia vào đầu. Ngay
Người hỏi cung lắc đầu, nghiêm giọng, như tôi là một thiếu tá, mà suốt mười hai
năm quân ngũ tôi chưa bị bắt buộc phải vào
–Anh hãy nói thẳng ra ý kiến của cá nhân dự một buổi học tập chính trị nào cả. Những
anh. Phải là “ý kiến tôi thế này, ý kiến tôi hiểu biết về CộngSản, hay TựDo là do cái
thế kia!” Không được nói quanh quanh, nói vốn kiến thức thu thập từ thực tế và tự tìm
chung chung kiểu…”chúng tôi thế này, hiểu qua báo chí, sách vở. Không ai ép buộc
chúng tôi thế kia…” Tôi nuốt nước bọt rồi tôi phải tôn thờ chủ nghĩa này, đả phá chủ
trả lời thẳng thừng, nghĩa kia.
–Tôi chiến đấu có chính nghĩa vì tôi là
người tự vệ, Miền Bắc là kẻ xâm lược. –Nếu nói rằng Miền Nam tôn trọng tự do
tín ngưỡng, thì tại sao lại có những cuộc
Hắn ta vội át giọng tôi, biểu tình, xuống đường của Cha, Cố, Giáo
Dân cũng như của Tăng Ni, Phật Tử?
–Anh nói sai rồi! Chúng tôi mới có chính –Chính vì có tự do nên mới xảy ra những
nghĩa vì chúng tôi chiến đấu để giải phóng chuyện xuống đường, phản kháng, nếu
Miền Nam thoát ách cai trị của ngoại bang. không có tự do thì toàn dân sẽ câm như hến.
–Không có ngoại bang nào cai trị Miền Nam
cả. ViệtNam CộngHòa là một nước độc lập.
Y hét lên,
–Anh có là một thành viên của đảng Dân- cho óc người bị thẩm vấn rối tung lên,
Chủ không? Nếu một người lính mà không không biết đâu mà chống đỡ.
là đảng viên đảng DânChủ thì có bị thiệt
Với những câu hỏi ngoắt ngoéo, viên
thòi gì không? thượng úy CộngSản đã cố gắng moi móc
–Thú thật tôi không để ý đến vụ đảng phái. những gì tôi cất dấu trong đầu về cuộc đời
Tôi không gia nhập đảng nào. Tôi cũng chưa tôi, từ thuở mới di cư, đến khi ngập ngũ, rồi
thấy đảng nào công khai gây ảnh hưởng tới ngày rã ngũ.
trong đơn vị tôi bao giờ.
–Trong thời gian qua, anh đã có dịp tiếp Trong thời chiến, tôi đã qua lớp TìnhBáo
xúc với dân chúng Miền Bắc, anh có nhận TácChiến Singapore, rồi nhiều năm, đảm
xét gì về nếp sống của dân chúng Miền Bắc nhận chức Trưởng Phòng Quân Báo của Bộ
ChỉHuy Biệt Động Quân, QuânKhu 2, Việt-
không? Nam CộngHòa. Tôi đã thẩm vấn rất nhiều tù
Thấy có dịp giải tỏa ấm ức, tôi hứng chí nói binh, và đã hoàn tất nhiều bản cung từ.
một mạch, Do đó, tôi đủ bản lãnh để luồn lách, tránh
né những bí mật liên quan tới sinh mạng
–Miền Bắc và Miền Nam khác hẳn nhau. Ở những người đã cộng tác với tôi thời trước,
trong Nam, người dân có thể sống theo ý như tên tuổi các mật báo viên trong mạng
mình muốn. Còn Miền Bắc là một xã hội có lưới mật báo của Phòng 2 Biệt Động Quân
quy củ, có khuôn phép. Từ vấn đề cơm, áo,
gạo, tiền, nhà cửa, ruộng vườn, cái gì cũng QuânKhu 2, danh sách các cán binh chiêu
có tiêu chuẩn cả. Cái gì cũng tem phiếu, sổ hồi đã hướng dẫn các chuyến xâm nhập vào
sách. Hàng còn nằm trong kho quốc doanh lòng địch của tôi trong thời gian 1972 1973.
