The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Đêm Oakland và Những Truyện Khác Phùng Nguyễn

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-11-02 00:23:49

Đêm Oakland và Những Truyện Khác Phùng Nguyễn

Đêm Oakland và Những Truyện Khác Phùng Nguyễn

mình thực lâu, cố ghi nhận làn da mịn màng và mát
rượi trên da mặt anh chai sạn. Lúc anh quay lưng bỏ
đi, cả hai đều không biết rằng họ sẽ chẳng bao giờ còn
gặp lại!

Trong mười năm tiếp theo, Thuận như hòn đá
lăn, di động không ngưng nghỉ. Anh có mặt trên
những chiến trường xa lắc, có khi bên ngoài biên giới
đất nước. Anh hoạt động ở nhiều địa điểm, trải qua
nhiều nỗi hiểm nghèo, chứng kiến và tham dự vào
việc tạo ra nhiều điều hùng tráng, nhiều điều bi thảm,
nhiều điều tàn bạo. Và trong suốt mười năm dài, anh
vẫn nghĩ đến Xuyến, như anh đã từng thương nhớ cô
mười năm xa vắng trước đó. Cho dù không có tin tức
nào chính xác về hành tung của cô, anh vẫn cho rằng
cô luôn bình an và luôn mong chờ ngày anh trở về.

Rồi anh cũng trở về, với tư cách một thành viên
của phe thắng trận. Nhưng Xuyến không còn ở đó.
Không còn ai ở đó. Ngôi làng đã trở thành bình địa từ
lâu trong cơn binh lửa, và những cư dân cuối cùng nếu
không chết vì tên bay đạn lạc thì cũng đã dắt díu nhau
đi mất. Thuận còn đang lúng túng thì có người đến
tìm. Người đàn ông nằng nặc đòi gặp riêng anh.
Thuận ra hiệu cho người cần vụ lui ra khi cái tên
Xuyến được nhắc đến. Và người đàn ông nói ra cái tin
chẳng lành mà Thuận đã cảm thấy được ngay trước
khi anh ta lên tiếng. “Cô ấy chết thảm lắm, ngay buổi
sáng ngày giỗ mẹ, hai hôm sau khi ông đi...”

Lúc này Thuận đã nhận ra người đàn ông là ai.
Chú du kích trẻ măng năm nào! Người có trách nhiệm
canh chừng cái “bẫy” không cho ai đến gần ngoài “đối
tượng” chọn lựa. Hắn nói gì vậy? Sao lại ngay hôm
giỗ mẹ của Xuyến? Anh chồm lên, nắm ngực người
khách lắc tới lui, nói như mê sảng, ”Chú nói gì vậy?
Sao lại vào ngày giỗ mẹ?” Lòng anh quặn lại trong nỗi

kinh hoàng cùng cực. Người đàn ông từ tốn gỡ tay
Thuận ra khỏi người mình. Nét mặt hắn trầm tĩnh, có
chút lạnh lùng. “Tôi có món đồ này cho ông!” Anh ta
lôi trong túi ra một gói giấy ny lông nhỏ đưa cho
Thuận. Đó là một vỏ bao thuốc lá cũ mèm nhăn nhúm
gấp làm đôi, màu hồng nguyên thủy đã bay mất, chỉ
còn lờ mờ nhận được hàng chữ “Ruby Queen” ở mặt
trước. Ở mặt sau chỉ có vỏn vẹn một hàng chữ viết tay
nhòe nhoẹt, không còn đọc được nữa. Nhưng điều đó
thực không còn cần thiết đối với Thuận. Anh biết
hàng chữ đó nói gì. Chính anh đã viết xuống cái vỏ
bao thuốc lá mà Tấn đã gởi cho anh cùng với lời “đuổi
khéo” hơn mười năm về trước. Tờ giấy chứa vỏn vẹn
có mỗi ngày đám giỗ sắp tới của mẹ Xuyến. Thuận
còn nhớ mình trao mảnh giấy này cho người đồng chí
chỉ huy du kích địa phương trước khi lên đường. Lúc
đó anh đã dặn dò kỹ càng về việc cái bẫy phải được
canh chừng cẩn thận để tránh tổn thất cho nhân dân.
Chính là người đàn ông trước mặt anh chịu trách
nhiệm về khâu này. “Tôi đau bụng, đi ngoài có một
chút thôi. Ai dè! Cô ấy chết tay còn nắm cứng tờ giấy
này!” Người đàn ông thở hắt ra sau câu nói. Thuận
muốn nhảy lên bóp cổ hắn, nhưng anh đứng im. Chính
anh ra lệnh thực hiện cái bẫy để tiêu diệt Tấn, kẻ thù
của nhân dân, như anh đã tuyên bố trong buổi họp
cuối cùng với nhóm thuộc hạ ở địa phương. Anh cảm
thấy đau nhói như thể có một ngọn chông nhọn hoắc
đang xuyên vào hạ thể lên đến bụng dưới. Chông ba
cạnh sắc lẻm, được chuốt từ cật tre đặc ruột, lún sâu
vào cơ thể nạn nhân ngọt xớt. Mỗi cử động dù nhỏ
đến đâu cũng làm ngọn chông đâm vào sâu hơn,
những dăm tre sẽ gây ra cái cảm giác nhói buốt rợn
người bên cạnh cơn đau xé ruột xé gan đến từ cây
chông tre. Và Xuyến của anh đã chết như vậy đó, tay

nắm chặt cái vỏ bao thuốc có thủ bút của anh! Nếu mà
anh có thể biết được Xuyến đã nghĩ gì vào lúc đó!

“Ông Tấn không về hôm giỗ mẹ...” Người đàn
ông kể tiếp. Tất nhiên là Tấn không về. Con gà nòi
Điện Hồng mưu lược không dễ dàng gì mắc phải cái
bẫy do chính mình giương ra. Thuận không hề có ý
định sát hại Tấn, người em kết nghĩa và là anh ruột
của người yêu. Cái hầm chông bên cạnh ngôi mộ của
mẹ Tấn chỉ là cái cớ. Không khó khăn gì để Tấn hiểu
ra tại sao Thuận có mặt ở vùng kiểm soát của anh.
Mục tiêu chính là Tấn, và Thuận phải là người triệt hạ
mục tiêu, không còn cách nào khác. Việc Thuận bại lộ
tung tích buộc anh phải rời vùng kiểm soát của Tấn
tức khắc, và những ngọn chông tre ba khía chứng
minh quyết tâm của anh. Một lối thoát tuyệt hảo, và
chính là Tấn đã cho anh cái cơ hội đó. Chỉ có một việc
cả hai đều không nghĩ tới, Xuyến! Thuận có thể hiểu
được nỗi đau đớn và phẫn nộ của Tấn, trong đó nhất
định có niềm ân hận mênh mông về cái ý nghĩ chính
anh cùng Thuận là thủ phạm của cái chết đau thương
của người con gái mà cả hai yêu quí vô cùng. “Ông ấy
lồng lên như con hùm xám...” Tấn trở nên hung dữ
như hùm xám, độc ác như rắn cạp nia, và quỷ quyệt
như chồn đèn. Những ngày tháng sau đó là cơn ác
mộng của hạ tầng cơ sở địa phương. Tấn đã gây nhiều
tổn thất trầm trọng cho đối phương. Vào năm kế tiếp,
đến phiên Tấn chết dữ dằn trong một cuộc đột kích táo
bạo của phe Thuận, cũng dữ dằn như những cái chết
anh gây ra cho họ.“Ông ấy không giết tôi vì tôi có
công mang cô Xuyến về quận. Hơn nữa, ông Tấn
muốn tôi giao lại cho ông cái món đồ khi nãy.” Thuận
không còn muốn nghe thấy gì nữa!

Ít lâu sau đó, Thuận bắt đầu thấy lại Xuyến trong
chiêm bao mỗi đêm. Thuận không chắc những giấc

mơ có thực giống nhau không, nhưng anh luôn luôn
có cái cảm giác là mình đã sống qua những điều đang
xảy ra trong giấc mơ ở một nơi nào khác trước đó.
Trong những giấc mơ mà anh thấy hằng đêm, anh
không thể nào đến gần Xuyến. Luôn luôn có một điều
gì đó ngăn cản hai người đến gần nhau. Có khi là
những mũi chông tre ba cạnh bén ngót cứ mọc dài ra
mãi từ mắt, từ mũi, từ tóc, từ tai Xuyến, và tiếng thét
đau đớn của cô làm Thuận giật mình thức giấc. Có khi
là ngọn lửa từ đâu kéo đến, vẽ nên hàng chữ Ruby
Queen chập chờn quấn lấy Xuyến, cô bốc lửa và cháy
bùng lên như cây đuốc. Có khi là Tấn hai tay vung
vẫy hai khẩu súng ngắn bóp cò nổ đoàng đoàng. Và
Thuận cứ phải thức giấc trước khi được phân giải với
Xuyến một lời! Không phải là Thuận chưa hề trải qua
những cơn mộng dữ trước đó. Trong suốt chiều dài
của cuộc chiến tranh, anh đã nhiều lần chứng kiến
những cảnh tượng khủng khiếp, những cái chết quái
đản của đồng đội và của đối phương. Anh cũng đã
nhiều lần chịu trách nhiệm về cái chết của những
người khác, những người mà anh trực tiếp hoặc gián
tiếp tham gia vào việc lên án, xét xử, và hành quyết.
Nhưng anh chưa hề biết đến niềm ân hận lớn lao đeo
đuổi anh từng giờ từng phút như hiện giờ. Cái chết
của Xuyến chỉ là một tai nạn, anh biết thế. Tai nạn vẫn
xảy ra hàng ngày, kể cả trong thời bình, cả điều này
anh cũng hiểu. Ngoài nỗi buồn vì mất mát người mình
thương yêu, anh không nên để mình bị cắn rứt vì cái
chết của cô. Anh muốn lắm, nhưng làm sao được?

Những cơn mộng dữ cứ đến mỗi đêm, và Thuận
vẫn không có được cơ hội nói cùng Xuyến một lời.
Anh đâm ra sợ hãi. Anh không muốn ngủ, nhưng lại
không thể không ngủ. Mà anh cũng không thể chia sẻ
với ai về những giấc mơ dữ dội của mình. Người ta sẽ

cho đó là triệu chứng của suy sụp về mặt tinh thần!
Dần dần anh nhận ra một điều kỳ lạ: những gì anh
nhìn thấy trong giấc mơ trở nên quen thuộc đến độ
anh không còn cảm thấy khó chịu nữa. Chính cái việc
anh phải nằm mơ làm anh khó chịu. Anh đâm ra thù
ghét những giấc mơ, tất cả những giấc mơ. Anh không
muốn có một giấc mơ nào hết. Nhưng anh cứ phải
nằm mơ, những giấc mơ với nội dung tương tự, hàng
đêm, hàng tháng, hàng năm.

