The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-10-20 23:00:48

Cuối Đường Vương Mộng Long

Cuối Đường Vương Mộng Long

giác. Hàng chục quả đạn xé gió vèo vèo bay thương. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 BĐQ vô
tới. Mái ngói của căn nhà lầu lãnh bốn năm sự. Một chiếc GMC kéo súng của Mỹ bị bể
trái. Gạch ngói rơi ào ào. đầu máy. Hai khẩu đại bác bị xẹp lốp. Chiếc
Trên phòng tuyến và trong sân đồn điền đã Jeep của tôi bị một mảnh cối đục lủng thùng
có tiếng rên la của người bị thương. Lúc này xăng.
không ai dám đi tiếp cứu ai cả. Ai cũng lo Trực thăng tản thương HoaKỳ được gọi tới
tránh né đạn, núp trong hầm. cấp kỳ. Hai chiếc Gunships tưới đạn vô tội
Tôi biết khẩu cối 60 ly của tôi không phải là vạ sát vòng đai căn cứ, để bảo vệ cho chiếc
địch thủ của hai khẩu 82 ly ViệtCộng, nên máy bay tải thương. Tôi phải cho lệnh ba cái
tôi nhoài người, với tay lấy cái điện thoại dã tiền đồn chớp đèn để khỏi bị trực thăng võ
chiến gọi cho Ban 3 Liên Đoàn xin phản trang bắn lầm.
pháo. Dây điện thoại bị mảnh 82 cắt đứt,
chuông điện thoại không reo! Sau khi tải thương xong, căn cứ hỏa lực Tứ-
“Xè!... Oành!.. Xè!... Oành!... Xè!... Quý nằm im thin thít. Đèn đuốc tắt ngấm.
Oành!...” Hết tiếng nhạc radio xập xình. Duy nhất chỉ
còn cái máy phát điện 40KWA là dám
Một trái cối rớt ngay giữa sân, xé một miếng “bình! bịch! bình! bịch!” suốt canh khuya.
lều của đài tác xạ. Qua lỗ rách, ánh đèn
chiếu ra lấp lóe. Tôi sực nhớ, “Súng phản Năm giờ sáng Trung Tá Dõng gọi tôi lên
pháo ở ngay đây! Xin đâu cho xa?” gặp mặt và ra lệnh.
Tôi cầm cái bản đồ, chạy ào vào lều tác xạ.
Căn lều sáng choang dưới ánh điện. Toán Sáng mai Long cho mở đường ngược ra
trực ba người của Hoa quốc lộ để Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn và Pháo
Binh rút về ĐạiNga. Suốt đêm, tôi cứ ấm ức
Kỳ nón sắt, áo giáp dềnh dàng, đang núp vì cú thua lỗ của đại đội mình, nên tôi đề
trong hầm truyền tin của pháo đội dựng nghị với người chỉ huy,
bằng bao cát giữa lều. Tôi lật tấm bản đồ, Xin Trung tá cho tôi ở lại trong này hai ngày,
chỉ cho anh sĩ quan trưởng toán hai vị trí hai đêm. Tôi muốn gỡ lại món nợ đêm qua.
pháo địch, yêu cầu anh ta cho phản pháo tối Trung tá Dõng ngẫm nghĩ một lát rồi gật gù,
đa, càng nhanh càng tốt. Tôi ló đầu ra cửa Không ai bắt em làm việc này. Nhưng nếu
hầm la to, em muốn, thì tôi sẽ làm công điện hợp thức
“Coi chừng tiền pháo hậu xung Duyên ơi!” hóa. Nhớ là chỉ hai ngày thôi! Và phải thật
Thiếu úy Duyên một tay cầm đèn bấm, tay cẩn thận đó nghe!
kia kéo ông Thượng sĩ Lạc, chạy ra phòng
tuyến ngoài của đại đội. Trưa hôm đó việc rút quân của Bộ Chỉ Huy
Liên Đoàn 2/BĐQ và Pháo Binh hoàn tất.
Trận pháo kích diễn ra lâu chừng năm, sáu Tôi ra lệnh cho đại đội chuẩn bị sẵn sàng hai
phút là chấm dứt. Tôi và Hạ sĩ nhứt Đức, y ngày cơm sấy và nước uống. Tuyệt đối cấm
tá đại đội, đi quanh phòng tuyến, kiểm điểm khói lửa và hút thuốc trong suốt bốn mươi
tổn thất của quân bạn. Trong khi đó pháo đội tám giờ sắp tới. Quân nhân đơn vị tôi đã rất
Mỹ khạc đạn liên tu bất tận, có lẽ cả trăm quen với những tình trạng căng thẳng như
viên 105 ly đã tưới lên vùng nghi ngờ có hai thế này từ khi tôi về chỉ huy họ. Lệnh tôi đã
khẩu pháo của quân thù. ban ra, thì mọi người răm rắp nghiêm chỉnh
Đại đội tôi có một người chết và bốn người
bị thương. Pháo binh Mỹ có hai anh lính bị thi hành ngay.
Tôi bung các toán tuần tiễu ra các ngả
đường gìn giữ an ninh để tôi nghiên cứu
thực địa, thiết trí một cuộc phục kích.

Hướng nam của nhà máy có một lô trà với chúng tôi ngừng quân, bố trí và lục soát kết
hình dáng mũi tàu. Bố quân quanh lô trà quả. Kết quả thật nghèo nàn, không thấy xác
này, có thể kiểm soát được ba con đường thằng ViệtCộng nào. Chiến lợi phẩm chỉ là
tiến sát từ các hướng đông, đông nam, và bốn cái mũ lưỡi trai TrungCộng rơi trên
luống trà và hai băng đạn AK bắn dở dang.
nam.
Tôi cho Trung đội 3 dàn hàng ngang lục soát
Tôi phân công, thẳng hướng chính đông, tức là xạ trường
Trung đội 3 của Chuẩn úy Đinh Quang Biện chính của cuộc phục kích. Chúng tôi tìm
và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ Nguyễn được hai xác địch và hai khẩu AK 47 trên
Bổng sẽ đảm trách công tác phục kích. đường phân lô. Hai tên ViệtCộng này nằm
Ban chỉ huy đại đội cùng hai Trung đội 1 và chết cách tuyến phục kích chừng năm thước.
2 sẽ đóng quân cách khu phục kích hai trăm Cách hai cái xác đó không xa là một cái cặp
mét về hướng bắc để tiện di động đánh bọc da màu đen, với dây đeo ngang hông,
trái, hoặc phải cho Trung đội 3. thường dùng cho các cán bộ cấp cao. Cái
Tôi và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ dây đeo cặp bị đạn bắn đứt, nhưng người
Nguyễn Nhứt sẽ đi với thành phần tiếp ứng đeo cặp
là Trung đội 1 của Trung sĩ 1 Ngọ. đã chạy thoát.

Thiếu úy Duyên, Thượng sĩ Lạc và khẩu đội Tôi ra lệnh lục soát kỹ sâu vào hai bên bìa
cối 60 ly ở với thành phần trừ bị là Trung rừng, dọc theo con đường xe be đất đỏ, dẫn
đội 2 của Thượng sĩ Em. về hướng rừng xanh hướng đông. Đi xa
chừng hai trăm thước, chúng tôi phát giác
Tất cả các máy truyền tin sẽ tuyệt đối giữ một kho gạo khổng lồ, cao ngất, toàn là loại
yên lặng vô tuyến cho tới khi nào có tiếng bao chỉ xanh 100 kg. Kho gạo nằm dưới tàn
súng nổ. Một buổi chiều và một đêm yên cây cao, và được bao bọc che chở bằng
tĩnh trôi qua. những tấm vải nhựa dày màu xanh tránh gió
Đúng mười giờ sáng hôm sau... súng nổ! mưa.
Súng nổ ròn rã hướng Trung đội 3.
Tôi cảm thấy yên tâm, khi nghe rõ ràng Tôi báo cáo tin tức này cho Trung tá Liên
tiếng súng của quân ta đang áp đảo tiếng Đoàn Trưởng. Trung tá Dõng rất mừng. Ông
súng của quân địch. Chuẩn úy Biện báo cáo, ra lệnh cho tôi án binh chờ phương tiện
chuyên chở tới đem chiến lợi phẩm về Tiểu-
Trình Thái Sơn! Có khoảng mười thằng từ Khu. Xế trưa, sáu chiếc xe be nối đuôi nhau
trong rừng đi ra. Chúng nó chạy về hướng vào chuyển vận hết kho gạo ra tỉnh, và tôi
bên phải. được lệnh rút quân ra quốc lộ.
Ra tới đường, trong khi chờ xe đưa về Tân-
Nhận 5! Giữ vững vị trí. Tôi và thằng 1 sẽ Hóa, tôi mới mở cái cặp da chiến lợi phẩm
ra xem có tài liệu gì quan trọng không.
lên ngay.
Lập tức, Trung đội 1 cùng khẩu đội đại liên Cái cặp da chứa một quyển sổ ghi tên các
M 60 dàn hàng ngang, vừa bắn vừa tiến về cán binh trực thuộc tỉnh đội LâmĐồng của
hướng chính ViệtCộng. Một sổ tay ghi chi thu hàng tháng
nam. Thời gian này đạn dược thật là dư dả, của tỉnh đội. Một sổ công tác cá nhân. Một
dồi dào. Tôi thấy rằng, dùng hỏa lực tối đa cái bấm móng tay. Một cái lược nhựa. Đặc
để áp đảo quân địch, tiết kiệm xương máu
cho quân bạn, cũng là một điều hay. Vì thế,
mỗi khi chạm trận, tôi cho phép anh em tác
xạ thả giàn. Tới sát con lạch hướng nam,

biệt trong ruột quyển sổ công tác có một tấm Tôi rút cái ảnh chiến lợi phẩm ra, đưa cho
ảnh cỡ 4x6 đã cũ, ép nhựa, tránh ẩm ướt. Biện,
Tôi tò mò ngắm nghía cái ảnh. Thì ra đó là
một cái ảnh gia đình. Một gia đình hai vợ Có phải thằng cán bộ đeo cặp là người này
chồng trẻ. Người vợ bế đứa con chừng tám không? Anh trung đội trưởng nheo mắt
tháng tuổi, có lẽ là con gái. Hình người đàn ngắm tấm ảnh,
bà bị ố vàng, nhìn không rõ mặt. Mặt người Giống lắm! Nhưng người trong ảnh trẻ hơn
đàn ông và đứa bé thì không bị lem. Lật mặt nhiều.
sau tấm ảnh, tôi là dân HộiAn, nên hơi giật Hôm sau tôi căn dặn Thiếu úy Duyên ở nhà
mình, khi thấy sau lưng tấm ảnh có ghi hàng trông coi đại đội để tôi về phố hớt tóc và ghé
chữ bằng bút “rông” mực tím, “FaiFoo hậu trạm ký sổ ứng tiền ăn tháng tới. Trước
1952”. Như vậy tấm ảnh gia đình này phải khi trở về vị trí đóng quân, tôi tạt vào thăm
được chụp năm 1952 ở HộiAn (FaiFoo). gia đình cô giáo Ngọc vài phút, nhân tiện
cho cô xem cái ảnh của người HộiAn.
Chiều hôm đó đại đội tôi được đưa về bãi cỏ Tôi tới xóm Chùa vào lúc cô giáo về nhà
phía sau lưng cư xá của nhân công hái trà ở nghỉ trưa. Bé Châu và bé Hạnh đi vắng.
xã TânHóa. Chúng tôi tiếp tục giữ căn cứ Thấy tôi, cô ân cần,
hỏa lực và làm trừ bị cho Liên Đoàn 2 BĐQ. Em mới về hả? Tiện bữa, ngồi ăn cơm với
Khi giao nộp tài liệu tịch thu được cho Ban cô nhé. Cơm rau mắm thôi.
2 Liên Đoàn, tôi đã giữ lại cái ảnh của gia Cám ơn cô, em ăn cơm rồi. Em ghé thăm cô
đình vợ chồng người HộiAn để làm kỷ vài phút rồi đi liền.
niệm.
Tối hôm ấy, Thiếu úy Duyên và Chuẩn úy Tôi lục túi, lấy tấm ảnh đưa cho cô giáo, Cô
Biện chui vào lều của tôi để uống bia và tán xem có quen ai trong ảnh này không?
gẫu. Anh Biện chợt hỏi tôi, Cô giáo thấy tôi từ chối ăn cơm, cô có vẻ

Này Trung úy! Trung úy có tin con người ta không vui,
có số mạng hay không? Cô ít giao thiệp lắm. Cô không có nhiều bạn.
Làm sao biết được? Có lúc tin, mà có lúc Chắc cô không biết ai mô!
cũng không.
Biện trầm ngâm, Cô hờ hững không thèm đưa tay nhận tấm
Chắc là con người ta có số ông ạ! Sáng nay ảnh. Tôi chìa cái ảnh trước mặt cô. Cô miễn
tôi nhìn tận mặt thằng cán bộ đeo cái cặp đi cưỡng nhìn cái ảnh. Mắt cô vụt sáng lên
giữa hai thằng bộ đội hộ tống. Tôi thấy rõ cả ngạc nhiên. Cô giáo giựt tấm ảnh trên tay
bộ lông mày xếch ngược và đôi mắt sáng tôi, giọng cô có vẻ mất bình tĩnh,
quắc của nó đảo qua, đảo lại. Tôi đã chờ cho Em... em... nhặt được tấm hình ni ở mô rứa?
ba tên đi đầu còn cách bốn năm thước mới Tấm hình ni anh Như giữ. Mần răng nó tới
khai hỏa. Hai mươi lăm khẩu M16 và một tay em được? Rồi hình như cô sực nhớ ra
khẩu M 60 bắn như mưa mà chỉ có hai thằng điều gì đó, cô bình tĩnh, ôn tồn trở lại,
chết. Mà cái thằng đứng gần nhứt lại không Ừ cô nhớ ra rồi, trước khi rời HộiAn, anh
chết, thì có phải là con người ta có số Như đã đưa cái hình ni cho bên nội. Chắc
người bên nội đưa nó cho em?
không?
Quả thực khi đưa cái ảnh cho cô giáo Ngọc
xem, tôi chỉ có ý nghĩ là cô ở HộiAn từ
trước ngày Hiệp Định Genève ký kết, có thể
cô quen biết gia đình người trong ảnh. Tôi

đâu ngờ diễn tiến sự việc lại xoay qua một nhất đại đội về ĐàLạt nhận huy chương
chiều hướng không lường trước. trước.

Chẳng biết xử trí ra sao, tôi đành nói đại, Bốn mươi ba năm sau, tháng Ba năm 2011,
Hôm qua có anh lính nhặt được cái ảnh này ông cụ Nguyễn Bổng, sáu mươi bảy tuổi,
trong sở trà TứQuý. Em nghi là của gia đình cựu Biệt Động Quân xạ thủ đại liên M 60,
cô nên mang về cho cô. hiện đang sống ở Denver, tiểu bang
Colorado HoaKỳ, qua điện thoại, với giọng
Không dè, nghe tôi nói thế, cô giáo cuống
cuồng, nói Bình
Em nói răng? Em nhặt được nó trong TứQuý
ư? Có thật không rứa? Định rặt, nửa vui sướng, nửa bùi ngùi, nhắc
Em nói thật mà. Nhưng vì cớ gì mà cô lo sợ lại kỷ niệm này,
như thế? “Ngày đó chỉ có tui với Trung úy được bốc
À... không... không, cô có lo sợ chi mô em... về sân vận động ĐàLạt để cho ông Tướng
Vừa khi đó thì có tiếng xe Honda rồ ga lên Ân gắn huy chương. Hãnh diện quá chừng
dốc. Chắc bé Châu, bé Hạnh đã về. chừng...”
Cô giáo nhìn tôi khẩn khoản,
Em ơi! Em thương cô thì đừng tiết lộ cho ai Sau chiến tranh cả mấy chục năm, khi gặp
biết chuyện tấm hình ni, kể cả hai đứa nhỏ. lại, đồng đội cũ của tôi ở Đại đội 1/11BĐQ
Cô van em đó! Em ơi... vẫn kêu tôi là trung úy, “Trung úy ơi! Trung
úy dạo này có mạnh khỏe không?...”
Vâng, em sẽ không nói gì về cái ảnh này Sau khi Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 di chuyển
nữa. Thôi em đi nhé. Hôm nào rảnh, em sẽ lên TùngNghĩa thì đại đội tôi cũng lên vùng
về thăm cô. núi Voi và Đơn Dương để hành quân diều
Tôi ra cửa đúng lúc hai cô nữ sinh Trung hâu. Cho tới cả tháng sau tôi mới có dịp trở
Học BảoLộc vào tới sân. Hai đứa em tíu tít, về ứng chiến ở sân bay Con Hinh Da, Bảo-
Anh Long mới về? Ủa mà sao anh lại đi Lộc.
liền? Bộ anh chê cơm nhà nghèo không ở lại
ăn với chúng em hay sao? Bố quân xong, tôi lên xe trực chỉ xóm Chùa.
Tới nhà cô giáo Ngọc, tôi thấy căn nhà vắng
Anh phải đi ngay. Anh đi hành quân. lặng. Ông già “Bàn đèn thuốc phiện” ló đầu
Sáng hôm sau Trung tá Dõng cho người ra khỏi cửa gọi, Ông Trung úy ơi! Có người
xuống mời tôi lên lều của ông để uống cà gửi thư nhờ tôi đưa dùm cho ông đây.
phê và ăn xôi đậu phọng. Ông nói, Lá thư cô giáo viết cho tôi chỉ vỏn vẹn có
mấy giòng, không ghi ngày tháng, không có
Chú tịch thu được kho gạo lớn quá. Ông tên người nhận, và người viết cũng không ký
Tướng Ân vừa gọi máy hứa, sau khi kết thúc
chiến dịch sẽ tưởng thưởng xứng đáng cho tên,
đại đội của chú. Ông muốn khích lệ tinh
thần của anh em, nên trưa nay, nhân dịp đi “Cô cắn cỏ ngậm vành ghi tạc ơn em.
gắn huy chương cho Địa Phương Quân Mong em giữ kín trong lòng đừng cho ai
TiểuKhu TuyênĐức, trực thăng của ổng sẽ biết rằng em đã quen biết gia đình cô. Hãy
ghé đây bốc chú và một anh binh sĩ xuất sắc hứa với cô rằng em sẽ quên tất tận cả những
gì em biết về gia đình này nhé em! Cám ơn
em và chúc em vạn phần may mắn. Vĩnh
biệt!
Cô của em.”

Căn nhà tuy khóa cửa chính, nhưng cửa sổ Đầu tháng Chín năm đó, Chuẩn tướng
vẫn mở. Tôi nhìn rõ vật dụng trong nhà vẫn Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ
y nguyên. Kể cả cây ghi ta vẫn còn trên Binh tử nạn. Giữa Tháng Mười, đơn vị tôi
tường. Như thế tôi hiểu rằng lúc dọn nhà, về ở hẳn Pleiku, không còn trở lại Blao, Đà-
chắc mẹ con cô giáo đã vội vàng, hấp tấp Lạt nữa.
lắm. Tôi thẫn thờ bước chân xuống đồi. Tôi Năm 1975 thua trận, tôi đi tù.
và gia đình cô giáo Ngọc xa nhau tám năm.
Vừa mới gặp lại hai ngày, nay đã chia ly lần Từ khi khôn lớn, vào đời, tôi chỉ chọn có
nữa. một nghề, đó là nghề làm lính. Suốt thời
gian 12 năm làm lính, tôi quanh quẩn sống
Trở về phi trường, tôi nói với anh Duyên trong rừng. Vốn liếng tay nghề của tôi chỉ có
rằng, anh ấy có thể lấy xe đi đâu thì đi, đi tới rừng.
bao giờ về cũng được, đừng lo lắng gì cả. Sau 13 năm tù “cải tạo”, được tha, tôi lạc
Nằm trong lều, vắt tay lên trán, tôi ôn lại loài trong thành phố SàiGòn. Tôi đã xoay xở
những chuyện xảy ra trong thời gian đã qua. nửa năm, mà không tìm ra cách gì để sống.
Chuyện rõ như ban ngày, sao tôi không nghĩ Cuối cùng, tôi đành tìm đường lên núi kiếm
ra nhỉ? ăn.

