Lộ trình ký giả Văn Bia đi vòng quanh và
xuyên ngang dọc nước Mỹ
Hai quãng đời phóng viên cách khoảng nhau cả nửa thế kỷ, khác biệt nhau như thế nào,
người tọc mạch, nhứt là muốn học làm báo, cần thấy cách làm nghề phóng viên hiện nay so
sánh với hồi trước, khi môi trường lẫn phương tiện kỹ thuật và lề lối làm việc đều có nhiều chỗ
khác hẳn có khi đên trái ngược. Không phải không hữu ích viết về những hoạt động của một
phóng viên trong đoạn cuối đời nầy, từ cách thức đi săn tin và thu hình ảnh để so sánh với lối
làm việc ngày trước. Một trời một vực.
Trước hết là không bị lệ thuộc về tiền bạc và toàn quyền hoạt động tùy thích.. Phóng viên
hiện nay như tôi là một nhà báo tự do không làm riêng cho tờ báo nào (free lance), toàn bỏ tiền
túi mình trang trải chi phí di chuyển và ăn ở, tới đâu cũng mướn phòng ngủ. Tại nơi nào và
nhằm lúc nào cắm trại được thì tôi thích thú như Hướng Đạo sinh phiêu lưu hồi tuổi trẻ, vừa đỡ
tốn tiền vừa được sống lại đời sống thiên nhiên rừng rú ngoài trời, ngắm trăng sao, nghe tiếng
côn trùng, chim chóc, muông thú. Đúng nghĩa tôi được trọ tại khách sạn ngàn sao.
Họa hoằn cũng ghé nhà bạn bè quen biết vào dịp cần moi hoặc thẩm tra tin tức. Hành nghề
phóng viên lần nầy là thú riêng giải trí tuổi già của tôi, thích chụp ảnh, sưu tập hình đẹp, ý hay,
lòng tốt, thỏa mãn tọc mạch sự đời và tình đời, làm quen với cảnh và người. Không vì một mục
đích quan trọng, ý đồ chính trị hay mộng ước cao siêu nào.
Về phương tiện nghề nghiệp, tôi trang bị máy quay phim và chụp hình tối tân nhỏ hơn gấp
mấy lần kiểu cũ xưa mà chức năng lại gia tăng độc đáo. Chiếc máy nhỏ bằng bao thuốc lá nằm
gọn trong lòng bàn tay hiệu Sony MicroMV IP7 dùng kỹ thuật vô tuyến Răng Xanh (BlueTooth)
có công dụng chụp ảnh chất lượng (sức chứa mỗi thẻ tới ngàn triệu pixels),và gởi thẳng liền lên
Liên Mạng cho khắp thế giới nhận trong vòng vài giây đồng hồ. Hồi làm báo Thần Chung, Tiếng
Dội, chiếc máy ảnh Rolleiflex của tôi lúc ấy cũng tối tân. Sau khi thâu hình đem vô phòng tối cắt
phim ra rửa, phơi khô phim, rọi ra giấy, đem ngâm nước hãm hình lại rồi phơi khô giấy hình đó
xong đưa đến cliché Dầu làm bản kẽm đem về đóng vô khuôn cho máy in. Mau nhứt đã tốn nửa
ngày. Tờ báo còn mất thêm cả ngày nữa mới phát hành tới các nơi Lục Tỉnh, so với bây giờ chỉ
mất vài giây đồng hồ đã gởi đi khắp năm Châu.
Phóng Viên
Văn Bia 75 tuổi còn hành nghề nhiếp ảnh, càng già máy quay phim càng teo nhỏ. Ảnh bên
cạnh chụp năm 1984 với chiếc máy còn to tổ bố. Hình dưới chụp năm 2005 sau mấy lượt về
thăm quê hương và nhiều lần ngao du khắp nước Mỹ bằng xe đò, xe lửa và xe nhà. Ở Việt
Nam cỏn bằng xe ôm thường nhứt
Trong mấy tháng cuối năm 2002, tôi đi toàn bằng xe lửa và xe đò trên mười lăm ngàn dặm,
vòng quanh và xuyên qua non bốn chục tiểu bang của Hoa Kỳ. Còn tại quê hương, năm 2003,
tôi ngược xuôi mấy lượt từ Cà Mau tới Sa Pa, quan sát sự thay đổi của đất nước từ những vùng
quê hẻo lánh. Mùa Xuân năm 2004 trở lại Hoa Kỳ, liên tiếp trong nhiều tháng, lái xe thêm 12
ngàn dặm thăm các tiểu bang chưa đến, hết tới lui qua lại miền bắc Mỹ và Canada đến xuôi
ngược vùng trung nam Mỹ.
Thoạt đầu chỉ tính đi chơi một chuyến vòng quanh nước Mỹ trước khi về quê hương, có thể
không còn có dịp đặt chân trở lại trên đất người, chớ đâu nghĩ mình đi làm được một cuộc
phóng sự dài vô cùng lý thú sẽ kể lại. Trong hai năm, tôi đã đi trọn hết 48 tiểu bang, nhiều nơi
qua lại tới hai ba lần. Chỉ còn Alaska và Hawaii tôi mới đặt chân tới có một lần cách nay đã mấy
chục năm. Tôi trở về Việt Nam mùa Đông 2005 và chắc sẽ ở lại lâu dài, khi còn có sức vẫn tiếp
tục hành nghề phóng viên. Cuộc du ký nầy vào cuối đời phóng viên của tôi sẽ được đăng vào
một tập riêng.
Tôi đã cố lặn lội thật nhiều trên nước Mỹ, không phải chỉ đến những nơi có phong cảnh đẹp
để thưởng ngoạn, mà còn chú ý đi thăm coi những chỗ nghèo nàn hẻo lánh không phủ sóng
không sử dụng điện thoại di động được. Trước khi làm phóng sự về quê hương Việt Nam, tôi
nghĩ muốn viết những ghi nhận tốt xấu hoặc hay dỡ hay nghèo khổ đúng tầm mức thì phải có
một đối tượng để so sánh. Không gì hơn là lấy một kích thước cao nhứt là nước Mỹ làm tiêu
chuẩn để khi tả một nước Việt Nam từ chỗ bị chiến tranh tàn phá liên tục, bị địch thủ tính đưa
về thời kỳ đồ đá, phải cực nhọc leo lần như thế nào trên nấc thang xóa đói giảm nghèo.
