Đời chánh trị của ông Nguyễn Ngọc Thơ mang một vết đen nên phải dứt ngang, nếu không,
đã có thể thay thế được Tổng Thống Diệm lâu dài sau cuộc đảo chánh. Có lẽ vì quá nể nang,
ông đã hành xử không quân tử trong vụ bắt giết tướng Ba Cụt (Lê Quang Vinh), lãnh tụ Hòa
Hảo chống đối. Ông Ngô Đình Diệm cũng không tránh khỏi mang tiếng về vụ nầy, phải lãnh
chịu trách nhiệm về hành động đốn mạt của bọn dưới quyền ông, cho dầu ông có bị bộ hạ che
giấu ông như họ quen thói làm. Tuy vậy, không vì thế mà quy tội ông Diệm nhằm tiêu diệt một
tôn giáo đang thịnh hành ở Miền Tây. Phải phân biệt giáo phái Hòa Hảo với lực lượng võ trang
Hòa Hảo chống đối chánh quyền.
Sự quyết tâm của chánh phủ Ngô Đình Diệm thanh toán bè phái Hòa Hảo cũng như Bình
Xuyên và Cao Đài, hay bất cứ đảng phái nào khác, đều đã được cưu mang trước khi ông Diệm
nắm chánh quyền. Từ lúc ông ôm ấp mộng tái diễn công trình của vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan 12
sứ quân thống nhứt đất nước, ông Diệm đã quyết không chấp nhận tình trạng lãnh chúa thống
trị từng vùng theo mưu kế chia để trị của Thực Dân Pháp.
Đạo Hòa Hảo
Sau những lần đi làm phóng sự ở các tỉnh Miền Tây trở về đô thành, bạn bè hỏi tôi thấy
người Hòa Hảo ra sao, họ có ăn thịt người không? Thêm thành ngữ “tin như tin Hòa Hảo” được
thông dụng khắp nơi. Báo chí thời đó gần như không dám đá động gì tới hành động nào của
Hòa Hảo, sau khi ông Trần Tấn Quốc chủ báo Tiếng Dội một lần thoát chết khi bị Hòa Hảo tấn
công ngay tại tòa soạn.
Người dân quê Miền Tây hiền hòa như ở bất cứ nơi nào khác, một lòng chuộng an cư lạc
nghiệp. Có một người nổi bật trong vùng Hòa Hảo, vừa sáng suốt vừa đức hạnh, nêu cao giáo
lý nhà Phật, dân địa phương ùn ùn tôn phò làm người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Vị giáo
chủ chính là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ có tài nói ra thơ và như là lời sấm. Số tín đồ gia nhập kỷ
lục trong một thời gian kỷ lục. Ông Huỳnh Phú Sổ mất vào đầu năm 1946, xác bị thủ tiêu tại
kinh Đốc Vàng, lúc Hòa Hảo còn là một lực lượng chống Pháp. Đạo Hòa Hảo tiếp tục phát triển
mạnh.
Trong số những người gia nhập có những tay anh chị hăng hái hoạt động, nhoi lên cấp lãnh
đạo, như Năm Lửa, Hai Ngoán, Ba Cụt. Kế đến tôn giáo mới nầy gồm nhiều phe phái có khi
chống đối nhau và bị chánh quyền Pháp ảnh hưởng nhuộm màu sắc chánh trị và quân sự.
Ông Năm Lửa được biết đến nhiều nhứt, tên thật là Trần Văn Soái chiếm giữ vùng Cần Thơ
ngay tại ngưỡng cửa Miền Tây. Khi phái đoàn báo chí từ Saigon được mời xuống viếng thăm lần
đầu tiên, ông Thành Nam làm Trưởng Ban Báo Chí cho ông Năm Lửa, tiếp đón chúng tôi tại
Tổng Hành Dinh ở gần bến phà Cần Thơ, trấn an chúng tôi. Ở Saigon nghe ngán Hòa Hảo với
cái tên Năm Lửa vốn là một tay anh chị đứng bến xe đò, song tôi không nghe dân địa phương
ta thán gì về ông.
Hiện tại nhà trường Lập Nhơn do ông xây cất, có lộng hình tượng ông. Cũng ở sát sông Hậu,
tại quận Bình Minh, ông còn lập một ngôi chợ đồ sộ với công trường có xây cổng lớn, gọi là Chợ
Bà.
Cựu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có cho tôi biết ông Năm Lửa đã chi tiền cho ông Ngô
Đình Diệm đi Hương Cảng năm 1946 gặp cựu hoàng Bảo Đại.
Tuy nhiên, dân Miền Tây khổ sở rất nhiều vì Hòa Hảo do những phe phái, có khi là chánh
hiệu đảng cướp như đảng Cua Vàng, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo nầy. Huỳnh Trung Hiếu, con
nuôi của Huỳnh Công Cứng tung hoành vùng Hòa Hảo, An Giang, Tân Châu, Châu Đốc, Kiến An,
đến năm 1964, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chiêu dụ phong cho chức Trung Tá. Một mình
ông nầy làm chủ bốn cái biệt thự tại xã Hưng Nhân và có tới chín bà vợ ở chung một nhà.
Dân quê muốn yên thân phải cam chịu bị bóc lột triền miên. Giữa sân trước mỗi nhà có bàn
Thiên là nơi bọn cướp lẻn về ban đêm, đặt giấy bắt buộc nạp tiền, nếu không, người nhà bị bắt
cóc đòi chuộc cao.
Tướng Ba Cụt, tên thật Lê Quang Vinh, làm chủ miệt Thất Sơn, vùng quê Châu Đốc. Còn
hùng cứ tỉnh Long Xuyên và thành thị Châu Đốc có Lâm Thành Nguyên, hổn danh Hai Ngoán,
chuyên làm chủ ổ xổ đề khắp các chợ quận Châu Đốc.
Cảnh đón đường mãi lộ diễn ra rất quen mắt dọc theo các chặng đường, dưới hình thức các
cổng gác có những “thùng Phước Thiện” đặt sẳn kế một bên. Xe cộ đi qua phải cúng tiền vô đó.
Lưa thưa số trí thức Hòa Hảo đều được làm lớn trong chánh phủ Miền Nam cho tới ngày
thống nhứt đất nước 30/4/1975. Đầu tiên, ông Huỳnh Thanh Niệm được làm Bộ Trưởng trong
những ngày đầu của chánh phủ Ngô Đình Diệm. Đến Đệ Nhị Cộng Hòa, ông Lê Quang Liêm gốc
bưng biền, làm dân biểu và ông Lê Phước Sang làm nghị sĩ kiêm viện trưởng Viện Đại Học Hòa
Hảo. Hai ông nầy không thuận thảo với nhau. Có lần ông Sang bị phục kích suýt bỏ mạng tại
nhà ở đường Nguyễn Trải trên khoảng Ô Môn.
Đạo Hòa Hảo và Cao Đài thường bị bè cánh chánh trị thao tác và hay dùng quân sự hơn giáo
lý làm lực lượng. Tại quê hương, chỉ có Miền Nam Việt Nam là cái nôi của tất cả các tôn giáo
mới ra mắt trong thế kỷ 20, trong khi ngoài Bắc là nơi khai sinh hầu hết các đảng phái ở Việt
Nam. Lý do xuất phát giống nhau của đảng và đạo nằm chung trong nguồn gốc chánh trị nhằm
thay đổi cơ chế hiện hành.
Đạo dùng hình thức che giấu khéo léo, núp dưới sự thiêng liêng tín ngưỡng, còn đảng áp
dụng lối hoạt động bí mật và dựa vào tình yêu nước và chí khí mà lấy lòng dân. Có thụ động
hay chủ động đều có sự bắt bớ và ép buộc mà được coi là tự nguyện, và luôn luôn hàng lãnh
đạo / cán bộ hưởng phần lợi để luôn luôn dân đen chịu nạn, có lắm là lượm được chút cơm rơi
rớt, với danh tiếng chịu tử vì đạo hay làm anh hùng liệt sĩ.
Đạo Cao Đài
Một tôn giáo mới nữa, quan trọng hàng nhì ở Việt Nam là đạo Cao Đài, được tổ chức kiểm
soát chặt chẽ hơn Hòa Hảo nhiều và văn hóa có trình độ cùng tư cách đứng đắn của tín hữu
càng dễ thâu cảm tình hơn. Trong hàng chức sắc còn có giới trí thức đáng kính trọng như ông
Tòa Phan Văn Thiết và học giả Hồ Hữu Tường.
Hình ảnh Cao Đài đầu tiên đập vào mắt tôi lúc tôi mới lên bốn năm tuổi, thấy một nhóm
người mặc áo dài trắng rộng thùng thình đầu đội nón chóp lạ hơn mọi người khác, đi ngoài
đường bị trẻ nít cùng lứa tuổi tôi chọc ghẹo đồng dao:
Cao Đài Thượng Đế
Mắc kế ông Hội Đồng Trung.
Ba tôi nạt la, còn mời mấy người ăn bận khác thường ấy vào nhà, nghe họ giảng đạo. Tín đồ
Cao Đài rất sốt sắng truyền bá một tôn giáo nghe hợp lý, đặt trên căn bản mọi tôn giáo đều có
cùng một nguyên lý. Từ đạo Do Thái đến đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Khổng, đạo
Lão đều do một nguồn gốc Thượng Đế. Tiêu biểu bằng một con mắt thần thông và dùng bệ cao
(Cao Đài) là nơi Tiên Phật thường nhóm đại hội, làm danh xưng gọi là đấng Chí Tôn.
Đạo Cao Đài được hình thành trong thập niên 1920. Khởi đầu có vài người thích cầu cơ tiếp
xúc với giới khuất mặt, trước tiên là những thân nhân quá vãng rồi tình cờ được tiếp xúc với
những Thần Thánh mà đạo Cao Đài đã nhận ba vị, là nhà cách mạng Trung Hoa Tôn Dật Tiên,
nhà đại văn hào Pháp Victor Hugo và ông Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dùng lối cầu cơ đàm
luận thơ văn với các bậc ấy. Sau còn tiếp nhận thẳng lời sấm dạy từ vị đại diện mà cũng chính
là Thượng Đế.
Đại để cách chơi cơ thông dụng, tôi đã có lần đích thân tham dự năm 1955 tại nhà một cô
bạn gái Bắc mới di cư vào Nam. Mọi người trong gia đình để cô nầy đứng gọi hồn lên nhập dễ
dàng, nghe nói vì cô là trinh nữ, mặc dầu cô ta là người Công Giáo.
Cơ thường là một miếng ván đẽo từ gổ hòm và xoay cơ vào nửa đêm ngoài nghĩa địa mới
linh nghiệm. Song chúng tôi chơi trong nhà và dùng một cái chén chung nhỏ làm cơ, vẫn hiệu
quả đến mức tôi phát rùng mình. Cơ chạy trên một miếng giấy lớn có kẻ đủ 24 chữ cái, phía
trên có ô ghi dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và thêm một ô tận góc mỗi bên, một bên đề CÓ
một bên đề KHÔNG.
Ngồi xoay cơ đêm hôm ấy có cả thảy bốn người. Mỗi người đặt đầu ngón tay trỏ của mình
trên đít cái chén chung lật ngược nằm giữa mảnh giấy. Cô thiếu nữ đốt ba cọng nhang khấn vái
lâm râm xin có hồn thiêng nhập. Chỉ trong giây lát, cái chén rung lên và xoay, lôi kéo theo cả
bốn ngón tay chúng tôi đang đặt nhẹ trên đít chén, đành cứ nương theo. Tôi thữ cố trì ngón
tay ngược lại vẫn cảm nhận có lực kéo tới, tôi không còn nghi có một người trong nhóm điều
khiển.
Là khách, tôi được nhường cho hỏi hồn trước, sau khi hồn đã chạy chữ cho biết tên hồn và
nơi ở là Phi Châu. Chỉ hỏi thầm trong miệng nên những người xung quanh không thể biết tôi
hỏi gì. Tôi có người anh thứ bảy là Lê Hồng Tiến mất tích năm 1945 trong chuyến đi ghe buôn
muối từ Cần Giờ về Hốc Môn, nghi là bị Việt Minh thủ tiêu. Tôi thầm hỏi hồn: “Ai giết anh
tôi ?” Cái chén xoay xoay kéo các ngón tay chúng tôi lần lượt thứ tự đi tới các chữ B Ì N H X U
Y Ê N. Tôi rợn tóc gáy. Tuy đã bắt đầu ngán sợ việc huyền bí nầy, tôi cũng ráng hỏi thêm
hồn: “Cô gái ngồi trước mặt tôi đây có sẽ là vợ tôi không?” Cái chén chung chạy một mạch
thẳng qua góc phía có ô chữ KHÔNG. Tôi cố móc ngón tay rị cho qua phía bên chữ CÓ cũng bị
kéo mạnh lại. Sau nầy tôi nghiên cứu về đồng bóng và tâm linh huyền bí, vẫn chưa tìm hiểu
được rõ ràng mấy về việc chơi cơ nầy.
Người chơi cơ đầu tiên thành lập đạo Cao Đài là một viên chức của chánh phủ Nam Kỳ thuộc
địa Pháp, tên Ngô Văn Chiêu. Ông tiếp xúc được với Thượng Đế tại đảo Phú Quốc nhưng nhường
chức Giáo Tông cho ông Lê Văn Trung đang làm Hội Đồng Tư Vấn của chánh phủ Nam Kỳ,
thường được gọi là ông Hội Đồng Trung, một tay mắt trong xã hội, để cho việc hoạt động tôn
giáo khác Công Giáo không bị làm khó dễ dưới thời Pháp thuộc. Do đó, thời tôi còn nhỏ, người
ta được biết đạo Cao Đài của ông Hội Đồng Trung.
Ông Phạm Công Tắc làm Giáo Tông kế tiếp cho đến thời chánh phủ Ngô Đình Diệm, cũng là
một trong ba người đầu tiên sáng lập đạo Cao Đài.
CHƯƠNG 37
Rời Cần Thơ đi Long Xuyên cũng đều là vùng Hòa Hảo, nhưng không khác gì bước từ cảnh
thanh bình chui vô vòng khói lửa. Hầu hết thời gian ở tỉnh nầy tôi theo sống với quân đội.
Như cọp nhớ rừng, tôi không bao giờ quên được những lần làm phóng viên chiến trường,
theo Tiểu Đoàn 15 của Thiếu Tá Phan Tấn Cảnh hành quân. Lặn lội sình lầy cực nhọc, hồi hộp
chờ chực gặp đụng độ bất ngờ, thích hợp với bản tánh quen bưng biền của tôi hơn là la cà nơi
ca đình tửu điếm ở Cần Thơ. Có một sự kích thích rõ rệt trong mạo hiểm. Hay đúng hơn, có một
thú vị gì đặc biệt trong nghề nghiệp, na ná sự hăng say cam khổ hồi tôi sống trong Chiến Khu.
Tôi muốn mặc đồ dân sự để chứng tỏ với đối phương, nếu đụng độ, tôi được phân biệt rõ
rệt là phóng viên nhà báo. Song Thiếu Tá Cảnh giải thích quần áo sặc sỡ của tôi dễ dàng làm lộ
mục tiêu gì đó, không thích hợp khi hành quân. Thôi thì theo Bụt đành mặc áo cà sa hay đi với
ma thì phải mang áo giấy. Dầu sao tôi cũng hơi thích thích, có thể nói là hân hạnh được vận
vào mình quân phục giống y như các anh lính trong Tiểu đoàn. Cũng có túi càn khôn may dọc
hai bên ống quần, nhét mấy chiếc máy ảnh vô tuốt luốt, khi heo con hay gà vịt cũng đều lọt.
Thiếu Tá chỉ huy cuộc hành quân muốn tôi đi theo sát ông, cùng với anh lính đeo máy truyền
tin và Đại Úy cố vấn người Pháp, cho được bảo vệ tối đa. Tôi không thích đi gần Tây và bộ chỉ
huy, nghĩ đó là mục tiêu chánh cho địch quân nhắm vào. Vả lại, tôi cần bám sát theo anh em
binh sĩ để cảm nhận và chia xẻ những vui buồn lo nghĩ của quân nhân, ghi nhận được những
chuyện ”sầu lên quan ải oán ra cửa phòng”.
Kỳ theo Tiểu Đoàn hành quân yểm trợ cho Công Binh phá cảng miệt Cờ Đỏ (Ô Môn) lưu nhiều
kỷ niệm hơn hết. Phải ở lại với đoàn quân đóng trụ nhiều ngày, chờ Công Binh đào đặt vô số
cốt mìn để phá cả trăm thước cảng hàn bít một con sông rạch. Vùng ven Đồng Tháp Mười nầy
chằng chịt những con kinh đào là đường lưu thông duy nhứt. Quân Kháng Chiến (Việt Minh,
chống Pháp) huy động dân quê, ngày nầy qua tháng nọ, đắp hết cảng nầy tới cảng khác như
xây Vạn Lý Trường Thành, bít hết sông ngòi, bảo vệ vùng độc lập của quê hương.
Tiểu Đoàn đóng trại giữa đồng không mông quạnh, bốn bề chơn trời nối liền với mặt đất, tạo
vẻ vô tận không bờ bến. Thiếu Tá Cảnh trao cho tôi ống dòm, biểu nhìn về phía tay ông chỉ. Tôi
thấy một túp lều tranh. Ông nói phải cho pháo kích tới đó, dầu không thể biết có đàn bà con nít
trong ấy hay không. Ông giải thích Việt Minh chỉ dùng những chỗ như vậy làm điểm quan sát
tấn công mình. Mình phải ra tay thôi.
Tôi quá ngao ngán cho sự tàn ác của chiến tranh. Ráng chịu đựng qua cơn khói lửa, giành
lại được độc lập rồi thôi. Cầu xin giang sơn sớm tránh nạn nội chiến tương tàn thảm khốc quá!
Lính tươm tất phục vụ cơm nước cho vị chỉ huy với vị Đại Úy Cố Vấn Pháp và tôi, ngay tại
trong lều dành riêng. Quá ngại thấy được đối xử như thượng khách, tôi thường lấy lý do xin
phép la cà theo lính, ăn uống chuyện trò với họ, làm phóng sự đúng mức.
Viết xong bài phóng sự nào, tôi trao bao thơ đựng tin cho Thiếu Tá Cảnh, nhờ Ban Tiếp Tế
hằng ngày mang gởi bưu điện về tòa báo. Đây cũng là cách tôi để ông ta kiểm duyệt bài, coi
như viết từ mặt trận về, không lo bị tiết lộ bí mật quân sự.
Dĩ nhiên bài vở viết trong hoàn cảnh như vậy, tuy miêu tả đúng sự thật, vẫn phải cố tình để
thiếu sót những khía cạnh nào đó có thể không làm vừa lòng vị chỉ huy. Những chuyện đó nhỏ
nhặt thôi. Song chính đó là như những mắm muối, nếu được dậm thêm vô, những phóng sự
chiến trường của tôi phải còn hấp dẫn ngon lành hơn nhiều.
Thiếu Tá Cảnh là một vị chỉ huy đối xử rất đẹp với binh sĩ, đa số từ lực lượng Cao Đài thuyên
chuyển qua. Nhiều năm sau, tôi gặp lại ông khi tôi đã mở nhà thuốc Tây tại Chợ Búng, ông
thường đi ngang qua, vì lúc đó ông làm chỉ huy trưởng Sư Đoàn 5 đóng tại Phú Lợi, tỉnh Bình
Dương. Ông vẫn còn đeo lon Tá trong khi Đại Úy Nguyễn Văn Là đã mang chức Tướng.
Lý do chậm tiến trên quan lộ là cái gốc Cao Đài của Thiếu Tá Cảnh, theo chính lời ông thở
dài với tôi. Tôi an ủi ổng bằng cách khen ổng còn may mắn hơn tôi, ông không bị hạ lon, trong
khi tôi là người Công Giáo đã từng phục vụ ông Ngô Đình Diệm mà cũng bị tước lột chức ký giả,
về đứng bán thuốc tây.
Từ giã Tiểu Đoàn Trưởng Phan Tấn Cảnh, tiểu đoàn 15, tôi tới Đại Úy Nguyễn Văn Là chỉ huy
tiểu đoàn 3 ở Rạch Giá. Thiếu Tá Cảnh cho nguyên một tiểu đội dùng xe Dodge 4 x 4 chở tôi từ
Long Xuyên đến Rạch Giá. Báo chí cho là phóng viên Văn Bia được phục vụ quá đáng khi tôi
tường thuật chuyến di chuyển nầy.
Lúc đó chưa có phóng viên người Việt tiếp xúc với quân đội như tôi, ít ai biết được quân đội
Pháp ưu đãi phóng viên ngang hàng cấp bực Đại Úy. Chỉ trình ”carte de presse” (thẻ báo chí,
lúc đó toàn bằng tiếng Pháp) ra, phóng viên được cấp một chiếc xe Jeep có tài xế, được chỗ ở
và khẩu phần của một Đại Úy.
Tại Điện Biên Phủ, không có xe Jeep riêng cho tôi vì không đủ, chớ lúc ra Hải Phòng chứng
kiến cuộc rút lui của quân đội Pháp năm 1955, tôi được nuôi ăn nuôi ở và có xe cộ đàng hoàng.
Lần nào cũng nhờ anh Francois Sully, phóng viên tờ Newsweek và báo Thần Chung, xúi tôi
hưởng đặc quyền phóng viên của mình.
Kéo lẽ thẳng ra mà nói, ưu đãi phóng viên, cũng như việc tặng quà cáp xảy ra hằng ngày
trong mọi địa hạt, chung quy là mua chuộc cảm tình, nghĩa là cũng một hình thức hối lộ mà
thôi. Ngay những khấn vái trong lời cầu nguyện chẳng qua cũng đều là một thứ hối lộ thần
thánh. Tặng giai nhân một bó hoa vài chục đồng, một món nữ trang vài ngàn đồng, hay một
chiếc xe hơi vài chục ngàn đồng, một tòa nhà vài trăm ngàn đồng, quà rẻ mắc cỡ nào cũng
nhằm có một mục đích mua chuộc tình cảm. Hối lộ.
Vấn đề tế nhị nầy ảnh hưởng đến tư cách của một cá nhân, giám đốc, thủ trưởng, cả đến
thủ lãnh quốc gia nữa. Do đó, nhiều công ty, cơ quan, hay chánh phủ đặt ra tiêu chuẩn giới hạn
giá trị một món quà tới mức nào còn được chấp nhận chưa bị coi là hối lộ. Những quà tặng
đáng giá cho Tổng Thống hay viên chức cao cấp đều phải được coi là tài sản quốc gia.
Bà Imelda Marcos được tặng đến hai ngàn đôi giày. Khi chồng bà là cựu Tổng Thống Marcos
nước Phi Luật Tân bị lật đổ, hai ngàn đôi giày nầy được đem ra triển lãm làm một chứng tích
ăn hối lộ hay là sự hoang phí xa hoa của chế độ cũ.
Nếu hằng ngàn hãng làm giày ở Phi Luật Tân đua nhau mỗi hãng tặng cho bà cựu Tổng
Thống nầy một vài đôi mang quảng cáo thì bà có đáng bị lên án không?
Nhắc tới vị Tổng Thống nước Phi, chúng ta nên làm một cuộc so sánh với vị Tổng Thống đầu
tiên Việt Nam là Ngô Đình Diệm.
Sau cuộc đảo chánh, Tổng Thống Marcos bị đồng minh cũ là Mỹ truy tố tội biển thủ công
quỹ, niêm phong hằng tỷ bạc nầy đến tỷ bạc khác trong các trương mục ngân hàng. Còn Tổng
Thống Ngô Đình Diệm chết nghèo nàn, hai tay không. Trong gia đình ông, có bà Cả Lễ làm ăn
xuôi ngược, giành giựt cạnh tranh, mang chút tiếng tăm dị nghị mà tạo được cơ ngơi so sánh
cũng chẳng bằng ai.
CHƯƠNG 38
Khi làm phóng viên chiến trường, theo các Tiểu Đoàn của Pháp lập ra đi càn quét Việt Minh,
quân đội ấy còn dưới quyền chỉ huy của Pháp. Tôi tự coi mình là một ký giả trung lập vô tư làm
nhiệm vụ thông tin của một nhà báo. Tuyệt đối không tuyên truyền cho phe nào. Tuy nhiên, khi
phải, hoặc thường là được theo một phía để hành nghề, ngòi viết bị ảnh hưởng hạn chế ít nhiều
nên rất khó khăn. Phải khéo léo tế nhị. Những bài phóng sự chiến trường nóng bỏng tôi viết ra,
được độc giả hoan nghinh tọc mạch đọc, mà không bị bên nào lên án là do kết quả biết đắn đo
ngòi viết, luôn luôn dè dặt thận trọng.
Tôi thấy trong quân đội, từ lính tới sĩ quan, không một ai có tinh thần ái quốc hay quốc gia
gì cả thì viết ra gì được ngoài thuần túy điều mắt thấy tai nghe. Lúc đó họ đang phục vụ cho
nước Pháp, lãnh lương của Pháp mà. Nếu có thiết lập cơ quan Tâm Lý Chiến lúc đó, không biết
viện được lý lẽ gì để huy động tinh thần quân nhân đánh giặc.
Tôi dài dòng viết ra điều nầy để nhấn mạnh sự khó khăn vượt bực của người thừa kế những
sản phẩm do Thực Dân Pháp lưu lại. Đem về một lý tưởng, biến đổi đoàn lính Lê Dương
(Légionnaire = loại lính đánh thuê) thành quân đội quốc gia có tinh thần ái quốc, nội công tác
nầy sau khi trở về nước chấp chánh, ông Ngô Đình Diệm đáng được mọi người quốc gia tri ân.
CHƯƠNG 39
Không kể bị cố tình xuyên tạc bóp méo lời văn, khi viết, dầu rõ rệt trên giấy trắng mực đen,
ký giả văn nhân phải chấp nhận bị hiểu lầm là chuyện thường xảy ra. Mỗi người đọc, nhứt là khi
đọc thoáng qua, thường hay hiểu theo nghĩa họ nghĩ hơn là ý của tác giả, nhứt là khi người viết
ngụ ẩn không nói thẳng ra càng dễ bị hiểu sai ý.
Một trường hợp điển hình. Tôi thuật chuyện con trưởng nam tôi bị xe đụng gần chết, được
đưa vào bịnh viện cấp cứu. Tôi tới thăm lúc con tôi vừa tỉnh lại, nói được đôi lời trối trăn. Trước
hết, nó xin lỗi cha mẹ đã có làm gì buồn phiền, rồi tiếp: ” Trong ngân hàng còn bao nhiêu tiền
thì…” Tôi tưởng nó sẽ nói để lại cho vợ chồng tôi, là một lời trối không cần thiết. Nhưng không.
Con tôi trối tiếp: ”… gởi cho Bích Liên làm vốn sinh sống ”. Bích Liên là ý trung nhân của con
tôi, còn ở lại Việt Nam. Hai trẻ kết thân nhau suốt cả chục năm học chung trong Đại Học Y
Saigon. Con tôi được tôi bảo trợ đem qua Mỹ. Bạn gái nó ở lại làm bác sĩ Trưởng khoa Tai Mũi
Họng bịnh viện Châu Đốc.
Một thằng cháu rể của tôi nghe kể chuyện, chêm vào:
– Làm ông già nó nghe mà nước mắt đang chảy xuống khóc nó, chạy ngược lại trở lên.
Tôi hiểu ngay cháu tôi không nắm được cái ý tôi ca tụng tình yêu vô vàn tuyệt đối của con
tôi, tới trước giờ phút chết còn nhớ lo cho người vợ chưa cưới của mình.
Chính vì muốn tránh hiểu sai hay lầm lẫn, tôi thành thật cám ơn những độc giả phê bình chỉ
trích tôi hơn là những người ca ngợi tôi. Họ cho tôi cơ hội điều chỉnh, giải thích rõ ra, hoặc đính
chánh khi tôi sai lầm, hay được dịp biết để lên tiếng giải thích điểm họ hiểu sai.
Nhờ có những hồi tiếp hay thông tin phản hồi bạn đọc cung cấp, tôi mỗi ngày kinh nghiệm
thêm và thành công vững chắc hơn trong nghề cầm bút, nên chỉ biết ơn chớ oán giận sao được.