Năm 1960 là năm bọn “Mặt Trận DânTộc Tôi quyết định lên ĐàLạt, vào núi Lap Bé
GiảiPhóng Miền Nam” ra đời. Cuối hè năm Nord đào thiếc. Phong trào đào vàng, đào
đó, học sinh HộiAn thiếu gì người bỏ học, thiếc đang rầm rộ ở đấy. Thế là, đúng hai
vào bưng? Dịp này, thày Như đem gia đình mươi năm sau ngày đại đội tôi từ giã Blao,
vào Blao, nơi xứ lạ, để không ai biết gốc gác nay hoàn cảnh bắt buộc, tôi đành miễn
lai lịch gia đình thày. Không phải lo lắng cưỡng quay về chốn xưa. Chiếc xe đò chở
chuyện nhà, thày Như có thể yên tâm đi theo tôi rời SàiGòn từ sáng tinh mơ. Xế chiều xe
ý nguyện của mình. mới tới ĐàLạt.
Chắc cô giáo Ngọc biết chồng cô đang hoạt Tôi lên ĐàLạt, tá túc tại nhà đứa cháu gái
động trong địa phận tỉnh LâmĐồng này, nên gọi tôi bằng cậu. Nhà cháu tôi nằm bên
bất ngờ thấy tấm ảnh cũ, cô lo sợ, dấu diếm phường 8, cách Nguyên TửLực Cuộc một
quanh co. Cô nói trớ ra rằng nó đã được cái thung lũng. Tôi ở trên dốc, dưới dốc có
chồng cô giao cho người bên nội giữ, nhưng một ông trung sĩ cảnh sát chế độ cũ đang
cô quên trước đó vài ngày cô đã kể cho tôi làm nghề đào thiếc. Tôi mon men tới nhà
chuyện chồng cô là người cuối cùng của ông ta để làm quen, và xin tháp tùng kiếm
dòng họ Võ ở thôn TràĐình 2, HươngAn, ăn.
ThăngBình, QuảngNam. Như vậy, tên cán
bộ ViệtCộng bị đại đội tôi giết hụt ở Tứ Quý
không ai khác hơn là thày Như! Vì sợ tôi tiết
lộ việc này cho con của cô biết, và sợ bị kết
tội liên lụy với ViệtCộng, nên cô Ngọc vội
vàng dẫn con ra đi.

Một thời gian sau, vì bận bịu công việc, tôi
cũng không bận tâm thêm chuyện nhà thày
Như, cô Ngọc.

Khi gặp ông cựu cảnh sát ViệtNam Cộng- xe. Trong thời gian chờ khách, tôi và anh
Hòa, tôi nói chuyện với ông ta bằng thứ chủ xe ngồi tán gẫu. Hóa ra anh ta đang học
tiếng Bắc một trăm phần trăm HảiDương. năm cuối cùng QuốcGiaHànhChánh thì
Ông ta tưởng tôi từ ngoài Bắc mới vào nên ViệtNam CộngHòa sụp đổ. Tới lúc bấy giờ
không thắc mắc gì nhiều, vui vẻ cho tôi theo tôi mới thổ lộ cho anh ta biết tôi là một cựu
ông vào vùng kiếm “xái”. thiếu tá tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân
ViệtNam CộngHòa vừa mới ở tù ra. Nghe
Ông cảnh sát này mới lấy vợ kế. Vợ cả của vậy, anh ta kéo tay tôi, bắt tôi leo lên xe,
ông ta vừa chết. Vợ kế của ông chính là không thèm chờ rước thêm khách nữa. Anh
người em dâu của ông ta. Em trai ông cảnh ta sẵn sàng chở giúp tôi về nhà không lấy
sát là trung úy chế độ cũ, đã chết trong trại tiền!
cải tạo. Ông cảnh sát không phải đi tù. Ông
thương em dâu góa bụa, thương đàn cháu Chúng tôi vừa ra khỏi K3 chừng hai cây số
côi cút, nên vợ ông vừa chết là ông lấy bà thì nghe phía trước mặt, trong rừng bên
em dâu làm vợ luôn. Sau một tuần lễ cộng đường có tiếng kêu la, “Lạy hai anh tha cho
tác với ông cảnh sát và thằng cháu, cũng là em...”
con riêng của vợ ông, chúng tôi bị “mo”.
“Mo” tiếng Pháp là Chú Lượng, chủ xe thồ ngừng xe quan sát.
“mort”, có nghĩa là chết, là thất bại. Trong rừng thưa bên đường, hai thanh niên
Tôi đành giã từ ĐàLạt tụt xuống ĐứcTrọng, mặc đồ bộ đội đang dùng hai khúc cây
mò vào K3 đào vàng. phang cật lực vào đầu một anh xe thồ để
cướp cái Kamaz LiênXô.
Hì hục gần mười ngày, “mo” vẫn hoàn Bị hai khúc củi đập tới tấp lên đầu, lên vai,
“mo”, đến nỗi tôi không còn tiền để đi một nhưng anh chàng xe thồ vẫn không chịu
chuyến xe thồ về nhà người chị họ ở Đức- buông cái xe ra. Buông tay ra, là mất xe!
Trọng. Có một điều đáng nói là, dân đi đào Thà chết, chứ không bỏ của!
vàng ở đây, nếu chịu giao thiệp rộng một Vừa van lạy, vừa chửi rủa, anh xe thồ cứ lăn
chút, rất khó bị chết đói. Ngày nào cũng có vào ôm cứng lấy cái Kamaz, dai như đỉa. Có
những đám tiệc cúng tổ. Cứ xong một giếng, lẽ nạn nhân đã thấy chúng tôi, nên anh ta la
thu hoạch vàng xong, các toán đều trích ra lớn,
một số vàng để đãi đằng trước khi chia Bớ người ta! Ăn cướp! Ăn cướp giết tôi
phần. Tôi ở đây mới có hơn tuần lễ mà bà cướp xe! Cứu tôi với bà con ơí!
con đã nhẵn mặt, mời ăn nhậu tưng bừng,
không ngày nào bị đói. Chú Lượng nói nhỏ vào tai tôi,
Rồi một sớm mai có chiếc xe thồ bị tụt Tụi bộ đội nó chơi bạo lắm. Mình can thiệp
xuống hố. Tôi nhanh nhảu giúp anh chủ xe vào, nó chơi mình luôn. Hay là ta quay lại
một tay, kéo chiếc xe lên. Anh ta và tôi đều gọi thêm người phụ giúp. Anh tính sao?
là dân BắcKỳ Di Cư. Hỏi ra, anh ấy ở cách
nhà bà chị tôi có vài khu vườn. Thế là anh Tôi nghĩ, nếu quay trở lại, chưa chắc đã có
chàng đồng ý chở tôi về tới nhà bà chị tôi rồi ai vui lòng đi theo giúp. Mà dù cho có người
mới lấy tiền. đi theo, thì khi tới nơi, anh chủ xe thồ có lẽ
đã chết mất rồi!
Tôi không phải là người khách độc nhất của Chợt nghĩ ra một kế, tôi vừa nháy mắt ra dấu
một chuyến thồ. Tôi phải chờ hai người cho Lượng, vừa hét lớn,
khách nữa cho đủ số ba người cho một cuốc

Đưa khẩu súng cho tao! Tao bắn vỡ óc hai Hai tay công an áp vào khiêng ông cụ lên,
thằng ăn cướp này! Lượng làm bộ chần chừ. đặt trên ghế sau. Họ cũng cuốn gói đồ lề của
Rồi anh cũng gân cổ nói cho to, ông cụ gồm một cái mũ lưỡi trai, một cái
Anh bắn thì anh chịu trách nhiệm nghe! Tôi nón mê, và một cây dao quắm bỏ vào thùng
chỉ làm chứng thôi đó! xe, rồi trở đầu xe chạy đi.
Tôi hét lớn, Á!... Á!... Hai thằng chó này tới Bà chủ tiệm trà chõ miệng ra cửa, nhiếc một
số rồi! Chết nghe con! Á!... Á!...
Tôi và Lượng vừa quát tháo, vừa từ từ bước câu,
tới. Chú Lượng làm bộ lục lọi cái sách tay Giầu bỏ bạn, sang bỏ vợ. Cho đáng đời cái
chú đeo ngang hông để tìm vũ khí. đồ mê gái! Tôi trở lại bàn thì chú Lượng lắc
đầu,
Hai thằng ăn cướp thấy hai chúng tôi hùng Ôi! Để ý làm gì tới cái thằng khùng này.
dũng quá, chúng nó sợ bị bắn chết, nên vứt Thứ gì ngu như chó! Quyền cao chức trọng
hai khúc củi, ù té chạy bán sống, bán chết không muốn, muốn đi ăn xin.
xuống chân đồi.
Anh chủ xe bị cướp quỳ xuống đất vái lấy Chú biết lý lịch của ông ăn mày này à?
vái để, Ở đây ai mà không biết tay này? Ngày xưa y
Em xin quỳ lạy tạ ơn cứu mạng của hai ông. là con hùm xám, hét ra lửa đấy. Nhưng y ỷ
Suốt đời em ghi lòng tạc dạ công lao của hai thần, ỷ thế, hãm hiếp một cô nhân viên dưới
ông. Chú Lượng thực tế hơn, Ê bồ! Ơn với quyền, nên mất chức. Đến khi vợ lão chết,
oán cái con khỉ khô. Một chầu nhậu là xong
hết. lão thành khùng luôn.
Sau đó hai chiếc xe thồ phóng vèo vèo trực Công an vừa hốt ông ta đi, chắc là nhốt vào
chỉ hướng chợ ĐứcTrọng. nhà thương điên?
Tới chợ, anh Nam, cựu nghĩa quân, chủ xe Bắt với nhốt cái con tiều! Cả chục năm nay
bị cướp, trịnh trọng mời tôi và Lượng vào tên đó cứ lang bang hết chợ ĐứcTrọng, đến
quán ăn của một bà chủ người Tàu. chợ TùngNghĩa, chửi bới, khóc lóc om xòm,
rồi lăn quay ra ngáy. Hôm nào hên, có mấy
Chú Nam kêu không biết bao nhiêu món, thằng học trò cũ hốt về nhà cho ăn ngủ, còn
gồm đủ vịt, gà, bò, heo, tôm, cá để thiết đãi không thì cứ ngủ bờ, ngủ bụi thôi.
Chắc cái xe công an vừa rồi là của người
chúng tôi. quen ông cụ?
Trong lúc tôi đang ngất ngưởng, ngà ngà, thì Tay này ngày xưa đi theo hầu, làm đồ đệ của
ngoài sân chợ bỗng nhốn nháo hẳn lên, lão già đó. Nay anh ta lên tới thượng úy đồn
không biết vì lý do gì. Thấy lạ, tôi bước ra trưởng.
cửa đảo mắt nhìn. Thế thì gia đình vợ con ông ta ở đâu?
Một chiếc xe con của bộ đội từ hướng Liên- Nhà lão ở trên PhilNôm, nhưng từ khi vợ lão
Khương chạy xuống đậu sát hàng hiên một chết, lão không bén mảng về nhà nữa.
tiệm trà. Nơi đó, một người hành khất già Chú Lượng có vẻ rành gốc gác ông điên này
đang nằm ngủ, ngáy khò khò.
quá?
Một thượng úy công an và một công an viên
bước xuống. Viên thượng úy cười hì hì, Thực ra, em cũng chỉ nghe đồn thôi.
“Thôi về đi thủ trưởng!” Anh Nam châm thêm rượu đế vào ly của tôi
rồi hối,
Nhậu tiếp đi đại ca! Chuyện thằng già dịch
ấy, nói tới mai chưa hết. Ai đời? Con gái
người ta mới mười bảy, mười tám mà lão

dám đè ra hiếp công khai trong văn phòng. mới xoay xở tiếp. Hai hôm sau tôi tìm được
Gớm thiệt! một chân giữ lô trên Prenn. Làm việc này
Chắc chú Nam rành về ông già này hơn chú tuy nhàn nhã nhưng nguy hiểm quá! Một
Lượng? mình nằm trong căn chòi lá giữa rừng không
Thì có ai tận mắt chứng kiến những gì lão ác tấc sắt trong tay. Xế chiều, một xe bộ đội
ôn này gây ra đâu? Gia đình lão ở đây từ ghé đít vào khuân đi vài tấm ván xẻ. Nửa
cuối 1975, nhưng lão làm việc trên Tỉnh đêm, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài
Đội, lâu lâu mới ghé về nhà. Em nghe người khúc bằng lăng. Người gác lô (là tôi đây)
ta nói lại, thời chống Mỹ, lão là Huyện Đội hỏi,
Trưởng hay Tỉnh Đội Trưởng gì đó dưới
Blao, công lao ghê gớm lắm. Sau khi tiếp “Các ông có giấy ủy quyền chở gỗ đi
thu ĐàLạt, lão làm lớn lắm. Đùng một cái, không?”
cuối 1977 lão bị mất chức về nằm bẹp trong thì khách vỗ bành bạch vào cái bao K54 bên
nhà. Sau đó vợ lão tự tử, lão hóa khùng, đi
lang bang cả chục năm nay. hông,
“Bộ nhà anh mù, không nhìn thấy cái giấy
Chúng tôi đánh chén xong thì trời xế trưa. ủy quyền này hay sao mà còn hỏi?”
Anh Nam xin phép về nhà lo thuốc thang Hóa ra lô này chứa gỗ của bọn khai thác lậu.
chữa chấn thương đầu, cổ. Tôi và chú Bộ đội chỉ cần hù một câu là có thể chở đi
Lượng cũng chia tay. Chuyện “người điên ở một xe tỉnh bơ. Tuần sau tôi bỏ việc.
chợ” tôi còn được nghe nhiều người thuật Tôi trở về SàiGòn phụ giúp một anh bạn đi
lại, mỗi người nói mỗi khác. Năm 2003, ở bán quần áo cũ (còn gọi là đồ SIDA) một vài
HoaKỳ có người bạn làm cùng sở với tôi kể lần, cũng chẳng thấy khá.
rằng, năm 1980 khi đi đào đá quý ở TânBùi,
Blao, anh ta tận mắt chứng kiến cảnh một Tôi lò mò tới nhà ông Trung tá Huỳnh Văn
tên cán bộ cấp cao của ViệtCộng bị điên, Lộc, cựu Liên đoàn trưởng Liên đoàn 25
đầu đội cái nón mê, tay xách con dao quắm, BĐQ để hỏi cách đi buôn thuốc Tây. Ông
suốt ngày đi lang thang, nói năng lảm nhảm, anh chỉ vẽ đường đi, nước bước, tận tình hết
chửi bới om xòm ở chợ Tân Bùi. Nghe đâu mình. Chuyến ra quân đầu tiên buôn thuốc
tay cán bộ này giàu sụ, có cô bồ nhí xinh Tây, chưa đi khỏi TânCảng tôi đã bị công an
như đào xi nê. Một hôm, cô bé đem cầm, túm. Mất toi cả chỉ vàng tiền vốn.
bán hết giấy tờ sở hữu ruộng vườn, xe cộ Bí quá, tôi lại lên rừng. Kỳ này thì hên. Ông
của ông thủ trưởng, đồng thời thay mặt ông, anh rể vừa thấy mặt tôi đã reo lên,
hốt sạch cả chục chân hụi lớn, hụi nhỏ, rồi Cậu lên vừa đúng lúc. Vựa cà phê nhà chị
ôm tiền của, cùng anh kép trẻ dông đi mất Phú PhilNôm đang cần chân đốc công,
biệt. Mất của, lại thất tình, ông thủ trưởng lương hậu, cậu có nhận không?
già hóa rồ, hóa dại, đội cái nón mê, ôm con
dao quắm đi truy lùng, truy sát kẻ bạc tình. Chơi liền! Buồn ngủ mà gặp chiếu manh thì
Hình như nhà anh chàng trẻ tuổi, tình địch còn gì bằng?
của lão già thủ trưởng ViệtCộng ở TânBùi
thì phải? Hôm sau ông anh rể tôi chở tôi lên vựa cà
phê nhận việc.
Nhà chị tôi ở cách chợ ĐứcTrọng không xa Vựa cà phê chị Phú ở ngay con dốc giữa ngã
lắm. Tôi quyết định nghỉ ngơi vài ngày rồi ba Quốc lộ 20 và ngã rẽ về ĐơnDương. Đất
đai hai bên đường của khu vực này được
chia ra thành nhiều lô bằng nhau để cấp phát

cho gia đình công nhân, bộ đội tự canh tác, Tôi buột miệng,
cải thiện. Chồng chị Phú làm việc trên Ty Cô giáo Ngọc! Cô ơi! Cô đó ư? Người đàn
NôngNghiệp. Lợi dụng địa thế thuận tiện bà giật mình hoảng hốt,
lưu thông, chị Phú dựng lên một vựa thu Ủa! Sao ông lại kêu tôi là cô giáo Ngọc?
mua nông phẩm kiếm lời. Ông là ai vậy?
Tôi nhìn dán mắt vào mặt người đàn bà. Á!
Nhiệm vụ của tôi là cân nhập cà phê, đậu mà có chút khác! Cô giáo Ngọc bây giờ
xanh, đậu nành, đậu phọng, rồi hướng dẫn trông ngăm ngăm, chứ không còn trắng bóc.
hai cô nhân công chuyển Giọng nói của cô thì hoàn toàn xa lạ. Không
phải cái giọng Huế Công Tằng Tôn Nữ nữa
vào kho; cân xuất hàng; kiểm soát hai cô rồi! Hay là tôi đã nhầm người?
nhân công đưa đủ hàng lên xe cho khách; ký
biên lai; nhận biên lai; tổng kết sổ chi thu Tôi gãi đầu,

hàng ngày. Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi lầm bà với một
người quen của tôi.
Tôi làm việc trôi chảy được hai ngày. Hôm Ông ơi! Ông là ai? Ông nói người quen của
sau nữa, nhân lúc rảnh, chị Phú nhờ tôi leo ông là cô giáo Ngọc có phải không?
lên mái kho, trét nhựa đường vài lỗ dột. Cái Vâng! Bà giống cô Ngọc như đúc, nhưng bà
thang nhà này đang mắc kẹt chống đỡ buồng không phải cô Ngọc. Cô Ngọc người Huế.
chuối tiêu mắn quả sau hiên. Chị Phú chỉ tay Bà không phải cô ấy.

sang nhà hàng xóm, Người chủ nhà lại thúc giục,

Anh sang nhà cô Hương nhờ cô ấy cho Ông nói cho tôi biết đi! Ông là ai?
mượn cái thang một lát. Tôi xin lỗi bà, tôi tên Hai, là người làm công
Sát hàng rào của vựa cà phê là một khu của vựa cà phê bên hàng xóm. Tôi sang đây
vườn rộng, có giàn su su và những luống đu mượn cô Hương cái thang về xài một lát.
đủ. Giữa vườn, là một cái nhà tôn, có sân lát Tôi xin gặp cô Hương.
gạch để phơi nông phẩm. Tôi là Hương đây! Nhưng tôi hỏi ông. Ông
Theo lệnh bà chủ, tôi xăng xái đi sang nhà quen biết như thế nào với cô Ngọc? Tôi là
con gái cô Ngọc đây, còn ông là ai?
hàng xóm, Tôi lắc đầu lia lịa, Con cô Ngọc chỉ có bé
Cô Hương ơi! Cô Hương có nhà không? Có Châu và bé Hạnh, không có ai tên là Hương
tiếng trả lời từ sau nhà, cả. Người đàn bà như bị choáng váng, giọng
Tôi ở trong vườn su. Ai đó cứ vào đi. Tôi lò
dò đi vòng ra phía sau nhà. bà ta run run,
Bên một gốc đu đủ, người chủ nhà nghe Như vậy ông có phải là anh Long không?
tiếng chân tôi, bèn quay mặt lại,
Ông cần hỏi chi? Anh Long!
Dưới nắng ban trưa, đứng trước mặt tôi, rõ
ràng là cô giáo Ngọc! Vâng tôi là Long, còn bà là ai?
Cũng với cái áo bà ba mầu xanh điểm hoa
khế hồng, và cái quần đen, bộ quần áo cô Bé Châu đây! Anh Long ơi!
mặc hôm tôi về đưa cho cô cái ảnh gia đình Bé Châu òa khóc. Năm nay (1988) bé Châu
mà tôi tịch thu được trong mật khu TứQuý. ba mươi bảy tuổi, đúng y chang tuổi của cô
Hai mươi năm qua rồi mà mặt cô vẫn y như giáo Ngọc năm Mậu Thân (1968) khi gặp tôi
xưa, không khác tí ti nào. ở Blao. Bé Châu giống cô giáo Ngọc như
đúc. Có khác chăng là làn da, và giọng nói.
Hèn nào tôi không lầm cho được?