Một buổi sáng anh thức dậy, lòng vô cùng hoang
mang. Giấc mơ đã không đến đêm qua. Không có gì
đến với anh trong giấc ngủ đêm qua. Anh cũng không
chắc mình đã thực sự có một giấc ngủ! Nhưng tất cả
những điều chung quanh anh cho biết anh đã trải qua
một đêm yên lành. Anh lên giường lúc mười giờ đêm,
và bây giờ những tia nắng đầu tiên ngoài kia có thể
được nhìn thấy sau khe hở của màn cửa. Chiếc đồng
hồ báo thức ở chiếc bàn đêm chỉ sáu giờ bốn mươi, và
bản tin buổi sáng đang vọng ra từ chiếc máy thu thanh
của nhà hàng xóm. Nhưng anh đã không có một ý
niệm nào về khoảng thời gian dành cho giấc ngủ. Cứ
như bị thuốc mê! Chợp mắt, mở mắt, và không có gì ở
giữa hai động tác đó! Điều anh thù ghét —những giấc
mơ— đã không còn ám ảnh anh nữa, nhưng điều này
chẳng làm anh vui hơn chút nào. Mà anh cũng chẳng
than phiền gì được, chẳng phải chính anh đã mong
muốn không còn bao giờ phải nằm mơ nữa hay sao?
Từ đó về sau, đời sống của Thuận là một chuỗi dài
của những ngày nối kết nhau, bởi vì những giấc ngủ
chỉ còn là một hoạt động thuần túy sinh học, không để
laị trong anh một khái niệm nào về sư hiện hữu của
chúng. Trên một nghĩa nào đó, đời sống của anh bị rút
ngắn lại, bị dồn nén, bị cắt đi. Nhưng đồng thời điều
này cho anh sự liên tục trong những suy nghiệm về

những vấn nạn của đời sống. Anh có thể nghĩ ngợi về
cùng một điều trong nhiều ngày liên tiếp, bởi vì không
có gì chen vào giữa những mốc thời gian đó. Trong
những năm tháng kỳ lạ này, anh thăng tiến rất nhanh
và tạo được sự kính nể của những người chung quanh.
Nhưng anh không cảm thấy hào hứng bao nhiêu. Thực
ra, trong thâm tâm, anh lạnh nhạt với tất cả những
thành tựu của mình. Anh vẫn nhớ về Xuyến với niềm
tiếc hận lớn lao, và những cơn đau buốt lòng bây giờ
đã trở nên một phần không rời của đời anh.

Vào một buổi chiều anh chợt nghe tiếng chim
gáy. Anh mới vừa về đến cổng nhà sau một ngày quần
quật ngoài cánh đồng trồng dâu cạnh bờ sông. Tiếng
gáy rụt rè, thiếu tự tin phát ra từ nhà bếp, nơi có chiếc
lồng tre nhỏ tự tay anh đan cho Xuyến. Con chim non
nay đã trổ lông cườm, những đốm đen tròn đỏm dáng
viền quanh cái ức màu xám lợt. Xuyến đứng bên cạnh,
ngắm say mê, mái tóc “bôm bê” ngày nào nay đã dài
chấm vai, che hết một bên chiếc má có lúm đồng tiền
xinh xắn. Cô quay lại nhìn anh mỉm cười, và ngay lúc
đó, Thuận biết mình đang nằm mơ. Thực là một cảm
giác kỳ lạ, ý thức được rằng mình đang nằm chiêm
bao ngay giữa cơn mơ. Giấc mơ thầm kín nhất, bí mật
nhất, không dám thổ lộ cùng ai, không dám cả thừa
nhận bởi chính mình. Cái ước mơ trong đó lần chia
tay cùng Xuyến ở khu vườn mít cạnh bờ sông Cái đã
không hề xảy ra, những năm tháng gian truân, những
cái chết của người bên này hay bên kia, những cây
chông tre ba khía bén ngót, tất cả đều không hề xảy ra.
Tất cả đều không cần thiết phải xảy ra. Chỉ có cánh
đồng dâu xanh um và con chim non với tiếng gáy đầu
đời bỡ ngỡ. Và Xuyến tóc chấm vai nhìn anh cười dịu
dàng. Thuận quyết định không ra khỏi giấc mơ của
mình, giấc mơ mà sau cùng anh đã tìm thấy, cái giấc

mơ như một phủ định mọi ý nghĩa gán ghép cho
những biến cố đã xảy ra cho đời anh trong mấy chục
năm qua. Và bằng một cách nào đó không thể giải
thích được, anh đã toại nguyện.

Tin Thuận qua đời được loan báo rộng rãi trên hệ
thống truyền thông cả nước ngày hôm sau. “Sự ra đi
của ông là một tổn thất không nhỏ cho công cuộc đổi
mới của đất nước.” Bản tin đã chấm dứt như vậy.
Không có lời nào đề cập đến giấc mơ sau cùng của
Thuận. Có thể không ai biết đến một giấc mơ như vậy.
Có thể những giấc mơ như vậy không nên được biết
đến.

tháng bảy 1998

cựu chiến binh, nhà thơ

“Fred Woodall, cựu chiến binh, nhà thơ.” Anh
luôn luôn bắt đầu như vậy. Cái tên đương nhiên phải
đi trước, không thể nào khác đi được. “Nhà thơ” được
cố tình đặt ở cuối lời tự giới thiệu như một cách biểu
lộ sự nhún nhường của anh, hoặc ít ra trong những
năm trước đây Fred cho rằng người nghe sẽ ghi nhận
được điều đó. Này nhé, tôi trước hết là một cựu chiến
binh, tôi đã từng chiến đấu tại Việt nam, và bây giờ tôi
là một nhà thơ. Về sau Fred buồn rầu nhận ra mình
thực sự là một nhà thơ khiêm nhường. Anh không thố
lộ điều này với ai, và anh biết rằng những người quen
biết anh cũng sẽ không nói ra điều này trước mặt anh.
Cũng may mà Fred không cần phải khiêm nhường về
việc anh là một cựu chiến binh Việt Nam. Bởi vì
không cần thiết phải nhún nhường khi đứng trong
hàng ngũ của những người đã bị, hoặc cho rằng đã bị,
đối xử một cách bất công bởi công dân của chính đất
nước mình.

Trong những năm đầu sau khi hồi hương, Fred
nhiễm phải căn bệnh “Hội chứng sau chiến tranh” một
cách chậm rãi và chắc chắn. Đó là một thứ bệnh căn
thời thượng, sang trọng, và thật là dại dột nếu không
vướng phải nó. Fred hút cần sa, uống rượu, và làm
thơ, theo cái thứ tự đó. Anh nhắc thực nhiều đến cái
mảnh đất xa xôi có tên gọi là Việt Nam sau khi hút
cần sa, sau khi uống rượu, và trong những bài thơ của
anh. Đó là một xứ sở đẹp đẽ nếu không có chiến tranh
với những người dân hiền lành nếu không có chiến

tranh, và anh đã có thể yêu một cô gái đẹp đẽ trong
đám dân chúng hiền lành đó nếu không có chiến
tranh. Thơ anh đại khái như vậy đó. Một hay hai bài
thơ của anh đã xuất hiện trong một hay hai tập thơ có
chủ đề chiến tranh Việt Nam do một hay hai người
bạn của anh chịu trách nhiệm biên tập. Chỉ có vậy
thôi. Chỉ đến vậy thôi. Nhưng ngay cả điều này cũng
không làm Fred nản lòng. Anh đã không bỏ qua bất cứ
hội hè đình đám nào có liên quan đến thơ văn và chiến
tranh Việt Nam. Ở đó anh sẽ xuất hiện với râu tóc lởm
chởm, với chiếc bê rê đen lệch lạc trên đầu một cách
cố tình, và bộ đồ trận bạc phếch của lính khinh kỵ với
cái huy hiệu quân chủng và hàng chữ “Đà Nẵng” ở
ngực áo. Ở đó anh sẽ tìm thấy những người ăn mặc
tương tự, và một số trong bọn họ là bạn của anh. Ở đó
anh thấy mình quan trọng hẳn lên, anh thuộc về nhóm
những cựu chiến binh làm văn nghệ, những nghệ sĩ.

Ở một trong những cuộc hội họp như vậy anh có
dịp tiếp xúc với những nhà văn nhà thơ đến từ Việt
nam. Đó là lần đầu tiên. Sẽ có thêm những cuộc gặp
gỡ tương tự sau này. Họ gồm một nhà thơ lão thành,
một nhà văn trung niên, và một phụ nữ trẻ vừa viết
văn vừa làm thơ. Họ đến đây theo lời mời của trung
tâm nghiên cứu hậu quả chiến tranh thuộc một viện
đại học danh tiếng của thành phố. Buổi hội thảo quy
tụ khá đông người. Hầu hết là các nhà văn nhà thơ gốc
gác cựu chiến binh. Một số trong bọn họ không cần
phải nhún nhường, và điều này được biểu lộ trong
cung cách tự giới thiệu của họ. X, thi sĩ, cựu chiến
binh. Y, nhà văn, cựu chiến binh. Z, kịch tác gia, cựu
chiến binh... Nhưng Fred không cảm thấy khó chịu
chút nào hết. Chốc nữa đây anh sẽ có mặt trên diễn
đàn. Anh có năm phút để phát biểu, và anh đã hứa với
chính mình (và đồng thời với người bạn vốn là một

chức sắc của trung tâm) sẽ không hoang phí khoảnh
khắc quý giá này. Phải nói là anh có chút hồi hộp khi
chờ đến phiên mình. Có nhiều hơn là một chút.

Đó là một xứ sở đẹp đẽ nếu không có chiến tranh
với những người dân hiền lành nếu không có chiến
tranh, và tôi đã có thể yêu một cô gái đẹp đẽ trong
đám dân chúng hiền lành đó nếu không có chiến
tranh. Fred bắt đầu như vậy và tiếp tục nói về những
điều tương tự trong hai phút tiếp theo. Ở phút thứ ba,
Fred buộc tội chính anh. Tôi đã đến, mang theo chiến
tranh, và chính vì vậy, quê hương của anh chị đã
không còn là một xứ sở đẹp đẽ. Tôi đã ra đi, để lại sau
lưng đổ nát và bất hạnh. Ở phút thứ tư, anh nhân danh
cựu chiến binh và nhân dân nước anh chân thành xin
lỗi những nhà văn nhà thơ đến từ Việt Nam về những
bất hạnh do anh gây ra ở phút thứ ba. Những người dự
khán nghe thấy nỗi xúc động trong giọng nói đứt
quãng của Fred, nhìn thấy nỗi xúc động trên khuôn
mặt nhăn nhíu khổ sở của anh, và ở những giây cuối
cùng của một trăm hai mươi giây còn lại, trong đôi
mắt anh lúc này đã nhòe nhoẹt mước mắt. Tôi cầu xin
sự tha thứ của nhân dân Việt Nam. Tôi xin được cái
hân hạnh ôm hôn anh chị, những người dân Việt Nam
anh hùng. Anh chấm dứt bài phát biểu của mình như
vậy. Fred rời bục gỗ trong tiếng vỗ tay râm ran và
bước đến dãy bàn có những nhà văn nhà thơ đến từ
Việt Nam. Anh ôm hôn nhà thơ lão thành và nhận ra
một mùi kỳ dị từ người ông già phát ra. Fred nghĩ
mình sẽ không muốn ôm hôn ông lão này một lần nào
nữa. Thực là đáng tiếc cho anh. Anh sẽ không bao giờ
biết được sự quyến rũ của thuốc lào. Nhà văn trung
niên, trái với sự lo ngại của Fred, không có mùi gì đặc
biệt. Nhưng người phụ nữ trẻ lại là một ngạc nhiên
thích thú. Từ cơ thể nhỏ nhắn của cô toát ra mùi da

thịt trộn lẫn với mùi nước hoa thực lạ. Da thịt hay
nước hoa, mùi nào là thơ của cô, Fred tự hỏi.