CHƯƠNG 40
Thời gian ở Rạch Giá, tôi đi chơi nhiều hơn làm phóng sự, ngoài việc viếng Minh Lương, một
làng rất nhiều người Miên, cách Ngã Bảy không bao xa. Tại đây đặc biệt có hai ngôi mộ của hai
ông Hội Đồng ở Rạch Giá xây dựng đứng và chôn đứng đâu mặt nhau, tuy cách xa.
Nghe nói sinh thời, hai ông bá hộ trưởng giả nầy mắng chửi nhau riết chưa đã, khi chết, ra
lịnh con cháu chôn đứng để họ tiếp tục muôn đời trận đấu nguyền rủa xỉ vả nhau. Dai dẳng
không thua Quốc Cộng.
Bãi biển Rạch Giá bùn dơ song có cù lao Hòn Tre ngoài khơi, bãi cát trắng sạch. Bỏ tiền ngồi
ghe máy du ngoạn ra đó mặc tình bơi lội giỡn sóng. Xa hơn nữa có Hòn Rái. Còn Hòn Sỏi, Hòn
Me, và Hòn Đất đặc biệt có Suối Lươn nước trong vắt.
Những ngày ở tỉnh cuối chót xa xôi của đất nước nầy cũng không vắng bóng dáng giai nhân.
Lại là thuộc giới thượng lưu, tôi biết trước không thế nào vói tới mà vẫn thử vói, chỉ vì đây là
loại thứ không hiền, lần đầu tiên trong đời tôi gặp.
Một nàng là em vợ của ông chủ rạp hát Văn Cầm ở Saigon và là bạn gái của công tử địa
phương Bùi Quang Trinh, cháu ông Bùi Quang Đài chủ năm cái nhà máy xay lúa lớn nhứt tại
chợ Rạch Giá. Tôi đi đó đi đây được khắp vùng Rạch Giá nhờ chàng công tử nầy chở Vespa,
thấy dân trong vùng nể nang còn hơn chúng tôi ngồi xe limousine sang trọng. Khi dân cậu đi
mà.
Hay tin có nhà báo tới viếng tỉnh nhà, anh Trinh tìm đến làm quen và đề nghị theo chơi với
tôi suốt thời gian tôi ở lại đây. Tới nhà công tử, tôi ngộp vì đủ thứ máy móc anh trang bị cho hệ
thống thu âm thanh và hình ảnh. Hình như trên thế giới lúc bấy giờ có sáng chế loại nào tối tân
nhứt là anh đều sắm đủ.
Ở Tây Đô được khoái con mắt. Nơi tỉnh biển nầy được khoái khẩu. Tôi thường trực đóng đô
tại một tiệm ăn ở bên hông chợ Rạch Giá, gần cầu Quây. Chủ quán chuyên môn lựa nấu cho tôi
mỗi ngày đủ các loại món ăn cá khác nhau. Ông nói tôi ăn cả tháng cũng chưa đủ hết các loại
cá Rạch Giá nầy đánh lưới được. Đã ơi là đã.
Càng đã hơn nữa, là được công tử Bùi Quang Trinh thuộc loại con nhà giàu nhất tỉnh chở đi
chơi. Gặp thấy người đẹp nào cũng nghe kính cẩn thưa cậu răng rắc. Tôi đăm ra có ý nghĩ, giai
nhân nể cậu thì tôi chỉ cần họ thương tôi, mới tính thử thời vận xem sao.
Tôi chấm một nàng. Rồi một nàng. Không dè nàng nào cũng không chỉ nể cậu mà là đều mết
cậu hết ráo. Tên tuổi phóng viên không còn kí-lô nào trước bạc.. đông của công tử.
Tôi còn vỡ lẽ ra, công tử đi đâu cũng chở nhà báo như tôi theo, là chỉ cốt mượn hơi hám
phóng viên làm một món trang sức nhỏ nhoi để giựt le với các em mà thôi. Nàng nào lỡ dại
nhận món trang sức sống nhăn nầy thì mất tiêu hết các nữ trang quý giá của công tử ban tặng
dài dài.
Biết thân phận người thua cuộc trước khi đụng độ, tôi đè bẹp lòng hậm hực xuống bằng cách
tự nhủ hay tưởng tượng mình chỉ vì thương giai nhân mà hy sinh, không để họ bị thiệt thòi vì
thương mình.
Rạch Giá không thể là đất dụng vỏ cua sắc (cái chiêu dê sắc đẹp), thì mình đi tham quan thứ
vô cùng đẹp đẽ khác là trời xanh biển rộng mênh mông, sóng vỗ chập chùng. Tôi rời Rạch Giá
lên ghe máy đi thăm cù lao Phú Quốc.
Hễ chỗ nào chưa đi mà có thể đi được là tôi mò tới. Làm phóng viên như chỉ chờ vào giờ chót
mới quyết định chương trình cho mình. Và tự mình hoạch định, không bị ai kiểm soát. Làm như
tôi là ông chủ vậy. Không có chuyện gì đáng viết thì không viết. Chẳng có sao.
Lần đầu tiên trong đời đi biển trên chiếc ghe nhỏ, gặp sóng gió thấy hành khách lăn lóc ói
mửa, không biết thưởng thức cưỡi sóng như tôi, tôi lấy làm lạ sao họ đi thường ngày mà không
khoái cảnh trời nước nổi dậy. Tàu cập bến quá sớm đối với tôi. Tôi muốn được lênh đênh trên
biển thêm nhiều ngày nữa kìa.
Trước khi đặt chân đến, cảnh trí cù lao khác hẳn trong đầu óc tưởng tượng của tôi. Đất rộng
thênh thang, nhà cửa san sát, chẳng thấy có gì khác đất liền. Thêm lúc bấy giờ có cả trăm ngàn
tàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa xây cả một thành phố nhà lá dọc theo bờ biển, sống lúc
nhúc trong đó.
Lính nầy của Tưởng Giới Thạch chạy trốn quân Trung Cộng của Mao Trạch Đông, tới biên
giới Bắc Việt, tràn qua Việt Nam. Để tránh Trung Cộng đuổi theo gây chiến trận trên đất Đông
Dương của Pháp mà Việt Nam là một phần, ngoài ra còn Cao Miên và Lào, Pháp áp dụng công
pháp quốc tế, tước khí giới đám tàn quân, bắt đem giam hết ở Phú Quốc.
Thời nầy là khoảng năm 1949, Phú Quốc đối với Quốc Dân Đảng Tàu là đảo Guam của quân
dân miền Nam Việt Nam được đưa tới tạm nương náu sau ngày 30 tháng Tư 1975. Được sống
an toàn là phước lớn, lính Tàu giữ kỷ luật nghiêm túc, không gây rắc rối nào với dân chúng địa
phương. Họ ở trong quân trại của họ, có cổng rào kỹ lưỡng. Không thấy lảng vảng bóng lính
Tàu ngoài chợ búa hay xóm làng. Dân chúng cũng không được vào khu vực quân Tàu đóng.
Tôi được giấy phép đặc biệt vừa của Pháp vừa của chỉ huy trưởng Tàu mới được vào tham
quan căn trại. Nhìn nhận họ tổ chức chu đáo, ngăn nắp, khiến tôi ngạc nhiên sao một quân đội
trật tự được điều khiển khéo như vậy mà để thua Trung Cộng dễ dàng. Tôi nêu vấn đề nầy ra
với một vị sĩ quan biết nói tiếng Pháp. Ông ta làm thông dịch viên hay liên lạc viên với quân đội
Pháp đóng binh ở Phú Quốc. Ông ta vắn tắt giải thích:
– Người dân họ đều theo phía Mao Trạch Đông hết. Làm sao chúng tôi chống lại nổi.
Tôi tính nằm ì lại Phú Quốc để chực điều tra có vụ lính Tàu nào gây rắc rối là mình phanh
phui lên mặt báo. Tôi nghĩ đám quân ô hợp tôi chứng kiến kéo tới Huế tước khí giới Nhựt Bổn
hồi năm 1946, nay bại trận chắc còn phải tệ hại hơn, gây khổ cho dân mình không ít. Thử tưởng
tượng cả trăm ngàn người đàn ông mà không có một người đàn bà. Ngày trở về quê hương mù
mịt. Nổi khùng, làm bậy, không phải là chuyện hiếm lạ. Khác chủng tộc như quân đội Hoa Kỳ,
khi rút lui khỏi Việt Nam cũng bỏ rơi lại khoảng 50,000 đứa con lai không cha.
Chọn đi Phú Quốc kỳ nầy là mong làm được phóng sự đặc sắc mới mẻ. Đề tài tôi trông đợi
để viết, không có. Tôi không khác người xách cần câu đi nhằm vùng không có cá. Vậy thì kể
như đi giải trí chơi thôi. Nhưng mà cũng có chuyện cá. Tôi thấy cách bờ biển không mấy xa có
hàng cây cọc đóng dày như hàng rào bao kín, tưởng Quốc Dân Đảng Tàu sợ Trung Cộng tới
mức cho là Mao Trạch Đông có thể mang tàu ngầm vào tấn công. Tôi nói giỡn chuyện nầy với
viên sĩ quan thông ngôn, thì được biết đã có mấy anh Tàu bị cá mập ăn thịt, nên rào ngừa.
Trung Hoa Quốc Dân Đảng thương thuyết với Pháp, Hoa Kỳ và Quốc Tế cách nào không biết,
mà sau đó toàn bộ tàn quân ở Phú Quốc được đưa về đảo Đài Loan là mảnh đất cuối cùng phe
Tưởng Giới Thạch còn giữ được tới ngày nay. Lực lượng nầy tiếp tay xây dựng Đài Loan thành
một quốc gia mới bên cạnh Trung Quốc khổng lồ. Dầu sao Quốc Dân Đảng Tàu cũng còn hơn
phe Quốc Gia ở Việt Nam vì họ còn miếng đất cắm dùi, thành hình một nước độc lập hẳn hòi để
được thở bầu không khí quốc gia và cần cù phát triển mạnh hơn nước Mẹ, thay vì tối ngày
không làm gì hết, ngồi chửi đổng hay bàn chuyện viễn vông mơ mộng.
Người Trung Quốc sống ở hải ngoại, có kẻ theo phe Đại Lục (Trung Cộng), kẻ ngả về phía
Đài Loan (Quốc Dân Đảng). Tại nhiều phố Tàu ở Mỹ, cờ xanh mặt trời Quốc Dân Đảng xen lẫn
với cờ đỏ năm sao vàng Trung Cộng. Ai muốn treo cờ nào mặc thích. Không giống như người
Việt hải ngoại, hai phe Trung Hoa Quốc Cộng che giấu, không để người xứ họ tạm dung thân
thấy anh em một nước mình tương tàn, hằn hộc xung đột nhau. Quê hương họ có hai chánh
quyền đối nghịch nhau. Họ vẫn chịu đội Trời chung, an cư lạc nghiệp nơi xứ người. Ai muốn
theo phe nào mặc ý, nên không xảy ra chuyện chụp mũ hủy hoại tình đồng bào. Đảng phái họ
cũng có tranh nhau khủng khiếp. Thỉnh thoảng có vụ thanh toán đẫm máu. Tuy nhiên, tuyệt
đối họ không bôi nhọ lẫn nhau, bịa chuyện bịp bợm hạ cấp, làm trò cười cho người ngoại quốc,
cho nước họ đang nương náu. Phe Tàu nào cũng đều hãnh diện về nước Trung Hoa đại lục của
họ. Thể thống của một giống dân ở chỗ đó. Còn người Việt Nam?
Giống dân mình trong Bách Việt cũng gốc Tàu. Trong cuộc di cư lần lần xuống miền Nam, lai
lệch với các sắc dân bán khai địa phương, không biết có phải người Việt mình bị ảnh hưởng của
Nam Chiếu, Chiêm Thành, Chân Lạp hay không mà cá tính không còn được giống người Trung
Hoa nữa.
Bảy năm sau cuộc thăm viếng Phú Quốc, số mạng cũng đưa đẩy tôi gặp lại đoàn Quốc Quân
Trung Hoa nầy thêm một lần nữa, là lần thứ ba, khi tôi cùng trong phái đoàn ký giả Việt Nam
được Tổng Thống Tưởng Giới Thạch mời viếng Đài Loan lúc Quốc Dân Đảng mới qua lập nghiệp
khoảng 5 năm. Kiến trúc mới có dinh thự Tổng Thống ở Dương Minh San gần Đài Bắc và bảo
tàng viện cất sâu giữa vùng núi để giữ những bảo vật lịch sử đem được từ Đại Lục qua. Hãng
Tai Tung (Đại Đồng) mới mở, bắt đầu sản xuất những vật dụng sơ khởi như quạt máy, máy giặt,
đều để xuất khẩu kiếm ngoại tệ, người dân không được mua dùng. Rượu và dầu thơm là hai
loại xa xỉ đại phú còn chưa sắm nổi và gần như thuộc loại quốc cấm. Tôi có viếng qua cho biết
xóm chị em tồi tàn, phản ảnh sự nghèo khó của dân mới di cư từ địa lục Trung Quốc. Cửa phòng
che bằng những bao bố.
Mười năm sau (1965) tôi trở lại Đài Loan, kinh ngạc thấy sự thay đổi vượt bực. Những thành
phố mới mọc lên như Đài Trung, nơi có hồ Trời Trăng (Nhật Nguyệt đàm) biến thành một trung
tâm du lịch, dẫy đầy siêu thị tối tân một hai chục tầng lầu, chất đống đủ mọi mặt hàng. Những
động tiên cửa địa đàng che bằng bao bố năm nào, nay đã biến thành lâu đài lộng lẫy năm sao
cho du khách tới hưởng Nhứt Dạ Đế Vương.
Ngoài Đài Loan, Trung Hoa Quốc Dân Đảng còn làm chủ hai hòn đảo nhỏ Kim Môn và Mã Tổ
nằm sát bên Đại Lục. Tôi phải ngồi máy bay đội nón sắt đi tham quan Kim Môn, nơi có ngôi nhà
thờ và tượng vị anh hùng Trịnh Thành Công, một tướng Minh chống nhà Thanh, đã đánh đuổi
ngoại xâm khỏi Đài Loan.
Lúc tôi đến, Kim Môn là địa đầu đang hứng chịu đại bác Trung Cộng bắn qua gần như hằng
ngày. Từ Kim Môn thấy được dạng bờ biển Đại Lục. Người Trung Quốc hướng dẫn tôi nhìn qua
mà buồn nhớ quê hương, thở than chớ không chửi rủa tục tĩu.
Suốt hai tuần lặn lội xục xạo từ Bắc chí Nam đảo Đài Loan, tiếp xúc với đủ mọi hạng người,
mọi tầng lớp từ chánh quyền cao cấp đến báo chí, thương giới, dân dã ăn chơi, tôi không hề
nghe được một tiếng nguyền rủa Trung Hoa Cộng Sản.
Hiện có thể ví những vùng đất tự do của Trung Hoa Quốc Gia với những mảnh đất tạm dung
của người Việt hải ngoại ở Mỹ Châu, Âu Châu và Úc Châu. Đảo lớn Đài Loan của Việt kiều là Mỹ
và Canada. Hai đảo Kim Môn và Mả Tổ là Âu Châu và Úc Châu. Dân lưu vong nơi nào cũng cam
phận sống lâu dài nhưng mỗi nơi cách khác nhau.
Trở lại hòn đảo lớn nhứt của quê hương Việt Nam mình, có hình dáng một củ khoai giống
như Đài Loan, là Phú Quốc. Thủ phủ là Dương Đông, nơi tôi đã đặt chân tới. Còn hai thị trấn
nhỏ hơn là Hàm Ninh nằm ở bờ biển phía bên kia cù lao, chia cách bởi một rặng núi lớn, và An
Thới ở cuối phía Nam. Tôi cũng muốn đi tới cho biết, nhưng nghe nói có du kích Việt Minh hoạt
động trong vùng núi, nên thôi. Tôi không ngờ một miền đất xa xôi hẻo lánh của quê hương như
cù lao Phú Quốc cũng có Kháng Chiến hiện diện.
Viên chức Pháp khuyên tôi chỉ nên ở lại Dương Đông. Ông ta đưa tôi đến giới thiệu với một
chức sắc trong làng là ông Cả Khá. Chắc cũng nhờ được giới thiệu là nhà báo mà tôi được tiếp
đón nồng hậu. Cả hai ông bà ân cần mời mọc tôi ở nghỉ lại tại nhà họ, không cần đi kiếm chỗ ở
nào khác theo ý tôi ngỏ. Mà tôi đã đi quanh chợ chẳng thấy có khách sạn nào.
Tôi nhớ hoài sự quan tâm của bà Cả Khá, không phải chỉ ở chỗ lo săn sóc tôi từng món ăn
thức uống, mà tối lại, bà giăng mùng lót nệm kỹ lưỡng xong, còn xịt thêm rất nhiều dầu thơm
đến mức gần thấm ướt hết mền gối. Không phải bà sợ tôi đái dầm xông mùi khai. Bà lo tôi hửi
không nổi cái mùi nồng nặc xông ra từ nhà thùng cất sát bên hông nhà.
Nhà thùng, ở miệt Phan Thiết gọi là nhà lều, là nhà hay hãng làm nước mắm. Những thùng
gỗ tròn, lớn gần bằng căn nhà, và cao tới sà nhà, sắp dọc từng dãy dài trong nhà thùng. Cá
sống được gánh đem đổ trong các thùng cây đó. Cứ một lớp cá tiếp một lớp muối, đổ cho tới
gần đầy. Cả tháng, cá lần hồi thúi rục trong những thùng đó. Gần dưới đáy thùng có đục lỗ cho
nước cá trong đó nhỉ ra chảy xuống đồ hứng. Đợt nước đầu gọi là nước mắm nhỉ, thứ thượng
hạng. Màu lợt lạt không đậm như nước mắm bán ngoài thị trường đã bỏ thêm màu.
Dĩ nhiên mùi cá thúi xông ra cả mấy trăm thước còn nồng nặc. Bà Cả Khá có đổ cả chai dầu
thơm ra cũng không át nổi mùi đó. Khách mới tới chịu không được, trong khi người địa phương
quen mũi không nghe gì cả. Giai nhân Dương Đông ướp mùi đặc biệt của địa phương như người
đẹp Bình Dương tẩm mùi sầu riêng và mít tố nữ, hay gái ruộng Đồng Tháp thoang thoảng đượm
mùi bùn từ dưới hoa sen xông lên.
Nhắc tới Phú Quốc, ngoài nhớ mùi nước mắm, còn có những sản phẩm làm bằng đồi mồi là
mu của một loại rùa có vân như cẩm thạch màu vàng sậm và nâu lẫn lộn. Hầu hết sản phẩm
đồi mồi là nữ trang và vật dụng cho phụ nữ dùng và chưng diện như quạt, hộp đựng đồ trang
điểm và nữ trang, hộp đựng thuốc hút, lược cài, trâm, kẹp, vòng tay, cà rá, v.v…
Tôi chọn mua hai món mắc tiền là cây quạt xếp và hộp trang điểm, trở về Rạch Giá mang tới
tặng cô em vợ của ông chủ rạp Văn Cầm và cũng là bạn gái của công tử Bùi Quang Trinh. Sau
đó, tôi còn theo công tử trở lại nhà nàng chơi, liếc thấy hai món quà tôi hao tốn khá nhiều tiền
nằm lăn lóc trong tủ kiếng, quá nhỏ nhoi khiêm nhường lẫn lộn trong đống quà biếu đắt giá của
công tử, cảm thấy thua kém quá xá quà xa. Phải chi tôi sắm nguyên con đồi mồi bự vác về cho
nàng thì nàng có một cái mu… đồi mồi thật to treo trong phòng khách giống Thẩm Thúy Hằng
có cái mu vĩ đại như vậy chưng bày trong nhà nàng.
Nghĩ lại, tôi bậy bạ quá chừng. Người đáng được tôi tặng quà phải là bà Cả Khá đã cho tôi tá
túc những ngày êm ả sống tại Dương Đông. Còn bao nhiêu người khác nữa, tôi đã từng chịu ơn
ăn nhờ ở đậu tại tất cả những nơi tôi từng đi qua trong đời làm phóng viên của tôi. Tôi nhớ
không hề có đền ơn cho ai cả, dầu là một món quà mọn.
Sau nầy, nhiều người bạn mới làm quen, cũng như những bạn thâm niên, tỏ vẻ ngạc nhiên
về sự hiếu khách của tôi, thấy tôi sao ân cần nồng hậu tiếp đón bạn bè nào cũng đều như họ
là những người ơn của mình. Họ đâu có biết đó là tôi đang trả nợ. Khi không có cách nào đền
ơn những người đã giúp mình thì mình thi ơn cho người khác, cũng là đồng loại, đồng bào nhau
cả. Cho đời đẹp. Cho đời vui.
Rời Phú Quốc, không trở về bằng đường biển cũ, tôi dùng ghe máy đi tới hải cảng Kép của
Cao Miên, sau nầy đổi lại tên là Sihanoukville. Từ đó theo đường bộ trở về biên giới Việt Nam
vô đất Hà Tiên, ghé thăm Thạch Động là một hòn đá vĩ đại đứng sững tại đầu một đồi núi nhỏ.
Bên trong Thạch Động trống lỗng thành một cái hang trang trí làm chùa thờ Phật.
Thơ mộng hơn các thành phố khác ở miền Nam, Hà Tiên nằm dọc theo bờ nửa sông hồ nửa
biển đối diện với một dảy núi sừng sững phía bên kia bờ. Sông hồ và núi non đều mang tên văn
chương lịch sử Đông Hồ và dảy núi Tô Châu.
Người Trung Hoa của triều đại bị lật đổ, đã chạy thoát thân tới lập nghiệp ở luôn nơi nầy. Vị
tướng cầm đầu là Mạc Cửu có công xây dựng Hà Tiên, được dân địa phương cất đền thờ tại
đây.
Vì cái nạn tru di tam tộc của Tàu và Việt Nam đời xưa giết sạch dòng họ liên tiếp ba thế hệ
cha, con và cháu của phe mất quyền hay phản nghịch lại vua chúa đương quyền, các gia đình
trực tiếp và cả bà con dòng họ ba đời muốn còn sống sót chỉ có hai cách. Một là làm như nhóm
Mạc Cửu của Tàu, vượt biên di cư xuống tận cùng đất Việt Nam chưa khai phá, sanh sống đến
đời con cháu, mất gốc, trở thành người Việt chúng ta. Nhóm họ Lý của nước ta, sau khi bị nhà
Trần soán ngôi, phải chạy thục mạng, vượt biên đi tuốt lên chót vót đất Tàu là xứ Cao Ly (Triều
Tiên, sau nầy là Bắc Hàn và Nam Hàn), lập nghiệp sáp nhập thành dân địa phương luôn, dòng
dõi còn giữ tên họ Lý.
Cách thứ hai, là làm như tổ tiên trong dòng họ của tôi, mà vì quá giữ kín đáo bí mật, quyết
tận diệt quá khứ, làm tôi không có cách nào truy ra chính xác được tông tích tôi là con cháu của
Tây Sơn hay Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc là hậu duệ của tên tử tội nào hồi thời triều Nguyễn.
Từ lúc còn nhỏ, tôi đã nhiều lần cố lập gia phả, hỏi thăm cha mẹ và chú bác tôi. Người nào
cũng ấm ớ trả lời làm như quên mất gốc hết trơn. Nghi họ cố giấu giếm, tôi lập kế nói với bác
Ba tôi là người ưa tiết lộ chuyện đời, là tôi có nghe ông nội nói mình ở miền Trung nào đó vô
mà. Sau khi hỏi dằn ông nội tôi có nói thiệt với tôi như vậy sao, bác tôi dọa là nguy hiểm lắm vì
triều Nhà Nguyễn vẫn còn nắm quyền, mình chỉ biết mình là họ Lê mặc dầu tổ tiên mang khác
họ thật. Bác tôi khuyên đừng tìm hiểu thêm dễ mang họa.
Ít ra tôi đã biết được một điều chắc chắn là tôi không phải họ Lê, nên sau nầy không tiếc
chút nào khi quăng họ Lê chừa lại Văn Bia ký tên dưới các bài báo. Tôi cũng biết mình không
phải là dòng giống ông vua Ngọa Triều Lê Long Đĩnh. Hèn chi tôi làm việc đầu tắt mặt tối, không
khi nào có thì giờ nằm nghỉ, ngoài ngủ tối.
Còn về nguồn gốc Công Giáo của tôi, tôi thắc mắc muốn biết tại sao tôi thuộc Thiên Chúa
giáo trong khi đa số đồng bào của tôi đều giữ đạo Phật hoặc đạo Thờ Ông Bà hay đạo Khổng
Mạnh đã gần được coi như quốc giáo. Ở Huế có đàn Nam Giao là một khu đất vuông rộng nhiều
mẫu có vách đá thấp lè tè bao chung quanh. Cứ mỗi bốn năm, nhà vua đến đó khai mạc quốc
lễ, tế Nam Giao thật linh đình sau mấy ngày ăn chay nằm đất. Trong thời Pháp đô hộ, Việt Nam
vẫn tổ chức lễ Tế Nam Giao. Trường dòng Chúa Cứu Thế của tôi cũng theo các trường khác,
kéo tới dự lễ. Giống như hằng năm, đến ngày lễ Vạn Thọ là sinh nhựt của Hoàng Đế Bảo Đại,
tất cả học sinh lũ lượt cầm cờ Long Tinh diễn hành qua trước cửa Ngọ Môn, tới chúc mừng nhà
vua ra ngự tại Phú Vân Lâu, trong tiếng hoan hô ”Vạn thọ! Vạn thọ!” vang trời của chúng tôi.
Cho mãi tới cuối thế kỷ rồi, tín đồ Thiên Chúa giáo còn phân rõ rệt hai loại, đạo dòng và đạo
theo. Đồng bào sanh ra bởi cha mẹ không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo gốc, hoặc chịu rửa tội
trở lại đạo nầy mới có một vài đời, thì bị kể là người đạo theo. Người đạo gốc là loại người có
tổ tiên Công Giáo sẵn từ hồi nào trước.
Vùng Tân Qui, Lái Thiêu và Búng, trước kia là rừng hoang đầm lầy bưng biền, còn Bà Trà
Tân Khánh sát ranh Búng là rừng chồi đất gò. Thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức bắt
bớ đạo Thiên Chúa, các ông cố giảng đạo và các tín đồ tân tòng cùng với những kẻ bị liệt kê
vào hàng tử tội, kéo tới ẩn trốn an toàn tại những nơi ấy.
Hình như tổ tiên của tôi thuộc trong nhóm sau, không di Nam vì tôn giáo. Chắc đến đó rồi
họ mới theo đạo, nhập chung vào cộng đồng lưu vong, cùng ở lại lập nghiệp luôn. Trong dòng
dõi tôi còn sót lại một thiểu số người lương, là người không có đạo. Chắc tổ tiên bà con xa của
tôi đó cũng đã nghĩ như các vua chúa bắt bớ đạo, cho là Thiên Chúa giáo của ngoại lai phương
Tây, là tà đạo, phản quốc.
Trước đây, con cháu người đạo dòng mới được chọn học làm cha. Vì tình hình trong nước lúc
ấy bất ổn, các tu sinh được đưa qua cù lao Pénang (Mã Lai) ở phía biển Ấn Độ Dương, nơi có
cơ sở tu viện quy mô của Thiên Chúa giáo. Năm 1966, vợ chồng tôi du lịch đảo Pénang, có đến
viếng vùng lịch sử đó nằm ngay giữa thành phố.
Các cố đạo dùng ghe bầu của thương nhân theo đường biển qua lại đảo Pénang rất thường.
Sầu riêng, măng cụt là hai loại cây trái đặc sản của Lái Thiêu và Tân Qui, do các cố đạo lấy hột
từ Mã Lai đem về gây giống lần đầu tiên trên đất Việt Nam. Cuộc khai phá khởi đầu dọc theo
hai bên bờ sông Saigon, đi lần sâu vào trong bưng. Trước hết trồng lúa, rồi xẻ rạch xẻ mương
lên đất lập vườn tược. Sau khi đã thành ruộng vườn, cọp, sấu, cà tông còn xuất hiện bắt heo,
chó, gà vịt. Hồi nhỏ tôi còn nghe nói thỉnh thoảng có cọp về trong bưng.
Ông bà tôi là đợt đầu tiên di cư từ Bắc vào Nam. Đến năm 1954, di dân từ Bắc ào ạt vào lần
thứ hai, lập nghiệp tại Hố Nai (Biên Hòa), lúc đó cũng còn có cọp. Giữa hai cuộc di Nam lịch sử
ấy, người Việt ngoài Bắc không ngừng vào Nam sinh nhai, với những lần Pháp mộ dân làm lao
công trong các đồn điền cao su.
