biến hình cho có vẻ một nhân vật bí mật đến giờ chót, kiểu như ông Hồ Chí Minh đã làm, nên
tôi không xin ảnh được. Tuy vậy, nóng máu nghề nghiệp, tôi cũng lục ra được tấm hình ông
Diệm đã đặc biệt tặng riêng tôi năm 1949, chụp lúc ông qua Hồng Kông gặp Bảo Đại.
Báo Thần Chung duy nhứt có hình đăng, một lần nữa, ăn đứt các báo khác, nhờ tôi. Còn duy
nhứt một tờ báo nữa, vị tình tôi, nhận đăng bài thật ngắn tôi viết tin về nước của ông Diệm, là
tờ Saigon Mới của ông bà Bút Trà. Báo Tiếng Dội và tờ báo tôi đang bỉnh bút lúc ấy là Tiếng
Chuông, không đăng.
Anh em trong Ban Tổ Chức tỏ vẻ không hài lòng về sự lơ là của báo chí, hay sự bất tài huy
động báo chí của tôi, tuy tôi đã báo trước khi tôi nhận lãnh nhiệm vụ, là tôi biết báo giới không
hậu thuẫn cho ông Diệm đâu. Một người trong Ban Tổ Chức chê báo Saigon Mới viết cách không
sốt sắng gì. Ông Ngô Đình Nhu tỏ ra hiểu biết, nói đỡ dùm tôi là đã có nhắc đến cũng là gây
được sự chú ý rồi.
Ban Tổ Chức muốn đòi hỏi tôi dùng uy tín tôi có được trong báo giới mà xông xáo lớn tiếng
hô hào đăng lên báo chí loan tin đón tiếp nhà ái quốc Ngô Đình Diệm hồi hương chấp chánh
cứu nước qua khỏi cơn suy vong. Chuyện tôi cho họ trăm phần hoang tưởng. Tôi còn khuya mới
chịu viết một bài tuyên truyền. Từ ngày nhập làng báo làm phóng sự và lấy tin tức, tôi đã quyết
tâm giữ cho ngòi viết của mình luôn luôn được trung thực nên được hay bị coi là trung lập.
Về nước gần như trong lặng lẽ, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được đưa về ở chung trong dinh
Gia Long với cựu Thủ Tướng Bửu Lộc. Không mấy ai biết lễ bàn giao tổ chức lúc nào, hoặc có
tổ chức hay không, tuy chánh phủ Ngô Đình Diệm được chánh thức thành lập ngày 7/7 nên Đệ
Nhứt Cộng Hòa có ngày lễ quốc khánh Song Thất. Nhiều ngày sau, tôi vào dinh Thủ Tướng, vẫn
còn gặp hoàng thân Bửu Lộc ở đó và tôi vẫn thưa gọi ông ta là Thủ Tướng.
Pháp tính gỡ gạc ván bài chót, mong phen nầy dùng được nhà ái quốc Ngô Đình Diệm, để
không đến nỗi mất chài lẫn chì. Nhưng lầm to. Ông cựu Thượng Thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm
ngày nào đã dám từ quan mà nay nhận trở về trong hoàn cảnh nghiêng ngả thê lương nầy ắt
chỉ vì một lý do duy nhứt: cứu quốc không ngại hiểm nguy cũng như chẳng màng danh lợi.
Gần như tay không, chỉ có lòng yêu nước, Ngô Đình Diệm về quê hương giành lại chánh
nghĩa bằng cách bắt buộc quân xâm lăng Pháp phải rút lui, hoàn toàn giao trả mọi quyền quân
sự, ngoại giao, công an, hành chánh lại cho Việt Nam. Dinh Toàn Quyền Pháp phải là Dinh Độc
Lập của Việt Nam. Phải cấp tốc mau lẹ cho kịp trước mốc thời gian quyết định then chốt không
còn xa mấy là ngày Tổng Tuyển Cữ.
Một tình hình hỗn loạn êm dịu chưa từng thấy đang diễn ra trong cả nước, đặc biệt tại Saigon,
và quanh dinh Gia Long. Tôi sẽ tuần tự tường thuật. Sau bão động kinh hồn, yên tịnh khủng
khiếp.
Việt Minh không thừa thắng xông lên đánh Pháp cút văng luôn sau chiến trận Điện Biên Phủ
là có phần do áp lực quốc tế, chủ chốt là chính hai đàn anh Trung Cộng và Liên Xô. Số phận
khốn nạn của nước nhược tiểu luôn chịu thiệt thòi, nhận lãnh sự sắp xếp của các cường quốc.
Chu Ân Lai, ngoại trưởng Tàu, nhất quyết muốn Việt Nam phải chia hai như Hàn quốc.
Nga và Tàu thúc hối Phái Đoàn Phạm Văn Đồng, phía thắng thế đang trả giá cao thấp trên
bàn hội nghị, phải chấp nhận điều kiện thất lợi rõ rệt đối với Việt Nam đang trên đà chiến thắng.
Về ranh giới, Pháp đòi vĩ tuyến 18 cao khỏi Trung Việt. Việt Nam đòi vĩ tuyến 13 ở đâu tới
tận dưới Qui Nhơn là vùng độc lập của Việt Nam suốt thời kỳ kháng Pháp đến lúc đó chánh
quyền của ta (Việt Minh) vẫn còn làm chủ. Song kết cuộc do áp lực của đàn anh, Việt Nam cuối
cùng phải chịu chấp nhận vĩ tuyến 17.
Về thời hạn tổng tuyển cử, Việt Nam muốn thanh toán lẹ một khi giải pháp quân sự ổn định
xong và tinh thần dân chúng còn đang cao độ, nên đề nghị nửa năm hay quá lắm là một năm
thôi. Đàn anh ép nhận hai năm.
Hiệp Định Genève chỉ thỏa thuận ngưng chiến, tạm chia đôi Việt Nam đợi ngày bỏ phiếu toàn
quốc vào mùa Hè 1956. Cuộc đình chiến đã ký kết, hai bên tôn trọng triệt để.
Trước hết, hai phe đối nghịch mỗi bên gấp rút gom lực lượng tập trung lại tại những vùng
qui định. Cuộc xáo trộn của những cuộn sóng người trông hỗn loạn mà thật là êm dịu. Không
xung đột. Không súng nổ. Bao nhiêu hận thù của mỗi phía trong phút chốc bị gác bỏ hay biến
tan.
Ngoài Bắc, tôi ra viếng sau, sẽ kể sau. Ngoài Trung, tôi không có đến, tôi không biết. Trong
Nam, Việt Minh rải rác khắp miền Nam ào ạt kéo quân về tập trung tại các địa điểm chánh, mới
hôm qua còn là những thủ phủ hành chánh và quân sự của chánh phủ Miền Nam (do Pháp còn
cai trị) là Bà Rịa, Cà Mau và Cao Lãnh.
Việt Minh về mà cư dân không bỏ chạy. Trái lại, từng làn sóng bà con thân nhân từ Saigon
Chợ Lớn và từ khắp các nơi khác trong Nam Kỳ Lục Tỉnh lũ lượt kéo về thăm viếng bộ đội Việt
Minh.
Nền hành chánh như không có sự thay đổi. Không có sự bắt bớ chế độ cũ chế độ mới gì hết
trọi. Nước máy vẫn chảy mạnh, đèn điện vẫn cháy sáng trưng, chợ búa vẫn đông đúc, trật tự
vẫn duy trì. Quang cảnh sinh hoạt của dân chúng tấp nập như thường ngày. Rộn rịp hơn thật
nhiều thì có, do thêm sự hiện diện của rất đông đảo mũ tai bèo, khăn rằn và nón cối, bộ đội trú
đóng tại các trường học, các công sở, các dinh ốc công cộng.
Tôi chỉ đến quan sát Cà Mau có vài lượt, còn tới Cao Lãnh cả chục lần vì anh Tám tôi theo bộ
đội về đó chờ ngày tập kết ra Bắc. Tôi hết đi làm phóng sự với tư cách phóng viên báo Tiếng
Chuông, đến làm hướng dẫn viên đưa má tôi, rồi em tôi, rồi bồ của anh Tám tôi là chị Lucie tới
thăm anh. Má tôi còn nhớ người con vắng nhà nhiều năm, đòi đi thăm thêm mấy lần nữa. Nhiều
khi tôi ở lại đêm liên tiếp hai ba ngày cũng không bị ai xét hỏi hay làm khó dễ.
Việt Minh đề phòng cuộc trở tay bất ngờ của Pháp, cho đến giờ chót không để lộ chủ lực của
họ. Y như hồi sau ngày 30 tháng Tư 1975, Bắc quân toàn thắng, bộ đội vẫn giữ trong tình trạng
báo động, đóng quân rải rác trong các khu vườn bao quanh Saigon, đầy dẫy trong rẫy mía
Thuận Giao ở Lái Thiêu của tôi lâu cả mấy tháng, làm tôi tưởng như quân đội Việt Nam Cộng
Hòa còn ẩn núp đâu đây sắp sửa phản công.
Tôi cố sức tìm coi bộ đội võ trang tập kết, chỉ thấy và chụp hình được vào ngày từng toán
Việt Minh, hàng ngũ chỉnh tề với súng ống đầy đủ, bắt đầu kéo xuống từng chiếc xà-lan để ra
tàu lớn.
Việt Minh để đa số thành phần nòng cốt và cán bộ rút lui vào những chuyến chót ngày cuối
cùng. Anh tôi, chưa đi theo những toán trước, và chắc do tiệm chụp ảnh mật báo, biết tôi có
xấp hình đã chụp, yêu cầu tôi đưa coi. Anh rút ra ngay hai tấm, bảo tôi nên bỏ đi. Hai tấm đó
có chụp hình một anh bộ đội mang cây súng máy cũ xưa từ hồi Bảo Đại còn làm trùm. Đó là
hình độc đáo tôi cố chụp để tính trình bày vũ khí thô sơ vẫn thắng đế quốc Pháp, song lại bị
quân Kháng Chiến kiểm duyệt vì một lý do nào đó.
Tại một vùng cách chợ Cao Lãnh không mấy xa, có mả của ông Nguyễn Sinh Sắc là thân phụ
của ông Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc tức Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, nằm giữa một khu vườn trái cây sầm uất trong vùng đất thấp thường bị ngập vào mùa
nước nổi.
Ngôi mộ lúc ấy vừa mới được xây lại đơn giản nhỏ gọn bằng xi măng. Hình như cơ quan hay
người xây ngần ngừ không biết hành động của họ sẽ nhận sự phê phán thuận hay bất lợi. Ngôi
mộ gần như bị cố tình bỏ quên. Lần nào tôi đến để chụp lại vì hình lần trước chưa được hài
lòng, đều ngạc nhiên để ý không thấy bộ đội hay cán bộ nào lai vãng kính viếng.
Cuối năm 2003, tôi trở về Việt Nam, có đến Cao Lãnh tìm thăm lại ngôi mộ nầy thì thấy đã
trở thành một lăng tẩm đồ sộ có viện bảo tàng, có nhà sàng và ao cá Bác Hồ giống y kiểu mẩu
ở ngoài Bắc, có công viên rộng lớn, tại vùng ngoại ô của Cao Lãnh nay đã là một thành phố khá
nguy nga tân tiến đáng mang danh là Thành Phố Cha mà Ủy Ban địa phương đã đề nghị. Thành
Phố Con là thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Tháp được tính đổi tên thành Thành Phố Nguyễn Sinh
Sắc (Thành Phố Cha) là điều tôi nghe dân địa phương bàn tán.
Trong đám khách đến thăm bộ đội, tôi nhận dạng nhiều bộ mặt quen thuộc ở thành, như các
ký giả, và nhiều công tư chức. Có người tránh né, hay tỏ ra rất ngỡ ngàng khi chạm mặt với tôi
tại đó, tôi không hiểu vì lý do gì. Có lẽ một số người có mặc cảm cho rằng tới vùng Việt Minh
như vậy là đi lậu, bây giờ gọi là trở cờ.
Tình cảnh nầy không khác Việt kiều hiện nay về thăm quê hương, đụng đầu nhau lung tung,
lúng túng nêu ra lý do nầy, nguyên do nọ phải về nước.
Dầu sao, điều tôi ước mơ là giang sơn có được lại quãng thời gian Cao Lãnh như thế đó, là
người Việt Nam bất cứ từ chiến tuyến nào cũng là đồng bào. Đừng thù nghịch hại nhau nữa.
Tôn trọng chính kiến của nhau. Cần tranh luận, có thể khuyến dụ chớ không nặng lời với nhau.
Và quan trọng hơn hết, cả hai phía giữ đúng tinh thần dân chủ.
Lần nào đi vào khu Việt Minh tập trung cũng thoải mái như đi chợ. Không phe nào ngăn cản
hay làm khó dễ những chuyến xe đò nườm nượp từ Saigon di đi về về Cao Lãnh hằng ngày.
Khách đi thăm mang quà cáp, đồ đạc, tiền của đến tiếp tế người thân trong bộ đội, không khác
làn sóng Việt kiều hiện nay về thăm quê hương. Có khác là báo chí lúc ấy không hề lên tiếng
khen mà cũng không chê.
Không ngạc nhiên về sự vắng mặt của kẻ phá hoại phá rối, và vắng cả tiếng hằn hộc chửi
bới. Tuy về mặt quân sự hầu như đã giải quyết dứt điểm, song còn chờ giải pháp ôn hòa bầu
cử quyết định thể chế hợp lòng dân. Nếu người cùng một nước đều nhận chịu qui tắc dân chủ,
thiểu số phục tùng đa số, lá phiếu thể hiện lòng dân chấp nhận thể chế cho một quãng lịch sử,
thì sẽ không phải đổ máu đồng bào, nát tan quê hương. Nhứt là không phải cảnh cõng rắn cắn
gà nhà đưa đến lệ thuộc ngoại bang nữa.
Tôi nghe nói anh Tám tôi làm chánh trị viên tiểu đoàn. Trước ngày tiễn anh xuống chiếc tàu
há mồm của Mỹ để tập kết ra Bắc, tôi có hỏi anh có chắc đúng hai năm nữa sẽ có tổng tuyển
cử như Hiệp Định Genève qui định hay không. Tôi nói là tôi đoán Miền Nam biết trước mắt là
sẽ thua nên sẽ không chấp nhận cuộc tuyển cử. Anh tôi trả lời theo chỉ thị học được của lớp chỉ
đạo:
– Có tổng tuyển cử đúng hẹn hay không tùy ở chính người dân.
CHƯƠNG 50
Nhắc tới người anh cán bộ Việt Minh nầy, tôi nhớ anh tôi có kể cho nghe chút đỉnh chuyện
ngoài Bắc. Bộ đội tập kết Miền Nam của anh được đưa ra trú đóng miệt Thanh Hóa. Công tác
được giao phó trong thời gian không có chiến tranh là đi yểm trợ những vụ tố khổ trong các
làng mạc. Nhóm đồng bào người Nam nầy cùng với dân chúng địa phương bao vây pháp trường
xử địa chủ. Có bộ đội tăng cường, người dân mạnh dạn đứng ra tố cáo mọi hành động mà họ
cho là tội ác để xử tử chủ cũ của họ.
Nhiều tội đáng giết thật như hãm hiếp vợ con tá điền, sát hại tôi tớ, cưỡng đoạt tài sản.
Nhưng cũng có nhiều vụ lên án nghe lạ, như có nông dân khai chủ mình quá ác ôn độc hại là
mời họ ăn chuối hay trái cây khác trước khi đãi họ ăn cơm, có ác ý cho họ no bụng không còn
ăn được bao nhiêu cơm gà cá gỏi của chủ sẽ dọn ra đãi sau đó.
Tôi cũng là một địa chủ ở trong Nam, sau ngày 30 tháng Tư, chờ đợi bị tố khổ. Số nữ công
nhân làm trong đất và trong ngân hàng tôi đông tới ba bốn chục người. Không có cô nào bà
nào hạch tội lem nhem gì của tôi. Trái lại, một bà lão quá thất tuần tôi nuôi nấng cất nhà cho ở
trong đất với ông chồng đau ốm và cô con gái què chân, lên xã tố tôi ác đức như đã không đi
đưa đám tang chồng bà.
Trước đó, ông lão nầy ỉa mửa tùm lum, cứt đái dính đầy mình mẩy, tôi bồng bỏ lên xe hơi tôi
chở đi nhà thương. Chính bà nầy tên là bà Mười khoe khoang với hàng xóm là tôi có nợ gì với
ổng mới chịu khổ sở dơ dáy như vậy.
Ông chủ trại hòm tên Bảy Búa nghe bà tố, tức quá, lên tiếng làm chứng vợ tôi đã đi mua
hòm tặng chồng bà. Bữa an táng tôi có hứa đi dự song đã vắng mặt vì một cuộc họp ngân hàng
quan trọng. Lúc đó tôi đang giữ chức giám đốc ngân hàng Nông Thôn Lái Thiêu.
Nếu người dân vùng tôi ai cũng đều có tâm địa đầy ganh tỵ và sâu độc như ở ngoài chỗ anh
tôi chứng kiến thì chắc tôi đã không thoát khỏi nạn tố khổ, và cảnh đẫm máu cũng tái diễn khắp
Miền Nam.
Tôi còn nhớ rõ ngay sau ngày đoàn tụ được với người anh tập kết, anh có tâm sự với tôi, vẻ
mặt âu lo gần như sợ hãi:
– Em bỏ nghề báo và rời sở Mỹ kịp thời, song còn đất đai của cải nhiều quá, ngán lắm.
Tôi cho mình còn may mắn sống sót dưới vì sao tốt vì tuy tài sản có bị tiêu tan hết song khỏi
mất mạng là được rồi. Tôi là người dân đứng bên phía bại trận, chớ không phải được giải phóng,
nên có thể bị tàn đời nếu lịch sử tái diễn như thời Trịnh – Nguyễn phân tranh hay Tây Sơn –
Chúa Nguyễn giành ngôi đế vương.
Kể như tôi được tha mạng, thôi thì cam đành chịu chung số phận của mấy mươi triệu đồng
bào, khi đã nhứt quyết không rời bỏ quê hương.
Vào đầu tháng Tư 1975, lúc đi dự cuộc họp các giám đốc ngân hàng tại trụ sở Ngân Hàng
Phát Triển Nông Nghiệp, tôi có ghé thăm chi nhánh văn phòng DAO của Hoa Kỳ đặt ngay tại
một tầng lầu phía dưới, để thăm một cô bạn gái tên Nga làm việc trong đó. Tôi được cho biết
tình hình nghiêm trọng và Mỹ sẽ nhận rước tôi và gia đình vì tôi là một cựu nhân viên. Tôi chỉ
cần điền nạp giấy tờ.
Chiều về báo tin cho gia đình chuyện chuẩn bị đi, tôi bị vợ gạt ngang:
– Nước nhà mình ở, bày đặt đi đâu nữa.
Tôi bỗng nhớ tới cơ ngơi sự nghiệp mình đang bề bề. Nhà thuốc Tây, ngân hàng, trại gà, trại
heo, đồn điền. Cả chục mẫu mía gần đốn được. Giàn máy cày và máy trồng đậu phộng tối tân
đặt mua sắp về tới. Tánh ham mê làm ăn che bít mất đầu óc nhận định thời cuộc, ép tôi nghe
lời vợ, bỏ qua chuyện xuất ngoại cũng là thứ quá quen thuộc đối với tôi. Vợ mình còn không
thích đi thì mình còn ham nỗi gì.
Vài tuần sau đó, do chánh phủ Miền Nam sụp đổ, tôi sống dưới chế độ mới với thật nhiều
bâng khuâng. Không chấp nhận cũng không được, đành phó thác tương lai trong tay chủ mới
với lòng tự nhủ ai sao mình vậy và hy vọng chắc không bị đối xử đến đỗi nào.
Những ngày đầu thấy có triển vọng khả quan. Tôi vẫn tiếp tục giữ chức giám đốc ngân hàng.
Lối bình đẳng đầu tiên thấy được là lương tháng Giám Đốc của tôi sụt xuống còn 10,000 đồng,
đồng đều y như tất cả nhơn viên bề dưới. Nghiệp vụ thu hẹp vỏn vẹn vào việc lo thâu hồi nợ
nần. Công tác nầy không khó khăn.
Thân chủ của ngân hàng tôi răn rắc tuân theo các lịnh ban hành, duy có gặp rắc rối khi đòi
nợ những người có vay tiền ngân hàng mà đồng thời họ cũng đang có gởi tiền tiết kiệm. Họ yêu
cầu rất hợp lý là được rút bớt ra trả từ trương mục tiết kiệm của họ. Nhưng Huyện Ủy bắt tôi
trả lời là hiện Nhà Nước chỉ có lịnh thu chớ chưa có lịnh trả.
Nông dân không hề được rút ra một đồng tiết kiệm trong khi dân ở thành phố Saigon được
lãnh lại phần nào tiền họ ký thác, tuy phải làm đơn xin với lý do khẩn thiết như quan hôn tang
tế. Thảo nào anh tôi là cán bộ theo đoàn tiếp thu Miền Nam sau ngày 30 tháng Tư 1975, đã
dặn dò gia đình tôi liền là phải với bất cứ giá nào cố bám sống ở thành phố. Anh tôi giải thích
Nhà Nước chỉ đủ sức đánh bóng đời sống dân thành thị coi cho được trước mặt thế giới chớ
chưa đủ khả năng săn sóc hết vùng quê bao la.
Nông dân nuôi dưỡng Cách Mạng, cam khổ kháng chiến triền miên, còn sống sót được đến
ngày Giải Phóng lại phải tiếp tục hy sinh chịu mọi khó khăn thiệt thòi cho dân đô thành hưởng
thụ.
Tinh thần tôi bắt đầu nao núng sau khi đi dự mấy buổi họp Nông Hội do huyện Lái Thiêu mở
tại rạp Hiệp Thành ở Chợ Búng, nghe Huyện Ủy là anh Ba Nầy và anh Ba Thấy to tiếng tuyên
bố với dân chúng là chỉ trong vòng hai năm nữa, mỗi một nông dân sẽ làm chủ được một chiếc
xe hơi đi chơi kèm thêm một chiếc xe cam-nhông để chuyên chở nông sản của mình. Lúc đó tôi
được cử làm Trưởng Ban Nông Hội Xã và đang còn làm chủ vài mẫu khoai đậu với mấy mẫu
mía gốc ở Thuận Giao, quá lắm trong vài mùa nữa mía cũng già cỗi tàn lụi. Tôi sẵn sàng vô Hợp
Tác Xã, cùng làm chủ tập thể với mấy chục công nhân cũ của mình, hòng thoát nạn đấu tố.
Nếu một mình tôi có làm chủ vườn đất thêm năm, mười năm nữa, chưa chắc sắm nổi một
chiếc xe hơi. Nay Nông Hội Cách Mạng biến hóa tạo thêm mấy chục chủ nhân mới cho cùng
một số đất đai đó mà lại đẻ ra thêm được mấy chục chiếc xe cam-nhông là thế nào cho được.
Biết vậy, nhưng khi một xã viên ngồi cạnh tôi đòi lên tiếng hỏi giải thích dùm chuyện khó tin
như thế thì tôi thấm nhuần Đảng dạy cùng một sách cho tất cả cán bộ họ lập lại như con két,
từ đại biểu trên Trung Ương trở xuống. Tôi chỉ hỏi lại anh ta có biết Cộng Sản nghĩa là “của
chung” không? Vậy thì nếu trong tổ không có, trong ấp không có, trong xã cũng không có nữa
thì ít ra trong huyện ta cũng có vài chiếc xe hơi. Mấy chiếc đó là của anh mà cũng là của tôi,
của mỗi xã viên chúng ta. Cộng Sản mà. Như vậy có phải mỗi chúng ta cũng đều làm chủ mấy
chiếc xe đó không? Câu nói không sai và chân lý: “ Trong vòng hai năm nữa, mỗi nông dân sẽ
làm chủ hai chiếc xe hơi.”