Bé Châu nắm tay tôi, kéo tôi lên nhà trên. Anh Hai ơi! Về cân hàng! Có khách chờ!
Miệng cô em tíu tít chưa hết chuyện này đã Chị Phú nói anh sang mượn cái thang, hay
nhảy sang chuyện khác, chẳng đâu vào đâu. sang ngủ ở nhà cô Hương mà cả buổi chưa
Từ từ đi Châu! Cô cứ nói lung tung như thế chịu về?
này thì ai mà hiểu được cô muốn nói cái gì. Nghe tiếng gọi, tôi vội đứng lên,
Việc đầu tiên anh muốn biết là mẹ em và bé Thôi, mai Chủ Nhựt rảnh, anh sẽ lên nói
Hạnh bây giờ ra sao? Có tin tức gì của ba chuyện tiếp. Anh phải về làm việc bây giờ.

em không? Tôi chạy vội ra cửa. Chị Phú mặt hầm hầm,
Anh làm ăn đàng hoàng chứ không tôi đuổi
Tôi vừa cười vừa nhắc cô em hàng xóm. đó!
Bé Châu như tỉnh ngủ, Tôi chẳng tiện phân bua với bà chủ làm gì.
Ừ nhỉ, em nói năng lộn xộn quá. Chỉ vì em Tôi cứ lặng thinh làm phận sự của người
mừng quá đó anh ơi! Mẹ và bé Hạnh mất làm công. Từ đó tới chiều, bên hàng rào cứ
rồi. Còn Ba thì đã... thấp thoáng bóng dáng bé Châu ngóng cổ
hóa điên. Anh ngồi chơi đây, em đi nấu sang để tìm tôi.
nước pha trà. Ngồi đây chờ em, đừng đi đâu Bên cót đậu phọng, cô Nhi mắt len lén theo
anh nhé! Nhóm bếp xong, bé Châu chạy vội dõi cử chỉ của người hàng xóm, miệng nhỏ
to với bà chủ, Anh chàng trông khù khờ mà
lên nhà trên, đào hoa dữ a!
Bà chủ thì mặt sưng như tấm thớt.
Anh kể cho em nghe đi! Sau đó anh còn ở
Blao không? Anh lấy vợ lúc nào? Có mấy 0
cháu rồi? Anh đi học tập có lâu không?
Ngày anh về, gia đình anh có thay đổi gì Hôm sau là ngày Chủ Nhựt, được nghỉ, tôi
mượn cái xe đạp của ông anh rể, lọc cọc đạp
không? lên nhà bé Châu. Sau khi khóc lóc đã đời,
Tôi ngồi tường trình, Bốn tháng sau ngày Bé Châu ngồi kể cho tôi nghe một truyện dài
nhà em dọn đi, thì đơn vị anh về Pleiku ở hai mươi năm.
luôn, không còn trở lại Blao nữa. Anh có vợ
và có bốn đứa con rồi. Sau Ba Mươi tháng Ngay buổi trưa tôi ghé nhà em lần cuối
Tư năm 1975 gia đình anh về tá túc ở nhà cùng, Cô Ngọc bắt bé Châu chở cô vào văn
của mẹ anh, trong khu chợ Nancy SàiGòn. phòng tỉnh, xin lãnh trước một tháng lương,
Anh đi tù “cải tạo” mười ba năm, mới được rồi xin nghỉ phép một tuần vì việc gia đình.
tha ra cách đây nửa năm. Anh đang đi làm Sau đó, hai mẹ con sang trường Trung Học
công để phụ giúp vợ, nuôi con. Bảo Lộc xin rút học bạ để chuyển trường.
Chiều đó cô Ngọc đem chiếc Honda đi bán.
Bé Châu trợn mắt, Anh đi học tập cải tạo tới Sáng hôm sau ba mẹ con vác ba chiếc va li
mười ba năm lận! Lâu quá vậy? Chắc chị ở lên chuyến xe đò sớm nhứt đi ĐàLạt. Trưa
nhà vất vả lắm anh nhỉ? hôm đó mẹ con cô có mặt ở nhà bà chị cô
trong ấp TháiPhiên. Cô nói với bé Châu và
Chị làm thợ may và buôn bán làng nhàng để bé Hạnh rằng tôi nghe tin cảnh sát sẽ tới bắt
nuôi con. Cũng khổ lắm. cô bỏ tù vì tội có chồng đang chiến đấu
Tội nghiệp chị! Con thì đông, chồng lại trong bưng nên cô phải dẫn gia đình đi lánh
vắng nhà cả chục năm không thấy về, vậy nạn.
mà chị vẫn kiên tâm vất vả nuôi con chờ
chồng. Anh là người có phước lắm đó!
Lúc ấy có tiếng cô Nhi, người giúp việc của
chị Phú réo trước cửa,

Cô Ngọc được bà chị nhượng lại cho một theo sau là một xe lớn, có nhiều bộ đội hộ
thửa vườn trồng rau để sinh nhai. Ngày đó, tống. Cô Ngọc và bé Châu mừng quá, khóc
bỏ ít tiền ra, cô dễ dàng mua được hai cái suốt một ngày luôn! Cô Ngọc thì mừng vui,
khai sinh giả và một cái căn cước giả. Cô tươi tắn hẳn lên như con bịnh trầm kha vừa
giáo Công Tằng Tôn Nữ Mỹ Ngọc nay phục hồi sau một liều thuốc tiên.
mang tên Nguyễn Thị Mỹ. Bé Võ Thị Như Thày Như đón vợ con về ở trong một ngôi
Châu thành Nguyễn Thị Hương, và Võ Thị biệt thự mới bị tịch thu trong khu hồ Mê-
Ngọc Hạnh thành Nguyễn Thị An Linh (tên cũ là Saint Bénoit). Gần cuối năm
1975 gia đình ông ta được cấp miếng đất
có tên cha là Nguyễn Trường Giang. Cô lấy dưới PhilNôm và dọn về ở đó cho tới bây
tên con sông TrườngGiang, và tên xã giờ.
HươngAn ở nơi quê chồng để đặt tên giả
cho chồng con, cho dễ nhớ. Tên Võ Thị Như Thày Như làm việc trên Tỉnh Đội, uy tín dữ
Châu và Võ Thị Ngọc Hạnh trên học bạ lắm. Hình như cấp trên của ông ta tin tưởng
được tẩy đi, đề tên mới vào. Lúc đó bé Châu giao phó cho ông đảm đương, kiêm nhiệm
và bé Hạnh mới biết trong tám năm qua, cha nhiều chức vụ quan trọng...
của hai em đã vào bưng đi theo ViệtCộng, Bé Châu chợt lặng im ngồi suy nghĩ một
chứ không phải làm thư ký ở dưới SaĐéc. hồi, rồi mới tiếp tục thuật lại cho tôi nghe
Vì thế, hai em mới hiểu lý do tại sao từ ngày chuyện bé Hạnh.
vào Blao, thày Như không về nhà lần nào. Cuối tháng Năm năm 1975 bé Hạnh từ Quy-
Nhơn về. Nó nói rằng chồng nó vừa bị bắt đi
Hồi mới xa Blao, bé Châu và bé Hạnh buồn tù cải tạo. Nó khóc lóc thảm thiết, xin thày
khóc thầm cả tuần. Sau rồi cũng nguôi Như bảo lãnh cho chồng nó được tha. Thày
ngoai, quen với cuộc đời mới. Hai chị em Như từ chối thẳng tay,
ban ngày theo xe ngựa của nhà hàng xóm về Để cho nó đi “học tập” ít lâu. Khi nào nó
ĐàLạt học trường BồĐề, ban đêm đan nón, “tiến bộ” thì được tha về chứ cần gì Ba phải
đan quạt lá buôn, lá cọ bỏ mối lấy tiền phụ bảo lãnh? Cả ngàn người cùng tình trạng
với mẹ. Năm 1970 bé Châu đậu Tú Tài 2, như nó chứ có phải một mình nó đâu?
xin được một chân giáo viên tiểu học ở dưới Thày Như ngồi trên ghế, Bé Hạnh đứng
trại Hầm. Năm 1973 bé Hạnh lấy chồng. đàng sau, nó ôm vai cha nài nỉ,
Năm đó em mười chín tuổi, vừa đậu Tú Tài Ba Như ơi! Ba can thiệp được mà! Ba xin
xong. Chồng bé Hạnh là một Thiếu úy cho chồng con về đi. Anh ấy là con một, có
ngành QuânBáo thuộc TiểuKhu BìnhĐịnh. mẹ già. Nhà mình cũng không có con trai.
Anh ta là cháu một nhà hàng xóm trong ấp Anh ấy hiếu thảo lắm. Nếu Ba gặp anh ấy,
TháiPhiên. Đám cưới vừa xong, bé Hạnh về chắc Ba sẽ thương anh ấy ngay. Ba Như ơi!
QuyNhơn ở với mẹ chồng. Nhà cô Ngọc ở Ba Như xin tha cho chồng bé Hạnh về với
yên trong Ấp TháiPhiên cho tới ngày ĐàLạt bé Hạnh đi Ba!
di tản. Ba đã nói rồi mà! Để cho nó “học tập” thành
“người tốt” rồi về! Có gì mà phải vội vàng?
Sau khi tiếp thu ĐàLạt, ViệtCộng đã tới Năn nỉ cha hoài không được, bé Hạnh cầu
từng nhà để sưu tra lý lịch, và tổng kết dân cứu mẹ và chị phụ giúp. Cô Ngọc và bé
số. Cô Ngọc khai tên thày Như trong bản Châu cũng nói hết lời, thày Như vẫn một
khai của gia đình cô. Chỉ vài ngày sau thì mực khăng khăng chối từ.
thày Như về. Ông ta về trên chiếc xe con,

Tháng Tám năm 1975 chồng bé Hạnh trốn đổi cho nhau từ ba, bốn năm trước ngày đám
trại, bị bắt lại, và bị kiên giam. Bé Hạnh và cưới. Từ lúc về, bé Hạnh không hé môi nói
cô Ngọc xuống thăm chồng nó. Ban chỉ huy chuyện với ai một lời nào.
trại không cho gặp mặt, cũng không cho Sáng sớm hôm sau, bé Hạnh dậy thật sớm.
nhận quà. Bé Hạnh lại về năn nỉ cha nó cứu Nó ôm hôn mẹ nó và chị nó rồi ra đi. Bé
vớt chồng nó lần nữa. Nó quỳ dưới chân Châu và cô Ngọc hỏi rằng Hạnh đi đâu mà
thày Như khóc lóc, van xin. Thày Như nhất sớm thế? Nó chỉ lắc đầu, hai mắt đỏ hoe.
mực chối từ việc cứu con rể, ông còn xúi bé
Hạnh bỏ chồng lấy người khác. Rồi hai cha Hôm đó thày Như có mặt ở nhà. Lúc bé
con lớn tiếng cãi nhau. Tình phụ tử bị sứt Hạnh bước ra tới cửa, ông giữ tay nó lại,
mẻ. Từ đó bé Hạnh và cha em tránh mặt Con đi đâu thế?
Hạnh hất tay ông ta ra, rồi vội vàng bước
nhau. nhanh ra đường. Ba ngày sau có người báo
cho thày Như biết tin,
Bé Châu thấy bé Hạnh có lý khi nói rằng cha “Cô An chết đuối mới nổi lên ở chân cầu
các em không còn như thời trước 1960, ngày ĐạiNinh!” Kể tới đây, bé Châu nấc lên,
các em còn bé. Ngày xưa, mỗi lần thày Như nghẹn lời.
đi xa, bé Châu và bé Hạnh thường chờ cha Nghe tin bé Hạnh chết, bé Châu bàng hoàng,
về để tranh nhau nhảy vào lòng, bắt choáng váng như vừa bị ai đó đập một cái
ông hôn, rồi ông dắt hai đứa đi lang thang chày vồ lên đầu. Nhìn người ta niệm xác bé
trong sân chờ cô Ngọc dọn cơm. Lần này Hạnh đặt vào áo quan mà Châu cứ tưởng
ông về, chỉ có mình bé Châu ở nhà, nhưng như đang mơ một giấc mơ dữ. Cô Ngọc rũ
Châu không còn dám nhào vào lòng cha để xuống như một sợi bún. Cô thành người mê
ông nâng niu như xưa. Khi cha em ra đi, sảng, miệng không ngừng gọi tên con,
Châu lên chín. Ngày ông về, em hai mươi “Hạnh ơi! Hạnh ơi!...” Ngày đưa ma, cô
bốn. Cha em đã đi con đường ông ta chọn. Ngọc và bé Châu không cất bước nổi, phải ở
Sau mười lăm năm, nhà. Hai mẹ con khóc cho tới khi hai mắt
ông đã thực hiện xong ý nguyện của ông. sưng vù, nói không còn ra tiếng nữa. Người
Nhưng ông đã đánh mất hạnh phúc của ta chôn cất bé Hạnh ra sao, bé Châu không
chính mình, và của cả gia đình mình. Vì còn nhớ rõ.
ông, mà vợ ông đã để uổng phí một thời son Thày Như có rất nhiều người quen, nên
trẻ. Vì ông mà tuổi thơ của hai đứa con ông khách đi đưa đám con gái ông rất đông. Có
chỉ là cả dàn nhạc và đại diện từ Tỉnh, Huyện về
chia buồn.
một chuỗi ngày dài đầy lo sợ. Giờ đây, giữa
Châu và cha em như có một bức tường vô Từ ngày chôn cất bé Hạnh xong, cứ thấy
hình ngăn cách. mặt chồng, cô Ngọc lại nghẹn ngào,

Tháng Chạp năm 1975 chồng bé Hạnh bị xử “Mình ơi! Mình giết bé Hạnh của em rồi hả
tử hình. mình? Mình ơi! Sao mình nỡ giết con của
Được tin này, bé Hạnh cấp tốc đi QuyNhơn, chúng ta? Mình ơi!” Thày Như phải tránh
vào trại giam, xin nhận xác chồng, nhưng mặt vợ bằng cách đi làm từ sáng sớm, tới tối
người ta không cho. Họ chôn chồng em mịt mới về.
Hạnh trong nghĩa địa dành cho tù phạm.
Trở về nhà, bé Hạnh thức trắng một đêm để Hai tháng sau ngày bé Hạnh mất, vào một
đốt hết những lá thư mà vợ chồng nó đã trao buổi trưa mùa xuân, chỉ có cô Ngọc và bé
Châu ở nhà, một bà già BắcKỳ DiCư khăn

mỏ quạ, áo dài nâu xuất hiện trước cổng. gọn bởi sợi dây thun. Thân hình cô gầy
Vừa thấy bóng cô Ngọc, bà già chồng của bé tưởng chừng như chỉ cần một cơn gió khá
Hạnh đã bù lu, bù loa, mạnh là có thể thổi cô bay đi. Tuổi cô chưa
đầy năm mươi, vậy mà nhìn cô, người ta
Dâu ơi, là dâu! Con ơi là con! Ai đời? thấy như cô đang ở sắc quá sáu mươi.
Chồng chết không chịu nhận khăn tang, mà
chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi một nước. Bà Thày Như có ba người đàn em thân tín
ơi! Con gái bà là người, hay là ma, là quỷ thường tới, lui thăm hỏi, là ba tay cựu du
vậy? Con giặc cái ấy đâu rồi? kích tên Thuận, Bình và Xuyên. Ba người
Cô Ngọc ôm bà thông gia, vừa sụt sịt, vừa này là học trò ở TamKỳ, đã cùng hai người
dìu bà cụ tới trước bàn thờ đang khói hương nữa theo ông vào bưng từ năm 1960. Thày
nghi ngút, trên đó là cái ảnh của hai vợ Như thường kể truyện với người quen về vết
chồng bé Hạnh chụp ngày đám cưới. sẹo khá lớn trên vai trái của ông là do một
Con dâu của chị đây nè! Nó nhảy sông, chết lần vào năm
theo chồng nó đã hai tháng nay rồi! 1968 đơn vị của ông bị Biệt Động Quân
Nghe thế, bà già BắcKỳ ngã lăn quay ra nền VNCH phục kích. Lần đó ông bị bắn gãy
nhà, đôi mắt trợn ngược. Mẹ con bé Châu tay, năm tên hộ tống thì hai chết mất xác.
phải đánh dầu, cạo gió cho bà, hồi lâu bà già
mới tỉnh. Bà cụ lồm cồm đứng lên, với tay Sau khi chiếm được ĐàLạt, ông cất nhắc cho
ôm cái ảnh của vợ chồng bé Hạnh vào lòng. ba tên học trò sống sót làm những chức vụ
Nước mắt ròng ròng, hai mắt bà nhìn như quan trọng, tên Bình làm bí thư riêng, tên
ngây như dại vào cái ảnh trên tay, Thuận làm hậu cần, tên Xuyên vốn là
Con ơi! Sao hai con đành bỏ mẹ? Con ơi!... thương binh, nên được giao cho chức chủ
Con ơi!... nhiệm một hợp tác xã rau trên ĐàLạt.

Rồi tay ôm cái ảnh, bà cụ thất thểu bước Giữa năm 1977 ông nhận một người bà con
chân ra cửa. Bé Châu cố giữ bà cụ lại thì bà của tên Thuận là cô Xuân vào làm thư ký
cụ trợn mắt, mắm môi, giựt tay ra, rồi chạy riêng thay cho tên Bình chuyển ngành sang
biến ra đường. công an. Ông thương cô Xuân lắm, đi đâu
cũng chở cô Xuân theo. Ông nói rằng ông
Hu!... Hu!... Hu!... Tiên sư cha quân cướp coi cô ấy như con, vì cô ấy có vài nét giống
nước! Chúng mày giết con tao, giết dâu tao, bé Hạnh, tính tình cô ta cũng rất thùy mị, dễ
đồ chó má! Tiên sư cha cái đồ CộngSản dã thương, nhưng trên tỉnh, nhiều người xầm xì
man! Tiên sư cha nhà chúng mày!... Hu!... rằng cô Xuân là bồ nhí của ông Như.