Đợt Nam tiến thứ ba là năm 1975 Bắc quân ào ạt vào kết thúc cuộc nội chiến Bắc Nam hay
Quốc Cộng. Cuộc Nam tiến nầy tiếp tục kéo dài cho đén bây giờ, không phải chỉ vì miền Nam
đất đai phì nhiêu rộng rãi và đất Bắc chật hẹp đông người, mà còn vì quá nhiều người Miền
Nam bỏ đi ngoại quốc, cơ sở sự nghiệp bỏ lại chủ mới hưởng.
Việt Nam giữ được phần đất gạch màu sậm cho đến ngày Phảp đầu hàng rút lui và đất nước
chia đôi
CHƯƠNG 41
Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Tôi cũng bị thiệt hại nặng nề trong nghề làm báo vì trận Điện
Biên Phủ.
Cả hai lực lượng Pháp và Việt Nam đang gườm nhau chơi trận trống mái quyết định. Tình
hình trong nước lại một lần nữa bắt đầu biến chuyển lớn trước khi kết thúc ngày tàn của Pháp
ở Việt Nam, cùng một lượt ngày tàn của phóng viên Văn Bia ở báo Thần Chung.
Đầu năm 1953, quân đội Việt Minh tràn vào Cánh Đồng Chum tiến chiếm làng Điện Biên Phủ
gần biên giới Lào và làm như muốn nhắm thẳng tới kinh đô Lào là Luang Prabang. Pháp lật đật
tái chiếm Điện Biên Phủ và lo củng cố căn cứ đó để chận đứng đường tiến quân của Việt Minh,
không dè mắc kế địch chọn lựa chiến địa nầy.
Trong suốt nửa năm trời sau đó, cả hai phe đều ào ạt đổ quân tới. Pháp biến làng Điện Biên
rộng gần 60 dặm vuông, thành một pháo đài bất khả chiếm, có sân bay và ba căn cứ pháo binh
yểm trợ. Việt Minh kéo hằng trăm ngàn quân từ các vùng xa xôi đi một hai tháng mới tới vùng
rừng núi bao vây chung quanh.
Pháp cho phóng viên báo chí theo các chuyến bay tiếp tế hoặc máy bay các tướng tá đến
viếng. Phóng viên của Newsweek là Francois Sully cũng viết cho báo Thần Chung, tới quan sát,
trở về nói với ông Nam Đình một cách quả quyết, căn cứ Điện Biên Phủ rất an
toàn, imprenable (bất khả chiếm), song cô Cẩm Vân lúc đầu ngán không dám đi, tôi mới được
dịp tính là nổi tiếng lần chót trước khi rời Thần Chung như tôi dự định.
Khi được báo máy bay sắp hạ cánh, nhìn thấy các cơ sở quân sự Pháp phía dưới nằm gọn
lỏn trong lòng chảo minh mông có núi rừng trùng điệp tứ phía, tôi hoảng sợ, ví ngay căn cứ là
một cù lao nằm giữa biển cả minh mông có thể chứa đầy Việt Minh như cá mặc sức tung hoành
bao quanh.
Tôi được đưa lên xe jeep chở đi coi các đài pháo binh hùng hậu xây cất cách xa căn cứ. Vị
tướng chỉ huy là De Castries dùng tên các cô bồ của ông đặt cho mỗi pháo đài. Tôi thích chí,
nói nếu tôi thì cũng đặt đồn nầy là Ngọc Anh, đồn kia là Thu Tâm (Cần Thơ, chớ Thu Tâm Cao
Lãnh báo Tiếng Dội lúc đó tôi chưa quen), còn đồn xa tít phía Nam là Xuân Lan. Tôi nghĩ rồi đồn
nào cũng tiêu tùng như những giai nhân lần hồi tôi bị mất hết tuốt luốt. Chỉ gấp rút kịp dự một
bữa ăn rồi theo phi cơ tiếp tế bay trở về, khỏi ở lại đêm.
Tôi về nói với ông Nam Đình, tôi không nghĩ như Francois Sully là Điện Biên Phủ bất khả
chiếm. Ông bảo vậy thì để Sully viết. Vài hôm sau, Francois Sully đi một lần nữa đến Điện Biên
Phủ, dẫn cô Cẩm Vân theo. Sau đó, liên tiếp nhiều bài tường thuật về Điện Biên Phủ được đăng
trên báo Thần Chung dưới ký tên Cẩm Vân. Cô càng được nổi tiếng, dĩ nhiên. Và tôi đã lặng lẽ
rút lui theo dự tính, qua viết cho báo Tiếng Dội.
Còn cả nửa năm nữa Điện Biên Phủ mới thất thủ và cuộc thương thuyết ở Paris diễn tiến
dằng dai trước khi kết thúc bằng Hiệp Định Genève 54. Thời gian ngắn ngủi làm ở báo Tiếng
Dội thật bận rộn vì tôi cố sức hoạt động để cốt chứng tỏ tên tuổi phóng viên Văn Bia ở ngoài
Thần Chung vẫn không lu mờ.
Tôi đã lầm lẫn khi bỏ báo lớn đi làm phóng viên cho báo nhỏ. Tờ báo nhỏ bị thua thiệt thấy
rõ. Bấy giờ tôi mới nhận thức ảnh hưởng của một tờ báo lớn và cái may mắn mình đã được làm
trong Thần Chung, nhờ đó được nhiều người biết tiếng, nổi danh mau lẹ. Cô đào hay anh kép
nào bỏ một gánh hát lớn chạy qua đoàn nhỏ, dầu vì lý do gì, cũng mang tâm trạng tiêng tiếc
giống y tôi lúc đó.
Khi báo chí được mời tham dự bất cứ dịp nào, từ vụ nhỏ nhặt thông thường như khánh thành
nầy nọ, khai trương triển lãm, kỷ niệm lễ lạt, mừng sinh nhựt chánh khách to, đám cưới con
ông lớn, v.v…, đến đình đám, kinh lý, ngay cả xuất ngoại tham quan, các tờ báo lớn được chiếu
cố mời mọc trước nhứt và đầy đủ.
Lúc làm Thần Chung, ông Nam Đình dự tiệc không xuể, trao thiệp cho tôi đi ăn mệt nghỉ. Mỗi
cuộc tiếp tân là một dịp tạo thêm quen biết, càng giao thiệp rộng càng thiết lập thêm cơ sở thâu
lượm tin tức đặc biệt cần thiết cho một phóng viên.
Hoàn cảnh thua thiệt khích động xây mộng lập thành tích. Tôi nghĩ tờ báo Tiếng Dội sao lại
không thể từ nhỏ phát triển mạnh lên như Thần Chung. Ông Trần Tấn Quốc và ông Nam Đình
xuất thân phóng viên ngang cơ nhau. Tờ Tiếng Dội của ông Quốc có sẵn lá bài ăn trong tay,
đang có được cây viết thể thao vô địch là Thiệu Võ, ông Nam Đình rất thèm thuồng. Độc giả
say mê túc cầu càng ngày càng đông đảo, chờ đón đọc bài tường thuật của Thiệu Võ mà thôi.
Nay có tôi là thêm lá bài cho Tiếng Dội thắng.
Trần Tấn Quốc chấp nhận tức khắc đề nghị của tôi thiết lập phòng tối tại tòa soạn cho tôi có
thể rửa hình ngay, để lên mặt báo sớm hơn các báo khác. Điểm nầy ăn đứt cả Thần Chung
đúng như tôi dự đoán. Tuy tốn kém, hình ảnh được độc giả hoan nghinh rõ rệt, chứng tỏ phần
nào giá trị một tấm hình bằng nghìn chữ viết. Anh Hai Dầu chủ Cliché Dầu nhìn nhận tôi khơi
động phong trào nhựt báo in hình ảnh, giúp phát triển ngành làm bản kẽm một sớm một chiều.
Ở Thần Chung, bài nào tôi viết xong, thường được hối hả đưa thẳng cho thợ sắp chữ, tổng
thơ ký hay chủ báo không có thì giờ để đọc lại. Ông Nam Đình không hề sửa bài tôi viết, trong
khi ông Trần Tấn Quốc chịu khó đọc qua và thêm bớt vài chữ hay một câu, thấy bài gọn hẳn rõ
rệt. Tôi đặt tin tưởng thành thạo nghề ở đây, cố sức đưa tờ Tiếng Dội lên không thua Thần
Chung.
Máu ham cạnh tranh nầy, tôi luôn luôn sẵn có trong huyết quản. Sau khi bị báo Tiếng Chuông
sa thải và không đầu quân vào tờ báo nào ở miền Nam được nữa vì đã bị ngoại trưởng Trần
Văn Lắm trù, bẻ gãy ngòi viết, tôi tạm giải nghệ làm báo, nhảy vào thương trường, mở nhà
thuốc Tây tại Chợ Búng (Lái Thiêu), lúc đó đã có sẵn hai nhà thuốc rồi là Minh Nhựt và Hiệp
Hòa. Sanh sau đẻ muộn lại kém vốn, tôi phải dùng chước mới cạnh tranh nổi.
Tôi chọn nghề bán thuốc Tây vì thấy anh Hai tôi mở tiệm Trữ Âu Dược ở Lái Thiêu có vài
năm mà đã khá khẳm. Từ ngày theo lời kêu gọi bất hợp tác với Pháp, anh tôi bỏ chỗ làm công
chức ngon lành trong trường Petrus Ký, lận đận suốt cả chục năm trường, đạp xe đi bán Mytox
cho ông Huỳnh Văn Mỹ và bỏ mối xà bông giặt đồ cho các đồng nghiệp cũ. Bạn bè làm ở Petrus
Ký thương mến anh, mua giúp. Hơn một lần, họ khuyên anh trở lại trường, sống lại đời công
chức cho an nhàn. Anh tôi cương quyết giữ vững lập trường bất hợp tác với Pháp, quyết lòng
đứng trong hàng ngũ ”trùm chăn”, chịu sống nhiều năm kham khổ.
Lúc anh tôi mở tiệm cũng sau người ta và yếu vốn, mượn thêm tiền của tôi, làm phóng viên
mà cũng dư khá, không phải nhờ làm tiền hay ăn hối lộ, mà nhờ lương cao và tiện tặn không
tiêu xài. Anh tôi đặt tên hiệu nhà thuốc là LÊ HỒNG là tên dòng họ tôi. Tất cả anh em trai gái
nhà họ Lê của tôi đều có chữ lót HỒNG. Chỉ có một mình tôi lót chữ VĂN mới có chuyện mang
bút hiệu VĂN BIA. Đáng lẽ tên tôi phải là Lê Hồng Bia và như vậy bút hiệu tôi cũng phải là HỒNG
BIA nghe đỏ quá cỡ.
Không rõ có phải do số mạng hay không mà khi khai sanh tôi, ba tôi vắng mặt, chú Sáu tôi
lên làng khai thế, dùng chữ lót thông thường là VĂN. Chữ BIA thì không thể quên mà khai sai
được vì ba tôi đã đặt sẵn trước tên con cái theo câu ”Chung Thủy Phú Toàn Tiến Phúc Bia”.
Tôi vẫn chuộng tên họ Lê Hồng, nên dùng làm tên hiệu cho các cơ sở làm ăn của tôi: nhà
thuốc Tây Lê Hồng ở Chợ Búng, trại chăn nuôi Lê Hồng, nông trại Lê Hồng ở Thuận Giao và đồn
điền Lê Hồng ở Đà Lạt. Nay ở Hoa Kỳ có thêm Lê Hồng xuất bản cuốn Hồi Ký nầy.
Vốn ít, tiệm nhỏ, phải cố gây ấn tượng đầy đủ thuốc, tạo tin tưởng cho khách hàng. Nhiều
tháng trước ngày khai trương, tôi dặn anh tôi để dành lại tất cả những vỏ hộp thuốc không. Nhà
thuốc có thói quen khui bán lẻ gần như hầu hết các loại thuốc. Ngay cả thuốc nước, nhiều người
muốn mua uống thử vài liều thôi. Chiều theo ý khách hàng vừa giữ được mối vừa kiếm lời nhiều
hơn.
Ngày khai trương, các tủ thuốc chưng đầy nhóc đủ loại, thấy thật xôm tụ. Ai nấy trầm trồ
nhà thuốc tôi lớn, chứa đủ nhiều các thứ thuốc quá. Thật ra, mỗi thứ chỉ có một vài hộp hay
chai bán được, kỳ dư đều là hộp trống không của anh tôi đã để dành cho.
Vì chỉ đủ vốn mua vài món cho mỗi loại, khi có liên tiếp khách hàng mua trùng một loại thuốc
là tiệm sạch bách thứ đó, tôi phải ba chân bốn cẳng đạp xe đạp sáu cây số xuống nhà thuốc
của anh tôi ở Lái Thiêu bổ hàng tốc hành. Lúc đầu, có ngày tôi phải cong lưng chạy vù vù ba
bốn tua (tour = vòng, lần), để em tôi đứng bán thuốc phụ, dùng ba tấc lưỡi cầm khách chờ đợi.
Sức tôi vẫn còn thừa thãi như hồi đi tu, đi Khu, hay đi làm phóng viên.
Không đầy hai năm sau, nhà thuốc của tôi, lúc đầu thật sự chỉ là tiệm Trữ Âu Dược, sau có
mướn dược sĩ Nguyễn Thị Lan Anh, kế đó đến cô dược sĩ Trần Ngọc Nhan, mới đúng danh nhà
thuốc Tây, nhảy vọt lên thành nhà thuốc lớn nhứt trong vùng. Lúc làm báo Tiếng Dội, tôi cũng
đã tin tưởng sớm muộn tờ báo nầy sẽ vọt lên đứng hàng đầu.
Tiếc thay, không đầy một năm sau, tôi phải rời Tiếng Dội vì quyết định phải khuất xa Thu
Tâm. Tuy vậy, trong khoảng mấy tháng hợp tác ngắn ngủi, báo Tiếng Dội của ông Trần Tấn
Quốc cũng đã có dịp đưa tên tuổi Văn Bia lên rầm rộ.
CHƯƠNG 42
Hạng ký giả viết tuyên truyền cho bè phái của mình, vì sinh kế hay vì lý tưởng cũng vậy, đều
khó được sự kính trọng của đại chúng và dễ gì được lưu danh, ngoại trừ họ có văn tài xuất
chúng. Muốn giữ cây viết mình có giá trị, phóng viên phải vô tư, không thiên tả thiên hữu hoặc
làm điềm chỉ viên cho chế độ hay phe phái nào.
Nhiều dịp làm việc chung với Francois Sully hoặc gặp nhau trong khi hành nghề, tôi học được
lối viết vô tư thuần túy thông tin của ký giả nầy. Bài tôi viết không hề để lộ óc bài ngoại, tuy
trong lòng, nỗi căm hờn cứ gia tăng sôi sục vì Pháp hết cướp nước tôi, đến sát hại Ngọc Anh
yêu thương của tôi. Rồi khi nghề cầm viết vừa lên, nhờ được chút tiếng tăm gợi được sự chú ý,
tôi vừa tưởng đã chiếm được một người đẹp tuyệt vời, thì lại ngỡ ngàng biết mình đã bị Pháp
hớt giựt trước tôi rồi.
Đó là một đóa hoa hiếm từ Cao Lãnh tôi gặp lúc làm trong tờ báo Tiếng Dội. Thân hình mảnh
mai luôn luôn trong chiếc áo dài đơn giản thay đổi màu chớ không hề có bông hoa sặc sỡ. Nét
mặt và dáng dấp kiều diễm với búi tóc nhỏ lẳng lơ sau ót. Nàng ngồi bên cạnh quản lý, nơi bàn
viết kê ngay tại cửa bước vào tòa soạn. Mọi người từ khách tới nhân viên đi vào văn phòng đều
phải ngang qua người đẹp. Vậy mà sau mấy tháng làm việc ở đó, tôi chưa để ý tới nàng, cho
đến khi có người làm mai mối. Đúng hơn, tôi không muốn lưu ý đến một giai nhân đang có
nhiều đàn ông săn đón. Nào là anh quản lý, nào là các ký giả trẻ, nhứt là mấy anh phóng viên
thể thao kịch trường. Đặc biệt sốt sắng đeo dính là ký giả “tuổi trẻ tài cao” Nguyễn Ang Ca.
Không thấy phận mình gối rơm, cũng phải thấy cuộc chạy đua cam go. Nếu lúc đó có thi
chấm điểm thì chắc chắn tôi giựt giải về ăn mặc lượm thượm lết phết và có thể được lãnh vô
địch về hôi rình. Ăn cơm tiệm quanh năm. Mỗi tuần thay đồ và tắm rửa có một vài lần. Có phải
vì quen thói từ hồi còn ở tu trong nhà dòng, và ngay cả lúc ở trong Khu, mỗi tuần thay đồ và
tắm có một lần. Sau nầy nghĩ lại, tôi không ngờ mình đã có một thời ở dơ quá. Thời đó cũng là
lúc tôi thường tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm.
Không ai lưu ý tôi về việc vệ sinh, ngoại trừ anh Năm Đáng đã thường uống xây chừng (ly
cà phê nhỏ) với tôi. Anh làm bồi cho nhà cô nữ sinh đài trang ở chợ Bà Chiểu tôi có nhắc qua
trong Hồi Ký nầy. Anh hỏi tôi có đồ giặt đưa anh giặt ủi cho. Từ trước tôi tự giặt lấy, không hề
bỏ tiệm, bây giờ thuận để anh kiếm thêm chút tiền, đồng thời tạo dịp cho tôi tiếp xúc thường
xuyên với đường dây thông tin mặt trận tình đầu của tôi. Anh nhắc khéo khi trao đồ sạch lại
cho tôi:
– Cổ áo thầy dơ quá, tôi chà thiếu điều rách cũng chưa trắng nổi.
Thế mà con chồn hôi là tôi được tuyển chọn. Bất ngờ, một hôm, Tổng Thơ Ký báo Tiếng Dội
là ông Lê Văn Thử bút hiệu Việt Tha, trong làng báo rất quen thuộc với hỗn danh Chuột Tha
(chữ Nho ” thử ” có nghĩa là chuột), rủ tôi chiều Chúa Nhựt lại nhà ông già Thu Tâm nhậu chơi.
Tôi coi đó là một cuộc rủ ren thường, thỉnh thoảng xảy ra nên chẳng mấy quan tâm và bỏ
qua. Song sáng Thứ Hai vào tòa báo, ông Việt Tha nhằn tôi tận mạng, nói người ta làm bữa
cơm thịnh soạn đông người như ăn tiệc mà không có tôi tới dự. Tôi trả lời qua loa là không kỳ
nầy thì còn dịp khác.
Dịp khác lại tiếp liền vào ngày Chúa Nhựt kế. Tôi không còn thoái thoát được. Tới nơi thấy
cảnh giống y như ông Việt Tha đã tả tuần rồi. Một bàn tròn lớn ê hề thức ăn có đông đảo người
lớn, quần áo chỉnh tề, ngồi xoay quanh. Tôi được trịnh trọng úp mở giới thiệu như là một chú
rể tương lai.
Lại lỡ leo lên lưng cọp nữa, tôi nghĩ thầm. Phải nhìn nhận tôi đã đóng vai khá chỉnh, không
chút dấu hiệu phản đối. Thấy rõ tôi là nhân vật chánh trong bàn tiệc, quan khách xúm nhau
chất vấn tôi về cái nghề phóng viên. Ba của Thu Tâm hỏi thăm nom nhiều hơn hết, sâu vào chi
tiết và tỏ vẻ lo ngại cho an ninh của tôi những lúc tôi đi đến các vùng quận lỵ xa xôi điều tra
bắt hạm.
Tôi chưa kịp dứt điều chỉnh lại nhận xét đây chắc không phải là lễ coi mắt hay dạm hỏi, mà
là những người ái mộ nghề nghiệp phóng viên tổ chức bữa cơm thết đãi tôi thôi, thì lúc bước ra
ngoài, từ giả về, má Thu Tâm, hai tay nắm chặt lấy bàn tay tôi, run rẩy nói những lời trìu mến,
tôi không nghe rõ nhưng rất hiểu ý nghĩa. Tôi có cảm giác nhận được tình thương yêu thực sự
tha thiết chuyền từ đôi bàn tay của bà qua tôi.
Khi ra về chung với nhau, ông Việt Tha thốt lên câu tôi đã biết quá:
– Hai ông bà chấm mầy làm rể rồi đó.
Tôi có chịu làm hay không là chuyện khác. Mà sự thật, dại gì không chịu. Nàng đẹp hơn tất
cả những người con gái tôi đã biết, trừ Ngọc Anh của tôi trong bưng biền đã chết vì giặc Pháp.
Hơn nữa, bao chàng ký giả đang thèm thuồng được như tôi.
Ngay từ sau bữa tiệc trình diện, tôi đã như thuộc trong gia đình của Thu Tâm. Tôi và nàng
thân mật như đã quen biết từ lâu, tuy ở tòa soạn thì vẫn gần như không hề trao đổi lời hoặc cử
chỉ nào.
Nàng nổi tiếng không cười, ít nói, làm thinh làm việc. Bữa chiều nào muốn đi chơi với tôi,
nàng đợi lúc tôi đi ngang qua bàn, xẹt cho tôi một miếng giấy nhỏ nàng có viết vắn tắt mấy chữ
như: ” Chiều nay có tuồng Chiếc Lá Vàng hay lắm, đi không? ” Y như kiểu ông Diệm thường viết
nhắn tin tôi. Chỉ có khác là không có ghi thêm hàng chữ ” coi rồi đốt đi ”, nên cả chục năm sau
tôi còn lưu giữ mấy mẫu giấy ấy của Thu Tâm, làm kỷ niệm.
Trong đời có dịp quen thân với khá nhiều phụ nữ, tôi để ý những người đàn bà đẹp họ giống
nhau ở điểm ít nói. Bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu, là trường hợp khác biệt. Bà nầy
gặp tôi, hay chí chóe, tôi nghe thiếu điều không muốn kịp.
Nhớ trong những ngày đầu Ngô Đình Diệm về chấp chánh, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh
còn nắm binh quyền, ra mặt chống đối, chưa chịu rút lui, và đài phát thanh ngạo mạn ra rả
những luận điệu tuyên truyền bôi bẩn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm như:
Nực cười cho họ Ngô Đình
Trai không có vợ mượn tình em dâu
Đó là giới chánh trị họ xâu xé nhau. Ông Diệm muốn biết trong dân gian nghĩ gì. Tôi đeo
dính theo ông Nam Đình, tin là sẽ nắm được tình hình đích xác vì cô Cẩm Vân, con ông, là bồ
của tướng Hinh. Ông Nam Đình nói ông Diệm tiêu tùng, người dân chỉ biết theo phe nào thắng
thôi.
Bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Thị Lệ Xuân và ái nữ Ngô Đình Lệ Thủy năm 1963
Lúc đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ở dinh Gia Long, chung với cựu Thủ Tướng Bửu Lộc. Tôi
đi đâu cũng vận quân phục ngừa bị bắt lính. Một lần vô dinh Gia Long, như thường lệ do ngả
cửa bên hông có bàn viết của đổng lý văn phòng Thủ Tướng, tôi đi thẳng tới giữa dinh, vừa
bước vài tam cấp lên lầu thì gặp ông Bửu Lộc từ trên đi xuống hỏi:
– Anh lính nầy đi đâu vậy?
Tôi trở lại ngả cửa hông nói cho anh chánh văn phòng biết sự việc. Anh mới cho tôi hay ông
Bửu Lộc không muốn anh em mình đi lung tung trong dinh.
Thấy giản tiện nhứt là tới gặp ông Ngô Đình Nhu còn ở nhà phía sau dưỡng đường Thánh
Phê-rô. Tôi vừa mở miệng nói cho ông Nhu nghe chuyện ông Hinh tiết lộ với Cẩm Vân là sẽ
chống đối ông Diệm tới kỳ cùng, thì bà Nhu ong óng lên, xổ một tràng lời giận dữ, trong đó tôi
còn nhớ có câu:
– Ừ, để coi cái thằng Hinh nó dám làm cái gì không. Thách nó đó. Thách nó đó.
Bà nầy tôi ưa không vô mà người ta đồn ông Diệm mê thì hết nói. Tôi không dám quả quyết
Ngô Đình Diệm phải bực mình về cái nết của bà em dâu, vì chưa bắt gặp lần nào. Tuy nhiên,
nhớ những lần tôi phải xách cơm tới ăn với ông, tôi có thể luận ông Diệm có ngại ăn nhờ gia
đình người em trong những trường hợp nào đó. Và còn lý do tại sao ban đêm ông Diệm không
qua nhà ông Nhu dùng cầu tiêu mà phải đi tiểu tiện ngoài hàng rào.
Nếu tôi không bận rộn vì nghề nghiệp và nếu tôi sốt sắng đề nghị thường trực lo cơm nước
cho ông Diệm thì chắc ông nhận lời tôi. Ông Nhu trầm ngâm lặng lẽ, ăn nói chậm rãi bao nhiêu
thì bà vợ ngược hẳn lại bấy nhiêu.
Bỏ bà Nhu, trở lại tiếp chuyện người đẹp tôi đang tìm hiểu để chắc có thể trở thành người vợ
tương lai. Tôi chở nàng về chơi trong vườn sầu riêng nhà tôi ở Hốc Môn, nhân tiện giới thiệu
nàng với ba má tôi, không gặp trở ngại hoặc phản đối.
Nàng là người mẫu tuyệt vời cho tôi chụp hình tại nhiều nơi thắng cảnh. Thường nhứt ở tại
bến đò Lái-Thiêu, nơi có cây dừa nằm nghiêng ngả bên bờ sông Cái.
Mỗi ngày tôi như được xô đẩy thêm gần Thu Tâm hơn. Tôi vẫn còn ngại đi chơi một mình với
nàng vào buổi tối. Chị Sáu nàng dè dặt hơn vì đã có gia đình, còn chị Bảy thường nhận lời tôi
mời đi ăn chung với chúng tôi, song lần nào cũng kiếm cách rút lui sớm để một mình chúng tôi
tiếp tục đi chơi khuya.
Biết mình bị lùa vô vòng, song chiếc vòng đẹp như cầu vồng ngũ sắc. Tôi khoái chuyện trò
trong khi nàng thích hành động hơn nói. Sau lần cùng ngồi xem tuồng cải lương hay xi-nê tôi
không nhớ rõ, nàng kéo bàn tay tôi đặt vào giữa bắp vế nàng rồi lấy vạt áo dài, hôm đó màu
vàng, phủ lên trên. Tôi nghĩ nàng phải là vợ tôi mà thôi.
Từ trước giờ tôi chưa hề sàm sỡ với người nữ nào ngoài gái ăn sương. Sáng hôm sau, tôi đến
tiệm vàng Alfana ở đường Catinat đặt làm một chiếc kiềng vàng y đúng một lượng, tuần sau
mang đến nhà tặng nàng. Nàng luôn luôn mặc áo dài mà có chiếc kiềng vàng trên cổ xinh xắn
thì tuyệt.
Tôi tính chưa thể tặng nhẫn đính hôn vì còn nhiều điểm thắc mắc về nàng. Tánh quá dễ dãi,
sự giao tiếp với những đàn ông khác tôi nghi có liên hệ sâu đậm, như với anh quản lý mà có
một lần tôi bắt gặp chị Bảy nàng viết thơ cho anh ta, yêu cầu anh đừng khuấy phá hạnh phúc
của em nàng. Hình như anh quản lý cố tình để tôi đọc được bức thơ đó.
Có một lần tôi đang ở chơi tối tại nhà nàng thì anh ta lái xe Vespa tới, thản nhiên nói ông
chủ báo Trần Tấn Quốc cần cô thơ ký đến tòa soạn làm việc gì đó, nhờ anh ta tới rước. Tôi nhớ
khi Thu Tâm và Ba nàng không giấu được vẻ lính quýnh thì thái độ tỉnh bơ của tôi lúc ấy giúp
họ trấn tĩnh lại. Nàng không sửa soạn, giữ nguyên chiếc áo bà ba đang mặc, ra đi. Kể ra đêm
đó ai nấy đều đóng vai rất đạt. Ba Thu Tâm còn căn dặn nàng lo làm xong về sớm.