Bài phát biểu của Fred, bằng một cách nào đó, đã
trở thành một tiết mục thường xuyên trong những
cuộc hội thảo sau đó của trung tâm khi có sự hiện diện
của văn nghệ sĩ đến từ cái xứ sở đẹp đẽ nếu không có
chiến tranh. Bây giờ thì Fred đã trở nên điêu luyện
hơn trong việc trình diễn tiết mục của mình. Anh
không còn xúc động nhiều như lần đầu tiên. Anh
không chắc mình có xúc động, nhiều hoặc ít, hay
không nữa! Nhưng Fred có thực sự xúc động hay
không không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng
đến từ những người khách phương xa. Fred có thể đọc
thấy nỗi xúc động và niềm tự hào trên khuôn mặt họ.
Có thể điều này giúp họ cảm thấy bớt nhỏ bé, bớt lạc
lõng. Có thể đó là một trong những điều ít ỏi mà họ sẽ
còn nhớ đến rất lâu. Đó là món quà văn nghệ của
Fred, bên cạnh những bài thơ khiêm tốn của anh.

“Fred Woodall, cựu chiến binh, thi sĩ.” Bây giờ
thì Fred cảm thấy yên tâm với lời tự giới thiệu của
mình. Có thể anh là một nhà thơ với những tác phẩm
khiêm tốn. Nhưng đâu phải chỉ có thơ! Còn có những
điều khác nữa, những điều mà anh không cần phải
nhún nhường về khả năng của mình. Chẳng hạn như
phát biểu trước một cử tọa đông đảo về cái xứ sở xa tít
tắp bất kể có chiến tranh hay không và vô cùng đẹp đẽ
nếu không có chiến tranh. Về những bất hạnh mà anh
đã mang đến cho xứ sở đó. Và những lời xin lỗi chân
thành lẫn trong tiếng thổn thức của niềm ân hận vô
biên. Và những giọt nước mắt ở những giây cuối cùng
của một trăm hai mươi giây cuối cùng. Và sẽ không
có nhà thơ lão thành với cái mùi kỳ dị ở dãy bàn mà
anh sẽ hướng đến khi bài phát biểu chấm dứt.

tháng mười 1999

quan hệ

Ain’t missing you
I ain’t missing you
I ain’t missing you
I can lie to myself …

John Waite *

Vào một ngày cuối tháng Hai, mối quan hệ bị cắt
đứt. Lỗi về phía người đàn ông, nhất định là như vậy.
Trong quá trình quen biết nhau, gã đã bằng cách này
hay cách khác nhiều lần đưa cả hai vào một tình thế
rất khó khăn. Người đàn ông ngang bướng và thẳng
thừng đến độ sỗ sàng; cách diễn đạt của gã thẳng băng
như rìu bổ củi, ít khi nghe lọt lỗ tai. Người đàn bà
luôn than phiền về tính khí ngang tàng của người đàn
ông, và chỉ trong vòng ba tháng sau khi mối quan hệ
được thiết lập, nàng đã giận gã chừng mươi lần. Tình
hình xấu đến nỗi người đàn bà sẽ tức khắc lui vào vị
trí phòng vệ mỗi khi gã bỗng tỏ ra dịu dàng với nàng.

Đến lượt phản ứng của nàng khiến người đàn
ông càng lúc càng cảm thấy không nên để cho nàng
nhìn thấy cái “phần mềm” của mình.

Không thể nói là người đàn ông không cố tình
làm như thế, nhưng không hẳn gã thực sự muốn như
thế. Ngay từ buổi đầu của mối quan hệ không bình
thường này, gã đã quyết định sẽ không nhượng bộ
người đàn bà một chút nào hết. Trong khối óc ngu
muội của gã, một người đàn bà độc thân xinh đẹp và
thông minh như nàng nhất định đã nghe thừa mứa
những lời khen tặng ý nhị, khôn khéo từ những người

bạn khác phái hào hoa và lịch sự của mình. Tội gì phải
đương đầu với sở trường của người khác, gã tự nhủ.
Hơn nữa, không thể để những lời đường mật của đám
đàn ông miệng trơn như bôi mỡ này tiếp tục làm hư
hỏng nàng. Những lời lẽ du dương sẽ có lúc ngấm vào
huyết quản và biến thành một phần không thể tách rời
của khối chất lỏng màu đỏ nuôi dưỡng cơ thể nàng.
Trên cơ sở lý luận nặng tính khoa học hiện đại này, gã
biến những lần nói chuyện thành một cuộc trao đổi tư
duy không có kết thúc, ở đó gã cãi cọ không mệt mỏi
với người đàn bà về những điều có thể hoặc không có
thể và nên hoặc không nên tranh luận. Và cảm thấy
yên tâm, bởi vì gã có trách nhiệm mở ra cho nàng
cánh cửa của một thế giới khác, trong đó không có
điều không thể nói ra được, không có sự thực nào
không thể chịu đựng được.

Vậy mà như một phép lạ, quan hệ khó khăn, gập
ghềnh của họ vẫn sống sót sau nhiều ngày tháng. Phải
ghi nhận rằng phần lớn nhờ vào sự cố gắng đến từ
phía người đàn bà. Nàng, với sự kiên nhẫn không thể
giải thích được, chịu đựng nhiều lần những chỉ trích
thẳng thừng, không kiêng dè từ người đàn ông ngang
ngược, và chấp nhận những biệt hiệu không dễ thương
chút nào do gã gán cho. Chưa ai dám gọi nàng là con
gà nuốt dây thun, người đàn bà than thở. Tuy nhiên,
có những biên giới ngôn ngữ mà nàng không cho phép
gã vượt qua. Có lần người đàn ông than phiền nàng
cho gã leo cây, không vào liên mạng nói chuyện với
gã đúng như giờ giấc đã định. Phản ứng nghiêm khắc
của nàng thực tình làm gã ngạc nhiên. Leo cây có thể
gợi ra một hình ảnh xấu ư? Ngày còn nhỏ gã vẫn
thường leo trèo như khỉ mà có thấy xấu gì đâu? Tất
nhiên bị cho leo cây thì nhất định không phải là một
điều hay ho gì lắm, gã thú nhận. Lần sau sẽ gọi là ...

ôm cây đợi gà nuốt dây thun vậy, gã ngần ngừ thỏa
hiệp, lòng buồn rầu nghĩ đến khả năng được leo cây
thêm vài phen nữa! Ngoài ra, cứ phải thỏa hiệp mãi
theo chiều hướng này, người đàn ông e rằng sẽ có lúc
cái vốn ngữ vựng bao gồm phần lớn những từ ngữ bạt
mạng của mình sẽ trở nên rỉ sét mất thôi. Cái viễn
tượng sẽ biến thành một nhân vật lịch sự, nghiêm túc
trong những ngày sắp tới khiến gã cảm thấy lo sợ quá
đỗi. Gã đâm ra nghi ngờ là nàng cũng đang tự gán cho
mình cái sứ mạng cứu vớt gã khỏi vũng bùn dung tục
mà gã đang bì bõm một cách thoải mái trong đó.

Ngoài việc hay sử dụng những từ ngữ không
được “thanh nhã” cho lắm theo nhận xét của người
đàn bà, người đàn ông thỉnh thoảng lại nói những câu
động trời. Chỉ vài tháng sau ngày mối quan hệ siêu
không gian được thiết lập, gã tuyên bố là có vẻ như
không sớm thì muộn gã sẽ phải tỏ tình với nàng. Bởi
vì càng ngày càng thấy ... có cảm tình với T. quá
chừng đi thôi, gã thêm. Trời đất, chưa biết người ta ra
làm sao đã có vẻ với lại sẽ phải nữa, người đàn bà
phản đối kịch liệt. Người đàn ông cho rằng bên cạnh
lòng hoài nghi về cung cách biểu lộ tình cảm vội vã
rất đáng nghi ngờ, nàng còn tức giận vì sự không cả
quyết trong cách diễn đạt của gã. Dù sao thì gã cũng
cố gắng giải thích với nàng là người ta không cần thiết
phải gặp mặt nhau mới có thể phát sinh tình cảm.
Điều này đã xảy đến cho tôi, gã bảo người đàn bà. Và
bởi vì chính gã chứ không phải ai khác là người có
trách nhiệm mở ra cánh cửa của cái thế giới trong đó
không có điều gì không thể nói được, gã tình nguyện
khai hết với nàng về mối quan hệ của gã và K., trong
đó mối tình một ngàn ngày đã bắt đầu một cách tình
cờ trên cái chatroom đìu hiu của gã.

Trong khi hăng say chứng minh cái luận đề “khả

năng hiện thực của tình yêu trong môi trường siêu
không gian,” người đàn ông đã không tính đến những
phản ứng của người đàn bà thông minh, nhạy cảm, và
trên hết, rất đàn bà này. Nàng lắng nghe câu chuyện
của gã một cách thích thú, và lập tức tuyên bố là thích
K. quá đỗi. Nàng đòi xem ảnh K., và sau đó K. hầu
như luôn có mặt trong những lần đối thoại giữa hai
người. Vào một lúc nào đó, người đàn ông chợt nhận
ra sự dại dột của mình. Anh sẽ không bao giờ quên
một mối tình đẹp như vậy, và cả K. nữa, cho dù hai
người có xa nhau mãi mãi. K. sẽ trở thành một chuẩn
mực để anh đo đạc những người đến sau, người đàn
bà kết luận. Thế này là thế nào? Cô ấy muốn nói gì?
Gã chỉ muốn chứng minh quan hệ tình cảm có thể
phát sinh trước khi người ta gặp mặt đối tượng, và
trong cùng một lúc, với một chút tính toán, phô bày
thái độ trung thực của mình thôi mà! Rõ ràng là nhận
định của người đàn bà đã đưa người đàn ông vào một
tình thế rất khó xử. Gã không thể và không cảm thấy
cần thiết phải phủ nhận là mình sẽ thỉnh thoảng nghĩ
đến K. Một phủ nhận như thế sẽ làm người đàn bà
nghĩ về gã như là một người bội bạc hoặc dối trá.
Trong cùng một lúc, K. và mối tình một ngàn ngày
của cô chắc chắn sẽ được người đàn bà sử dụng như
một chướng ngại vật để ngăn chặn gã đến gần nàng
hơn về mặt tình cảm lẫn... địa dư. Suy nghĩ này làm
người đàn ông cảm thấy lúng túng. Mỗi khi lúng túng,
gã lại tức giận. Người đàn bà, trong nhiều trường hợp,
xem ra biết cách đưa gã vào một tình huống lúng túng,
và còn có vẻ như thú vị lắm lắm về khả năng này.

Trong một lần nói chuyện sau đó, người đàn bà
hỏi người đàn ông điều gì đã vực gã dậy sau lần vấp
ngã bởi một “mối tình lớn” như vậy. Câu hỏi làm gã
ngạc nhiên, thực sự. Lẽ nào người đàn bà không biết

điều này? Cô chứ còn ai nữa, gã đã muốn la lên như
vậy trong ống nói điện thoại. Thay vì la lối, gã đề nghị
người đàn bà đến nhìn vào tấm gương soi và tự tìm
lấy câu trả lời. Gã hối hận ngay sau đó, không phải vì
đã biểu lộ tình cảm mà chính vì vẻ cải lương của câu
nói. Dù sao thì lời nói của gã cũng đã làm cho buổi
nói chuyện khựng lại chừng ba mươi giây. Khi người
đàn bà lên tiếng trở lại, những điều nàng nói ra sau đó
không dính dáng gì đến việc bày tỏ tình cảm của gã.
Nàng chỉ muốn lái câu chuyện về một hướng khác.
Người đàn ông quen thuộc với phản ứng của người
đàn bà trong những tình huống như thế này đến nỗi gã
sau cùng gán thêm cho nàng một biệt danh mới, “cô
chìm xuồng.” Vào những lúc khác, khi người đàn bà
phản ứng quyết liệt với mục đích giữ gã dừng lại ở
một vị trí không làm nàng cảm thấy bất an, người đàn
ông sẽ gọi nàng là “con nhím xù lông.” Gã cho rằng
đây là những phương pháp nàng vẫn sử dụng để đối
phó với đám người ái mộ vần vũ chung quanh nàng
như bầy ong. Một con tò vò ốm yếu như gã, lầng
quầng ở nơi khỉ ho cò gáy cách nhà nàng những ba
múi giờ thì có gì mà phải đề phòng như thế không
biết!