Khi lòng tin đã bị lung lay và chán nản tới mức tột cùng, những ngày làm rẫy cuối cùng của
tôi ở quê hương thật ra còn thoải mái nhờ áp dụng phương pháp bất cần hay có ra sao cũng
chẳng sao nữa.
Sau khi huyện Lái Thiêu bắt tôi bàn giao chức vụ giám đốc ngân hàng, bị trục xuất khỏi nhà
thuốc Tây Lê Hồng và giao cửa hàng lại cho Nhà Nước, và bắt vợ con tá túc trong chuồng gà
của người em, tôi co rút về sống trong rẫy mía Thuận Giao, không ngờ được vui hưởng những
ngày sung sướng giản dị.
Một hôm có bò ai thả ăn cỏ trong đám mía, tôi chun vô bắt gặp một đứa con gái tuổi con tôi,
đi chăn. Tôi không rầy la, trái lại còn hỏi có muốn ăn mía không, tôi bẻ cho. Hình ảnh Ngọc Anh
bỗng xuất hiện theo cái mái tóc xõa dài phủ kín hết lưng đứa con gái ấy, làm tôi có cảm tình
ngay phút đầu và thân quen như đã biết nhau từ lâu lắm rồi.
Kế ngày nầy qua ngày nọ cùng nhau chuyện vãn rất tự nhiên, không thấy chán, quên hẳn
cuộc đổi đời xuống cấp. Êm đẹp như một cuộc tình, hoàn toàn trong trắng. Hình như đây là một
lối giải khuây Trời Phật ban cho tôi khỏi khủng hoảng tinh thần trong những ngày tháng đen tối
trong đời của tôi.
Có hai bài thơ tôi làm ra sau khi tha hương ở xứ người được chín mười năm, để nhớ lại
chuyện Hồn Bướm Mơ Tiên nầy như sau:
Rẫy Mía Thuận Giao
Vừa mới quen nhau đã ngỡ ngàng
Tôi có vợ, nàng có ý-trung-nhân
Tôi năm mươi tuổi, nàng đôi chín
Khoảng cách tôi nàng quá thênh thang.
Bởi chẳng hề phân tích loại tình
Sau khoảng thời gian giữ lặng thinh
Những khi trao đổi niềm tâm sự
“Nói trỏng” thành ngôn ngữ của mình.
Thỏ thẻ giọng oanh thật êm đềm
Rót lời ngọt dịu suốt ngày đêm
Chẳng hề nghe gọi anh hay chú
Cũng chẳng hề xưng cháu hoặc em.
Khi hỏi kỹ nàng ý nói ai
Nếu tôi, thì nàng khẽ xoa tay
Chỉ nhẹ thẹn thùng, và ánh mắt
Long lanh nhắm thẳng thấu tim tôi.
Nếu nàng, thì bẽn lẽn nghiêng đầu
Chớp lia chớp lịa mắt bồ câu
Nhoẻn miệng cười tình nhưng chẳng nói
Song tôi đã hiểu rõ nông sâu.
Không hề động chạm đến thân ngà
Cũng chẳng như bướm vờn nhụy hoa
Có gì như thể là cao thượng
Ở cả hai người bộc phát ra.
Không dám yêu, không nghĩ được yêu
Gặp gỡ hầu như mỗi sớm chiều
Chẳng dám gọi nàng bằng chi cả
Làm dấu mà ra ý nghĩa nhiều.
Tâm sự cùng nàng chuyện vợ tôi,
Dửng dưng nàng kể đến cuộc đời
Của nàng với của chồng sắp cưới
Nói nhờ kinh nghiệm cho lứa đôi.
Nàng thích hay nghe chuyện vợ chồng
Bảo chồng sắp cưới rất rành thông
Nàng cần biết để “trên cơ ảnh”
Táo bạo như nàng, ngây thơ không ?
Tôi cố giải tình yêu lạ thường
Xin hôn, nàng hí hởn dễ thương
Nửa như chấp nhận trong lời đáp:
“Trước kia thì được, hiện giờ không.”
Rồi đến ngày nàng lên xe hoa
Mắt già sao cũng vẫn lệ nhòa
Cuộc tình trỗi dậy theo hôn lễ
Mới biết mình yêu đã đậm đà.
Gia đình, tuổi tác đã chia ngăn
Sao như chưa đủ chặn đôi đàng
Cho ân tình dứt đời ngang trái
Lại biệt lập bằng cả không gian.
Trước ngày tôi cất bước vượt biên
Gặp lại người con gái dịu hiền
Tha thiết nhẹ nhàng nàng khuyên nhủ:
“Không thể xa nhà có xứ tiên.”
Tha hương thắm thoát ngót mười năm
Một trăm hai chục cái trăng rằm
Hồi tưởng trăng rằm trong ruộng mía
Vẹt lá nhìn trăng trong lặng câm.
Nhớ mình trong rẫy mía Thuận-Giao
Bao ngày mê quấn quýt bên nhau
Xướt mía bã nhai dồn thành đống
Giữa trời dự yến chốn cao lâu.
Xứ người trăng lạnh quá, nàng ơi !
Trăng quê hương lại quá xa vời
Nhắc nhở mọi điều tôi nuối tiếc
Tôi về, tôi về, phải về thôi.
Sao quên được những trận mưa rào
Giúp mình có dịp áp gần nhau
Chòi gần mình tránh không chui núp
Chịu ướt dưới vòm lá mía giao.
Nón lá chen chung hai mái đầu
Tóc xanh, tóc bạc quyện vào nhau
Như lần đi viếng thăm Đà-Lạt
Suốt dọc lộ trình thơ mộng sao !
Uớc muốn đường đi mãi thêm dài
Cho đầu người đẹp ngả vào vai
Đầu tôi nghiêng xuống vùi trong tóc
Tôi “xỉn” lúc nàng vẫn ngủ say.
Bên thác nước Prenn dưới cuối đèo
Rộn rã lòng, theo tiếng suối reo,
Bài thơ đáp Nụ cười, giọng nói tuôn không ngớt
Tuổi tác đôi mình chạy kịp theo.
Những ngày thơ mộng ấy qua rồi
Cố đem nhốt lại vào thơ thôi.
Hai người, hai tuổi, phương trời cách
Rẫy mía Thuận Giao có đổi dời ?
Boston 1989
Mối Tình Đám Mía Thuận Giao
Những ngày thơ mộng hãy còn đây
Trong tâm, trong trí vẫn tràn đầy
Cần chi đem nhốt vào thơ nhỉ ?
Đám mía ngày xưa chẳng đổi thay.
Mỗi ngày qua đám mía Thuận-Giao
Là như tôi gặp mất mát nào
Bây giờ mới biết là người đó
Và biết không gì ngăn cách nhau.
Mía đốn đi rồi cảnh trống không
Chẳng còn cọng lá mía lay rung
Che khuất những lần mình hò hẹn
Tránh được tò mò có kẻ trông.
Bao lần mía xanh rậm như xưa
Bao lần đổi mới bức rèm thưa
Chờ người về có cùng tôi đến
Xướt mía, ngắm trăng rầm, đụt mưa.
Trăng rầm là vệ tinh đôi mình
Thông truyền lưu luyến tận trời xanh
Hai đứa hai phương trời cách biệt
Mình cùng xao xuyến lúc trăng thanh.
Tóc đổi màu, lòng chẳng đổi thay
Tuổi thêm hơn cả chục năm nay
Cứ mỗi độ trăng tròn xuất hiện
Mối tình đám mía trên đám mây.
Trăng nhà mát đẹp lắm người ơi !
Gối chiếc, dặm trường chẳng thấy soi
Để chiếu sáng ngời vào đám mía
Để tình xưa rạo rực không nguôi.
Trong đám con tôi hai đứa đầu
Một thằng tên Thuận đứa tên Giao
Mối tình đám mía ngây thơ quá
Đến nỗi chồng tôi biết chẳng sao.
Ngoài tình chồng vợ ắt nên trừ
Còn tình cha, anh, bạn tâm thư,
Tình trao tất cả cho người hết
Nên không xác định được ngôn từ.
Người nên được tôi gọi là cha
Cũng vừa là chú, cũng vừa là
Người anh yêu dấu muôn vàn nữa
Nên có từ nào chung cả ba ?
Giờ đây dùng tiếng trỏng không đành
Cho người mình cảm nhớ thâu canh
Người như chẳng thể quên mình nữa
Thôi, chịu gọi người với tiếng ” N “.
(Để ” N ” tự đọc lên, chứ ” M ”
Viết ra cảm động chữ sẽ lem.)
CHƯƠNG 51
Quân đội Pháp nghiêm giữ lịnh cấm quân, để tránh rắc rối khiêu khích xung đột, không một
bóng dáng lính Tây nào ở ngoài dường phố Saigon. Có những bàn tay khích động tung tin động
trời, vừa chạy hớt hải dọc con dường trước thành lính ở Ngã Bảy vừa la hét ” Lính săn
đá (soldat = lính = lính Tây) hãm hiếp con gái nhỏ, xé xác con nít quăng ngoài dường… ” , cố
ý thu hút mớ dân tò mò, lôi cuốn đi biểu tình đả đảo Pháp.
Toàn những tin nghe vô cùng giựt gân, song báo chí chúng tôi không tiếp tay với những thủ
đoạn chánh trị rẻ tiền ấy. Dư luận dân chúng còn bình tĩnh hơn báo chí. Hình như ai cũng cùng
một ý nghĩ việc gì đến sẽ đến, tuy ai cũng ít nhiều lo lắng cho tương lai. Hòa bình tới nơi rồi!
Nhiều màn trò chánh trị khác diễn ra lúc tranh tối tranh sáng nầy. Ngày nầy qua ngày nọ, có
một nhóm thưa thớt người tụ tập phía trước dinh Gia Long, nơi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ở.
Họ nhẫn nại đứng ngồi yên lặng, không thấy phản đối hay đòi hỏi điều gì.
Tôi hòa vào đám, tìm hiểu lý do. Một đại diện nhóm, với giọng người Nam, tôi nhớ man mán
là một thợ may gốc Hòa Hảo tôi có quen, cho biết họ đến để hoan nghinh Thủ Tướng Diệm.
Tôi vô dinh, báo cho ông Đổng Lý Văn Phòng (tôi rất quen, còn nhớ rõ mồn một gương mặt,
mắt hơi lộ, miệng hơi hô, mà tôi quên lửng tên, dĩ nhiên là người Huế) biết ở ngoài có nhóm
người nói họ đến để tỏ lòng ủng hộ ông cụ, sao không có ai tiếp xúc với họ hết vậy. Ý tôi trách
sao mình thờ ơ và không bình dân với nhân dân vậy mà. Ông Ngô Đình Nhu đang có mặt ở đó,
dạy tôi tại chỗ một bài học làm chánh trị, trong khi hồi nào tới giờ tôi chỉ biết làm báo. Ông Nhu
nói:
— Mình tiếp tay với ”meneur” (người chủ mưu dẫn đạo) đó để hắn lấy tiếng với nhóm của
hắn à.
Khó thể phân tích dễ dàng được những thủ đoạn quấy rối đang diễn ra lung tung kia là do
phe phái chánh trị nào. Pháp giữ thái độ im lặng khó hiểu, co rút vào thế thủ, có cố tránh né
mang tiếng liên can vào bất cứ thế lực nào, cũng vẫn bị nghi là họ đứng sau lưng hỗ trợ cho
nhóm nầy phe kia chống đối chánh quyền mới, hầu làm áp lực nầy nọ.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh được quân đội và giới công chức người Nam trong các cơ sở
hành chánh hậu thuẫn, ra mặt coi thường chánh phủ Ngô Đình Diệm. Người dân hoang mang
chưa rõ chánh quyền thật sự đang do ai nắm giữ. Mở đài phát thanh Saigon ra theo dõi tin tức,
họ nghe ra rả tối ngày những lời chê bai tố cáo ông Ngô Đình Diệm bậy như thế nầy, xấu như
thế kia, lăng loàn như thế đó, tôi đã có nói qua.
Một hôm, giữa lúc đang còn lộn xộn, anh chị tôi hết hồn nghe đài phát thanh nhắc đến tên
ký giả Văn Bia (là đích danh tôi) vừa viết bài tố cáo một tội ác tàn bạo mà đài radiô bảo là do
chế độ Ngô Đình Diệm, có đăng trên báo Tiếng Chuông.
Đài đọc lại từng chữ bài tôi tường thuật một vụ ám sát tập thể kinh hoàng. Vài chục thây
thanh niên trần trụi nằm chất đống tại Cầu Voi gần Tân An, trên dường Saigon Mỹ Tho. Tôi rụng
rời trước cảnh chết chóc tại sao lại có thể xảy ra được sau ngày đình chiến.
Không còn chút can đảm nào sót lại trong tim cho phóng viên tham tin, tham tìm sự thật như
tôi, tiếp tục điều tra ra thủ phạm cuộc thảm sát. Tuy nhiên, ai cũng biết không phải Pháp và
chắc chắn cũng không phải là Việt Minh. Cuộc thanh toán tương tàn từ phía nào cũng chỉ là máu
Việt Nam đổ ra.
Tướng Hinh nguyên là Trung Tá Không Quân trong quân đội Pháp được Quốc Trưởng Bảo
Đại phong chức Thiếu Tướng. Ông biết Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không thể nào thu dụng ông,
đồng thời tướng Hinh không muốn bị mất mặt trước đàn em, nên có thái độ ngang ngạnh không
biết ngán ông Diệm là người chỉ được có cái chức Thủ Tướng chớ quyền thế và ảnh hưởng thấy
thua ông đang còn nắm chức Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội. Ngoài ra, Thiếu Tướng Hinh
còn có người cha là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm dựa vào uy lực của Pháp.
Ông Hinh nhởn nhơ quanh Saigon với binh hùng hộ tống, vừa khiêu khích trêu tức tân chánh
phủ, vừa để cho dân chúng thấy oai quyền của tướng Hinh không biết ngán sợ ai.
Hoa Kỳ khôn con đâu dám ra tay chường mặt ủng hộ một tân chánh phủ yếu ớt èo uột như
chánh phủ Ngô Đình Diệm lúc ấy. Kẻ thủ đoạn đứng ngoài coi giò coi cẳng trước, thấy chắc ăn
mới cáp độ. Thí tỉ ông Diệm có dùng được Mỹ cang cường, dựa hơi vào để thắng các phe phái
chống đối trong lúc nầy, chưa chắc thành công bền vững.
Quân sự không có, vì còn trong tay tướng Hinh, mà cũng không nắm dược ngành Cảnh Sát
Công An lợi hại đang do Bảy Viễn (Bình Xuyên) bám giữ. Ông Diệm gần như tay không. Tuy
nhiên, tiềm lực ông dư có, ông từ từ phát huy. Đức tánh của ông Ngô Đình Diệm phối hợp với
mưu lược của ông Ngô Đình Nhu, phải đủ cả hai, mới lần hồi tạo dựng được một chánh phủ
Ngô Đình Diệm vững mạnh tiến tới lật đổ Bảo Đại, thành lập Đệ Nhứt Cộng Hòa.
Đầu tiên, chánh phủ Ngô Đình Diệm lấy được cảm tình của hai tôn giáo võ trang Cao Đài và
Hòa Hảo là hai thực lực, bằng cách chia chức vụ bộ trưởng. Ông Huỳnh Văn Nhiệm của Hòa
Hảo nhận ghế Bộ trưởng Nội Vụ. Bộ Trưởng Thông Tin về tay ông Phạm Xuân Thái của Cao Đài.
Lực lượng Cao Đài được gia nhập vào quân đội Việt Nam, các sĩ quan được thăng cấp chánh
thức, đứng đầu là hai vị tướng Nguyễn Thành Phương và Trình Minh Thế. Giới trí thức, nhóm
Tinh Thần được ghế Bộ Trưởng Y Tế do bác sĩ Huỳnh Kim Hữu lãnh, v.v..
Sau khi mưu lược gia Ngô Đình Nhu dùng đủ các chiêu mua chuộc, thương lượng và áp lực,
bứng được tướng Hinh vào tháng 8 năm 1954, chánh phủ Diệm sử dụng quân đội vừa nắm
được vào việc loại trừ Bình Xuyên, thu hồi quyền Công An Cảnh Sát dễ dàng, tuy đổ máu.
Đảng Bình Xuyên gốc gác là nhóm ngoài vòng pháp luật được mang chút màu sắc cứu nước
trong thời gian gia nhập Việt Minh kháng Pháp. Anh hùng Bình Xuyên được ca ngợi trong giai
đoạn đầu cuộc Kháng Chiến nầy. Từ khi đa số trở về thành đầu Pháp và tuy kết nạp được một
mớ chánh trị gia hám danh, Bình Xuyên càng ngày càng mất cảm tình của dân chúng bởi những
hành động hống hách.
Tướng Hinh bị trục xuất qua Pháp rồi, tướng tá trong quân đội sốt sắng hăng hái lập công
theo lịnh chánh phủ.
T
hẻ báo chí thời tôi làm báo được cấp bằng tiếng Pháp. Cũng như gìn giữ chức vị ký giả, tôi
mang giữ thẻ báo chí trân trọng như chứng chỉ cấp bằng
CHƯƠNG 52
Sau ngày ký kết Hiệp Định Genève, cuộc nội chiến ở Miền Nam khởi sự do phe nhóm quốc
gia thanh toán nhau. Luôn luôn là giữa chính quyền với kẻ phản loạn, được gọi là cách mạng
lúc đang còn tranh đấu và khi thắng trận. Được làm vua thua làm giặc mà. Khi chánh phủ cách
mạng bị phe phản loạn lật đổ thì danh hiệu cách mạng lại trao trả cho đối phương. Danh hiệu
phản loạn lại đổi thành cách mạng.
Lúc ông Ngô Đình Nhu nhờ tôi lập một tờ báo làm cơ quan bán chánh thức cho chánh phủ,
ông không đưa ra tên tờ báo. Chính tôi đề nghị chọn chữ ” Cách Mạng ” làm tên tờ báo của
chánh phủ Ngô Đình Diệm để công nhiên nhìn nhận Ngô chí sĩ là nhà cách mạng vừa lật đổ
chánh quyền thối nát và tôi tớ của đế quốc Pháp..
Chính tôi đi mướn khắc manchette theo kiểu chữ tên báo The New York Times tôi thích, cùng
một loại kiểu chữ Gothic như tựa “Dời Một Phóng Viên” của Hồi Ký nầy tôi cố ý dùng để kỷ
niệm. Chừng báo ra được vài số, anh em cho rằng tên Cách Mạng nghe bạo quá, đề nghị thêm
chữ “Quốc Gia” cho hợp với lý tưởng tranh đấu đang còn tiếp diễn. Do đó mà có tên tờ báo ”Cách
Mạng Quốc Gia” tồn tại mãi đến ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.
Tôi không nhận đồng lương nào, kể như mình giúp nhóm anh em không chuyên nghề, ra cho
được tờ báo mà thôi. Vả lại, tôi đang còn làm báo Tiếng Chuông và theo điều kiện của ông chủ
báo Đinh Văn Khai, ký giả trong bộ biên tập không làm cho báo nào khác. Tôi cũng chưa hề làm
hai tờ báo (ăn lương) một lượt. Nếu có bắt tôi phải chọn một thì dứt khoát không phải là tờ báo
chánh phủ.
Anh em trong tờ Cách Mạng chưa có ai chuyên về báo chí, làm như sợ tôi tranh giành ảnh
hưởng hay nghề nghiệp trong đó. Tôi không hề muốn để anh em miền Trung vây quanh ông
Diệm hiểu lầm tôi cũng ham thèm làm chuyện ruồi bu như họ. Tôi đang có nghề nghiệp cao quý
và vững chắc mà.
Để không che giấu một tiểu tiết nào, tôi nhìn nhận có được chút đỉnh tiền từ tờ báo Cách
Mạng Quốc Gia mà chắc chính ông chủ nhiệm Đỗ La Lam không hề hay biết. Đó chỉ là những
số tiền rất nhỏ mọn hằng ngày anh Hai Dầu (Cliché) đưa, gọi là tiền hoa hồng phần trăm tiền
làm bản kẽm.
Anh Dầu tự động tính, hễ báo Cách Mạng mướn Cliché Dầu làm bao nhiêu bản kẽm thì anh
tặng cho tôi một số huê hồng tương ứng. Tự anh đề nghị, tôi không hề biết để đòi hỏi, không
hiểu tại sao lại có chuyện hưởng huê hồng huê hiết đó. Hồi làm tờ báo Hoa Lư cho ông Diệm,
tôi đâu có biết loại tiền nầy. Vả lại Hoa Lư hai trang nghèo nàn lúc đó cũng đâu có làm bản kẽm.
Mà cho dầu có, tôi cũng không nhận. Bây giờ khác. Tờ Cách Mạng là của chánh phủ có ngân
quỹ rõ ràng.
CHƯƠNG 53
Nhân Hiệp Định Genève cho phép người dân tự do lựa chọn nơi cư trú, non triệu người Việt
Nam ngoài Bắc, đa số là Công Giáo, bỏ nơi chôn nhau cắt rún, hối hả di cư vào Nam.
Trong các họ đạo, linh mục được uy tín tuyệt đối đối với tín hữu. Các vị ấy đã dạy Cộng Sản
là quỷ dữ địa ngục thì tín đồ, bất luận ở vùng Việt Minh đã chiếm hay chưa, rần rần cuốn gói vô
Nam. Còn thêm động lực chính đối với đa số di dân là đi tìm đời sống mới, hy vọng khả quan
hơn hiện trạng nghèo cực trên mảnh đất Bắc ngày càng thấy teo hẹp vì đông chật người.
Đồng bào Công Giáo còn được hứa hẹn một đời sống sung túc tại Miền Nam, như Đất Hứa
trong Kinh Thánh. Cũng không phải mạo hiểm gì khi di cư. Được đón chở bằng máy bay hay
tàu thủy. Bước chân xuống tàu Mỹ là bắt đầu được cho ăn uống no nê phủ phê.
Đặt chân tới miền đất hứa, sau khi bị khó chịu chút đỉnh vì chất bột sát trùng DDT xịt vào
mình mẩy, dân di cư được đưa về các trại tạm cư có những lều trại dựng sẵn tại Vũng Tàu, Phú
Văn, Hố Nai, v.v… Một Bộ đặc biệt là Phủ Tổng Ủy Di Cư được lập ra tiếp đón và săn sóc giúp
đỡ đồng bào di cư. Tiền trợ cấp được phát đều đặn theo từng đầu người.
Đoàn di cư như là những đạo quân mà tướng lãnh chỉ huy đầy uy quyền là các ông cha ông
cố. Chánh phủ Ngô Đình Diệm muốn di dân tản mạc rải rác khắp miền Nam đất rộng minh mông
còn bỏ trống, mặc tình khai mở, sinh sống dễ dàng trong tương lai. Song các vị lãnh đạo tinh
thần lại muốn khác. Họ cần con chiên quy tụ chung quanh họ. Họ nói để họ che chở binh vực
quyền lợi, mà thật sự đó lại là lực lượng vừa bảo vệ họ vừa giúp họ tăng uy tín quyền uy, chánh
quyền cũng nể nang.
Vì thế, khu rừng Hố Nai ngay phía Bắc Biên Hòa kéo dài lên đụng tới các sở cao su Gia Kiệm,
là vùng lý tưởng để dựng lên thành phố di cư gồm có trên chục họ đạo, tất cả đều lấy lại những
tên giáo xứ ở ngoài Bắc: Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ Sặt, v.v…
Đầu tiên nổi lên thành phố nhà lá là lúc tôi đến viếng chung với đoàn ký giả báo Xây Dựng
của linh mục Nguyễn Quang Lãm, mời tôi theo giúp chụp hình. Một trận hỏa hoạn thiêu rụi cả
một vùng. Một thành phố bằng tôn nổi lên, không lâu sau được thay thế lần hồi bằng những
ngôi nhà gạch ngói. Hiện nay còn hiện diện nhiều cao ốc và cơ xưởng biến Hố Nai thành một
thành phố lớn.