Đầu óc phóng viên của tôi làm việc, nghi anh chàng quản lý chơi trò quăng một hòn đá được
hai mục tiêu. Một là nhắc khéo tôi đừng hòng ca câu chiến thắng, nếu được cũng chỉ là kẻ đến
sau. Hai là lưu ý cho tôi thấy anh ta chở tới cho ông chủ báo đấy. Tôi thì không thấy chở cho
chủ báo mà là chính chở cho anh ta, còn cố tình khiêu khích tôi chơi.
Nghĩ sai người chiếm hữu nàng, là một thất bại to tát nhứt trong nghề nghiệp điều tra của
tôi.
Con đường phóng viên kiêm nhiếp ảnh viên thênh thang của tôi xuyên qua không biết bao
nhiêu khu vườn dẫy đầy bông hoa xinh thắm, từ trời Đông sang trời Tây, từ Bắc xuống Nam.
Tôi sẽ có dịp đưa các bạn từ từ đi thăm lại. Tuy nhiên, cặp bồ đi chơi khơi khơi không phải là
tư cách tôi muốn xây dựng cho con người của tôi. Càng không nên nếu chỉ sâu đậm vào đường
tình ái mà không tính tiến xa hơn. Tai tiếng là những vết tiền án không bao giờ xóa khỏi bản lý
lịch của đời mình. Thời gian tìm hiểu, nếu cần, cũng cần có giới hạn.
Đây là lần đầu tiên tôi đã tính tới chuyện quan trọng trong đời tôi là lấy vợ. Và Thu Tâm là
người tôi định chọn. Sự giao thiệp của nàng với đàn ông, cũng như tánh nết nàng thì tôi biết rõ
như biết rõ sắc đẹp của nàng tuyệt vời. Đóa hoa quá đẹp quyến rũ quá nhiều ong bướm. Việc
tất yếu là qui định căn bản hầu tạo được một môi trường thích hợp cho sự vững bền và hạnh
phúc của gia đình tương lai chúng tôi.
Thu Tâm không một chút do dự chấp thuận đề nghị của tôi đưa nàng vào một khách sạn kín
đáo khá sang ở Chợ Lớn để bàn chuyện quan hệ của hai đứa. Hành động của tôi có toan tính.
Tôi vừa thử bài toán thấy trúng phóc. Tôi đã dự định sẵn trong đầu óc, gặp trường hợp nàng
bất mãn về đề nghị sỗ sàng của tôi, tôi sẽ giải thích việc tiếp bạn gái ở khách sạn quá quen
thuộc đối với tôi, một người rày đây mai đó không nhà cửa. Như hồi làm báo Thần Chung, có
biết bao nhiêu nữ sinh đến gặp tôi trong khách sạn Tây Hồ ở Cần Thơ. Có một cô tên Thu Tâm
như nàng cũng đã vô đó thăm tôi.
Tuy nhiên, với một thiếu nữ nào khác, ý kiến chọn một địa điểm như thế có thể là một sỉ
nhục. Song tôi nhận xét không lầm về Thu Tâm. Bây giờ tới phiên tôi không được quyền lường
gạt Thu Tâm. Nàng sẽ về với tôi không còn trinh nguyên. Nhưng việc đó đối với tôi không thành
vấn đề. Tôi có cách coi nàng còn nguyên thủy trong sạch. Nên tôi mạnh dạn đưa nàng vào
khách sạn.
Hình như nàng chờ đợi việc vợ chồng, cởi đồ ra. Tôi cũng làm theo nàng, nằm song song
nhau trên giường. Và tôi bắt đầu nói với tất cả sự thành thật của lòng tôi.
Tôi giải thích cho nàng biết trong đạo Công Giáo của tôi có Phép Giải Tội. Khi mình đã phạm
tội gì cho dầu có nặng đến đâu mà mình ăn năn hối lỗi, chịu xưng tội đó ra, thì được trong trắng
trở lại.
Tôi nói những lời dưới đây mà bây giờ còn nhớ để viết y lại, thấy tôi vừa quá tàn nhẫn vừa
quá độc tài đê tiện, bắt người mình yêu làm chuyện phi lý, chỉ cốt thỏa mãn tánh kiêu căng hèn
hạ của một thằng đàn ông. Tôi vô cùng xấu hổ, nhưng vì tự hứa ghi lại tất cả những tội lỗi của
mình, mong cho con cháu đừng ngu dại như tôi. Lúc đó lại còn cho mình có sáng kiến quá hay
ho, biết “rửa tội” cho người ta. Cho nên tôi ghi lại những lời ngu xuẩn của tôi như chịu hình phạt
để tạ tội với người tình xưa đã quá cố:
– Em ơi! Mình phải trong sạch trước khi thành vợ chồng với nhau. Anh muốn em về với anh
hoàn toàn trinh trắng, không còn dính chút vết dĩ vãng nào làm anh buồn và gây em tủi. Em
làm được việc tẩy rửa quá khứ nầy bằng cách chính miệng em khai nhận đã có người nào đi
qua đời em trước anh.
Nàng im lặng, không nói năng gì. Tôi thúc hối mấy lượt như tay sát thủ thọc lia lịa lưỡi dao
bén nhọn vào bờ tim nàng. Sau một hồi ngần ngừ tội nghiệp, Thu Tâm van xin:
– Cho em đánh vần tên thôi, được hông?
Bằng chứng tình yêu thật quá vĩ đại Thu Tâm ban phát cho tôi, nàng mới có đủ can đảm nghĩ
ra cách đẩy cho tôi hiếp dâm cả linh hồn hay tâm trí thiên thần của nàng. Lúc đó tôi không biết
tôi là thằng khốn nạn mới phải nhận lãnh bản tử hình tình yêu ngay tại trận.
Tôi mất ngang Thu Tâm, không bao giờ được gặp lại nàng lần nào nữa, từ phút giây nàng
đánh vần xong 9 chữ:
– C H A I L L A R D.
Nếu Thu Tâm đánh vần ra một tên Việt Nam như Nguyễn Ang Ca, Đặng Văn Nhâm hay Quốc
Phượng, hoặc tên anh quản lý, thì còn may phước cho tôi biết mấy. Tôi sẽ không mất Thu Tâm,
dầu đã có đốn mạt hành hạ nàng trước khi được hưởng.
Trong đời tôi chỉ gạt gẩm có một người; nạn nhân duy nhứt bị tôi thất hứa đó là Thu Tâm.
Thật ra, khi tức khắc ngồi chồm dậy mặc quần áo vào, không tiến hành khởi sự làm chuyện vợ
chồng như đã dự định, tôi chỉ khất khứa (nguyên văn):
– Anh còn cần một thời gian nữa mới được.
Thật tình tôi chưa hẳn quyết định tuyệt tình với nàng vì còn trông mong tháng ngày trôi qua
có thể sớm muộn bôi xóa hận lòng vừa mới bất ngờ xảy đến.
Ngày hôm sau, Thu Tâm không có đến tòa soạn làm việc. Tôi tới nhà tìm nàng. Nàng không
ra tiếp, để đứa em gái mang một hộp giấy vuông dẹp trao cho tôi, nói:
– Chị Tám em gởi cái nầy cho anh.
Tôi cầm lấy nghe nặng nặng, biết là có đựng chiếc kiềng vàng tôi mới tặng Thu Tâm hôm
nào làm vật đính hôn nên vội quăng trả liền xuống bộ ván trước mặt, nói:
– Quà nầy đã tặng cho chị Tám em, không còn thuộc về anh nữa.
Tôi bỏ ra về ngay, sực nhớ câu tôi vừa nói là lập lại giống như câu của Ngọc Anh đã đáp khi
tôi ngỏ ý đền lại chiếc nhẩn đính hôn “Nó đã thuộc về của anh rồi mà”, và nghĩ: “Lại thêm một
người yêu lý tưởng nữa sẽ không bao giờ thuộc về mình.”
Khi từ chối sự hiến thân của nàng, Thu Tâm biết chắc không bao giờ tôi còn có thể chung
sống được với kẻ đã có ngủ với người thù dân tộc. Tuy nàng đã phân bua nàng thất trinh trong
trường hợp đáng thương. Anh chàng Tây lai nhà ở kế vách tòa soạn báo Tiếng Dội thỉnh thoảng
rủ nàng qua chơi; một hôm nàng bị ép uống rượu và bị phá trinh ngay tại trên lầu.
Lòng thù Pháp một cách quá khích của tôi lúc ấy đã làm tôi mất Thu Tâm không chút nuối
tiếc. Sau nầy nghĩ lại tiếc ơi là tiếc, đồng thời thấy mình đã phạm một lầm lỗi không tha thứ
được. Từ tuổi ấu thơ, tôi không được ai dạy cho lòng yêu nước đúng nghĩa chân chính cho nên
tôi mới đã có từ hành động hẹp hòi nhỏ nhen nầy tới ý nghĩ lệch lạc quá khích khác. Lòng ái
quốc của tuổi trẻ thường mù quáng thành ra dễ bị lợi dụng khai thác biết bao. Bất cứ đảng phái
hay tôn giáo nào cũng đều nhắm vào giới trẻ tuổi là như vậy.
Việc ông Việt Tha cố tình làm mai cho tôi một cách gần như trắng trợn, đã đưa ra nhiều nghi
vấn cho tôi. Trên đường tình mờ mắt không sáng suốt bằng trên đường nghề nghiệp, tôi đã chủ
quan đoán sai xa lắc. Cũng tại ông Trần Tấn Quốc quá già giặn tay tổ trong nghề, ngụy trang
tinh vi mối tình vụng trộm, che mắt được phóng viên có tiếng là tài ba của ông.
Vừa nhận vào làm cho báo Tiếng Dội, tôi muốn gì được nấy. Tôi ước có một phòng tối để rửa
in cấp tốc hình ảnh ngay tại tòa soạn, ông Quốc đặt cho thợ làm liền tại phía sau bếp, gần bồn
nước. Do đó tôi rất thường có mặt trong nhà hai vợ chồng Trần Tấn Quốc ở ngay tại tòa soạn.
Có khi tôi ở đêm để rửa hình đặc biệt giờ chót. Gia đình vợ chồng Quốc thấy êm ấm, có một bé
gái khoảng mười tuổi rất dễ thương và trổ tài như mẹ rất sớm, đã vừa diễn vừa ca rành rạch
những bài vọng cổ khoe với tôi.
Sau nầy tôi mới rõ lý do sốt sắng làm mai của ông Việt Tha là để cứu vãn hạnh phúc gia đình
của ông Trần Tấn Quốc và bà Thanh Loan. Nhưng không kịp. Cuộc hôn nhân của tôi với Thu
Tâm bất thành, nàng sa vào vòng tay ông chủ báo Trần Tấn Quốc. Bà Trần Tấn Quốc tức là
nghệ sĩ Thanh Loan, buồn gia đình, bỏ đi Khu. Sau ngày 30 tháng Tư 1975, bà trở về với chức
bí thư của bà Bộ Trưởng Nguyễn Thị Bình.
Vợ chồng Trần Tấn Quốc Thu Tâm sống mặn nồng hạnh phúc đặc biệt, mới có việc ông Quốc
trối dặn chôn chung một mả, nằm chồng lên trên vợ. Thu Tâm bất thình lình chết trước ông,
đang lúc đi chợ ở Bình Hòa gần nhà.
Cuộc đời ngắn ngủi của giai nhân kể ra quá đẹp đẽ như con người tuyệt vời của nàng. Anh
xin lỗi Thu Tâm. Em tha thứ cho anh sự khờ dại của tuổi trẻ. Nếu được em bây giờ, như anh
đang được người bạn đời, anh chỉ đơn giản dùng tình yêu gội rửa trôi tan dĩ vãng, cho dầu dĩ
vãng kề cận hôm qua, hay mới hồi sáng. Tình yêu là lòng bao dung.
Khi chọn vợ, tôi không còn nhắm vào nhan sắc, nghĩ trên cõi trần gian nầy không còn ai đẹp
bằng hai người tôi đã liên tiếp mất là chiến sĩ tóc dài Ngọc Anh và cô thơ ký Thu Tâm. Tôi cũng
không biết ”làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Một hôm có một cô nữ sinh trường Trịnh Hoài
Đức ở Chợ Búng ghé vô nhà thuốc Tây của tôi hỏi mua một hộp thuốc Calcium. Rồi sau đó, cứ
khoảng một tháng cô ta vô mua một lần cũng thứ thuốc đó.
Tôi chiếp (nhắm) cô ta hồi nào không hay, trong số đông đảo nữ sinh đồng lớp, sắp đẹp
ngang ngửa, toàn là người đẹp Bình Dương chánh gốc mà. Có những nàng mái tóc buông dài
phủ mông như chiến sĩ tóc dài Ngọc Anh của tôi. Song không nàng tiên Trịnh Hoài Đức nào tạo
hấp dẫn ngoài cô nữ sinh nghiêm trang, hà tiện lời nói, đã thôi miên tôi.
Được biết nàng mua thuốc cho người cô Năm bịnh lao phổi cần uống đều đều thêm chất vôi.
Một tháng tiếp xúc có một lần thấy lâu lắc khổ sở quá. Ngày ngày nàng đi học bằng xe đạp,
lượn qua lượn lại trước nhà thuốc của tôi hai lần, như trêu gợi. Tôi nghĩ kế buộc nàng phải ghé
tiệm tôi mua đồ thường xuyên.
Tại góc đầu Chợ Búng ngay quốc lộ 13 có phòng Thông Tin nhỏ của xã. Tôi đề nghị với Ủy
Ban Hành Chánh cho tôi cất tặng một phòng Thông Tin to lớn tại phía đầu kia chợ, trước văn
phòng xã, bù lại nhường cho tôi phòng nhỏ cũ kia. Xã chấp nhận, tôi bỏ tiền ra xây phòng Thông
Tin mới, đập phá phòng cũ để trơ lại miếng đất chéo hẹp té. Ai cũng nói tôi làm một cuộc đổi
chác ngu dại.
Tôi xây lại trên đó một căn lầu cho đủ trên trữ dưới bán thuốc Tây, thêm vài quầy làm tiệm
sách và bán dụng cụ học sinh. Địa thế ngay đầu chợ và đầu đường thì tôi chấm đúng, không
ông thầy địa lý nào hơn tôi được.
Con mồi tôi nhử, bước vào tiệm tôi đúng ngay ngày đầu khai trương. Nàng hỏi mua cuốn
Luận Án Kim Vân Kiều. Tôi gói kèm theo cuốn Truyện Kiều với luôn vài tờ giấy bao sách, để hôm
sau nàng phải trở lại hỏi sao nàng mua có một cuốn mà ra đủ thứ vậy. Tôi ú ớ trả lời vậy vậy,
ngày khai trương mà.
Y chang theo tính toán, bán dụng cụ học sinh thường dùng, nhứt định cô nữ sinh viếng tiệm
tôi mỗi tháng hơn một lần thay vì chỉ có mua thuốc không thôi. Vậy mà còn phải cả ”ba năm
ròng rã đón săn tìm” nữa (câu trong bài thơ Ngàn Trang Nhựt Ký của tôi). Cua đào khơi khơi
chơi thì quá dễ, mà cua cho được người mình chọn làm vợ, thật trần ai khoai củ. Không khác gì
một trận chiến cam go dằng dai.
Để chiến thắng, tôi mở nhiều mặt trận bao vây. Xung quanh chỗ nàng ở là những nhà giàu
hoặc khá giả. Phía ngoài đường là biệt thự của ông Bộ Trưởng Lâm Lễ Trinh. Kế là mấy mẫu
vườn măng cụt của chú Bảy Kiệt, xen kẽ bởi một khu vườn của phú gia khác do anh Bảy Chơi
cất chòi ở trông coi. Tôi mượn điểm tựa chòi nầy xuất phát loại hành quân trên không khí.
Những bản nhạc Buồn Nhớ Quê Hương, Trăng Mờ Bên Suối, Tiếng Sáo Thiên Thai, Dư Âm, Biệt
Ly, Nhớ Chiến Khu, v.v.., tôi bỏ ra không biết bao nhiêu công sức tập dượt thổi sáo, để chiều
chiều tới chòi anh Bảy Chơi, đem vũ khí nầy ra phát pháo. Sau đó, nhờ anh Bảy Chơi thám thính
coi kết quả tác xạ âm thanh của tôi ra sao. Ngày nầy qua tháng nọ không thấy có gì cả. Đến khi
xáp lá cà, trực diện, tôi có tọc mạch hỏi chiều chiều nàng có nghe tiếng sáo không? Nàng đáp
gọn lỏn: ”Có nghe khỉ gì đâu”. Thêm một khí giới vô hiệu.
Tôi mở nhiều trận thế chận ví khác. Lựa giờ nàng đi học, tôi canh giờ đi bổ hàng mua thuốc
làm sao tới khoảng khúc quẹo Cầu Ngang là gặp xe đạp nàng vừa tới, ngó gặp được mắt nàng
liếc là như trúng số (tại ngay chỗ quẹo thì ngó thẳng là thành liếc mình chớ gì).
Tôi còn chơi chiêu xây đồn lập ải, mua một miếng vườn trái cây trước trường Cộng Đồng gần
trường Trịnh Hoài Đức. Giờ nàng đi học là lúc tôi lên săn sóc mảnh vườn, giao tiệm cho người
em gái trông coi. Hằng trăm nữ sinh lướt qua mà tôi chỉ thấy có nàng và chờ nàng đạp xe đi
ngang qua ải của tôi thôi.
Sáu chục bạn học cùng lớp nàng, tôi đã quen ít nhứt hơn phân nửa, trong khi tôi chưa quen
được trực tiếp với nàng ngoài lúc nàng tới mua đồ. Có đứa bạn nàng cho biết nàng là học trò
cưng của giáo sư Việt văn. Đứa khác úp mở nói coi chừng đã có thầy dạy Toán chấm cô ta rồi.
Cho dầu tôi khéo léo kín đáo điều tra tế nhị lắm, bạn học nàng bắt đầu báo động nàng sao ông
chủ nhà thuốc Tây cứ hỏi thăm tới nàng. Nàng chỉ trả lời là bà con mà. Tôi cho phản ứng kiểu
vậy là dấu hiệu tốt, cứ kiên trì chờ đợi và táo bạo tới nhà làm quen với cha mẹ nàng trước, kế
nàng sau. Bà con mà. Trong khi cứ lo canh chừng không để cho ai phỗng tay trên thì chính tôi
lại phỗng tay trên của nhiều người.
Tiếng đàn giọng huyễn không nao núng được, còn khoe tài khoe của thì tôi biết chắc càng
thất bại thảm thương đối với hạng gái khó mua chuộc như nàng. Ngày quyết định nạp ” résumé ”
cho cô ta, tôi đọc (nói) lên:
– Tuy tôi hiện đã có được chút đỉnh cơ ngơi nên mới nghĩ đến chuyện lập gia đình. Song tôi
dư biết của cải có nhiều bao nhiêu đều có thể tiêu tan trong chốc lát vì thiên tai hay xui xẻo nào
đó. (Tôi xè bàn tay tôi ra, nói tiếp). Tôi chỉ tin tưởng nơi bàn tay nầy của tôi. Ngày nào tôi có bị
trắng tay, bàn tay nầy vẫn lập lại sự nghiệp được.
Tôi không nói phét. Hai chục năm sau trốn ra khỏi quê hương với hai bàn tay trắng, tôi đã
lập lại được sự nghiệp, mua đất đai nhà cửa hai ba cái, tuy phải bắt đầu từ đi rửa chén, lau chùi
cầu tiêu ở xứ người.
Người vợ sắp cưới của tôi đã tin tôi, song còn phải vượt qua bao nhiêu trở ngại trước khi
chúng tôi được thành hôn.
Trước tiên, má tôi bảo cho bà biết coi người tôi chọn là ai. Dọc đường chở má tôi đi vào giờ
bổ hàng của tôi cũng là giờ nàng đi học, cũng tới khoảng Cầu Ngang, tôi chỉ cho má tôi cô nữ
sinh áo dài trắng đang đạp xe máy, nói:
– Con dâu tương lai của má đó.
Má tôi la tôi quá Trời:
– Hổng được đâu. Bậy bạ nè. Người ta còn con nít đi học.
Miệng lưỡi tôi mà, làm sao chịu thua má tôi:
– Nàng đã 16 tuổi rồi đó, Má. Đã có mấy chỗ người ta dòm ngó. Để trễ là bị cuỗm mất.
Má tôi làm thinh, về âm thầm sưu tra lý lịch nàng, vài hôm sau la hoảng lên:
– Oan gia rồi! Oan gia tới nơi rồi! Trời đất ơi!
Má tôi nói nàng là hòn máu rơi của ba tôi. Mẹ của phóng viên bị lây nghề điều tra hồi nào
không biết mà nói cũng xém trúng. Bồ xưa của ba tôi không phải là mẹ nàng mà là cô Năm của
nàng, chính là người mang bịnh lao nàng thường đi mua thuốc giùm.
Chuyện tình của ba tôi còn lâm ly hơn tôi gấp mấy. Trong dòng họ tôi, con hơn cha về phương
diện học vấn, chớ về mặt đào hoa đều thua xa. Các con tôi cứ mãi lo giỏi giắn trong học hành
và sự nghiệp, không có đứa nào qua mặt tôi trong địa hạt cua đào. Tôi thua ba tôi cũng là do
có cùng một thứ gi-ên (gene).
Ba tôi say mê cô Năm của nàng thuộc hàng quốc sắc. Ông nội nàng không chịu gả con gái
cho ba tôi chỉ vì lý do ông nội tôi bợm nhậu, thì ba tôi lén dắt nàng đi lập tổ uyên ương ở Thủ
Đức. Cô Năm nàng bị bắt về. Mái tóc dài phết gót của giai nhân bị chẻ ra làm đôi, cột rịt vào
một gốc cau. Người cha khắc nghiệt đánh đập người tình của Ba tôi nát bấy cả chục ngọn roi
mây, chưa đã nư, còn đòi cột đá vào cổ đem quăng xuống sông. Bà nội nàng khóc lóc van lạy,
cô Năm nàng mới thoát chết.
Nửa thế kỷ sau, người vợ tương lai của tôi, khi tới thăm hay mang thuốc tới cho cô Năm của
nàng, thường gặp một ông lão già lụm khụm chống gậy đi ba cây số từ Búng theo đường rầy
xe lửa xuống Bình Nhâm thăm người tình cũ cho tới ngày cố nhân giã biệt cõi đời. Hai người
suốt ngày kề bên nhau. Bịnh nhân nằm, thầy thuốc ngồi. Nghe gọi nhau bằng Thầy Tư và Cô
Năm dịu dàng êm ái. Tình quá đẹp vẫn còn dang dở. Má tôi là người đến sau song còn đó, ba
tôi không thể rước cố nhân về, như ngày nào đã dắt nàng đi lập tổ uyên ương ở xứ nổi tiếng
làm nem. Nay hai người đã gặp lại nhau ở cõi Trên, tôi xin vui mừng chúc phúc.
Thôi, trở lại chuyện tình mới bắt đầu của chúng tôi. Mong suốt đời giữ được tình tứ như ba
tôi với cô Năm nàng.
Khi làng xóm nghe phong phanh hoa khôi Trịnh Hoài Đức sẽ về tay ông chủ nhà thuốc Tây
Lê Hồng cũng là ký giả Văn Bia, ôi thôi tin bất lợi cho tôi ào ào ngập lỗ tai cha mẹ nàng. Người
ta báo có thấy một cô mang bụng thè lè đang ở trong nhà tôi. Tin nầy đúng. Cô gái trẻ đẹp nầy
tên Hồng Mỹ, cũng lứa tuổi vợ tương lai tôi. Một đồng nghiệp của tôi làm ở báo Tiếng Chuông
là Quốc Phượng, tức Thanh Vân, bị Công An bắt giam đúng vào lúc cô bồ anh ta mang bầu,
không dám gởi về cha mẹ ở nhà, cũng không biết đem giấu đâu, mới nhờ tôi nuôi giúp. Tôi để
cô ta ở trong một căn phố của tôi tại chợ Lái Thiêu.
Chuyện nữa. Cô Sáu của ý trung nhân tôi chạy qua nhà nàng cho hay chính chị dâu thứ Hai
của tôi là người có bà con bên nàng và cũng là người làm mai trong, tới nhà cho biết, tôi có
nuôi một đứa con riêng lúc đó đã hai ba tuổi. Trong gia đình tôi trách người chị dâu nầy, duy
có tôi hiểu ý chị nên cám ơn. Tôi có nuôi đứa con nầy là con của một trong nhiều người bạn gái
tôi, từ hồi nó mới bốn tháng.
Sau nhiều tháng đi công tác ở tỉnh về, cô bạn gái chưa tới 14 tuổi đó gặp tôi, khóc lóc và tỏ
ý muốn tự vận vì đã lỡ có thai. Cô ta còn nhỏ mà đã có nhiều bạn trai đủ hạng. Cha cô ta cũng
là một chủ báo (tờ Sao Mai). Nhà ở trong khu Gia Cư Bàn Cờ, cách nhà tôi mới mua chừng năm
sáu chục thước. Tôi đi hoài, ít khi ở đó, mà hễ về là thỉnh thoảng thấy có chiếc xe
hơi décapotable (mui trần) sang trọng Studebaker màu đỏ chói, mang số NBL -125, tới chở nàng
đi chơi. Cô ta không giấu tôi những cuộc giao du, tới khi gặp hậu quả cũng chạy tới thố lộ cùng
tôi. Tôi khuyên lơn nói làm gì đến đổi phải chết. Nếu không muốn nuôi thì ráng sanh ra, tôi lãnh
nuôi cho.
Cô ta được cha mẹ gởi về quê ở Cao Lãnh. Đến ngày sanh, tôi lái xe hơi xuống, định chở hài
nhi về như đã hứa. Tới nơi thấy đứa bé còn đỏ lói, biết không thể nào rước về liền được khi
không thể rước người mẹ, tôi đề nghị nàng ở lại thêm ít tháng chờ đứa nhỏ sởn sơ. Bốn tháng
sau, tôi rủ cháu tôi là Lê Hồng Thạch đi Cao Lãnh ẵm đứa nhỏ về. Nó bận đi làm, nhờ bạn nó
là Khanh thay thế. Bận về, tôi nhờ Khanh lái xe Standard cho tôi ẵm hài nhi.
Tôi không hề hối tiếc về hành động nhận nuôi con, song bất mãn thấy người mẹ vị thành
niên nầy được rảnh tay, chui vào vũ trường sống đời vũ nữ lúc vừa 15 tuổi. Phải dùng giấy khai
sanh của người chị luôn tới bây giờ. Hơn một lần, tôi phụ với chị nàng vào chốn vui chơi ấy lôi
nàng về.
Tôi ngưng làm anh hùng rơm sau khi bị bọn ma cô gác vũ trường hăm dọa. Cô ta thích vui
sướng đời sống đó, cũng đành thôi. Chắc nhiều sĩ quan bay bướm thời ấy không quên nàng vũ
nữ trẻ tuổi nổi bật của Văn Cảnh. Với nhan sắc hơn người và nghệ thuật chiêu đãi vượt bực,
nàng rất dễ dàng sau đó kiếm được tấm chồng nghe nói là một thương gia người Tàu. Họ có
con cái chung sống tới bây giờ tại Paris.
Tôi và em gái tôi thay phiên nuôi nấng đứa nhỏ tới lớn. Má tôi lắc đầu:
– Trong nhà, con gái không chồng con trai chưa vợ, mà có cục đeo cục thẹo nầy!
Trong ngày cưới, hai vợ chồng chúng tôi đang đứng làm lễ trước bàn thờ, thì con bé lúc đó
vừa bốn tuổi, chạy tới ôm chơn vợ tôi, cô dâu 18 tuổi, kêu ” Má ”. Tâm trạng của mỗi người
hiện diện khi đó thế nào, để độc giả suy nghĩ. Tuy nhiên, tôi phải kể ra sự thật nầy là trong giấy
khai sanh con bé Lê Thị Bích Hồng không có tên cha, chỉ có tên mẹ là Lê Thị Kim Hoàng. Và vợ
tôi và tôi sau đó đã ra Tòa xin án lập lại khai sanh vợ chồng tôi là cha mẹ đứa trẻ. Kể như vợ
tôi có sinh con hồi mới 14 tuổi.
Sau khi lập gia đình và đã có sáu con, trong thời gian 5 năm cách biệt vợ con còn ở Việt Nam,
tôi độc thân tại chỗ ở Mỹ, đã có thêm nhiều đứa con nuôi bất khả kháng. Khi vợ tôi qua, có đứa
gọi tôi bằng Ba đã hai ba tuổi, có đứa tới hai mươi tuổi.