Tháng Hai là một tháng rắc rối. Vào một ngày
trong tháng đó người ta có dịp gởi đến người mình
muốn tán tỉnh những chậu hoa tươi kèm theo tấm
thiệp với trái tim màu hồng. Tất nhiên là người đàn
ông cũng muốn làm như thế, nhưng sau cùng gã bỏ
cuộc khi khám phá ra có nhiều người khác cũng có
cùng ý định như gã. Gã không quen tặng quà cho đàn
bà, và không biết gì về bông hoa. Người đàn ông sống
trong một căn phòng trơ trụi, những vật treo trên vách
gồm có chiếc đồng hồ lớn chạy pin để xem giờ và một
tấm lịch to bản để gã có thể nguệch ngoạc vào đó

những điều cần ghi nhớ. Tội gì mà phải đương đầu với
sở trường của người khác, gã tự trấn an. Vài hôm sau
người đàn bà cho gã hay là mấy đóa hồng trong tấm
thiệp điện tử gã tặng trông thực buồn cười. Chúng nở
bung ra mỗi khi T. click lên chúng, nàng giải thích.
Người đàn ông cảm thấy thú vị khi nghĩ đến số phận
của những chậu hoa tươi đắt tiền. Không biết cái
thùng rác sau nhà nàng có đủ chỗ chứa chúng hay
không?

Không có điều gì thú vị trong những tuần còn lại.
Đã bảo tháng Hai là tháng không ra gì, nhất là khi nó
có đến hai mươi chín ngày! Người đàn ông đi xa cả
tuần lễ, và khi về lại, ngoài mớ thư từ sách báo gã còn
tìm thấy một gói quà vuông vắn từ địa chỉ của người
đàn bà. Gã cảm thấy vui lắm. Người đàn bà đã bỏ thực
nhiều công sức để tìm cho được “món quà mà T. tin
chắc sẽ làm anh vui lắm,” theo như lời nàng trong lần
nói chuyện trước ngày gã đi xa. Và gã đã vui lắm cho
đến khi nhìn tận mắt món quà. Gã nhận ra người đàn
bà đã nói thực. Quả không dễ dàng để tìm cho ra một
con kangaroo nơi nàng ở, cho dù bằng đất nung. Gã
ngắm nghía bức tượng nhỏ và không tìm thấy một
chút xíu nào của người đàn bà ở nó. Chỉ thấy K. và K.
Có rất nhiều kangaroo nơi K. ở, người đàn bà biết như
thế. Món quà thực ra chỉ là một lập lại của một nhận
định nàng đã có trước đây. Anh sẽ không bao giờ
quên được K. và mối tình một ngàn ngày của mình!
Gã cảm thấy lúng túng, vô cùng lúng túng, bởi vì nếu
quả thực đây là ý định của nàng, người đàn bà đã
thành công trong việc làm gã nhớ đến K. Mỗi khi lúng
túng, người đàn ông lại tức giận một cách vô cớ.
Trong bức điện thư cám ơn người đàn bà, gã nhắc đến
những “toan tính nhọc nhằn” của nàng khi tìm mua
cho bằng được món quà đầy ý nghĩa như vậy. Lá thư

thiếu tế nhị của gã không những không giấu được nỗi
bực dọc mà còn có vẻ như đã phủ nhận những thiện
cảm người đàn bà đã dành cho gã dưới hình thức một
món quà khó tìm. Điều này nhất định đã làm cho nàng
vô cùng thất vọng. Trong thư trả lời, người đàn bà cho
rằng cách tiếp nhận quà của người đàn ông khiến nàng
có cảm giác của một anh lính mới tò te vừa cực nhọc
vượt qua “đoạn đường chiến binh” gian khổ dài dằng
dặc bị buộc phải làm lại từ đầu. Đây là một so sánh
thú vị, không hiểu người đàn bà lấy từ đâu ra. Có điều
gã không cảm thấy thú vị và cũng không tin đi mua
sắm lại có thể khổ sở đến như vậy. Những cửa hàng
đủ loại trong khu thương mại gần nơi gã cư ngụ vẫn
đông nghẹt những nữ khách xinh đẹp và nhiệt tình đó
thôi! Ngay lúc đó, người đàn ông không biết rằng gã
sẽ phải trả một cái giá thực đắt cho phản ứng quá quắt
của mình.

Thái độ không nhân nhượng của người đàn ông
cộng thêm những tình cờ xui xẻo xảy đến sau đó làm
quan hệ của hai người trở nên xấu đi nhanh chóng.
Ngày đầu tiên của tuần lễ cuối tháng Hai không hứa
hẹn điều gì tốt đẹp. Nguyên buổi sáng người đàn ông
dành hết thì giờ để giải quyết những sự cố kỹ thuật do
việc nâng cấp hệ thống điện toán của hãng. Buổi họp
kéo dài ba tiếng đồng hồ tiếp theo đó làm gã mệt
nhoài. Nhưng tệ hơn hết là bức điện thư của người đàn
bà mà gã nhận được khi trở về lại bàn giấy của mình.
Xem ra nàng đã chán ngấy thái độ gây hấn của người
đàn ông. Nội dung lá thư là một bản phân tích tỉnh táo
và lạnh lùng về con người gã, vốn đầy dẫy thói hư tật
xấu, và“do đó, tình bạn chúng ta nên kết thúc ở đây.”
Đây không phải là lần đầu tiên nàng đòi chấm dứt mối
quan hệ đầy sóng gió này, nhưng những lần trước
phần lớn là để ngăn chặn gã không vượt ra khỏi biên

giới tình bạn quá xa. Luôn luôn có một khe hở nào đó
nàng kín đáo chừa ra và bằng cách này hay cách khác
người đàn ông đã xoay xở len vào để “tình bạn” của
họ lại tiếp tục. Lần này có vẻ như không phải như vậy.
Vĩnh biệt, nàng chấm dứt bức thư một cách quyết liệt.
Vĩnh biệt ư? Làm thế nào người ta có thể chia tay khi
chưa từng gặp nhau một lần nào trước đó? Tên bạn
làm chung sở xui xẻo vừa bước vào chưa kịp mở
miệng mè nheo hay than phiền hay khoe khoang một
điều gì đó thì đã bị người đàn ông lạnh lẽo cắt ngang.
“Biết rồi, khổ lắm! Nhưng không thể giúp mày được
gì trong lúc này. Làm ơn đóng giùm tao cánh cửa khi
đi ra nhé!” Gã kia cụt hứng quay ra, miệng làu bàu
một câu không được tử tế cho lắm, và đóng sầm cánh
cửa sau lưng mình. Cánh cửa đóng sẽ tránh giùm gã
những quấy rầy không cần thiết vào lúc này. Nhưng
đầu óc của gã không chịu làm việc gì hết. Nó tê điếng,
bại xụi. Chỉ có cảm giác và cảm giác đang sôi sục
trong lòng gã. Chúng tuôn ra ở những đầu ngón tay
đang gõ ào ạt trên chiếc bàn phím máy vi tính. Bức
thư trả lời viết ra trong cơn giận dữ đã như lời nguyền
rủa oan nghiệt phong kín số phận mối quan hệ của hai
người.

Người đàn ông quay đầu xe, và đậu lại ở góc
đường, nơi có tàng cây lớn. Buổi chiều tháng Sáu ở
vùng này vẫn còn mát mẻ, không oi bức như nơi gã ở.
Có một buổi họp mặt trong vòng bạn bè ở đây hôm
nay, và người chủ nhà đã điện thoại cho gã vài hôm
trước đó. Gã hướng về phía cánh cửa ra vào đang
đóng im ỉm định bấm chuông, rồi đổi ý bước vào căn
nhà chứa xe đang bỏ ngỏ. Băng qua dãy kệ chứa đầy
những tờ tạp chí văn học, gã bước qua khung cửa nhỏ
dẫn đến khu vườn bao bọc phía hậu của căn nhà.
Những bụi cây trổ hoa vàng viền lối đi nhỏ dẫn đến

khung cửa lớn bằng kính mở ra cái hiên rộng với
chiếc giàn gỗ màu trắng từ đó những chậu hoa nhỏ đủ
loại được treo lủng lẳng. Người đàn ông chợt khựng
lại. Từ phía sau bụi cây leo không biết tên và lần kính
của khung cửa lớn, gã nhìn thấy người đàn bà! Nàng,
lần đầu tiên, bằng xương bằng thịt, và vô cùng quen
thuộc. Chính là khuôn mặt này đã hiện ra trên màn
ảnh máy vi tính mỗi buổi tối gã mở máy và nhìn ngắm
gã với đôi mắt thực to phía dướí cặp lông mày cong
như vành trăng khuyết. Gã đã gắn hình người đàn bà
vào máy từ lâu, trước khi nàng quyết định chia tay, và
cứ để vậy cho đến mãi bây giờ. Có một lúc gã gắn
thêm bức hình nhỏ của mình cạnh ảnh người đàn bà,
mầy mò thêm thắt vài thứ, và thỉnh thoảng lại click lên
đó. Mỗi lần như vậy, khuôn mặt của gã trên màn hình
sẽ biến dạng, cái miệng vêu lên, từ đó mọc ra hai hàm
răng kệch cỡm đánh vào nhau cồm cộp, chẳng ăn
nhập gì với giọng nói ngây ngô của Forest Gump**
phát ra từ cặp loa nhỏ. You don’t know what love is! ...
what love is ... what love is ... Nghe như niềm hoài
nghi. Nghe như lời trách cứ. Tiếng nói chìm xuống và
hàm răng thôi đánh vào nhau cồm cộp, trở lại kích
thước bình thường, trả khuôn mặt gã về lại hình dáng
cũ, nghĩa là trông rất khó ưa. Mới đầu hoạt cảnh này
làm gã buồn cười đôi khi, về sau gã không còn cười
được nữa. Gã lại mầy mò với tấm hình của mình một
hồi lâu, và sau này mỗi khi gã click lên nó, khuôn mặt
gã sẽ vỡ vụn ra từng mảnh nhỏ và tan biến vào màu
xanh lơ của màn hình. Chỉ còn lại hai con mắt thực to
dưới cặp lông mày cong như vành trăng khuyết nhìn
gã, trách móc.

Bây giờ thì chính cặp mắt đó đang hướng về phía
cửa, nhưng nhất định nàng không nhìn thấy người đàn
ông phía sau bụi cây leo. Nàng đang nói chuyện với

người chủ nhà, lúc này ngồi ở chiếc ghế nệm dài xoay
lưng lại phía cửa. Bên cạnh nàng là một người đàn
ông dáng vẻ lịch sự mà gã đoán là bạn của nàng. Lẽ ra
gã đã có thể ngồi ở vị trí của ông ta. Trước đây, hai
người đã đề cập nhiều lần đến chuyến đi của người
đàn bà. Gã đã dự tính những điều sẽ làm cùng nàng,
những nơi chốn sẽ đưa nàng đến trong dịp hai người
gặp nhau lần đầu ở chính cái thành phố này. Và biết
bao điều họ sẽ nói với nhau trong lần hội ngộ. Như về
chiếc áo màu tím người đàn bà đang mặc mà gã tin
rằng chính là chiếc áo nàng đã đề cập đến trong một
bức điện thư lúc hai người còn vui vẻ với nhau. “Hôm
nay T. mặc áo màu tím ai thấy cũng khen hết. Chỉ có
anh không được nhìn thấy. Có nên tức một tí không?”
Chính vào lúc gã đang phân vân không biết có nên tức
tối hay không, nụ cười nở ra trên khuôn mặt người
đàn bà. Nhất định là người chủ nhà vừa thốt ra một lời
pha trò ý nhị. Nụ cười rất tươi, và bởi vì ở xa, người
đàn ông không biết chắc ánh mắt có thực buồn như
nàng đã tự mô tả cho gã ngày trước hay không.