Những di dân có vốn và đầu óc mở mang, bung ra về các nơi trù phú hay địa thế mà còn đất
trống ngay tại Saigon và phụ cận như miệt Phú Nhuận, Gò Vấp, lập các họ đạo như Phát Diệm.
Xa hơn, trên quốc lộ 20 là Bảo Lộc, dựng làng Tân Phong, Tân Phát. Ngay tại Đà Lạt cũng có
những xóm di cư. Đà Nẵng có di dân nghề chài lưới lập các làng đánh cá Thanh Bồ, Thanh Hải.
Người Bắc lan tràn khắp miền Nam. Đến năm 1975, Bắc quân tràn vào thì đâu đâu họ cũng
có gặp lại bà con ruột thịt.
Đầu hôm sớm mai, ông Ngô Đình Diệm có được lực lượng cả triệu dân di cư Bắc Việt trung
thành ủng hộ ông. Kế tiếp, ông quy phục được hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, tuy Hộ Pháp
Phạm Công Tắc của đạo Cao Đài bôn tẩu qua sống đời lưu vong ở Nam Vang, và tướng Ba Cụt
của đạo Hòa Hảo không tòng phục, đã bị chánh phủ Ngô Đình Diệm gạt bắt chém đầu vào đầu
năm 1956.
Như vậy, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã có đủ uy tín cho Hoa Kỳ ra mặt ủng hộ, thay thế
Pháp, để 15 năm sau rồi Mỹ cũng ê càng như Pháp. Lúc đó Chú Sam muốn rút chưn khỏi Việt
Nam, lại tìm cách giao trả nợ lại cho Pháp, hay đúng ra, nhờ Pháp tiếp cho một tay. Một vòng
lẩn quẩn Thực Dân cũ Thực Dân mới.
Hoa Kỳ nhận giúp Miền Nam thật tình, đến khi thấy không còn lợi cho họ thì rút lui cũng thật
tình và nhanh chóng.
Nước Pháp nhờ Mỹ giải phóng, còn được hưởng Chương Trình Marshall viện trợ khổng lồ,
vẫn không thân thiện được với nước ân nhân vì, không phải Pháp vô ơn, mà là khôn ngoan biết
sự thật chánh sách Mỹ bao giờ cũng theo quyền lợi của họ mà hành động, khi thấy chắc ăn mới
nhào vô. Không ân nghĩa gì thì một đàng không vong ân bội nghĩa, một đàng không thể bị mang
tiếng bỏ rơi đồng minh.
Mỹ giúp thật lẹ, thật bạo. Thành quả đưa đồng bào di cư vào Nam, hầu hết là nhờ Hoa Kỳ.
Những cuộc xô xát xảy ra do việc giành dân. Việt Minh bị quy tội ngăn cản, tự bào chữa là
họ chống lại sự cưỡng ép người dân bỏ xứ. Lúc nầy tôi có mặt vài nơi tại Bắc Việt, ở thành phố
và vùng quê. Cán bộ Việt Minh nhìn nhận họ có cố sức chận lại làn sóng di cư mà họ cho là vô
lý. Có những họ đạo gần như bỏ trống. Số ít oi dân ở lại để giữ mảnh đất ngôi nhà, nao núng
vì lời hù sẽ bị coi là Việt gian.
Theo tài liệu mật về sau đã được công bố, Hoa Kỳ đã tiếp tay Pháp phá hoại Miền Bắc ngay
từ lúc bắt đầu thi hành Hiệp Định Genève. Trước khi tổ chức và huấn luyện những toán Biệt
Kích Đặc Biệt đem thả vào hoạt động trên đất địch, tay sai CIA đã chơi trò tâm lý, tung tin Chúa
và Đức Mẹ đã bỏ đất Bắc vào Nam rồi.
Hầu hết giới công chức, thương gia và trí thức ở Bắc đã vọt vô Nam từ trước.
Tôi bay ra Hải Phòng chờ đợi ngày chứng kiến tên lính Pháp chót rời khỏi đất Bắc. Hải cảng
nầy trước kia sầm uất, nay đã vắng teo như một thành phố chết. Chiếc tàu di cư cuối cùng đã
nhổ neo rời bến với số người Việt di cư chót là các chị em thương nữ nấn ná ở lại tới giờ cuối
cùng để phục vụ vét vườn quân nhân Pháp.
Nghe nói bờ biển Đồ Sơn là vùng nghỉ mát đẹp nhứt Việt Nam, tôi men đến trước hết, thấy
quả thật đẹp hơn Vũng Tàu. Những tòa biệt thự xinh xắn nằm dọc theo bãi biển xen kẽ trong
cây cối um tùm hoa lá. Chủ nhân là những tai to mặt lớn, hết Pháp tới Việt Nam, song tất cả đã
bỏ rút lui về Saigon. Tôi nghĩ chắc chắn họ tiếc ơi là tiếc. Tính còn dư được bao nhiêu ngày, tôi
nán ở lại trong một ngôi nhà nguy nga, thích thú hưởng vớt vát thật là đã.
Trở lại Hải Phòng, phố xá nhà ở đều cửa đóng then gài. Ngoài phố còn nhan nhản những
bảng hiệu như chả bánh Quốc Hương sau nầy tôi gặp lại tại Saigon ở đại lộ Trần Hưng Đạo.
Tôi đến gõ cửa từng nhà đã chấm tọa độ, nhờ một anh lính Pháp cho biết đó là những động
tiên, lính Pháp thường lui tới kiếm em út. Họa hoằn mới có một chỗ mở cửa tiếp tôi. Tôi nói
ngay lý do dễ tin và hữu lý là đi tìm hoa, chớ thật sự là đi hành nghề phóng sự điều tra đúng
chức nghiệp. Nhà nào cũng trả lời là không còn em nào cả. Tôi hỏi:
– Thế thì cô nào lấp ló bên trong đấy?
Chỗ nào cũng đều cứ một câu đáp y hệt:
– Chị Hai đấy.
Chắc tôi là một thanh niên Miền Nam hiếm hoi có mặt lúc bấy giờ, nên vô nhà nào cũng thấy
phụ nữ tọc mạch chường mặt ra coi. Do đó, tôi may mắn chiêm ngưỡng được thật nhiều gái
Bắc Kỳ chánh hiệu tại đất Bắc chánh cống vào những ngày cuối cùng. Các cô gái trong những
động cũ nầy bỗng trở thành toàn những đứa tớ gái (tiếng Bắc là Chị Hai) để ngày mai bắt đầu
sống trong chế độ mới. Tôi đối ứng không vừa, đúng điệu nhà báo:
– Nạn chủ tớ nặng tội gấp mấy hơn nạn em út đó. Hãy tiếp tục nhận làm em út với anh Nam
Kỳ nầy đi, nhẹ tội hơn nhiều. Ít nhứt cũng ”một đêm cuối cùng rồi thôi” mà.
Dầu sao tôi cũng thâu thập được tài liệu cho bài phóng sự là thành phố chỉ chết ngoài mặt
để sẽ bựt sống dậy ngày mai trong chế độ mới, trong bầu không khí độc lập thoát nền cai trị
của Thực Dân Pháp. Tôi sẽ tường thuật tiếp, sau khi thả lên thủ đô ngàn năm văn vật cho biết
chơi, coi khác hồi chế độ trước chỗ nào.
Rủ ký giả Francois Sully cùng lên Hà Nội cho vững tâm, anh ta kịch liệt cản ngăn tôi, cho là
chuyện mạo hiểm, chánh phủ Pháp không thể nào can thiệp nếu mình bị bắt giữ.
Gan lì là bản tánh trong máu phóng viên. Tôi nghĩ nếu có bị trục trặc, đó là cơ may cho tôi
có thêm đề tài và tài liệu viết phóng sự hấp dẫn sôi bỏng. Trong quá khứ đã từng nhờ vậy mà
tôi được nổi tiếng.
Tôi leo lên xe lửa đi viếng Thăng Long lịch sử với máy ảnh tối tân có flash électronic của Đức
chế tạo, mới mua trên mười ngàn đồng. Tàu hỏa kéo thật nhiều va-gông (tiếng Pháp wagon =
toa xe) vẫn chật ních hành khách. Hầu hết là dân đi buôn. Người nào cũng mang bao túi cồng
kềnh xen kẽ lẫn lộn với đám thanh niên theo hôi của. Cảnh giựt đồ, móc túi liên tiếp diễn từ
đầu tới cuối xe. Một đám trẻ chen lấn áp đụng sát tôi cho một đồng lõa trổ ngón.
Tiền bạc và thẻ báo chí còn quý hơn, tôi bỏ trên túi áo sơ mi trước ngực có gài hai lớp nút
đặc biệt. Tôi đã thủ sẵn, tên ăn cướp vặt táo bạo mở lần nút ngoài chưa ra, đã bị tôi trổ tài Cao
Bồi (cowboy) Saigon, chụp bẻ tay. Thấy tình trạng bất ổn quá, tôi phải làm bạo. Trong toa đông
như nêm, tôi đứng phía ngoài đầu toa tựa vào lan can, vừa thủ thế đối phó với đám du côn,
vừa hứng gió và ngắm nhìn cảnh đồng quê liên tục trải dài trước mắt.
Đường rầy (rail) xe lửa chạy dọc theo con đường số 5 mạch máu nối liền thủ đô Hà Nội với
cảng Hải Phòng. Dấu vết chiến tranh còn rải rác ghi sờ sờ. Xác những chiếc xe nhà binh và xe
tăng nằm lật gọng hai bên lề đường.
Tàu hỏa ngừng lại nửa chừng, tại ranh giới chia đôi vùng còn lại cuối cùng trên đất Bắc là
Hải Phòng, Pháp sẽ giao nốt trong vòng còn có hơn tuần nữa là đủ 300 ngày theo qui ước. Việt
Nam (Việt Minh) đã tiếp thu Hà Nội hồi tháng 10 năm 1954.
Khi xe bắt đầu lăn bánh trở lại, trực chỉ Hà Nội, tình hình an ninh trên tàu hỏa đổi thay như
có phép lạ. Cảnh hai thế giới khác biệt quá rõ ràng. Bọn lưu manh ba-de (panier = thúng, chỉ
bọn đội thúng cho các chị bạn hàng ở chợ Đông Ba, Huế) tan biến đâu mất hết. Hành khách
chen chúc đứng ngồi vẫn chật toa xe, song toàn một nét mặt trầm ngâm như chuẩn bị vào một
nơi nghiêm chỉnh.
Tiếng xe lửa chạy rầm rầm trên cầu Paul Doumer, sau nầy đổi tên thành Long Biên, nghe
điếc tai hơn thường, báo hiệu sắp tới nơi. Tại nhà ga Hàng Cỏ, đông đảo khách vất vả chen lấn
nhau ra những cổng chật hẹp. Nhận thấy một cửa thưa thớt khách có ghi chữ “Tiếp Đón Miền
Nam”, tôi dùng ngả đó đi ra. Tôi ngỏ ý với một nhân viên, tôi cần kiếm một chỗ trọ ít ngày rồi
trở về Hải Phòng, chớ tôi không phải là đồng bào Miền Nam di cư ra Bắc mà cần nhờ vả tới Ban
Tiếp Đón Miền Nam.
Khi được biết tôi là đặc phái viên báo Tiếng Chuông ở Miền Nam, một nhân viên tiếp đãi tôi
thật lịch thiệp, đề nghị mời tôi về ở trọ trong một biệt thự riêng, an ninh bảo đảm hơn là ở
khách sạn.
Tôi được đưa đến một ngôi nhà xinh xắn gần bờ hồ Hoàn Kiếm. Hướng dẫn viên giới thiệu
nhân viên trong cơ quan phục vụ tôi, lo cho cả việc ăn uống hằng ngày miễn phí. Tôi nghĩ lại là
một nhà tù nữa đây. Chẳng sao. Cũng là dịp để biết coi mình bị mất tự do đến mức nào và bị
kiểm soát đến bao nhiêu. Tôi chỉ mong chờ gặp rắc rối, khó khăn, nguy hiểm trong nghề nghiệp,
cho tên tuổi phóng viên mình có dịp được nổi thêm.
Biết họ nghi ngờ nhứt về cái máy đèn nháy điện tử tối tân lớn cỡ cặp da thường (attaché
case), lúc đi chơi tôi bỏ lại trong phòng sau khi nhét một miếng giấy nhỏ xíu nằm kẹt giữa máy
và bao. Hễ mở máy ra khỏi bao, chéo giấy tí hon đó sẽ rớt xuống đáy, không có cách nào biết
vị trí cũ để nhét y lại. Quả thật máy tôi có bị mở xét.
Tôi cần mướn phương tiện di chuyển để đi tham quan và thăm bạn bè, được cung cấp một
chiếc xe hơi Citroen đen, song chỉ cần có một ngày đi thăm một bạn đồng nghiệp cũ là thi sĩ Hồ
Dzếnh. Sau đó, ông Hồ Dzếnh tình nguyện đưa tôi đi chơi đó đây trong thủ đô, dùng chiếc xe
Vélo-solex tôi cho ông hồi chúng tôi làm chung ở báo Thần Chung. Hết đi ăn chả cá Thăng Long
tới tham quan đền Văn Miếu, hồ Tây, hồ Halais (Bảy Mẫu), đường Cổ Ngư, chợ Đồng Xuân,
v.v…
Chùa Một Cột bị đặt bom phá hoại trước khi Pháp rút lui, đã được sửa chữa y như cũ. Nếu
không nói đó là Chùa Một Cột thì tôi tưởng là một cái am hơi khác thường một chút ở chỗ được
xây cất trên một cái trụ cột trên một hồ nước nhỏ xíu. Trong đầu tôi đã hình dung ngôi chùa
lịch sử nầy là một kiến trúc to lớn nguy nga, nên ngỡ ngàng, nếu không nói là gần như thất
vọng, khi tận mắt thấy lần đầu tiên. Tôi cũng nghĩ Sông Lịch, nếu không lớn bằng sông Hồng
Hà, ít ra cũng cỡ một con rạch ở miền Nam, thì chỉ thấy đây là một con suối nhỏ.
Hồ Hoàn Kiếm thì đẹp thật với cầu Thê Húc màu mè bắc qua đền Ngọc Sơn cất trên một hòn
đảo rậm rạp cây cối, và Tháp Rùa nhô lên khỏi mặt nước ở giữa hồ, trên nóc thượng lá Cờ Đỏ
Sao Vàng thật lớn. Ban đêm, ánh sáng ngôi sao năm cánh trên chót vót và đèn đuốc viền Tháp
nối tiếp tới dưới chưn, phản chiếu xuống mặt nước nhấp nháy muôn màu. Tôi trở lại thủ đô Hà
Nội năm 2004 thấy không còn lá quốc kỳ phất phơ trên Tháp Rùa.
Sở thích còn lưu giữ dài lâu trong tâm tưởng tôi là được ngồi bên bờ hồ uống nước dừa,
ngắm nhìn Tháp Rùa, mơ nghĩ một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhứt không còn
chiến tranh.
Thi sĩ Hồ Dzếnh đưa cả gia đình gồm có bà vợ nguyên là phu nhân của cố thi sĩ Trần Trung
Phương với hai đứa con, ra chụp hình chung với tôi bên bờ hồ phía trước cầu Thê Húc. Tôi còn
lưu giữ bức ảnh nầy. Bà vợ rất đẹp là chủ nhà sách Bình Minh tại một góc đường ngó ra bờ hồ
Hoàn Kiếm, có bán tạp phẩm khá đầy đủ, lúc đó thấy có chưng bán nhiều sản phẩm do Trung
Quốc chế tạo. Món tôi thích nhứt trong số đồ tôi mua kỷ niệm là cái kèn harmonica khá tối tân.
Văn Bia làm phóng sự năm 1955 ở Hà Nội. Hình chụp chung với gia đình thi sĩ Hồ Dzếnh tại
hồ Hoàn Kiếm
Phố phường Hà Thành đầy dẫy tên tôi. Trên vách tường đó đây kẻ thật to chữ: BIA, BIA
LẠNH. Thoạt tiên, tôi nghĩ không lẽ thủ đô chào mừng tôi kiểu lạnh lẽo kỳ cục như vậy. Sau mới
biết họ chào… hàng loại trong Nam gọi là la-ve.
Những cửa hàng Mậu Dịch Quốc Doanh nổi bật với những bảng hiệu đỏ vàng chói lọi ngập
hàng phố, thay đổi bộ mặt cố đô Thăng Long khác hơn tôi thấy lần trước. Phố nào cũng đầy
dẫy cơ sở thương mãi của nhà
nước. Tư nhân chỉ còn buôn bán vặt ngoài chợ. Tôi quên hỏi như nhà sách của thi sĩ Hồ
Dzếnh thì thuộc diện nào. Ông là công chức chánh phủ trong ngành văn hóa với lương tháng
15 ngàn đồng. Ông khoe là sống dư dả đầy đủ.
Báo chí Hà Nội hay tin tôi đến viếng, mở cuộc họp báo chí đặc biệt phỏng vấn tôi và để tôi
tự do phỏng vấn lại họ. Trong số khá đông ký giả hiện diện, tôi lưu ý có một người thôi, là phụ
nữ duy nhứt, lại sắc sảo và quá sức hấp dẫn. Một đồng nghiệp giới thiệu nàng là biên tập viên
của Việt Nam Thông Tấn Xã. Nàng liến thoắng tranh gần hết thì giờ, mở miệng hỏi tôi hết
chuyện nầy tới việc khác. Nàng còn quá trẻ, như gia nhập làng báo còn sớm hơn tôi, tỏ vẻ tọc
mạch tìm hiểu tình hình ở Miền Nam theo quan điểm của một ký giả địa phương. Tôi dư biết
báo giới hằng ngày theo dõi các nguồn tin tức ngoại quốc tất phải rành, nên tôi trả lời bằng
cách trình bày thực trạng chứng tỏ nhà báo Miền Nam tự do tôn trọng sự thật, và tất nhiên họ
phải đánh giá cao mình về nghề nghiệp.
Từ Saigon còn nặc mùi thuốc súng dẹp loạn Bình Xuyên, cả ngàn dân lành vừa quấn khăn
tang mới tinh
trên đầu, và chưa dứt hồi hộp đón nhận những trận xung đột khác, tôi bước vào vùng êm ả
thanh bình chưa từng thấy, nên không ngần ngừ nói cảm giác cá nhân tôi như vừa từ địa ngục
bước tới thiên đàng.
Khi trở về Hải Phòng mua đọc báo Nhân Dân, tôi thấy đăng bài phỏng vấn nhà báo ” Chung
Thanh ”, biết cô ký giả khả ái kia sợ tôi bị gặp khó khăn nên viết đổi tên tờ báo bằng chữ Nho.
Song ai đọc cũng biết là báo Tiếng Chuông và ký giả Miền Nam duy nhứt lúc ấy dám tới Hà Nội
chỉ có Văn Bia.
Cô ta đã có hỏi tôi không sợ bị gì khi trở về Saigon sao. Nàng còn hỏi tôi có nguyện vọng gì
về đất nước. Biết rõ cô ta mong chờ tôi nhắc tới chuyện thống nhứt quê hương, tôi đáp theo
kiểu ai muốn hiểu là giỡn hay nghiêm chỉnh cũng được, nhưng thật sự cũng tự đáy lòng tôi:
– Tôi chỉ có một ước nguyện là được sớm gặp lại người đẹp, để cùng làm chung với nhau
nghề báo trong bầu không khí tự do báo chí.
Kế tiếp, tôi hỏi lại mấy câu thật nhẹ nhàng song làm họ ngẩn ngơ ngó nhau, không trả lời.
Ngắm nhìn cô nữ phóng viên Bắc Kỳ diễm kiều, mơ tưởng là vùng đất Bắc quê hương trìu
mến, tôi chậm rãi hỏi:
– Chừng nào tôi hy vọng gặp được cô trở lại? Và gặp tại Hà Nội nầy hay tại Saigon?
CHƯƠNG 54
Nấn ná ở chơi tại Hà Nội, suýt quên mất kỳ hạn cuối cùng tới nơi, tôi hối hả trở về Hải Phòng
vừa kịp ngày chứng kiến cảnh quân đội Pháp rút binh. Bịn rịn giã biệt đất và người mến thương
với lý do phải lên đường đi làm nhiệm vụ phóng viên nhà báo nghe cho cao cả, tôi vừa tránh
tiếng lựa chọn hướng đi chánh trị.
Tại Hải Phòng, tôi thâu được những tấm ảnh tôi rất hài lòng về hai lực lượng đối nghịch Pháp
và Việt Nam, nay phối hợp chung nhau đi tuần canh, giữ gìn an ninh thành phố. Khó có hình
ảnh nào tốt đẹp hơn để biểu dương hành động hợp tác hòa hảo của hai kẻ cừu địch. Khi đem
về Saigon cho báo Tiếng Chuông đăng lên, tấm hình mấy anh bộ đội cùng lính Pháp đi ngang
qua tháp nước Hải Phòng được ghi lời chú thích là “bằng chứng Việt Minh bán nước, làm đầy tớ
dắt Tây về…” Bấy giờ, tới giờ phút đó, tôi mới nhận thức việc thắng Pháp mà chính Pháp nhìn
nhận, bắt đầu không được coi là thành quả của Việt Nam, mà trái lại phải bị xem là hành động
của kẻ thù đánh bại Miền Nam tôi đang sinh sống.
Đời sống chánh trị Miền Nam xây hướng đổi chiều một sớm một tối khi từ tình trạng Pháp
thuộc trở thành Quốc Gia. Chống Việt Nam thành chống Việt Minh Cộng Sản hay Việt Cộng. Dân
Miền Nam và dân Miền Bắc không còn Pháp để chống nữa, bây giờ chống nhau vì hai chủ nghĩa
đối nghịch. Nam Bắc phân tranh, Quốc Gia – Cộng Sản.
Sở dĩ tôi nói rõ điểm nầy để thế hệ sau hiểu phe Quốc Gia thừa kế thực dân Pháp, nhận lãnh
từ tai tiếng đến lực lượng quân đội như lính Khố Xanh và ngay cả số sĩ quan và lính tráng người
Việt trong hàng ngũ chính quy của Pháp, vừa chấm dứt tình trạng đánh thuê cho Pháp, họ chưa
biết hay chưa có tinh thần quốc gia Việt Nam chút nào.
Thành tích nổi bật của ông Ngô Đình Diệm là đem lại chánh nghĩa cho Miền Nam, tuy phải
bằng một giá cả quá đắt đỏ là cuộc nội chiến. Ông đã thật sự sinh ra chế độ mới, có tinh thần
quốc gia dân tộc, khi đã chứng minh được ông không phải là tay sai của Thực Dân Pháp như
các chánh phủ tiền nhiệm ở Miền Nam.
Thay đổi hay sửa chữa tòa nhà mục nát thành lâu đài tráng lệ để người dân khoái chí, nhận
chịu cư ngụ. Bao nhiêu công trình, với biết bao chướng ngại phải vượt qua trong một thời hạn
gấp rút cho kịp thời cuộc. Có kịp không? Ngày tên lính Pháp cuối cùng rời khỏi đất Bắc nay mai
trong buổi lễ bàn giao rút lui sắp kể đây là ngày thứ 301 sau ngày ký kết hiệp định đình chiến.
Chỉ còn 14 tháng nữa, toàn dân Việt Nam sẽ quyết định sự lựa chọn của mình qua lá phiếu Tổng
Tuyển Cử. Cả hai phía Bắc Nam tranh đua xây dựng một Việt Nam giàu mạnh. Bên nào cũng
hành động ái quốc. Nhưng bên nầy tuyên truyền nói bên kia Cộng Sản tay sai cho Nga Tàu, bên
kia nói bên nầy làm tôi tớ cho hết thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ.