Hu!... Hu!... Đùng một cái, giữa trưa ngày lễ mùng Hai
Bà già vừa đi, vừa chửi rủa, vừa than khóc, tháng Chín năm đó công an của Bộ Nội Vụ
kêu gào. Từ ấy tới nay bé Châu không gặp ập vào văn phòng bắt tại chỗ ông Như và cô
lại bà lần nào nữa. Những ngày tháng tiếp Xuân đang lõa lồ nằm ngủ với nhau trên
theo, nhà thày Như lúc nào cũng u sầu, ảm giường sau bàn giấy của ông. Người ta chụp
đạm. Ông đi làm trên tỉnh, lâu lâu mới ghé ảnh làm biên bản, rồi còng tay ông dẫn ra xe
nhà. Sức khoẻ của cô Ngọc sa sút nặng nề. chở đi. Cô Xuân thì khóc lóc thảm thiết,
Mắt cô mờ đi vì khóc quá dài ngày. Đôi mắt khai rằng thủ trưởng Như đã hãm hiếp cô ấy
cô thâm quầng. Hai gò má nhô cao, hốc hác. nhiều lần trong văn phòng này. Cô ta nói,
Mái tóc đẹp như mây ngày nào giờ này chỉ ông ta hăm dọa sẽ bỏ tù cả nhà cô, nếu cô hé
còn là một mớ bùi nhùi sau gáy được túm

răng cho người khác biết chuyện đồi bại Về tới nhà, thày Như ra ngồi bên mộ cô
Ngọc và bé Hạnh khóc vùi hai ngày. Sáng
này. ngày kế tiếp, ông ra bờ giếng mài con dao
quắm, dắt vào lưng rồi bước ra cửa. Từ đó
Được tin, cô Ngọc hộc tốc chạy lên Ty thày Như hóa điên, đi lang thang hết chợ
CôngAn Tỉnh. Gặp cô, ông ta thề sống, thề Tùng Nghĩa tới chợ ĐứcTrọng, nằm bụi nằm
chết với vợ rằng ông ấy bị cô Xuân và tên bờ, không bao giờ bén mảng về nhà. Nhiều
Thuận dụ dỗ cho uống thuốc mê, chứ ông lần bé Châu đi tìm cha, nhưng ông không
hoàn toàn vô tội. nhận ra em. Có cả chục lần em bị ông chém
Tối hôm đó, cô Ngọc kể cho bé Châu nghe suýt chết, vì ông ta cứ lầm em với cô Xuân.
một điều từ lâu cô giữ kín trong lòng. Cô
nói, thời gian sống trong mật khu, chồng cô Sau khi rót ly nước trà mời tôi, bé Châu rầu
đã nhắn cô vào thăm hai lần. Lần đầu là dịp rầu,
cuối năm 1963 sau khi đảo chánh ông Diệm.
Lần thứ nhì là giữa năm 1965. Cô Ngọc Anh gặp em lần này chắc cũng lại chia tay
thương chồng hơn ai hết trên cõi đời này, ngay thôi. Đồ đạc trong nhà, em bán hết rồi.
nên cô ráng làm vừa lòng chồng, dù biết Em đã quyết định từ bỏ cái xứ này để trở về
rằng việc vào mật khu là một sự mạo hiểm quê ngoại.
chết người. Cô vào rừng ở với chồng mỗi Tôi thắc mắc,
lần nửa tháng. Chồng cô muốn có đứa con Nhà cửa, công ăn việc làm của em ở đây.
trai, nhưng vợ chồng cô đã thất bại. Em về Huế làm gì?

Sau đó cô Ngọc đi khám bác sĩ, bác sĩ cho Bé Châu sụt sùi,
biết kinh nguyệt của cô không đều, nên rất Tháng trước, cơ quan kiểm kê ruộng đất của
khó có con. Tới ngày chồng cô về thì cô đã tỉnh có đến khu vực này để điều tra, cấp giấy
hết khả năng sinh đẻ. Cô tắt kinh trước đó cả tờ hợp thức hóa sở hữu điền địa để khai
năm rồi. thuế. Người đứng tên làm chủ khu đất này là
Cô nói, chuyện đau buồn vừa xảy ra, một Ba. Dù em khai là con gái Ba, nhưng người
phần là do lỗi cô, chỉ vì cô đã không sinh ta không tin. Từ ngày Ba về, xảy ra hết
được một mụn con trai, nên mới ra nông nỗi chuyện này tới chuyện khác, đâu có thời giờ
điều chỉnh lại giấy tờ? Tới nay em vẫn là
này! Nguyễn Thị Hương, con ông Nguyễn
Trường Giang, con bà Nguyễn Thị Mỹ. Em
Đêm đó bé Châu ngủ rồi, cô Ngọc vẫn còn không đủ tư cách pháp lý để ở lại trong căn
ôm mặt khóc. Sáng hôm sau, cô Ngọc ngủ nhà này. Từ ngày Mẹ mất, em không đi đâu
luôn không dậy. Cô đã uống hết cả một ống xa. Hết giờ dạy học, em lại về loanh quanh
thuốc ngủ hai chục viên. Liều lượng ghi trên trong rẫy. Chẳng mấy chốc đã gần bốn mươi
toa thuốc là tối đa một viên cho người lớn. tuổi, em là cô gái lỡ thời rồi. Hai tuần lễ
Trong thời gian thầy Như bị giam giữ thì tên trước, có ông cán bộ già người Bắc góa vợ
Thuận đã bán hết nhà cửa xe cộ, rồi cùng cô tới ngỏ ý xin lấy em. Ông ta hứa sẽ can thiệp
Xuân dắt díu nhau đi đâu không ai rõ. cho em tiếp tục làm chủ mảnh đất em đang
ở, nếu em nhận lời ông ta.
Sau đám tang cô Ngọc, người ta thả thày
Như ra. Ông bị tước hết chức tước, quân Anh ơi! Anh có tin rằng con người ta có số
hàm, nhưng không bị tù, vì họ xét trong mạng hay không? Sao số em lại khốn nạn
chiến tranh ông là một “anh hùng” của

chúng.

đến thế? Em có làm gì nên tội đâu anh? Sao Tay phải ông cầm một con dao quắm, cán
ông trời nỡ đày đọa em như vậy? Mới đó mà dao dài chừng hai gang. Đầu ông đội một cái
hết tuổi xuân. Mới đó mà sắp qua một đời mũ lưỡi trai bộ đội có phù hiệu QuânĐội
người. Rồi bé Châu nói như khóc, Cộng sản. Ông mặc cái quần kaki cũ bết bùn
Thôi anh về đi! Chúc anh chị và các cháu đất bẩn thỉu xăn tới đầu gối, và cái áo bộ
sớm tai qua nạn khỏi. Chúc gia đình anh vạn đội rách xác xơ. Trên nắp túi áo, lủng lẳng
điều hạnh phúc! Anh về bình an! một mớ huy chương. Căn cứ theo bộ dạng,
và giọng nói của ông ta, tôi đoán tuổi ông
0 chừng trên, dưới sáu mươi.
Bước tới hai bước, người điên hét, “Tao
Sáng Thứ Hai, tôi đi làm. Cô Nhi chờ sẵn chém mày! Cái thằng phản thày!”
trước cửa, Ông quơ con dao chém một nhát vào không
khí. Ông nhe hàm răng xám xịt, cái mất, cái
Tối qua cô Hương có qua nhà, nhờ em nhắn còn, cười hì hì. Ông lùi hai bước, hét,
với anh rằng sang nay cô ấy đi sớm. Cô về
Huế để xuống tóc đi tu. Cô ấy hứa rằng hàng “Tao xử tử mày! Cái đồ phản bạn!” Ông
ngày sẽ cầu nguyện cho gia đình anh được nhặt cái nón mê chùm lên trên cái mũ lưỡi
hạnh phúc. trai, đưa hai tay kéo vành nón xuống phủ tai,
Hôm nay thì mặt chị Phú đã hết nặng chình rồi chu miệng hú một hơi dài.
chịch, chị cười toe toét, Tiếp đó, ông ngồi xẹp xuống đất, lột nón mũ
Bà con mấy chục năm gặp lại mừng quá há? ra, ngước mặt lên trời, đôi mắt lờ đờ như mơ
màng thả hồn đi tận đâu đâu. Khi ông già
Không phải bà con đâu! Hàng xóm thời tiểu điên ngửng mặt nhìn lên, tôi chợt thấy đôi
học của tôi đó! Xa nhau mấy chục năm trời lông mày của ông ta, đôi lông mày xếch
mới gặp lại. Chưa chi đã chia tay lần nữa. ngược.
Khoảng mười giờ sáng, chú Lượng ghé
tiệm, báo tin vui, Chòm râu bạc lưa thưa, mái tóc rối bù xù,
Anh về làm hồ sơ đi Mỹ là vừa. Các quận ở cùng với bộ lông mày xếch, khiến khuôn
SàiGòn bắt đầu nhận đơn rồi đó. mặt lem luốc của người điên thêm phần man
rợ, dữ dằn.
Cô Nhi tròn mắt, Ông già quay ngược cán dao, ôm cây dao
quắm như ôm cây đàn. Năm ngón tay sần
Anh Hai là sĩ quan chế độ cũ hả? Anh nói sùi của ông run run, lần mò trên cán dao,
tiếng Bắc rặt như người ngoài Bắc mới vào như đang bấm cần đàn, miệng ông ngân nga,
mà! Anh Lượng nói thiệt hay nói chơi vậy? “Đồ... Sol... Fa... Mì... Fa... Lá... Sol...”
Chuyện này ai mà nói chơi!
Ăn cơm trưa xong, tôi giã từ ngã ba Phil- Qua điệu nhạc, tôi nhận ra ngay, đó là đoạn
Nôm về ĐứcTrọng thu xếp hành lý. mở đầu của bài “Chiều Về Trên Sông”. Hết
khúc đàn tưởng tượng, người điên ôm mặt
Sau bữa cơm chiều, tôi chào tạm biệt vợ
chồng bà chị họ, rồi ghé nhà anh bạn Lượng khóc,
tốt bụng, để bắt tay cám ơn. Anh Lượng “Em ơi! Không phải tại anh! Em ơi! Đừng
vắng nhà. Tôi lững thững tản bộ về hướng bỏ anh! Em ơi! Em ơi!...” Tiếng ông khóc
chợ để kiếm xe vận tải quá giang về SàiGòn. nghe nghẹn ngào bi ai lạ lùng!
Mặt trời xế bóng, chợ chiều đã tan.

Trước cửa tiệm trà, một người điên đang
múa may. Bộ tịch của ông trông giống một
vai hề trong vở tuồng hát bội. Mặt mày ông
ta lem luốc, bẩn thỉu. Hai môi sưng vều.
Ông già kẹp một cái nón mê bên nách trái.

Nếu không biết tiếng khóc đó phát ra từ xướng âm đoạn chót của bài ca người điên
miệng một người điên, người nghe có thể bị vừa hát,
tiếng khóc làm cho mủi lòng rơi nước mắt. “Mì... Sòl.. .Đô... Là... Đô... Mí ... Đồ...
(Là)... Đô...”
Sau năm 1975 quê hương tôi đã xảy ra Bản nhạc năm xưa còn đó, nhưng thế sự đã
không biết bao nhiêu chuyện lạ đời. Giòng đổi thay, con người cũng đổi thay.
đời như giòng nhạc, những nốt thăng trầm là
phần số của con người. Tôi thở dài, quay gót bước đi.
Nghĩ tới những gì đã xảy ra trong thời gian Trước mặt tôi là Quốc lộ 20 buồn thiu.
qua, lòng tôi chợt thấy xót xa. Tôi khe khẽ Sau lưng tôi là sân chợ chiều vắng ngắt.
Seattle, ngày 20 tháng Ba năm 2011

SAO HÔM,SAO MAI… Ở PleiMe, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu
trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm
(VƯƠNGMỘNGLONG‐K20) tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân
thời TamQuốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng
Giữa tháng 4 năm 1974, một trận đánh vô hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của
cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng mình để đương đầu với một đơn vị địch
suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình. Tôi biết
hướng tây nam. Trong hai ngày 14 và 15 rõ Sư Đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức
tháng 4 năm 1974, Tiểu Đoàn 82 trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản.
BĐQ/QLVNCH bị hai Trung Đoàn 48 và 64 Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác
của Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt xa chiến của Sư Đoàn 320 ĐiệnBiên, cũng là
luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc.
người. Sau những cơn mưa pháo là những Họ rất tinh khôn, và không kém can trường,
đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẩu
thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của
tháng 4 năm 1974 CộngQuân tràn ngập căn ta, trong đó, chính ủy SưĐoàn 320 đã cảnh
cứ hỏa lực 711. giác các đơn vị dưới quyền,

Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu Đoàn “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp
82 BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần với Thằng Hai Nâu (?)”.
hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ
chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82
bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.
hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu
đoàn bộ binh, Tiểu Đoàn 82 BĐQ trừ () đã Một ngày, giữa tháng 6 năm 1974, trong
trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng
dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện
Động Quân PleiMe, vì thế, chỉ sau hai đêm, thứ nhì,
lực lượng CộngSản bám trụ đã bị đánh bật
ra khỏi vị trí cố thủ. “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại,
phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao
Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề nó!”
của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta
là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320 CSBV
trên 200 quân bị giết (trong đó có một ra lệnh cho Trung Đoàn 48 SĐ320.
thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được
gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”. Trận Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua
chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh
mãnh liệt như một cơn dông mùa hè. Rồi, trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp
tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, xuống như những luống cày. Hình như trong
chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về
suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông
. bắc xuống tây nam, sát chân núi ChưGô.
Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng
đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại

Úy Quách Cơ Bình (K22 A) đang là tiểu Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm
đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội dưới quyền giám sát hành quân của niên
bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, trưởng Thông.
tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và
đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh Niên trưởng Thông hỏi,
bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém
trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy
trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô em?
tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới
cổng nam trại PleiMe tôi mới lên máy gọi Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể
chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện cho niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi
đàm giữa tôi và Đại Úy Bình, thì từ biên vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi,
giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái rồi đề nghị,
đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất
cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về
nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn,
địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn Đại Tá Thông đồng ý ngay,
nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc ChợLớn
bị tử thương. Rồi tình hình lại yên… Okay, Làm đi! Chắc tên ViXi này tới số nên
mới gặp chú…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp
chỉ huy CộngSản chiều chiều cưỡi ngựa, Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị
thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). khựng lại vài ngày vì chú Quách Cơ Bình
Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán.
ngọn núi lửa, cách PleiMe chừng bảy cây số. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới
Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ bổ sung, tôi đem Đại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy
hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn PleiMe trong
động của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trừ () và lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung
Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Trung Tá Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ
Nguyễn Thanh Danh (K19 VB) Trung Đoàn Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực
Phó Trung Đoàn 42 Bộ Binh đang chỉ huy lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí
cánh quân bộ binh. là Đại Đội 1/82. Khi tôi đã hoàn tất tổ chức
địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường
Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị
ViệtCộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn cho tôi là Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm
nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho Đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn
tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng cây số hướng tây bắc PleiMe. Tôi đã dự trù
bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục
vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi
Trung Tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, theo tôi trong chuyến làm ăn này, những
Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi quân nhân còn lại trong đơn
đã gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (K16VB)
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 SĐ22

vị hoàn toàn không biết thày trò tôi đi đâu. Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông Thiếu
Trên tần số, không ai được phép đả động tới Tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
việc tôi xuất trại.
Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa
Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường lắm…
xe be cách ngã ba Tỉnh Lộ 6C làng Xổm
chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của Rừng già xanh rì trải dài mênh mông.
đoạn đường này không bị khai quang như Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei
hai bên lề Tỉnh Lộ 6C. Cây rừng chen chúc Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một
nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng
cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim
hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn
của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ
chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động
điểm mốc. Hai lằn đạn chì của Claymore sẽ cơ rõ dần, gằn từng cơn, như
giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng
năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.
vào tử địa là coi như DiêmVương đã gọi.
Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh,
Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự.
Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu.
Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Xong là rút liền!

Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục
giữa đỉnh đầu… kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn
đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con
Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi, đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn,
năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên
Thiếu Tá! Có tiếng xe! bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng,
với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn
–Tao có nghe gì đâu? vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi
cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ
Tôi quay sang hỏi chú Chi, dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình
trong cỏ, đợi chờ…
Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân
Trung Sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…..Ỉm!…” đoàn xe rồ
rồi lắc đầu, máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong
PleiTrap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe
Dạ không. Em không nghe gì cả! … tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài
tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi
vừa càu nhàu, móc xích bám vào guồng quay. Lần này,
chiếc tank đang tiến tới không gây ra
tiếng“két! két!”

Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh bà chủ xe be khoe với tôi.
khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc.
Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi Tại sao xe của bà bị ViệtCộng bắn? Bộ bà
chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra không đóng thuế cho CộngSản à?
đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn
đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu
Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra vực quanh IaDrang. Vi phạm lệnh cấm là họ
dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn
đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những
để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ
xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy À ra thế!
xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm.
Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về
nhau qua con dốc. tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì
hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo
Chú Ba lầm bầm, cho anh biết tin tức người quen của anh
đang tá túc trong trại PleiMe, sáng mai đoàn
“Đồ phá thối!” xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.

Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi Ngày kế tiếp…
cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng
tôi rút về tiền đồn bắc của trại. Khoảng bốn Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng
giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Chư Prong sát biên giới Việt Miên.
Tỉnh Lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có
mười hai người dân khai thác lâm sản xin “Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng!
vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” đàn chim khách rời
thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng
ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.
với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một
phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người “K’rọc!…K’rọc!…” “Hừm!…Hừm!..”
thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc
dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động
Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị phát ra nghe lạ quá!
ViệtCộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua
đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng.
xe kéo bị“lột dên” không tiếp tục được. Họ
biết đường vào PleiMe dễ đi hơn đường ra Tiếng “K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm!
căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép …Hừm! …” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo
đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người
qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn. ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần
điểm mốc, ranh giới của tử địa.
Tôi là người quen của Trung Tá Danh…

“K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm! …Hừm! một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc
…” Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, giòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần
cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng
trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây
bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ súng lục đeo chéo qua vai.
chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi
nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc,
này lại hắng giọng, “Hừm!…Hừm!..” Còn
tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do “K’rạch!”
con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta,
lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mìn không
nổ!
đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút
chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó
vào Tỉnh Lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ
lạnh lùng, vắng lặng. quơ lên trời.

Chớm bóng chiều. Muỗi “Hí!… Hí!… Hí!…í!…í!…í!…”

rừng “O…o…o…” sau gáy. Sợ địch đánh Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng
đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong
hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi bụi lau bên kia đường.
“Oành!”
cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống
quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một
muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá gãy.
Tiếp đó,
mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích
“Rẹt! Rẹt! Rẹt!…”
trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có
bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát
con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh mặt đất.

ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe
be, miệng phì phì sùi bọt.
chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám gãi,
Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai
không dám đuổi xua đàn muỗi đói. đầu đường. Hạ Sĩ Ba và bốn tay súng băng
nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình
Chợt rừng chiều xào xạc… ngựa bị ghim đầy vết mìn Claymore và vết
đạn M16. Nhưng trong vòng bán kính một
“Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng! trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích
Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” Hướng tây, đàn của chủ nó. Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy
chim khách lại rời cành, vụt bay lên không.
Lần này tiếng chim rộn rã, dồn dập hơn lần
trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng
vó ngựa nện trên đường,

“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”

Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy
lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc
Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba.
Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một
con cóc Claymore.