Không được sự khôn ngoan Trời phú như một số người, tôi nghe theo lời ông bà dạy “đi một
bước đàng học một sàng khôn” nên cố đi cho thật nhiều bước đàng. Tôi đã đi cả triệu bước
đàng rồi, nếu vẫn chưa kịp đủ khôn ngoan bằng người thì ít ra chắc chắn cũng được một việc
hài lòng cho nghề phóng viên của tôi thành công là thâu thập được thêm nhiều tài liệu và hình
ảnh để bổ túc cho tập Hồi Ký tái bản nầy. Nhờ đi đó đi đây, tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người
thương và ghét Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ghi nhận được thêm nhiều tích sự về con người có
bộ mặt lịch sử nầy. Tôi đã có kể lại chuyện ở Texas gặp phi công chở Tổng Thống Diệm đi kinh
lý vùng Rạch Giá, chuyện ở Philadelphia gặp một tướng đảo chánh hụt ông là cựu Trung Tướng
Nguyễn Chánh Thi, ở Virginia gặp cựu dân biểu Huỳnh Văn Cao, v.v. Gần đây nhứt, cũng nhờ
còn đi lung tung đó đây, tôi được cơ may có một tiếp xúc mới nữa, khá hấp dẫn cho một phóng
viên săn tin. Xin kể ra như sau.
CHƯƠNG 64
Khi Tổng Thống Diệm và gia đình người em ông, gồm vợ chồng ông bà Ngô Đình Nhu với hai
con là Ngô Đình Trác và Ngô Đình Lệ Thủy, tất cả cần có khăn đóng đội lúc mặc quốc phục,
một hầu cận Tổng Thống tìm ra đúng một thợ người Bắc làm khăn đóng phải nói là một tay
chuyên nghề bậc nhất nhì. Đó là ông Đào Văn Nho, chủ tiệm .khăn đóng Hùng Lân ở đường
Trương Tấn Bửu, Phú Nhuận,. Ông là đồng bào Bắc Việt di cư năm 54 vào Nam làm ăn phát đạt
nhờ có nghề chuyên môn nầy rất ít người làm. Ông không ngờ nhờ đó được diện kiến Tổng
Thống Diệm mấy lẩn và còn rờ đầu vị nguyên thủ quốc gia mấy lượt.
Ông thuật lại chuyện có một chiếc xe của Phủ Tổng Thống một hôm đậu lại trước tiệm ông.
Người trên xe vào hỏi, giọng Huế, mua một ít chiếc khăn đóng. Ông trả lời người nào đội phải
đích thân thử hay đo mới dùng đúng cỡ. Ông Nho được đưa vô Dinh Độc Lập gặpTổng Thống
Diệm và trọn gia đình ông bà Ngô Đình Nhu. Một lần để đo và vài lần sau để thử. Lần nào ông
cũng được nán lại khá lâu. Tổng Thống vui vẻ chuyện trò với ông về nghề làm khăn đóng, hỏi
sự khác biệt kiểu khăn đóng của người Bắc và người Nam thế nào, và đưa ý kiến kiểu của người
Trung dung hòa cho đa số người đội. Kết quả sau đó ông Diệm đặt hắng đống khăn đóng để
tặng cho các cụ già trong những lần đi thăm viếng các ấp chiến lược. Ông Nho làm không xuể
phải thuê mướn lại nhiều đồng nghiệp khác của ông. Họ phải làm theo mẩu khăn đóng của
người Nam, bít đầu và mềm, xếp bỏ túi được.
Qua những lần nói chuyện, ồng Nho nói Tổng Thống Diệm nhìn thẳng vào người đối thoại.
Ông nhận xét con người ông gặp là quá nhơn đức, thật thà, khó làm chánh trị được. Ông Nho
cũng nói bà Nhu quá tía lia. Còn ông Nhu ít thân thiện. Trong đời ông Nho làm khăn đóng, đã
đo không biết bao nhiêu cái đầu. Ông nói chưa hề gặp ai có cái đầu to bằng đầu của ông Nhu,
số 61, trong khi đầu bình thường chỉ khoảng 54-57. Ngô Đình Trác, con trai của ông Nhu, lúc
ấy 12 tuổi, số 58. Tổng Thống Diệm số 59 !/2.
Cũng trong một cuộc viễn du dài hạn vòng quanh thế giới, vào cuối năm 2005 tôi được gặp
lại tại quê hương một người thân tín của hai ông Diệm Nhu đã cố giúp họ ngày cuối cùng của
chế độ Dệ Nhứt Cộng Hòa. Đó là cựu Đại Tá Nguyễn Văn Phước, cựu Phó Đô Trưởng Saigon-
Chợ Lớn. Phóng viên 76 tuổi là tôi được dịp phỏng vấn ông lúc đó đã 82 tuổi và yếu ớt phải
dùng tới hai cây gậy để chống đi đứng song tinh thần còn rất minh mẩn. Ông thuật lại cho tôi
từng chi tiết chuyện xảy ra trong đêm 1/11/63.
Khi quân phản loạn tấn công chiếm dinh Gia Long không gặp được hai anh em Tổng Thống
trong đó, tin tức loan ra nói họ đã trốn thoát ra ngoài bằng một con đường hầm bí mật. Sự thật
thì sau lúc dinh bị bao vây, một nhóm thân tín của Tổng Thống Diệm thuộc giới cao cấp của
Thanh Niên Cộng Hòa như Cao Xuân Vỹ và ông Phó Đô Trưởng Phước cùng với hầu hết nhân
viên thuộc hạ đã tề tựu tại Tòa Đốc Lý nằm sát bên cạnh dinh Gia Long, chia cách nhau bởi con
đường Pasteur. Hai tòa nhà nầy đều có cửa ngỏ mở ra con đường trên và đối diện nhau cho hai
bên thông thương qua lại dễ dàng. Ông Ngô Đình Nhu gọi điện thoại cho ông Phước, báo tin
“thằng Đính (Tôn Thất) đã làm phản”. Hai ông Phước và Cao Xuân Vỹ vào dinh qua ngả hông.
Không có lính của loạn quân kiểm soát khu vực nầy.
Ồng Nhu ngỏ ý trốn lên vùng Cao Nguyên, hỏi ông Phước liệu có được không. Ông Phước trả
lời làm được. Cảnh sát đều biết mặt ông và đều tuân lịnh ông. Họ báo cáo loạn quân không có
đóng chốt kiểm soát đoạn đường nào ngoài khu vực trước dinh Gia Long. Nhưng Tổng Thống
Diệm phẫn nộ, cự lại ý kiến của em cố vấn mình:
– Tổng Thống không chạy trốn. Chú có muốn thì đi một mình đi.