Phố Khâm Thiên ngày nay được xây dựng lại
Đài tưởng niệm một thành tích của Hoa Kỳ
Ngoài Bắc, dưới khẩu hiệu ”Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc”, tiếp tục áp dụng chế độ Cộng Sản
sắt máu để tái xây dựng đất nước nghèo nàn tan nát sau mấy mươi năm chiến tranh. Tuy hầu
như tất cả thành phần chống đối đã
di cư vào Nam theo chân quân xâm lăng Pháp đã rút lui, nhưng Miền Bắc phải đương đầu
với khó khăn to lớn về kinh tế. Cuộc chiến đấu dai dẳng chống Pháp đã tàn phá quê hương. Cầu
cống, đường sá bị phá hỏng gần hết. Cơ xưởng, công thự, ngay cả bịnh viện cũng bị dân di cư
dọn sạch bách, mang theo. Di tích lịch sử như Chùa Một Cột còn bị phá hủy. (Gần hai chục năm
sau, Miền Bắc quê hương lại bi đế quốc Mỹ suýt “đưa lùi vào thời kỳ đồ đá” bằng những trận
mưa bom B52. Nhứt là vào cuối năm 1972, B52 Hoa Kỳ trải thảm bom xuống thủ đô Hà Nội,
san bằng khu phố Khâm Thiên và ngay cả khu bịnh viện Bạch Mai. Non mười năm sau đó, thêm
đế quốc Trung Hoa tàn phá các thành phố miền ranh giới phía Bắc.)
Trong Nam đề xướng chủ thuyết nhân vị ”Hòa Bình, Độc Lập, Tự Do”, với lãnh tụ chống Cộng
Ngô Đình Diệm, lo tái lập an ninh trật tự, dẹp loạn đảng phái đã xé nát bấy dân tình dân tâm.
Cuộc lui quân của Pháp khỏi Bắc Việt, chánh phủ Miền Nam chịu nhục nhã nhận như là cuộc
rút lui của chính mình. Ít nhứt đã phối hợp với / và thể hiện ở non triệu đồng bào bỏ đi trong
cuộc di tản vĩ đại vào Nam.
Bài tôi tường thuật trên báo Tiếng Chuông về lễ tiếp thu lịch sử có hàng trăm ký giả ngoại
quốc chứng kiến, bị cắt bỏ gần hết. Anh em trong tòa soạn nói tôi viết ”ướt át ” quá. Nay tôi
viết lại dưới đây theo trí nhớ.
Nước Pháp có tinh thần kỷ luật trong quân đội đáng nể phục. Bại trận cũng làm lễ lạt uy
nghiêm không thua gì khi diễn binh chiến thắng. Vẫn hiên ngang ca quốc thiều: “Allons! Enfants
de la Patrie”
Từ sáng sớm, trên một đại lộ lớn nhứt trong thành phố, quân đội hai phe Việt Nam và Pháp
đối đầu nhau trong khoảng cách chừng trăm thước, mỗi bên chuẩn bị hàng ngũ chỉnh tề. Thành
phố như thật sự chết. Ngoài đám ký giả chúng tôi, không có một bóng người dân đứng coi. Bầu
không khí thật lặng im. Âm thanh do súng bồng lên đặt xuống nghe rõ mồn một.
Kèn Tây bỗng trỗi lên. Lá cờ Tam Sắc (quốc kỳ Pháp ba màu xanh trắng đỏ) từ từ hạ xuống,
xếp lại. đoạn có một tiếng hô lớn, toàn quân Pháp đồng loạt xoay demi tour (nửa vòng), rập
rình bước đều theo tiếng nhạc, rút lui. Đi chừng trăm thước, dừng lại. Đoàn quân Việt Nam, đơn
vị chiến thắng Điện Biên Phủ được danh dự dẫn đầu, tiến bước chiếm đoạn đường quân Pháp
vừa bỏ trống.
Tức thì, như do một chiếc đũa thần giơ lên, đoàn quân Việt Nam tiến tới đâu, phố xá hai bên
đường bật tung cửa cái cửa sổ, cổng to cổng nhỏ ra hết. Dân chúng tuôn ra như nước tràn ngập
hai lề đường, đông như kiến cỏ. Tiếng đón mừng vang trời dậy đất ” Hoan hô tinh thần anh
dũng của quân đội nhân dân Việt Nam! ” liên tục như tiếng sấm sét nổ gần gầm xa.
Từ các cửa sổ trên lầu hai bên phố tung ra đầy trời giây thảo lông ngũ sắc chằng chịt, nối
hai bên phố lại, tạo vòm trời hoa che trên đường, đón tiếp đoàn quân chiến thắng. Dưới đất,
đâu đâu cũng đầy đám kiến người rinh khiêng từng khúc kiến trúc gỗ hay tôn, lẹ làng ráp lại
thành hằng mấy chục khải hoàn môn to rộng bắc ngang qua đường, ngay tại mỗi chặng đoàn
quân Việt Nam dừng lại chờ quân Pháp rút tiếp.
Từng binh đoàn nối tiếp sau đoàn quân chiến thắng Điện Biên Phủ. Đơn vị nào cũng vận
quân phục còn mới tinh như vừa từ xưởng may đem ra. Đơn vị nào cũng võ trang bằng súng
ống bóng láng. Rồi đoàn súng liên thinh. Rồi giàn đại pháo. Tôi hoa mắt trước binh lực tôi chưa
hề ngờ tới. Vài anh bộ đội khiêng cuộn dây điện thoại đi dọc một bên mỗi đoàn quân, tới đâu
lăn xổ dây ra tới đó. Rồi cứ quân Pháp rút khỏi khoảng đường nào, quân Việt Nam tiến tới đó.
Luôn luôn giữ cách nhau khoảng trăm thước.
Tôi bỗng sững sờ trước đoàn nữ binh truyền tin, không phải vì trên lưng mỗi cô gái mang
đồng loạt một loại máy phát tín lớn mới tinh khôi có cần câu cao vút ngúc ngoắc, mà là vì tôi
vừa nhận dạng được một nàng trong đoàn nữ binh mới đi ngang qua trước mặt tôi đúng là
một ”chị Hai” tôi vừa tiếp xúc đêm hôm trước. Tôi không thể nhận lầm cô ta được vì nàng có
một nét đẹp vô cùng đặc biệt đã thu hút tôi chấm nàng và quyết định trước khi rời đất Bắc tôi
sẽ trở lại gặp cho được, bằng mọi giá. Thì ra các nàng Kiều lấp ló trong những ngôi nhà kín
cổng kia là những nữ chiến sĩ của chế độ mới, phục binh chờ ra mắt ngày hôm nay. Kinh thật!
Một phút trước, các ký giả còn tưởng Việt Minh sắp tiếp thu một thành phố chết. Một phút
sau, họ phải kinh ngạc đến mức không còn dám dự đoán tương lai sẽ ra thế nào nữa. Đúng ra,
tất cả đều thấy viễn ảnh Việt Nam sắp ra sao rồi. Ký giả Francois Sully lắc đầu, nói với tôi:
– Luôn luôn là như thế. Ở đâu người dân cũng tự nguyện rước lấy xiềng xích cột trói mình.
Thêm trời đang vào tháng Bảy, dọc trên hai bên đường phố, hoa phượng nở đỏ rực, che lấp
hết lá xanh, trông giống những dòng sông máu tuôn chảy tràn ngập khắp thành phố.
CHƯƠNG 55
Việt Minh là tiếng gọi tắt cho ”Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”, một mặt trận do dảng Cộng
Sản lãnh đạo, phối hợp những thành phần trong Đông Dương Cộng Sản Đảng, Quốc Dân Đảng
và những người ái quốc không thuộc đảng phái nào. Trong Việt Minh gồm có Cộng Sản và người
Việt quốc gia yêu nước tham gia với họ chống Pháp. Chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ là
thành quả chung của Việt Nam.
Hồ Chí Minh dùng vũ lực đánh bại Thực Dân, nhưng còn phải nhượng phân nửa đất nước từ
vĩ tuyến 17 trở xuống. Ngô Đình Diệm dùng chánh trị dứt điểm, thu hồi được độc lập hoàn toàn
ở Miền Nam trong một thời gian thật ngắn và không đổ máu.
Kể từ ngày đánh đuổi xong quân xâm lăng Pháp, người Việt quốc gia không chấp nhận chế
độ Cộng Sản. Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập Việt Nam Cộng Hòa, ra lịnh không bắt bớ
đàn áp những người Việt Minh đã chịu ở lại miền Nam, ngoại trừ họ là Cộng Sản mưu đồ lén lút
nằm vùng chống phá lật đổ chánh quyền. Những người nầy là Việt Cộng. Danh từ Việt Minh
không còn nữa, và cuộc nội chiến Bắc Nam trong nước Việt Nam bắt đầu từ đây.
Hoa Kỳ có muốn hay có thật sự thay thế thực dân Pháp, hoặc có ý định dùng miền Nam làm
tiền đồn chống Cộng Sản, được hay không, tùy chánh quyền Miền Nam có chấp nhận hay không.
Ngô Đình Diệm nhận làm Thủ Tướng, rồi trở thành Tổng Thống, đã lèo lái như thế nào để không
có tội với đất nước, sẽ được lịch sử ghi. Nhiều nhà viết sử đã vội vã đề quyết hai phe Việt Nam
đánh giặc thuê hay thay thế (proxy war) cho hai hệ tư tưởng của các cường quốc, khi thấy miền
Bắc nhờ viện trợ khổng lồ của Liên-Xô và Trung Cộng, còn miền Nam dựa vào lực lượng vô địch
Hoa Kỳ.
Ngoài Bắc, để thắng cho được trận quyết định Điện Biên Phủ, ngoài không biết bao nhiêu
quân trang, vũ khí nặng, đại pháo của Tàu và Nga, còn có trên trăm ngàn lính Trung Cộng.
Song dưới quyền điều động của Việt Nam, và mặc dầu giúp đánh ngoại bang Pháp, họ không
được trực tiếp xung trận như quân đội Hoa Kỳ lộng hành ở Miền Nam Việt Nam, tự động rãi hóa
chất Màu Da Cam hủy diệt rừng cây, tự do thả bom oanh kích bất cứ nơi nào họ muốn, mặc
tình chiếm đóng bải biển họ chuộng thích, đương nhiên hành quân giết đồng bào Việt Nam ở
Mỹ Lai (miền Trung), ở Thanh Phong (Miền Nam), v.v…
Quân Tàu phải rút lui sau khi dứt công tác, bứng theo từng bụi chuối, vác hết lu hũ. Năm
1979, quân đó đã tràn vào biên giới Việt Nam, tính dạy cho bài học không chịu nghe lời gì đó.
Việt Nam đã biết đề phòng trước, dạy lại cho Trung Quốc một bài học đích đáng, thắng trận
rạng rỡ tuy không dám huênh hoang ca khúc khải hoàn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy mà tôi gặp
được mấy lần trong các cuộc họp mặt anh em Liên Minh Dân Chủ tại nhà ông ở Cambridge
(Boston), đã mấy lượt nói lên với vẻ hài lòng cho chúng tôi biết kỳ đó Trung Quốc bị cú thật
nặng, nặng vô cùng (sic).
Trong Nam, Ngô Đình Diệm có thể có hành động ái quốc không thua Hồ Chí Minh. Hoa Kỳ
có làm áp lực mấy, có chửi ông là loại cứng đầu bất trị, ông vẫn khư khư ”say no way” (nói dứt
khoát không) việc Mỹ đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Tàu sẽ ở lỳ lại vì nghèo. Mỹ sẽ không đi tại
giàu (như ở Panama.) Ông Diệm luôn luôn có tôn chỉ việc Việt Nam chỉ nên để người Việt Nam
giải quyết giữa nhau. Phe nào nhận chịu để ngoại bang giúp kiểu lấn chiếm quyền, giành làm
ông làm cha, là cõng rắn cắn gà nhà.
Không bao lâu trước ngày Tổng Thống Diệm bị sát hại, tin đại diện chánh phủ vào mật khu
miền Đông tiếp xúc thương thuyết với Việt Cộng, có thể là chuyện dựng đứng cốt lên án chánh
phủ Đệ Nhứt Cộng Hòa tiêu lòn phản bội Hoa Kỳ. Cũng rất có thể là tin thiệt, vì khi thấy tâm
địa ngoại bang không đẹp, cố vấn Ngô Đình Nhu nghĩ đến việc người Việt giải quyết với nhau
để trả lời trước lịch sử.
Cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mc Namara, người suýt là nạn nhân của Nguyễn Văn Trổi tại
cầu Mac Mahon lúc ông đi kinh lý ở Việt Nam, có viết trong cuốn hồi ký của ông xuất bản năm
1995 nhan đề “In Retrospect: The Tragedy and Lesons of Vietnam”, tiết lộ nẩy lửa, nhìn nhận
thẳng thắn ”Hoa Kỳ đã lầm to, lầm to khủng khiếp” (We were wrong, terribly wrong) vì sự can
thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, bắt đầu từ việc gây cái chết của Tổng Thống Việt Nam Cộng
Hòa Ngô Đình Diệm.
Làm sao mà sửa đổi được dĩ vãng. Điều nên là hãy lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho tương
lai.
Sau Hiệp Định Genève, khoảng trước ngày mở cuộc Tổng Tuyển Cử được quy định vào năm
1956 và mãi đến vài năm sau đó, Miền Nam hưởng cảnh thái bình thạnh trị, song chế độ Ngô
Đình Diệm khe khắc độc tài, cấm tự do ngôn luận, tạo sự chống đối của kể cả các đảng phái
quốc gia. Đa số giới trí thức miền Nam không tham chánh. Nội tình lần lần sứt mẻ trong khi đối
thủ chánh yếu là chế độ Cộng Sản ở Miền Bắc thấy Miền Nam chống bỏ cuộc Tổng Tuyển Cử,
nên từ cuối năm 1959 đã khởi đầu áp dụng giải pháp “lấn đất giành dân” bằng bạo lực mà bước
đầu là tạo loạn.
Cuộc xúi dục người dân ở miền quê Nam Việt Nam nổi dậy còn cam go khó khăn hơn việc
thúc đẩy giới trí thức và phe phái ở thành thị phản kháng chánh quyền địa phương. Dân quê chỉ
thích an cư lạc nghiệp. Sau bao năm chìm đắm trong binh lửa, làm nạn nhân triền miên của cả
hai bên, hao hớt không biết bao nhiêu sanh mạng lẩn công của, bây giờ được hoàn toàn yên ổn
làm ăn, người chồng người con hồi kết đã đề huề chung sống với cha, chú hay anh em làm lính
ở địa phương, trong cùng chung một mái tranh, nhiều cái đã đổi thành nhà ngói. Hai bên “Nội”
“Ngoại” (phía bên nầy và phía bên kia đều là đồng bào ruột thịt) nay đã cùng chung một nhà.
Khó khăn vô cùng và hiếm hoi lắm, cán bộ Việt Cộng mới móc nối được với một cựu đồng
chí hồi kết. Người nào không dám nhận lãnh nhiệm vụ trở lại mới dám ở lại nhà như cũ hoặc có
phương tiện thì đã di cư về thành sống cho an toàn rồi. Số người thoát ly lãnh công tác quá ít
oi. Có làng không thu nạp được cán bộ nào. Song Việt Cộng có cách tuyên truyền đánh bại phe
Quốc Gia, thâu đoạt một lượt được hai thắng lợi to lớn.
Còn nhớ có lần ở miền quê, Việt Cộng bổng nổi lên rần rộ như cùng một lúc. Đâu đâu cũng
nghe thấy có mặt Việt Cộng. Đầu hôm ở làng nầy có tiếng phèn la, chiêng, trống, thùng thiếc
xen lẫn trong tiếng la ó đả đảo Mỹ Diệm Việt gian, v.v… Kế đó, vào khuya lại có chuyện tương
tợ xảy ra tại một làng kế cận rồi còn ở một thôn xã khác nữa vào lúc gần sáng. Qua đêm sau
và những đêm kế tiếp, nhiều làng xã khác báo cáo lên cấp trên cảnh nổi dậy tràn lan đó. Cấp
huyện và tỉnh cho là phong trào của Việt Cộng đã nổi lên tập thể, phải đàn áp cấp tốc, trong
khi thật sự chỉ có một tốp nhỏ cán bộ thoát ly đi hết từ đầu nầy tới đầu kia.
Làng xã được lịnh truy lùng Việt Cộng. Thế là những người hồi kết lâu nay sống yên lành
trong các thôn xóm là nạn nhơn, bị bắt bớ đánh đập tra khảo. Dân quê ta thán chánh quyền
Quốc Gia. Nhiều người hay tin kịp, hoảng sợ, lẹ chưn nhảy vào bưng biền thoát ly, Việt Cộng
khỏi mời mọc dụ dỗ. Một cục đá quăng trúng hai con chim là vậy.
Ở Saigon, đối phương áp dụng chiến thuật khác, đại để biết khai thác sự chống đối của phe
phái đối lập với chánh quyền, ngoài việc thiết lập một hệ thống điệp viên rất hiệu lực trong binh
pháp yếu dùng chước mới thắng nổi đại cường quốc.
CHƯƠNG 56
Sự việc tôi đã một thời gian hợp tác với Hoa Kỳ, hoàn toàn không phải vì chánh trị, cũng
không hẳn do kinh tế cần tiền bạc sinh sống, và là ngoài ý muốn của tôi. Thật bất dắc dĩ. Khởi
đầu cũng do việc đi chứng kiến Pháp rút quân ở Hải Phòng, thấy ký giả chỉ nói tiếng Anh, tôi
yêu nghề, muốn tiếp tục làm phóng viên, chỉ còn cách đi học ngôn ngữ mới nầy. Tai hại của lối
phát âm do Pháp dạy trong dĩa, nhứt là học cách đọc theo lối phiên âm trong sách nầy, làm tôi
có một thứ giọng do chính tôi sáng tạo ra, xa lắc giọng Mỹ nói. Viết rành rẽ đúng văn phạm,
nhưng tôi nói chỉ có một mình tôi hiểu.
Vừa ngồi bán thuốc Tây vừa mở dĩa ra nghe và mở sách ra đọc, một thầy dạy trường Trịnh
Hoài Đức vô mua thuốc thấy vậy đưa ra ý kiến nên luyện học tiếng Anh bằng cách đi làm sở Mỹ.
Nghe hữu lý, song đời nào tôi chịu hợp tác với ngoại bang. Đã không làm bồi Tây lẽ nào chịu
thành tớ Mỹ. Tôi có cách khác, ra Vũng Tàu lúc hằng ngàn lính Mỹ vừa đổ bộ lên đó. Tiệm may
đua nhau với tiệm tắm hơi, mọc lên như nấm. Tiệm may đăng quảng cáo cần thông ngôn bắt
khách lính Mỹ cho thợ đo may đồ vét (veste = bộ đồ lớn), chỉ có vài chục đô la một bộ. Anh
chàng Mẽo nào cũng may một lượt vài ba bộ.
Buồn ngủ gặp chiếu manh, nhiệm vụ của tôi quá đúng theo sở thích, là chỉ có việc đón lính
Mỹ đi qua trước tiệm, làm quen, biết bao nhiêu tiếng Mỹ xổ ra hết, chào mời vô tiệm uống một
ly cổ nhắc (cognac) hay quýt-ky (whisky), nhấn mạnh là free (không tốn tiền). Phận sự thông
ngôn của tôi không hẳn là thông ngôn, nên ông chủ Ấn Độ nhận tôi làm, lúc khả năng Anh ngữ
của tôi mới vừa khá hơn Yes, No, và Good Morning Sir có một chút xíu. Ông chủ nhà thuốc Tây
hài lòng chịu đi làm công ở đây, do nhiều lẽ. Sướng quá nữa. Được bao luôn ăn ở. Chỗ ở là một
căn phòng cất riêng biệt phía sau tiệm như loại nhà kho hay nhà xe. Hằng tuần, vợ tôi ra nghỉ
mát chơi có chỗ ở miễn phí.
Mấy nàng Kiều ở phòng tắm hơi bên cạnh, hằng ngày thường chạy qua tiệm chơi với dân lô
canh nầy. Moi được tiền Mẽo bao nhiêu, họ may đặt đồ đầm hết ráo. Một nàng nghe tôi nói làm
thông dịch cho tiệm may tôi than không đủ tiền tắm hơi, mới hỏi tại sao tôi không vô làm sở Mỹ
lương nhiều gấp mấy, để cô ta giới thiệu với một anh bồ làm trong ấy, là được liền.
Hãng RMK đang thầu xây cất trong phi trường, cần đủ thứ thầy thợ. Tôi nghĩ đây là hãng
thầu tư nhân, vô kiếm việc làm trong khi không biết mình định xin làm nghề gì ngoài mục đích
thực sự là tìm cơ hội tiếp xúc với Mỹ để luyện tiếng Anh.
Reference (giới thiệu, chứng nhận) vỏn vẹn có xấp hình tôi chụp kỷ niệm trong chuyến đi
tham quan vòng quanh nước Mỹ vài tháng trước đó. Chỉ đem khoe mấy tấm ảnh nầy, mấy giám
thị Mỹ tranh nhau coi, đồng thời giành giựt nhau mướn tôi làm việc với họ. Hết anh nầy tới anh
nọ khoe tiểu bang họ ở có tôi vừa mới để chân tới.
Tôi được giao cho chức vụ giữ kho, họ bảo là khỏe ru ngồi ngủ ăn tiền. Tiền nhiều, tắm hơi
mấy lần trong ngày cũng còn dư. Song đã quá hai ngày, chẳng có dịp nào dợt tiếng Mỹ. Chán
cảnh ăn không ngồi rồi, tôi xin đổi ra ngoài công trường làm thông ngôn.
Công tác mới đầu tiên là đi dịch cho một toán thợ mộc. Anh giám thị Mỹ dắt nhóm thợ đến
trước một giàn cửa sổ đang làm dở dang, múa may gì đó một hồi, chỉ đầu nầy, làm dấu đầu nọ,
miệng nói tía lia, tôi nào có hiểu được một chữ. Bản lề, khoen cửa, chốt, khuông, nẹp, nấc,
thềm, v.v.., học cả năm chưa đủ hết từ chuyên môn trong ngành mộc. Tôi định đầu hàng, xin
xếp cho tôi trở về coi kho, bổng sực nhớ mình có thấy anh cai và có cả vài anh thợ mộc, lúc
nghe Mỹ nói, thỉnh thoảng gục gật đầu, chứng tỏ họ hiểu Mỹ muốn họ sửa đổi thêm bớt thứ gì.
Tôi mánh lới giở trò, hỏi nhóm thợ:
– Mấy anh nãy giờ nghe Mỹ nói muốn các anh làm những gì, các anh có hiểu rõ không. Đâu
các anh nói lại coi có đúng hông.
Tôi cố kéo dài câu hỏi, chêm chút cà kê dê ngổng, hai tay cũng làm bộ điệu giống như Mỹ
đã quơ dấu lúc ra chỉ thị, cho có vẻ trung thực dịch lại đầy đủ. Mấy anh thợ mộc giành nhau tỏ
ra thông thạo, nói dễ lắm, Mỹ nó muốn phá cái khuôn cửa nầy, nâng cái bệ kia lên, thay đổi
bản lề khác, thêm cái chốt, bớt cái mốc, v.v… Thợ hiểu tiếng Mỹ hơn thầy thông ngôn mấy lớp.
Vừa thở khì một cái, tưởng đã thoát nạn, thì một chị làm bồi phòng chạy lại kéo tay tôi, năn nỉ:
– Thầy ơi, làm ơn nói với thằng Mỹ cho em cây chổi.