“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”

Phạm Đại Việt đang hoạt động vùng tây bắc Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập
PleiMe được điều động hỏa tốc tiến về kích đã được các đơn vị CộngSản thuộc Mặt
hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu
Gà. quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp
nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng
tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch
hướng bắc con đường, chúng tôi tìm được tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo
dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên
thoát thân thẳng về hướng bắc. ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì
địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung
Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát phong đầu, ViệtCộng đã chặt đầu Thiếu Tá
giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của
hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến TĐ81 BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày,
dòng điện bị ngắt, trái mìn câm. chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó
TĐ81 BĐQ là Thiếu Tá Trần Văn Ngọc
Chú Chi càm ràm,
(K18 VB).
“Chắc thằng ‘cội’ này có bùa!…”
Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung
Ít lâu sau… Đoàn 48 SĐ 320 của địch không tiến được
bước nào. Suốt ngày 27 tháng 7 năm 1974,
Trung Đoàn 42 SĐ22 Bộ Binh chuyển ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ
vùng hoạt động về BìnhĐịnh, căn cứ 711 xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt,
được bàn giao cho Liên Đoàn 24 BĐQ trách nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi
nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82 lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì
BĐQ được thu hẹp lại vể hướng nam hai cây khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục
số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt
của TĐ81 BĐQ. Thiếu Tá Nguyễn Ngọc đường và hai bên đường trống trơn, địch
Lân đã đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiểu xung phong vào chốn không người. Trước
Đoàn 81BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh Lộ
núi lửa nơi ngã ba làng Xổm. 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở
đường của TĐ82 BĐQ không trải dài trên
Trưa 27 tháng 7 năm 1974 chiến dịch tấn trục lộ như thói quen của các đơn vị khác
công xóa sổ đồn PleiMe mở màn. Với sự khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn
yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố
Trung Đoàn 64 SĐ 320 CSBV hướng bắc, cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dã
Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV hướng nam, ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82 BĐQ
đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai đã khiến Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV
tiểu đoàn Biệt Động Quân không thi thố được sở trường bôn tập của
nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây
đang hành quân mở đường dọc Tỉnh Lộ 6C. Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của
Mặt Trận B3 thất bại.

Những ngày sau đó, tiền đồn PleiMe bị cô
lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân

chiến. Hết Trung Đoàn 48 SĐ 320 đến thượng tá của QuânĐội NhânDân Việt Nam,
Trung Đoàn 64 SĐ 320, rồi tới Trung đoàn với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe
26 Địa Phương của Mặt Trận B3 thay nhau thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội
phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ trang bị AK. Người sĩ quan BắcViệt cùng
PleiMe. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa
mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn chỉ.
ĐiệnBiên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba
sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại.
giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,
đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm.
Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Sáng ngày 2 tháng 9 năm 1974 chiến dịch
vây hãm PleiMe chấm dứt. Thêm một lần Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng
đụng độ,“Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng.
địch biết rằng, ở TâyNguyên, Tiểu Đoàn 82 Bà cụ lên BanMêThuột để tìm kiếm vợ con
Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi tôi.
hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại.
Trung Đoàn 48 SĐ 320 là đơn vị địch bị Phải! Các ông cần gì?
thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm
này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
bổ sung và tái huấn luyện.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận
Tới đầu năm 1975, Trung Đoàn 48 Sư nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay
Đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng
trong chiến dịch tấn công BanMêThuột. Lúc tôi vẫn từ tốn trả lời,
đó Tiểu Đoàn 82 BĐQ đã chuyển vùng về
bảo vệ tỉnh QuảngĐức. Vì thế“Thằng Hai Tôi đây!
Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ 320
ĐiệnBiên CSBV không còn dịp nào chạm À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh
mặt nhau nữa… khỏe không?

Sàigòn, ngày 7 tháng 5 năm 1975, Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.

Hai chiếc xe con của QuânĐội NhânDân Ông thượng tá QuânĐội BắcViệt quan sát
ViệtNam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, tôi vài giây rồi nói,
phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2,
Sàigòn. Một người cao lớn, bận quân phục Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa
lực lượng vũ trang CộngSản BắcViệt bước chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với
xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?
trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng
ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm Vâng, mời ông vào nhà.

Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám
trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ
quan

CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề
đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người

có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông Ông khách thao thao,
gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa
tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn Tớ là con quan Lang xứ CaoBằng. Mười
chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ
ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận
chút âm sắc lơ lớ ThượngDu BắcViệt, ông ta bây giờ. Đánh ĐiệnBiên tớ làm đại đội
mở lời, trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam,
tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh
–Anh Long có nhận ra tôi không? Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra
tử. Giờ này mới thấy hòa bình…
–Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp
ông lúc nào. Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước
1945 ông học trường Tây ở HàNội. Ông sắp
Tôi là người bị anh giết hụt ở TâyNguyên thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám
cách đây một năm. xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân
liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể
À… chuyện đánh thắng ĐiệnBiên, thời Tây,
chuyện giải phóng TânCảnh, thời Ngụy,
Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ
ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, ở PơLây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn
nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt
anh, nói chuyện với anh vài phút.Thế nào, 320
có được không?
ĐiệnBiên CSBV rời địa bàn Kontum, chia
Ư…ư.. ông cứ tự nhiên… đôi, một nửa về chiến trường BìnhĐịnh, một
nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói nhắc trận thư hùng tháng Tư năm 1974 bên
của ông oang oang, cung cách của ông thật bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi
là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa
tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối
Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cùng, ông ta đã thua tôi (TĐ82 BĐQ).
cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình
nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động Khi kể tới trận vây đồn PleiMe 34 ngày đêm
viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu (tháng 7 và 8 năm 1974) ông ta la lớn,
lần được tặng thưởng huân chương?
Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung
người địch thủ cũ của mình không có ý tầm phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết
thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không
ngại. chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ
cuộc! Gớm thật!
Người sĩ quan BắcViệt ôn lại chuyện xảy
ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi
ở Điện BiênPhủ, ở Quảng Trị, ở Tây- đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán
Nguyên. dương,

–Lì thật! Tớ khen cậu đó!

Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi
của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.
Ma Thuột tháng Ba năm 1975 và màn bôn
tập Quân Đoàn II Ngụy trên đường rút chạy. – Cám ơn ông.
Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn
trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Vào lúc người sĩ quan CộngSản cất bước, tôi
cố với theo,
Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói
say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm – Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm
ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. tôi giết hụt ông.Thế là hòa. Còn trận PleiMe
Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành
Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi rành. Về cái vụ BanMêThuột, tôi công nhận,
tôi, nụ cười như mếu. ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh
nhau với ông ở BanMêThuột không phải là
Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã tôi.
ba lần, ông ta thắc mắc,
– Anh nói đúng.Trong trận BuônMaThuột
– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số
cách ngoan cường, lì lợm như thế? những người bị tôi bắt, không có anh…

Tôi chỉ trả lời thật gọn, Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt
ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.
– Vì chữ hiếu!
Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với Đội NhânDân ViệtNam và người khách
câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không không mời rời con hẻm.
gặng hỏi thêm.
Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người Z30D HàmTân, ThuậnHải.
khách không hẹn gặp ra về.
Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất
Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu cảnh sang HoaKỳ tỵ nạn.
giọng như thông cảm,
Từ tháng Giêng năm 1990, những người
– Tôi còn ở Sàigòn ít lâu nữa. Tôi được đề bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi
cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng
Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn (KQ), Lý Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều
nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn.
lần trên Tây Nguyên, hai lần bất phân thắng Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn
bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù Thanh Danh (K19VB) và Lê Văn Để (BĐQ)
rằng anh là lính Ngụy, vẫn bặt vô âm tín.

tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao
sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với
Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi

Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở CôngAn Quận –Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một
1 Thành Phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà
mình thì được biết, cô Huyền, người nữ tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
CôngAn phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ
phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi
học một lớp AnhVăn kéo dài nửa năm. Một vào phòng ngủ quốc doanh.
anh bạn gốc Không Quân đã giúp tôi rút hồ
sơ ra để chuyển lên Sở NgoạiVụ. Anh Danh – Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm
và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ một người, tính thêm ba nghìn…
tôi đi HàNội làm thủ tục xuất cảnh để được
cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả
đem hồ sơ ra HàNội nộp cho Phòng Xuất một cách dứt khoát.
Cảnh Bộ NgoạiGiao, sẽ lướt qua ít nhứt vài
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã
ba danh sách. chờ sẵn,

HàNội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng – Bên kia đường…theo tôi…
tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào
đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư
ngày cũ. ngụ của công chức về hưu, đối diện với
khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có
Tôi đạp xe một vòng quanh Sàigòn, gặp khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ
người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22
Biệt Động Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. – Nhà tôi đây…
Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (K21VB) cho
tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải
người anh con dì con già của tôi cũng giúp buồng ngủ,
tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ – Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn,
phí lên đường về HàNội. ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm
trong
HàNội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga HàngCỏ vào buổi chiều. ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại.
Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười
Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách
qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện sạn quốc doanh không có nước phông ten,
bên đường và trên cổng vào ga đang oang tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít.
oang phát đi những bài hùng ca thời chiến Bên này, chú tắm chán thì thôi…
tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì
nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một
vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất
bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy
kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra
chờ, dơ tay ngoắc, đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông
chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách
–Tìm nhà trọ phải không? đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện
với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng
–Phải…

thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, –Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng,
tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chúng nó cần mình. Sau…chúng nó thải
chán! mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái
chúng nó thay mình, kiếm ăn…
Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường,
cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái –Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc
một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong
một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, –Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp
hai người kia đều nghe rõ… ba, chưa thi SơHọc YếuLược (thời Tây) thì
xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng,
– Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-
không về? Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam
xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết
ông chủ nhà gợi chuyện. Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng
khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều.
–HảiDương Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt
đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của
–HảiDương xe chạy cả đêm, sao không về? một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng
lượng…học sinh nghe theo răm rắp…
–Tôi có việc phải ở HàNội vài ngày…
–Rồi sau đó…
–Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
–Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học LiênXô,
–Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, TiệpKhắc trở về. Chúng nó thay chân những
xuôi Nam… tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn
hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê
–Có thường ghé Sàigòn không? mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho
họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
–Chuyến nào mà chẳng ghé…
–Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
–Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn,
bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ? –Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa
thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài
–Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đã ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung
ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó? sướng gì đâu em ơi!

–Tớ dậy học. Tớ dậy ĐạiHọc KhoaHọc… Tôi trải cái bản đồ thành phố HàNội trên
sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ
–Ủa! Vậy ra bác là giáo sư… cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,

–Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám –Tìm cái gì đấy hở?…
nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về “hiu”…
–Phố Hàng Bài…
–Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm
thế? –Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến
ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!

Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ
trần nhà, miệng cười hì hì, giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu,

– Chú em đi buôn đường Sàigòn, HàNội “Anh ở đầu sông, em cuối sông…”
mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có
ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ- Giọng cô ta không cao vút, không nhọn
Tướng… hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của
bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật, đêm qua êm đềm, không mộng mị.

– Tôi là sĩ quan của QuânLực ViệtNam Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng
CộngHòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra HàNội để Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất
nộp đơn đi Mỹ… cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên
ba mươi sáu phố phường HàNội. Ở đây chỉ
– Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng có những con đường nhỏ hẹp như đường
nói của chú em không còn thuần túy Hải- phố cổ HộiAn trong Nam. Tiếng chuông xe
Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân HảiDương. điện “leng keng!…leng keng!…” làm cho
Trước chú, đã có đôi người của chế độ thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng
Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-
ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách
những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế quây quần bên những gánh quà vặt, chè,
là may mắn lắm rồi… thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả,
cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng,
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài, nước chè tươi …

– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. – Chè đỗ đen đi chú em… Cho tôi một bát.
Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại
sai… Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt
ngừng tay, reo lên,
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người
qua lại, nhưng trên đài phát thanh HàNội, Tô – Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái
Vót Chông”.Giọng cô CaSĩ NhânDân cao Tôi giựt mình,
vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre.
Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình
trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới là đại tá?”
tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông
chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một
Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà,
gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những một giọng đàn ông oang oang,
ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại
ngoài hiên. –Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.

Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi
thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi
nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt

–Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho – Xích lô! Xích lô!
ông đại tá ĐiệnBiên, TâyNguyên lấy sức
“đánh”… xích lô. Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà,
nhổm dậy thật nhanh,
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế
con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ –Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ
sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
người phu xe già than thở,
–Được mà! Khách quen, mai giả cũng được
–Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được mà…
cuốc nào. Chán bỏ xừ…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì
–Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia
tem phiếu giá chui cao quá… đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ
mười lăm năm trước (tháng 5 năm 1975)
–Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của
mua tem, mua phiếu…Mẹ kiếp! Hồi xưa người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm
đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2
hòa bình, nó duỗi mình ra, nó ăn cả, đồ chó thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất
má! thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại
hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi thượng tá ĐiệnBiên, anh hùng QuânĐội
trao giữa hai người, bà bán chè giải thích, NhânDân ViệtNam có đôi vai ngang, người
phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm
– Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng vào đó, thân hình người phu xe già cũng
ĐiệnBiên, TâyNguyên đấy! Đáng nhẽ ra, vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang,
những người có công với tổ quốc, với cách lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ
mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt CaoBằng.
mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân
dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm
xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục
quá! lang thang quanh bờ hồ.

Người phu xe già thở dài, Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn
– Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng hình ảnh người phu xe già, với câu than thở,

tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như…một “Bây giờ, thân tớ ví như…một vì sao rụng”
vì sao rụng.
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao đất ThăngLong, tôi đứng bên này đường,
rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga
đó, lâu rồi… HàngCỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con

Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí
nhớ, xem ông già này có nét gì quen không,
thì bên bờ hồ có tiếng gọi,

tôi lên tàu hỏa xuôi HảiDương, ngày tôi tròn Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để
bốn tuổi. Hôm ấy (1946) bố tôi bế tôi trên lên tàu về lại Sàigòn. Ông chủ nhà dậy sớm
tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay khui gói chè móc câu TháiNguyên pha tiễn
hát, “Ai yêu Bác…hơn chúng em…” khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ
nhà trọ, rồi bước ra đường.
Bố bịt mồm tôi lại,
Sáng mùa Thu HàNội, buồn hắt hiu. Heo
–Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không may nhè nhẹ. Điện đường lập lòe. Quán
hay…Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội
bài này nữa nhá! vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi.
Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi
bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay. những “bài hát không hay”.

Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, Đứng trên sân ga HàngCỏ, lòng tôi man
không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên.
tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu
không hay” đã giết bố tôi… tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không
trung mờ ảo mênh mông…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm
nay, trước ga HàngCỏ, đứng bên cái cột đèn,
nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi
thầm trong nước mắt,

“Bố ơi! Bố ơi!…Con nhớ Bố! Con thương
Bố! Bố ơi!…”

THÁNG BA NĂM XƯA… của Cộng Quân đang tiến như nước vỡ bờ,
để Thủ Đô có thời gian chuẩn bị di tản.
Tháng 3 năm 1975 dưới quyền tôi có Tiểu
Đoàn 82/BĐQ và một nửa Tiểu Đoàn Sau trận Long Khánh, TĐ 82/BĐQ rút về
63/BĐQ trấn giữ vùng biên giới Việt Miên, Long Bình, sẵn sàng cho trận đánh cuối
hướng tây của tỉnh Quảng Đức. cùng.

Thời gian này Tướng Phú đã thay Tướng Những ngày cuối tháng Tư năm 1975,
Toàn, và Đại Tá Tất đã trở thành Tư Lệnh Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất hết bị phạt
Mặt Trận Kontum. quản thúc.

Khi biết tin địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột, Ông lên LongBình, chọn vị trí tạm trú quân
vợ con tôi, cha mẹ, anh em tôi, gia đình binh của TĐ82/BĐQ làm nơi cho ông căng võng
sĩ dưới quyền tôi, đã không di tản khỏi nơi qua đêm. Những ngày đó, tôi lại được nghe
này, chỉ vì chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào Tư Lệnh tâm sự, như thời 1973, khi Tư Lệnh
sức mạnh của những người bảo vệ thành còn lao đao, khổ nhục dưới quyền Tướng
phố. Toàn. Ngày đó Tư Lệnh đã đối xử với tôi
như đối với một người em, một người bạn,
Nửa tháng trước ngày Cộng Quân tấn công và một người tri kỷ, để ông tâm sự và chia
Ban Mê Thuột, tôi đã đi bằng xe, từ Kiến- sẻ những khó khăn của công vụ, và cuộc
Đức lên Kontum, vượt hàng trăm cây số đời.
đường bộ, để gặp mặt, và nài nỉ Đại Tá
Phạm Duy Tất cho phép Tiểu Đoàn 82/BĐQ Tháng Ba 1975 vợ con tôi, gia đình thuộc
về trấn giữ thị xã đó, nhưng Đại Tá Tất đã từ cấp của tôi đã rơi vào tay giặc, mãi tới cuối
chối. tháng Tư 1975, Tư Lệnh mới nhớ tới tôi thì
đã quá muộn màng.
Tới ngày đầu chiến trận Ban Mê Thuột xảy
ra, trên máy truyền tin, tôi cũng hết lời cầu Tháng Tư 1975, Tư Lệnh đã mất hết binh
khẩn vị Tư Lệnh của tôi ban ơn cho chúng quyền rồi, đã quá trễ cho chúng ta làm được
tôi được trở về góp sức với quân bạn, tôi lại những điều cần làm cho gia đình và cho quê
bị từ chối. hương.

Ban Mê Thuột thất thủ nhanh quá! Trưa 25 tháng Tư năm 1975 Trung Tá Bùi
Văn Sâm đã mời tôi và Chuẩn Tướng Tất ăn
Quân Đoàn II cũng tan rã nhanh quá! cơm thân mật trên một quán nổi bên bờ sông
Biên Hòa.
Năm Liên Đoàn Biệt Động Quân của Vùng
2 thì bốn Liên Đoàn bị xóa tên. Bữa cơm này là bữa cơm sau cùng trong
quán hàng, chúng tôi còn đeo lon đội mão.
Riêng Liên Đoàn 24/BĐQ do tôi chỉ huy đã
về tới PhanThiết an toàn. Hôm đó, tôi đã nói với Chuẩn Tướng Tất
rằng,
Rồi Tiểu Đoàn 82/BĐQ đã góp công không
nhỏ trong trận Long Khánh cản bước tiến “Suốt đời lính, tôi chỉ có một điều ân hận là
tháng 3 vừa qua Tư Lệnh đã không cho phép

tôi và Tiểu Đoàn 82/BĐQ về Ban MêThuột Ba ngày sau, tôi đem quân vào vùng. Chỉ có
để cùng gia đình thân thuộc sống chết có một phần mười quân số của TĐ82/BĐQ còn
nhau. sống sót sau lần hành quân sau cùng đó.

Ngày mai tôi sẽ vào vùng. Bắt tay nhau lần Từ khi ra khỏi trại tù cải tạo (1988) tôi đã cố
này có thể là vĩnh biệt. Nếu Tư Lệnh có đi tìm cách liên lạc lại những thuộc cấp của
Mỹ được thì đi đi.” đơn vị cũ.