Cuối cùng, Tổng Thống và Cố Vấn thỏa thuận thoát ra khỏi dinh, di tới trụ sở của Thanh Niên
Cộng Hòa Chợ Lớn. Hai người đều mặc bộ đồ ngủ pyjama chui vào thùng chiếc xe deux
chevaux (Citroen nhỏ) do Đại Úy Hưng lái chạy theo sau xe của Đại Tá Phước ngồi dẫn đầu ra
ngỏ cửa hông phía đường Pasteur. Xe Đại Úy Bằng, Tùy viên Tổng Thống, nối theo kết thúc
đoàn xe nhỏ. Đến nơi, Tổng Thống giải tán gần hết trước khi cùng ông Nhu đi đến nhà Mã
Tuyên. Hình ảnh chụp hai anh em ông Diệm nằm chết đều mặc đồ veste đàng hoàng là đồ lớn
của Mã Tuyên cho thay đổi bộ đồ ngủ trước khi đến nhà thờ cha Tam.
CHƯƠNG 65
Đất Bình Dương, nơi an nghỉ ngàn năm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Đất Bình Dương, do tình cờ giữ nắm xương tàn của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Tôi không
ngờ ông Diệm gốc gác từ Quảng Bình thuộc dòng dõi vọng tộc, đáng an nghỉ vùng lăng tẩm đất
Thần Kinh, lại về nằm trong một nghĩa địa nhỏ bé nhà quê ở một tỉnh mang địa danh do chính
chế độ ông đã đặt ra thay thế tên Thủ Dầu Một nặng mùi đồn lính thời thực dân Pháp.
Sau khi hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị nhóm phản loạn hạ sát ngày 2 tháng 11
năm 1963, xác hai người bị vùi dập sơ sài trong vòng rào Bộ Tổng Tham Mưu một thời gian
trước khi được đem chôn trong Đất Thánh Tây Saigon, có tên khác là Mạc Đỉnh Chi, dành cho
Pháp kiều và giới thượng lưu Việt Nam. Đất Thánh nầy tọa lạc trên đường Mayer (sau đổi thành
Hiền Vương, hiện là Võ Thị Sáu), khoảng giữa Dakao (Đất Hộ) và Tân Định. Khi chánh quyền
địa phương sau 1975 dẹp bỏ nghĩa địa nầy, biến thành công viên Lê Văn Tám, trên đó có xây
đài liên lạc vô tuyến, thân nhân Tây Ta những người chôn ở đây được lịnh hốt cốt họ đưa đi cải
táng nơi khác.
Hài cốt cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu phải di chuyển một lần nữa,
được bà Trần Trung Dung tức ái nữ của bà Cả Lễ, chị cả trong gia đình họ Ngô, đem cải táng
tại một nghĩa địa khiêm nhường gần cầu Ông Bố ở Lái-Thiêu.
Mộ Ngô Đình Diệm đơn giản nằm gần như
vô danh (dưới tên GIOAN BAOTIXITA HUYNH) trong nghĩa địa Lái Thiêu
Nghĩa địa nầy nằm phía tay mặt trên đoạn đường từ Lái Thiêu đi Thủ Đức. Hình như có sự
chọn lựa kỹ lưỡng đi tới quyết định nơi an nghỉ, hy vọng là ngàn năm, trên vùng đất Bình Dương
nầy. Nhỏ hẹp, cây cối rậm rạp, người dân lương giáo Hoa và Việt yên hòa sống chung quanh
gần đó. Hai ngôi mộ của anh em cố Tổng Thống được xây đơn giản bằng xi măng đồng cỡ y
như tất cả các ngôi mộ khác, nằm lẫn lộn chung trong những hàng dọc dài, thật khó mà phân
biệt. Trên một ngôi mộ vỏn vẹn khắc chữ GIOAN BAOTIXITA HUYNH. Ngôi mộ thứ hai khắc chữ
IGNAXIÔ ĐỆ. Vì sao anh hùng chí sĩ đất nước ẩn danh mai một như vậy?
CHƯƠNG 66
Hai nhà cách mạng Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh
Khi so sánh hai người lịch sử của Việt Nam, tôi nêu tên ông Ngô Đình Diệm trước ông Hồ Chí
Minh chỉ vì theo thứ tự ABC mà thôi. Hai người đã có những thành tích tương tự như truất phế
/ lật đổ vua Bảo Đại và đánh đuổi Thực Dân Pháp.
Cả hai người đều không bận bịu vợ con lúc đương quyền tuy trước đó ai cũng đều có cuộc
tình như người thường, kẻ đã lê thê hay cưới đồng chí lúc bôn ba hải ngoại, người thì chỉ ngắn
ngủi cùng một đồng đạo vì người yêu dứt áo vô tu viện làm Mẹ Bề Trên nhà dòng, chàng thanh
niên ở lại ngoài đời lãnh chức Nguyên Thủ quốc gia. Ông Hồ Chí Minh có hang Pác Pó còn ông
Ngô Đình Diệm có tu viện dòng Chúa Cứu Thế là những nơi trú ẩn của mỗi người trước khi ra
trình diện với quốc dân đồng bào. Cả hai đều lưu lạc ngoại quốc tìm đường cứu nước.
Hai người đã dựa vào hai thế lực tương phản nhau, không hẳn Hoa Kỳ và Nga Tàu như nhiều
kẻ nghĩ, mà đúng là tôn giáo Vatican và chủ thuyết Cộng Sản, để làm cách mạng cướp chánh
quyền rồi tranh quyền, theo triết lý đơn thuần ”được làm vua thua làm giặc”. Cả hai vị đều
không tránh khỏi chịu tiếng độc tài, bị các đảng phái đối lập lên án đã dùng thủ đoạn độc ác,
xảo quyệt, hay không quân tử. Cả hai đều áp dụng chánh sách thẳng tay đàn áp kẻ chống đối
để đồng nhất và vững mạnh cai trị như những anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh và Quang Trung
cũng đã làm.
Hai cảnh tượng trước mắt tôi cách nhau mười năm như lịch sử tái diễn. Năm 1945, phe nhóm
ông Hồ Chí Minh nhanh chân cướp được chánh quyền, để có được hậu thuẫn, đã phân phối các
ghế trong nội các cho ngoài nhóm như Nguyễn Tường Tam (tức nhà văn Nhất Linh) làm Bộ
Trưởng Ngoại Giao, Huỳnh Thúc Kháng Bộ Trưởng Nội Vụ, Hoàng Xuân Hãn Bộ Trưởng Quốc
Gia Giáo Dục, Phan Anh Bộ Trưởng Thanh Niên. Lãnh tụ Quốc Dân Đảng Vũ Hồng Khanh, và
Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại, làm Tối Cao Cố Vấn. Một vài năm sau, cơ cấu chánh trị gồm
toàn đảng viên Cộng Sản điều hành.
Ở Miền Nam, để củng cố chánh quyền vừa nắm được, năm 1954, chánh phủ Ngô Đình Diệm
chia các ghế bộ trưởng cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, v.v… Vài năm sau, chỉ còn phe nhà
nắm hết quyền bính.