có một giá, tới lúc tuồn ra ngoài, nó thành Chỉ sau vài câu hỏi trùng lặp, tôi đã nghiệm
giá khác, đắt gấp chục lần. Lao động xã hội ra ngay chủ đề của cuộc “thi vấn đáp”
chủ nghĩa thì người này dựa vào người kia. trường chinh hôm ấy là nhằm khai thác tin
Làm việc hợp đồng, vần công chỉ là chuyện tức liên quan tới “Vai trò của ChínhTrị và
lãng phí nhân lực. Tôi đã thấy có một mảnh TônGiáo trong QuânĐội ViệtNam Cộng-
ruộng cỡ nửa sào, mà ào xuống mười người, Hòa” Về cả hai lãnh vực trên đây, quả tình,
với mười con trâu, và mười cái cày. Họ làm tôi chỉ là một tay ấm ớ, nên người tra hỏi
việc chừng một giờ đồng hồ, mà chấm công chẳng biết được gì.
là một ngày. Thời giờ còn lại, mạnh ai nấy Cứ thế, trừ đi cỡ sáu, bảy phút cho hai lần
đi canh tác riêng để cải thiện. Lý thuyết là đi tiểu, và khoảng mười phút cho bữa ăn
không có quyền tư hữu, tất cả là tài sản trưa với một củ khoai lang luộc, tôi phải trả
chung, nhưng trên thực tế, ai cũng lo mưu lời hàng trăm câu hỏi trong thời gian dài từ
cầu lợi ích riêng, vì ai cũng thiếu thốn cả. sáng sớm tới xế chiều. Tôi không nhớ có
Có lẽ vì thế mà mấy chục năm nay Miền bao nhiêu cuộn băng mới đã được thay, mấy
Bắc vẫn nghèo, không khá lên được. Tôi lần pin mới được lắp vào máy.
thấy kỹ thuật thẩm vấn của người CộngSản
có vẻ na ná với kỹ thuật khai thác của Đức Chấm dứt ngày làm việc cuối cùng, không
QuốcXã thời Thế Chiến thứ 2 trong những chỉ người bị chất vấn, mà ngay cả người đặt
tài liệu mà tôi đã đọc qua. Thoạt đầu, với đôi câu hỏi cũng thấy mồ hôi vã ra đầy mặt.
ba câu hỏi bâng quơ, tù binh được nói thoải Người cán bộ châm điếu thuốc lá, rít một
mái thả giàn vài phút. Sau đó, thẩm vấn viên hơi, rồi trao nó cho tôi,
mới ra tay, bằng những câu hỏi dồn dập, tới
tấp, loanh quanh, lẩn quẩn một vấn đề, làm –Anh Long ạ! Tôi đã thực hiện công tác
phỏng vấn này với một ông sư, một ông cha,
một nghị sĩ, một dân biểu, hai cấp tướng, hai tiếng “kẽo! kẹt!” của loài mọt gỗ đang đục
cấp đại tá, và ba người cầm đầu đảng phái khoét cái cột giữa nhà.
chính trị. Mỗi anh có nhân cách riêng khi Tôi ngửa cổ nhìn lên nóc tranh, trước mắt
đối diện với tôi. Cũng những câu hỏi ấy tôi là cảnh một con ruồi xanh đang cố gắng
nhưng mỗi người trả lời khác nhau. Mỗi anh một cách tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi cái
có lý lẽ riêng. Anh là người tuổi nhỏ nhất và màng lưới nhện. Thân phận tôi giờ đây ví
có địa vị thấp nhất mà tôi đã gặp trong công như thân phận con ruồi xanh trên kia, không
tác này đấy! Bây giờ tôi có một câu hỏi hơn, không kém. Nhện và ruồi là hai động
riêng tư với anh. Câu hỏi cuối cùng. Anh có vật khác loài. Chúng giết nhau để sinh tồn.
vui lòng trả lời tôi không? Còn tôi và những người đang giam cầm tôi
lại cùng chủng loại.
Tôi rít một hơi thuốc dài, nuốt ực vào, ém Tuần lễ sau, vào giờ cơm chiều, cán bộ
khói trong phổi, thấy tỉnh táo dần, Vấn bước vào, ngồi trên bệ cửa, rút bao
CửuLong ra, bật lửa châm cho tôi một điếu.