Tôi rất sẵn sàng giúp dịch cho chị ta liền. Khổ nỗi, không biết cây chổi nói tiếng Mỹ làm sao,
tôi đành biểu chị ta về, lát nữa sẽ mang lại cho… hai cây. Chị ta nghe lời. Song anh Mỹ thấy đàn
bà con gái, thì cũng giống như tôi, tọc mạch hỏi chị ta muốn gì vậy. Quýnh quá, tôi phải cầu
cứu tới cẩm nang lúc khẩn cấp, móc trong túi quần ra cuốn tự điển loại bỏ túi, nhỏ hơn bao
thuốc lá. Đó là cuốn Collins Pháp-Anh Anh-Pháp như ông thần hộ mạng, đi đâu tôi cũng lận
theo. Hồi đó chưa thấy có bán tự điển Anh-Việt. Tôi nói ” chị ta, chị ta.. muốn.. muốn.. xin..
xin.. một.. một..” vừa cà lăm cà lặp vừa lật tự điển cho kịp gặp được chữ tiếng Pháp mà tôi biết
là ”balais”, mừng rỡ đọc ngay chữ giải nghĩa là ” broom ” (cây chổi). Giọng cười giòn rụm thông
cảm của anh giám thị đánh tan vẻ ảo não quê xệ của tôi.
Giám thị hãng RMK bảo tôi cứ việc ở lại làm để trau giồi tiếng Mỹ. Song tình cờ, vợ tôi đọc
báo thấy mục quảng cáo tuyển chọn thông dịch viên làm việc tại Tân Sơn Nhứt. Nàng gợi ý tôi
tìm việc làm tại Saigon cho gần nhà, mỗi ngày về phụ trông coi nhà thuốc tây được.
Tôi rời xa mấy cô tắm hơi ở Vũng Tàu, về dự khóa học huấn luyện làm Chánh Sự Vụ Hành
Chánh tại Tân Sơn Nhứt. Biết tài dịch quá ba trợn của mình, tôi tới xin làm thông ngôn quèn
thôi, nhưng lại được giao cho chức cao cấp nhứt họ đang cần người. Anh Ngô Công Bình, gốc
gác Tân Khánh gần quê tôi, làm chủ sự, nói tôi có quá trình viết báo và có đi Hoa Kỳ, thì đủ
điều kiện nhận chức vụ Chánh Sự Vụ. Không cần kinh nghiệm. Được ăn lương ngồi học suốt
mấy tháng cho tới khi rành thạo. Số tôi đỏ không biết chừng nào.
Sau khi hỏi đây là đâu, tôi bật ngửa khi nghe trả lời là Phòng Dân Chính của Đệ Thất Không
Lực Hoa Kỳ. Thế nầy còn quá cha hơn liên can chánh trị. Hợp tác chánh hiệu con nai vàng với
quân lực ngoại bang. Lương tâm tôi bối rối dài dài. Lại lỡ leo lên lưng cọp nữa rồi. Lần nầy vợ
tôi không ưa mà cũng không muốn tôi sống xa gia đình lại cận kề các cô gái tắm hơi ở Vũng
Tàu.
Gia đình tôi đang làm ăn trong một vùng xôi đậu, Việt Cộng lẫn lộn với Quôc Gia. Khách hàng
của tôi thường từ trong vùng xôi đậu ra mua thuốc men, dụng cụ băng bó giải phẩu. Đất đai,
cơ sở tôi khai thác nằm trong nơi hẻo lánh. Người làm công của tôi lắm lần báo cho vợ chồng
tôi hay có gặp lá thơ của ” mấy ổng ”, khi thì để trên vách chuồng heo, khi thì đặt trên nóc
chuồng gà, v.v.. Tôi biết chính họ nhận cho tôi hay gởi cho tôi, chớ không ai. Có thơ mời đi dự
cuộc mít tinh, bảo đảm được bảo vệ an toàn. Thơ khác xin ủng hộ mớ ống chích, vải băng, dụng
cụ giải phẫu.
Nhiều chị vô nhà thuốc Tây của tôi, móc trong lưng quần ra một mảnh giấy nhỏ teo viết
chằng chịt những toa thuốc. Vợ tôi dư biết họ mua tiếp tế cho ai, nhỏ nhẹ nhắc khéo họ là cầm
nhiều thuốc về dọc đường bị xét bắt, chết cả đám. Chỉ dám bán mỗi lần một số lượng tối đa
hợp pháp thôi.
Tôi không chấp nhận lối sống hàng hai, tuy đó là giải pháp đa số người dân, nhứt là dân làm
ăn thương mại, áp dụng trong thời nội chiến.
Không phải chỉ ở Việt Nam mới xảy ra sự kiện đi đôi như vậy. Tại Hoa Kỳ, trong bốn năm Nội
Chiến Nam Bắc (Civil War 1861-1865), có những vùng Bắc Nam đánh qua đánh lại, chiếm tới
chiếm lui. Người dân chỉ chực coi lính phe Bắc hay phe Nam kéo tới là lấy cờ phe đó đem lên
treo, hạ cờ phe kia xuống cất giấu. Có lần Bắc quân kéo tới, giả trang vận quân phục Nam quân,
dân bị hố to, lấy cờ phe miền Nam ra treo, đón tiếp… Bắc quân. Người dân sống vùng xôi đậu
làm gì khác hơn được? Như đã lỡ lên lưng cọp, không dễ gì leo xuống, người dân đã phải sống
ở Miền nào thì cam chịu số phận mình. Không chịu thì di cư, nếu có phương tiện và khả năng.
Tôi giao nhà thuốc Tây lại cho cô em vợ trông coi, đem vợ con qua mướn nhà ở sát phi
trường Biên Hòa, nơi tôi nhận nhiệm sở. Dứt khoát làm cho Mỹ. Tuy tôi biết rốt cuộc Mỹ sẽ thua,
Việt Nam sẽ thắng. Có điều không dám nói ra trắng trợn như cha Gia-cô-bê Của đứng trên tòa
giảng nhà thờ Búng, tuyên bố:
– Tôi nói Việt Minh sẽ thắng. Mỹ sẽ thua.
Bổn đạo hôm đó nghe hết hồn, chờ chực cha sở mình bị chánh quyền Miền Nam tóm. Lý do
cha Của nêu ra là vì Hoa Kỳ tội lỗi quá. Còn tôi thì quá biết Hoa Kỳ không thể hiện diện lâu dài
trên đất nước Việt Nam. Mà ngày nào Mỹ rút chân thì ngày đó phe Quốc Gia sụp đổ.
Hợp tác với Mỹ, tôi thật sự tận tình giúp Mỹ, đồng thời không phản bội quê hương. Tôi nghĩ
tôi có thể làm được việc lợi ích cho đồng bào như anh sinh viên Petrus Ký Phương lúc đi làm
cho lính Tây đóng trong đồn Nhị Bình. Tôi từng gầm đầu cắn răng chịu người rất thân cận quá
nặng lời với tôi (nguyên văn):
– Tưởng gì, chớ thứ liếm giày đế quốc Mỹ.
Các giám thị Mỹ của tôi và cả vị tướng chỉ huy, cũng như nhiều đồng bào ở vùng Biên Hòa
và Bình Dương, biết rõ những việc làm của tôi trong thời gian làm cố vấn cho Mỹ. Nếu còn kịp
thì giờ và đủ sức khỏe, tôi sẽ viết nguyên một cuốn sách về ” Những Năm Hợp Tác Với Hoa Kỳ ”
ở tại Việt Nam và ở ngay trên đất Mỹ sau đó, với chức vụ Cố Vấn Trưởng (Senior Advisor).
Lưu lạc xứ người kiếm kế sinh nhai, làm hai ba nghề một lượt, sau cùng vớ được phần việc
ngon lành nói trên trong ngành nhà nước, họ bắt buộc tôi phải có quốc tịch Hoa Kỳ, tôi đành
phải ký tên hứa đi thi. Chớ tôi đã định tâm không làm công dân của một nước nào khác khi
được biết những người tai mắt như giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đều giữ quốc tịch Việt Nam mặc
dầu lưu vong ở ngoại quốc.
Tôi không chối bỏ Hoa Kỳ tôi đã theo phục vụ và gia nhập quốc tịch Hoa Kỳ, giống như Tây
Thi gái nước
Phái đoàn ký giả có Văn Bia được tiếp đón trọng thể tại Mỹ
Văn Bia được người đẹp tặng áo tại Hawaii năm 1965
trước sự chứng kiến của các đồng nghiệp Đài Loan, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Thái Lan
Văn Bia (cầm máy ảnh) trong Phái đoàn Báo Chí VN viếng Đài Loan năm 1954,
được TT Tưởng Giới Thạch tiếp đón
Ký gỉả Văn Bia (hàng trên hết thứ hai từ bên trái)
trong Phái đoàn Báo Chí Á Châu thăm viếng Hoa Kỳ năm 1965,
được choàng vòng hoa lúc đón tiếp cũng như khi đưa tiễn
Việt sống ở nước Ngô vì quê hương và người tình ruồng bỏ, không còn lựa chọn đường nào,
chỉ biết vào giờ chót, khóc than với Phù Sai ngay trước mặt tình nhân là Phạm Lãi: “Nếu có kiếp
sau thì ước gì được chung sống trong cùng một quốc gia!”
Dầu sao, mộng ước của tôi nay đã thành.. Năm 1965 tôi được Tổng Thống Hoa Kỳ mời đi
tham quan Mỹ quốc cùng với các ký giả các nước Nhựt Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân,
Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Mã Lai Á, Thái Lan và Ấn Độ, gồm thành một phái đoàn báo chí vùng
Đông Nam Á và Thái Bình Dương thật hùng hậu nên được đón tiếp theo hạng quốc khách.
Lúc ấy quân đội Hoa Kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, muốn khoe khoang với báo chí lực
lượng của Mỹ. Điểm khởi đầu đoàn nhà báo chúng tôi tới thăm là Hạ Uy Di. Tại đây, cũng như
tại trên mười thành phố khác của Mỹ chúng tôi lần lượt đến viếng đều được đoàn quân nhạc
giàn chào và người đẹp choàng vòng hoa vào cổ mỗi ký giả. Phái đoàn của Thủ Tướng Việt Nam
Phan Văn Khải đến Mỹ hồi cuối tháng 6 năm 2005 không được tiếp đón long trọng bằng tôi hồi
đó. Hai cuộc thăm viếng và tiếp đón đều khác ngược hẳn nhau về nhân vật lẫn mục tiêu tuy
đều quan trọng như nhau. Hồi bốn chục năm trước, Hoa Kỳ mời đoàn ký giả chúng tôi dự tại
Honolulu một cuộc thao diễn đánh giặc trong rừng già, thăm trung tâm chỉ huy quân sự đặt
trong thành phố dưới đất tại Omaha (Nebraska), viếng căn cứ phóng hỏa tiễn ở Cape Kennedy
(Florida), gặp các chánh khách to lớn tại Quốc Hội (Washington DC), tiếp xúc Phó Tổng Thống
Mỹ, tòa báo The New York Times, được Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia Hoa Thịnh Đốn tiếp nhận
làm hội viên tạm, qua California coi Disneyland, lúc đó chưa có Little
Saigon để ghé thăm, đến xem cầu Golden Gate ở San Francisco, đi tham quan hãng xe hơi
tại Chicago (Illinois), và tòa báo Salina (Kansas), v.v.
Sau chuyến vòng quanh nước Mỹ nầy, nhận thấy Hoa Kỳ quá vĩ đại, lực lượng Mỹ quá mạnh
và người dân Mỹ chung quy rất thẳng thắng và tốt bụng, tôi đã kết thúc bài phóng sự ”Bốn tuần
trên đất Mỹ ” viết trên tờ báo Quyết Tiến, bày tỏ ý mong ước dầu bất cứ vì nguyên do nào Việt
Nam đừng phải đứng về phe đối nghịch với Hoa Kỳ, ngụ ý nhắn với phe phía Bắc lúc ấy đang bị
Hoa Kỳ ra mặt chánh thức giúp Miền Nam đánh trả.
Phải đợi bốn chục năm sau, sau khi Việt Nam thống nhứt nhưng còn bị Hoa Kỳ phong tỏa
cấm vận mười năm nữa, và sau thêm hai mươi năm nữa chỉ được bình thường hóa, hai nhà lãnh
đạo Việt Nam và Hoa Kỳ, Thủ Tướng Phan Văn Khải và Tổng Thống Bush chánh thức bắt tay
nhau ngày 21 tháng 6 năm 2005, là ngày giấc mộng 40 năm của tôi mới thành tựu. Tôi là một
công dân Hoa Kỳ và nước Việt Nam yêu quý của tôi đã trở thành thân hữu với nước Mỹ mà tôi
được hãnh diện mang quốc tịch.
CHƯƠNG 57
Trong tình trạng lưỡng lự, tôi vẫn tận tình phục vụ ông Diệm, ngay cả sau khi đã biết trước
chế độ cộng sản Miền Bắc sẽ thắng, phe quốc gia của ông Diệm sẽ thua.
Có những ký giả như được Trời ban cho giác quan thứ sáu mà thật sự là nhờ quan sát đúng
và luận xét chính xác, nhận định thời cuộc đôi khi trái ngược với ý nghĩ của những người có con
mắt tầm thường. Như ký giả nổi tiếng Cronkite của Hoa Kỳ theo dõi quân Mỹ tái chiếm thành
phố Huế sau Tết Mậu Thân năm 1968. Khi cờ Mỹ treo lên Thành Nội, lính Mỹ ca khúc khải hoàn,
thì Cronkite viết bài bình luận, không hoan nghinh chiến thắng quân sự, mà lại nói chỉ có đường
lối thương thuyết mới giải quyết được vấn đề Việt Nam. Khi ai cũng bảo Việt Cộng đã đại bại,
tiêu ma tám chín chục phần trăm lực lượng vào vụ Tổng Công Kích 1968, thì bình luận gia đài
BBC của Anh lúc ấy cũng cho rằng Hoa Kỳ không còn hy vọng thắng ở Việt Nam. Chung quy, ký
giả chúng tôi nhận định không sai về sức bền dai của Bắc quân và ước lượng đúng tinh thần
chiến đấu của họ.
Giác quan thứ sáu cũng đã bắt tôi xin từ chức tuy đang làm “lương cao nhứt cho Mỹ ở phi
trường Biên Hòa” (nhận xét của Đại Úy John L. Cunningham, trưởng phòng). Do tình cờ dong
rủi, đã lỡ liên can hợp tác với Mỹ, tôi cũng đã kịp thời rút lui trước. Lúc Úy Ban Cách Mạng kêu
gọi ”ngụy quân, ngụy quyền” và tay sai đế quốc Mỹ đi trình diện, tôi từ giã vợ con, ôm gói đến
văn phòng. Họ xem lý lịch thấy tôi không thuộc diện đi học tập, vì tôi ngưng làm cho Mỹ đã quá
ba năm là đủ tiêu chuẩn được sự khoan hồng của Cách Mạng. Hú hồn.
Sau bữa chứng kiến cuộc rút binh của Pháp khỏi Bắc Việt, đoàn xe Úy Hội Quốc Tế (UHQT)
có đông đảo ký giả tháp tùng, trong số đó có tôi, chạy vòng quanh thành phố Hải Phòng, nhìn
cảnh dân chúng địa phương hớn hở vui mừng ngày đầu tiên trong cuộc sống mới. Ký giả Francois
Sully dặn tôi nhớ đừng lên tiếng, để được coi như là một thành viên trong UHQT cho tới khi
được đưa ra hòn đảo Cát Bà, theo Pháp lên máy bay về Saigon. Là người Việt Nam Miền Nam
cuối cùng trên đất Bắc trước ngày tiếp thu, tôi lại vừa trở thành người Việt Nam đầu tiên thoát
ra khỏi ”hỏa ngục” Cộng Sản Bắc Việt.
Tôi biết ông Diệm của tôi thua từ giờ phút đó. Bắt đầu là mất tôi, mặc dầu tôi vẫn tiếp tục
giúp ông trong khả năng nghề nghiệp của tôi. Rồi liên tiếp gần chín năm trời, tôi vẫn nghĩ sớm
muộn ông cũng thất bại. Tôi chủ bại? Không. Tôi tiên kiến.
Điều tôi dự đoán vừa đúng vừa sai. Sai vì Ngô Đình Diệm đã không thất bại được khi ông đã
chết nửa đường, sự nghiệp còn đang dang dở. Đến ngày ông Diệm bị giết, tôi mới chắc chắn
ông không thể còn thua được, cũng như ông không còn có thể trở nên người không tốt được
nữa. Tôi đã nói ông không phải là một vị thánh cho đám tôi tớ tôn sùng ông nhất thời lúc còn
sống. Nay ông nằm xuống rồi, Đức Giáo Hoàng không phong thánh cho ông, tôi vẫn tôn ông là
thánh nhân, trong khi bao nhiêu cha thầy sư sãi chung quanh tôi, không được tôi tôn trọng
bằng ông. Vì tôi tin tôi biết con người thật của ông rất đạo đức. Người tài ba không hiếm, và có
biết bao người còn tài ba hơn Ngô Đình Diệm, nhưng người hữu đức như ông thì không có. Tôi
còn kính mừng với lòng bái phục ông Diệm được trở thành thánh tử đạo vì đã anh dũng chết vì
tinh thần Quốc Gia chân chính bài ngoại của ông.
Đại Đức Thích Quảng Đức hỏa thiêu
Công lao chống Cộng của ông Diệm ví như xây đập đắp đê ngừa lũ lụt. Làn sóng Cộng Sản
cứ dâng lên cao, ông vẫn có đủ khả năng lẫn phương tiện, nhứt là với tinh thần Công Giáo vững
mạnh ông có, cơi đê lên ứng phó hữu hiệu. Có điều bờ đê bị những đường nứt hẻ nhỏ ông
không lưu tâm, để xoi lở lần đến mức lúc chưa thấy kịp, làm sụp đổ cả nền móng. Một phần lớn
nguyên do là tại không có tự do báo chí trong chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi đã cố lưu ý đường
nứt đó, nhưng bị bịt miệng, như sắp trình bày sau đây.
Nói đảng phái là một tôn giáo thì chúng ta có thể nói ngược lại tôn giáo là một thứ đảng phái.
Các nhà tôn giáo phản đối vì cho rằng tôn giáo thuộc về phương diện thiêng liêng không thể
đem so sánh với tổ chức trần tục, tuy lịch sử tự cổ chí kim chứng minh trái hẳn.
Khi Ngô Đình Diệm quyết tâm giữ lập trường đứng trên các đảng phái để thu phục và lãnh
đạo được toàn dân thì ông vẫn còn bị kẹt về tôn giáo Thiên Chúa ông tôn sùng. Tuy ông vô
cùng thận trọng. Ông đã từng thẳng tay bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm
di cư như Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi và Lê Hữu Từ đến đổi biến thành kẻ chống nghịch ông.
Trái lại, ông quen thân với các Đại Đức Thượng Tọa nhiều không thua cha thầy. Trong ngôn
ngữ ông dùng khi cầu xin Thượng Đế, không hề có chữ gì khác hơn là: “Xin Ơn Trên phù hộ”.
Ông giúp xây dựng và trùng tu chùa chiền trong khi ngay với nhà dòng Chúa Cứu Thế “cưu
mang” ông, ông chỉ dùng tiền lương của ông để tặng.
Lúc tôi đánh máy lại những bài ông soạn thảo về Chủ Nghĩa Xã Hội Công Giáo mà tôi tin chắc
ông sẽ áp dụng làm đường lối chánh trị tương lai của ông, tôi thấy ông bôi bỏ và sửa chữa thật
nhiều đoạn, chứng minh ông thắc mắc hoặc gặp trở ngại không ít về chủ thuyết ông định đưa
ra không mấy khác xa đường lối xã hội Cộng Sản ngoài điểm trái ngược quan trọng nhứt là một
bên hữu thần một bên vô thần. Rốt cuộc tôi cũng không thấy ra mắt tập nghiên cứu Chủ Nghĩa
Xã hội Công Giáo của ông. Tôi chắc ký giả Văn Mại còn cất giữ đoạn đầu tập nầy tôi đã gởi cho
đồng nghiệp đàn anh đó coi.
Ngô Đình Diệm có thể chỉ nhờ nhân đức của ông mà vượt qua được vách tường tôn giáo
ngăn cách ông với đa số đồng bào không đồng đạo với ông. Ông lại nhè có người anh là Đức
Cha Thục, quá ảnh hưởng đến ông, dùng quyền năng Vatican đè bẹp chánh nghiệp của ông
thay vì nâng đỡ.
Ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm vừa bị cả hai thế lực của Hoa Kỳ và tuyên truyền của Việt
Cộng áp dụng đòn độc tôn giáo, và tuy sau vụ Đại Đức Thích Quảng Đức hỏa thiêu, ông Diệm
có ra trước quốc dân tuyên bố câu thật tình tự đáy lòng ông: “Đằng sau lưng Phật Giáo có tôi!”
Nhưng quá trễ rồi. Đê đã vỡ từng mảng to ông mới hay thì không còn kịp. Tôi rất tiếc đã không
giúp ông ngừa được từ trước vì cây viết của tôi đã bị bẻ gãy trước rồi.
CHƯƠNG 58
Điều tra tố cáo bọn hạm, những tay to mặt lớn tham nhũng quấy nhiễu dân lành, báo chí gọi
là bắt hạm. Thời tôi, chưa có được bao nhiêu phóng viên chịu nhận lãnh công tác nầy có lẽ vì
sợ động chạm nguy hiểm, ngoài việc khó khăn hao tốn tâm lực và thời giờ.
Tuy thuộc tay liều, hay chịu chơi, tôi cũng bắt đầu hơi nao núng việc bắt hạm, sau khi liên
tiếp đụng độ, không phải nhằm thứ dữ, mà là nhằm những rắc rối tế nhị. Có những vụ mất công
bỏ thì giờ ra, kết cuộc để thấy đó chỉ là những chuyện tư thù, phe phái. Đôi khi gặp cả chuyện
mưu hại một cán bộ đắc lực của chánh quyền. Vạch lá tìm sâu thế nào cũng gặp. Không phải ai
cũng trong sạch như ông Nguyễn Ngọc Thơ, ông Trần Văn Hương, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy,
ông “Nghị Nhà Lá” Hồ Ngọc Cứ, hay ông Ngô Đình Diệm. Sách Thánh công nhận thánh nhân
còn phạm tội mỗi ngày bảy lần mà.
Thật sự cũng có những tay ác ôn côn đồ nhiệt thành duy trì an ninh đắc lực lập công, để
được cấp trên tha thứ hành động bóc lột hiếp đáp dân đen vô tội. Phóng viên bỏ qua những
trường hợp tương tự để tránh tiếng tiếp tay Cộng Sản, hại cán bộ trung thành của chánh phủ,
thì lại có thơ rơi cho chủ báo nói ký giả đã ngậm miệng vì hạm nhét đút. Hỏa mù thả tứ phía,
khó thấy rõ đâu là sự thật.
Quận trưởng Nguyễn Tri Sơn, ở Ba Tri, con nuôi Đức Cha Thục, thuộc loại công chức khá
trong sạch mà tôi không tha, vẫn viết bài tố cáo, vì tôi thấy ngay hành động tai hại của ông ta
có thể dễ dàng dẫn đưa tới chỗ làm sụp đổ chế độ của một Tổng Thống người Công Giáo. Số
dòng họ Ngô Đình sắp tận. Nghiệp báo của tôi sắp tàn trước nên không giúp được gì cho họ
Ngô. Dân chúng địa phương Ba Tri ta thán về những ức hiếp lạm quyền của quận trưởng Sơn,
tôi làm lơ được. Duy việc ông muốn lấy điểm với Đức Giám Mục Ngô Đình Thục bằng cách ra
sức Công Giáo hóa quận ông cai trị là một hành động không thể tha thứ làm ngơ. Ông cả gan
bắt buộc dân trong quận treo đèn ngôi sao mừng lễ No-en (lễ Giáng Sinh), gây bất mãn Phật
tử quá nhiều. Tôi viết báo tố cáo việc ông bắt ép dân phải theo thứ Chúa của ông thờ.