Lịch sử sẽ trách thời đại Hồ Chí Minh làm trì trệ bước tiến của đất nước một thời gian và có
giai đoạn quá khe khắt với dân mình, nhưng không lên án ông Hồ Chí Minh đã sử dụng đảng
Cộng Sản làm phương tiện chiến thắng ngoại xâm. Lịch sử càng không lên án ông Ngô Đình
Diệm đã chống lại chế độ Cộng Sản ông Hồ Chí Minh áp đặt lên Việt Nam, giúp số đông đảo
người Việt quốc gia, nạn nhân của Cộng Sản đảng, được có đất đứng và thoát khỏi tình trạng
phải hợp tác với kẻ thù của đất nước là thực dân Pháp.
Chỉ là một cuộc nội chiến vô phương tránh khỏi. Nhà cách mạng Ngô Đình Diệm không là
vua Lê Chiêu Thống rước Tàu về giúp mình, cũng không như vua Gia Long mời quân Xiêm La
qua phụ chống anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc Nguyễn Huệ.
Trong một tương lai đến mức nào, chắc lăng Hồ Chủ Tịch vẫn còn sừng sững tại quảng
trường Ba Đình Hà Nội như lăng tẩm vua Gia Long tồn tại đồ sộ uy nghiêm ở Huế. Còn anh
hùng đất nước như Ngô Tổng Thống cũng sẽ giống vua Quang Trung, không được lưu di tích
mồ mả, song tiếng tăm vẫn vang dội lừng lẫy. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Sau nầy lịch sử nhắc tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Chủ Tịch Hồ Chí Minh sẽ cùng cung
cách tương tự như nhắc đến Hoàng Đế Quang Trung và vua Gia Long. Thêm một thời nội chiến
của đất nước đi vào lịch sử. Thời gian làm lắng đọng mọi thù hằn đương thời của cả hai phe.
Người Việt Nam trước sau luôn luôn vẫn là đồng bào với nhau. Nước Việt Nam trước sau luôn
luôn vẫn là một giang sơn thống nhứt. Quê hương mến yêu muôn đời Việt Nam của toàn thể
đồng bào Việt Nam.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng!
Văn Bia
Viết xong Mùa Thu năm 2001
Bổ túc xong để tái bản Mùa Thu năm 2006
LỜI BẠT
LỜI BẠT của Nhà Văn Đổ Khiêm
Thể hồi ký là thể thông dụng nhất trong sinh hoạt văn học tại hải ngoại trong
những năm trở về đây. Cũng có thể nói đây là thể được người đọc trọng dụng nhứt
trước sự trì trệ mệt mỏi của văn chương hư cấu và từ các chánh trị gia hàng đầu
đến những sĩ quan cấp Úy đều đóng góp vào thể loại này tạo nên một khối lượng
đáng kể. Tuy rất bắt mắt với độc giả ngoài nước, người viết hồi ký thường rất e dè
với con chữ của mình khi đặt bút và phần lớn đều nghiêm chỉnh thắt cà-vạt mặc
com-lê (hay quân phục đại lễ), thêm một lớp son phấn như sắp sửa lên truyền
hình. Những vị điểm trang không được kỹ hay có phần vụng về, thường được phê
bình ” nâng đỡ ” bằng cụm từ ” ngòi bút chân thật ” hay chân chất, nói cách khác
là không được văn vẻ, vẽ vời.
Đây là điểm đầu tiên ta có thể trách tác giả.
Múa bút, theo tôi, là một xảo thuật cao đơn hoàn tán có giới hạn nhất định. Trong
văn chương, có được một bút pháp, văn phong trực tiếp và hữu dụng rất là hiếm,
còn rồng lân lẩn quẩn say mùi mực thì vô khối (hỡi ôi). Bút pháp rất đặc thù của
Văn Bia ở đây là trọng điểm của hồi ký, tạo nét chứ không phải là tạo dáng. Có
được một nét riêng là điều người viết nào cũng mong, càng loanh quanh đi quyền
thì chỉ làm người đọc mỏi mệt thêm mà thôi. Tôi nghĩ là không nên nhầm lẫn văn
chương với cái duyên dáng của một chương trình dự thi hoa hậu áo dài (hay là áo
tắm thì cũng vậy).
Áo dài hay là áo tắm, thì con sông xinh xắn ngăn uốn éo hình thức với lại uốn éo
nội dung có rất nhiều người không ngần ngại băng qua. Đọc các hồi ký, ta không
hiểu sự việc có trá hình hay được uốn nắn cho ngay thẳng hay không nhưng các
nhân vật thì thường được ngụy trang dưới bí danh, ám số, nhiều lúc vô cùng cầu
kỳ ( ” Một Đại Tá cựu thủ khoa khóa N Võ Bị Đà Lạt, Dân Biểu X của một tỉnh miền
Trung v.v…” ) Theo tấm gương trên thì Văn Bia ở đây phải gọi Ngô Đình Diệm là ”
Ông D, một lãnh tụ công giáo có em làm đến chức Cố Vấn ”! Nấp đằng sau bình
phong của khiêm nhường, có tác giả còn kể lại về mình với ngôi thứ ba. Như vậy,
chẳng mất lòng ai, tránh đụng chạm và chẳng cần kiểm chứng.
Mất lòng, có khi gây công phẫn cho người đọc là điều thứ nhì ta có thể trách Văn
Bia.
Đằng sau mỗi cây viết, đều có một người cầm. Sự hiển nhiên này, rất nhiều tác giả
muốn né tránh một cách đáng buồn (cười), nhất là trong thể loại hồi ký. Đã viết
hồi ký thì không thể nào cất cái tôi, cái ta, cái người dưới trang giấy được và nếu
không muốn phiền lòng ai thì nhìn trời mà thở dài chứ đừng nên viết lách làm gì. Ở
đây, cái tôi của tác giả được thể hiện một cách rất lương thiện, không luồn lách ẩn
nấp mập mờ, lúc hay ho thì tỏ lúc bối rối thì… biến. Sự lương thiện của ông với bản
thân trở đi cho phép ông lương thiện với người, có đúng hay sai về lịch sử thì lại là
một chuyện khác, nhưng tối thiểu cũng là một thái độ hiếm thấy. Dĩ nhiên, đây là
cái nhìn của tác giả, nhưng ông thấy sao nói vậy.
Cái thành thật đã đáng trách, người đọc còn có thể trách tác giả một điều chót, là
sự miên man của một hồi ký đáng nhẽ phải tập trung vào những cơ hội và nhân
vật ”lịch sử ”.