Có tiếng người xôn xao và tiếng chuông gọi cửa.
Người đàn ông nhận ra tiếng nói của vợ chồng người
bạn. Không thể để họ hay bất cứ ai khác biết gã đã
đến đây hôm nay. Ánh mắt gã chần chừ trên khuôn
mặt người đàn bà phía bên kia lần kính vài giây trước
khi gã quay đi. Gã vòng lại lối cũ, xuyên qua khung
cửa nhỏ và bước vào nhà chứa xe sau khi biết chắc
cánh cửa ra vào đã khép lại. Ngón trỏ bàn tay trái của
người đàn ông chạy ngang gáy sách của những tờ tạp
chí bày thành hàng trên dãy kệ sách và dừng lại ở một
số đã cũ. Chính là trong số này gã đã đọc nàng lần đầu
tiên. Gã kéo tờ tạp chí ra khỏi kệ sách, cặp vào nách
và bước ra chỗ đậu xe. Bàn tay ngần ngừ một chút
trên nắm đấm, rồi cánh cửa xe bung ra nhanh và mạnh

một cách không cần thiết. Em thà coi như hơi rượu
cay***. Người đàn ông đã từ lâu không còn dùng
rượu mạnh. Một chai bia thì không sao. Một chai
Michelob ở chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ của ngôi quán
luôn luôn vắng khách. Và truyện của nàng làm bầu
bạn. Nhất định là như vậy.

Người đàn ông đến nơi này buổi chiều một ngày
cuối tháng Mười Hai. Thành phố lạ hoắc lạ huơ. Gã đã
phải ghé vào hai trạm xăng để hỏi đường trước khi
đến được nơi muốn đến. Và đến trễ. Gã nhận lấy tờ
chương trình từ tay cô gái ngồi ở chiếc bàn dài cạnh
cửa ra vào, buông lời cám ơn, và bước hẳn vào hội
trường. Những hàng ghế trong hội trường đều đã có
người chiếm. Một số người đến trễ đứng dọc vách
hoặc rề rà ở dãy bàn dài phủ khăn trắng trên bày đầy
ắp những món thức uống và trái cây tươi. Gã chụp lấy
một lon nước ngọt và tờ khăn giấy, tìm đến một góc
khuất phía bên trái hội trường và đưa mắt tìm người
đàn bà. Mắt gã dừng lại ở chiếc áo trắng và mái tóc
chấm vai ở hàng ghế đầu. Trắng và đen là hai màu ưa
thích của nàng. Gã không chắc là mình nhìn đúng
người cho đến khi người đàn bà quay lại phía người
bên cạnh để nói một điều gì đó. Nàng ngồi giữa hai
người đàn ông. Gà nhận ra vẻ nghiêm túc của họ từ
phía sau, tấm lưng thẳng đuột và cần cổ cứng nhắc
trong bộ đồ lớn nói cho gã điều đó. Không riêng họ,
tất cả mọi người ở đây hôm nay đều chải chuốt, lịch
sự, và nghiêm túc. Trừ người đàn ông. Không cần
nhìn vào gương soi gã cũng biết mình trông không
khá gì hơn tấm giẻ rách. Gã ra phi trường từ lúc sáng
sớm, lê lết chờ đợi trên những chiếc ghế cứng nhắc ở
hai phi cảng khác nhau trước khi đến nơi. Lại thêm
lần chờ đợi ở trạm mướn xe, và lần đi lạc. Gã luôn
luôn lạc đường vào những lúc gấp gáp. Dù sao thì gã

cũng đã đến đây và bởi vì không có hẹn hò gì với ai,
gã đến trễ mà không bị phiền hà gì hết.

Trên diễn đàn, diễn giả đang nói về một truyện
ngắn của người đàn bà. Những nhận xét duyên dáng
chen lẫn với những khen ngợi nồng nhiệt thỉnh thoảng
gây ra những tràng cười hoặc vỗ tay tán thưởng của
đám đông. Người đàn ông không cảm thấy hào hứng
chút nào hết. Những nỗ lực của vị diễn giả trên kia
không che lấp được những suy nghĩ rỗng tuếch, sáo
mòn trong những lời xưng tụng vẫn thường nghe được
ở các khung cảnh tương tự. Gã thất vọng, và cùng một
lúc, cảm thấy thú vị. Xem ra cái đám đàn ông phong
nhã này vẫn lì lợm một cách tuyệt vọng trong ý đồ
làm hư hỏng nàng. Gã đã theo dõi hầu hết các truyện
ngắn của nàng và cho rằng chúng xứng đáng nhiều
hơn những lời hoa mỹ đang vang vang trên hệ thống
âm thanh của hội trường. Mình có thể làm khá hơn
nhiều, gã nghĩ và ngay lập tức cảm thấy buồn cười vì
sự ngông cuồng của mình. Gã không thuộc về số
người mà sự hiện diện sẽ được chờ đợi trong buổi ra
mắt sách của người đàn bà. Ngay cả sự có mặt nhếch
nhác của gã cũng đã là một điều không nên. Cũng
may mà cái góc phòng nơi gã đứng tựa vào vách
không có nhiều đèn đuốc cho lắm.

Theo như chương trình, tác giả sẽ ký tên vào
sách trong giờ nghỉ giải lao. Người đàn ông quyết
định làm người khách cuối cùng của cái thủ tục không
thể thiếu này. Trong khi chờ đợi, gã đi ra ngoài, tìm
một chỗ khuất và mở cuốn sách thơm phức mùi giấy
mới có tên của người đàn bà ra ngắm nghía. Gã không
muốn suy nghĩ gì hết cho đến khi đối diện nàng. Có ít
nhất hai mươi người trong hàng khi người đàn ông trở
lại. Nhất định nàng đã vất vả ghê lắm. Gã nhìn thấy
nàng qua vai người khách trước mặt, nụ cười thực tươi

làm sáng lên khuôn mặt có đôi mắt thực to dưới hai
hàng lông mày cong như vành trăng khuyết. Vẫn còn
khá xa để người đàn ông có thể nhận ra ánh mắt người
đàn bà quả thực có buồn thiu như nàng đã có lần bảo
gã hay không. Có người đến sắp hàng sau lưng người
đàn ông. Gã quay lại và đề nghị người khách cao lớn,
lịch sự trong bộ đồ lớn màu xám tro thanh nhã và sực
nức mùi nước hoa thế chỗ mình. Người khách quan
sát vẻ ngoài xốc xếch của gã với vẻ thông cảm, ngỏ
lời cám ơn và bước lên một bước. Bây giờ thì không
còn ai phía sau. Gã sẽ là người khách cuối cùng nhận
được chữ ký tác giả ngày hôm nay.

Bây giờ thì hai người đang gần nhau, trong gang
tấc, như người ta thường nói. Người đàn bà ngẩng lên
nhìn gã.“Xin ông cho biết quý danh.” Quý danh ư?
Đời nào! “Ồ, chỉ muốn xin cô chữ ký và ngày tháng
thôi.” Mắt người đàn bà chớp lên ba lần, nhất định có
điều gì đó đang chạy qua những tế bào nằm sâu bên
dưới vầng trán có hai hàng lông mày cong như vành
trăng khuyết. Người đàn ông không tin nàng đã nhận
ra gã. Tấm hình nhỏ xíu chụp đã lâu của người đàn
ông là vật duy nhất để nàng có thể nhận diện gã.
Không chắc nàng còn giữ. Còn giọng nói ư? Mười
tháng trời đã trôi qua sau lần điện đàm cuối cùng và
nàng đã nghe hàng trăm giọng nói ngày hôm nay. Đưa
tay nhận lại cuốn sách từ tay người đàn bà, gã nói lời
cám ơn rồi quay lưng bỏ đi. “Xin lỗi. Có phải ông đến
từ xa?” Gã dừng chân, ngần ngừ một chút rồi quay lại.
“Điều gì đã khiến cô nghĩ như vậy?” Người đàn ông
sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu nàng không nhận ra gã là
ai. Người đàn bà đã nhiều lần khốn đốn, nhiều lần
giận hờn vì những câu hỏi đưa ra theo một cung cách
sỗ sàng như thế. Đôi mắt nàng chớp lên nhiều lần, và
người đàn ông nghe nàng gọi tên mình. “Cám ơn anh

đã đến. T. vui lắm.” “Thực đó,” nàng tiếp sau một vài
giây, như để tự khẳng định. Rõ ràng là người đàn bà
có xúc động, nhưng không ở mức độ mà người đàn
ông đã mong muốn. “Không thấy một truyện tình nào
trong tuyển tập của T.?” Gã hỏi. Người đàn bà im
lặng. Nàng thừa thông minh để biết chờ đợi câu kế
tiếp của gã. “T. nên viết một truyện tình ... có hậu.
Chẳng hạn như người đàn bà sẽ bật khóc nức nở, tung
hê hết mọi thứ kể cả cuốn sách đầu tay và đám độc giả
ái mộ để đi theo người đàn ông đã vượt ngàn dặm đến
quỳ bên nàng xin được tha thứ !” Tất nhiên gã không
nghĩ một đoạn kết sặc mùi cải lương như thế có thể
thực hiện được trong lúc này. Người đàn ông sẽ chờ
người đàn bà ở bãi đậu xe và đưa nàng đến một quán
cà phê nào đó. Ở đó gã sẽ xin lỗi nàng và cả hai sẽ
tiếp tục câu chuyện dở dang gần một năm về trước.
Một kết thúc như vậy xem ra hữu lý và có thể thực
hiện được. Và gã thực sự mong được như vậy. Nhưng
chính là nàng chứ không phải ai khác có thể quyết
định số phận của câu chuyện. “T. không có ý định viết
truyện tình nên không thể dùng được đoạn kết anh vừa
đề nghị.” Người đàn bà chấm dứt câu nói với nụ cười
thực tươi làm sáng lên khuôn mặt có cặp mắt màu nâu
thực to dưới đôi hàng lông mày cong như vành trăng
khuyết. Bây giờ thì người đàn ông có cơ hội để biết
chắc ánh mắt người đàn bà có buồn thiu như nàng đã
từng mô tả hay không.

Người đàn ông quay lưng hướng về phía bãi đậu
xe. Gã quyết định sẽ đi thẳng ra phi cảng. Sẽ tìm được
một chỗ trống trên chuyến bay trở về phía mặt trời
lặn, gã nghĩ như vậy. Luôn luôn có một ai đó lỡ
chuyến bay. Có thể một người khách nào đó sẽ nấn ná
ở lại cùng người yêu thêm vài tiếng đồng hồ, biết đâu!
Gã chờ đợi một điều gì đó, một ý nghĩ buồn thảm

chẳng hạn, sẽ đến với gã. Gã đưa những bước chân
nhẹ tênh về phía trước. Bỗng dưng người đàn ông nhớ
đến cái cảm giác kỳ lạ gã trải qua mấy hôm trước đây.