Trong phóng sự đăng trên báo Tiếng Chuông, tôi gọi ông là Con Cọp Gấm Ba Tri. Tôi cố viết
thật nặng cho thấu lên cấp trên tiếng báo động về tai hại áp bức tôn giáo do một tín đồ quá
khích gây ra, báo hiệu đại họa chánh phủ Diệm có thể mắc phải. Và quả thật, sau đó xảy ra vụ
Phật Giáo ở Huế, dẫn đến sự sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Thay vì sửa trị bề dưới nịnh nọt bậy, Đức Cha Thục nghe lời con nuôi kia mét thót, ra lịnh
cho ngoại trưởng Trần Văn Lắm trừng phạt tôi. Trong một cuộc lễ có ông Lắm đến dự, tôi chận
hỏi ông về hành động của con nuôi ông Ngô Đình Thục. Ông Lắm gạt ngang tôi, chỉ nói vắn tắt
có mấy tiếng ” làm gì có chuyện bậy bạ đó ”.
Nhận lại đề nghị của ông Lắm, ông Tổng Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành chỉ có cách
dọa ông Đinh Văn Khai là báo Tiếng Chuông của ông sẽ bị đóng cửa nếu còn tiếp tục dùng ký
giả Văn Bia.
Tôi bắt đầu không cảm tình với Trần Chánh Thành từ hồi ông ta mới nhận Bộ Thông Tin,
thay thế bác sĩ Bùi Kiến Tín quá bết.
Thống Chế Tưởng Giới Thạch mời một phái đoàn báo chí Việt Nam đi viếng thăm Đài Loan.
Bộ Thông Tin cho các chủ báo như ông Tam Mộc (Mai Lan Quế), chủ báo Buổi Sáng, và dùng
làm phần thưởng cho người có công lao với chế độ mới, như luật sư Hoàng Cơ Thụy làm trưởng
đoàn. Vào giờ chót, không rõ vì lẽ gì, thay đổi để ông Phạm Xuân Thái, cựu Bộ Trưởng Thông
Tin. Trong cuộc họp phái đoàn gồm có Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Duy Hinh, Phạm Việt Tuyền,
Lê Minh (là nhiếp ảnh viên người Hoa), v.v.., bộ trưởng Trần Chánh Thành mới cho biết tôi được
đi là để ”đền ơn trả công tôi rồi đó”. Tôi đinh ninh mình được chọn chỉ vì để thay thế ông chủ
báo Tiếng Chuông của tôi, không đi.
Công gì? Công sáng lập tờ báo Cách Mạng Quốc Gia, hay công theo phò Ngô Đình Diệm, làm
tờ Hoa Lư từ những năm chưa có ông Trần Chánh Thành? Ông biết công tôi ra sao mà nói trả
công tôi? Có xứng đáng không và thay mặt ai? Tôi không buồn trả lời vì quá bất mãn, và chỉ có
một cách đáp ứng thích đáng là quăng trả lại vào mặt ông tờ hộ chiếu vừa được cấp.
Song tôi quá mê du lịch ngoại quốc.
Tháng 8 năm 1960, ông Trần Chánh Thành có phái người mang quà cưới tới tặng tôi như
một cử chỉ giảng hòa. Trễ rồi. Đã mất tôi, cũng như đã mất quá nhiều người trong giới trí thức
miền Nam có thiện cảm với chế độ Ngô Đình Diệm trong giai đoạn đầu.
Tội nghiệp ông Trần Chánh Thành, sau ngày 30 tháng Tư, đã tự sát, chết một cách thê thảm.
Một người bạn của tôi nhà ở gần ông Trần Chánh Thành, cùng một đường, nói có hai anh bộ
đội tới nhà tìm ông Thành. Ông cho là giờ phút chót đã đến nên dùng súng bắn vào đầu kết
liễu cuộc đời mình. Hai anh bộ đội kia đến chỉ để trao cho ông một bức thơ của một người anh
là cán bộ cao cấp viết dặn dò ông an tâm chờ đợi ông ta.
Sau khi có nhiều người Nam lần hồi rời xa ông Diệm, trùm chăn như tôi, hay vô Khu, Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam đã tuyên bố thành lập vài tháng trước ngày đám cưới của tôi. Những
kẻ tới giờ chót không bỏ ông Diệm là những đồng bào di cư đã được ông đưa từ Bắc vào, và
những người miền Trung với vài người Nam Bắc tín cẩn vây quanh ông. Những người còn trung
thành với ông Diệm tới giờ chót không phải là những người miền Nam, ngoại trừ một số tín đồ
Công Giáo trong các tu viện và các trường của bà xơ, lo đọc kinh cầu nguyện suốt cả mấy lần
đảo chánh, hụt năm 1960 và 1961, thành công năm 1963.
Lần đầu xảy ra hồi cuối năm 1960, ba tháng sau đám cưới của tôi và khoảng nửa năm sau
ngày Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập. Lần thứ hai vào ngày 11 tháng 11. Sáng hôm
đó, tin bác sĩ Phan Quang Đán tuyên bố trên đài phát thanh làm lật úp lẹ làng bức chân dung
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cao hơn tầm thước người thường, treo ở đầu Chợ Búng (Bình
Dương).
Họa sĩ Minh Sang là tác giả và chủ bức ảnh, có văn phòng cửa hàng ngay đầu chợ, nghe tin
loan báo, lật đật xoay hình ông Diệm vô vách tường. Chiều lại, biết đảo chánh bất thành, anh
ta lại cũng vội vàng như hồi sáng, lật ngược hình Tổng Thống trở ra.
Dễ dàng và mau lẹ như người dân xoay theo chiều hướng gió thay đổi. Tôi chứng kiến, cười
như cười sự đời. Anh trưởng ấp Bảy Sánh đại diện chánh quyền địa phương, thấy sự việc, đi
ngang qua chỉ đưa ngón tay điểm mặt họa sĩ Minh Sang là cảnh cáo duy nhứt mà thôi.
Biến cố cuối cùng xảy ra lúc tôi đang kẹt trên Đà Lạt. Tôi không có cơ hội ở gần để giúp được
gì, như nhà dòng Chúa Cứu Thế ở Saigon, lần đầu đã để cho nhóm trung thành với Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đậu xe truyền tin phía sau vườn, liên lạc kêu cứu với quân đội ở dưới Mỹ Tho
hay Cần Thơ lên tiếp viện.
Ông Đạo Dừa
Nhiều đồng nghiệp và bạn bè của tôi ngạc nhiên, thấy lúc chánh phủ Diệm đã vững mà
một ”công thần” như tôi không tham chánh, vẫn tà tà làm phóng viên như hồi nào. Có ký giả
nghi tôi nằm vùng trong báo giới, lãnh công tác mật gì. Con đường chánh trị ma giáo với nhiều
thủ đoạn và tranh chấp, phù hoa, làm sao hấp dẫn bằng nghề phóng viên. Tôi tiếp tục say mê
làm phóng sự.
Nghe ở Bến Tre có ông Đạo gì hơi lạ, không mở miệng nói năng chi cả. Chuyện ông Đạo nầy
Đạo nọ xem cũng thường. Thỉnh thoảng xuất hiện đầu nầy đầu nọ hết Đạo Khùng, Đạo Chuối,
đến Đạo Mò, Đạo Hửi, riết rồi nhiều quá, không còn mấy ai chú ý. Chỉ vì thiếu đề tài lớn, tôi thử
đi coi cho biết thêm một ông Đạo.
Qua khỏi bắc (bac = phà, đò ngang) Rạch Miễu, đến quận Bình Minh (?), tôi phăng lần vô
miếng vườn có một ao nước không mấy rộng. Bên phía bờ kế cận một ngôi nhà, có một cây
dừa lẻ loi rất cao, đứng thẳng, trên chót vót là một cái chòi tí hon thay thế chỗ đọt cây. Một con
người nhỏ nhắn làm như hơi teo lại trong mảnh vải vàng quấn từ một bên vai xuống khố, đang
leo lên nửa chừng cây, nhìn không kỹ tưởng là một con khỉ. Đầu ông róm lại, song gương mặt
thật thanh thản điềm nhiên, còn đượm nét cười tươi, trái ngược trong cái nhăn nheo như trái
bưởi bị phơi khô.
Một môn đệ dưới đất nói với tôi đó là thầy của họ. Ông thầy nầy không hề ăn uống bất cứ
thực phẩm gì ngoài độ ròng nước dừa vào đúng giờ Ngọ. Tự nhiên tôi đặt ngay cho cái tên
là ”ông Đạo Dừa”. Thoạt tiên, để tường thuật cho gọn.
Chính phóng viên Văn Bia đẻ ra tên ông Đạo Dừa. Báo Tiếng Chuông chánh thức khai sanh
tên đó bằng một loạt bài phóng sự của tôi. Đó cũng là những bài báo cuối cùng trước khi tôi rút
lui khỏi làng báo, hơn năm năm sau mới trở lại.
Tên thật ông Đạo Dừa là Nguyễn Thành Nam, một kỹ sư hóa chất tốt nghiệp tại Pháp. Trở
về quê, ông lập xưởng làm xà bông (xà phòng, do tiếng Pháp = savon) và dây luột, dùng nguyên
liệu địa phương là dầu dừa và xơ dừa.
Bỗng đâu ông nảy ra làm chuyện lạ thường khác người. Sống cách khỏi mặt đất hơn cả chục
thước tây. Chịu quật quờ giữa trời khi có cơn gió hơi mạnh một chút. Thấy cũng bấp bênh nguy
hiểm như sanh mạng của người dân Việt trong thời khói lửa đó.
Ngoài hiến dâng gian khổ nắng mưa, cầu Trời cho quốc thái dân an, cho chuột chung sống
được với mèo, ông làm gì cả ngày lẫn đêm trên cái thiên cốc đó? Một câu nữa tôi có hỏi, đệ tử
ông không trả lời, hình như ngụ ý cho biết ông Đạo Dừa chẳng có đồ thừa thãi bài tiết.
Hiếm khi ông trèo lên tuột xuống khỏi cái tổ. Tôi xin cho được phỏng vấn. Ông ta không trả
lời. Chỉ làm dấu và viết trên giấy.
Chiêu tịnh khẩu gây khó khăn cho phóng viên điều tra cặn kẽ, không lấy tin được từ chính
đương sự là nơi có giá trị tuyệt đối. Thủ đoạn giữ im lặng nầy cốt tránh né những câu chất vấn
hóc búa, ngoài ý đồ muốn gieo rắc một màu sắc huyền bí, thứ mà tôn giáo nào cũng cần.
Xin tạm ngưng chuyện ông Đạo Dừa để nói tới Thầy Tư Nước Lạnh chuyên môn chơi chiêu
tịnh khẩu nầy.
Có một thời, từng đoàn ni cô được tung ra len lỏi tận hang cùng ngõ hẻm, tìm xin con nít đủ
lứa tuổi, và cả người tàn tật điên khùng, đem về Làng Cô Nhi Long Thành nuôi nấng. Họ khuyến
khích cha mẹ ở vùng quê giao con cái để họ săn sóc dạy dỗ nơi an ninh.
Tôi nghi hành động dùng những trẻ có cha có mẹ biến thành mồ côi để vừa kêu gọi lòng bác
ái, hưởng viện trợ, vừa huấn luyện sản xuất một lớp tu sĩ đạo giáo mới. Tôi cần cật vấn cho rõ
trắng đen. Song tôi không hỏi các ni cô câu nào được vì trên ngực mỗi nữ tu áo sòng nầy có
đeo bản đề chữ TỊNH KHẨU.
Chủ nhân Làng Cô Nhi Long Thành là Chú Tư đã có một thời làm báo giới lưu ý sôi nổi dưới
danh hiệu Thầy Tư Nước Lạnh ở Bình Hòa. Hồi đó người dân đồn nhau kéo tới đầy nhà viên
công chức nầy, xin chữa bịnh. Ông trị đủ thứ bịnh bằng nước lạnh mà thôi, với lời căn dặn người
đạo Phật thì cầu xin Phật, người Công Giáo thì cầu xin Đức Mẹ hay Chúa.
Tôi không nhớ ông lặn mất lúc nào cho đến nhiều năm sau, khi xuất hiện tại Làng Cô Nhi
Long Thành, nơi tôi gặp lại ông trong một dịp tôi theo toán Dân Sự Vụ Mỹ chở đồ tới tặng viện
mồ côi của ông. Ông nhận ra tôi là phóng viên Văn Bia đã có đến phỏng vấn viết bài về ông
năm nào. Nhờ ông nhắc tôi mới nhớ ông và trở thành quen thân. Tôi hỏi ông sao các ni cô của
ông đeo bảng tịnh khẩu. Ông nói họ không đủ trình độ để trả lời nhiều câu rắc rối. À, ra thế.
Viết điều tra phóng sự về ông Đạo Dừa mà không phỏng vấn được, tôi chỉ có thể thuật dài
dòng về ông bằng tưởng tượng hay cảm nghĩ, là hai điều cấm kỵ cho phóng viên. Tôi không
muốn mình mang tiếng đả phá, càng không thích làm công cụ tuyên truyền cho một tôn giáo
mới, là con đường mấy ông đạo nhắm vào. Chiêu mộ đệ tử trước, kế thu phục tín đồ sau.
Trong đời phóng viên tôi đã chứng kiến được sự phát sinh của ít nhứt là ba tôn giáo ở tại
Miền Nam Việt Nam. Tôi đã có nói tới hai tôn giáo nẩy nở rất mau lẹ là đạo Cao Đài và đạo Hòa
Hảo. Đạo Hòa Đồng Tôn Giáo của ông Đạo Dừa bắt đầu hình thành kiểu cũng y chang như hai
tôn giáo trước. Vì xuất hiện nhằm lúc tình hình chánh trị thay đổi đột ngột, không còn lốn nhốn,
là đất ươm thuận lợi cho hạt giống tôn giáo, ông Đạo Dừa kể như thất bại trong vai trò giáo
chủ. Tôi đã đặt ra cái tên ông Đạo Dừa và thích thú theo dõi ngay từ bước đầu lập đạo của ông
mà tôi thấy rõ trước. Tôi cũng tưởng rồi tôn giáo mới nầy cũng phát triển mạnh.
Lúc tôi khai trương mở màn chuyện ông Đạo Dừa, chưa thấy có chút màu sắc tôn giáo và
đường hướng nào rõ rệt. Sự thật khi đó tôi chỉ biết nghi chớ không dám chắc ông kỹ sư Nguyễn
Thành Nam nầy là người của phe nầy hay của phe kia. Ông là một trí thức có mưu mô thủ đoạn
chớ không phải là một ông đạo ngây ngô tầm thường như bao nhiêu ông đạo khác. Dầu sao,
tôi luôn luôn giữ cây viết phóng viên vô tư, chỉ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe.
Đệ tử ông Đạo Dừa lưu ý tôi sự khác thường thể hiện ngay trên con người ông. Cái đầu tóc
của ông xoắn tít lại, dựng đứng chỉ thiên như một cái tháp nhọn.
Với cặp mắt sáng rỡ, nụ cười kín môi, vẻ mỉa đời mà gây được thiện cảm, ông Đạo Dừa để
cho đệ tử của ông biểu diễn, lấy tay nắm kéo thẳng xoắn tóc trên đầu của ông lên cao rồi thả
ra. Tóc trở lại quăng xoắn tít thành một búi tóc nhọn trên đầu như cũ. Làm liên tiếp hai ba lần
như vậy. Họ cho đó là điềm lạ lùng huyền bí đến với vị giáo chủ của họ. Tôi thì cho là thường
thôi. Những tay phù phép, những ông gọi là bực tu luyện lên núi, hạ sơn, còn làm được những
trò hóa phép như thần thông, gây ấn tượng cho các đầu óc bình dân phục sát đất. Trò bịp.
Thiên phóng sự tôi viết ngắn, song chuyện ông Đạo Dừa loan dài ra trong dư luận. Thêm
một tôn giáo bắt đầu thành hình như tôi dự đoán. Mãi sau mới từ từ lộ lần đường hướng Hòa
Đồng tôn giáo vừa Chúa vừa Phật thẳng thừng rõ rệt hơn đạo Cao Đài. Cho dễ lôi kéo tín đồ
của mọi tôn giáo.
CHƯƠNG 59
Có khi ký giả luôn luôn viết đúng sự thật, không nói sai, nên có thể không gặp rắc rối về
pháp lý, mà vẫn không làm tròn nhiệm vụ của người cầm viết có lương tâm chức nghiệp. Như
trường hợp một nhà báo viết quảng cáo cho một hãng xe hoặc một sản phẩm, chỉ khen những
ưu điểm mà cố tình quên không nhắc đến những khuyết điểm. Hoặc chỉ moi móc những cái dở
mà cố tình làm lơ bỏ qua những chỗ hay của hãng cạnh tranh với hãng thuê mướn mình viết.
Đó là những cây viết quảng cáo, không phục vụ lý tưởng cầm viết.
Trong lãnh vực chánh trị hay tôn giáo cũng tương tự. Khi một ký giả chỉ biết nhắm mắt ca
tụng đảng phái hay lãnh tụ của mình và chỉ biết thậm tệ chưởi bới đối lập, không chịu nhìn nhận
một cái dỡ nào của đảng mình và cái hay nào của đối lập. Đó là cây viết tuyên truyền, cũng
thuộc như loại cây viết quảng cáo.
Không tôn trọng độc giả khi không cung cấp hoàn toàn đầy đủ sự thật.
Vì lương tâm ký giả, lắm khi mang tiếng trung lập, hoặc nặng hơn, là tuyên truyền hay làm
công không cho địch hoặc phá hoại hàng ngũ quốc gia. Chung qui, trong thời làm báo đã qua,
tôi vẫn được cả hai phe trọng nể như nhiều ký giả lớn Âu Mỹ đã nổi tiếng nhờ tư cách viết không
thiên vị phe phái nào.
Nhưng đến khi trở lại nghề phóng viên gần đây, tuy ở tại một nước gọi là dân chủ nhứt thế
giới, bài viết khởi sự phóng sự của tôi về quê hương Việt Nam tôi trở về sau hơn hai mươi năm
xa cách, bị vài anh em quốc gia quá khích phê bình nặng nề và tệ hại hơn, là đoạn giao. Tôi cắn
răng chju đựng thôi vì không thể viết theo chiều hướng họ muốn là phải triệt để chống Cộng
theo ý của họ. Tôi phải đặt giá trị cây viết của tôi trên tình bạn.
Ông Peter Jennings trong tổ chức tin tức ABC được trọng dụng làm anchor man cho đến khi
chết được giới truyền thông Mỹ báo tin là « MỘT TIẾNG NÓI TIN CẬY VỪA BỊ MẤT ». Anchor
man là người phối hợp tin tức của một nhóm phóng viên ký giả để loan tin trên truyền hình;
danh từ có nghĩa là cái neo hay là đem lại sự ổn định hoặc an toàn. Ký giả Jennings đã đảm
nhiệm nhiều công tác thông tin quan trọng, đặc biệt như các cuộc Đại Hội các đảng chánh trị
và tranh cử Tổng Thống. Trong suốt nhiều năm, khán thính giả không thể biết được ông thuộc
đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa. Ký giả loan tin xác thực là như thế và mới đem lại sự an
toàn. Vững như chiếc neo (anchor).
Trong các chủ báo, tôi phục nhứt một người không chuyên nghiệp cầm viết và tuy người đó
đã đuổi tôi khỏi tờ báo Tiếng Chuông của ông. Đó là ông Đinh Văn Khai. Lần đầu tiên mà cũng
là lần duy nhứt trong đời, tôi bị sa thải đang lúc làm báo. Nhục nhã nầy không phải do lỗi ông
Khai mà là từ hành động của tay chân ông Ngô Đình Diệm, tôi đã nói tới.
Trong khi có chủ báo nhận tiền đút lót hoặc bị mua chuộc bằng quyền lợi, ra lịnh cho phóng
viên bỏ qua vụ bắt hạm nầy hoặc ngưng bài kêu ca khác, ông Đinh Văn Khai để anh em ký giả
tự do chọn viết điều tra phóng sự, không hề chận cản. Song ông Khai đã phải tàn nhẫn bịt
miệng tôi, để đến sau ngày 2 tháng 11 năm 1963, có tờ báo phanh phui tin ” Ký giả Văn Bia bị
trù ẻo gác bút ”, tôi mới trở lại làng báo sau hơn năm năm vắng mặt. Đối với tôi ví bằng bị giam
khổ sai quá lâu.
Tôi đã đòi ông chủ báo Tiếng Chuông bồi thường danh dự một trăm ngàn đồng và viết bài
xin lỗi tôi trên báo. Người bạn chung của hai chúng tôi là ông Thanh Tra Lao Động (tôi quên
lửng tên) đứng lo việc thương thuyết giữa hai đàng, đã năn nỉ tôi quá xá, nói làm sao tôi ép chủ
báo hạ mình như vậy cho được.
Tôi tính làm lớn chuyện. Đã mấy năm rồi tôi không có liên lạc với ông Ngô Đình Diệm, song
tôi quyết chơi cú nầy cho thấu tới tai ông, cũng vì mấy tay chơn bộ hạ của ông mỗi ngày mỗi
thấy thêm quá lố. Tôi biết ông Đinh Văn Khai không thể nào dám bỏ ra cả trăm ngàn cũng như
đăng đính chánh trên báo, tôi mới có dịp ngàn năm một thuở, chơi xả láng.
Ngoài việc đệ đơn lên thưa Thanh Tra Lao Động, và kêu cứu Tổng Liên Đoàn Lao Công mà
Nghiệp Đoàn Ký giả là thành viên, tôi đã nạp cho luật sư Hoàng Cơ Thụy tài liệu chứng nhận
chủ báo Tiếng Chuông sa thải tôi với lý do sai lạc, hoàn toàn vô lý. Luật sư nầy rất nổi tiếng,
người Bắc, có mặt trong nhóm ủng hộ chánh phủ Ngô Đình Diệm lúc ban đầu, sau đó đứng vào
phe đối lập mưu toan đảo chánh.
Chừng đó tôi sẽ có dịp khui ra lý do thật sự bên trong tôi đã biết rõ là ông Tổng Trưởng
Thông Tin Trần Chánh Thành theo yêu cầu của ông Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm (cả hai người
đều là chỗ quá quen biết với tôi, cùng chung trong chiến tuyến Ngô Đình Diệm) ngầm ra chỉ thị
cho ông chủ báo Tiếng Chuông treo bút tôi, một cây bút mang tiếng bướng bỉnh, phò Ngô mà
không biết nịnh bợ ca tụng ẩu tả.
Tôi đã tường thuật nội vụ, khởi đầu từ bài phóng sự tôi tố cáo Quận Trưởng Nguyễn Tri Sơn,
con nuôi của Đức Giám Mục Ngô Đình Thục. Chỉ có ”Ngô Đình Bia” dám động tới Ngô Đình Thục.
Song với mục đích cứu vớt dòng họ Ngô Đình tôi thấy đang trên đà tiêu tùng, và cũng để tôn
giáo chung của chúng tôi khỏi bị ảnh hưởng xấu.
Hằng tuần, ông Đinh Văn Khai có thông lệ họp ban biên tập tòa soạn, kiểm thảo. Ký giả nào
có vấn đề gì đưa ra và thẳng thắn chỉ trích.
Trong một buổi kiểm thảo, ông Đinh Văn Khai làm chuyện bất ngờ, hỏi tôi có đi chụp hình
trận đá banh nửa chừng bỏ về phải không. Tôi trả lời có tới chụp được vài tấm rồi bỏ về liền.
Tánh tôi không thích thể thao, bất cứ môn gì. Người ta phải mua vé chợ đen mới chen chân vô
coi được trận đá banh hôm đó, mà tôi chỉ tới cố chụp cho xong vài pha rồi báo cho mấy ký giả
thể thao biết tôi rút lui. Họ nói tôi thằng khùng. Tôi bỏ về thiệt vì không thấy hứng thú chút nào.