Điểm đặc biệt của tập Hồi Ký này theo tôi nghĩ không phải ở cái khía cạnh độc đáo
về Ngô Đình Diệm mà tác giả cho ta biết nhưng ở chính Văn Bia và thời điểm của
ông từ lăn lộn trong ngành báo đến chuyện tình chiến khu. Đọc ” Ngày N+ ” của
Hoàng Khởi Phong hay ” Tháng Ba Gãy Súng ” của Cao Xuân Huy tôi không hề cân
nhắc Quân Cảnh miền Trung di tản chiến thuật như thế nào hay Sư đoàn Thủy
Quân Lục Chiến tan hàng miền giới tuyến ra sao mà chỉ để mình được lôi cuốn
theo cái ” tôi ” của các tác giả này. Ở đây, nhân vật Văn Bia là chính và lộ diện.
Nhiều người nhầm lẫn khi viết hồi ký và tưởng rằng cái nhìn của họ có thể làm xấu
làm tốt nhân vật này hay nhân vật nọ. Hồi ký của Văn Bia tất nhiên trong cái dòng
liên miên của nó chỉ cần làm nên được Văn Bia và đó là điều đáng quý.
Ở cương vị một người đọc sinh sau, không có những cơ hội, hoàn cảnh và kinh
nghiệm của người viết, tôi hết sức thú vị được làm quen với bối cảnh và những sự
việc ông dựng lại qua tập này. Tôi nghĩ đây là một tập Hồi Ký ông viết cho ông và
có thế nó mới là có cho tôi, người đọc, chứ không phải là một tập viết cho bằng
hữu, cho kẻ thù, để trả ân báo oán, để chạy nợ hay là tính sổ đòi tiền như ta hằng
thấy nhan nhản. Viết cho mình mới là viết cho người và bởi vì nó trớ trêu như vậy
nên mới hay có lầm lẫn, có những kẻ viết cho người (cho hậu thế, cho lịch sử, cho
bạn cùng đơn vị, cho phụ nữ đầu xóm) là chỉ để viết cho mình.
Tôi cám ơn Văn Bia đã cất công viết tập Hồi Ký này cho tôi.
ĐỖ KHIÊM
LỜI BẠT của Nhà Văn Võ Kỳ Điền
Cách đây vài tháng, ký giả Văn Bia có nhờ tôi viết lời tựa tập Hồi Ký ông sắp hoàn
thành. Tôi bận bịu chuyện riêng, không dám hứa liều và có đề nghị ông nên nhờ
một ký giả đồng nghiệp nào thân tình nổi tiếng, hiểu biết ông nhiều, làm việc nầy
thì có lẽ đúng và thích hợp hơn. Trong lãnh vực làm báo, tôi hoàn toàn không một
hiểu biết lẫn kinh nghiệm và quen lớn nào. Miệng nói vậy, chớ tôi cũng xin ông gởi
vài đoạn đọc thử coi sao. Nào ngờ càng đọc những biến cố trải qua đời của ông
bạn già đồng hương thân tình, tôi càng ngạc nhiên, sung sướng vì khám phá ra
nhiều thú vị bất ngờ.
Ông Văn Bia, người mà tôi thường khoe với bạn bè trong các câu chuyện hàn
huyên, là chỗ quen biết cùng quê hương bản quán và là người rất dễ thương. Quen
thì có quen nhưng biết thì chưa được bao nhiêu. Ông Văn Bia tuổi đời trên bảy
chục, tôi biết ông qua tờ Thần Chung của ông Nam Đình hồi còn nhỏ xíu nhưng
quen ông thì mới trên dưới mười năm.
Tôi biết gì về ông Giám Đốc Ngân Hàng Nông Thôn Lái Thiêu Văn Bia, cũng là ông
chủ nhà thuốc tây Lê Hồng ở miệt Búng nầy? một người hiền lành, trung hậu,
thành thật, xuề xoà, quảng giao và giỏi kinh doanh, ngày xưa ở Việt Nam giàu có,
bây giờ sang Mỹ lại giàu có nhiều hơn, rồi hết. Có phải vậy không ? Thiệt ra không
phải chỉ có vậy !
Đọc trong thiên hồi ký, lúc còn trẻ cách đây trên năm chục năm, ông đã từng phen
ghé qua và ngủ ở nhà người thân tôi, tận thị trấn Dương Đông, đảo Phú Quốc xa
xôi để làm phóng sự, nghe ông kể mà tôi đâm giựt mình. Cả đời làm phóng viên
ông đã đi mọi miền trên đất nước, đã tiếp xúc biết bao câu chuyện hấp dẫn lớn,
nhỏ của quê hương, đời tư hào hoa, đời công xông xáo, đâu phải ông Văn Bia chỉ
hiện diện ở cái xã An Thạnh nhỏ xíu nầy với đám măng cụt nhiều mủ, sầu riêng
đầy gai, rẫy mía Thuận Giao thấp lè tè, hoặc như tôi loanh quanh bên cái xóm chợ
Thủ Dầu Một cũ kỹ hai mùa mưa nắng.
Những điều tôi tưởng tượng và nghĩ về ông bạn già Văn Bia thiệt là thiếu sót, cái
nhìn của tôi về ông quả có phiến diện, hời hợt. Nhờ cuốn Hồi Ký tôi có thể biết rõ
hơn, ông là một người đa tài, đa tình, hào hoa phong nhã, tự tin, xông xáo, hoạt
động, nhứt là một nghị lực mạnh mẽ, không lùi bước trước một nghịch cảnh nào
và cũng là người con dân yêu nước, ông đã nhiều phen thao thức, suy nghĩ, tham
gia với nhiều trăn trở theo những thăng trầm của lịch sử Việt Nam hiện đại.
Nhưng những đức tánh tốt của một người công dân Văn Bia vừa kể cũng đâu phải
là lý do để tạo nên giá trị cuốn sách. Chúng ta có thể tìm thấy hàng trăm hàng
ngàn công dân đạo đức và tài năng như vậy một cách dễ dàng ở khắp mọi miền
đất nước. Phải có cái gì đặc biệt hơn sự tầm thường, dài như thời gian lịch sử, hấp
dẫn như nhan đề cuốn hồi ký mà ông dám hạ bút ghi dòng chữ rõ nét như sau:
Những ngày chung sống với chí sĩ Ngô Đình Diệm.
Nhìn qua cái tựa tôi giựt mình, ông bạn già Văn Bia có sống chung với ông Diệm?
có thiệt không? Tôi ngạc nhiên quá sức, ông Văn Bia ở Búng còn ông Diệm ở Huế,
nơi chốn cư ngụ, tuổi tác, địa vị cách xa nhau, cà nông bắn luôn ba phát còn chưa
tới, làm sao mà sống chung nhau được? Có thiệt vậy không ?