Trong thời gian làm thông dịch viên cho bịnh viện Brighton Marine ở Boston, nơi có tới hơn
90% người Việt trong vùng đến khám bịnh, nhiều phụ nữ nhờ tôi giúp đưa họ đi phá thai. Nhỏ
nhứt mới 14 tuổi. Lớn thì phần đông sồn sồn, lúc ở trại tỵ nạn đã được chích ngừa thai hiệu lực
khoảng ba tháng. Đến chừng qua Mỹ lại bị kẹt.
Tôi chỉ nhận tiếp tay thủ tiêu một sanh mạng, dầu mới tượng hình, sau khi đã hết lời khuyên
can và chỉ vẽ những cơ quan cứu giúp và nhận nuôi, mà không thành công. Thường thường
trường hợp vị thành niên và thiếu nữ không chồng mang bầu, nhứt định đòi tự vận.
Cũng có bà nghe lời tôi chịu sanh con. Tuy tôi đâu còn dám làm anh hùng rơm như hồi trẻ
hứa nhận nuôi đứa con của Kim Hoàng, nhưng tôi cũng vẫn vui vẻ thỉnh thoảng chịu những hao
tốn nho nhỏ, mua tặng một sợi dây chuyền vàng đứa đầy tháng, một miếng lắc vàng mừng đứa
thôi nôi. Người mẹ nhận tôi là Ba của những trẻ ấy. Không sanh mà có công cứu cho tồn tại ắt
cũng đáng là cha một cách hãnh diện. Khi bặp bẹ nói được, chúng đã được dạy kêu tôi bằng
Ba, và thường là chúng đã có ba chính thức.
Còn tôi lúc đó tuổi đã gần 60, được con gái tuổi trăng rằm và có đứa hơn đôi chín kêu tôi
bằng Ba ngọt xớt cũng có ý nghĩa phần nào. Sau khi khóc lóc đòi kết liễu cuộc đời vì cái bào
thai lỡ mang trong bụng, và đã được tôi giúp giải quyết, những thiếu nữ kia tự nhiên xưng gọi
cha con với tôi, nhiều người nghe phải ngạc nhiên. Những lần đầu tôi nghe cũng ngượng ngùng.
Cũng không đẻ ra ai như mấy ông cha, tôi được mang chức cha, nghĩ xứng danh hơn vì thật
sự, tùy theo trường hợp, đã duy trì được sanh mạng của những hài nhi hoặc cứu sống được
những thiếu nữ hy sinh thai nhi.
Càng gần tới ngày đám cưới, má tôi càng lộ vẻ bối rối lo âu. Tôi nói má sắp có dâu thì mừng
mới phải, sao lại như sợ sệt. Má tôi ngán có nhiều người phá rối. Kinh nghiệm thấy nhiều đám
cưới vùng tôi ở nhà quê mà đã xảy ra lắm chuyện rắc rối. Bà kể lại, như có một vụ rước dâu
bằng xe thổ mộ bị một phụ nữ mang bầu xách dao yếm nắm cương ngựa giựt lại làm dữ. Vụ
khác, khi chú rể dắt cô dâu vô nhà thờ làm lễ hôn phối thì thấy có sẵn trên mỗi chiếc ghế của
mỗi người cắm một con dao phay sáng quắc. Vụ nữa, trước khi ông cha kịp làm phép giao, một
anh chàng xuất hiện cõng cô dâu chạy ngờ ngờ trong nhà thờ, phóng tuốt ra ngoài đường, thải
lên xe thổ mộ, đánh ngựa chạy mất tiêu.
Thành tích nhiều đào của tôi, thêm sau khi mấy chục tờ báo loan tin chúc mừng ngày hạnh
phúc của ký giả Văn Bia, nhiều bạn gái cũ của tôi hay tin, lai rai tìm đến tận nhà, mang tặng
quà cưới hoặc chắc thăm tôi lần chót, làm chính tôi cũng phải cảm động, không ngờ có những
người đẹp còn nhớ đến mình sau nhiều năm bẵng tin Gần đến giờ phút ” lái ” xe hoa, tôi mới
nhận ra là đã có lắm giai nhân thật tình yêu tôi, hay ít nhứt là thương mến tôi. Một thứ thanh
toán dẹp tiệm rắc rối hay êm đềm tùy chủ có mắc nợ gì không. Tôi hoàn toàn an tâm vì không
hề mang nợ nần tình ái với bất cứ cô nào.
Mỗi lần một nàng tới là một lần má tôi run. Trong số đó, chỉ kể sơ sơ một mớ bóng hồng xưa
của tôi, thứ có súng thiệt nghe cho ngán chơi. Như có cô nầy tên Xuân Lan làm thơ ký trong
bót Quận Ba, bồ của ông Cò Vĩnh. Nàng thích đi chơi với tôi và được tôi chụp hình cả xấp cả
chồng. Tôi hay chở nàng đi chơi xa, có lần tới Đà Lạt phải ở lại ngủ đêm. Tôi mướn hai phòng
ngủ, nàng không chịu, đòi ở chung một phòng thôi, nói cho đỡ tốn tiền, nếu không, nàng đòi
ra ngủ ngoài xe hơi. Tôi đành thuê có một phòng mà chỉ có một cái giường. Tôi kéo tấm trải
giường xuống lót dưới nền, ngủ. Chắc tôi giỏi hơn, nếu không nói là cao thượng không thua gì
một ông linh mục, ở chỗ đó.
Cứ mỗi lần nghe trổi lên bản nhạc La Violettera là tôi nhớ tới Xuân Lan tuy chưa bao giờ yêu
nàng. Đêm ở Đà Lạt, trước giờ đi ngủ, hai đứa tôi kéo nhau đi xem phim La Violettera và cùng
nhau khóc sướt mướt thương cô ca sĩ phải ca miệng khi đã bị câm. Giữa lúc biểu diễn, nàng
chợt thấy người tình xưa xuất hiện trong đám khán giả, nàng đứng sững, ngưng nhép miệng
trong khi máy hát nói vẫn tiếp tục bản nhạc, khiến khán giả la lối phản đối. Máy hát phải tắt.
Song tiếp theo, từ chính miệng nàng vụt thoát ra những lời ca yêu đương tuyệt vời đắm đuối
của bài La Violettera, không nhạc đệm. Tình yêu bất chợt trở về gây xúc động mãnh liệt, đem
lại giọng ca vàng nàng đã mất từ ngày nàng mất người yêu. Khán giả la hét càng to lên. Lần
nầy để hoan hô trong nước mắt mừng vui sung sướng.
Lúc biết người bạn nữ Cảnh Sát nầy là bồ của ông Cò, tôi hỏi nàng, mình đi chơi vậy có sao
không, nàng nói hổng có sao đâu. Song tôi quýnh lên khi nghe nàng ”ờ ờ” sau câu tôi dò hỏi:
– Em nghĩ vậy. Song biết đâu ổng ghen, cho anh ăn kẹo đồng?
Tôi nói tôi không thích chết lãng xẹt. Nàng đề nghị mình đi chơi chung với người dì của nàng
cũng tuổi nàng và đẹp lắm. Tôi ” Ô Kê ” liền. Người dì nầy quả đẹp hơn nữ Cảnh Sát Quận Ba,
hơi móm mà là móm có duyên lạ và trắng trẻo hơn, làm thợ uốn tóc ở chợ Tân Định.
Cô nầy muốn kết với tôi tới mức hơi ghen với con cháu là điều tôi không muốn. Vì sự nghiệp
phóng viên của tôi, tôi cần kết thân lâu dài với cô cháu làm chỗ Cảnh Sát để moi tin tức. Có
điều đi chơi với cô dì thấy an toàn hơn. Chính nàng nầy tìm gặp tôi trước ngày đám cưới để nói
là nàng cứ tưởng tôi không bao giờ chịu lập gia đình nên nàng mới không dám chịu thiệt mở
miệng tấn công là nàng chấm tôi.
Đóa hồng đôi khác là hai chị em làm nữ quân nhân tên Lê và Lựu. Mực độ thân thiện của tôi
không hề đi xa hơn tình bạn quen biết, khởi đầu từ cuộc gặp gỡ tại nhà một người chị họ của
tôi mà họ là bạn thân. Chỉ mấy hôm sau đó, tôi nhận được một lá thơ viết trên giấy từ tập học
sinh xé ra, tỏ tình. Tôi cho chị họ tôi hay sự lạ lùng về chuyện tình phát triển tốc hành nầy. Chị
tôi nói để rầy nó. Song sau đó cô chị vẫn thân mật với tôi hơn và suýt chút nữa tôi đã xâm phạm
nàng nếu nàng không thốt lên là nếu nàng có chửa thì sẽ tự sát. Sau cô chị nầy có chồng, còn
nhờ tôi chở đi vài lần từ Cầu Kho đi Vũng Tàu, nơi cha mẹ cô có vườn mãng cầu.
Tôi hành quân qua cô em hợp lệ hợp pháp hơn, rủ tắm biển, thấy có quân nhân lội theo tán
tỉnh nữ sĩ quan nầy. Nàng than với tôi là bị mấy anh ấy theo quấy rầy bực quá, tôi càng lo bị ăn
kẹo đồng oan uổng.
Không tiến xa là còn ở trong vùng an toàn. Cả hai chị em đều quý mến tôi không chối cãi.
Sao tôi được lắm người thương tôi quá, mà tôi chỉ được quyền yêu một người là vợ?
Tiệc cưới của chúng tôi tổ chức tại tửu lầu Ái Huê, ở Chợ Lớn, được ông quản lý khen tuy
không to lớn nhứt, không sang trọng nhứt, song đẹp đẽ vui vẻ hơn hết. Có nhiều người trẻ đẹp
quá.
Làm sao sang trọng cho được. Hình như chưa hề có cô dâu nào trang trí sơ sài đơn giản như
vợ tôi. Nàng từ chối đề nghị của các dì các cô đưa đi trang điểm. Nàng muốn giữ sắc đẹp tự
nhiên của nàng và đội tràng hoa với chiếc lúp cũ của ngày nàng rước lễ Vỡ Lòng giữ lại mãi đến
ngày về với tôi bữa tân hôn. Tuyệt vời.
Tiệc cưới lộng lẫy nhờ toàn bộ đoàn tiên nữ là 60 bạn học người đẹp Bình Dương chánh hiệu,
cô dâu nữ sinh mời. Đó là lớp nữ đầu tiên của trường Trịnh Hoài Đức từ ngày thành lập. Chánh
phủ Ngô Đình Diệm mở mang nền học vấn, cho thiết lập lần đầu tiên các trường trung học tại
tất cả các tỉnh. Thời Pháp thuộc áp dụng chánh sách ngu dân, cả miền Nam chỉ có hai tỉnh Cần
Thơ và Mỹ Tho mới có trường trung học công lập. Học sinh tốt nghiệp tiểu học ở các tỉnh khác
phải đổ về tranh thi cử tại Saigon và hai tỉnh kể trên, là độc đạo tiến vô trường Trung Học nhà
nước.
Ở tỉnh Thủ Dầu Một, sau đổi tên lại là Bình Dương, Bộ Giáo Dục chánh phủ Ngô Đình Diệm
đặc trách cho giáo sư Trương Văn Di đi tu nghiệp trở về nghiên cứu xây dựng trường Trịnh Hoài
Đức và trường Cộng Đồng tại xã An Thạnh (Chợ Búng) vào năm 1954. Ông Di cũng làm vị hiệu
trưởng đầu tiên.
Đám cưới có đàng gái nổi bật về sắc. Đàng trai đâu kém, sánh về tài. Đầy dẫy chủ báo và
văn nhân ký giả đến dự. Tôi có gởi thiệp hồng cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho ông bà Cố
Vấn Ngô Đình Nhu, cho Tổng Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành. Họ đều cử người mang quà
cưới đáng giá đến tận nhà tặng chúng tôi. Ông chủ báo Cách Mạng Quốc Gia có đại diện đến
dự tiệc.
Tôi cố tình “nổ” chỉ nhắm cho vợ tôi đỡ tủi thân, được thấy có người chồng thuộc hạng không
đến đỗi tệ. Ít nhứt chồng nàng không phải chỉ là một ” thằng cha già khằn ”, như có bạn học
nàng bĩu môi:
– Bộ hết người sao mầy đi ưng một thằng cha già ngắt khú đế.
Tôi còn nghe tiếng đồn người ta nói ông chủ nhà thuốc Tây Lê Hồng (là tôi) lấy con nít. Sau
tuần trăng mật, cô dâu trở về trường tiếp tục học thêm một thời gian nữa, tôi mang tiếng lấy
nữ sinh là đúng 100% chớ gì.
Đúng ra, người đáng tủi thân phải là tôi. Tôi đinh ninh vợ tôi phải hãnh diện có được một
người chồng là một ký giả có chút tiếng tăm, được nhiều kẻ biết đến, nhưng tôi lại bị người đẹp
của tôi coi tôi thuộc đúng thứ ”ghét của nào Trời trao của nấy” cho nàng.
Nàng ghét cay ghét đắng cái hạng người đâm bị thóc thọc bị gạo, nói trắng ra là loại phóng
viên báo chí như tôi, ”chuyên môn ăn cơm nhà đi nói chuyện hàng xóm. Vợ chồng người ta gấu
ó đâm chém nhau, mắc mớ gì cũng phanh phui tùm lum trên mặt báo. Chuyện ghen tương tạt
át-xít, đốt chồng cũng đem phơi bày làm rùm beng. Người ta tham nhũng hối lộ cũng moi ra
làm tình làm tội. Hết tiết lộ những hành động phi pháp đến bươi móc chuyện phòng the hay đời
tư của kẻ khác. Đúng là thèo lẻo ở mức thượng thặng”. Vợ tôi bản tánh yêu yên lành, sợ sệt
làm mất lòng ai, đã lên án nghề của chồng như thế đó.
Nhờ đáng ghét như vậy mà được Trời trao cho vợ, cũng nên bị đáng ghét. Dầu sao, hình ảnh
anh chàng phóng viên trẻ tuổi vai đeo máy ảnh chạy lăng xăng phỏng vấn người nầy, điều tra
kẻ nọ, chụp hình đầu nầy, thu ảnh đằng kia, là đối tượng của nhiều thiếu nữ, nữ sinh.
Thời oanh liệt nay còn đâu cũng không tiếc, khi mộng đã thành.
Từ sau vố nặng Thu Tâm, không còn tính chuyện lập gia đình, tôi thoải mái đi chơi suông với
hết cô nầy tới cô khác và hồ hởi nuôi một đứa con để có như người ta mà không nghĩ tới hậu
quả tương lai. Đến bây giờ tôi mới trễ tràng thấm thía cái nỗi rầu rĩ của má tôi lúc thấy tôi
có ”cục đeo cục thẹo” từ ngày tôi ôm một hài nhi về nhà nuôi.
Sau khi lập gia đình, những quan hệ sâu đậm hay phớt nhẹ với bao nhiêu phụ nữ trước kia
đều không ảnh hưởng. Duy có hành động anh hùng nuôi con tác động mạnh tới người phối
ngẫu của tôi, vì cái tiếng đồn tôi có đứa con riêng, đồng nghĩa như mình đã có một đời vợ.
Không ngờ vợ tôi đã có sự hy sinh chịu mang tiếng lấy thằng già đã có một đời vợ.
Tôi dư biết người ta cố tình bêu xấu tôi, chuyện không có cũng dựng ra, sự thật thì bóp cho
méo mó do lòng dạ ganh tỵ thúc đẩy khi đã thất bại không tranh giành nổi với tôi, nếu họ là
nam giới. Nếu họ là nữ giới, họ đã thất bại không được tôi chọn.
Ở địa phương tôi, và cả trường Trịnh Hoài Đức, ai cũng nhìn nhận tôi là kẻ chiến thắng,
chiếm được hoa khôi. Thật ra cũng với lắm cam go. Đem so sánh tình trường nầy của tôi với
chính trường của Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bôi bẩn, thấy giống y như hai giọt nước. Người
hay phe nhóm không quân tử, áp dụng đòn hèn mạt cố hạ nhục đối thủ đối lập.
Âu là khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên, hồng nhan bạc phận. Vợ tôi còn khổ sở vì
những cái thật sự không xấu khác, kiểu giống như nói trên. Ví dụ về tên tục của nàng là Lê Thị
Nở, nàng cũng oán trách nhà văn Nam Cao đã đặt tên Thị Nở cho một vai phụ nữ ngoại hình
Chung Vô Diệm, khiến giai nhân như nàng bị trêu ghẹo lây.
Tôi thì khoái chí chuyện một Thị Nở dại tình như bị bùa mê thuốc lú. Hai Thị Nở tuy ngoại
hình trái nghịch nhau mà có nội tâm y chang như hai giọt nước. Nhờ đó tôi hiểu và không kinh
ngạc chua cay về cái đắm đuối kỳ quặc của một con người đàn bà bổng dưng mê tít thằng cha
Chí Phèo mỗi lần có rượu vô không khác nào được tròng vào chiếc áo thầy tu, cả làng ai cũng
ngán sợ. Trong tình trạng say túy lúy thì Chí Phèo oai quyền có khác chi một linh mục choàng
chiếc áo cà sa uy linh. Nàng Thị Nở thiếu thốn thình lình đê mê loại thằng cha suốt đời trong
tình trạng như bị cấm hưởng thụ. Được dịp say sưa, cả hai mê man làm tình lút cán. Tôi thèm
rỏ dãi món quà đặc biệt Thị Nở cho cha nội Chí Phèo: cái bát cháo hành nàng nấu cho ăn sau
giờ phút mê ly bị trúng gió. Tôi cao hứng làm thơ ví von nghe như một chuyện tương phản mà
trùng hợp. Hai bài thơ Chiếc Võng Ân Tình và Tình Yêu Linh Mục nầy nữ sĩ Vi Khuê đã đăng trên
tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn tại Hoa Kỳ.
Chiếc Võng Ân Tình
Trên võng đong đưa lúc vắng chồng
Tháng ngày trôi chảy mỏi mòn trông
Võng đưa kẽo kẹt dường quả lắc
Đếm phút xuân thì uổng phí không?
Chợt đâu “người” xuất hiện bên tôi
Võng trên ván dưới tự nhiên ngồi
Không, “người” tình tứ nằm kia nữa
Bên cạnh song song, trên dưới thôi.
Chiếc võng ngưng đưa, quả lắc ngừng
Thời gian đọng lại, trái tim rung
Ai biết tôi thèm hay chẳng muốn
Cọ chạm “người” bôi xóa nhớ nhung.
Tình ai trên chiếc võng đong đưa
Dưới ván tình tôi có thiếu thừa
Võng đưa kẽo kẹt như ai oán
Than khóc thế chồng lúc vắng xa.
Võng ân tình đó mới hôm nao
Rộn rả lời ru ngủ ngọt ngào
Từ đứa con đầu – (cũng) tên MINH nhỉ
Âu ơ.. tình tứ biết là bao!
Chuỗi ái ân từng lần trên võng đó
Dấu ân tình từ mắc võng sợi dây
Hai chúng mình bao giờ phút ngất ngây..
Nay thánh-tích sao phủ phàng xóa bỏ !
Ầu ơ ,
Ví dầu tình bậu dễ quên
Võng ân tình cũ sao nên phụ phàng.
Võng thuyền sông ván sang ngang
Võng đưa ván rước ngút ngàn sóng thương.
Tình Yêu Linh Mục
Anh thương mến, tình yêu Thiên Chúa
Anh đem so với của dương trần
Để lòng vẫn phải phân vân
Một bên lý tưởng, một đàng duy tâm.
Giữa kinh nguyện trầm ngâm suy nghĩ
Anh van xin Chúa chỉ dẫn đường
Cho mình, cho cả người thương
Yêu em, yêu Chúa có phương dung hòa ?
Lần gặp gỡ nơi tòa Giải Tội
Em từng xưng có lỗi yêu anh.
Anh từng phân tách đành rành
Yêu là đức của Chúa dành nhân gian.
Chính Thiên Chúa ngập tràn thương mến
Từ cỏ cây cả đến muôn loài
Nhịp nhàng tình ái đắm say
Tình yêu Linh Mục không ngoài luật chung.
Em yêu Chúa cũng yêu anh nữa
Dáng hình anh đẹp tựa Thiên Thần
Anh cầm Chén Thánh, lễ dâng
Anh là Thiên Chúa hiện thân dưới phàm
Tại sao nàng lại phải sợ mang tên Thị Nở? Lần đầu tiên chị dâu tôi dắt tôi tới nhà nàng để
làm quen. Gặp một mình má nàng. Bà nói:
– Con Hoa nó đi chợ rồi, không có ở nhà.
Tôi khều nhẹ chị tôi, nói nhỏ, tôi chỉ muốn làm quen với cô Nở thôi chớ không phải cô Hoa
nào cả. Lộn nhà lộn chỗ rồi. Rút lui.
Sau mới biết ở nhà, cô Nở mang tên người chị kế đã chết hồi nhỏ tên Hoa, nàng xin mẹ dùng
tên đó gọi nàng. Tên Nở đẹp đẽ biết bao, tôi cho là đẹp tuyệt vời không thua gì nhan sắc nàng,
sao nàng không toại nguyện?
Ngày đám cưới, tôi dùng chiếc xe tôi nhập cảng lúc đang làm báo Tiếng Chuông, rước dâu.
Chính tôi là chú rể làm tài xế rồi lái đi hưởng tuần trăng mật tại khách sạn Palace ở Đà Lạt, còn
xuống Nha Trang trước khi quay về Saigon. Ngồi trên xe bên cạnh vợ mới cưới, tôi ngậm ngùi
nhớ tới vợ chồng chủ báo Tiếng Dội là Trần Tấn Quốc và Thanh Loan, ngày nào cả hai đem
khoe với tôi tấm ảnh chiếc xe hơi hai người sắm chung, ngồi chung cách trìu mến lắm, giờ thì
một kẻ sang ngang để một người vô bưng biền. Cầu Trời cho đừng bao giờ tôi thấy có ai đẹp
bằng vợ tôi để thứ háo sắc như tôi khỏi phải sa ngã ẩu.
Trước khi báo Hoa Lư của ông Diệm đình bản, tôi có giúp làm tờ tuần báo Tinh Thần của
nhóm cũng mang tên nầy, sau được gọi là nhóm Caravelle. Bác sĩ Huỳnh Kim Hữu đứng tên đầu
nhóm, nhưng thật sự là bác sĩ Trần Văn Đỗ, cậu vợ của ông Ngô Đình Nhu, viết bài xã luận.
Người giúp việc của bác sĩ Hữu đứng tên quản lý và làm công việc tùy phái. Tôi lo mọi công việc
sắp xếp bài vở, sửa chữa, trông coi ấn loát và phát hành tuần báo ấy tại một nhà in nhỏ ở đường
Paul Blanchy (sau đổi lại là Hai Bà Trưng) kế bên trại hòm Tôbia và đối diện nhà thờ Tân Định.
So với làm nhựt báo, tuần báo nhàn nhã hơn nhiều, có khi hai tuần mới ra một số, tôi có thì
giờ rảnh rang liếc ngắm cô con gái giống như đầm, con của chủ trại hòm. Làm báo Tinh Thần
không lương mà siêng tới làm là có lý do đó.
Chưa kịp mơ hay mộng thì tình cờ quen thêm một cô nữ sinh khác tên Ánh, còn trẻ tuổi hơn,
nhà ở đường D’Espagne, sau đổi là Lê Lợi. Tôi dắt đi coi hát bóng (xi-nê) tự nhiên như chú cháu.
Cô nữ sinh nầy từ vùng nước phèn Rạch Giá mà trắng như đầm, mặc đồ đầm, tôi coi như là
đầm lai.
Kế tôi qua ở trọ bên Bà Chiểu, gặp liên tiếp nhiều bông hoa Gia Định tươi thắm, đủ màu sắc.
Có màu cà phê sữa, nước da bánh ích, được thừa thãi tánh nết chững chạc bù vào nhan sắc,
tên Ni, tôi sắp nhắc tới nhiều dưới biệt danh “Ni cô tóc dài”. Cũng có bạn gái màu trắng trẻo,
mũi cao, mắt xanh như đầm và có cả tên Tây nữa là Marie, nổi tiếng xinh đẹp. Thanh niên vùng
nhà thờ Bà Chiểu thời đó đều biết nàng.
Quen thân từ lúc nàng còn là nụ hoa búp chưa nở, tôi chứng kiến đóa bạch hồng nầy từ từ
hé lú ra từng cánh một mà chỉ được ngắm thôi vì nàng là hạng con cháu, là hạng bà con, coi
tôi như chú ruột, mình cần đóng vai đứng đắn. Vậy mà lúc đó ai cũng tưởng nàng là của riêng
tôi, nhứt là những đứa trong băng đảng cao bồi của tôi. Vì thấy nàng chỉ thân mật với tôi. Nàng
và tôi thường xuyên đi coi hát chung với nhau từ lúc chiếc áo dài nàng mặc chưa có eo và trước
ngực còn xẹp lép thẳng băng như một bải đáp phi cơ, đến lúc từ từ nhú lên, căng phồng. Nhà
nàng như nhà tôi, ngày đêm ra vào tự do. Mẹ nàng đối với tôi còn thân hơn người chị, nồng
hậu tiếp đón tôi như người nhà. Đến ngày nàng không còn là con gái, tuy nàng giấu tôi, tôi
cũng biết được do đám đàn em tiết lộ.
Kể như cũng bị coi là tôi đã có một khoảng tháng năm được tiếng làm chủ, hay đúng ra là
quản thủ những ngày đầu một nhan sắc hé lộ lần tới lộng lẫy kiêu sa. Tưởng không ai còn nhớ
biết thời vàng son của tôi với Hoa Khôi Bà Chiểu nầy, thì đến nửa thế kỷ sau, vào tháng 6 năm
2000, trong dịp ra mắt sách “Khói Sóng Trên Sông” của nhà văn Nguyễn Văn Sâm ở Houston
(Texas), tôi, tuổi đã thất tuần, bị một người đẹp nhỏ hơn tôi cả chục tuổi, nhận dạng, bất thần
chận tôi lại, hỏi:
– Văn Bia có nhớ Marie Bà Chiểu không?
Tôi giựt mình, ngắm nhìn phụ nữ lạ hoắc nầy. Đôi mắt sáng ngời đen huyền không phải là
cặp mắt xanh như đầm của Marie. Song dung nhan sau hơn nửa thế kỷ vẫn còn lưu giữ những
nét xinh đẹp không thể nào quên được.
Trong tiệc tiếp tân sau buổi ra mắt sách nói trên, tổ chức tại nhà chủ báo Phạm Quang Tân
và chị Cúc, nhà văn Doãn Quốc Sĩ được mời đến dự hôm ấy, có góp vui bằng chuyện hồi ông ở
Lào, biết phong tục nước nầy, còn nhớ một câu cua gái ” Khói bò chầu u ” (Có yêu anh không?).
Ông nói mình hỏi cô gái Lào câu nầy mà nàng trả lời bằng chữ ” U ” kéo thật dài mới có nghĩa
là nàng yêu mình.
Tôi tọc mạch thì ít, tinh nghịch theo thói quen cũng chỉ hơi hơi, mà nhiều nhứt là cốt châm
giễu góp vui với anh em. Đâu có sẵn ai để tôi thực hành ngay cuộc thử nghiệm cho bằng người
đẹp vừa bắt quen với tôi hồi trưa. Tôi bước tới chỗ nàng ngồi cách hơi xa, nhỏ tiếng hỏi nàng,
chớ đâu dám cho nhiều người nghe:
– Khói bò chầu u.
Trái với dự đoán là giai nhân chắc sẽ trả lời bằng một nụ cười mỉm thôi, thì bất ngờ thay,
một tiếng ” U ” kéo dài thật là dài và khá lớn đủ cho mấy bạn ngồi xung quanh đều nghe, vang
ngân ra như tiếng tù-và báo động văng vẳng thấu tai tôi ngày nào trong Chiến Khu, kèm với
ánh mắt trìu mến sao bỗng quá y hệt đôi mắt người xưa.
Bạn bè văn thi sĩ ở Houston thấy liền sau đó hai người chúng tôi trở thành như tri kỷ, lấy làm
ngạc nhiên, hỏi nguyên do.
Xưa kia, tôi đã vì có Marie mà làm ngơ không để ý giai nhân nào khác ở chung quanh, đáng
lẽ nên làm quen hơn vì hợp pháp hơn.