Đó là buổi sáng Chủ nhật tuần trước. Từ cặp loa
của chiếc stereo nhỏ vọng ra tiếng hát dịu dàng của
một nữ ca sĩ gã ưa thích. Em đã đến nơi này tựa như
cánh bướm, Dịu dàng trao chút hương hoa mùa
Xuân.**** Người đàn ông có một mình. Gã đang
ngắm K. Tấm hình gắn trong cái khung nhỏ màu nâu
nằm yên trong hộc tủ đã lâu được gã mang ra từ lúc
sớm. Đám cưới của K. được cử hành ngày hôm trước,
ở một nơi cách gã nửa vòng trái đất. Hai tuần trước
đó, người đàn ông mang gói quà nhỏ ra trạm bưu điện
đứng sắp hàng chờ đến phiên mình. Gã muốn biết
chắc K. sẽ nhận được quà kịp lúc. Cùng với gói quà là
bức thư ngắn, trong đó gã cẩn thận loại bỏ những lời
lẽ có thể gợi lên ở K. những cảm xúc đã không còn
cần thiết cho một hành trình mới. Mỗi vết thương lành
một nỗi vui. Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn
tay.**** Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay? Ý
nghĩ đến như một tia chớp làm gã bàng hoàng. Gã
thận trọng ôm cái khung hình màu nâu trong hai bàn
tay, và từ phía sau lớp kiếng còn vương chút bụi là K.
với nụ cười mênh mông từ đôi mắt dài và cặp môi
cong. Chính vào lúc đó, một cảm giác kỳ lạ bỗng kéo
đến làm gã choáng ngợp. Một con sóng hạnh phúc vô
cớ ập đến và nhận gã chìm nghỉm trong khối ánh sáng
ảm đạm của căn bếp.

Người đàn ông tìm thấy chiếc xe của mình trong
bãi đậu không chút khó khăn. Cửa xe mở ra và đóng
lại nhẹ nhàng. Gã không cần ngay cả một chai
Michelob. Cảm giác của buổi sáng hôm nọ vẫn còn
vướng vất. Gã biết mình thỉnh thoảng sẽ còn nghĩ đến
K. và niềm hạnh phúc vô cớ sẽ lại kéo đến. Nơi tình

yêu đi qua, kỷ niệm ở lại,***** có ai đó đã viết ra như
thế. Gã thực sự mong muốn và tin tưởng K. sẽ có
hạnh phúc. K. đã đi qua hết thời con gái bằng cách
sống trọn vẹn mỗi ngày với tất cả cảm xúc của mình.
Và gã may mắn luôn có mặt bên K. trong những ngày
tháng đó. Còn người đàn bà với đôi mắt nâu buồn thiu
dưới hàng lông mày cong như vành trăng khuyết mà
mới vài phút trước đó gã đã nhìn thực kỹ để tìm chút
dấu vết của cánh cửa sẽ mở ra cái thế giới của gã, và
đã không tìm thấy, sẽ để lại những gì?

Giọng John Waite tràn ngập lòng xe bít bùng khi
người đàn ông đưa chiếc xe nhập vào tuyến đường
hướng về phía phi cảng. Thân trên lắc lư đánh nhịp,
gã gân cổ hát theo. Ain’t missing you ... I ain’t missing
you ...

tháng ba 2000

* Missing You – John Waite
** Forest Gump – Nhân vật trong một phim cùng tên
*** Tống Biệt Hành – Thâm Tâm
**** Vẫn Có Em Bên Đời – Trịnh Công Sơn
***** Khuôn Mặt Tình Yêu – Hồ Như

ngày đầu tiên của mùa xuân

1995

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng cuối Đông. Bây giờ đã là đầu tháng Hai
dương lịch, nhưng ở đây mùa Xuân chỉ bắt đầu từ cuối
tháng Ba. Sương mù còn vướng vất trên những tàng
cây trơ trụi, và những cọng cỏ ướt mèm run rẩy gượng
dậy đàng sau gót giầy của ông. Ông đi qua chiếc băng
đá có cô gái tóc ngắn trong chiếc áo lạnh màu xám
đang ngồi đọc sách, khẽ nghiêng đầu nhìn cô, chân
bước đều. Cô gái không hề ngẩng đầu lên. Cô đang
bận đọc sách.

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng đầu tháng Hai. Trời rất lạnh, cũng lạnh
như buổi sáng hôm qua. Một con chim lông đen mỏ
vàng đứng im lìm trên cành cây trơ trụi. Cô gái tóc
ngắn trong chiếc áo lạnh màu xanh lá cây ngẩng đầu
nhìn lên khi người đàn ông đi ngang qua chiếc băng
đá. Người đàn ông tiếp tục tiến về phía trước, những
cọng cỏ ướt mèm rạp xuống dưới gót giầy của ông.
Cô gái cúi xuống trang sách đọc dở dang. Khi cô
ngẩng đầu nhìn lên một lần nữa, người đàn ông lại
xuất hiện trong tầm nhìn của cô. Ông đứng cách cô
chừng năm thước, cặp mắt dán chặt vào cô, khuôn mặt
buồn thảm và bối rối. “Cô giống một người tôi quen.
Giống quá chừng!”Ông nói bằng thứ tiếng Anh cứng
nhắc, mang nặng âm sắc của dân Á Đông. Một bên
chân mày của cô gái nhướng lên thay cho câu trả lời.
Tất nhiên là người đàn ông có thể đoán được ý nghĩa

của nó. Ánh mắt ngần ngừ một giây trước khi rời khỏi
khuôn mặt cô gái, người đàn ông quay lưng bước đi.
Có tiếng nói đuổi theo từ phía sau, “Người quen của
ông tên gì?” “Ngọc Hồi.” Ngọc Hồi chỉ có thể phát
âm đúng với tiếng Việt. Có tiếng chân đuổi theo người
đàn ông từ phía sau.

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng đầu tháng Hai. Bầu trời sáng hơn và
không gian ấm áp hơn ngày hôm qua. Những cọng cỏ
đẫm sương hân hoan vươn dậy đàng sau gót giầy của
ông. Ông dừng lại ở chiếc băng đá có cô gái tóc ngắn
trong chiếc áo len màu đỏ đang ngồi đọc sách. Cô
ngước lên nhìn ông, khép sách lại và nhấc chiếc túi
đeo lưng bỏ xuống chân. Ông đến ngồi cạnh cô và bắt
đầu kể chuyện. Ngày hôm qua ông đã hứa sẽ kể cho
cô nghe chuyện của Ngọc Hồi.

1970

Chiếc cầu khỉ gồm có hai khúc tràm lớn bằng
bắp chân bắc ngang qua con rạch. Chúng gặp nhau ở
giữa lòng rạch, nơi hai khúc tràm khác mọc lên từ
đám sình lầy xám xịt bắc chéo nhau. Lúc nãy người
lính trẻ đã đi qua chiếc cầu một lần, và vẫn còn ngơ
ngác không hiểu vì sao anh đã có thể làm được điều
đó! Anh đặt chân trái lên khúc tràm nhầy nhụa bùn
đất, ướm thử. Rồi đến chân phải. Rồi lại chân trái. Hai
tay vung vẫy trên không trung, thân hình xiêu vẹo khi
thì bên này, khi thì bên kia, anh lần mò ra đến khoảng
giữa chiếc cầu. Bước kế tiếp, chiếc giày sô trượt đi
trên lớp da tràm trơn trợt làm người anh chúi về một
bên. Chính vào lúc anh đang vặn vẹo toàn thân để lấy
lại thăng bằng, tiếng cười chợt nổi lên từ phía sau.
Tiếng cười trong veo như tiếng những thanh kim loại
của chiếc phong linh chạm vào nhau trong gió chiều.
Anh ngoái đầu nhìn lại, và chính động tác này làm anh

chới với. Người anh rơi tỏm vào lòng rạch, và trong
một giây, anh nghĩ mình sẽ chết mất. Đám sình non
xám xịt lún xuống dưới sức nặng của cơ thể anh, một
mớ sình khác bắn tung lên và rơi xuống người anh.
Những con thòi lòi mắt thô lố cũng hoảng sợ nhảy
tung lên. Và giọng cười lại nổi lên, trong veo như
tiếng phong linh. Anh nằm thênh thang trong lòng con
rạch cạn nhìn lên chiếc cầu khỉ. Và anh thấy cô gái.
Một tay ôm cặp và đôi dép, tay kia túm hai vạt áo dài
trắng và hai ống quần đen, chắc là để khỏi dính bùn,
cô thoăn thắt qua cầu. Cô bặm môi, thoăn thoắt qua
cầu. Anh lính trẻ nằm trong trong lòng rạch cũng bặm
môi, ngẩn ngơ! Buổi tối về lại nơi trú quân, anh vẫn
còn ngẩn ngơ. Ngày hôm sau, anh vẫn còn ngẩn ngơ.
Buổi chiều anh ra bên đò chờ chuyến đò có cô gái tóc
bôm bê mặc áo dài trắng đi học về. Không có cô gái
mặc áo dài trắng nào đi học hôm ấy. Anh lính trẻ ngẩn
ngơ quên mất trường quận đóng cửa ngày Chủ Nhật!

Người lính trẻ chưa quen trận mạc, vẫn còn run
mỗi lần đụng trận ở vùng cao nguyên đất đỏ, nơi anh
được điều thẳng về từ quân trường. Anh theo đơn vị
về trú quân ở vùng này chỉ mới mấy hôm. Ở đây mỗi
đêm khi nhìn qua bên kia sông Nhà Bè, anh có thể
nhìn thấy vừng ánh sáng trên thành phố Sài Gòn.
Nhưng anh chưa vội về đó. Anh còn phải tìm gặp cô
gái có tiếng cười trong veo trước đã.

Ngày hôm sau có lệnh hành quân. Cả đại đội bì
bỏm lội qua mười mấy con rạch, chui vào khu rừng
ngập nước bịt bùng, thân trầy trụa vì những bụi dây
mây đầy gai, da thịt nổi đầy mẫn đỏ vì vết cắn của lũ
kiến vàng cao cẳng, miệng đắng chát vì những trái bần
non, mắt lờ đờ vì thiếu ngủ, những ngón tay ngón
chân tóp lại vì úng nước. Và cứ như thế cả tuần lễ.
Đêm nằm còng queo trên chiếc võng mắc giữa hai cây

bần, ngắm những đốm hỏa châu vàng vọt thắp sáng
những tàng lá trên cao của khu rừng ngập nước, nghe
âm thanh của tràng súng liên thanh vu vơ vọng về từ
một nơi chốn khác, người lính trẻ nghĩ hoài về cô gái,
bặm môi thoăn thoát qua cầu.

Một ngày sau cuộc hành quân, người lính trẻ lại
ra bến sông tìm cô gái. Anh nhận ra dáng cô, tóc bôm
bê, áo dài trắng, ngay từ lúc con đò chưa tới bến. Anh
lẽo đẽo theo cô trên con đường đất dẫn về nơi anh
nhìn thấy cô lần đầu, hân hoan quan sát cử chỉ quýnh
quáng của cô. Anh đoán cô đang bặm môi, không phải
để nín cười mà để nín... khóc. Lúc cô cúi xuống lột
đôi dép và túm lấy vạt áo dài sửa soạn bước lên chiếc
cầu khỉ, người lính trẻ vượt lên án ngữ lối đi của cô.
Anh đã quyết định sẽ làm quen với cô ngay tại chỗ
này. Nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt có đôi mắt thật
tròn và những chiếc răng cửa trắng bóng đang cắn vào
chiếc môi dưới mềm mại, anh quên hết điều mình
muốn nói. Anh nhận ra mình đang ... run, run còn hơn
cả lần đầu tiên viên đạn trái phá 82 ly bay xè xè trên
đầu và nổ tung đàng sau anh chừng hai mươi thước.
Run hơn cả lúc cơ thể người bạn bên cạnh bật tung ra
phía sau, đập vào bức tường đất đỏ ẩm ướt của cái
giao thông hào, và ngoài kia lố nhố những bóng
người, tiếng súng, tiếng gào thét man rợ lẫn trong
tiếng mưa cao nguyên rả rích. Rồi anh chợt nhận ra cô
gái cũng đang... run không kém gì mình. Điều này làm
anh cảm thấy ... bớt run. Sau cùng anh cất tiếng nói,
“Cho tôi qua cầu trước, có gì còn được nghe lại tiếng
cười hôm nọ.” Đã hai mươi lăm năm trôi qua từ phút
đó, và người đàn ông không nhớ mình đã từng nói với
ai khác một lời tình tứ như vậy. Lúc bấy giờ, anh hai
mươi tuổi, và Ngọc Hồi mười bảy.