Hôm đó Tướng Tất rầu rầu, Số người tôi kiếm được, đếm chưa đầy trên
mười đầu ngón tay.
“Các anh còn chiến đấu, thì mặt mũi nào tôi
có thể ra đi? Mà qua Mỹ để làm gì? Gặp VƯƠNGMỘNGLONG
những người ngày xưa một điều kêu mình
‘Sir, Sir…’ hai điều kêu mình ‘Sir,Sir…’
Mình mắc cỡ lắm…”

THÁNG MƯỜI, NHỚ LẠI đưa, hai vai nhún nhún, đàng trước, đàng
sau. Người đó đang nhìn ra cửa. Ông ta đeo
Hồi ký Vương mộng Long k20 kiếng đen, mặc quân phục đen, giầy sault
đen, Trung tá Sơn Thương, chiến đoàn
Tháng Mười lại tới rồi! Nếu ở Huế, thời tiết trưởng, bắt tay tôi, rồi rất ôn tồn, "Trước
đã bắt đầu chuyển mùa vào Đông. Huế ngày đi tù, cậu đã làm đại đội trưởng ở
tháng Mười, trời mờ sương. Gió nhẹ và se TĐ11/BĐQ phải không?" "Thưa trung tá, tôi
lạnh. Những hàng cây sấu, cây bông sứ, cây coi đại đội 3/11" Ông bỏ cặp kiếng đen ra,
phượng, dọc hai bên đường LêLợi, từ chân nghiêng đầu ngó tôi một lúc, rồi ra lệnh cho
cầu TràngTiền tới Ga đã trụi lá. Liễu vẫn rũ ban 1, "Làm sự vụ lệnh cho Thiếu úy Vương
bên sông, đò vẫn đưa, nước vẫn xuôi dòng, mộng Long về TĐ 39 thay thế Trung úy
nhưng người qua lại đông hẳn lên vì trên Phan thọ Hạnh thuyên chuyển." Hôm sau,
con đường này có Viện ĐạiHọc, có Quốc- tôi vào lấy sự vụ lệnh. Sự vụ lệnh không ghi
Học, có ĐồngKhánh. Bướm vàng đã hiếm cho tôi đi MiếuBông, ĐàNẵng để thay thế
bay, nhưng áo len màu, choàng ngoài áo dài Trung úy Phan thọ Hạnh. Nơi tôi sẽ tới ghi
trắng, thì nhiều lắm. trên cái sự vụ lệnh này xa xôi lắm, vùng 2!
Mấy hôm rày, (tháng Mười 2006) bạn bè tôi Quyết định của Tư lệnh quân khu 1 thật rõ
đưa tin Huế đang bị lụt, tôi nhớ lại chuyện ràng: Hoàn trả sĩ quan đương sự về
xưa; nhớ lại một ngày trong đời mình. Ngày TĐ11/BĐQ (đang ở BiểnHồ, Pleiku). Lý do:
1 tháng Mười, cách nay đúng 40 năm (1966) Sĩ quan đương sự không được phép phục vụ
có một người lính, áo hoa rừng, bước thấp, tại vùng 1 Chiến Thuật.
bước cao, đi qua, rồi đi lại, nhiều lần, đoạn
đường từ Ga Huế, về tới chân cầu. Người Tôi đành lếch thếch balô mang vai, "tìm
lính tửng tửng đó là tôi, Biệt Động Quân đường lên núi".
Vương mộng Long. Trên đường, tôi đã gặp
vài người quen ngày xưa, hồi còn ở HộiAn. Ngày ấy ở Pleiku, Tiểu đoàn trưởng
Nói chuyện đôi lời, bạn vào trường, tôi tiếp 11/BĐQ là Đại úy Biên, TĐT/TĐ22/BĐQ là
tục bách bộ. Chẳng nhớ tôi đã đánh mấy Đại úy Luận, và TĐT /TĐ23/BĐQ là Đại úy
vòng qua đoạn đường này trong thời gian từ Chữ. Vì hồ sơ quân bạ của tôi lạc đi xứ nào
trưa tới chiều. Tôi đã làm cái màn bách bộ không ai biết; nếu cho tôi ra trận, rủi tôi đền
tửng tửng này để giã từ Huế. Hôm ấy, trong nợ nước, thì không biết báo cáo ra làm sao?
túi tôi có cái sự vụ lệnh về trình diện Chiến báo cáo cho ai? nên chẳng ông tiểu đoàn
đoàn 1 Biệt Động Quân đóng tại bãi cát trưởng nào nhận tôi về đơn vị. Trung tá
PhúLộc, HoàKhánh, ĐàNẵng. Tôi vừa được Nguyễn đức Ninh, Chiến đoàn trưởng,
phóng thích từ QuânLao MangCá. Tôi bị Chiến đoàn 2/ BĐQ đành gửi tôi cho Thiếu
giam ở đây 30 ngày vì tội tham gia vào vụ tá Phạm văn Toán, Chiến đoàn Phó, để ông
"Phản Loạn Miền Trung". Sáng hôm sau, tôi già Toán, "canh chừng cái Anh Chàng Thiếu
rời Huế, rồi từ đấy tôi chưa một lần về lại úy Phản Loạn Miền Trung này." (nguyên
nơi đây. văn). Ban quân lương chiến đoàn, Thượng sĩ
Phong và Thượng sĩ Đăng, cảm thông hoàn
Chiều ngày 2 tháng Mười năm 1966, tại hậu cảnh của tôi. Hai ông trình với Đại úy Kính,
cứ Phú Lộc (ĐàNẵng) của Chiến đoàn ĐĐT/ĐĐ/YTCV ứng
1/BĐQ, một người to lớn, ngồi trên bàn, hai bừa cho tôi cái lương trung sĩ, "cứ làm sổ
tay chống trên mặt bàn, đôi chân đánh đung lương trung sĩ, cho ông có tiền ăn, hồi sau
phân giải."

Tôi được chỉ định tạm phụ tá ban 3 Chiến cái hành vi ngông nghênh càn quấy vừa qua
đoàn 2/BĐQ ở BiểnHồ, Pleiku (nằm sát với của "mấy thằng nhỏ". Chính cái "phong cách
hàng rào TĐ11/BĐQ). Hàng ngày tôi vào NgôKhởi" của ông đã khiến những sĩ quan
trại, giúp đỡ Đại úy Huân, ban 3, vẽ "nửa" trẻ BĐQ chúng tôi xả thân quên mình nơi
cái phóng đồ, thảo "nửa" cái công điện, rồi tuyến đầu.
leo lên xe Lamb ra phố. Bạn BĐQ vùng 2
cùng khóa 20 VB của tôi lúc đó chưa có ai Một ngày, khi tôi đang đọc "cọp" tờ nhựt
leo lên tới chức chỉ huy đại đội. Chưa chàng trình ở sạp báo bé Hạnh, trước tiệm phở
nào có Jeep. Về phố, rủ tôi đi chơi, các bạn Kim Phượng, thì một giọng nói BìnhĐịnh
tôi phải dựa hơi các ông già đại đội trưởng, đàn ông sau lưng hỏi, "Ông thiếu úy có biết
để mượn Jeep. Có Jeep thì mai vàng mới tên Dương ở Tiểu đoàn 23/BĐQ không?"
oai. Chúng tôi lang thang đầu con dốc này, Một vị đứng tuổi, có lẽ trên 50, đang đứng
tới cuối con dốc khác, phiêu du từ quán này, sau lưng. "Dạ không! Thưa bác, tôi không
tới quán khác. Lúc nào đói bụng, chúng tôi quen ai tên Dương ở TĐ23 cả bác ạ." "Tôi là
chui vào Quán cơm BìnhDân Ba Cò nơi bến chú của thằng Dương, nó ở Tiểu đoàn 23/
xe cũ. Bà chủ quán cơm Ba Cò biết tên tôi Biệt Động Quân, tôi tưởng thiếu úy quen nó.
từ dạo đó. Lúc này HộiQuán PhượngHoàng Nhà tôi gần đây, mời thiếu úy ghé chơi"
vui nhộn vô cùng. Khi mới đặt chân tới "Cám ơn bác! Thôi! để khi khác, lúc nào
Pleiku, tôi cũng thường tới đây. Nhưng nhớ rảnh, tôi ghé nhà bác chơi." Tuần sau, "khi
lời mẹ dặn,"xướng ca..." tôi dang xa dần nơi khác", tôi tình cờ gặp bác Ba trên ChợMới,
này. Nhứt là, khi thấy cô Trang cave đập gần nhà thờ TinLành, tôi vào nhà bác chơi.
bầu, rồi cột cổ anh bạn Thiếu úy Hữu của Bác dạy côn, dạy quyền BìnhĐịnh cho tôi.
tôi, bắt làm cha khai sinh đứa bé mới ra đời, Nhiều thế côn Bình Định đã giúp tôi thoát
tôi không dám bén mảng tới đây nữa. Ông chết trong những cú xáplácà năm 1969. Tối,
Tướng vùng hào hoa và bình dị VĩnhLộc tối, tôi học võ ở sân nhà bác, ăn cơm nhà
không có vẻ gì là ghét bỏ BĐQ. Đã có lần, bác, rồi cuốc bộ về cái nhà tranh ở thuê của
chúng tôi 4 đứa, Bửu, Long, Hùng, Ngọ, vợ chồng anh bạn Lê đình Vụ (k20), ngủ
súng xệ ngang hông, giăng một hàng ngang, nhờ qua đêm.
đi bộ từ từ trước cái xe Falcon đen của ông
Tư lệnh đang tới, trên đường Phan bội Châu, Bác Ba có cô cháu gái mười tám tuổi, tên
Pleiku. Quân Cảnh bóp còi inh ỏi. Bốn Dung. Cô Dung mặt như trăng rằm. Cô
chàng BĐQ rút súng bắn chỉ thiên tám phát Dung má lúm đồng tiền, da ngăm ngăm đen.
lên trời. Đạn nổ đoàng, đoàng, cành phượng Cô làm nghề khuân vác gạo ngoài bến xe.
gãy, hoa phượng rơi. Bắn xong, bốn đứa Cô rất giỏi võ. Cô đánh roi, đi quờn vèo,
chúng tôi quay súng một vòng trên ngón trỏ vèo. Cô túm bao gạo trăm ký từ sàn xe, kê
(như cao bồi thứ thiệt), rồi đút súng vào bao, vai, vác đi nhẹ nhàng. Tới sạp, cô nghiêng
chia đôi hai bên đường, trái, phải quay, vai, ném bao gạo trăm ký xuống đất, nhẹ
miệng hô "hai! ba!" dơ tay chào, thế đứng nhàng. Từng
nghiêm. Xe Tư lệnh ngừng, kiếng cửa xe hạ hàng gạo xếp ngay ngắn, thẳng hàng. Thuở
xuống. "Mấy thằng nhỏ điên hả?" Rồi kiếng đó, bao gạo nặng bằng hai trọng lượng của
xe lại nâng lên. Xe tiếp tục lăn bánh. Xe Tư tôi. Láng giềng nhà cô Dung có một người
lệnh quân đoàn rẽ phải, lên Hội Trường nằm cùng xứ PhúPhong với bác Ba là anh Nhơn.
sát ban Biệt Cảnh. Tư lệnh đi tham dự ngày Anh Nhơn lái xe Lamb ba bánh. Anh là học
lễ gì đó. Ông Tướng không thèm trách cứ trò ruột của bác Ba. Anh rất có cảm tình với

tôi.

Anh thường chỉ vẽ cho tôi những ngón nghề Trung sĩ Thành và Trung sĩ 1 Khê theo học
khi thực tập côn, quyền. Hình như anh Nhơn khóa Sĩ Quan ĐặcBiệt ThủĐức.
thương cô Dung. Mỗi tối, tôi theo Chuẩn úy Thành đi kiểm
Một ngày không hành quân, chú Dương, soát vài yếu điểm trong quân trấn NhaTrang.
Binh nhứt thuộc TĐ23/ BĐQ gặp tôi ở nhà Công việc của tôi khỏe re. Tôi chỉ ngồi bên
bác Ba. Bác mổ gà đãi chúng tôi một bữa ông chuẩn úy, theo xe đi kiểm soát một số
nhậu. Cuối tiệc, Dương kề vai tôi nói nhỏ, yếu điểm. Ông chuẩn úy làm hết mọi việc,
"Em Dung nó nói với tôi rằng, nó thương từ ghi chép tình hình, kiểm điểm quân số,
thiếu úy." Tôi cười cười lắc đầu. Tôi mến cô đến ký sổ bàn giao. Mỗi khi tôi nhấp nhổm
Dung lắm, nhưng không dám có ý nghĩ sẽ định xuống các trạm để làm công việc của
nhờ vị nữ hào kiệt này nâng khăn sửa túi. mình, thì ông ta cản tôi lại,"Ông thày ngồi
Chẳng rõ anh Nhơn có biết "ý riêng" của cô chơi. Để em lo!"
Dung đối với tôi không, mà từ đó, mỗi khi Một hôm, có chiếc xe tang chạy ngang
thực tập, anh Nhơn ra đòn không nương tay, doanh trại tôi ở. Tới cổng Trường BồĐề Nha
tôi chống đỡ trối chết, anh vẫn truy kích Trang, xe ngừng lại để bốc thân nhân. Thân
không tha. Cũng hên là, dịp này, tôi có lệnh nhân người chết đầu quấn khăn tang, nước
đòi của Toà, phải rời Pleiku. Nhờ thế, tôi mắt dầm dề. Hỏi ra, người vừa tử trận lại là
thoát được những cú đá chết người của anh bạn tôi. Người tử trận là Thiếu úy BĐQ Lê
Nhơn. Tôi ra đi trong danh dự. Hú hồn! văn Hai khóa 20 ĐàLạt. Nước mắt tuôn rơi.
Ngày tôi trở lại Pleiku, thì cô Dung đã thành Tôi cảm thương bạn tôi. Tôi xa chiến trường
bà Nhơn, bà chủ xe Lamb chạy đường Lệ- đã mấy tháng rồi...
Tháng Năm 1967 có toán tuyển mộ Biệt
Trung, TràBá. Động Quân tới Đơn Vị 2/ QTĐP tuyển quân
nhân về bổ sung cho binh chủng. Tôi tình
Sau gần ba tháng ở Pleiku, không có quân sĩ nguyện về lại Biệt Động Quân. Ông Thượng
dưới quyền, không hồ sơ quân bạ, không sĩ trưởng toán không dám ghi tên tôi vào
chức vụ rõ rệt, tôi được lệnh gọi ra Toà án danh sách. Ông ta nói trường hợp tôi, phải
Quân Sự NhaTrang vì "tội phản loạn".Tới chờ quyết định của Đại tá
NhaTrang, tôi không bị ra tòa án, mà ra Hội CHT/BĐQ/QLVNCH. Tôi viết một cái thư
Đồng KỷLuật của Đại tá Cách. Kết quả tôi riêng, đưa cho ông thượng sĩ, để trình cho
bị nhốt thêm 60 ngày trong quân lao. Rồi tôi Đại tá Trần văn Hai, trong đó có câu,
bị giáng xuống trung sĩ. Tôi về Đơn Vị 2 "Tháng Năm năm ngoái, tôi
/QuảnTrị ĐịaPhương; doanh trại đặt ở đầu là đại đội trưởng ĐĐ3/TĐ11/BĐQ, trấn giữ
đường đi Thành, dưới chân núi. Trên đỉnh chùa Phổ Đà, ĐàNẵng. Chính tôi đã ra lệnh
núi có tượng Phật Bà màu trắng. Ngày ngày, bắn 2 quả SKZ 57 ly chận đầu xe của Trung
Phật Bà cúi nhìn tôi với con mắt rầu rầu, xót Tá Trần văn Hai, CHT/BĐQ/QLVNCH,
thương. Ngày ngày, tôi lủi thủi trong sân ngăn không cho đoàn xe của ông tiến vào
trại, cô đơn. khu TĐ11/BĐQ kiểm soát. Một đơn vị Thiết
giáp HoaKỳ cũng bị chúng tôi bắn chặn khi
Trong gần 4 tháng đầu năm 1967, tôi làm xâm nhập vùng này. Sau khi tình hình yên
việc dưới quyền một ông chuẩn úy mới ra ổn trở lại, tôi đã bị thi hành kỷ luật nặng nề.
trường. Vị chuẩn úy này lại là cựu trung sĩ Từ một Thiếu úy tốt nghiệp khóa
BĐQ, thuộc cấp cũ của tôi. Tháng 2/1966, 20/TVBQGVN, tôi đã bị giáng cấp xuống
khi tôi vừa lên làm đại đội trưởng đại đội trung sĩ. Tôi không khiếu nại, không than
3/11/BĐQ ở ĐiệnBàn, QuảngNam, tôi đã ký
giấy cho phép 2 hạ sĩ quan dưới quyền là

van. Tôi lúc nào cũng tự hào mình là một sĩ Ngày tôi đi, Chuẩn úy Thành theo chân tôi
quan có kỷ luật trong vụ chính biến đó. Tôi tới tận phòng ngủ của Thiếu úy Ngô văn
chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, tôi thi hành Niếu, trong trung tâm huấn luyện BĐQ/Dục-
nghiêm chỉnh tất cả mệnh lệnh cấp trên giao Mỹ. Thiếu úy Niếu và 9 người nữa, bạn
phó. Nay, dù chỉ là một trung sĩ, tôi vẫn vui cùng khoá VB của tôi, đã tình nguyện ở lại
vẻ tình nguyện về phục vụ binh chủng mà DụcMỹ làm huấn luyện viên từ ngày học
tôi đã chọn lúc ra trường. Tôi nghĩ rằng Đại xong khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy, sau khi
tá không nỡ từ chối ý nguyện của tôi." Tuần mãn khóa 20 VB. Trước lúc lên xe về lại
sau, toán tuyển mộ lại xuất hiện, ông NhaTrang, Thành còn đưa cho tôi 500 đồng,
Thượng sĩ trưởng toán cười nói với tôi, "Đại chú nghẹn ngào, "Suốt đời em không quên
tá nhận Trung sĩ về lại BĐQ rồi đó!" Tôi ông thày đâu!" Tôi với Chuẩn úy Thành bịn
được chỉ định làm trưởng toán 4 người, gồm rịn mãi mới rời tay nhau.
có tôi và 3 anh trung sĩ mới từ quân lao được
tha. Bốn anh trung sĩ trẻ măng, có tên trong Tháng 12/1969 tôi có dịp tháp tùng Trung
một sự vụ lệnh do tôi làm trưởng toán:TS Tá Bùi văn Sâm, LĐT/LĐ2/BĐQ ghé
Vương mộng Long, TS Huỳnh văn Nghệ, TTHL/BĐQ/DụcMỹ.Tôi mượn xe của
TS Trần văn Sơn, và TS Nguyễn mạnh Hà. Trung tá Phú, CHT/TTHL/BĐQ/DụcMỹ
Chúng tôi được nghỉ ba ngày để chuẩn bị. chạy về Trung Tâm 2/QTĐP kiếm chú
Sau ba ngày lang thang tắm biển, uống bia, Thành. Bà chủ quán cơm đầu ngõ, nơi tôi và
nhậu rượu, giã từ bạn bè "đồng cảnh", chúng Thành ăn cơm tháng, cho tôi hay rằng, sau
tôi vào lấy sự vụ lệnh và chứng chỉ ngưng khi tôi đi, Chuẩn úy Thành được lệnh lên
lương để lên đường. Cái sự vụ lệnh đã đổi đường bổ sung quân số cho Sư đoàn 22/BB.
lại, lạ lùng! Trên đó, Thiếu úy HD Vương Ông chuẩn úy đã chết trận ngoài BồngSơn.
mộng Long làm trưởng toán, dẫn 3 Trung sĩ Bốn thày trò tôi, Long, Hà, Sơn, Nghệ, sau
Nghệ, Sơn, Hà về trình diện khi trình diện Trung tá Hồ hữu Dõng, Liên
TTHL/BĐQ/Dục Mỹ để hoàn tất thủ tục đáo đoàn trưởng, đã chia tay nhau đi các đơn vị
nhậm đơn vị. trực thuộc liên đoàn, nhập trận. Trung sĩ
Nguyễn mạnh Hà
Sau này, tôi nhận được một bản thông báo (TĐ23/BĐQ) đứt ruột sáng Mồng Một Tết
của Nha Quân Pháp về Quyết Định phục hồi Mậu Thân, giải ngũ. Trung sĩ Trần văn Sơn
cấp bậc thiếu úy của tôi, trong đó có bản sao (Đại đội 1/11BĐQ) gãy tay trận ChưPa
phiếu góp ý của Đại tá Trần văn Hai, tháng 1/1969, giải ngũ. Chiến tranh chấm
CHT/BĐQ/QLVNCH, tôi mới rõ nguyên ủy dứt, còn lại Thiếu tá Vương mộng Long
sự việc. Thì ra, khi nhận thư của tôi, Đại tá (TĐ82/BĐQ/BP) và Thượng sĩ Huỳnh văn
CHT/BĐQ/QLVNCH đã đọc lại hồ sơ quân Nghệ (TĐ23/BĐQ).
bạ của tôi. Đại tá đã gửi gấp cho Nha Quân Tháng Mười 2006. Mây trời BắcMỹ âm u.
Pháp một phiếu đề nghị xét lại trường hợp Gió hiu hiu. Lá rụng đầy mặt lộ. Một người
của Vương mộng Long. Ông viết, "Thiếu úy Biệt Động già, tửng tửng đi qua, đi lại, trên
Vương mộng Long là một sĩ quan đại đội một đoạn đường Highway 99 trước Home
trưởng có kỷ luật. Mọi chuyện sĩ quan này Depot thành phố Everett, WA, USA lòng
làm, hoàn toàn là thi hành lệnh trên." Ông ngậm ngùi nhớ lại chuyện đời mình, ngày
Đại tá CHT/BĐQ/QLVNCH yêu cầu Hội xưa...
đồng Kỷ Luật trả lại lon Thiếu úy cho tôi vì,
"Trường VBQGVN đã gắn lon này cho nó! Seattle, ngày 07 tháng Mười năm 2006
Tướng Thi không gắn lon này cho nó!"
Vương mộng Long