Hãy hiểu mỹ nhân Huyền Vi vừa xuất hiện trễ trong đời tôi là cô bạn gái láng giềng đồng lứa
tuổi của Marie. Hai nhà đối diện nhau cạnh bên nhà thờ Bà Chiểu. Nàng nói biết Văn Bia từ lúc
mới hơn 10 tuổi, “thấy phóng viên Văn Bia chun vô nhà con Marie hoài và thường nghe con
Marie nhắc tới tên phóng viên Văn Bia.”
Nửa thế kỷ trước, biết mà chưa được quen. Nửa thế kỷ sau, nhờ một cuộc họp mặt văn
chương, hay nhờ có nhà văn Nguyễn Văn Sâm tạo dịp, rồi cũng được kết thân. Âu nàng còn làm
nhân chứng tôi không ba hoa bịa chuyện đào hoa thời tuổi trẻ của một phóng viên nhà báo.
Hồi đó không quậy dữ sao được. Đúng trong lứa tuổi đôi mươi, khi đã rảnh rỗi, không còn lý
tưởng, không còn Ngô Đình Diệm để phò tá nữa. Mặt trận Điện Biên Phủ còn đang cù cưa. Cuộc
thương thuyết Việt Pháp dằng dai ở Paris chưa đến đâu. Mấy phe phái đến đó phó hội đều
mướn nhà cửa dài hạn để ở, tính chuyện kéo dài cả năm chưa kết thúc, vì biết chắc việc gì cũng
ăn thua ngoài mặt trận. Người dân thấy trước sau gì Pháp cũng đại bại, chánh phủ bù nhìn miền
Nam do chúng dựng ra cũng sẽ lật nhào theo. Mỗi người theo tình trạng và địa vị của mình mà
chuẩn bị và chờ đợi biến cố diễn tiến. Ngoài Bắc nhà giàu rục rịch bán đổ bán tháo tài sản, bàn
tính ai ở lại giữ của, ai dợm chân nhảy vào Nam.
CHƯƠNG 43
Một hôm, báo Tiếng Dội tôi đang bỉnh bút, nhận được một bức thơ nặc danh ký tên Cao Bồi
Saigon, nhắn phóng viên Văn Bia hãy lo sắm hòm, và chua thêm lý do: ”… chúng tôi muốn xin
bạn tí máu vì bạn đã chạm tới Cao Bồi chúng tôi. ”
Ông chủ báo Trần Tấn Quốc lo sợ cho tánh mạng của tôi, đăng bức thơ hăm dọa đó lên báo,
một mặt yêu cầu cảnh sát bảo vệ phóng viên của ông. Tờ báo như rúng động, ai nấy đều ái
ngại giùm tôi. Họ suy luận giọng văn nghe nhẹ mà nguy hiểm còn hơn lời hăm dọa chửi bới
nặng nề, nên bảo tôi lo đề phòng.
Tôi đang viết một loạt bài phóng sự nẩy lửa nhan đề: ”Cao Bồi Saigon”. Tôi đang chung sống
với một nhóm nầy, y hệt hồi viết loạt bài phóng sự đầu tiên ” Sống Dưới Gầm Cầu ” tôi đã chui
xuống ngủ chung với dân vô gia cư. Trên mình tôi lúc nầy cũng thường khoác chiếc áo sơ mi
chim cò. Thích mặc nhứt là chiếc sơ mi nhựt trình cho thêm vẻ nhà báo.
Trước khi khởi viết phóng sự nói trên, tôi đã là cao bồi Bà Chiểu, thường giao tiếp với nhóm
thanh thiếu niên nam nữ trong vùng. Đang tuổi thanh xuân phơi phới, phóng viên vào lứa quậy,
tôi làm phóng sự về cao bồi thật thích hợp, như Tam Lang viết ” Tôi Kéo Xe ”.
Ba Gầy, hơi đen, ốm nhom, cao nhòng, mặt xương xẩu làm cái miệng hơi hô. Nó là con ông
Bảy Rổ chủ một vựa chuối đối diện với cái tua (tour = tháp canh) ở gần nhà thờ Bà Chiểu, kế
bên nhà anh Ba tôi đang ở trọ. Thằng có bản lĩnh, được đồng bạn tôn làm đầu xỏ. Nó giới thiệu
tôi làm quen với nhóm học võ của nó gồm cả trai lẫn gái. Võ đường bị mang tiếng oan uổng là
nơi cao bồi tập trung. Nhóm trẻ chịu chơi, hãnh diện tự nhận họ là bọn cao bồi. Tôi lại chịu chơi
với lớp trẻ nầy.
Nhờ có gia nhập Cao Bồi Saigon, có dịp kết thân với nhiều Cao Bồi Tóc Dài, trong đó có con
nhỏ tên Ni dễ thương. Ai tôi cũng thấy dễ thương hết. Thật sự là vậy.
Tôi hay ghẹo phá cô Ni nầy bằng cách kêu ngược lại là ” Ni cô ” mà tóc xõa dài bít lưng. Quen
thân với Ni cùng một lượt với nhiều đứa choi choi khác như Kim Hoàng mới 14 tuổi đẻ con, tôi
lãnh nuôi, đã kể qua. Những đứa con gái tôi quen lúc nầy, chưa có đứa nào lớn tới tuổi đáng
được tôi gọi là cô hay nàng.
Ni là bạn thân của Ba Gầy, lúc đầu đi ăn hàng hoặc ngồi xuồng rong chơi trên con rạch bọc
bên hông chùa Long Vân (Cầu Mới, Bình Thạnh), đều đủ mặt cả ba đứa. Lai rai có mấy đứa con
trai con gái khác tháp tùng theo trò chuyện chơi giỡn thật tự nhiên.
Rồi Ba Gầy lặn mất hồi nào tôi không để ý, và bạn bè khác cũng từ từ rút lui lần, không thấy
theo chơi nữa, rốt cuộc chỉ còn lại Ni với một mình tôi. Tôi hỏi thì Ni nói đi chơi với tụi nó hay
đòi hỏi nầy nọ.
Khi báo Tiếng Dội nhận được bức thơ Cao Bồi Saigon nhắn tôi lo sắm hòm và xin tôi tí máu,
tôi đem chuyện nầy nói với Ba Gầy. Nhóm trẻ tôi chơi thường cung cấp cho tôi nhiều nguồn tin
tức độc đáo. Ba Gầy cười, nói:
– Chú Chín đừng có lo. Tụi đàn em phá chú chơi đó.
Tôi tin Ba Gầy liền. Nó gọi tôi bằng chú vì tôi là chú Chín của Lê Hồng Thạch, bạn chí cốt của
nó.
Sẵn dịp, tôi hỏi Ba Gầy và mấy đứa sao không thấy chơi với con Ni nữa. Nó bảo con nhỏ đó
khó chịu lắm, tụi nó không ưa. Thằng cháu tôi cũng nói y vậy và biết rõ tụi nó không lấy làm lạ
việc con Ni đeo theo tôi. Tôi sực nhớ Ni có cho tôi biết nó có người chị bị Công An bắt nhốt ở
bót Catinat. Một lần, Ni kể chuyện có đi thăm nuôi, bị Công An dọa hỏi tại sao nàng liên lạc với
phóng viên Văn Bia. Ni lưu ý tôi nên coi chừng. Nghe rồi tôi bỏ qua như không có gì cả.
Gia đình Ni ở đâu không biết mà hai chị em Ni được một người cô ở trong Xóm Gà, miệt Bình
Hòa, Gò Vấp, nuôi nấng.
Có một thời tôi đi chơi với Ni gần như hằng đêm. Nay ngồi ăn bánh cống ở đường Cầu Bông,
mai đi ăn chè Đakao, chỗ tiệm kế rạp hát bóng, mốt đi húp mì Cây Nhãn trên đại lộ Albert 1er
(hiện là Đinh Tiên Hoàng) cách đó không xa. Thường nhứt là đèo Ni lên xe bình bịch (mô-tô,
máy nổ kêu ầm ầm), chở tới đường Hàng Xanh lúc đó hai bên còn là đồng ruộng, khoảng trước
chùa Long Vân Tự, trải poncho xuống bên lề đường, ngồi tán dóc với nhau. Tôi coi Ni như đứa
con nít muốn làm đệ tử đeo theo tôi, mặc nhiên nhận tôi là sư phụ hay ít nhứt là sư huynh của
nó. Đi chơi với Ni là lối giải trí lành mạnh thoải mái của tôi.
Có một đêm đang ngồi nói chuyện với nhau, thấy phía bên Saigon đỏ rực một góc trời, tôi
biết có hỏa hoạn, đứng lên, nói chở Ni về nhà, để tôi đi làm phận sự. Ni đòi đi theo, và coi xe
cho tôi lội vào khu cháy nhà bữa đó ở Bàn Cờ.
Lúc tôi mua được một căn nhà của Gia Cư Liêm Giá Cuộc ở Bàn Cờ, đôi khi tôi có rủ Ni lại đó
chơi đêm. Chủ yếu tôi muốn cho Kim Hoàng nhà ở gần đó thấy tôi cũng có bạn gái khác, như
Kim Hoàng có nhiều bạn trai.
Muỗi nhiều, tôi giăng mùng, hai đứa chun vô trong ngồi nói chuyện. Cũng như với những
người con gái khác tôi quen, tôi không hề động chạm tới, dầu cái bàn tay tôi cũng không hề
nắm bắt. Song thú thật, với Ni, chỉ có một lần một, tôi thản nhiên đưa tay lên vuốt tóc nàng.
Một mái tóc buông dài mường tượng dòng suối tóc của Ngọc Anh hằng theo ám ảnh tôi từ ngày
tôi rời xa bưng biền.
Tôi không bị thúc đẩy bởi tình dục, không nghe ham muốn xác thịt nổi dậy chút nào khi bàn
tay chạm vào tóc. Mái tóc dài không phải là thứ kích dục (fetish) đối với tôi, mà chỉ là biểu tượng
đẹp đẽ cao thượng tuyệt vời của một dĩ vãng thân thương không còn nữa. Một vầng mây huyền
diệu ngoài tầm tay, có vói mấy vẫn không bao giờ chạm tới.
Ni ngồi lặng yên, chậm rãi nói vỏn vẹn mấy tiếng:
– Đừng có vuốt tóc tôi.
Tôi nghe như Ni ra lịnh, bổng sực tỉnh, thụt tay lại như chạm điện. Bàn tay tôi có thể còn
ngưng lâu lại trên mái tóc và tiếp tục mơn trớn nữa nếu không nghe lịnh đó, song nếu không
ngừng vuốt ve tóc, vẫn tuyệt đối không thể có đại họa xảy ra. Chớ không phải nhờ câu nói kịp
thời đó mà được trở lại bình thường như không có gì cả và chẳng hề có gì nữa cả.
Cho dầu Ni có sẵn sàng hiến thân, không biết giữ gìn, thì nàng vẫn không có thể nào là một
Ngọc Anh thứ hai nữa của tôi như kiểu cô gái tôi đã ”gặp lại” trong một đêm mưa gió ở Bến Tre.
Người tôi đặt tình yêu vào không thể là đứa con nít như Ni.
Tôi không có xâm phạm con nhỏ Ni. Những ngày tôi không đi công tác ở xa, Ni tiếp tục đi
chơi với tôi hết đêm nầy tới đêm khác. Tâm tình trong trắng như hai trẻ thơ, hai huynh muội,
hai thầy trò.
Chuyện gì mà nói hết đêm nầy qua đêm nọ không dứt. Thú thật tôi không mải may nhớ một
đề tài nào. Chỉ biết chắc một điều là không hề nhắc đến tình yêu hay một chữ gì có dính dấp
tới thương yêu hay ân ái.
Thời gian tôi bắt đầu quen thân với cô thơ ký Thu Tâm trong tòa soạn báo Tiếng Dội., các
cuộc gặp gỡ với Ni lơi lần chỉ vì không còn thời giờ rảnh rỗi đi chơi riêng với nó nữa. Thỉnh
thoảng tôi có khoe với Ni những dịp tôi đi chơi với Thu Tâm để giải thích lý do vắng mặt. Ni
cũng có nhắc chừng tôi khi nào đám cưới nhớ đừng có quên mời nó.
Vô tình làm tan nát hoặc ít ra gây nhói tim nhiều phụ nữ, đến mấy chục năm sau, do chính
họ khai ra, tôi mới hay biết.
Như sau năm 75, một lần chở bao lúa tới một nhà máy trong xóm xay, tôi thấy một người
đàn bà hơi quen ngồi trên bộ ván ngó tôi một hồi rồi hỏi tôi có phải là ông Lê Hồng (là tôi)
không. Tôi vừa xác nhận đúng danh tánh, chị ta cười hắc hắc, oang oang tuôn ra một màn khai
báo tôi nghe khoái quá. Đang nghèo rớt mồng tơi, tình cũng như tiền đều văng mất hết ráo
theo ngày 30 tháng Tư, không khoái sao được khi nghe nhắc chuyện từ ba mươi năm trước như
vầy:
– Hồi đó tôi khoái ông quá cỡ. Tới nhà chị Tư ông chơi, thấy ông đeo tòn ten máy chụp hình
và nghe nói làm nhà báo, tôi mê liền. Tôi cứ hỏi thăm ông và nhờ chị Mười, em của ông, giới
thiệu. Chỉ nói anh Chín của chỉ (là tôi) ba trợn lắm, đừng có ham.
Tôi nhớ cô Chín Đồng nầy là một hương sắc đồng nội, con ông Hương Bộ Gần chủ lò đường
giàu có trong làng. Không chàng trai nào không muốn gấm ghé. Chờ khi cả hai người chúng tôi
tuổi đã năm mươi và đều có gia đình con cái đùm đề, nàng mới muộn màng thổ lộ chơi. Ngộ
thiệt và vui thiệt.
Bài học kinh nghiệm cho tôi là mình không dè hay không lượng được tình cảm thật sự của
một người con gái dành cho mình, hoặc tuổi trẻ mù mắt không thấy họ mếch tôi. Hay đúng hơn,
tại người phụ nữ đơn phương thầm kín không dám thố lộ, đành ôm giữ riêng mối tình gần suốt
đời họ.
Một kinh nghiệm nữa, khi một phụ nữ không gọi mình thẳng thừng là anh, hay chú, bác, mà
chỉ nói trỏng và cũng không xưng họ là em, con, cháu hay tên của họ, là họ muốn chính mình
phải xác định hay chọn lựa vị trí vai vế cho đôi bên. Lúc còn trẻ, nghèo nàn tâm lý, tôi không
biết để ý đến cách xưng hô và dụng ý của nó để… phòng thân hay lợi dụng. Nếu con Ni có mở
lời tỏ tình thì tôi đã sửa lưng liền là con nít đừng có bày chuyện bậy bạ. Như lần nhận được lá
thơ giấy học trò của con bạn của chị bà con của tôi, tôi báo cho chỉ ”sạc” nó ngay.
Hai mươi năm sau khi quen Ni rồi quên Ni, tôi suýt chút nữa bị điêu đứng vì Ni cô tóc dài, là
cô Ni nầy.
Vợ tôi một hôm đi thăm gia đình ông bà gia của tôi trở về, nàng chậm rãi nói với nụ cười nửa
miệng cố hữu:
– Hôm nay em mới biết được em có chồng ký giả lưu manh.
Trời đất! Tôi hỏi nàng muốn kiếm chuyện gì nữa đây. Chờ thiếu điều phải cạy miệng, nói
đúng ra, chờ năn nỉ gần rớt lưỡi, nàng mới chịu tiết lộ là vừa được biết chuyện “Ni cô”.
Số là gia đình vợ tôi có ruộng vườn tại Long Phước Thôn, một cù lao rộng tới năm làng nằm
trên sông Đồng Nai (?), khoảng giữa Saigon và Chiến Khu D hay vùng Tam Giác Sắt (?). Toàn
là đồng bằng với ruộng vườn trông xem thật hiền hòa mà lại là vùng chiến lược của Việt Minh
Kháng Chiến chống Pháp để dưỡng quân và nhốt giam những người bị coi là Việt gian.
Thời thơ ấu của vợ tôi trải qua trong khu bưng biền đó. Nàng còn nhớ những ngày nguy khổ
với những lần trốn bố (khủng bố, bố ráp = rafle, raid) mẹ nàng dắt núp trong đám lau sậy dày
đặc, lính Pháp và lính gạch mặt Sénégalais đi ruồng có khi tới sát gần một bên. Nhưng nhớ nhứt,
không bao giờ quên được, là những tiếng thét la than khóc thê thảm rợn người vang dội giữa
đêm khuya của những tù nhân bị Việt Minh đánh đập tra khảo. Những nạn nhân đó là những
người theo đạo Cao Đài bị bắt ở miệt Tây Ninh đem về xiềng xích nhốt trong những củi tre bỏ
đói ban ngày, đêm lại đem ra tra tấn.
Mẹ vợ tôi Công Giáo đạo dòng, thường tìm cách vò sẵn từng nắm cơm nhỏ, len lén gặp cơ
hội là thải cho những đồng bào Việt Nam khốn khổ đó. Người đàn bà nhân ái nầy lại cũng chính
là Người Mẹ Chiến Sĩ Việt Minh, có nhận một chiến sĩ Việt Minh tuổi đôi mươi làm con, vợ tôi
kêu là anh Ba Thân.
Gia đình vợ tôi cố bám vào mảnh đất bất an song rất phì nhiêu đó để sống. Hoa màu thâu
hoạch khá khẩm, chở đi Saigon bán, dư dả mua đủ thứ về. Tiền còn lại phải đem đổi lấy tiền
Cụ Hồ mới gọi là ái quốc. Loại giấy bạc do Việt Minh phát hành chỉ có giá trị để tiêu xài trong
Chiến Khu và các vùng Pháp không kiểm soát được, người dân gọi gọn là tiền Cụ Hồ.
Đến khi tới tuổi đi học, vợ tôi mới bỏ Khu về Thành. Khoảng đâu cũng cùng một lượt với tôi
lúc rời vùng Kháng Chiến. Lúc nầy tuổi tôi lớn hơn gấp ba lần tuổi nàng. Năm 1947, nàng lên 6,
tôi 18.
Sau ngày Việt Nam thống nhứt, là ngày sụp đổ Miền Nam, người Việt quốc gia gọi là ngày
mất nước (đối với họ), mẹ vợ tôi được nhắc nhớ lại chức Người Mẹ Chiến Sĩ nhờ có đứa con
chiến sĩ bà nuôi là anh Ba Thân may mắn còn sống sót tìm đến thăm sau gần ba chục năm xa
cách. Khi hỏi thăm tới con Hoa, tức là vợ tôi, đâu rồi, mẹ vợ tôi cho biết nàng đã có chồng con
cả bầy rồi. Anh Ba Thân hỏi tiếp tới, tưởng chắc chồng con Hoa, là tôi, không là ”lính ngụy” thì
cũng thuộc thành phần ”phản động” nào đó:
– Chồng nó làm gì?
Nghe mẹ vợ tôi trả lời: “ Chồng nó là ký giả Văn Bia đó “, anh Ba Thân la lên vừa như hoảng
hốt vừa như tội nghiệp:
– Thôi rồi! Tiêu đời con Hoa rồi! Nó nhè lấy nhằm một thằng ký giả lưu manh.
Ba Thân cho biết anh có hai đứa em gái đều bị “thằng ký giả lưu manh Văn Bia” lường gạt
lấy, rồi không ở với đứa nào hết. Nghe vợ tôi thuật lại, tôi biết ngay hai phụ nữ đó là ai, song
thật tình rất ngạc nhiên sao lại có chuyện bạn cũ xưa kết tội tôi nặng nề dữ vậy. Tôi luôn luôn
cao thượng và xử đẹp Ni, không hề làm một điều gì sai quấy với nàng. Tôi nhớ Ni có giới thiệu
người chị của nàng sau khi được thả ra, lúc đó tôi đã có Thu Tâm nên có hơi lơ là với hai chị
em nàng. Người chị thì tôi chưa gặp tới hai lần và tên cũng còn chưa biết.
May mà ngay sau khi lấy nhau, tôi đã kể cho vợ tôi nghe hết mọi quen biết của tôi, trong đó
có chuyện Ni, chuyện Thu Tâm, chuyện Ngọc Anh, chuyện Marie, đủ hết. Tôi chỉ cần nhắc vợ
tôi bằng câu hỏi có nhớ chuyện hai chị em con Ni không. Nhờ thành thật khai báo trước, nay tôi
thoát nạn, xóa bôi được thắc mắc ngờ vực trong đầu óc vợ. Ký giả được trắng án lưu manh.
Trong thời gian tìm hiểu nhau trước ngày cưới, tôi có cao hứng hứa với ý trung nhân, tôi sẽ
cho nàng đọc tất cả nhựt ký của tôi khởi viết từ hồi còn ở trong nhà dòng Chúa Cứu Thế. Tôi
giữ cả thảy gần cả trăm tập vừa 50 trang vừa trăm trang, bó lại thành hai chồng cao.
Vài hôm trước ngày cưới, tôi đem hai chồng nhựt ký đó, cất giữ trên gác nhà thuốc Tây của
anh Hai tôi ở Lái Thiêu, ra sau nhà dưới, bùi ngùi đốt từng cuốn, nghiêm trang như đốt giấy
vàng bạc đồ mã. Nền gạch xi-măng nung nóng nứt bể nổ lên như loạt tiếng súng bắn tiễn đưa
một liệt sĩ về chốn vĩnh cửu.
Vì cưới vợ, tôi làm một hy sinh to tát nhứt trong đời tôi. Tôi phải thiêu hủy kho tàng quý báu
ấy sau nhiều ngày do dự khổ sở. Điều xấu hổ nhứt dẫy đầy trong nhựt ký tôi quyết định phải
giấu nàng là những lần thủ dâm liên tu bất tận tôi ghi nhận từ hồi còn sống trong nhà dòng đến
tận thời gian quen biết nàng. Cả trăm ngàn lần ghi quyết tâm giữ mình trong sạch đúng Giáo
Luật đều thất bại đủ trăm ngàn lần.
Trong hiếm hoi lần khó lấy quyết định nhứt trong đời tôi, lần đốt nhựt ký nầy dằn vặt tôi kinh
khủng. Quyết định mau lẹ thường giúp tôi thành công nhiều và lớn vững trong nghề phóng viên,
giờ phút nầy tinh thần tôi bị khủng hoảng tê liệt.
Thiêu rụi hết dĩ vãng, trong đó có lưu kèm thơ tình của giai nhân nầy, bút tích của mỹ nhân
khác, thường đi theo cuộc đời đào hoa của một phóng viên nhà báo, đều coi như chuyện nhỏ,
không còn là vật trân quý. Song những ghi nhận vô giá ngày nầy qua ngày nọ từ thời thiếu niên
là tài liệu tối cần cho nghiệp văn tôi nhắm, giờ phải tiêu tan luôn theo.
Đốt hết là tôi đã quyết tâm chỉ còn biết lấy vợ, sanh con cái và làm giàu. Đoạn tuyệt nghề
phóng viên thì lưu lại làm chi những chứng tích có thể làm tổn thương hay sứt mẻ hạnh phúc
gia đình. Để xứng đáng và thích hợp với một thiếu nữ trong trắng mới 18 tuổi, tôi nghĩ mình
phải gột rửa cho sạch sẽ trước khi về với nàng.
Không còn nhựt ký đưa cho vợ đọc như đã hứa, tôi phải chính miệng, phần nhiều như xưng
tội với nàng. May mà thành thật khai báo, chuyện gì có xảy ra sau, như vụ hai chị em cô Ni,
càng chứng tỏ thêm lòng ngay thẳng của tôi đối với người bạn đời. Bài thơ ” Ngàn Trang Nhựt
Ký ” của tôi dưới đây hé chút bí mật hủy diệt kho châu báu. Không ngờ tôi còn cầm viết trở lại,
hoàn thành tập Hồi Ký nầy, để phải nuối tiếc bao chi tiết quên đi, bao lời văn ghi trên nhựt ký
ngay sau mỗi sự việc xảy ra, nay không còn nhớ nguyên vẹn.
CHƯƠNG 44
Ngàn Trang Nhựt Ký
Lâu đài tình ái có vì em
Ba năm ròng rã đón săn tìm
Trang trải trên ngàn trang nhựt ký
Thổn thức ghi mỗi ngày của tim.
Nhựt ký đầu trang đã viết yêu
Giữa trang nhựt ký chép yêu nhiều
Cuối trang nhựt ký đề yêu quá
Suốt cả ngàn trang ngập chữ yêu.
Trang đầu anh viết: Gặp nàng tiên
Năm em mười sáu nữ sinh hiền
Đi học đạp xe, tà áo trắng
Phất phơ vẫy gọi anh liên miên.
Rồi mỗi ngày qua mỗi mệt mê
Nón lá nghiêng che mái tóc thề
Hôm nào tưởng thấy cười hay liếc
Hồn tôi bay tận chín tầng mây.
Vắng tà áo trắng suốt bãi trường
Nhựt ký tô buồn những nhớ thương
Cô gái rời xa ngôi Hoài Đức
Bỏ trường bỏ lại lắm vấn vương.
Có lần ở khúc quẹo Cầu Ngang
Nơi sầu riêng lẫn giữa vườn măng
Bỗng tà áo trắng đâu vờn đến…
Nhựt ký tôi đầy mấy chục trang.
Năm nào đi lễ Đêm Nô-En
Nàng vắng nơi hàng ghế phía bên
Giáng-Sinh hôm đó buồn thê thảm
Tưởng Chúa nay chê Máng Cỏ hèn.
Nhưng đến giờ Mình Thánh Chúa trao
Trong đoàn ca nữ ở lầu cao
Đi xuống… Ôi Trời! Tôi hoa mắt.
Nhựt ký Sinh-Nhựt ấy đẹp sao!
Năm em mười tám, mộng anh thành.
Nhựt ký đâu rồi, em hỏi anh?
…Anh đốt vì e trang nhựt ký
Yêu thua anh trực diện tư tình.
Cũng vừa mâu thuẫn làm sao ấy
(Làm sao em hiểu nổi nỗi lòng anh)
Anh đốt vì ghen trang nhựt ký
Yêu hơn anh trực diện tư tình.
(Trích trong tập thơ N gàn Dặm Tương Tư)
CHƯƠNG 45
Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Trần Hữu Thanh tôi có nhắc tới chính là cha Giu-se Thanh đã
ngắn ngủi nổi tiếng trong những ngày Miền Nam Việt Nam hấp hối hồi đầu năm 1975.
Nuôi mộng cứu vãn tình thế đang suy sụp, cha Thanh đứng ra tố cáo chánh phủ Nguyễn Văn
Thiệu tham nhũng, cố gây lại lòng tin trong lòng dân. Liều thuốc có hay mà đem trị một bịnh
nhân đã liệt nặng đuối sức chỉ đưa con bịnh đi đong lẹ hơn. Ký giả trong Nghiệp Đoàn mang bị
gậy ăn mày đi biểu tình chống đối cũng chỉ gây hậu quả tương tợ.
Trong trường Đệ Tử ở Huế, cha Thanh lãnh dạy Việt văn cho tất cả các lớp từ Đệ Thất lên
Đệ Nhứt nên năm nào lên tới lớp mấy tôi cũng gặp lại cha. Không dùng sách vở cổ điển, cha
Thanh toàn tìm chọn những bài văn rút trong các sách mới phát hành của các tác giả Khái Hưng,
Nhất Linh, Thạch Lam, Lan Khai, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Thế Lữ, v.v…, và
áp dụng lối mở mang cho học viên tu sĩ đọc hết tất cả tác phẩm của họ. Có điều cha dùng giấy
dán bít sơ sài lại những trang ướt át tình dục, chớ không xé bỏ. Mà có khá nhiều trang bị bít có
khi cả đoạn cả xấp, nhứt là những tác phẩm của Lan Khai. Tuy vậy, học sinh nào muốn tọc
mạch xem chỉ có việc chịu khó hé sơ dòm xéo vô là đọc được hết. Hấp dẫn lắm.
Tôi nghĩ cha Thanh có đọc qua hết mới biết mà dán lại những đoạn nào. Và quan trọng hơn
là ổng được đọc vậy mới làm thầy mình. Mà tôi cũng muốn giỏi theo như thầy. Hổng biết có
phải nhờ đọc thêm những trang đặc biệt đó hay không mà nhiều bài luận của tôi viết được cha
Thanh chọn làm mẫu đem đọc trong lớp và ở cả nhiều lớp lớn ở trên nữa.