Những ngày tháng sau đó, người lính trẻ lòng vui

như mở hội. Những ngày không bận hành quân, anh ra
bến sông đón Ngọc Hồi. Rồi những lần cùng Ngọc
Hồi lang thang ở chợ quận, tấm ảnh đen trắng hai đứa
chụp chung trong cái tiệm chụp hình nhỏ xíu. Những
lần phóng Honda trên những đường phố chật chội của
Sài Gòn. Và những lần cùng Ngọc Hồi đi qua cầu khỉ.
Anh không còn sợ chiếc cầu khỉ nữa, anh đã quen rồi.
Và anh không cần phải nhảy xuống lòng con rạch đầy
sình non để được nghe giọng cười trong veo của cô.
Nhưng anh vẫn mê mẫn mỗi khi quay lại nhìn cô túm
vạt áo dài, bặm môi thoăn thoắt qua cầu.

Mỗi sáng Chủ Nhật anh theo hai mẹ con Ngọc
Hồi đi lễ nhà thờ. Anh tập làm dấu thánh giá và nói
“Amen,” cho dù anh không có ý định theo đạo. Anh
chỉ muốn có nhiều cơ hội gần gũi cùng Ngọc Hồi. Ở
xã Phước Khánh này, hai mẹ con thím Nhẫn là những
người duy nhất ở phía bên kia con rạch theo đạo
Chúa. Những gia đình còn lại đều theo đạo Phật. Có
cả một ngôi chùa khá lớn ở bên đó. Bên này con rạch
là một ngôi nhà thờ khang trang. Dân chúng hai bên
con rạch qua lại chuyện trò với nhau vui vẻ. Nhưng
chắc là họ không muốn làm sui gia với nhau. Thím
Nhẫn lấy chồng lúc còn trẻ. Nhất định hai người phải
thương nhau ghê gớm và cương quyết ghê gớm mới
lấy dược nhau. Gia đình bên chồng thím theo đạo
Phật. Thím theo chồng về bên kia con rạch nhưng vẫn
băng qua chiếc cầu khỉ mỗi tuần đi lễ nhà thờ. Mấy
năm sau, chú Nhẫn bỏ đi mất tăm lúc Ngọc Hồi mới
thôi nôi. Thím Nhẫn mỗi tuần lại ẳm con đi qua chiếc
cầu khỉ chênh vênh đi lễ nhà thờ. Đã mười mấy năm
như vậy.

Thím Nhẫn là một người đàn bà duyên dáng,
chưa đến bốn mươi. Lúc chàng theo Ngọc Hồi về gặp
mẹ cô, thím Nhẫn đang hoài thai hơn sáu tháng. Đã có

nhiều lời đàm tiếu ở cả hai bên con rạch về “biến cố”
này. Một người ngoan đạo, đức hạnh như thím Nhẫn
mà lại như thế thì thực không ai hiểu nổi. Nhất là
chẳng ai biết được tác giả của cái bào thai đó là ai. Có
người cho rằng chính là một trong những người lính
thuộc một đơn vị đã đến đóng quân tại đây sáu tháng
trước. Điều này đúng hay sai chỉ có thím Nhẫn biết
mà thôi. Mà thím thì không hề hở môi. Có lần đang
phụ với Ngọc Hồi chẻ củi sau vườn, người lính nhìn
thấy thím đứng ở nhà bếp xoa xoa khoảng bụng tròn
vo cười dịu dàng. Rõ ràng là thím Nhẫn không có vẻ
gì buồn phiền về chuyện tai tiếng của mình.

Vào một đêm mà người lính sẽ không bao giờ
quên, bí mật về cái bào thai của thím Nhẫn được bộc
lộ. Đêm máu me. Đêm tử biệt. Đêm banh da xẻ thịt.
Đêm luân hồi. Vài hôm sau đó, người lính cùng với
đơn vị rời Phước Khánh. Anh chưa một lần quay trở
lại. Như vậy đă hai mươi lăm năm!

1995

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng tháng Hai. Chiếc băng đá nơi cô gái tóc
ngắn vẫn ngồi đọc sách hôm nay trống trơn. Khi đến
gần hơn nữa, người đàn ông nhận ra chiếc băng đá
không thực sự trống trơn. Có một chiếc phong bì màu
trắng khổ lớn nằm ở đó. Phong bì khá nặng. Ngoài lá
thư, còn có sợi dây chuyền mặt trái tim bằng nhựa
màu hồng. Sợi dây đeo màu trắng xám chính là sợi
dây đã có lần lồng vào hai tấm thẻ bài có khắc số quân
của ông. Ông đã không còn nhớ số quân của mình.

“Cho đến bây giờ em vẫn không biết mình nên
xưng hô với ông thế nào cho phải. Thôi thì em tiếp
tục gọi ông bằng… ông như mấy hôm nay vậy.

Trong những ngày qua, ông chưa hề hỏi đến tên
em, cho nên em cũng không có cơ hội để hỏi tên
ông, cho dù điều này thực ra không cần thiết. Em
nghĩ em biết vì sao ông ngại ngần không muốn biết
tên em. Nếu hỏi, có lẽ ông đã có được một ngạc
nhiên thích thú.”

“Bây giờ thì nhất định là ông đã đoán ra em là
ai, nhờ vào món quà mà ông đang cầm trong tay.
Ông biết không, món kỷ vật đó và em không rời
nhau mười lăm năm nay. Em đã tưởng rằng nó sẽ
là của em, mãi mãi. Em đã lầm, nó là của ông và
chị Ngọc Hồi. Bây giờ thì nó lại thuộc về ông, và
em không nên gặp ông nữa! Bởi vì nếu không xa
ông thì em sẽ yêu ông mất thôi. Mà như vậy thì sẽ
không công bằng cho em.”

“Ông đã không hỏi tên của em chỉ vì ông
muốn em cứ phải là Ngọc Hồi của ông mà thôi.
Ông còn nhớ đã trả lời câu hỏi của em ‘Nếu ông
chỉ ước được mỗi một điều, ông sẽ ước gì?’ Lúc đó
ông bảo chỉ muốn được nằm thênh thang trong lòng
con rạch bùn lầy, nhìn nắng chiều viền mái tóc bôm
bê của cô gái đang bặm môi thoăn thoắt qua cầu.
Cái ước mơ đẹp quá, dễ thương quá. Em thực sự
cảm động, và trong cùng một lúc, đau lòng. Cái kỷ
niệm đáng yêu đó chỉ thuộc về ông và chị Ngọc
Hồi. Em không được can dự vào đó, cho dù ông đã
là một phần quen thuộc của đời em từ mười lăm
năm nay. Chính tay mẹ em đã đeo vào cổ em sợi
dây chuyền có hình của chị Ngọc Hồi và ông vào
năm em mười tuổi, một tuần lễ trước ngày em theo
gia đình ông bác xuống tàu vượt biên. Ông biết
không, từ lúc còn bé xíu em vẫn mơ được làm chủ
món kỷ vật xinh xắn này. Em thường lén mẹ lấy nó

xuống (mẹ đặt nó bên cạnh tấm hình phóng lớn của
chị Ngọc Hồi trên bàn thờ gia đình), săm soi hình
ảnh của chị ấy và ông trong chiếc mặt giây chuyền
hình trái tim. Cứ như vậy, em lớn dần với mối tình
của hai người, qua sợi dây chuyền và những lời kể
của mẹ. Ngay cả bố em cũng biết chuyện của chị
Ngọc Hồi và ông nữa!”

“Mà em nói lung tung, chắc làm ông bực mình
hở? Chắc ông cũng muốn biết chuyện gì đã xảy ra
kể từ lúc ông theo đơn vị rời đi. Hết chiến tranh thì
bố em về. Lúc đó em mới có năm tuổi. Bố có vẻ vui
lắm, cười lớn, nói lớn. Mỗi Chủ Nhật bố bế em dắt
mẹ qua chiếc cầu khỉ đi lễ nhà thờ. Bố không vào
(tại nhà bố theo đạo Phật), bố đi loanh quanh rồi
vòng lại vào lúc tan lễ. Bố đi cầu khỉ giỏi lắm,
không như ông đâu! Thỉnh thoảng mẹ hay nhắc lại
chuyện chị Ngọc Hồi đi học về kể lại thấy có ông
lính lọt xuống rạch trông buồn cười lắm. ‘Mấy hôm
sau cái ông lính lọt xuống rạch ấy cả gan theo
Ngọc Hồi về tận nhà cơ đấy!’ Mẹ than thở với nụ
cười bâng khuâng. Em lại lạc đề nữa rồi!”

“Những năm về sau bố không còn cười nói lớn
tiếng nữa. Bố im lìm, lúc nào cũng có vẻ tư lự. Bố
dắt mẹ và em đi thăm chị Ngọc Hồi. Bố thắp nhang
cầu nguyện thực lâu. Rồi bố khóc. Bố nói nếu đêm
hôm đó bố ở lại lo cho mẹ sinh nở thì chị Ngọc Hồi
đã không chết! Tại bố lo hàng xóm kéo tới bố sẽ lộ
tung tích nên vội vàng ra đi lúc mẹ bắt đầu trở dạ.
Đâu ngờ toán trinh sát của đơn vị ông nằm phục cả
đêm chờ bố ra! Rồi tiếng quát tháo, rồi tiếng súng
vang rền giữa khuya… Bố khóc rưng rức, cũng tại
bố cả, cũng tại bố cả… Mẹ cũng khóc sụt sùi. Đêm
kinh hoàng. Mẹ lăn lộn đau đớn trên giường, bất

lực nhìn chị Ngọc Hồi tung cửa chạy ra… Loạt đạn
vô tình quật chị ngã xuống. Bố đã biến mất. Tiếng
súng ngưng. Mẹ lết ra cửa, chết điếng.”

Người lính không chết điếng. Anh thấy đau. Trái
tim anh đau nhói. Anh phủ phục trên cơ thể còn nóng
hổi của Ngọc Hồi, tay đè lên lổ thủng ở ngực cô từ đó
máu vẫn ứa ra không ngớt. Sợi dây chuyền mặt trái
tim dính đầy máu... Người anh dính đầy máu. Ngọc
Hồi tắm trong vũng máu của chính mình. Thím Nhẫn
cũng chảy máu. Giữa hai đùi.

“Một hôm bố không về. Rồi hai hôm, rồi cả
tuần lễ. Có người đến bảo mẹ bố bị bắt giam rồi.
Mẹ dắt em lặn lội đi tìm bố, cuối cùng rồi cũng gặp
được. Về nhà mẹ khóc thầm rồi bảo em mẹ sẽ lo
cho em về ở với gia đình bác Hai. Bác Hai cùng vợ
con đi Mỹ sáu bảy năm rồi! Em khóc đòi mẹ đi theo
nhưng mẹ bảo mẹ muốn ở lại trông nom cho bố rồi
qua gặp em sau. Năm đó em đúng mười tuổi. Em
không còn bao giờ được gặp lại bố nữa. Năm em
mười lăm tuổi, bố mất. Phải đợi thêm bảy năm nữa
em mới mang được mẹ qua Mỹ. Mẹ em nay đã già
yếu, cứ mong em lập gia đình cho mẹ yên tâm. Em
bảo mẹ em muốn học cho xong, có nghề nghiệp
vững chắc rồi mới tính đến hôn nhân. Thực ra, đó
chỉ là cái cớ.”