THÁNG TƯ LẠI VỀ những trận thần sầu như Rommel đã làm.
Trận XuânLộc là lần đầu trong đời lính, tôi
(HỒI‐KÝCỦAVƯƠNGMỘNGLONG– được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với
K20) một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ
hơn về quân số. Với tôi, trận LongKhánh là
Bây giờ là tháng Tư, trong ký ức tôi một trận đánh “để đời” cho những tay cầm
những kỷ niệm ba mươi năm trước lại hiện quân chuyên nghịêp. Trong trận đánh này,
về, rõ mồn một như thể là nó mới xảy ra mũi dùi tiến công chính bằng cơ giới của
ngày hôm qua, hôm kia. Cộng Quân nhằm đánh chiếm Tòa Hành-
Chánh Tỉnh LongKhánh đã bị Tiểu Đoàn 82
Bây giờ là tháng Tư, tôi lại nhớ đến trận Biệt Động Quân bẻ gãy hoàn toàn. Trong
đánh oai hùng cuối cùng của Quân Lực khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn 82 Biệt
ViệtNam CộngHòa, trận XuânLộc! Động Quân đã có ít nhứt là bảy chiến xa
CộngSản bị bắn cháy, và một trung đoàn bộ
Tôi bùi ngùi hồi tưởng những giây phút binh địch bị loại ra khỏi vòng chiến.
vinh quang của chiến thắng để đời này, cùng
những tủi nhục tiếp theo sau đó, khi quê Rạng đông 9/4/1975 trận LongKhánh bắt
hương nát tan. Những dòng viết lên sau đây đầu. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong
là để tưởng niệm những thuộc cấp của tôi đã thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác
ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên
(XuânLộc), trên một ngọn đồi không tên ở mục tiêu của cả hai phía.
LongThành, và trong đường phố HốNai
(BiênHòa). Những đám cháy không người chữa, lửa
càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung
Đầu tháng Tư năm 1975, Quân Đoàn II hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những
không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung
đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định phong nghe rợn tóc gáy.
nhận nhiệm vụ chỉ huy và hướng dẫn Liên
Đoàn 24 Biệt Động Những cánh F 5 thét gào, lên, xuống, thả
hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu
Quân từ QuảngĐức tìm đường ra biển để bắt địch. Những chiếc KhủngLong AC 119 bao
tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực vùng cả ngày lẫn đêm với những họng đại
thăng vận về PhanThiết thì Tiểu Đoàn 82 bác 20 ly gầm rú từng hồi. Đáp lại, địch
Biệt Động Quân được đưa thẳng về sân bay cũng trả đòn bằng những chùm 100 ly và 37
LongKhánh đặt thuộc quyền xử dụng của ly phòng không nở hoa trên mây. Những
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. chiếc T 54 hung hãn khạc đạn không ngừng,
những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn
Ngày đầu đặt chân xuống phi trường đại bác 100 ly của xe tank địch.
XuânLộc (6/4/1975) tôi không hề có ý nghĩ
rằng tại nơi này chỉ mấy hôm sau, đơn vị tôi Trong những ngày đầu tháng Tư ở Long-
lại có dịp tham dự vào một trận đánh long Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom
trời lở đất. đạn!

Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm
đọc nhiều sách viết về “Con Cáo Sa Mạc”
này và tôi mơ tưởng có ngày được đánh

Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được tiếng hô vang dậy một góc trời! Có cả một
T 54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng
Pháo yểm của CộngSản gồm đủ loại hạng tôi mặc sức tung hoành !
nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105
ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và Ngày nào cũng như này nấy, sau những
phòng không 100 ly, 37 ly. Thậm chí trong màn pháo kích như mưa, T 54 có bộ binh
ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 37 ly tùng thiết, lại từng đợt, từng đợt ào ào xung
để bắn trực xạ vào Trại 181 Pháo Binh của phong vào vị trí tử thủ của chúng tôi. Nhưng
Sư Đoàn 18, nơi tôi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu những tổ chống tank ba người của TĐ 82
Đoàn 82 Biệt Động Quân. BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau
gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết
Ấy vậy mà qua hàng chục đợt xung con cua T 54 này đến con cua T 54 khác.
phong, đoàn chiến xa của “Con Cháu
Bác” cũng không làm cách nào vượt nổi Yên chí vì có chỗ dựa lưng là lực lượng
khúc xương khó nuốt là cái doanh trại bé tí bạn ở phía sau, tiểu đoàn tôi đánh vùi với
teo đó để xông thẳng vào Tòa HànhChánh chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt.
tỉnh, nơi ông Đại Tá BĐQ Phạm Văn Phúc Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên
(K10 VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con thay. Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng
nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó “tà đầu”
mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi như ý của Chuẩn Tướng Tư Lệnh mặt trận.
trò ú tim với xe tank địch.
Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó
Khi bánh xích của chiếc chiến xa đầu tiên còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết
vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng
tây bắc của Trại Pháo Binh 181 thì cũng là như chơi. Trong số mười hai Biệt Động
lúc đoàn quân xâm lăng khựng lại, hoảng Quân Pleime tử trận ở LongKhánh tháng Tư
hồn bởi những tiếng thét, 1975 đã có bảy người chết trong khi săn
đuổi xe tank CSBV.
“Biệt Động! Sát! ” … “Biệt Động! Sát!”
Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu
Lũ giặc hung hăng không ngờ Biệt Động của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank
Quân đang có mặt nơi đây! là cái “Gót chân Achilles” của xe tank
CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ
Một quả M 72 làm cho chiếc PT 76 xấu số 82 BĐQ tiêu diệt trong trận XuânLộc đều bị
cháy bùng; những cán binh BắcViệt tùng bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.
thiết vội vàng chạy trối chết về hướng rừng
lau. Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên
là “tỉa” tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của
Như thế là, chúng tôi đã ra mặt đương đầu chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị
với đoàn chiến xa CộngSản BắcViệt ngay từ khóa vào dây xích trên ghế phòng không.
khi trận đánh mới mở màn. Việc thứ nhì là

“Biệt Động! Sát!”, “Biệt Động! Sát!” “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh
làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở
cách nó không xa; cây phòng không trên
chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc

thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng Sư Đoàn 18 Bộ Binh cũng bằng ngôn ngữ
bóp cò cây M 72 nhắm ngay phần phun khói nửa Việt nửa Mỹ.
sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng
nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một Người Anh Cả của mặt trận này là Chuẩn
tiếng “bùm!” rồi tiếp sau đó là xăng và đạn Tướng Lê Minh Đảo (K10 VB) Tư Lệnh Sư
trong xe cháy nổ “lóc! tóc! ùm! ùm!” ngọn Đoàn 18 Bộ Binh. Ông lấy danh hiệu đàm
lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong ! thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của
ông, Trung Tá Lê Hằng Minh là người hùng
Mỗi lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn TQLC, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2
cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây (Trâu Điên) năm xưa đã tử trận trên chiến
thì người Anh Cả của chiến trường đã có trường ThừaThiên.
mặt trên vùng.
Tiên Giao là tên đứa con gái áp út của tôi,
“Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!” cũng là danh xưng truyền tin tôi chọn cho
mình trong trận đánh này.
“Hằng Minh, Tiên Giao nghe!”
Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài
“Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc
tà đầu hết cục cựa! Okay?” loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả
M 72 của toán diệt tank của Đại Đội 1/ TĐ
“Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết 82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán
cục cựa!” hộ tống của TĐT 82 BĐQ cùng với ông
phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng
“Okay! You’re a man! Don’t let ’em run nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng
away! Okay?” phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài xa. Trong
máy PRC 25 tiếng Th/úy Đặng Thành Học,
“Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!” ĐĐT 1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị
thương nặng, xin tản thương.
“Kill ’em! Kill ’em! Okay!”
Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc
“Vâng! Đây là cái tank thứ (2) (3)… đó T 54 đã nằm bất động; anh leo lên gỡ khẩu
nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái phòng không đem về cho thầy. Không ngờ
nấy nhé!” còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn
trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh
“Okay! I like the way you fight!” đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt
cho anh một tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống
“Vâng, tôi nghe rõ 5!” đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng
thòng, máu tuôn như xối.
“You’re great! You’re excellent!”
Anh phóng viên và một người lính trong
Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Trung
thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận Sĩ 1 Chiến, y tá của tiểu đoàn phải dùng cả
hướng tây thị xã, trên đường bay, ông liên một tấm băng lá to bằng hai bàn tay xòe để
tục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra.
thủ XuânLộc, Đại Tá Lê Xuân Hiếu (K10
VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43,

Mặt Thọ tái xanh, môi run run, Chiếc xe tản thương của Trung Đoàn 43
đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba TânPhong;
Thiếu Tá đừng la em nhé! Em thấy cây súng tháp tùng có Đại Úy Hoàn, anh phóng viên
dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em! nhà báo và Trung Sĩ 1 Chiến, y tá Biệt Động
Quân. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông
Tôi an ủi Thọ, Đại Úy Tiểu Đoàn Phó kể lại chuyện dưới
đây.
– Ừ! Thiếu Tá không la em đâu, nằm im đó
chờ xe, Hoàng Long sẽ đem em đi tản Xe tới BTL/SĐ 18 /HQ thì Thọ rất mệt vì
thương! máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa
lưng vào một gốc xoài, chờ Đại Úy Hoàn đi
Hoàng Long là danh xưng của Đại Úy tìm sĩ quan quân y sư đoàn xin tải thương.
Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn
82 Biệt Động Quân. Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước
ra; thấy Thọ, ông hỏi,
Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng
đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, – Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài-
một mặt điều động ĐĐ1/TĐ3/Trung Đoàn Gòn hả?
43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu
Úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai Thọ im lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh
concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn thấy vết thương của mình; bất ngờ bộ ruột
cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu của anh trào ra khỏi miệng vết thương, máu
hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con anh tuôn xối xả.
đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank
của địch nhắm vào sân bay LongKhánh đã Anh y tá vội thưa,
bị đan chằng chịt kẽm gai vòng.
– Trình Thiếu Tướng, anh này là lính Tiểu
Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài Đoàn 82 Biệt Động Quân, ảnh bị phòng
hàng rào và nó là chiếc T 54 thứ tư bị sơn không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái
lên pháo tháp dòng chữ “Tiểu Đoàn 82 BĐQ chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu Tá em cho
diệt tank”. phép ảnh được tản thương về SàiGòn đó
Thiếu Tướng.
Năm 1981 tại Trại Cải Tạo Z30 C Hàm-
Tân, có một thiếu úy thuộc LĐ 81/ BCND Tư Lệnh la lớn,
tên là Nguyễn Văn Vinh tìm gặp tôi, anh
nói, – Quân y đâu băng bó cho chú em ngay!

“Tháng 5 năm 1975 em bị nhốt ở Long- Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột
Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi của người lính vào bụng của anh ta. Người y
chùi những chữ ‘Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay
tank’ viết trên bốn cái tank T 54 và một cái với Tư Lệnh.
lội nước PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân-
Lộc. Công nhận tiểu đoàn anh đánh tank Đại Úy Hoàn vừa quay lại chưa kịp chào
tuyệt quá!” trình diện, thì Tư Lệnh đã lớn tiếng,

–Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này – Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng
về CộngHòa cho tôi. Quay qua Thọ, Tướng cho Thiếu Tá. Đại Úy nhớ nhắc thằng Bích
nhẹ giọng, khi pha cà phê cho Thiếu Tá thì cho ít
đường thôi! Thiếu Tá không thích uống ngọt
–Em là lính của Thiếu Tá Long, em can đảm lắm đâu. Nhờ Đại Úy nhắn với Thiếu Tá
lắm, qua sẽ cứu em! Thọ lí nhí, rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với
Thiếu Tá ngay. Thôi em đi đây!
– Cám ơn Thiếu Tướng!
Không rõ Tư Lệnh có nghe lời nhắn của
rồi nó quay qua Đại Úy Hoàn, anh lính Biệt Động Quân gởi cho thầy của
anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư
– Cho em điếu thuốc đi Đại Úy. Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất
trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư Lệnh
Đại Úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc còn vẫy theo chưa hạ xuống.
cho Thọ thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá
đưa vào môi người lính can trường. Ông một Đây không phải là lần đầu cái can trường
tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà
Thọ. đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi
không thiếu những người lính dũng cảm như
Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má thế. Thời 1966 vùng triền sơn QuảngNam
bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe
mắt Thọ long lanh. Chợt anh ngoác miệng tiếng “tắc cù!” là chú Hạ Sĩ Nguyễn Hồng
cười, Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo
của chú che cho tôi, chú nói,
– Khẩu phòng không còn mới cáo cạnh,
nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại Úy – Em phải che cho Thiếu Úy, em trúng
ơi! đạn có mình em chết, Thiếu Úy trúng đạn cả
chục người chết theo.
Ông Đại Úy Hoàn an ủi,
Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt vì
– Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng đưa thân che chở cho tôi, khi đại đội tôi
ấy về nộp cho Thiếu Tá rồi. Mày nói đúng chạm địch gần ga Hương An, Tam Kỳ.
đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày
không mê nó đến đổ ruột luôn! Năm 1969 trong trận BìnhTây 48 dưới
chân đỉnh ChưPa, Đại Đội 1/TĐ11 BĐQ của
Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn. tôi đánh cứu viện cho Đại Đội 4/ TĐ11
BĐQ của Tr/ Úy Nguyễn Lạn (K20 VB).
Cái bảng nhôm sơn đỏ có sao trắng được Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị
lật mặt ra đàng sau trở thành cái bảng nhôm thương khá nhiều.
màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C.
Không bảng sao, cái trực thăng chỉ huy trở Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của
thành giản dị bình thường như ngàn vạn tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông phải.
chiếc tàu khác. Đã có nhiều chuyến tải thương đi mà Trung
vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại
Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu sao anh không lên máy bay về bịnh viện,
cho Đại Úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ
một điều gì quan trọng lắm, anh phân bua,

–Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã

Trung Úy xong, em mới yên lòng đi về. Tôi mà thôi.

ngỡ ngàng kêu lên, Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù
của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh (K15 VB)
–Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại
cho ông thường vụ! Lên tàu ngay! Luẩn làm búa.
quẩn ở đây đến chiều, hết tàu tản thương.
Qua đêm máu ra hết thì chết! Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu
Tá Vương Mộng Long (K20 VB) chỉ huy,
Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho gồm TĐ 82 BĐQ tăng cường thêm một đại
ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng đội của TĐ3/ 43 BB, một đại đội Địa
nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến Phương Quân của TiểuKhu LongAn và một
tải thương cuối cùng về Quân Y Viện đại đội Điạ Phương Quân từ BìnhLong di
Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau tản về.
ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được giải
ngũ lãnh tàn phế 100%. Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt
thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số.
Những người lính của tôi dễ thương như Nhưng làm đe cho Dù thì quả là mất mạng
thế ấy! Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy như chơi! Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe
mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có
lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì
lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã
phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu
cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường
những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua phiêu du về nguyên quán Pleiku.
KiếnĐức tới LâmĐồng rồi về XuânLộc.
Những người lính của tôi không màng đến Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng
vinh quang, mà chỉ phụng sự cho cái vinh viên chiến trường của một tờ báo ở SàiGòn,
quang của người chỉ huy mình. Vinh quang đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng
một đời của người cầm quân là một món nợ, lòng khòng dong dỏng như một triết nhân.
nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không
thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh,
cho cái vinh quang mà mình đã một thời quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang.
nhận được. Là người cầm quân, vinh quang Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái
là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may
sống. anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với
ĐĐ1/TĐ 82 BĐQ của Th/Úy Học, anh bận
Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi
công tái chiếm chợ XuânLộc, khách sạn hàng rào bắc của Trại PB 181.
Long Khánh và Cua Heo cũng như những
cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Giữa tháng Tư, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tung
Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào
hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi một trung đoàn Cộng Sản BắcViệt trong đồn
lửa bỏng tháng Tư Long Khánh 1975, TĐ 82 điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét.
Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát
pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia.

Từ nơi đồn điền Thống Tướng Tỵ, cán –Thủ trưởng có nói thật không hử thủ
binh CSBV từng tốp chạy túa ra bìa rừng, trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi!
nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng
Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé
người lính BắcViệt bật lên khỏi mặt nước run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi,
như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một chỉ sợ nó rơi… Thì ra thế! Những cậu bé
lần rồi chìm luôn… này được đưa vào đây là để … tiếp thu Miền

Những tiếng hô “Biệt Động! Sát!” hòa Nam !
lẫn tiếng súng M 16, M 60 làm cho một số
cán binh CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã Một hôm, Đại Tá Hiếu gọi tôi vào máy để
vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập.
có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân
rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi bạn, không trở ngại!
đầu: Thế là họ đầu hàng!
Rồi Đại Tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để
– Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang “check fire”. Rồi tôi lại trả lời, “không trở
đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao ngại!” Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại.
khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa? Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm
vang hướng đông bắc.
– Dạ cháu nghe rõ ạ!
Tôi đã từng nghe B 52 đánh cận phòng
Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho nhiều lần trên chiến trường CaoNguyên
ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái
còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ
ngủ, mắt quầng thâm. trên mây xanh, những tiếng “ủn!… ủn!”
theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm
–Cậu mấy tuổi rồi? mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có
thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km,
–Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ! Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km.

–Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang
đã đi lính rồi à? của một Box B 52 đánh gọn ô vuông mỗi
chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một
–Cháu là thanh niên xung phong. Thủ cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời
trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C 130
phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C
thôi ạ! 130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua.

–Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là
nào? một trong hai trái CBU 55 (hay CBU 85)
được xử dụng trong trận XuânLộc. Một trái
–Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ! được thả xuống vùng Suối Tre hướng Tây
Bắc LongKhánh, tôi không nghe báo, trái
–Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ
về SàiGòn. Hết chết rồi, đừng sợ! thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ

của Trung Đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ
TĐ 82 BĐQ tăng cường. một giờ đồng hồ rồi im hơi.

Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng
Hạ Viện từ SàiGòn đã bay ra tới tận cuối sân động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh
bay LongKhánh để ủy lạo những người lính sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ
Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài
lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói vòng đai báo cáo, chiếc T 54 bị đứt xích đã
quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng
khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ. ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang
rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá
Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý
hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái
rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới thì đột nhiên đổi hướng.
quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng
không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào Những ngày sau đó tình hình im ắng như
tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Banmê- tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột
Thuột, Pleiku… cất tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung
cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê.
Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi
địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ khói lam từ mái rạ bay cao.
XuânLộc. Đại Tá Hiếu gọi tôi và cho biết
lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975
đông hơn những đợt tấn công trước đây Đại Tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào
nhiều. họp hành quân. Ông rầu rầu,

Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. – Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-
Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc Khánh rút về BàRịa, ông Đảo vừa được lệnh
tank bị cháy. Có một chiếc T 54 bị bắn đứt và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay
xích cách vòng rào trại PB 181 không xa để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với
lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.
CSBV gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái
xe tank bị đứt xích! Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc thì có
điện thoại của Tư Lệnh, đại khái ông cho
Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực biết, lệnh bỏ LongKhánh là từ Tổng Thống.
xạ hướng vào chiếc T 54 bị thương. Địch Địch không vây LongKhánh nữa mà đi bọc
không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng về đánh BiênHòa và thủ đô SàiGòn nên
im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn quân ta phải bỏ XuânLộc, về bảo vệ ThủĐô.
cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, Tướng Đảo cực lực phản đối
pháo binh của ta cũng tạm ngưng.
vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và
Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận Tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp
yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi
địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ 82
trên thành phố XuânLộc, đủ loại súng nặng, BĐQ về ngã ba Tân Phong trước tám giờ
bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đêm chờ lệnh.

Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân cuốn lều, lấp Ra tới QL 1 tôi phải cho quân đi hàng một
hầm hố phòng thủ khi đêm rơi. và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến
ngã ba TânPhong tôi được lệnh ngừng lại
Cuối tháng Ba năm 1975 chúng tôi đã làm chờ lệnh. Trên QL 1 những chiếc xe cam
việc này ở KiếnĐức, chúng tôi đã bỏ lại sau nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe
lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc
đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có
vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị những người lính bộ binh lưng mang nặng
Biệt Động Quân một thời ngang dọc Vùng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường.
2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại KiếnĐức
hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình bên Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải
QL 14. Quận KiếnĐức và Đồn Pleime cách sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng
nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè
thổ Vùng 2! ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn
được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ
Lần này mười hai người lính của Pleime hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua
ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi
quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép
đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những của người lính cách chân tôi khoảng hai mét.
ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước
con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là
năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa Nguyễn Thành Long, sinh quán LongAn.
đường đứt gánh.
Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa
Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa đường, xe cứ nối đuôi nhau.
HànhChánh tỉnh LongKhánh thì Đại Tá
Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Tôi chờ khoảng mười phút thì Đại Tá Lê
Đại Tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung
Động Quân đi với đoàn quân của TiểuKhu Đoàn 43 cùng người liên lạc truyền tin của
LongKhánh, và ông xin được tháp tùng tôi ông tới gặp tôi. Tháp tùng Đại Tá Hiếu còn
trong cuộc rút lui. có ông Trung Tá Linh, Sĩ Quan Phụ Tá
Hành Quân của Trung Đoàn 43. Đại Tá
Tôi từ chối với lý do, “Đại Tá có cả một Hiếu cho tôi biết, Chuẩn Tướng Đảo chọn
tiểu khu, Đại Tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ TĐ 82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư
huy của họ, Đại Tá không thể đi theo tôi mà Lệnh di chuyển.
để họ không người chỉ huy.”
Không lâu sau đó, một chiếc Jeep trờ tới,
Đại Tá, hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo cùng bốn Quân
nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ Cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.
biệt.
Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số
Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại Tá rồi lên đường.
Phúc trong Trại Cải Tạo NamHà A ngoài
Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại Tá Phúc đã bị Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng
bắt khi đi được nửa đường XuânLộc, BàRịa Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá
và bị giữ trong trại tù từ ngày đó. Hiếu chỉ huy cánh quân của TĐ 82 BĐQ và

TĐ1/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Khắc phép tiểu đoàn tôi về phòng thủ thị xã này.
Tung (K20 VB) đi theo sau. TĐ 82 BĐQ Không ai trả lời cái điện cầu xin trên. Đây là
chịu trách nhiệm bảo vệ Chuẩn Tướng Tư nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến
Lệnh trên đường di chuyển. TĐ 3/43 BB của tôi, đó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt
tùng thiết, được đặt dưới quyền Trung Tá đoạn đời còn lại của người chỉ huy trực tiếp
Nô, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ- của tôi, Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy
Binh. Riêng TĐ 2/43 BB của Thiếu Tá
Nguyễn Hữu Chế đóng quân trên núi Thị Tất.
phải gánh chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của
cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu của Đoạn đường vài chục cây số từ TânPhong
SĐ 18 BB. đi Bình Ba, Bà Rịa thực ra không có gì là
đáng ngại đối với những người lính sơn
Đường Liên Tỉnh Lộ Long Khánh, Bà Rịa cước của TĐ 82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ
nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba TânPhong một nặng nề bảo vệ Tư Lệnh Hành Quân đã làm
đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều
dọc lề đường, đây là bãi tiếp tế của sư đoàn, so với khả năng.
xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch.
Tuy vậy mới chiều hôm ấy địch đã phát giác Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị
bãi này, và pháo binh CSBV đã đánh phá dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân
đoạn đường này cả giờ. nhân của những đơn vị khác đi hàng một
trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so
Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ
chân tôi đá phải những xác người nằm chết 82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ.
rải rác đó đây, những người dân chạy giặc,
trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư
mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn Lệnh quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,
một phần hình hài con người.
– Quân của Long đâu sao qua không thấy?
Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào
lúc công nhân ở đây đã lên xe chạy từ lâu. Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi
Những gia đình chậm chân thì khăn gói tất đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ
tả, vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động
những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn
áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn
bé, chân non đường dài! sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội
hình, nên Tư Lệnh không thấy rõ họ.
Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban-
MêThuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi Nghe tôi giải thích có lý, Tướng gật đầu,
lại đang mang bầu. BanMêThuột đã rơi vào
tay giặc từ đầu tháng Ba năm 1975. Gia đình – Well well, very good!
tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo
vệ gia đình những người khác ở QuảngĐức. Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước
chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi
Đầu tháng Ba, khi có tin địch sắp đánh chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng
BanMêThuột, tôi đã gởi một cái điện khẩn bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới
cấp cho BCH/BĐQ/QK2 và BTL/QĐII cho

mời Tư Lệnh và Đại Tá Hiếu rời vị trí ẩn xa. Trong bìa rừng sâu tôi nghe tiếng súng
nấp tiếp tục lên đường. báo động của địch. Những
tiếng “Tắc!Tắc!…Tắc!…” hai ngắn, một
Chúng tôi đến giữa cầu thì nghe từ đầu dài, từ hướng XuânLộc tiến dần từng chặng
dốc phía sau, tiếng chuông xe đạp, “kính về hướng Nam . Rõ ràng địch đang âm mưu
coong! kính coong!” gì đây!

Rồi một người đàn bà la lớn,“Ê các cha! Xe Đại Tá Hiếu thì cứ luôn bận tâm đến đứa
tui không có thắng, tránh xa! Tránh xa! ” con đi đoạn hậu, TĐ 2/43, đơn vị này bắt
đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm
Thế là tụi tôi và Tư Lệnh đứng nép một tĩnh và sức chịu đựng của người sĩ quan đàn
bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ người anh này. Chân ông còn tháp một mảnh
đi xe đạp lao vào mình thì chắc mình sẽ rớt platinum vì chiến thương, vậy mà ông cố
xuống sông trình diện HàBá! theo bén gót những người lính miền núi mà
không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào,
Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ quả là một sự cố gắng phi thường.
ánh hỏa châu soi, chúng tôi thấy rõ mặt
người vừa la, một bà trung niên rất béo, cưỡi Sắp đến ngã ba XàBang, tôi thấy một cái
chiếc xe đàn ông loại để thồ đang vèo vèo xe Citroẽn dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa
lao xuống dốc. đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe thì
thấy hai ghế trước bỏ trống, trên ghế sau là
Chợt chiếc xe vướng cục đá, tưng lên, xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ còn ôm
trệch hướng, và lao xuống dòng nước trắng một cái cơi trầu. Cái cơi trầu bung nắp,
xóa đang réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm
nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân dài xe. Tư Lệnh xúc động bùi ngùi nhìn cái xác
trong thung lũng, người dân nằm đó, người dân bỏ cuộc giữa
đường dẫn tới chốn bình an. Buồn rầu đóng
“Á !…Á !…Á !…” cửa chiếc xe Citroẽn lại, tôi nhủ thầm,“Lỗi
tại chúng tôi! Lỗi tại chúng tôi!”
rồi thì…
Rồi tôi lâm râm đôi lời cầu nguyện cho
“Ùm!” người nạn nhân chiến cuộc.

Sau dư âm của tiếng “Ùm!” cảnh vật lại Đến ngã ba XàBang thì Tướng Tư Lệnh mệt
trở về bình yên. Tôi rọi đèn xuống để quan lắm rồi, ông đề nghị,
sát tình trạng người bị nạn thì chỉ thấy một
khối đen trôi theo dòng nước cuốn nhanh. –Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút
được không?
Đoàn quân vẫn tiếp tục hành trình. Tư
Lệnh vừa đi vừa đàm thoại với những cánh –Địch nó đã phát giác ra cuộc rút quân của
quân ở xa. Vì cùng tần số, tôi biết Trung Tá chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích.
Trần Minh Công Trung Đoàn 48/SĐ 18 BB, Vị trí này rất nguy hiểm không dừng quân
Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn 52/SĐ 18 được đâu Thiếu Tướng. Nhất là ban đêm,
BB đang ở nơi nào. đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ
mê ngay, rất khó dậy nổi mà đi tiếp. Gắng
Khi đến gần ngã ba XàBang thì cánh quân
của tôi đã bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi

vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của Dù. Ba
Thiếu Tướng! người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay đi.

Tôi vừa từ chối, vừa kéo tay Tư Lệnh tiến Không rõ những người vừa xuống máy
lên. Tôi huýt gió bài “The Longest Day” Tư bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì
Lệnh huýt gió theo, và chúng tôi tiếp tục đó với những pháo thủ Dù, họ quay sang
bước đi. Hướng XuânLộc vẫn ì ầm tiếng đại tiến về phía TĐ 82 BĐQ.
bác. Hỏa châu lập lòe phía chân trời xa.
Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung
Vừa lúc ấy trên máy liên lạc của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân
Đoàn 43 BB, Thiếu Tá Dư, TĐT 3/43 BB Đoàn III, Trung Úy Đức tùy viên của ông,
báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung và một anh lính mang máy truyền tin. Tôi ra
Tá Nô Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã gặp quân lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn
Dù án ngữ ngõ vào BìnhBa, họ đang chờ chào.
xác nhận của cấp trên rồi mới cho phép quân
XuânLộc tiến vào. Tướng Tư Lệnh thở phào Sau khi bắt tay tôi, Tướng Toàn đi một
nhẹ nhõm, thế là chuyện “linkup” với quân vòng, bắt tay từng người lính đứng trong
bạn đã xong, bây giờ chỉ còn chuyện theo hàng. Ông chỉ vắn tắt, lặp đi, lặp lại, có một
dõi an nguy của đoàn hậu quân là TiểuKhu câu,
LongKhánh, Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn
“Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!”
2/43 BB.
Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,
Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phía
trước, xa xa vọng lại tiếng gà gáy sớm. Khi Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây
chúng tôi nhìn thấy ánh đèn dầu của xóm sát nách căn cứ MâyTào, tụi nó pháo bất cứ
thôn le lói, cũng là lúc máy truyền tin của lúc nào, nguy hiểm.
Tiểu Khu LongKhánh báo tin cho Tư Lệnh
rõ rằng họ đang chạm địch. Rồi đến tin tức Tôi cười,
Lữ Đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo
Dù đặt bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ – Pleime tứ bề là địch, vậy mà Trung
từng tràng yểm trợ cho quân bạn. Tướng xuống thăm, tụi tôi vẫn đội hình đàng
hoàng dàn chào; còn ở đây thì có cái gì đáng
Mặt trời hừng đông, một chiếc xe Jeep ngán mà bỏ lễ nghi quân cách?
chạy đến đón Tướng Tư Lệnh và tùy tùng
của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Đại Tá Tướng Toàn cũng cười theo,
Hiếu, Trung Tá Linh và anh lính truyền tin
Trung Đoàn 43 BB. – Ừ, nhắc Pleime tức là chú mi nhắc khéo
ta còn nợ cái lon trung tá của chú mi trận đó
Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã có phải không? Thôi về LongBình kỳ này ta
rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho đền cho! Chịu chưa?
các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu
dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Rồi Trung Tướng Toàn bắt tay tôi từ giã,
có xe chờ đưa ông vào Hội Đồng Xã BìnhBa
Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức họp với Tướng Đảo.
dậy bởi tiếng động cơ của một cái trực thăng
Tướng Toàn không lạ gì chúng tôi, chúng
tôi cũng chẳng lạ gì Tướng Toàn. Trong thời

gian Tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng
Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông thường ghé Đảo để ra BàRịa, vào trung tâm tiếp cư, dò
thăm Pleime và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn
Quân. Tướng Toàn đã chứng kiến khả năng nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức
đơn vị này qua những trận đánh lẫy lừng, gì của BanMê Thuột cả.
Căn Cứ 711, Pleime, Đạo Trung.
Khi tôi về lại Hội Đồng Xã BìnhBa thì
Trong năm 1974 Tướng Toàn đã hai lần Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy
gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn
Liễu lên hiệu kỳ tiểu đoàn này. Sau đó ông đánh quân bạn ngay tại ngã ba XàBang,
thuyên chuyển về làm Tư Lệnh Quân Khu 3. Trung Tá Đình chết ở đây, Đại Tá Phúc
cũng bị địch bắt ở địa điểm này. TĐ 2/43
Tháng 4/ 1975 Quân đoàn II tan rã. Khi BB của Th/Tá Chế thì đang bị xe tank
được tin báo rằng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động CSBV truy lùng, phải lẩn trốn trong rừng
Quân còn đang lặn lội trong rừng già Bảo- cao su để tìm đường rút về hướng Long-
Lộc, chính Tướng Nguyễn Văn Toàn đã ra
lệnh cho Không Quân Vùng 3 Chiến Thuật Thành.
cứu tiểu đoàn này về LongKhánh chiều ngày
6/4/1975. Ngày hôm đó Tổng Thống Thiệu từ chức
trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu
Chiều hôm đó, tại sân bay LongKhánh, đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm.
Tướng cũng chỉ ngắn gọn một câu,
Sáng hôm sau chúng tôi rút về LongBình,
“Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!” đơn vị tôi xuất phái từ Sư Đoàn 18 và được
trả về cho Biệt Động Quân. Từ ngày về
Chúng tôi đã đáp lại lời khen của ông LongBình tôi mải lo đi tìm tin tức vợ con,
bằng những chiếc T 54 cháy bên rào Trại không màng tới việc gặp Tướng Tư Lệnh
181 PB, và bằng những khẩu phòng không Quân Đoàn III để “đòi nợ” cái lon trung tá.
nước thép còn xanh biếc được trưng bày ở
sân bay Long Khánh. Ngày 28/4/1975 Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân được lệnh vào vùng hành quân phía
Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng sau lưng Trường Bộ Binh LongThành. Vì
Đảo trong Hội Đồng Xã BìnhBa, ông cho lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị
biết Lữ Đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong xuất trại về không kịp giờ di chuyển nên tiểu
những con chốt chặn và đang trên đường tập đoàn vào vùng với quân số 161 người, thiếu
trung vùng bắc xã BìnhBa. vắng Thiếu Úy Đặng Thành Học, người sĩ
quan đại đội trưởng ưu tú nhất của tôi.
Riêng tin tức liên quan đến Tiểu Khu
LongKhánh thì còn mù mờ. Trung Tá Đình Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ
(K10 VB) Tiểu Khu Phó đã tử trận vì một hướng bắc tiến về, đồng thời hỗ trợ cho một
quả B 40 trúng ngay xe ông. Số phận Đại Tá đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh
Phúc, Tỉnh Trưởng thì chưa rõ rệt, còn đang LongThành. Ngọn đồi chúng tôi phòng thủ
phối kiểm. là một cái tiền đồn cũ, có ba cái lô cốt nhỏ,
không hầm hố địa đạo, không có hàng rào.
Chúng tôi chỉ chất sơ sài những viên đá tổ
ong thành một chiến lũy cấp thời.

Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của rưng rức. Cả tiểu đoàn đều biết Chuẩn Úy
CSBV đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu Thiều là ứng cử viên rể quý của “Thượng Sĩ
rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi Tía”. Ái nữ của thượng sĩ thường vụ đang là
trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật hoa khôi lớp 11 trường Trung Học MinhĐức
đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T 54,
dàn hàng ngang xung phong biển người vào Pleiku.
tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt
Động Quân. Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì
đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi
Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, ba cái lô đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch
cốt đã bị bắn sập. Đại Úy Hoàn và anh lính mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng
truyền tin của ông là những người chết đầu tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu
tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đạn M 67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức
đầy máu của ông bằng tấm mền poncho line. thẳng tay những quả M 67 xuống chân đồi.
Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh
Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí CộngSản loạng choạng ngã chúi xuống đất
phòng ngự của Thiếu Úy Thủy, ĐĐT/ ĐĐ 4 vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M 60 vẫn
thì bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong! ” đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên
Chúng tôi phải dùng lựu đạn M 26 để chặn nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên
bước tiến của giặc. Những trái M 72 bắn xéo man rợ trong đêm đen.
qua xéo lại từ đỉnh đồi đã khiến cho chiến xa
CSBV thoái lui. Dọc theo sườn đồi có bốn, Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú.
năm chiếc T 54 bị hạ nằm bất động. Hai Những nòng M 72 đã sẵn sàng phóng đạn.
khẩu M 60 bắn chéo cánh sẻ đã vô hiệu hoá Hai khẩu M 60 được nâng cao lên nhằm vào
đợt sóng biển người đầu tiên của địch. những xạ thủ phòng không trên tank. Vài
chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền
Tôi gọi cho Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đồi, nhưng có hai chiếc đã lọt được vào vị trí
xin không yểm và pháo yểm nhưng đơn xin phòng ngự của Biệt Động Quân. Xạ thủ 12,8
yểm trợ không có ai trả lời! ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào
chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung
Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa đưa bên hông chiến xa.
rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T 54 tắt đèn
và mở hết tốc lực chạy lên đồi. Chúng đảo Trong khi chiếc tank hướng đông đã xoay
một vòng chữ “C” trên vị trí đóng quân của sang trái chạy xuống đồi thì chiếc thứ nhì
Biệt Động Quân, xích xe đè nát thân thể còn đang trở đầu ở khoảng đất giữa hai cái
những người không kịp tránh né rồi chạy đi. lô cốt. Có một Biệt Động Quân đứng xổng
Sự kiện này thật là bất ngờ! lưng giữa đồi chờ đợi cái xe tank đó. Chiếc
xe nhằm anh lao tới, anh tránh sang một bên,
Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì chiến xa rồi nắm sợi xích treo cái xác bên hông xe đu
địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông lên pháo tháp. Một quả lựu đạn ném gọn vào
Thượng Sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn lòng xe, quả thứ hai, quả thứ ba… bùng!
bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng bùng ! bùng! chiếc xe loạng choạng rồi
với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. ngừng trên đỉnh đồi.
Khẩu cối 81 bị đè gãy càng bất khiển dụng.
Chuẩn Úy Thiều, trung đội trưởng trung đội Người Biệt Động Quân nhảy xuống xe,
súng nặng ngồi ôm xác thượng sĩ Hoa khóc anh xả một băng M 16 vào cái thây ma cán


Click to View FlipBook Version