Khi cha Thanh lãnh trọng trách làm Giám Đốc Đệ Tử Viện trong thời gian các cha người
Canada bị Nhựt bắt đưa đi an trí, các đệ tử chúng tôi mới lần đầu tập làm quen với đời sống
chánh trị, được cha cho ra ngoài tham gia các cuộc mít-tinh của nhà nước tổ chức, ngoài yêu
Thiên Chúa còn yêu tổ quốc nữa.
Tôi thấy cha Giu-se Trần Hữu Thanh là một công dân ái quốc. Không lạ gì vì ông sanh trưởng
gốc gác ở đất cách mạng Đô Lương vùng Nghệ Tĩnh.
Cha Giu-se Trần Hữu Thanh – Hình chụp năm 2004
CHƯƠNG 46
Tôi rời bỏ báo Tiếng Dội gần như chạy trốn một mối tình bất thành. Không một chút thất
tình, chỉ thật nhiều hối hận. Do những lý lẽ phức tạp và vô cùng mâu thuẫn khiến tôi không thể
hằng ngày giáp mặt với Thu Tâm đang còn làm thơ ký trong tòa soạn ở đó.
Đại để tôi mang quá nặng mặc cảm tôi đã lường gạt nàng. Tuy không phải tôi từ chối hẳn,
không chịu làm chồng nàng, vì ngay trong đêm đó tôi đã có nói liền với nàng là tôi còn phải chờ
một thời gian nữa. Tôi rất cần thời gian cho tôi nguôi ngoai được mối hận lòng vừa liên can và
gia tăng vì hận nước.
Thu Tâm đã quyết lánh mặt vì không chấp nhận cuộc hoãn binh của tôi. Chị Sáu và chị Bảy
của nàng đều đứng về phe tôi, vẫn vô hiệu quả. Thu Tâm lên án tôi lường gạt nàng và không
tha tội tôi. Tôi cam đành như chịu xuống cấp, bỏ ngang Tiếng Dội, đi làm tờ báo nhỏ hơn. Vừa
lúc tiểu thuyết gia Phú Đức chuyên viết feuilleton (tiểu thuyết đăng từng đoạn trên nhựt báo)
hằng ngày cho cả nửa chục tờ báo, vừa mới ra tờ Dân Thanh, móc nối với ông Tế Xuyên rủ tôi
vô làm.
Ông Phú Đức nhỏ con, ốm yếu, có nụ cười mỉm nở trên cái miệng khá móm. Ông luôn luôn
bắt tay trái, tay mặt thường che khuất trong xấp giấy. Nghe nói bịnh phong cùi ông mắc, lộ dấu
nơi tay đó. Ông là người Công Giáo thuộc dòng họ có tiếng ở Lái Thiêu, có tài viết năm bảy cái
tiểu thuyết một lượt trong một ngày mà không bị lẫn lộn vai của nhiều nhân vật. Mỗi ngày ông
viết ít trang cho mỗi truyện đủ đăng trong tờ báo. Ông lái Vespa đến đưa bài cho từng tòa soạn.
Hôm sau nhớ viết tiếp đúng chỗ đúng nhân vật khác nhau cho mỗi chuyện, thật đáng phục.
Tiếng tăm Phú Đức nổi từ lúc tôi còn nhỏ ở nhà. Ngày nào tôi cũng nghe anh chị tôi nhắc
đến nhân vật trong tiểu thuyết Phú Đức đăng dây dưa cả năm chưa dứt chuyện.
Lúc đó tôi cứ tưởng người ta mua báo chỉ để xem tiểu thuyết. Báo về tới là lật trang sau ra
đọc truyện ” Tôi Có Tội ” sau nối tiếp là ” Lỗi Tại Tôi ” của Phú Đức. Cốt truyện hồi hộp được
theo dõi như một tin tức thật quan trọng. Lớn nhỏ trong nhà bàn tán ” Hôm nay ông cha
Alphongse Thiện đang ngồi Tòa nghe mùi dầu thơm của nữ tín đồ vô xưng tội nhận ra ngay đó
là Cécile Nguyệt ”, v.v… Đại để đó là những màn tương tự trong tiểu thuyết.
Lối lậm tiểu thuyết Phú Đức đến mức anh Ba chị Ba tôi khi sanh đứa con trai đầu lòng là Lê
Hồng Thạch, đã rửa tội cho nó với tên thánh Alphonse. Đứa em gái nó sanh kế là Lê Hồng Mỹ,
được chọn thánh Cécile làm bổn mạng. Hết nói.
Báo Dân Thanh của ông Phú Đức in tại nhà in Bảo Tồn gần tòa soạn báo Saigon Mới của ông
bà Bút Trà, tuy mới xuất bản và nghèo nàn nhỏ nhoi, tôi vẫn muốn hợp tác với ông chủ nổi
tiếng nầy. Có ông Tế Xuyên làm chủ bút, tánh cẩn thận làm tôi tin tưởng và mến trọng. Ông
cũng trọng mến tôi, chịu lối lấy tin thận trọng của tôi.
Tế Xuyên chuyên dịch tin tức tiếng Pháp, thỉnh thoảng cao hứng đề nghị đứng tên chung với
tôi viết phóng sự. Như “Mô-tô Sát Nhân”, v.v… Bài viết chững chạc hơn thì có chớ không ngại
gặp rắc rối.
Đến chừng tiểu thuyết gia Phú Đức giành viết chung phóng sự với phóng viên Văn Bia, tôi vô
cùng hãnh diện được đứng chung tên với nhà cầm bút tiềng tăm nầy. Nhưng nạn lớn xảy ra.
Chờ chực chớp tin giựt gân cho tờ báo nổi bật, khi gặp được vụ một chị ở (giúp việc trong
nhà) trúng số độc đắc bị chủ sang đoạt, ông Phú Đức cho là trúng tủ, vội vã thổi phồng nội vụ.
Ông có tài viết tiểu thuyết, quen thói bịa chuyện thần tình, nghĩ bài phóng sự của tôi sẽ hấp
dẫn hơn nếu được ông trau tria vẽ vời thêm theo kiểu tiểu thuyết. Ông đứng tên chung với tôi,
thêm thắt đủ chuyện và còn kéo dài tới mức phải mang tội phỉ báng.
Ông chủ của cô đầy tớ trúng số lôi đầu tôi và ông Phú Đức ra Tòa. Ký giả thời ấy mang án
báo chí là chuyện thường. Nhưng với tôi thì không. Nhiều vụ tố cáo hối lộ tham nhũng nặng tài
Trời, tôi vẫn không bị thưa kiện vì tôi luôn luôn lo thủ trước những chứng cớ. Ngoài ra, còn thận
trọng trong lời viết cho khỏi bị bắt bẻ và biết kiềm chế ngòi viết mình lại khi nào cần thiết.
Tôi có kinh nghiệm gặp những vụ tương tợ như cô Bê trúng số độc đắc nầy. Sau một bài viết
báo động, thủ phạm hay người liên can liên hệ thường tìm mọi cách gỡ tội. Cô Bê có đích thân
thưa chủ sang đoạt cất giữ tấm vé số. Nhưng sau khi bị động tịnh, chủ đã thương lượng thỏa
mãn với người ở, xác nhận họ chỉ cất giữ giùm, mà báo vẫn tiếp tục viết bài tố cáo người ta thì
sẽ bị tố ngược lại dễ dàng. Vẫn biết rằng nhờ có báo chí lên tiếng, cô Bê mới không bị mất giấy
số trúng độc đắc.
Chính vì kẻ toan sang đoạt cần tránh mang tiếng mà ai cũng biết, nên mặc dầu luật sư bên
bị cáo chúng tôi thương thuyết chịu cả chục ngàn đồng cho ông chủ của cô Bê bãi nại, ông ta
vẫn nhất quyết kiện đòi cho được đền bồi một đồng danh dự.
Tôi cam chịu mang án chung với Phú Đức vì mình đã hài lòng chấp nhận và khoái được đứng
tên chung với nhà văn hữu danh nầy. Nhưng ông Tế Xuyên xác nhận rằng Phú Đức làm tôi liên
can oan uổng trong vụ án cô Bê trúng số độc đắc.
Theo lý đoán của luật sư bên nguyên cáo trưng ra, những điểm trích trong những bài báo để
buộc tội nặng nhứt toàn là những câu ông chủ báo Phú Đức cao hứng thêm mắm dậm muối
cho bài phóng sự hấp dẫn. Là nhà viết tiểu thuyết, ông thích phóng đại vào bài phóng sự theo
kiểu viết tiểu thuyết của ông.
Án Tòa do Thẩm Phán Pháp tuyên. Luật sư Việt tranh luận bằng tiếng Pháp. Hai bên nguyên
bị cáo đều phải trả lời bằng tiếng Pháp. Nội bản án bằng tiếng Pháp nầy đủ chứng tỏ rằng, cho
tới ngày Ngô Đình Diệm về chấp chánh, Việt Nam vẫn chưa được chánh thức dùng ngôn ngữ
của mình, thì nền độc lập thật sự làm gì có.
Ông Phú Đức hoang tưởng như nhiều người khác cho rằng báo chỉ bán chạy nhờ có tiểu
thuyết. Thật ra, độc giả mua báo chủ yếu để theo dõi tin tức mà vì chưa có tin để đọc, họ mới
giở ra coi tiểu thuyết và truyện ngắn giải khuây. Bằng chứng báo Dân Thanh của ông có dành
những tiểu thuyết đặc sắc nhứt của ông vẫn không cạnh tranh nổi với các báo khác.
Nếu tiếp tục làm báo với một người không sành làm báo nầy, tên tuổi tôi mỗi ngày một lu
mờ thêm. Tôi đành nhảy qua tờ báo Tiếng Chuông tuy đây là ổ những phóng viên đối thủ từng
chuyên môn công kích làm phương tiện tranh tài nghệ với tôi. Ông chủ báo Đinh Văn Khai và
chủ bút Phi Vân đang đón chờ tôi như tôi đã đoán biết trước.
Ông Đinh Văn Khai luôn làm ra vẻ oai vệ, đứng ngồi chễm chệ, bao giờ cũng tra vào mình
một bộ đồ vét (veste) đúng mốt, đầu luôn chải mướt, trịnh trọng xách cặp táp (cartable) mỗi
khi bước ra đường. Ông không phải là nhà báo chuyên nghiệp và không xuất thân từ ký giả ra
làm chủ báo như Nam Đình, Trần Tấn Quốc. Song ông biết cách đầu tư vào ngành báo, dùng
nhiều ký giả rành nghề, và dám bỏ tiền mướn nhiều phóng viên, nhiếp ảnh viên và họa sĩ. Ông
trọng dụng nhà văn, mướn ông Phi Vân, tác giả tiểu thuyết Đồng Quê được giải thưởng văn
chương, làm chủ bút.
Đoàn phóng viên đông đảo của Tiếng Chuông, không một tờ báo nào xôm tụ bằng. Khi tôi
bước vào Tiếng Chuông, tờ nầy đã có sẵn những cây viết phóng sự cừ khôi như Huy Thanh,
Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Kiên Giang, viết điều tra phóng bút văn vẻ hay hơn tôi. Ngoài ra, còn
nhà văn Việt Quang hiền hậu dễ thương, nhà thơ Kiên Giang tức Hà Huy Hà trầm lặng rất nghệ
sĩ, Phong Đạm với Thanh Thế chia nhau chuyên giữ trang trong, và các phóng viên thể thao
kịch trường năng nổ như Huyền Vũ, Dũng Minh, Tô Yến Châu, Quốc Oai, Nguyễn Ang Ca, Song
Châu. Ngồi thường trực tại tòa soạn, có họa sĩ Phạm Thăng thích đi đó đây nên sau cũng gia
nhập nhóm thể thao luôn. Nhiếp ảnh viên Nguyễn Văn Bảy tức Thanh Vân lo việc chụp hình,
sau cầm viết với những bút hiệu Trương Thanh Vân và Quốc Phượng. Anh nầy hoạt động chánh
trị bí mật như ký giả Nguyễn Bảo Hóa, thay đổi nhiều bí danh, tôi không rõ tên thật là gì và tuổi
tác đúng là bao nhiêu.
Sau năm 75, Quốc Phượng lộ mặt thật, tiếp tục làm báo với chức tổng thơ ký tòa soạn báo
Saigon Giải Phóng, có nói thật với tôi hồi chế độ cũ có lần anh phải mang tên giả để né sưu tra
hay tránh nhập ngũ.
Năm 1992, trong dịp về Việt Nam làm đám cưới cho con trưởng nam của tôi là bác sĩ Lê Hồng
Minh với bạn học cũ của nó là bác sĩ Đỗ Thị Bích Liên ở Long Xuyên, tôi có đến tìm thăm Quốc
Phượng tại tòa báo Saigon Giải Phóng, được biết anh không còn viết lách nữa vì đã được hay bị
biệt phái qua trông nom ngành phát hành báo. Nay anh cũng đã về hưu.
Ông Khai còn trả lương cho nhiều nhà văn ăn khách khác như Thanh Thủy, Phi Long, Bình
Nguyên Lộc, An Khê, v.v.. để viết tiểu thuyết. Cũng mướn thêm họa sĩ là Hiếu Đệ.
Với bộ biên tập hùng hậu, lớn mạnh lần, đến khi tờ Thần Chung bị chế độ Ngô Đình Diệm rút
giấy phép thì báo Tiếng Chuông lên đứng hàng đầu trong các nhựt báo miền Nam. Tờ báo cam
go bám sát theo là tờ Saigon Mới của ông bà Bút Trà.
Thời gian tôi bỉnh bút tờ Tiếng Chuông, báo nầy còn thua rất xa Thần Chung về số lượng độc
giả. Anh em phóng viên chúng tôi hết lòng giúp báo nhà trong cuộc chạy đua ác liệt. Phong trào
báo chí bắt hạm đang nổi lên. Đồng nghiệp không có ai xông xáo hung hăng như tôi, không
phải vì họ nhát gan mà là vì tôi liều lĩnh.
Anh Nguyễn Kiên Giang, cười hề hề tối ngày, một bữa nọ có năn nỉ tôi:
– Tha cho ông Ba Tộ đi mầy. Tội nghiệp ổng là Mạnh Thường Quân của đội Túc Cầu Ký Giả
tụi tao.
Ở quận Lái Thiêu của tôi, thời Pháp thuộc, có ba ông quan Ba hùng cứ làm cho Pháp, là Ba
Tộ, Ba Sáu và Ba Danh. So với các nơi khác đầy dẫy hùm xám, đây chỉ là ba con hùm con. Song
vì là vùng gia đình tôi sanh sống, gần như chòm xóm quen biết, tôi rõ mồn một những thành
tích làm mất lòng dân của họ, nên dễ dàng cho tôi ra tay hơn chuyện xảy ra ở các nơi khác.
Tôi tạm tha ông Ba Tộ, không phải vì nể lời đồng nghiệp Nguyễn Kiên Giang, mà là vì có
nhiều vụ đáng điều tra hơn đang lôi cuốn tôi. Anh Giang rủ tôi đi săn hạm chung, nhằm loại mà
tôi đã bị vuột lần trước, lúc làm cho báo Tiếng Dội.
Lần trước ấy tôi đi điều tra hớn hở mang về đầy đủ tài liệu và hình ảnh. Vừa về tới tòa soạn,
ông Trần Tấn Quốc chận tôi lại, bảo bỏ qua vụ nầy đi vì có lịnh ở trên cấm. Tôi thắc mắc sao
Ty Kiểm Duyệt biết trước vụ nầy khi tôi chưa viết. Mãi đến lúc làm cho Tiếng Chuông tôi mới rõ
lý do. Nguyễn Kiên Giang và tôi nghe đồng bào than lần trước có một phóng viên đến điều tra,
về không viết gì giúp họ hết, mà trái lại còn báo hại họ bị một phen bố ráp tơi bời. Tôi nói cho
anh Giang biết ngay người phóng viên đó chính là tôi, và nhờ anh khi về tới Saigon, trước hết
phải đi với tôi đến tòa soạn báo Tiếng Dội để hỏi thẳng ông Trần Tấn Quốc tại sao đã ngăn
không cho tôi đăng bài điều tra. Anh Nguyễn Kiên Giang cười tôi quá khờ khạo, nói:
– Thôi rồi! Mầy đi điều tra để lộ mục tiêu cho hạm lẹ chân vọt về trước trám miệng chủ báo
rồi!
Anh Nguyễn Kiên Giang cho tôi biết ông chủ Đinh Văn Khai của mình được ở chỗ không bao
giờ chận bài viết nào của mình. Không một ai mua chuộc được ổng. Tôi chưa hẳn tin lời anh
Nguyễn Kiên Giang là đúng, song cũng không muốn gây chuyện với người chủ cũ là ông Trần
Tấn Quốc. May mà lúc đó tôi chưa hay ông Quốc và Thu Tâm đã có gì với nhau rồi.
Phần III
Báo chí và chính trị
oOo
CHƯƠNG 47
Vừa khởi sự tranh đua bắt hạm với các báo khác và ngay với cả đồng nghiệp trong cùng tờ
báo, chưa nóng máy, thì tình hình đất nước đã đến lúc biến chuyển mạnh, tôi bỏ chạy theo
phóng sự chánh trị và chiến trường đang liên tiếp, hết màn kết thúc tạm một giai đoạn nầy dẫn
qua giai đoạn kia.
Từ đầu năm 1950, Mao Trạch Đông chiếm lĩnh toàn Trung Quốc, Cộng Sản đã lan tràn tới
tận biên giới Bắc Việt. Áp lực quân sự của Việt Minh càng ngày càng đè nặng ngoài Bắc, thì
trong Nam, Pháp từ từ nhả bớt quyền lực lẫn quyền lợi cho chánh phủ Bảo Đại, như một lối xả
xú báp, tuy không lấy được lòng dân, cũng phần nào xoa dịu bất mãn. Tôi khoanh tay chờ thực
hiện lời tiên tri của ông Ngô Đình Diệm: đợi mất phân nửa Bắc Việt, Pháp mới dứt lòng tham,
chịu nhả bỏ Việt Nam.
Việt Minh, sau nầy chỉ còn Việt Cộng, hay Bắc quân, áp dụng chiến thuật của anh hùng áo
vải Lê Lợi chống Tàu, để chống Pháp, và rồi cũng y hệt không thay đổi binh lược khi chống Mỹ
sau nầy. Chủ yếu là chơi yếu tố thời gian, ngoài lối ”mạnh dùng sức, yếu dùng chước”. Nhẫn
nại chịu đựng, kéo dài bao lâu cũng được. Một năm, 10 năm hay 20 năm, tiêu pha từ thế hệ
cha đến thế hệ con, miễn tới khi nào đối phương chán nản bỏ cuộc.
Các quân nhân Mỹ làm việc chung với tôi ở Phi Đoàn Đệ Tam Chiến Thuật Chiến Đấu (3rd
Tactical Fighter Wing) trong Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ đóng tại phi trường Biên Hòa, kẻ to câu
khẩu hiệu: ” Ho Chi Minh has no DEROS ”, chế giễu Bắc Việt chiến đấu không thấy ngày chấm
dứt. DEROS là thời hạn quân dịch hai năm mỗi lính Mỹ phải chiến đấu ở Việt Nam trước khi
được trở về nước. Họ tính từng ngày DEROS của họ như chờ đợi mãn hạn tù. Hai năm mà nhiều
lính Mỹ thấy lâu như hai mươi năm, cho nên khẩu hiệu kẻ trên còn có ý nhắc nhở họ vẫn còn
đỡ hơn Việt Cộng không có ngày mãn hạn.
CHƯƠNG 48
Ngoài dùng nha phiến và rượu giết hại dân bản xứ, Thực Dân Pháp còn sử dụng thứ độc
dược ác ôn là đàn bà để hủ hóa vị vua cuối cùng của Việt Nam. Từ hồi mới lớn lên, hoàng đế
Bảo Đại đã được Pháp dàn dựng cho kết hôn với một kiều nữ đạo Công Giáo, dân Tây, con phú
gia Nguyễn hữu Hào, mặc dầu cả triều đình Huế phản đối. May thay, Nam Phương Hoàng Hậu
xứng đáng làm bậc mẫu nghi thiên hạ.
Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chính trường lúc thực dân Pháp đã tạo môi trường cho ông hư đốn
đến mù mắt, nâng đỡ tên ma cô Bảy Viễn, toan hy sinh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, người trọng
nghĩa vua tôi, khiến đưa đến chuyện Ngô Đình Diệm phải truất phế Bảo Đại.
Nghĩ ít học như tôi mà bàn chuyện chánh trị với một đại cựu quan triều đình, tức cười thật.
Song sự thật có vậy. Nhớ khi tôi nói với Ngô Đình Diệm tôi ngờ vực tên tờ báo Hoa Lư của ông
phảng phất mùi bảo hoàng, tôi có cho ông biết dân chúng ở ngoài không thích vua chúa chút
nào hết.
Tôi nói thẳng với ông là tôi cũng không ưa chế độ quân chủ, thì ông Diệm có giải thích rõ
ràng rằng quân chủ lập hiến như nước Anh rất thành công, tốt lắm. Ông còn nói gì gì nữa thật
dài, tôi đâu có để ý tới mà nhớ, nhưng khẳng định một điều là ý ông không muốn bỏ vua. Điểm
nầy nghịch với chánh kiến tôi có từ hồi tôi bắt đầu biết yêu nước là chỉ khoái dân chủ, nghĩ rằng
dân chủ đồng nghĩa với độc lập và văn minh tiến bộ.
Tuy vậy, việc khác quan điểm giữa thầy trò không thấy trở ngại gì khi cả hai đều một lòng
yêu nước, chống Thực Dân Pháp. Tôi đã hết lòng giúp ông Diệm làm tờ báo Hoa Lư và tiếp đó,
tận lực phục vụ ông cho tới ngày ông lưu vong.
Ngày Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Đại mới là ngày tôi bắt đầu suy tôn
chí sĩ Ngô Đình Diệm 100%, tin tưởng ông đã dứt khoát với chế độ quân chủ. Hổng biết có phải
ông chịu tiêm nhiễm đầu óc dân chủ của “thơ ký” của ông không mà ông đã bất ngờ chịu thay
đổi lập trường như vậy. Ông cũng còn như tôi, chịu áp dụng những cái hay của Việt Minh mà
người dân đã nghe quen tai, từ cách dùng trong hành chánh những danh từ như Chủ Tịch, Ủy
Ban Hành Chánh, Muôn Năm, Ủng Hộ, Đả Đảo, v.v..
Khi tôi đề nghị dùng chữ Cách Mạng làm tên tờ báo, tôi cũng hơi ớn bị có người bài bác hay
lên án nữa. Song tôi khoái làm cách mạng. Cách mạng là lý tưởng tranh đấu của tôi nên tôi
mạnh dạn đưa ra, không ngờ cũng được chấp nhận. Tôi sẽ nói rõ thêm trong một đoạn sau về
việc tôi sáng lập tờ báo Cách Mạng Quốc Gia cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Cho đến ngày nhóm nịnh thần, những Thái Giám thời nay, dùng ông làm thần tượng để núp
bên dưới, hoành hành làm những chuyện hại thanh danh ông, tôi chỉ còn thương ông bị lợi dụng,
không thể nào hùa theo hoan hô: ” Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống Muôn Năm! ”
Nhóm bộ hạ dư đầu óc địa phương, thiếu khôn ngoan, tuy thuộc loại tuyệt đối trung thành
với ông Diệm, để hưởng quyền lợi riêng tư, chớ chắc không phải vì lòng ái quốc, nên cùng tiêu
tùng theo cái chết của chủ. Nếu có chê trách ông Diệm là ông đã dùng lầm hai hạng người.
Dùng bộ hạ phản tặc. Và dùng bộ hạ trung thành song chỉ biết nịnh bợ, không dám phê bình
và cũng không dám để cho chủ nghe thấu được lời phê bình. Ông mất mạng vì bọn đầu. Bọn
sau vô tình hạ uy tín ông.
Dầu sao, trong những thành quả Tổng Thống Ngô Đình Diệm thâu hoạch được trong chín
năm chấp chánh, ngoài thành công đuổi Pháp cuối cùng khỏi quê hương, việc lật đổ chế độ
quân chủ đã trồi lại sau khi Cách Mạng Tháng Tám đã xóa sổ nó, là một thành tích đặc biệt to
lớn..
Cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam sau khi thoái vị năm 1945, Thực Dân Pháp
còn cố đưa trở lại miền Nam Việt Nam làm Quốc Trưởng, rốt cuộc cũng bị Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm truất phế
Miền Nam lúc ấy sống dưới một chế độ lập lờ chuột không ra chuột dơi không ra dơi. Thực
dân Pháp dọ dẫm áp dụng lối cai trị nào miễn giữ vững và kéo dài được chánh sách đô hộ khắp
Đông Dương.
Mộng lập Liên Hiệp Pháp tóm thâu tất cả các thuộc địa cũ từ Phi Châu như Algérie, Tunisie,
Madagascar đến vùng Thái Bình Dương như Nouvelle Calédonie, Việt, Miên, Lào, rời rạc quá,
không thành. Pháp thâu hẹp dựng lại Liên Bang Đông Dương kiểu như Indochine cũ, cả ba nước
cùng chung một tiền tệ cũng chẳng xong.
Tinh thần quốc gia ở mỗi nước thành hình rõ rệt. Vua Sihanouk của Cao Miên thẳng thừng
chống Pháp, mạnh dạn tuyên bố từ ngôi, bỏ kinh đô Nam Vang đến Battambang ở.
Lúc nầy báo chí Saigon lên Nam Vang dự cuộc họp báo của vua Sihanouk, tự do như đi trong
nước mình, không thấy có gì khác biệt. Tiền bạc còn là loại xài chung cho cả ba nước Việt, Miên,
Lào. Trên tờ giấy bạc có đủ cả bốn thứ tiếng. Khi mỗi nước ấn hành giấy bạc riêng của mình,
giấy bạc cũ gọi là giấy bạc Đông Dương còn tiếp tục tiêu xài và thâu hồi lần đến lúc nào hết
không hay.
Quãng cách Saigon Nam Vang quá gần nên không cần đi máy bay tuy Cao Miên có phi trường
Potchentong. Thường tôi dùng xe hơi như đã đi từ Kep, Kompong Thom tới Hà Tiên. Chỉ phải
qua phà Hố Lương tới Nam Vang, phố xá do rất nhiều người Việt Nam và Tàu làm chủ. Giới có
học của Miên dùng tiếng Pháp để nói chuyện với chúng tôi. Vua Sihanouk cũng dùng toàn tiếng
Pháp.
Ở Cao Miên, Pháp thất bại trong mưu đồ núp dưới ngôi vua. Trái lại, ở Việt Nam họ dễ dàng
xỏ mủi cựu hoàng Bảo Đại vì ông nầy hoặc còn tiếc ngai vàng đã dâng cho Cách Mạng, hoặc vì
thiếu tiền hoang phí nên đành phục vụ lại Thực Dân để được hưởng chút lương có mùi Mỹ vì
chính Pháp đã kiệt quệ trong chiến tranh Việt Nam, phải chạy chọt nhờ tới Hoa Kỳ nuôi Bảo Đại.
Phong cho Bảo Đại làm Quốc Trưởng Việt Nam là điều kiện Hoa Kỳ đặt ra để viện trợ cho
Pháp tiếp tục chiến tranh ở Đông Dương. Mỹ tưởng như vậy mới có thể tạo chánh nghĩa cho
miền Nam và sau đó tiến tới thâu hồi miền Bắc, nếu được hay nếu cần.
Hoa Kỳ mở tòa đại sứ tại Saigon, chánh thức cung cấp cho Pháp quân cụ và tiền bạc, song
khi Mỹ đòi hỏi quyền kiểm soát việc sử dụng viện trợ thì Pháp không chấp thuận. Tuy vậy, Mỹ
vẫn tiếp tục đổ vũ khí và tài chánh cho Pháp. Ngày 19/3/54, Quốc Hội Pháp biểu quyết ngân
sách chiến tranh Đông Dương thì có 136 tỷ quan ngân sách Pháp mà lại có tới 271 tỷ quan của
Hoa Kỳ viện trợ, chứng tỏ Mỹ đổ tiền của nhiều hơn Thực Dân Pháp vào trận đánh Việt Nam.