–Vâng! Tôi sẽ trả lời cán bộ. Chờ tôi hút xong điếu thuốc lá thơm, anh ta
mới mở lời,
–Nào! Anh hãy thành thật, tuyệt đối thành –Bà mẹ anh ngày xưa đẹp nhất làng Trác-
thật, trả lời tôi: Quan niệm của anh ra sao Châu đó! Anh có biết không? Tôi trố mắt,
đối với sự sống và sự chết? –Cán bộ có lớn tuổi hơn tôi nhiều đâu? Làm
Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt người đối diện, sao mà cán bộ biết điều này?
dò chừng. Hình như hắn ta không có âm –Ngày anh bị đưa về cùm lần đầu ở trại
mưu gì chứa ẩn trong câu hỏi. Tôi hắng này, tôi đã đọc qua lý lịch của anh rồi. Tôi
giọng, rồi nhỏ nhẹ trả lời, rõ ràng từng tiếng biết tên bố mẹ anh và tất cả họ hàng bên
một, ngoại của anh nữa. Nhà tôi ở sát rào nhà cụ
Thưa cán bộ. Tôi nghĩ, đời tôi bây giờ có Ngãi, ông ngoại của anh. Thời còn là con
sống cũng chẳng thấy vui thú gì, thì nếu gái, bà cụ sinh ra tôi là bạn thân của bà cụ
chết, tôi cũng coi như là trở về cùng cát bụi. nhà anh. Mẹ tôi nói hồi đó mẹ anh có làn da
Tôi không có điều gì phải hối hận hay trắng như trứng gà bóc. Mẹ anh không lấy
vướng bận cả. Viên thượng úy CộngSản người trong làng, lại đi lấy người làng bên.
đứng lên, bàn tay y xiết bàn tay tôi một cái Sau khi bố anh bị giết, mẹ con anh đã bỏ xứ,
rất nhẹ, rồi buông ra ngay. Y nói với tôi, ra đi biệt tăm. Không ngờ sau đó gia đình
nhưng có vẻ như nói một mình, anh di cư vào Nam, và anh đã làm tới chức
Tiếc thay! Anh lớn lên ở Miền Nam. Nếu thiếu tá. Dù gì thì chúng ta cũng là người
ngày đó anh không di cư, thì có lẽ, giờ này, cùng làng… Tới lúc đó, tôi mới hiểu lý do vì
những người tầm cỡ như tôi, muốn gặp mặt sao viên sĩ quan CộngSản này lại nương tay
anh cũng là một điều khó khăn. với mình.
—–o—– Cán bộ Vấn thọc tay vào túi, lôi ra một cái
phong bì. Mở phong bì, móc cái ảnh cỡ 6×9
Buổi trưa sau ngày hoàn tất hồ sơ thẩm vấn, cm đưa cho tôi, anh ta nói nhỏ,
đầu óc thật thoải mái, tôi nằm im, đón nghe –Anh Long có thơ. Nhưng tôi không được
phép đưa thơ cho anh. Tôi “diếm” cho anh
trong cái ảnh của vợ con anh. Nhớ giữ kín đừng
cho ai biết.
gió vọng về những âm thanh quen: tiếng ve
sầu rên rỉ trên Lũng Ngàn, tiếng chân trâu
kéo gỗ nặng nề qua đoạn đường quanh, tiếng
xẻng cạo chảo bên nhà bếp. Gần tôi nhứt là
Nói xong câu này, Vấn nhét vào tay tôi một Vằng vặc trăng trôi…
điếu thuốc nữa, rồi đứng lên, lững thững đi
về hướng nhà bếp. Tôi nằm quay mặt về hướng Tây. Cửa
Có lẽ cái thư chứa tấm hình đã tới trại chính của phòng giam không bao giờ đóng.
trong thời gian tôi tại đào. Trong hình là vợ Ngoài kia ánh nguyệt chan hòa.
tôi bế thằng con út ngày nó vừa biết lật. Nay “Tưng!… Tửng!… Từng!… Tưng!…”
chắc thằng bé đã biết nói, biết chạy rồi?
Ấp cái ảnh vợ con vào lòng, tôi nghe rõ có tiếng đờn ghi ta vọng cổ bay sang từ Lán
ràng, tim mình đang thổn thức… 1. Tiếp đó là một câu hò (hay sàng xê) não
Tôi được nhìn thấy mặt bố tôi lần cuối nuột,
cùng (1946), ngày tôi lên bốn tuổi. Còn
thằng con tôi, không biết suốt đời, nó có dịp “Đêm nay trăng sáng…(á!) lung linh, em
nào nhìn thấy mặt bố nó hay không? ngồi trông trăng. Lòng nhớ thương anh, mà
Từ lúc đó cho tới tối mịt, cứ lâu lâu, tôi lại lòng… (ừ!) buồn mông mênh. Mình cách xa
dở cái ảnh ra xem. nhau rồi…(à!) Mình mất nhau muôn đời.
Đêm ngồi trông trăng, mà mắt lệ …(ý! à!)