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã là người của lịch sử đất nước. Khi ông nằm xuống
cho tới nay không biết bao nhiêu giấy mực đã viết những lời khen tiếng chê. Đồng
bào đã đọc nhiều lắm và sẽ còn được đọc tiếp tục những lời nhận định phê phán…
Như chuyện người mù rờ voi, mỗi người một cái nhìn, làm sao người nầy nghĩ
giống người kia được. Nước Việt Nam mình, chuyện chánh trị giống y một cuộn chỉ
rối nùi, tìm cả đời cha rồi đời con, còn chưa ra manh mối. Huống chi muốn tìm
hiểu cho tới ngọn nguồn những tâm sự, tư tưởng, tình cảm, một người kín đáo như
chí sĩ họ Ngô rất khó khăn. Có quá nhiều lời đồn đãi, thêu dệt, phóng đại, vây
quanh mờ mịt con người trầm mặc và cô đơn đó.
Lời nào đúng và lời nào sai ? Dù tốt hay xấu, công hay tội, làm thế nào trả lại sự
thật, lẽ phải cho lịch sử, cho người nằm xuống vì đất nước? Chỉ một cách duy nhứt
là chúng ta tìm hiểu qua những tài liệu thật sự, những nhân chứng còn sống sót và
với trí óc khách quan sắc bén, chúng ta phân loại và lựa chọn những chi tiết có thể
tin được
Đọc từng chương, từng chương trong cuốn Hồi Ký, ta được biết, ký giả Văn Bia
xuất thân trong một gia đình công giáo thuần thành. Họ đạo Búng là một họ đạo
lâu đời nhứt miền Nam, có á Thánh Gẩm, vị thánh tử đạo đời Thiệu Trị. Ký giả Văn
Bia được gia đình dạy dỗ giáo lý và cho theo học chủng viện từ nhỏ với ước mong
trở thành linh mục nhưng trớ trêu thay cái thể xác trần tục, nhơ nhớp của con
người ông lúc còn trai tráng cản trở chuyện tu hành, việc làm lén lút ban đêm của
ông trái với giáo luật. Ông đã phạm tội gì lớn lao quá vậy? Đã bao phen ông lên
xưng tội với cha xứ, cái tội tày trời là… thủ dâm.
Hình như cho tới bây giờ, ông Văn Bia cũng còn nghĩ rằng hễ người dâm dục thì
không thể làm linh mục được? Tôi bèn nhớ tới Kim Thánh Thán, nhà phê bình nổi
tiếng Trung Hoa đời Thanh có lần bàn về thầy tu Phật Giáo: ‘nếu làm tì khưu lại
được công nhiên ăn thịt, thì mùa hè nấu một nồi nước, dùng con dao bén, cạo đầu
cho sạch. ‘ Hai chữ công nhiên hay quá sức. Nhắc tới đây, tôi nhớ ông Văn Bia ghi
lời khuyên của linh mục Của :
– Con nên về cưới vợ.
Ông Văn Bia quả thật là hiền lành, cha bảo về thì về, bảo cưới vợ thì cưới vợ. Việc
nầy tôi tin chắc bất cứ ai trong chúng ta cũng đều ngoan ngoãn nghe lời cha dạy
như ông hết. Một lời khuyên thật tình quí báu (nếu cha không nói câu nầy thì tôi
cũng tin chắc ông cũng từ bỏ nhà dòng, về trường Trịnh Hoài Đức cưới chị Văn Bia
rất đảm đang, hiền thục và đẹp đẽ kia!)
Tôi nghĩ rằng người dân Việt, trong giai đoạn mà ông Văn Bia vừa mới trưởng
thành, vấn đề gai góc nhức nhối nhứt là phải lựa chọn thái độ chánh trị, thế đứng
của mình. Theo kháng chiến Việt Minh do cộng sản giựt dây chống Pháp hay theo
phe quốc gia thân thực dân Pháp? Hay không theo ai hết chỉ lo học cho giỏi, để
thực hiện lý tưởng sang giàu, vợ đẹp con khôn? Thế nào là bán nước, thế nào yêu
nước, thế nào là không yêu nước ?
Câu trả lời không đơn giản. Không thể một sớm một chiều mà có ngay. Đáp số nào
cũng không thoả đáng cho cái bối cảnh lịch sử hiện đại. Một bài toán mà hai
phương trình chưa cân bằng, các dữ kiện đưa ra quá nhiều ẩn số mờ ảo.
Tuy hoàn cảnh có rắc rối nhưng bản chất con người Văn Bia đơn giản thì giải quyết
vấn đề khá đơn giản. Chàng thanh niên công giáo thuộc đạo dòng nầy hăng hái
tham gia công cuộc kháng chiến chống Pháp do Việt Minh lãnh đạo, không do dự.
Rồi tác giả bỏ kháng chiến về thành cũng không do dự. Người thanh niên Văn Bia
không bao giờ giải thích tại sao nay lại như thế nầy, mai lại như thế kia.
Câu trả lời là do chúng ta đọc được qua các sự việc diễn biến xoay quanh họ đạo
Búng. Thực dân Pháp thẳng tay bắt bớ, giam cầm, hãm hiếp, đốt phá, giết chóc
người dân lành vô tội. Rồi tới Việt Minh là những người lúc nào miệng cũng hô hào
yêu nước, làm y chang như vậy.
Không theo bên nào hết, ký giả Văn Bia tự tìm cho ông một lối đi. Ông tìm việc
làm thích hợp với sở thích rồi xông xáo trong làng báo và thành ký giả hồi nào
không hay. Một ký giả chưa bao giờ tìm việc làm, chưa bao giờ đòi hỏi lương bổng,
không cờ bạc, rượu chè, hút sách như những đồng nghiệp khác, chỉ biết yêu thầm
trộm nhớ hàng chục đoá hồng đẹp nhởn nhơ xung quanh thôi.
Đó là những ngày tháng may mắn, tình cờ. Trong lúc tu học ở chủng viện khiến
ông được cơ hội ngàn năm một thưở là gần gũi thân cận với vị tổng thống đầu tiên
của Việt Nam Cộng Hoà, chí sĩ Ngô Đình Diệm giai đoạn còn long đong, tá túc
trong Dòng Chúa Cứu Thế. Tôi thiệt tình khoái cái câu khi gặp ông Diệm lần đầu
tiên, thầy tu 18 tuổi Văn Bia đã nói: – ‘ tôi biết ông không phải là phản quốc nên
tôi sẵn sàng làm việc cho ông! ’ rồi sau đó lén về quê, gởi tiền vô khu mua sách
báo Việt Minh cho ông Diệm đọc.