Pháp dùng khí giới Mỹ đánh Việt Nam và dùng tiền Mỹ trong trường hợp riêng biệt, khoảng gần
5 triệu đô la mỗi năm, để phát lương cho Bảo Đại. Từ đầu đến cuối, cựu hoàng Bảo Đại không
làm được trò trống gì, so với vua Cao Miên, thua kém quá xa. Người dân chỉ thấy Bảo Đại hư
đốn và là bù nhìn của Pháp.
Sau một thời gian ở Đà Lạt, thấy tù túng, Quốc Trưởng Bảo Đại vọt qua Pháp sống đời ăn
chơi xa con mắt người dân dòm ngó, giao hết trách nhiệm điều hành chánh phủ cho Thủ Tướng
Trần Văn Hữu. Thực dân Pháp chỉ mong có thế. Mượn được danh hiệu, mặc sức núp ở dưới
thao túng dùng tay sai dễ khiến.
Thủ Tướng Hữu gần như nhắm mắt phó thác mọi việc cho tay chân của Pháp. Nội các Trần
Văn Hữu sống dai hơn các chánh phủ tiền nhiệm, công lớn do tay phụ tá đắc lực Nguyễn Văn
Tâm cũng là tay sai của Pháp sở trường ngành công an. Ông Tâm đã lập công lớn với Pháp từ
hồi ngồi ghế quận trưởng Cai Lậy, chuyên bắt bớ người Việt yêu nước đa số là đảng viên hay
cảm tình viên Cộng Sản nổi dậy chống Pháp. Báo chí gọi ông là con Hùm Xám Cai Lậy.
Thế lực của ông sau đó càng gia tăng với sự có mặt của người con trai ông phục vụ trong
quân đội Pháp, là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh sau nầy.
Cùng đều trị dân dưới nền cai trị Pháp, cả hai ông Quận Trưởng Cai Lậy Nguyễn Văn Tâm và
ông Tuần Vũ Phú Yên Ngô Đình Diệm đều có đụng chạm với Cộng Sản đang nổi lên chống Pháp.
Song cách hai người xử lý trái ngược hẳn nhau. Ông Quận Tâm thì bắt bớ tàn sát. Còn ông Tuần
Vũ (Tỉnh Trưởng ở miền Trung dưới thời Bảo Đại) Diệm lo diệt trừ, không phải người dân Cộng
Sản mà là diệt trừ tham nhũng, và lo nâng cao mức sống của nông dân. Ông Diệm làm thỏa
mãn cả hai điều Cộng Sản đang đòi hỏi.
Tài năng xuất sắc của ông Diệm đưa ông lên chức Thượng Thư Bộ Lại (Thủ Tướng dưới triều
đình Bảo Đại) lúc ông vừa mới 32 tuổi. Nhưng vài tháng sau ông từ chức với lý do không thể
hành động ngược lại quyền lợi của tổ quốc. Ông bị Thực Dân Pháp trù dập, tước lột hết huy
chương chức tước, lại còn dọa bắt giam ông nữa. Anh ông là Ngô Đình Khôi bị bay luôn ghế đầu
tỉnh Quảng Nam cũng vì thái độ phản kháng của người em.
Trái lại, nhờ thẳng tay giết hại Cộng Sản, ông Quận Nguyễn Văn Tâm sau được Pháp thăng
chức cho làm Thủ Tướng Nam Kỳ và con ông là Nguyễn Văn Hinh được lên lon Trung Tá trong
Không Quân Pháp. Năm 1952, Thực Dân Pháp giao cho tay sai đắc lực Nguyễn Văn Tâm chức
Thủ Tướng thay thế Trần Văn Hữu, không rõ có sự đồng ý của Quốc Trưởng Bảo Đại hay không.
Thể chế Miền Nam được hiểu thế nào tùy theo nhu cầu và giai đoạn mà kẻ cai trị thật sự là
Thực Dân Pháp muốn, để trình diễn trước công luận. Luật pháp vì vậy cũng du di theo. Ba hồi
áp dụng luật của Pháp bổ túc luật Hồng Đức của Việt Nam xưa cũ từ hồi Nhà Lê, ngoài lu bù
sắc lệnh. Lối cai trị bằng Đạo Dụ hay bằng Sắc Luật kéo dài luôn tới chế độ Việt Nam Cộng Hòa
của Ngô Đình Diệm. Lúc nào thấy bộ luật Hồng Đức không còn thích hợp hoặc thiếu sót, thì nhà
cầm quyền ra Đạo Dụ nầy hay Sắc Luật khác, như có sẵn luật rừng, lúc cần lôi ra xài.
Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, tóc hớt ngắn kiểu bàn chải, vẻ mặt cương ngạnh phản ảnh
tánh tình của ông, không mấy thích tiếp tục một công tác mật riêng mà cựu Thủ Tướng Trần
Văn Hữu, từ khi nhậm chức, đã nhận lãnh thêm của Quốc Trưởng Bảo Đại, là cung phụng đều
đều tiền cho ông cựu hoàng nầy hoang phí với đầm non bên Pháp. Tiền Mỹ không thấm tháp
với lối phung phí đúng kiểu hành lạc đế vương của ông, Bảo Đại cần thêm nhiều nguồn lợi tức
khác mới đủ.
Dùng chút quyền lực được Pháp trao trả lại, Bảo Đại phong cho Bảy Viễn chức Thiếu Tướng,
và ban cho độc quyền khai thác sòng bạc Đại Kim Chung ở Chợ Lớn, tổ chức nhà thổ đại quy
mô, và xổ đề hai lần mỗi ngày. Người dân muốn cờ bạc và chơi gái, phải tới tận nơi. Còn xổ đề
đi đến tận hang cùng ngõ hẻm, từ thành thị tới thôn quê. Đâu đâu cũng có mặt người huyện
đề. Tay huyện đề kiếm tiền huê hồng. Người dân thua xiểng niểng.
Ngày ngày, Bảy Viễn dùng hệ thống huyện đề như màng nhện chằng chịt những chưn vòi
mực ma bao phủ khắp Miền Nam, hút hết máu mủ của dân, đem chia lại một mớ đều đều cho
Quốc Trưởng Bảo Đại. Kinh tế đình trệ và tội ác gia tăng theo đà cờ bạc đĩ điếm phát triển.
Nhóm Bình Xuyên gốc là phe đảng của Bảy Viễn lúc khởi đầu cuộc Kháng Chiến ở trong Khu
Rừng Sát kế cận Saigon, có một thời oanh liệt đánh Thực Dân Pháp, gây được khá nhiều thành
tích anh hùng ngay tại giữa thành phố Saigon Chợ Lớn.
Bị Phòng Nhì Pháp mua chuộc, Bảy Viễn dắt một số lớn bộ hạ, rời bỏ mặt trận Việt Minh về
thành, được Thực Dân Pháp thâu dụng và ban phát cho nhiều đặc ân, lần hồi chiếm giữ luôn
ngành công an. Hai anh em Lai Hữu Tài và Lai Văn Sang nắm ghế chủ chốt, tổ chức Công An
hay Cảnh Sát Xung Phong trang bị hùng hậu như một đơn vị quân đội.
Tới khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chấp chánh, lực lượng Bình Xuyên dựa hơi Pháp, bất tuân
phục chánh phủ. Quân đội Việt Nam xung kích từng đồn bót cảnh sát võ trang của Bình Xuyên
rải rác khắp đô thành, tạo ra một cuộc nội chiến giữa Saigon, đẩy lui nhóm Bình Xuyên vô Rừng
Sát trước khi tiêu diệt họ tại đó.
Trong thời gian làm tay sai cho Pháp và Bảo Đại, hoành hành như một lãnh chúa tại thủ đô,
Bảy Viễn và bè đảng đã gây nhiều tội ác. Ông ”vua” Bảy Viễn muốn làm thịt xơi tái cô ca sĩ nào,
cô đó khó thoát. Trang Mỹ Dung là một nạn nhân. Ngay cả hoa hậu Hồng Kông qua, ông cũng
không từ.
Bắt chước theo gương chủ, bộ hạ ông nhũng nhiễu dân lành, gây ra lắm tiếng tăm xấu xa.
Báo chí nào dám động tới hạm to cỡ Bảy Viễn? Ngược lại, có những ký giả đeo theo nịnh bợ để
hưởng xái. Nền đạo đức thương tích cũng như nền chánh trị vá víu dơi chuột ở miền Nam cứ
bệ rạc lụn bại theo tình hình quân sự của Pháp ngoài Bắc, mỗi ngày một thêm bi đát.
Tai họa khủng khiếp do Cộng Sản đem đến thế nào không biết, người dân đang thấp thỏm
trong cuộc sống không tương lai, vẫn trông chờ một thay đổi lớn thế nào cũng sắp đến. Một
cuộc giải phóng cần thiết.
Trận Điện Biên Phủ
Sau khi nã những trận mưa đại pháo xối xả xuống căn cứ Điện Biên Phủ, quân Việt Nam miền
Bắc dùng chiến thuật biển người tấn công vào. Pháp bất ngờ trước sự hiện diện của hàng trăm
cỗ đại pháo địch đặt từ trên các đỉnh núi cao bao quanh căn cứ.
Chuyện không thể tin tưởng mà làm được đã xảy ra. Hàng trăm ngàn lao công tiếp tay với
bộ đội lôi kéo từng chiếc cà-nông (canon = súng đại bác) lên núi xuống đèo cả trăm lần mới
đến địa điểm, hằng trăm cây số từ ngày nầy qua tháng nọ. Mỗi lần lôi lên một đỉnh núi nhọc
nhằn hao tốn sức bao nhiêu, lúc trợt xuống mỗi dốc đèo, càng khổ gấp bội, cộng thêm cả trăm
lần hiểm nguy tánh mạng. Để cứu cỗ pháo vô cùng quý báu khỏi rơi xuống hố, trong trường
hợp khẩn cấp, có những sanh mạng biến thành cây canh, lao vào trước bánh xe chận lại. Bạn
đọc nào có xem cuốn phim Trận Điện Biên Phủ, thấy rõ chiến tranh vô cùng tàn bạo. Khủng
khiếp hơn Trận Normandie ở Pháp nhiều.
Quân Pháp càng kinh ngạc cảnh thí quân biển người của Bắc quân, phải dùng đại liên đại
bác quơ thẳng vào làn sóng người, cứu Điện Biên Phủ khỏi bị tràn ngập lần đầu.
Lúc nầy tôi đã làm cho báo Tiếng Chuông, hồi hộp theo dõi tin tức hằng ngày nên nhớ rõ
từng chi tiết. Nếu còn ở Thần Chung, tình nguyện kẹt lại Điện Biên Phủ để tường thuật trận lịch
sử, tôi khoái biết bao nhiêu khi được làm cuộc phóng sự chiến trường lớn nhứt nầy. Tôi không
lo sợ mất mạng, vì chắc chắn sẽ thành một phóng viên nổi tiếng. Báo chí được mang bên cánh
tay một brassard (băng) kẻ chữ PRESSE (Báo Chí) to tướng, hy vọng địch quân sẽ không coi
mình là thù địch. Có tệ lắm họ cũng đối xử mình theo cấp sĩ quan đầu hàng. Trái lại, mình có
cơ hội viết phóng sự độc đáo về hàng quân Pháp trước chiến thắng của Việt Nam. Cũng vì cái
tánh đam mê nghề nghiệp nầy mà bao nhiêu phóng viên, nhứt là phóng viên nhiếp ảnh, đã bỏ
mạng trong các trận chiến tranh hay xung đột từ trước đến nay.
Mất dịp Điện Biên Phủ, không đầy một năm sau, tôi gỡ gạc bằng cách mò ra Hải Phòng chứng
kiến cảnh quân Pháp hàng ngũ chỉnh tề, trật tự rút lui quân từng bước một trước từng bước
tiến của đoàn quân chiến thắng Việt Nam.
Lúc đó là lần đầu tiên tôi có dịp chạm mặt với cả một đoàn quân ký giả ngoại quốc đông đảo
chưa từng thấy. Họ toàn nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Phóng viên Francois Sully cũng
không còn nói tiếng Pháp như mọi khi, dùng thứ ngôn ngữ lạ hoắc, tôi chào thua. Tôi gia nhập
đoàn ký giả quốc tế để được Ủy Hội Quốc Tế che chở, mà câm điếc, nhận thấy ngay tiếng Pháp
của tôi từ nay đã trở thành vô dụng, phải nhờ Francois Sully làm thông ngôn. Ê chề quá.
Ngôn ngữ Pháp mà trước đây tôi nhờ có khá hơn chút đỉnh, đã giúp tôi thắng nhiều đồng
nghiệp trong những cuộc lấy tin, bây giờ thành hết xài. Từ nay, muốn tiếp tục thành công thắng
lợi trong nghề ký giả, dứt khoát phải biết tiếng Anh. Chỉ vì yêu nghề làm báo, tôi lại phải khổ sở
khởi đầu học thêm một thứ ngoại ngữ trẹo miệng quá khó khăn như tôi có thuật qua.
Việt Nam cần chiếm phần thắng trên bàn Hội Nghị Genève, đã đến lúc trình diện thành quả
quân sự. Sau cuộc hao quân biển người, tướng Võ Nguyên Giáp thay đổi chiến thuật bằng trận
chiến hào. Pháp kêu cứu với Hoa Kỳ, bàn đến cả chuyện dùng bom nguyên tử để giải vây.
Bộ đội Việt Minh bỏ súng, dùng cuốc xẻng đào hầm hố, mỗi ngày có khi chỉ được vài thước,
song cứ lần hồi, lần hồi xáp gần tới phòng tuyến Pháp. Màng nhện hầm hố tính tổng cộng cả
hàng trăm cây số bủa vây Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954, cờ đỏ sao vàng phất phơ trên đài tổng chỉ huy của Pháp.
Tướng De Castries với trên mười ngàn lính Pháp bị bộ đội Việt Nam bắt làm tù binh, trong số
đó có một tiểu đoàn gồm người Việt, người Miên và người Hoa đánh giặc cho Pháp.
Tin Điện Biên Phủ thất thủ mau lẹ thay đổi tình hình Việt Nam. Trước thế giới, theo văn bản
quốc tế của Hiệp Định Genève do hai phe lâm chiến ký kết, Việt Nam hoàn toàn làm chủ, nghĩa
là hoàn toàn độc lập, vùng phía Bắc Việt Nam. Ranh giới là sông Bến Hải tại vĩ tuyến 17 ở Quảng
Trị.
Trong thời hạn 300 ngày, lực lượng hai phe lâm chiến rút về khu vực của mình đã được ấn
định. Toàn quân Pháp rời khỏi miền Bắc. Lực lượng du kích và cán bộ hành chánh Việt Minh ở
miền Nam tập kết ra Bắc.
Cũng trong thời hạn qui định nói trên, người dân ở hai miền Bắc và Nam được tự do lựa chọn
miền mình muốn ở. Người dân là lá phiếu. Hai bên đều dùng cách thức của mỗi bên để lôi kéo
hay níu giữ người dân về phe mình.
Điều tôi thấy, tôi ghi nhận lại. Có cố sức giữ tinh thần vô tư mấy cũng khó làm hài lòng phía
nào. Tuy nhiên, lịch sử là sự thật và tôi chỉ sợ bị sử gia phê phán mình mô tả sai sự thật.
Tôi sẽ tuần tự kể lại theo trí nhớ của tôi, sau khi nhắc lại tình hình đất nước sau ngày ký kết
Hiệp Định Genève.
Chiến thắng Điện Biên Phủ
Hoa Kỳ đã có mặt từ năm 1946 giúp Pháp (DeLattre de Tasigny) đánh Việt Nam, có nhúng tay
vào trận Điện Biên Phủ nữa
CHƯƠNG 49
Hầu hết mọi người tưởng lầm Mỹ đã nâng đỡ Ngô Đình Diệm theo lời gởi gấm của người đỡ
đầu ông là Đức Hồng Y Spellman, và Mỹ làm áp lực bắt Pháp từng bị họ Ngô chống đối, phải
nhận ông làm Thủ Tướng. Do đó ông Diệm mang tiếng thân Mỹ oan uổng, tuy chính ông và phe
nhóm gồm cả tôi đều làm thinh nhận chịu để coi đây là vũ khí tuyên truyền cần thiết tạo quyền
lực dỏm trong khi còn tay không, lúc ông Diệm về nước. Giống y hồi năm 1945, lúc Việt Minh
cướp chánh quyền, họ cũng để dân tưởng có Hoa Kỳ đứng sau lưng họ. Thật ra, Mỹ chỉ có
nhúng tay giúp đoàn du kích Việt Minh vài cố vấn huấn luyện phụ lực chống Nhựt Bổn và với
mục tiêu trọng yếu hơn, là thâu thập tình báo.
Chế độ Ngô Đình Diệm chấp nhận đoàn cố vấn Mỹ cũng kiểu y chang vậy thôi. Nhưng lúc
đầu, Hoa Kỳ thấy rõ ông Diệm không được hậu thuẫn của đa số nhân dân, ông lại là người Công
Giáo trong một nước hầu hết đều giữ đạo Ông Bà hay theo đạo Phật, nên Hoa Kỳ không tin
tưởng, đâu có ủng hộ ông.
Ông Diệm cũng đã rời Hoa Kỳ qua Bỉ tiếp tục cuộc sống ẩn dật trong một nhà dòng từ giữa
năm 1953.
Trong giờ phút nguy kịch của phía quốc gia ở Miền Nam, khi Pháp chưa trao trả hết quyền
và chúng lại có mòi không cứu giữ nổi nữa, Quốc Trưởng Bảo Đại không còn tin tưởng ai giải
nguy được ngoài vị cựu thần của ông là Ngô Đình Diệm.
Để dọn đường trao quyền cho ông Diệm trong khi Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đang mạnh
mẽ bám giữ, Bảo Đại phải dùng cách chọn hoàng thân Bửu Lộc thay thế trước, làm giai đoạn
chuyển tiếp.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước được
thưa thớt người đón tiếp
Non hai tháng sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 26 tháng 6 năm 1954, ông Ngô Đình
Diệm nhận chức Thủ Tướng do Quốc Trưởng Bảo Đại giao, và ông về nước trong sự đón tiếp
quá thờ ơ. Thủ đô Miền Nam hay đồng bào Saigon không hoan nghinh vị tân Thủ Tướng, cũng
như đã chưa hề chịu chấp nhận những người Việt cầm quyền nào trước ông, do Pháp hay bù
nhìn Bảo Đại của Pháp đưa ra. Mặc dầu bộ mặt chánh trị mới mẻ nầy là một nhà ái quốc có
thành tích, song hầu hết người trong Nam chưa biết ông Ngô Đình Diệm. Hơn nữa, dân tình lúc
nầy, hơn bao giờ hết, chỉ còn tin tưởng tương lai trước mắt là làn sóng đoàn quân chiến thắng
Điện Biên Phủ sắp kéo vào tiếp thu nốt Miền Nam.
Báo chí phản ảnh trung thực dư luận quần chúng. Không một tờ báo nào hoan hô tin Ngô
Đình Diệm được bổ nhiệm Thủ Tướng. Ngay cả loan tin, họ cũng còn không buồn đăng, tôi phải
chạy đến từng tòa soạn nhắc nhở như sẽ nói tới.
Tin ông Diệm sắp về nước chấp chánh là cả một sự bất ngờ cho tôi, gần như không tưởng
tượng được. Thoạt đầu, tôi ngạc nhiên sao ông Diệm đang lưu vong sống ẩn dật trong tu viện
ở ngoại quốc, hết Hoa Kỳ rồi Bỉ, trong một bầu không khí thật hợp với tánh tình ông, cũng như
lúc ông trú ngụ trong nhà dòng Chúa Cứu Thế ở Việt Nam, sao lại trở về giữa cảnh dầu sôi lửa
bỏng, Pháp thua xiểng liểng trước làn sóng Cộng Sản có cả Liên Xô và Trung Quốc Đỏ vĩ đại
yểm trợ.
Cả Saigon huy động được có một nhúm nhỏ xíu công chức đi lên phi trường Tân Sơn Nhứt
tiếp đón Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Dân thì chỉ gồm có nhóm thân hữu trong Ban Đón Tiếp.
Lần đầu lưa thưa đi rước hụt đã là một thí nghiệm cho thấy một sự hưởng ứng bi đát. Chiếc phi
cơ Air France đáp xuống rồi mới được thông báo là không có mặt ông Ngô Đình Diệm trên đó.
Tôi cũng mừng cho họ Ngô khỏi phải thất vọng trước đám người le hoe đón tiếp hụt ông. Lần
sau hy vọng Ủy Ban Tiếp Đón cố vận động mạnh hơn.
Ủy Ban Đón Tiếp trong đó có tôi, mệt nhọc tổ chức hội họp bàn thảo kế hoạch. Thấy có mặt
hăng hái nhứt là cha Nguyễn Quang Toán dòng Chúa Cứu Thế, ông Phan Xứng, thầu khoán,
sau được làm dân biểu, từ Đà Lạt xuống, ông Trần Quốc Bửu lãnh tụ Tổng Liên Đoàn Lao Công,
bác sĩ Bùi Kiện Tín, và ông Cao Xuân Vỹ.
Hiện diện trong buổi họp còn có một tu sĩ trẻ tuổi tôi được nghe giới thiệu là cháu của ông
Ngô Đình Diệm. Tôi nhớ trước đó mấy năm tôi đã có gặp nhà tu khôi ngô tuấn tú nầy tới thăm
ông Diệm vài lần lúc tôi đang có mặt và nghe hai người xưng hô cậu cháu với nhau. Sau nầy tôi
mới hay thanh niên mặc áo dòng đó là con của bà Cả Ấm (tục danh Ngô Đình Thị Hiệp), chị của
ông Diệm, và chính là Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận sau nầy. Tôi không thấy ông ta xông xáo
như cha Toán và không nghe ông đưa ra ý kiến gì trong phiên họp cho nên tôi không biết ông
có góp công tác gì vào cuộc tiếp đón Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ngay trong buổi họp đầu nầy
tổ chức tại căn phòng mà ông Diệm và tôi từng cư ngụ 5 năm trước, tôi có nói lên khó khăn của
tôi trong việc tham gia.
Tôi vừa bị toán quân đội vây bắt lính thộp cổ đêm hôm trước trong một cuộc bủa vây. Họ lập
một văn phòng lưu động đặt trên một chiếc xe cam-nhông (camion = xe hơi lớn chở hàng) đặc
biệt đậu bên hông chợ Cá Bà Chiểu. Thanh niên bị bắt lùa về đó sưu tra. Thấy năm sanh 1929
của tôi nằm đúng trong lứa tuổi quân dịch, viên Đại Úy khoái trá vui như vừa câu được cá. Nhìn
vào thẻ báo chí, nhớ ngay tôi là phóng viên Văn Bia, ông ta càng cười to lên:
– Ha ha, cho phóng viên ngủ muỗi đêm nay được hông?
Tiếp tục, ông ta cứ hỏi thăm tôi về nữ phóng viên Cẩm Vân tôi làm chung trong báo Thần
Chung. Cẩm Vân lúc ấy rất nổi tiếng. Cô ta vui vẻ dễ thương với mọi người, dĩ nhiên có cả với
tôi. Là trưởng nữ của ký giả Nam Đình, chủ báo Thần Chung, nàng được lăng-xê (lancer = đưa
lên) như diều gặp gió, được đi theo tôi, hay nói đúng là cô ta thường lái xe hơi chở tôi đi lấy tin
tức, phỏng vấn, chụp hình. Tôi viết bài, nàng đăng hình. Nàng cũng như tôi, được gởi đi làm
những cuộc phóng sự, phỏng vấn quan trọng, như đi viếng Điện Biên Phủ. Chỉ có khác là tôi
phải viết bài và nhường lại cho nàng nghề nhiếp ảnh mà tôi hằng mê thích như viết, còn nàng
thì có ông Cao Minh Chiếm ngồi thường trực trong tòa soạn viết giùm. Ngoài ra, Cẩm Vân kết
thân với tướng Hinh là xếp to nhứt của quân đội. Không dè tôi cũng được nể lây, khỏi ngủ muỗi
đêm đó, được thả ra đi tự do với lời dặn đừng để bị ai bắt lại lần nữa.
Mỗi đêm tôi thích thả xuống chợ Bà Chiểu, vô ngồi trong tiệm cà-phê gần góc chợ Cá phía đi
về rạp hát Huỳnh Long, uống xây-chừng với anh bồi của cô nàng ”mối tình đầu” của tôi, để
nghe ngóng tin trong lãnh vực mới nầy.
Sau đêm thoát nạn đó, tôi tính vừa sắp phải giã từ chạy theo tình, vừa “bái bai” (bye bye)
nghề nghiệp làm báo nữa, không còn dám đi lạng quạng ra ngoài.
Tôi đâu có ngán đi lính chút nào. Làm gì nguy hiểm, cực khổ bằng đi Khu. Song tôi không
thể gia nhập vào quân đội Việt Nam lúc đó Pháp đang thành lập trong mưu đồ dùng người Việt
đánh người Việt, kéo dài chế độ Thực Dân dưới hình thức mới. Tôi được ông Diệm thâu dùng
cũng vì tôi không phải là người làm việc cho Pháp, trái lại còn được coi là một người kháng chiến
cũ đã từ Bưng Biền trở về. Ông Diệm tin tưởng những kẻ đã từng chiến đấu dưới bóng cờ đỏ
sao vàng hơn những kẻ phục vụ dưới cờ tam sắc. Dưới trướng của ông, khởi đầu qui tụ toàn
những tay Việt Minh, từ cựu dân biểu Phan Xứng, Trần Chánh Thành, Hồ Sĩ Khuê, Phạm Ngọc
Thảo, v.v. đến cả tôi. Sau khi về nhận chức Thủ Tướng Miền Nam, ông Diệm đối thế phải sử
dụng những người của Pháp trao lại. Nói cách khác, là phải thừa kế những sản phẩm của Thục
Dân, như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, v.v., ngoại trừ Nguyễn Văn Hinh,
Nguyễn Văn Xuân, Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), ông Diệm dứt khoát không xài.
Tôi lấy tình trạng trốn lính để tránh tham gia Ủy Ban Tiếp Đón. Thú thật đây không phải là
lý do chánh. Thật ra tôi đã chán nản chánh trị. Từ khi ông Diệm bỏ nước ra đi, tôi chỉ còn chú
tâm vào nghề nghiệp mà tôi hết sức say mê. Như hầu hết đồng bào lẫn báo chí lúc ấy, tôi cũng
mất hết tin tưởng có chế độ nào ở Miền Nam cứu vãn được tình thế. Ai nói tôi đã mất lập trường
hay chủ bại, tôi đành chịu.
Song số tôi không bỏ ông Diệm được. Ông Ngô Đình Nhu, ngay giữa buổi họp, nói với bác sĩ
Tín lo cho tôi một chứng minh thư như ổng là khỏi phải đi lính cho Pháp. Tôi đi may một bộ đồ
ka-ki, mua cặp lon và ca-lô (mũ chào mào), chụp hình, lãnh thẻ chứng nhận tôi là một Thiếu Úy
Cao Đài.
Được tự do trở lại, tôi tiếp tục rong rảo khắp phố như cũ. Lúc đầu gặp lính chào, tôi bỡ ngỡ
không biết chào trả lại cách nào. Khoái nhứt là tôi không phải tạm ngưng nghề đi săn tin, làm
phóng viên. Mấy đồng nghiệp khác, ở lứa tuổi tôi như anh Nguyễn Ang Ca, Song Châu, Huyền
Vũ, Quốc Oai, v.v.. đều phải gia nhập quân đội, hầu hết đều phục vụ ở Phòng Năm về ngành
Báo Chí.
Tôi sốt sắng tham gia Ủy Ban Tiếp Đón là cách tôi cám ơn bác sĩ Tín và ông Ngô Đình Nhu
đã giúp tôi được tự do.
Ông Phan Xứng lo viết kiến nghị của dân thiểu số vùng Đắc Lắc mà đâu thấy có bóng dáng
người Thượng nào. Ông Trần Quốc Bửu không huy động được đoàn viên các nghiệp đoàn,
tưởng đâu rất to tát của ông. Cũng không thấy có nhóm Công Giáo nào do cha Toán mang tới.
Liên lạc viên duy nhứt với báo chí là tôi. Tôi chạy đến tờ báo lớn nhứt tôi từng làm là Thần
Chung. Ông Nam Đình lắc đầu, gọi tôi bằng em như thường lệ, nói tôi chỉ có thể viết vắn tắt
loan tin và in một tấm hình của ông Ngô Đình Diệm. Nhưng Ủy Ban Tiếp Đón muốn đừng phổ