(Vợ và con trai của VMLong1975) tuôn rơi…”
Tôi không phân biệt được giọng hò này là
của ông trung tá con rể bà Bút Trà, hay là
của ông đại úy con rể cụ dân biểu Hoàng
Kim Quy?
Ánh trăng lùa tiếng đờn tràn qua cửa phòng
giam.
“Từng!” …”Tưng!”…”Tứng!”…”Tứng!”
…”Tưng!”…
Nhịp đờn bỗng rối rít hẳn lên, quện vào
tiếng hát, xoắn lại như con chốt, rồi vút lên
thật cao,
” Trời ơi! … Bởi sa cơ giữa chiến trường
thọ tiễn
Nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn
Bạch Thu … Hà…
…Tưng! Từng!…Tưng! Tửng!…Từng!
Tưng!… Ư…ưng… ư…ưng…”
Giữa đêm trăng lạnh, vô tình, khúc “Võ
Đông Sơ” đã như mũi dao nhọn, xoáy vào
tim người nghe…
Ngày xưa tôi là chúa ghét vọng cổ. Cứ thấy
mấy anh kép cải lương “miệt rừng” trong
đơn vị vừa cất giọng,
“Biên cương lá rơi, Thu Hà em ơi!”
… tôi lại bấm bụng cười thầm, lỉnh nhanh đi
chỗ khác.
Vậy mà giờ đây, giọng ca của mấy ông Cũng may những chuyện này không đổ bể.
nghệ sĩ tay ngang cũng làm cho tim tôi xốn Chứ cai tù mà biết được thì các bạn tôi chỉ
xang. Tôi nằm trằn trọc hoài mà không có nước vào cùm!
nhắm mắt được. Đêm sao quá dài… Trong cảnh hoạn nạn, tôi đã không bị bạn
bè bỏ rơi. Những sự trợ giúp ấy đã khiến tôi
—–o—– tăng thêm sức lực cả về thể chất lẫn tinh
thần. “Khốn khó có nhau, là huynh đệ chi
Từ đầu tháng Sáu, sau giờ ăn trưa mỗi binh!” phải gặp cơn nguy biến mới thấy cái
ngày, tôi được mở còng cùm vài phút để đi cao đẹp của tình đồng đội.
vệ sinh. Chuyện ỉa đái của tôi xảy ra ngay Những tháng tiếp theo, tôi và hai anh bạn
trong vòng rào mà vệ binh cũng phải kè kè bị đưa đi vòng vòng, lần lượt nhốt trong các
đi kèm. Khi tới đầu Lán 11, vì sợ thối nên trại tù quanh vùng CẩmNhân, YênBình. Mỗi
tên bộ đội đành dừng lại, ôm súng đứng khi tới trại mới, ba “cải tạo viên” vượt ngục
canh, cách nhà cầu chừng sáu chục thước. lại trở thành những cái bao cát cho bọn vệ
Mắt nó cứ lom lom theo dõi những người tù binh của trại đó thực tập võ nghệ.
trên đường ra nhà xí. Nó soi mói, kiểm soát Cuối cùng chúng tôi bị dẫn vào Trại 2
kỹ càng những ống vầu chứa nước họ xách trong TíchCốc, nhốt chung với một tay
theo để rửa đít. Nó sợ bạn tù lén lút liên lạc “Papillon” của trại này. Anh ta nằm trong
tiếp tế cho tôi! căn bìa của nhà kỷ luật, cách tôi một tấm
Bọn cai tù không thể ngờ rằng, trước khi phên.
tôi được mở cùm, đã có hai ba anh bạn tới
ẩn mình trong cầu tiêu rồi. Họ tranh nhau Ghé mõm sát cái lỗ nhỏ dưới chân vách, tôi
nhét vào miệng tôi, cục đường, củ khoai, và hỏi nhỏ,
cả những viên thuốc bổ. Tôi chỉ được phép ở
trong chuồng xí có năm phút. Trong năm –Này! Tên gì? Cấp gì?
phút, tôi vừa ăn, vừa đại tiểu tiện, vừa nói
chuyện với bạn bè. –Thường! Đại úy!
Hàng ngày, bạn tù chia phiên nhau giúp đỡ
cho ba người đang bị phạt. Các anh Thiếu –Đi lúc nào?
Tá Hoàng Văn An, Đại Úy Vương Thành
Lân, Đại Úy Nguyễn Hữu Quang, Đại Úy –Sau các cha một tháng.