Trời đất! chưa biết ông Diệm là ai, tư tuởng, đường lối chánh trị như thế nào, căn
cứ vào đâu mà biết ông Diệm không phải là phản quốc, mà dám nói thẳng vô mặt
người ta như vậy, quả là điếc không sợ súng. Nói năng ba trợn như vậy mà người
nghe là ông Diệm, một cụ thượng gốc Huế, thủ cựu, nghiêm khắc lại không giận,
nghĩ cũng thiệt là lạ lùng!
Ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ Tướng thay thế Hoàng Thân Bửu Lộc, cho
đến khi ông bị đảo chánh 1963, cuộc đời, con người ông là một bí mật, xa lạ và đôi
khi mơ hồ đối với đa số người miền Nam như tôi. Được bắt tay Tổng Thống Diệm
đã là một vinh hạnh cực kỳ hiếm quí và khó mà có được. Vậy mà ông Văn Bia,
người không có một sanh hoạt chánh trị, đảng phái lâu năm như Trương Công
Cừu, Nguyễn Đình Thuần, Đỗ Mậu, Nguyễn Trân, Trần Chánh Thành, Võ Văn Hải,
Trần Kim Tuyến, Lê Quang Tung, Bùi Kiện Tín, v.v… là một ký giả rất bình thường,
sức học không cao, tài năng không rộng, lý lịch lại mờ mờ ảo ảo, một thời hoạt
động kháng chiến cho Việt Minh, lại được tin cậy gần gũi, ăn chung mâm, ngủ
chung phòng, bàn cãi chuyện riêng tư, thậm chí đi tiểu chung với ông Diệm…
Những chi tiết lạ lùng và “khó tin mà có thiệt” đó khiến tôi băn khoăn, thắc mắc
tìm hiểu ngày đêm và đó cũng là mức độ hấp dẫn quyến rũ của cuốn Hồi Ký.
Tuy có những liên hệ mật thiết và sâu xa với ông Diệm và đại gia đình họ Ngô, vậy
mà Văn Bia không hề nhận một ân huệ gì khi Thủ Tướng Diệm tham chánh, không
liên hệ gì khi Tổng Thống Diệm đương quyền, không những vậy còn xa lánh ông
Diệm, Nhu và các cộng sự thay vì gần gũi, bợ đỡ để kiếm chút quyền hành và lợi
lộc (ông kể vụ anh tài xế Bèn trở thành Đại Úy Bằng của Phủ Tổng Thống).
Ký giả Văn Bia làm một việc ngược đời, tự mình đi, tự mình đứng, kiếm sống lương
thiện bằng tài năng chính mình, thong dong tự tại, không vì danh lợi ràng buộc
hoặc luồn cúi, quỵ lụy nương nhờ ai. Sự nghiệp ông có được là do tim óc, tài năng
làm ra chớ không phải gian lận, hối lộ, tham nhũng, đầu cơ…
Ông thường nói: – không có gì phải lo sợ cả, mình còn hai bàn tay thì còn có cơ
hội gây dựng lại sự nghiệp. Bàng bạc trong quyển sách, ý tưởng nầy được ông
nhắc lại nhiều lần. Ông không vì danh lợi, vậy mà danh lợi vẫn đến với ông. Sự
nghiệp ông mất hết rồi lại có do chính hai bàn tay ông tạo dựng với một khối nghị
lực và lòng lạc quan trong sáng.
Nếu tìm kiếm cho rốt ráo thì tôi cũng thấy được ký giả Văn Bia có chút ý kỳ kèo
xin xỏ chuyện riêng tư, mặc dù ông Diệm đã chết cách đây gần 40 năm – là ước
nguyện khi chết được chôn gần mã ông Diệm ở nghiã địa Lái Thiêu, quê nhà, cho
trọn nghiã thầy trò. Cái tình cảm giữa người với người đối xử với nhau đầy ân tình,
khiến ai đọc qua cũng cảm động.
Cũng có vài quyển hồi ký đã xuất bản mà tác giả trình bày trong sáng, khách quan
và tương đối đúng sự thật. Còn lại một số là tự đánh bóng và biện minh quá khứ
sai lầm. Chuyện đó rất dễ hiểu và bình thường. Việc khen hay chê là dành cho độc
giả.
Xếp quyển sách lại, tôi thấy ngay là ký giả Văn Bia còn bỏ sót nhiều sự việc hơn
những gì ông đã viết. Giá mà ký giả Văn Bia chịu khó tìm tòi trong cái trí nhớ hỗn
độn ngày một hao hụt của tuổi già, viết chậm chạp kỹ lưỡng hơn từng chi tiết, sắp
xếp câu chuyện cho mạch lạc, thêm vào những cảm xúc cá nhân riêng tư, những
nhận định về người, về việc… thì độc giả là chúng ta sẽ được một tài liệu quí giá
ích lợi biết ngần nào. Khối quặng mõ ông đào lên, lượm lặt đưa cho chúng ta, mới
được sàng lọc sơ sài. Phải chi ông chịu khó nhào nặn, chế biến, mài dũa, đục đẽo
nhiều hơn nữa thì chắc chắn sẽ lộ được ngọc quí…
Nhưng dù gì đi nữa thì tôi vẫn tin khối đá quí nầy xài được vì tánh cách xác thực
của nó. Lựa cái nào dùng được, bỏ đi cái dư thừa, chắc chắn sẽ có người đi sau lo.
Ký giả Văn Bia đã không làm một chuyện vô ích.
Để xác định sự thành thật cao độ của quyển Hồi Ký nầy, tôi xin được nhắc lại lời
nhận định của học giả Trung Hoa Lâm Ngữ Đường : “Tôi tin người nói năng không
thận trọng, không đầu không đuôi hơn là một ông luật sư. Nói năng không thận
trọng là yêu quí độc giả đấy, còn ông luật sư vì quá thận trọng nên toàn là lời giả
dối “.
Montreal. Quebec. Canada, mùa xuân 2001
Võ Kỳ Điền
LỜI BẠT của nhà văn Nguyễn Văn Sâm
Ký giả Văn Bia không chỉ mới viết đây về đề tài có tính cách quan trọng như tập
Hồi ký nầy. Trong suốt đời làm báo của ông ông đã viết biết bao nhiêu là phóng sự
về những vấn đề sôi bỏng đương thời. Tôi còn nhớ khi mình còn nhỏ, đứa học trò
lớp Nhứt lớp Nhì, mỗi ngày từ sáng sớm đã ra ngã tư gần nhà đứng lom khom coi
cọp các báo Thần Chung, Thời Cuộc, Tín Điển, Tiếng Chuông, Sàigòn Mới… cái tên
Văn Bia đã để lại trong tôi một ấn tượng tốt cho đến ngày nay. Nói ấn tượng vì giờ
đây không thể nào nhớ ông đã viết gì, nhưng biết chắc rằng mình đã đọc nhiều bài
của ông — tuổi trẻ, tôi coi cọp báo để đọc các bài phóng sự điều tra và các tiểu
thuyết, chớ không thích đọc tin tức — cho nên tên Văn Bia mới lưu lại trong ký ức
cùng với những tên tuổi khác như Hưng Hội, Cliché Dầu, Lưu thị Hạnh, Phú Đức,
Tô Nguyệt Đình, Anh Huy, Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm… Mỗi tên vừa kể đều có
công gì đó với những tờ báo một thời làm công việc cung cấp món ăn tinh thần
đầu đời cho tôi.