Đã có nhiếp ảnh viên Thanh Vân thường trực ở lại thâu hình.
Vụ chụp hình trả nợ kiểu như vậy không phải là lần đầu. Nhà báo thỉnh thoảng có nhờ tôi lấy
ảnh thì tôi làm lẹ cho xong để đi săn tin là nhiệm vụ chánh phóng viên của tôi. Thơ ký giữ sổ
sách ở mấy quận cảnh sát và ở các bịnh viện chứng nhận, vào ngày giờ đá banh hôm ấy, tôi có
mặt lấy tin ở các nhiệm sở của họ, là làm chứng cho tôi đang thật sự hành nghề phóng viên chớ
không phải bận chạy theo bóng hồng nào hay đi nhậu với bồ bịch nào.
Nếu hôm ấy chủ báo có nhấn mạnh đó là một trận đấu quan trọng, tờ báo cần có những ảnh
đặc biệt từ đầu đến cuối màn thì tôi sẽ phải hỏi cần những pha nào ghi nhận tôi mới biết canh
mà thâu vì tôi không rành thể thao, hoàn toàn mù tịt về túc cầu. Điểm chủ yếu là tôi làm cho
tờ Tiếng Chuông với tư cách là một phóng viên ký giả chớ không phải là nhiếp ảnh viên như
Thanh Vân, tờ báo có mướn sẵn. Thế mà tôi bị sa thải vì lỗi nhiếp ảnh.
Nếu cho tôi xin lỗi vì sự vô tình sơ sót nếu có, hoặc nếu cho tôi được ân huệ hưởng cảnh cáo,
thì chắc chắn vì tự ái, tôi đã tự xin nghỉ việc ngay tức khắc. Tôi đâu có bị làm nhục, bị đuổi cách
xấu hổ, và bị tổn thương danh dự, làm chủ báo phải hao tốn tiền đền bù. Tội nghiệp cho ông
Khai phải cố tìm cớ để tuân theo lịnh trên.
Tôi tính lấy một đồng danh dự đủ thỏa mãn. Nhưng nhiều người không hiểu danh dự của
một nhà báo. Nhứt là chính ngay các đồng nghiệp trong tờ báo sẽ bĩu môi cười. Cho nên phải
đòi hỏi số tiền xứng đáng cho sáng mắt họ, họ mới thấy.
Mất một việc làm, không là gì cả. Song đau nhứt là mất sự nâng đỡ của đồng nghiệp. Không
có một ký giả nào trong tờ báo Tiếng Chuông đứng ra binh vực tôi. Họ đã không hài lòng khi
ông Đinh Văn Khai thâu nhận tôi thì họ càng vui mừng ngày đối thủ tranh công của họ bị chủ
báo loại ra.
Lúc mới vừa gia nhập Tiếng Chuông, đồng nghiệp đã gọi tôi, người mới hôm qua còn bị họ
chế giễu là Văn Bịa và Vampire, nay thì gọi tôi là ”Ngô Đình Bia”, ác ý xỏ khéo tôi thuộc phe
thân Mỹ Diệm.
Ký giả nào lại không khoái chí thấy một đồng nghiệp tiếng tăm cạnh tranh với mình bị hất
cẳng. Ngay cả một ký giả bạn của tôi, sau nầy nhờ tôi nuôi giùm người vợ tương lai có chửa của
anh ta trong thời gian anh ở tù, cũng chẳng lên tiếng ủng hộ quyền lợi ký giả lúc ấy tôi đang
cần. Tôi đã trả thù bằng cách chơi rất đẹp với anh ta. Chẳng những chứa chấp bồ của anh ta,
mà tôi còn cung cấp tiền cho nàng tiêu xài nữa.
Để phòng ngừa nàng khỏi xiêu lòng vì mua chuộc tiền bạc, khi cho nàng tiền, tôi nói đây là
tiền bồ nàng trước đây có gởi tôi cất giữ, nay tôi trao lại thôi. Tôi không dè cái anh chàng sao
mà khờ khạo lạ. Đúng khờ khạo có hạng mới đã không lên tiếng tranh đấu cho tôi không bị đuổi
ra khỏi Tiếng Chuông. Khờ đến mức nầy. Con bồ chàng đi thăm chàng về, nói với tôi chàng quả
quyết không có gởi tôi cất giữ đồng xu nào cả. Tôi chỉ có nước lánh mặt nàng từ sau đó và giao
cho em gái tôi lo việc giúp nàng, cho nàng mượn tiền mua từng thùng sữa Guigoz nuôi con.
Không được đồng nghiệp làm chung ủng hộ, trái lại ký giả báo khác lên tiếng binh vực tôi.
Một tờ xu hướng Cao Đài sốt sắng đề nghị tôi tham gia, cho tôi dùng làm đất đứng chống lại
bất công.
Ông bạn Thanh Tra Lao Động hơn thiệt với tôi rằng tranh chấp nhau hoài không thể đi đến
chỗ đẹp cho cả đôi bên, người khác lợi dụng, thôi thì tôi nên chấp nhận một số đền bù tượng
trưng. Ông đề nghị mười ngàn. Ông Đinh Văn Khai chấp nhận. Tôi cũng thuận, quyết định khi
đã thấy rõ đến lúc mình phải gác bút chờ thời.
Chánh phủ Ngô Đình Diệm nầy còn tệ hơn các chánh phủ tiền nhiệm ở chỗ coi thường báo
chí, bít miệng tiếng nói của người dân, thì sớm muộn sẽ không tồn tại. Không có tự do báo chí,
không thể trường tồn. Bất cứ chế độ nào. Quốc gia hay Cộng Sản. Các chế độ ở Pháp, Anh, Hoa
Kỳ vững mạnh lâu bền không phải chỉ nhờ binh hùng tướng giỏi hay kỹ thuật cao mà là còn nhờ
ngoài dân trí đã cao còn có một nền báo chí tự do vững mạnh.
Ngay cả trong thời chiến tranh, không phải là không thể có tự do báo chí. Chánh quyền càng
cần nghe tiếng nói của người dân và cần dò theo dư luận để truy ra kẻ nội thù. Nhà báo yêu
nước biết khi nào phải kiềm chế, không nên loan những tin tức nguy hại quốc phòng hay nội
an, can tội phản quốc.
Thật ra, nhà cầm quyền độc tài chỉ muốn bưng bít sự thật, che dấu những lỗi lầm nên rất sợ
báo chí phanh phui hay chỉ trích. Dựa vào lý do an ninh quốc gia mà bịt miệng báo chí, không
hẳn cũng cố được hoài chánh thể đương quyền.
Thời bình mà duy trì chế độ kiểm duyệt báo chí càng để lộ chánh sách độc tài. Sau hơn một
năm chánh phủ Diệm dẹp yên các đảng phái, Miền Nam hưởng được cảnh thái bình an lạc. Cuộc
đua xe đạp toàn quốc tổ chức chạy từ cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải đến Cà Mau năm 1956
chứng tỏ khắp Miền Nam không có chiến tranh.
Ranh giới Bắc Nam tại Bến Hải là điểm khởi hành cuộc đua xe đạp. Từ bên nây bờ sông Bến
Hải ngó qua bên kia, các tay đua cùng đám dân chúng hâm mộ ở Saigon theo ra với đoàn ký
giả, lần đầu tiên thấy được lá cờ đỏ sao vàng thật to phất phơ bên đầu cầu phía Bắc. Anh em
binh sĩ gác đầu cầu phía Nam cho biết lâu nay việc duy nhứt hai bên Nam Bắc đấu tranh với
nhau là cố treo lá cờ phe mình cho to hơn và cao hơn. Mỗi lần Nam quân thay trụ cờ cao hơn
và treo lá cờ vàng ba sọc đỏ lớn hơn cờ bên kia thì hôm sau thấy Bắc quân xây trụ lớn hơn với
lá cờ đỏ sao vàng bự hơn.
Nếu anh em hai phe Nam Bắc cứ tiếp tục tranh đua kiểu hòa bình như vậy, rộng ra trong địa
hạt phát triển kinh tế, lo tranh nhau nâng cao đời sống của đồng bào thì quê hương mình may
mắn biết bao. Máu người Việt đâu có đổ.
Tại cầu biên giới nầy, ký giả Cao Minh Chiếm, cựu chủ bút báo Thần Chung, bị chánh phủ
Miền Nam bắt đưa qua phía bên kia để cảnh cáo những cây viết “thiên Cộng” không nên “ăn
cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản”.
Lúc ấy không mấy ai ở Miền Nam muốn bị đày ra Bắc, nơi mức sống chênh lệch rõ rệt, lại
nghe nói Hoa Kỳ đang quấy phá bằng cách thả ra đó những đoàn biệt kích cảm tử họ đã huấn
luyện tại Miền Nam.
Anh em báo giới tưởng ông Cao Minh Chiếm, nếu không bị Hà Nội làm thịt, ít ra cũng khó
sống vì Cộng Sản làm sao tin được một ký giả được Miền Nam thả cho đi như vậy. Ông lại còn
có một người anh đang làm sĩ quan cao cấp trong quân đội Quốc Gia.
Nhưng Bắc quân đối xử cách khác, chơi trò tuyên truyền ngược lại.
Chỉ ít lâu sau đó, có tin ông Cao Minh Chiếm được đưa qua ở Pháp sống cuộc đời thoải mái.
Lúc du lịch Âu Châu năm 1990 tôi có ghé Pháp, được biết ông Chiếm đang làm chủ một tiệm ăn
tại Nice.
Những năm tháng hòa bình ngắn ngủi cho phóng viên Văn Bia nhàn nhã theo đoàn cua-rơ
(coureur = tay chạy đua) xuyên qua suốt miền Trung. Chặng nghỉ đầu tiên là cố đô Huế, nơi tôi
đã để lại nhiều mơ mộng của tuổi mới lớn lúc còn tu hành, chưa thật sự biết yêu. Lần trở lại
Huế nầy tính mặc sức tự do phá giới.
Có thể nói tất cả những danh lam thắng cảnh của cố đô đã ghi dấu vết chưn của tôi nhiều
lần trong suốt tám năm học tu tại đó. Nhà dòng cho các đệ tử đi chơi hay
cắm trại không sót lăng tẩm xa gần nào. Từ lăng Gia Long đến lăng Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức, Khải Định, Đồng Khánh. Hồ Tịnh Tâm trong Thành Nội, Nam Giao, núi Ngự, núi Ba Đồn,
thôn Vĩ Dạ, Belvédère, v.v… Tôi thích nhứt được ngắm sơn thủy tại Belvédère (đài Ngoạn Mục),
núi non cây cối bao viền dòng sông Hương, sau nầy có tên là Đồi Vọng Cảnh. Xin xem ảnh tôi
có trở lại chụp năm 2004.
Tôi chưa được thưởng thức một thứ trái cấm tôi thèm thuồng là ngủ đò sông Hương với gái
Huế. Lần nầy tôi muốn thực hiện ý đó song nạn mãi dâm bị nghiêm cấm dưới chế độ Tổng
Thống Ngô Đình Diệm kèm theo Luật Gia Đình của bà Ngô Đình Nhu. Hiện ngủ đò chỉ là như đi
mướn phòng ngủ thôi.
Tôi xuống bến gần chợ Đông Ba, leo lên một chiếc đò có một cái mui dài chiếm gần hết ghe
chỉ còn chừa trống hai khoảng hẹp ở hai đầu, mũi và lái. Mui như một mái nhà kín đáo được
chia ra làm hai đoạn, mỗi đầu có cửa chun vô đóng lại. Phần phía sau làm chỗ ở cho chủ ghe,
có vách ngăn cho khách ở phía trước. Một phòng ngủ tí hon, không bàn ghế, không giường, có
trải chiếu hoa. Chủ ghe có thể mở cánh cửa nơi tấm vách ngăn đôi, bước qua phục vụ khách
khi cần.
Nếu ghe rộng đủ chỗ làm hàng ghế ngồi thì gần giống như chiếc ghe hầu phú gia miền Nam
thuở trước thường dùng làm phương tiện di chuyển.
Thấy chủ ghe vui tánh, khi ông mang trà qua đãi tôi, tôi mời ông ngồi lại nói chuyện. Nghe
giọng nói đoán tôi người Nam và sau khi biết tôi là ký giả đi theo đoàn xe đua, ông chuyện vãn
với tôi thật cỡi mở. Tôi than thở với ông là quá tiếc ra đất Thần Kinh mong được thưởng thức
ngủ đò sông Hương đặc biệt mà không có gái. Ông nói Ban Kiểm Tục canh xét dữ lắm, ít ra quá
nửa đêm mới lén “nhảy dù” được.
Cầu Hiền Lương bắc qua dòng sông Bến Hải chỉ dài có 123 mét rưỡi ghi dấu lịch sử đất nước
chia đôi. Quê hương nay được thống nhứt, hai bên đầu cầu không còn ghi dấu hai ngọn cờ đối
nghịch nhau mà chỉ còn quốc kỳ cờ đỏ sao vàng
Đồi Vọng Cảnh ở Huế
Ông chèo ghe ra thả lững lờ giữa dòng sông. Thỉnh thoảng có tiếng hò giọng Huế văng vẳng
xa gần. Dân làm ăn quen nhau trong nghề, hiểu dấu hiệu riêng của họ. Sau khi chiếc ghe chao
đảo một chút, một mái tóc dài ló qua cửa vách ngăn, chào tôi. Ngọn đèn dầu leo lét không đủ
ánh sáng cho tôi nhận định nhan sắc của nàng. Trong hoàn cảnh nầy làm gì có chuyện lựa chọn
như ở khu chị em. Tôi coi như mình xổ số hên xui.
Tuy nhiên, nội cái giọng gái Huế thôi, nghe cũng đủ khoái rồi. Vả lại, “làm ăn” mà nghe nói
phải ở trong trạng thái hồi hộp bất hợp pháp, khiến tôi mất hứng và nghĩ đành phải mất dịp.
Cũng may mắn, cái giọng lạ của nàng ngọt ngào làm sao! Tôi bắt chuyện nói với nàng quên
thôi. Không ngờ cô ta miệng lưỡi không vừa mà tầm hiểu biết sự đời lại tỏ ra rộng lớn cho tôi
dư khai thác nghề nghiệp. Tưởng đã phí một đêm và phí cả tiền, ai dè đêm đó đáng giá vô cùng.
Nhờ lén ngủ đò sông Hương, tôi được thương nữ đất Thần Kinh cho biết dân tình trong một
vài năm vừa qua đã bắt đầu thay đổi không còn thuận lợi cho chế độ Ngô Đình Diệm. Nhớ mới
ngày nào bỏ phiếu lựa chọn giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm, dân Huế đáng lẽ bảo hoàng nhưng
lại hết mình ủng hộ ông Diệm, đả đảo Bảo Đại bằng những cuộc biểu tình chưởi bới cựu hoàng
thậm tệ. Họ nồng nhiệt ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm, vui mừng đón tiếp ông rầm rộ. Mỗi lần
nghe tin ông về Huế, họ nô nức đón chào, tỏ lòng tôn kính bằng cách nhà nhà chưng bày hương
án lư trầm và hình ông trước cửa, ngoài đường. Vậy mà nay mới chưa hai năm, dân Huế nầy lại
bắt đầu ta thán về cụ Diệm. Các phe phái đối lập khai thác.
Tôi còn nghi mình gặp nhằm loại gái Sông Hương dạo nào Tố Hữu mơ cải tạo cho Đảng làm
nàng trong trắng trở lại, đang thi thố tuyên truyền, nên ngày hôm sau tôi đi nghe mgóng thêm
nhiều người khác ở Huế, ngay cả trong giới công chức.
Quả thật, dân chúng bất mãn từ việc tranh giành làm ăn của bà Cả Lễ, chị của ông Diệm,
đến những hành động lộng hành của tay chân bộ hạ Cậu Út Trầu Ngô Đình Cẩn, xem tất cả
những người không đồng đạo (Công Giáo) đồng đảng (Cần Lao) là thù địch. Tôi mới bật ngửa.
Sao dân tình đổi thay mau quá như thế. Nếu có tự do báo chí, nếu tôi viết lên tiếng báo động
được thì chắc chế độ ông Diệm đâu bị đi xuống thê thảm mau lẹ.
Phóng viên Văn Bia, hình đứng chính giữa,
lúc tu nghiệp báo chí năm 1964 tại Kuala Lumpur
Tổng Trưởng Thông Tin Mã Lai Á Enche Senu bin Abdul Rahman
trao cấp bằng tu nghiệp ký giả cho Văn Bia
CHƯƠNG 60
Tôi bị đuổi làm báo cũng do số mạng. Lỗ cho ông Diệm thì có mà lợi cho tôi nhiều. Tục ngữ
Á-rập có câu: ”Quăng người xuống nước, họ trồi lên với con cá trong miệng”. Ông Đinh Văn
Khai đã quăng tôi xuống nước một lần mà tôi trồi lên được hai lượt. Lần nào cũng có con cá to
trong miệng. Lần đầu có nhà thuốc Tây với cơ ngơi vườn trại và gia đình vợ con. Nếu tiếp tục
làm báo, dầu lương cao, tôi cũng sẽ không bao giờ giàu có được, và không thể có vợ con đề
huề khi say mê nghề nghiệp phải rày đây mai đó. Nếu có, vợ con chắc khó được đầy đủ an sinh,
hạnh phúc gia đình.
Lần thứ hai, trồi lên sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, con cá tôi ngậm trong miệng
quá xá bự. Trở lại nghề cầm bút lần nầy, phóng viên Văn Bia được hết gởi đi ngoại quốc tu
nghiệp báo chí, đến xuất ngoại viếng thăm Hoa Kỳ cả tháng, Đài Loan, Nhựt Bổn, Mã Lai, Borneo,
Thái Lan, Phi Luật Tân, v.v.
Trong một cuộc điện đàm với ông chủ cũ Đinh Văn Khai lưu vong tại Canada, tôi có hỏi thăm
cuộc sống hiện tại của ông ra sao. Hỏi luôn ông có cần tôi trả lại mười ngàn đồng ngày xưa
không, bằng Gia kim hay Mỹ kim cũng được. Ông cựu chủ báo sa thải tôi ngày nào, cười khì,
nói lảng qua chuyện Thu Ba là con gái ông, có chồng con, sanh sống thoải mái, tội nghiệp nó
đã chết rồi. Tôi dám tự hào là chắc chắn xin được bàn tay của Thu Ba lúc làm ở Tiếng Chuông,
nếu tôi muốn.
Lúc đó Thu Ba làm thư ký giữ sổ phân phát lương trong tòa soạn, quá hiền với vẻ mặt buồn
muôn thuở có
lẽ vì cha cô đang sống với bà vợ bé là chủ một trường nữ công gần tòa báo. Nội làm con chủ
báo là sáng giá rồi. Không cần đẹp cũng có khối người theo.
Trong số theo cua sát nàng, tôi để ý có anh Thanh Thế, dáng cũng nghiêm nghị chững chạc,
cứ tìm cách nói chuyện với nàng hoài mà nàng làm thinh không trả lời, phải mãi lâu sau mới
chịu chấm mút. Ngược lại, tôi thấy nàng thích tôi rõ rệt. Bằng chứng là tôi không hề bắt chuyện
nói với nàng như mấy anh kia, mà nàng cứ tìm cách làm quen với tôi. Khi thì nàng hỏi ”Sao Văn
Bia không ký bông mượn tiền trước như mấy anh khác?” Lúc thì nàng đề nghị ”Văn Bia có chịu
để Tiếng Chuông trả tiền đổ xăng cho xe hơi Văn Bia không?” Có lần nàng kiếm chuyện chê
chiếc xe hơi của tôi nhỏ như con cóc. Quá chưa.
Trong giới ký giả, tôi sắm xe hơi đầu tiên rồi tới Nguyễn Kiên Giang, trong khi nhiều chủ báo
còn lái Vespa.
Trong những năm cuối cùng của ông Đinh Văn Khai sống ở Montreal (Canada), trước khi ông
chết năm 1999, tôi thường tiếp xúc với ông qua điện thoại. Lần tiếp chuyện nào ông đều hết lời
tỏ lòng mến mộ tôi và mong mỏi tôi thường xuyên liên lạc với ông, nếu không có dịp tới thăm
ông được. Nhờ ông mà tôi được địa chỉ của những đồng nghiệp cũ như Huyền Vũ, Phạm Thăng,
Từ Thành… Tôi hài lòng biết ông, người sa thải tôi, vẫn rất quý mến tôi. Duy có lần tôi cắc cớ,
hay chơi xỏ, hỏi ông tại sao hồi trước ông đuổi tôi. Ông chối bai bải: ”Đâu có chuyện đó, đâu
có chuyện đó.”
Tôi phá ông già trên chín chục tuổi nầy chơi thôi. Hơn ba mươi năm trước đó, tôi đã hỏi câu
tương tợ và
ông đã chối khéo rồi. Sau ngày 2 tháng 11 năm 1963, chế độ Ngô Đình Điệm bị lật đổ, tòa báo
Tiếng Chuông bị dân chúng tràn vào đập phá, làm hư máy in phải ngưng hoạt động. Tôi có đến
thăm ông Đinh văn Khai, tươi cười hỏi ông chuyện đuổi tôi ngày xưa. Ông cười trừ với lời mời
tôi trở lại cộng tác với Tiếng Chuông. Tôi trả lời là rất tiếc ông đã mời trễ. Tôi đã nhận lời ông
Cao Minh Chiếm làm tờ Tân Văn Nhựt Báo vừa xin được manchette (tiêu đề của tờ báo và là
giấy phép được ra báo).
Làm được mấy số, viết được mấy bài giựt gân thì báo nầy bị rút giấy phép. Anh Hồ Văn Đồng
đón tôi vô làm tờ Quyết Tiến của anh liền, rồi tờ Việt Nam Báo của ông Nguyễn Tấn Đời, nên
ông Khai cũng không có cơ hội mướn lại tôi, trong sự vui mừng của các bạn đồng nghiệp của
tôi trong Tiếng Chuông. Tôi biết chắc vậy.
Ở chế độ nào và ở thời buổi nào tại Việt Nam, báo chí cũng chỉ được tự do có một chiều. Cây
viết Văn Bia coi vậy chớ kén đất dụng võ, nên thường gác bút, sống nghề thương gia nhiều hơn.
Lúc nào làm báo được, thật ra làm để hưởng lợi cũng có, thường nhứt là được du lịch ngoại
quốc. Sau thời Ngô Đình Diệm, tôi bắt đầu xuất ngoại trở lại thường xuyên như đi chợ. Đây là
lời ví của Công An mỗi khi cấp giấy tờ cho tôi đi ngoại quốc.
CHƯƠNG 61
Để bạn đọc có một khái niệm tổng quát về quốc hiệu, quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam đã
liên tục thay đổi mấy lượt trong khoảng thời gian tôi làm báo kể lại trong Hồi Ký nầy, từ giai
đoạn thành lập chánh phủ Nam Kỳ Tự Trị năm 1945 cho đến ngày nay, tôi xin lược thuật, không
có tánh cách tham khảo tài liệu hoặc sách vở.
Về quốc hiệu
Chánh thức, ở miền Nam không có quốc hiệu. Chánh phủ đầu tiên do Pháp lập ra sau khi tái
chiếm Nam Kỳ, được Cao ủy d’Argenlieu đặt là Cộng Hòa Nam Kỳ (République de Cochinchine)
nặc mùi thuộc địa và chia rẽ. Do phe phân ly khởi xướng nên cũng được gọi là chánh phủ Phân
Ly, Nam Kỳ Tự Trị, hay Nam Kỳ Quốc.