Phạm Xuân Độ, và Đại Úy Đỗ Dũng là
những người tôi gặp mặt thường xuyên, –Mấy người?
ngoài ra còn nhiều bạn khác nữa. Họ lo cho
tôi vào giữa trưa, và lo cho anh Trụ, anh Cả –Bốn.
vào lúc xế chiều. Nếu hôm nào cả trại phải
đi lao động suốt ngày, thì các anh trực lán sẽ –Ba ông nội kia đâu?
làm công tác cứu trợ.
Thời gian này người tù mang cơm cho nhà –Thoát rồi!
kỷ luật là Nguyễn Hữu Quang, bạn cùng
khóa VõBị của tôi. Những khi có dịp thuận –Còn cha? Sao lại nằm đây?
tiện, anh Quang thường lén lút ém thêm
phần ăn cho người bị giam. –Mình bị sa ruột, giữa đường đành bỏ
cuộc, bị dân quân bắt, dẫn về giao lại cho
trại, rồi bị tống vào đây.
–Đã bị chấp cung chưa?
–Rồi!
–Có bị đánh không?
–Tơi bời! Đau lắm các cha ơi!
Mấy ngày sau, người đưa cơm của Trại 2,
vốn là một đại úy Biệt Động Quân thì thầm
với tôi rằng,
“Một toán vệ binh của Trại 2 đã kêu gọi Đến khi biết trên xe là tù cải tạo ViệtNam
được ba người bạn của anh Thường ra đầu CộngHòa thì dân chúng lại đua nhau ném
hàng rồi. Nhưng ngay sau đó, chúng bắn chúng tôi lần nữa! Chúng tôi lại lo ôm đầu,
chết hết ba người này, rồi đổ hô là họ bỏ úp mặt. Nào ngờ, lần này đầu cổ, tóc tai lãnh
chạy lúc ban đêm!” Nghe chuyện này, tôi toàn là xôi, đường, kẹo bánh, xu hào, cải
nhớ lại cái đêm trời tối đen như mực cách đó bắp!
không lâu, nếu tôi nghe lời tên vệ binh, bước Quý hóa hơn mọi món quà mà chúng tôi
ra khỏi cổng để lên ban chỉ huy ký giấy cho nhận được ngày hôm đó là, lần đầu kể từ khi
về đội lao động, thì tôi đã bị bắn chết rồi! bại trận, chúng tôi lại được nghe hai tiếng
“Hoan hô!” từ miệng của đồng bào tôi.
Cuối năm 1978 có tin TrungCộng sắp đánh Dù chỉ có vài tiếng “Hoan hô!” rụt rè phát
ViệtCộng, ba chúng tôi lại bị còng dính vào ra trong đám đông thôi, đã khiến đôi mắt tôi
nhau đưa lên xe, vượt sông Lô, qua đèo Khế, cay xè. Nhìn sang bên, tôi thấy mặt anh bạn
ghé TânTrào, rồi chạy một lèo về Trại Phú- chung còng cũng nhạt nhòa nước mắt…
Sơn 4, Thái Nguyên.
Từ ấy, cứ vài năm một lần, tôi lại bị chuyển
Tại đây, vừa được tháo còng ra, tôi đã bị sang trại mới, cuối cùng là Z30 D HàmTân.
tống vào đội trừng giới số 12 toàn là dân Tới năm 1988 tôi được tha.
vượt ngục, chuyên làm lò gạch. Đồng cảnh Nhớ lại, một ngày mùa đông năm 1965, tôi
ngộ, nên anh em trong đội này đã thương đã quỳ xuống giữa vũ đình trường LêLợi
yêu, đùm bọc lẫn nhau như người thân trong Trường VõBị QuốcGia ViệtNam để tuyên
một nhà. thệ rằng sẽ đem xương máu mình bảo vệ tổ
Tháng Ba năm 1979 quân Tầu ào qua biên quốc, phục vụ đồng bào. Sau khi đứng lên,
giới, chúng tôi lại bị còng từng cặp, đưa lên tôi trở thành một sĩ quan Biệt Động Quân.
Molotova, chạy một mạch qua thủ đô HàNội Qua bao nhiêu năm xông pha nơi chiến
về tuốt miệt HàNam, PhủLý. trường, rồi trầm luân trong tù ngục, tôi vẫn
Trong lúc chờ phà vượt sông Hát, đoàn xe ghi tạc trong lòng một lời khuyên,
bị dân chúng ném đá tơi bời. Tù chỉ còn “Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm
nước ôm đầu, úp mặt xuống sàn xe. Thì ra một viên ngói lành!”
dân chúng tưởng chúng tôi là tù binh Trung-
Quốc! Vương Mộng Long
Seattle, tháng 3 năm 2012