Rồi Văn Bia biến mất trên báo chí, tôi không biết thời gian năm mươi năm gần đây
ông làm gì. Cho tới một ngày quen ông trên Quán Vui Cười, Quán Cây Me
(Internet), cách đây ba năm. Ông vui tánh và rất thân thiện với anh em quán hữu
tuy rằng tuổi tác ông vào bậc cha chú đối với hầu hết những bằng hữu tới lui quán.
Đó là chuyện nhỏ, không dính dáng gì với chuyện viết lách. Chuyện đáng nói là
ông đã cố gắng trong những năm tuổi già bóng xế, lợi dụng lúc trí óc còn minh
mẫn để ghi lại những gì xảy ra đặc biệt trong đời mình trong tập Hồi Ký nầy. Đời
người có kẻ may mắn gặp chuyện đáng viết để viết, có may mắn viết được trôi
chảy lôi cuốn để có người thưởng thức, có may mắn còn nhớ lại được những gì đã
xảy ra hơn nửa thế kỷ trước. Văn Bia hội đủ ba điều đó.
Vấn đề kế tiếp là viết thế nào. Mỗi người một cốt cách, một phong độ. Cùng thể
loại Hồi ký lao tù mà Đáy Địa Ngục khác với Đại Học Máu, khác xa Trại Kiên Giam,
Trại Đầm Đùn, Cùm Đỏ… Cùng là hồi ký đời mình mà các quyển của Trần Văn Đôn,
Tôn Thất Đính, Bảo Đại, Nguyễn Trân, Phạm Bá Hoa, Nguyễn Đình Hòa, không
quyển nào có kỹ thuật như quyển nào. Vậy thì đừng đòi hỏi Văn Bia viết theo kỹ
thuật có sẵn nào đó. Ông thích đi theo đường xoắn ốc, trở tới trở lui, lang ba vi bộ,
có thể gọi là nhớ đâu nói đó. Ta cứ để tự nhiên cho ông kể chuyện. Trong biết bao
nhiêu là sự kiện ông nói đến ta sẽ học được, sẽ biết được nhiều điều thuộc về quá
khứ thời cận đại đã qua trong đời mình mà mình hoặc không chú ý đến hoặc
không có cơ duyên để gặp, để nhớ.
Cứ đọc Văn Bia một cách từ tốn, không đòi hỏi văn phong của nhà văn, không
khắt khe yêu cầu chứng liệu theo cách của nhà viết sử thì ta sẽ thưởng thức được
rất nhiều điều, kể cả giọng điệu kể chuyện thật điềm đạm của một ông già nhà
quê Miền Nam vui tánh, nhiều bao dung, nói sang đàng từ chuyện nầy sang
chuyện khác.
Tôi thích tính chất khả tín trong ngòi bút của Văn Bia. điều gì ông nhớ rõ ông mới
viết, không thêm mắm giậm muối, dầu nhiều lần tôi đã xúi ông tái lập lại quá khứ
bằng một vài tưởng tượng vô tội vạ. Thử nghĩ nếu ông thêm thắt đôi chút thì
chuyện người nữ giao liên tóc dài và cái chết của cô ta, chuyện cô Ni, chuyện các
nàng nữ sinh Cần Thơ.. sẽ hấp dẫn đến mức nào. Chuyện Hoàng Tử Bảo Long học
cùng trường với ông, chuyện Ngô Đình Diệm gánh cháo heo, chuyện người đi theo
Pháp để trả thù nhà… nếu gặp người khác thì sẽ được viết nhiều gấp năm mười lần
hơn chớ không phải ít dòng như ngòi bút lương thiện Văn Bia.
Còn nữa! Đó là tính chất nhân hậu trong tập Hồi Ký nầy. Nó không được dùng để
tô bóng điểm son người viết và bôi tro trát trấu những người hay sự kiện mà tác
giả không thích. Độc giả khi buông tập sách xuống khi đọc xong chắc chắn sẽ thấy
như nụ cười hiền hậu không hận thù của Văn Bia thể hiện trong mỗi hàng chữ.
Trong thế giới lộn xộn, rắc rối nầy Hồi Ký của Văn Bia cũng là một hiện diện cần
thiết.
Nguyễn Văn Sâm
(Texas, Oct. 6-01)
Một phóng viên trong cuộc kể lại biến cố lịch sử Việt Nam tranh đấu thoát vòng lệ thuộc,
oai hùng chiến thắng Đế quốc Pháp
(Từ Nam Bộ Kháng Chiến đến trận Điện Biên Phủ và cuộc nội chiến Bắc Nam cận đại)
Ghét hay thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều nên đọc để biết rõ con người thật của một
gương mặt lịch sử
Văn Bia Lê Văn Bia
Tên thật: Hốc Môn (18 Thôn Vườn Trầu)
Sinh quán: Phóng viên các báo Thần Chung, Tiếng Chuông, Tiếng Dội
Giám Đốc Ngân Hàng NT Lái Thiêu
Trước 1975: Cố Vấn Trưởng Bộ Y Tế Tâm Thần Massachusetts, Hoa Kỳ
Sau 1975:
31 Lincoln St. Methuen,
Địa chỉ MA 01844, USA
Điện thoại:
Điện thư: 978-689-0770
[email protected]
https://vanngheboston.wordpress.com/2021/06/11/nha-bao-le-van-bia-qua-doi/
R.I.P
Vài dòng tiểu sử nhà báo Lê Văn Bia
Tên thật: Lê Văn Bia
sinh quán: Hóc Môn (18 Thôn Vườn Trầu)
Nhà báo Văn Bia đã sinh hoạt văn học nghệ thuật tại Boston nhiều năm.
Trước 1975, phóng viên báo Thần Chung, Tiếng Chuông, Tiếng Dội.
Giám đốc Ngân Hàng Nông Thôn Lái Thiêu.
Sau 1975, định cư tại Hoa Kỳ.
Cố Vấn Trưởng Bộ Y Tế Tâm Thần Massachusetts – Hoa Kỳ
Sinh sống tại Boston nhiều năm sau này dời về định cư tại Charlotte, NC