Đầu năm 1949, Cao Ủy Pháp Bollaert dụ dỗ Bảo Đại đang lưu vong ở Hồng Kông về, đặt ông
lại trên ngai vàng. Bảo Đại chịu nhận làm Quốc Trưởng mới được lãnh tiền trợ cấp chánh thức
đều đặn. Ông về nước ở ít tháng rồi qua Pháp tá túc, từ bên đó ” điều khiển ” chánh phủ con
rối của ông. Để cho ngôn chánh danh thuận chút đỉnh, Cao Ủy Bollaert buộc lòng khai tử Cộng
Hòa Nam Kỳ sau khi đã ký kết với Bảo Đại Thỏa Ước Điện Elysée (Paris) vào tháng Ba năm 1949.
Quốc hiệu mới là Quốc Gia Việt Nam. Chánh phủ nầy thường được nhắc tới là chánh phủ Miền
Nam vì đã quá rõ rệt chánh quyền chỉ có mặt ở miền Nam.
Quốc hiệu Việt Nam Cộng Hòa do chánh quyền Ngô Đình Diệm đặt ra sau khi loại hẳn được
Pháp và truất phế Bảo Đại, lập chế độ Cộng Hòa thay thế chế độ Quân Chủ Lập Hiến.
Dương Văn Minh hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cướp quyền, tiếp tục dùng quốc hiệu
Việt Nam Cộng Hòa thêm chữ Đệ Nhị và gọi chánh phủ tiền nhiệm là Đệ Nhứt.
Ở miền Bắc vẫn giữ quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ ngày đầu thành lập năm 1945,
tới ngày thống nhứt toàn quốc năm 1975 đặt lại tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, không còn giấu giếm đây là một nước Cộng Sản.
Cuộc nội chiến ở Việt Nam chánh thức chấm dứt ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Bắc và
miền Nam thống nhứt thành một nước, nhưng phe bại trận Quốc Gia gồm có hằng triệu quân
dân lưu vong ở hải ngoại tiếp tục cuộc chống đối sự áp đặt chế độ Cộng Sản trên đất nước.
Về quốc kỳ
Chánh phủ Phân Ly Nam Kỳ Quốc dùng lá cờ vàng đối lại lá cờ đỏ của Việt Minh. Trước đó,
Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong, một đoàn thể yêu nước, cũng dùng cờ hiệu màu vàng chính
giữa có ngôi sao đỏ, ngược với lá cờ đỏ sao vàng.
Chính giữa lá cờ vàng của Phân Ly có ba sọc xanh nằm dọc chính giữa, chia cách nhau bởi
hai sọc trắng. Khi lá cờ phất phới, ba sọc xanh giống như một con rồng xanh đang lượn. Có
người châm biếm đây là hình cõng rắn cắn gà vàng nhà Việt Nam, nên dưới chánh phủ Nguyễn
Văn Xuân, ông Tổng Trưởng Thông Tin Trần Văn Ân ra chỉ thị cho ký giả Nguyễn Kiên Giang,
đệ tử của ông, làm một lá cờ Quốc Gia, đổi ba sọc xanh và hai sọc trắng thành một vẹt đỏ chạy
nằm ngang chính giữa, thành cờ có ba phần đều nhau. Trên và dưới màu vàng, giữa màu đỏ.
Ông Trần Văn Ân có giải thích màu vàng là màu Miền Nam, màu lúa chín, còn đỏ vàng là Hỏa
Thổ, biểu hiệu tiến lên lập trường dân tộc Việt. Cờ nầy tượng trưng cho chánh phủ Miền Nam
cho nên vẫn còn đượm màu sắc phân ly.
Hình như Nguyễn Kiên Giang đã phỏng theo cờ LONG TINH đã có từ năm 1926, đời vua
Khải Định. Cờ nầy có một sọc đỏ lớn nằm ngang ở giữa và hai sọc vàng nhỏ nằm ngang ở trên
và ở dưới sọc đỏ. Cờ Long Tinh là cờ biểu hiệu của nhà vua. Quốc hiệu Đại Nam mà Pháp gọi
là An Nam còn người Việt thì Pháp gọi là Annamite, do đó người Việt mình bị mang tục danh
dân Mít. Đến tháng 5 năm 1945, chánh phủ Trần Trọng Kim công bố đổi quốc hiệu thành Đế
Quốc Việt Nam và dùng cờ Quẻ Ly thay thế cờ Long Tinh
Khi Thực Dân Pháp khởi dùng lá bài Quốc Trưởng Bảo Đại vào tháng 6 năm 1948, lá cờ vàng
ba sọc đỏ của miền Nam mới bắt đầu được xuất hiện bằng một chỉ dụ nhận làm quốc kỳ cho
quốc gia Việt Nam. Nghĩa là lá cờ nầy đã có từ lúc Pháp còn cai trị Việt Nam. Ông Thủ Tướng
Nguyễn Văn Xuân của Nam Kỳ Quốc biến thành Thủ Tướng đầu tiên của một chế độ quân chủ
lập hiến thật sự còn rất mập mờ. Gốc gác cờ vàng ba sọc đỏ do từ cờ Quẻ LY mà ra.
Cờ Quẻ LY (quẻ trong Kinh Dịch) được hoàng đế Bảo Đại chọn làm quốc kỳ ngày 2-6-1945
sau khi tuyên bố độc lập gần ba tháng, là cờ vàng có ba sọc đỏ ngang đều nhau, sọc đỏ chính
giữa đứt đoạn ở trung tâm Xin chú ý, ba sọc đỏ ngang của cờ Quẻ Ly không chiếm trọn lá cờ,
mà có khoảng trống ở hai đầu và đuôi
Đổi thể chế chút ít, cờ Quẻ LY cần sửa lại chút đỉnh cho chế độ quân chủ lập hiến. Sọc chính
giữa bị đứt khúc đó được nối liền lại với nhau thành cả ba sọc đỏ đều liên tục và đều kéo dài
lấp khoảng trống ở hai đầu và đuôi, được khai sanh trong thời còn Pháp thuộc và trở nên quốc
kỳ của Việt Nam Cộng Hòa tồn tại đến ngày Miền Nam sụp đổ.
Đa số dân lưu vong còn nuôi mộng phục hồi chế độ quốc gia, vẫn coi đó là quốc kỳ. Ba sọc
đỏ tượng trưng cho ba miền Trung, Nam, Bắc.
Cờ đỏ sao vàng, quốc kỳ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc từ ngày giành lại nền
độc lập từ tay Nhựt và Pháp năm 1945, đến nay vẫn là quốc kỳ của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam được quốc tế công nhận, nguyên thủy là cờ đảng của Cộng Sản Việt Nam hay Đông
Dương. (Cờ đảng Cộng Sản quốc tế là cờ đỏ mang dấu búa liềm màu vàng trên góc bên trái.)
Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm được chánh quyền, dùng cờ đảng làm cờ nước.
Hiện nay nhà nước Việt Nam phân biệt quốc kỳ và cờ đảng tách riêng ra khác nhau. Cờ đỏ
sao vàng là quốc kỳ còn cờ đảng là cờ đỏ mang dấu hiệu búa liềm của đảng Cộng Sản quốc tế.
Tại những trụ sở nhà nước và có khi ngay cả ở nhà tư nhân được treo hai lá cờ đỏ sao vàng và
cờ đỏ búa liềm song song kế bên nhau. Hiện tượng nầy làm mát dịu phần nào lòng những người
Việt Nam yêu nước song không yêu đảng Cộng Sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đáng yêu lá
quốc kỳ cờ đỏ sao vàng không còn phải là cờ đảng.
Về quốc ca
Khi Pháp trở lại Việt Nam sau Đệ Nhị Thế Chiến thì nước ta đã có bản quốc ca là Đăng Đàn
Cung, được hoàng đế Bảo Đại công bố ngày 2-6-1945, một lượt với quốc kỳ là cờ quẻ Ly. Thực
Dân Pháp không công nhận quốc kỳ quốc ca nào của Việt Nam khi đã quyết định lập một nước
Nam Kỳ riêng biệt, nên đã có tạo ra một quốc kỳ mới.
Việc chánh phủ bù nhìn của Pháp chọn quốc ca mới càng tức cười hơn. Ai chơi cắc cớ bày
cho dùng lời ca là câu thơ bắt đầu trong Chinh Phụ Ngâm: ” Thuở trời đất nổi cơn gió bụi ” rồi
ai đó đem phổ nhạc.
Không ai muốn hát, chỉ có ban nhạc trỗi lên trong mấy dịp lễ nên không mấy người biết nhạc
điệu ra sao. Tôi nhớ mang máng là nghe buồn thê lương, thê thảm như cái chánh phủ bù nhìn
do Pháp đẻ ra, vì vậy chết non là phải.
Nghe bi đát quá, ai đó mới đề nghị dùng một bài ca cho giựt gân. Bài ”Tiếng Gọi Sinh Viên”
đầu tiên bằng tiếng Pháp là Marche des Étudiants (Sinh Viên Hành Khúc) của Lưu Hữu Phước,
được chọn. ”Này Sinh Viên ơi! Đứng lên đáp lời Sông Núi! ” Chữ ”sinh viên” được đổi ra
thành ”anh em”, một thời gian sau đổi lần nữa thành ”công dân” cho đến ngày nay.
Xin xem ở phần Phụ Bản cuối Hồi Ký nầy toàn văn bản nhạc nguyên khởi bằng tiếng Pháp
lẫn tiếng Việt và sửa đổi thành quốc ca Miền Nam. Cả hai bài Pháp Việt mãnh liệt thúc đẩy sinh
viên nồng nàn yêu nước. Lưu Hữu Phước là một sinh viên nhiệt tình ái quốc, trước học trường
Petrus Ký cùng một thời gian với tôi, đã bỏ đi Khu từ ngày đầu Kháng Chiến.
Ngoài Bắc, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ ngày đầu thành lập năm 1945 và nay
là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dùng quốc thiều là bài Tiến Quân Ca của Văn Cao sáng
tác cho đội quân Cách Mạng (Việt Minh) vào tháng 11 năm 1944, gần một năm trước khi cướp
được chánh quyền giành lại nền độc lập ”Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc ‘
CHƯƠNG 62
Chấm dứt Hồi Ký nầy, tôi còn nợ bạn đọc hai loạt bài thuật chuyện vượt biên và du lịch ngoại
quốc tôi có hứa. Một chuyện rời bỏ quê hương quá đau đớn, trên biển còn phải chứng kiến tám
lần hải tặc cướp ghe hãm hiếp phụ nữ và con gái mới 11, 12 tuổi trước mắt chồng và cha mẹ.
Chuyện nữa, trái ngược hẳn lại, mà cũng không có lạc thú tình yêu thật sự, chỉ toàn hưởng sung
sướng nhục dục Nhứt Dạ Đế Vương ở Đài Loan, hương lạ Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Thái Lan, và
địa đàng Mỹ quốc năm 1965.
Đến đoạn cuối Hồi Ký nầy, tôi đâm nghĩ cả hai chuyện trên đều cần phải bỏ vào lãng quên.
Không nên ghi lại. Con người của tôi chỉ muốn yêu và thương xuất phát từ trái tim, nên xin được
bù đáp bằng hai bài thơ trích từ tập NGÀN DẶM TƯƠNG TƯ của tôi đã đăng trên hai tạp chí Văn
Nghệ Tiền Phong và Phụ Nữ Diễn Đàn.
Nụ Hôn Mười Năm
(Khi nhận được bức ảnh nàng sau 10 năm xa cách)
Cho anh đặt một nụ hôn nồng
Lên môi tình tứ anh hằng trông
Chiếc hôn này nối liền hôn trước
Dài đến mười năm em nhớ không ?
Ngày anh từ giã để ra đi
Nụ hôn trao tiễn lúc chia ly
Kéo dài mình muốn như vô tận
Dài đã mười năm có thấm chi.
Anh mang dư vị mãi theo mình
Trên đường lưu lạc được dưỡng sinh
Nụ hôn theo chuỗi dài nhung nhớ
Liều thuốc tương tư giữ cuộc tình.
Tin một lòng chân thật thiết tha
Người đi lưu xứ, kẻ quê nhà
Nghìn trùng xa cách đôi bờ bến
Nụ hôn này khắng khít đôi ta.
Nửa vòng trái đất cách ngăn ranh
Ngày đêm thương nhớ cứ vòng quanh
Lúc anh thức giấc em đang ngủ
Anh nhớ về em, em mộng anh.
Khi em dậy sáng, anh vào đêm
Như hình theo bóng sát kề bên
Trời cay nghiệt bắt luôn săn đuổi
Chỉ còn trong mộng được hôn em.
Dai dẳng trong trò cút bắt nhau
Tình chưa phai lợt, tóc thay màu
Mười năm hôn ấy: cầu Ô Thước
Vẫn nối đôi mình, cách biệt đâu ?
Đôi môi trên ảnh đón trông kìa
Nụ hôn này nối tiếp hôn kia
Ngất ngây vun đấp ngôi tình ái
Nụ hôn mười năm của cách chia.
oOo
Trong Ngôi Giáo Đường
Hai dãy hàng ghế trong ngôi giáo đường
Chia đôi tín hữu, chia cả người thương
Từ thuở ấu thơ, kinh còn chưa thuộc
Phải tách quỳ mỗi bên ảnh Cứu Chuộc
Chúa rẽ phân mình, em hữu tả anh.
Từ hàng ghế đầu, năm tháng qua nhanh
Đẩy mình xuống lần ngang hàng ghế giữa
Tóc em đã dài, tình đầu bốc lửa
Anh nhìn ngang hơn nhìn thẳng bàn thờ:
Ngang anh có thiên thần đẹp như mơ
Không sốt sắng vẫn vì em đi lễ
Chúa Nhựt nào trông qua bên hàng ghế
Thấy vắng em, anh thấy mất thiên đường.
Rồi Chúa thương tình hai kẻ yêu đương
Cho anh dắt thiên thần lên cung thánh
Nhẫn cưới trao nhau, ghế quỳ bên cạnh
Ước cuộc đời cứ thế mãi song đôi.
Hôn lễ tan, dòng giữa trở về ngồi.
Thời gian chưa kịp dần dà xua đuổi
Đôi ta xuống tận nơi hàng ghế cuối
Anh đã đưa em trở lại trước bàn thờ
Trong nước mắt, trong thần trí đần ngơ
Sao em ẩn trong quan tài lạnh lẽo
Để mình anh đứng cô đơn teo héo
Bơ vơ lạc lõng giữa chốn thánh đường
Rồi đây trong tuổi đông giá phong sương
Chịu sao nổi suốt quãng đời còn lại !
Lúc xem lễ vẫn quen nhìn bên trái
Mắt đã lờ, được thấy em trong mây
Và anh mơ, mơ được sớm đến ngày
Gặp lại em khi rời hàng ghế chót.
Phần IV
Đoạn cuối
Đời Một Phóng Viên
oOo
CHƯƠNG 63
Đoạn cuối đời của Một Phóng Viên là những ngày tôi còn sống hiện nay khi vào lứa tuổi cổ
lai hi đã nhiều năm rồi mà vẫn còn đang liên hệ chặt chẽ hằng ngày với ngành báo chí truyền
thông qua diễn đàn điện tử VUI CƯỜI trên Liên Mạng tôi trông nom hơn sáu năm nay, từ lúc
tôi chưa hưu trí nghỉ làm việc cho Bộ Y Tế Tâm Thần Hoa Kỳ.
Gần như là một hợp tác xã của người viết điện thư (email), diễn đàn VUI CƯỜI có tầm hoạt
động rộng lớn hơn một tờ báo. Tuy chỉ gồm có một danh sách những địa chỉ gởi và nhận thông
tin thường xuyên, mỗi thành viên trong đó đều như là ký giả của tờ báo, có thể đưa lên đăng
hình ảnh, bài vở, ý kiến của mình ngoài việc nhận và đọc được của tất cả các thành viên khác.
Mức phổ biến nhanh chóng và bao quát minh mông, một tờ báo thường không thế nào sánh
kịp. Tin tức hay hình ảnh phóng lên VC (VUI CƯỜI) trong Liên Mạng (Internet), vài giây đồng
hồ sau là khắp nơi trên thế giới nhận được cùng một lúc. Đây là một phương tiện rất hữu ích
cho mọi người trao đổi ý kiến, thăm dò dư luận, và tìm hiểu hay giúp đỡ nhau về bất cứ vấn đề
gì.
Vì là một công cụ lợi hại, nhiều người lợi dụng để tuyên truyền cho phe phái hoặc bôi xấu cá
nhân, thành viên đấm đá cấu xé lăng mạ nhau, nếu điều hợp viên là chủ diễn đàn không khéo
léo lèo lái thì thất bại lia chia đưa đến tan rã là chuyện thường xảy ra. Thành viên VUI CƯỜI
nhờ giữ nguyên tắc biết tự trọng và tương kính mà suốt trong nhiều năm qua chưa vướng phải
điều gì trầm trọng đáng tiếc.
Tôi lập ra Vui Cười gọi gọn là VC, hai chữ tắt cho Vui Cười và cũng là hai chữ đầu của các
cụm từ Vui Chung, Văn Chương, Vô Chủ, ý nghĩa đều bao gồm đường lối và mục tiêu của Vui
Cười, là cùng nhau vui chung văn chương và không ai làm chủ. Địa chi:
[email protected]. Đó là nơi quy tụ những người quen biết hay không quen biết nhau,
có gồm cả những cơ quan ngôn luận báo chí, những hội đoàn tôn giáo ở khắp nơi trên thế giới,
từ Á sang Âu và Úc Đại Lợi, mục đích trước hết để vui cười giải trí, quá cần thiết cho những
người xa xứ chồng chất lo âu mọi điều, chớ không chút gì có ý nghĩ chánh trị hay tuyên truyền
đảng phái..
Giúp ngành y tế 13 năm, đặc biệt ngành tâm thần và làm thông dịch cho bao nhiêu bịnh
nhân người Việt, tôi có dịp chứng kiến quá nhiều người Việt sa sút tinh thần nhiều khi đến mức
khủng hoảng. Giới trí thức càng lâm bịnh tâm thần nhiều hơn. Đừng lấy làm ngạc nhiên tại sao
có quá đông Việt kiều làm thi sĩ bất thường. Đó là họ nghêu ngao như ứng khẩu thành thơ lúc
lên đồng. Chính bản thân tôi cả đời ở Việt Nam gần như không làm được bài thơ nào. Mãi khi
qua Mỹ, sau mấy năm ly hương tôi mới đôi chút hồn thơ lai láng như bạn đọc đã thấy có đăng
một mớ bài thơ trong Hồi Ký nầy.
Tôi từng chứng kiến nỗi khổ tâm của nhiều người đàn ông bị bịnh bất lực trong khi vợ họ,
trái lại, thường sung sức hơn. Sau liên tiếp những cuộc khủng hoảng tinh thần, hết mất sự
nghiệp tài sản tại quê nhà, đến phải chứng kiến cảnh hải tặc, rồi còn lo âu trước tương lai tăm
tối nơi xứ lạ quê người, người chủ gia đình là đàn ông thường vương lấy thứ bịnh rất e ngại nói
ra. Người vợ thiếu tâm lý càng làm gia tăng cơn khủng hoảng nhất thời ấy. Có người vợ thẳng
thừng thúc chồng khai bịnh bất lực nếu không bà ta sẽ bỏ.
Từ chỗ lập ra VUI CƯỜI để cùng nhau khuây khoả tâm thần, tôi không dè khi phải thường
xuyên đối đáp, giàn xếp, tranh luận và thông tin, tôi đã trở lại nghề cầm viết hồi nào không hay.
Để hằng ngày trang VC không trống trải vắng vẻ, tôi dùng trí nhớ khởi sự viết bút ký đăng
lên VC trên Liên Mạng, hồi tưởng những ngày chung sống với chí sĩ Ngô Đình Diệm, kế đến
những mẩu chuyện về cuộc đời làm báo của tôi.
Anh em khuyên in ra thành sách. Tôi tưởng sẽ thật sự được dưỡng lão sau khi xuất bản Hồi
Ký nầy. Sự thật thì trái ngược hẳn lại vì máu phóng viên đã nhiều năm nguội lạnh trong người
tôi, bỗng nổi lên sôi sục mạnh thêm theo tuổi tác già giặn. Khi say mê tìm tòi tài liệu để bổ túc
cho cuốn Hồi Ký tái bản nầy được hoàn chỉnh, xứng đáng làm một tác phẩm để đời, tôi không
ngờ đoạn cuối của đời phóng viên của tôi lại hoạt động tích cực, nhanh nhẹn linh hoạt, năng nổ
còn hơn trong thời gian đời một phóng viên hồi tuổi trẻ của tôi.
Một phần vì đời một phóng viên về chiều hiện nay đang vùng vẫy trong một thế giới tự do
đầy dẫy những phương tiện và tiện nghi tân tiến mà thời ra nghề trước kia của tôi không có
được. Phần khác, bù vào sự thiệt thòi ít nhiều về sức khỏe sa sút, tôi lại thâu thập được thêm
nhiều kinh nghiệm mới trong khoa học kỹ thuật hiện đại nhờ làm chuyên viên nghiên cứu phân
tích (research analyst) cho chánh phủ Hoa Kỳ, sử dụng nhu liệu Excel và Access, giúp tôi viết
được Đoạn Cuối Đời Một Phóng Viên nầy.
Chuyện viết ra chính xác đã đành, số liệu càng cần nắm vững được theo tiêu chuẩn khoa
học. Điểm sai xê xích thường chấp nhận được là +/ -5%. Tôi dè dặt nghĩ số liệu tôi đưa ra sẽ
lệch tối đa đến +/ -10%. Như vậy, khi công bố kết quả cuộc thăm dò dư luận trong Việt kiều ở
Mỹ về tỷ lệ thầm lặng và ồn ào đối với một vấn đề gì, nếu là 80% thầm lặng và 20% ồn ào thì
con số chính xác có thể là từ 70% đến 90% thầm lặng và 30% đến 10% ồn ào. Sở dĩ tôi chọn
mức chính xác xê dịch nhiều hơn vì nhận thấy xác suất (probability) Mỹ đưa ra thường không
thực tế. Tôi xin giải thích bằng lối trình bày cách tôi ước tính và cách tôi mở cuộc điều tra phỏng
vấn, toàn tình cờ (at random) nhưng tối đa đầy đủ các giới, từ bình dân đến đại trí thức, từ cựu
binh nhì đến cựu tướng lãnh tôi gặp được trên 20 ngàn dặm đi vòng quanh và xuyên ngang dọc
nước Mỹ nhiều lần mới vừa rồi.
Liên tiếp trong hơn hai mươi năm trước, sống trên đất Mỹ, vào mỗi mùa nghỉ Hè, tôi lái xe 5,
7 ngàn dặm dọc ngang nước Mỹ và Canada. Những lần ấy đi xe nhà, việc tiếp xúc với đồng bào
Việt kiều hầu như không có, ngoài hiếm hoi lần tình cờ gặp trong quán ăn hay chợ búa. Vừa rồi,
tôi dùng phương tiện công cộng, đi toàn xe lửa, xe đò, và đến mỗi thành phố thì dùng xe buýt
địa phương cho cơ may đi chung xe với đồng bào Việt kiều xảy đến thật nhiều. Quả thật, số
người Việt tôi được tiếp xúc trên xe buýt và xe điện ngầm, đông đảo không thua gì nơi chợ búa
hay nhà thờ và chùa chiền.
Những nơi khác mà tôi tiếp xúc được đủ mọi tầng lớp Việt kiều, còn là các bến xe, tiệm ăn,
quán cà phê, khiêu vũ trường, phố buôn bán (mall), công viên, chung cư, tư gia, trường đại học,
các sòng bạc rải rác từ Las Vergas, Reno, New Orleans, Atlantic đến Connecticut, và các cuộc
họp mặt cộng đồng trong các dịp lễ lạt.
Được trở về thăm quê hương ba lần, hai lần đầu tôi dùng toàn phương tiện công cộng xe đò,
xe lửa và xe hơi. Lần thứ ba tôi dùng xe mô tô thường hơn để tiện việc ngừng lại bất cứ nơi nào
và nán lại bao lâu cũng được ở nơi nào tôi thấy cần để chờ chực chụp hình và thâu lượm tin tức.