“Ngay từ nhỏ, mọi người đã bảo em giống chị
Ngọc Hồi như khuôn đúc. Từ dung mạo, cử chỉ, cho
đến tiếng nói giọng cười. Ngay cả cái tên cũng
giống nhau. Em đã bảo nếu ông hỏi tên em, chắc
ông sẽ có được một ngạc nhiên thích thú mà. Mẹ
bảo mẹ chưa hề mất đứa con nào, mẹ chỉ có một
đứa con gái tên là Ngọc Hồi! Khi đủ khôn lớn, em
cho rằng mẹ muốn nói là ngay cả cuộc chiến tàn

khốc ngày xưa cũng không thể hủy diệt được mầm
sống mà mẹ đã tạo ra. Càng lớn, em càng giống cô
gái tóc bôm bê trong tấm hình lộng trong mặt dây
chuyền hình trái tim mà em vẫn ngắm nghía mỗi
ngày. Cho đến một lúc nào đó, em trở thành cô gái
ấy, tươi cười bên cạnh người lính em chưa hề gặp
gỡ. Thực ra thì đã có ‘gặp,’ nhưng lúc đó em chỉ là
một hài nhi sơ sinh trong vòng tay của mẹ, và tất
nhiên là em không nhận biết gì lúc người lính
nghiêng người trên giường sản phụ đặt lên ngực em
sợi dây chuyền còn dính những giọt máu từ thân thể
của người chị xấu số. Chi tiết này mẹ kể cho em
nghe từ nhỏ, nhưng chỉ cho đến khi trở thành một
thiếu nữ em mới bắt đầu bận tâm. Tại sao người
lính đã làm như vậy, em vẫn tự hỏi. Phải chăng anh
ấy muốn nhờ em giữ hộ mối tình của chị Ngọc Hồi?
Ý nghĩ này thực sự làm em sợ hãi và cùng lúc, xao
xuyến! Em thương tiếc cuộc tình đau thương mà vô
cùng đẹp đẽ mười bảy năm trước và không muốn nó
chết đi. Em đánh thức cuộc tình và cho nó tiếp tục
với em — em và người lính và sợi dây chuyền mặt
trái tim.”

“Trong những năm tháng sau này, em thỉnh
thoảng cũng mong gặp được ông. Bây giờ em hối
hận là chúng ta đã gặp nhau! Ông không còn là
người lính trẻ mà em đã quen biết (và thương yêu)
bấy lâu nay. Ông già đi, điều này em có thể chấp
nhận được. Ông dày dạn phong trần, ông u sầu
trầm mặc. Em không lo lắm. Em nghĩ mình có thể
mang lại niềm vui cho ông. Nhưng còn hai mươi
lăm năm qua, quãng thời gian dài bằng cả cuộc đời
em, ông đã làm gì? Ông đã yêu thương những ai?
Em không biết và cũng không muốn biết. Nhưng cái

quá khứ dài đằng đẵng đó có thực. Của riêng ông,
và chắc chắn không có em trong đó! Ông ơi, ông
không phải là người lính của em! Mà bây giờ cả
người lính của em cũng đi rồi. Em đã trả người lính
lại cho ông rồi đó.”

“Thôi chào ông em đi…”
“Ngọc Hồi”

2000

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng đầu tháng Ba. Bầu trời trong xanh, hứa
hẹn một ngày nắng đẹp. Ông hướng về phía thư viện.
Chiếc băng đá mà ông sẽ đi ngang qua mỗi buổi sáng
vẫn trống trơn. Trái tim ông đập hụt đi một nhịp. Trái
tim ông vẫn đập hụt một nhịp như thế mỗi khi ông đi
ngang qua chiếc ghế đá trống trơn. Không có cô gái
tóc ngắn ngồi đọc sách ở đó. Đã năm năm, và trái tim
ông đã đập hụt bao nhiêu nhịp?

Người đàn ông băng ngang sân trường Đại học
một buổi sáng tháng Ba. Chiếc ghế đá trống trơn. Trái
tim ông lại đập hụt một nhịp. Rồi lại một nhịp nữa.
Mắt ông hoa lên. Hình như có ai đó bặm môi thoăn
thoắt qua cầu. Lại hụt một nhịp nữa. Và có ai đó trên
chiếc băng đá cúi đầu đọc sách. Và trái tim của người
đàn ông hụt tất cả các nhịp còn lại. Ông ngã xuống.
Phía trên chiếc băng đá trống trơn, những nụ lê hoa
năm cánh màu trắng nhú ra từ phía sau những chiếc lá
xanh non.

Hôm nay là ngày đầu tiên của mùa Xuân.

tháng giêng 1999

bước hồi sinh

a

Lúc nàng tỉnh dậy, khuôn mặt đầu tiên nàng nhận
ra là của đứa con trai. Nét mặt tươi tỉnh một cách có
chuẩn bị, nó kêu lên vui vẻ:

“Mẹ tỉnh lại rồi! Mẹ có đau lắm không hở mẹ?”
Trong một hành động vô thức, nàng đưa cánh tay
mặt lên định nắm lấy tay con. Có vật gì đó níu chặt
tay nàng lại! Nàng đưa mắt nhìn xuống. Hai tay nàng
bị cột chặt vào giường bởi mấy sợi băng vải; hai cánh
tay chi chít băng keo và những mũi kim đâm sâu vào
mạch máu. Hai bịch huyết thanh, treo lòng thòng trên
cái giá kim loại sáng loáng, nối với cổ tay nàng bằng
những ống nhựa trong suốt.
Một cơn đau râm ran từ phía bụng dưới chợt dậy
lên khiến nàng nhăn mặt, bật ra tiếng rên rỉ khe khẽ.
Đứa con trai cong tấm thân cao lớn quá khổ xuống
nàng, hỏi với giọng lo lắng:
“Đau lắm hở mẹ?”
Nàng khẽ lắc đầu, miệng cố nhếch lên tạo một nụ
cười mếu xệch, đưa mắt nhìn quanh giường bệnh. Gần
như tất cả mọi người trong gia đình nàng đều hiện
diện, chăm chú nhìn nàng với vẻ tò mò, lo lắng, lẫn
khuyến khích. Cũng từng ấy khuôn mặt thân thuộc đã
có mặt ở đây buổi sáng nay, trước khi nàng được đưa
vào phòng mổ. Nàng quay lại hỏi đứa con trai, giọng
lẫn trong những hơi thở ngắn mệt nhọc:
“Bác sĩ mổ có lâu không vậy con?”
Đứa con trai ấp úng một chút rồi trả lời:
“Đâu có lâu lắm mẹ. Khoảng năm tiếng đồng hồ,

đúng như dự định.”
“Bây giờ là mấy giờ vậy?” nàng hỏi tiếp.
“Gần ba giờ sáng,” có ai đó trong đám người

đứng quanh giường bệnh của nàng trả lời.
Vậy là gần mười lăm tiếng đồng hồ đã trôi qua

kể từ lúc nàng được đưa vào phòng mổ. Và con nàng
và anh chị em nàng vẫn còn lẩn quẩn ở đây? Cơn đau
kỳ lạ lại kéo đến. Nàng có cảm giác phần bụng dưới
của mình trống rỗng như căn nhà sau cơn bão lốc, mọi
đồ đạc vật dụng đã bị cuốn đi không để lại dấu vết.
“Radical hysterectomy,” người ta bảo nàng như vậy
về cuộc giải phẩu. Nàng chỉ mới khám phá ra căn
bệnh hiểm nghèo khoảng vài tháng trước đó. Cơn đau
râm ran thường xuyên ở bụng dưới và những lần băng
huyết bất thường cuối cùng đã đưa nàng đến phòng
mạch của vị bác sĩ quen biết. Cân đo, lấy máu, thử
nước tiểu, thử tế bào. “Cervical cancer,” vị bác sĩ cho
biết, giọng trịnh trọng như đọc ai điếu. Cũng tốt thôi,
nàng nghĩ. Cũng chẳng còn gì để tiếc nuối!

b

Nàng đẩy đống phỉnh cuối cùng vào chiếc vòng
bán nguyệt trên tấm thảm xanh trước mặt. Nàng đã có
thể ngưng lại hai tiếng đồng hồ trước đó, khi trước
mặt nàng vẫn còn những đống phỉnh đủ màu xếp
thành những cột tròn cao nghệu. Not my style, nàng
nghĩ. Nàng vẫn tự hào về cái phong cách “xả láng,
sáng về sớm” của mình. Bây giờ thì chỉ còn có vậy.
Cầm hai con bài vừa được người dealer chia cho,
nàng không cảm thấy một chút hồi hộp. Nàng lấy làm
lạ cho chính mình. Có thể đây là ván bài cuối cùng.
Mười chín, không tệ lắm. Đến phiên nhà cái. Cô ta
cần một lá bảy hay tám để thắng nàng. Lá tám! Người
dealer nói nhỏ “Tôi rất tiếc” lúc cô vơ những đống

phỉnh đủ màu về phía mình.
Lúc nàng về đến phòng mình ở tầng thứ mười thì

đã ba giờ sáng. Cái cảm giác rã rời, ủ ê sau mỗi lần
thua bạc làm nàng chẳng thiết gì đến ăn uống dù cả
đêm qua nàng chỉ uống mấy lon nước ngọt do đám nữ
nhân viên phục vụ trong những chiếc váy cũn cỡn
mang đến. Nàng biết lần này cái cảm giác chán
chường, trống rỗng sẽ ở lại với nàng rất lâu. Nàng biết
mình sẽ không còn có dịp trở lại cái thành phố đổ bác
hoa lệ này một lần nào nữa. Bởi vì nàng chẳng còn gì
để làm vui lòng nó. Đêm hôm qua nàng đã tặng nó
món tài sản cuối cùng, chiếc xe luxury đời mới nhất.
Trước đó là nữ trang, nhà cửa, trương mục ngân hàng,
cửa tiệm mỹ phẩm, những mối tình qua đường với
những người đàn ông nàng yêu và không yêu, và mối
quan hệ ngày càng khó khăn với con nàng và những
người thân. Ôi Las Vegas, người tình tham lam của
nàng!

Nàng cảm thấy vô cùng sợ hãi. Bởi vì chốc nữa
đây mặt trời sẽ lên, và nàng sẽ không còn nhiều thời
gian để lẩn trốn thực tế giữa những bức vách của căn
phòng khách sạn mờ ảo này nữa. Nàng bước đến phía
cửa sổ, vén màn nhìn xuống. Hòn núi lửa nhân tạo, cứ
mỗi mười lăm phút lại phun lửa và nham thạch lên
không trung, bây giờ nằm im lìm, xám xịt dưới ánh
đèn màu lòe loẹt từ xa hắt lại. Nàng tì má vào mặt
kiếng lạnh giá của khung cửa sổ, nhìn qua bãi đậu xe
gần đó, ở mãi tận phía dưới, sâu thăm thẳm. Một cảm
giác hụt hẫng, chới với dậy lên từ phía bụng dưới
cùng với cơn đau râm ran vẫn thường xuyên hành hạ
nàng dạo sau này. Nàng lùi lại, bắt gặp khuôn mặt tái
mét của mình trong tấm gương soi ở bàn trang điểm.

Nàng rời Las Vegas trên chuyến bay sớm của
American Airlines. Phía dưới, chiếc tháp tròn cao ngất

của Stratosphere ngoi lên trên màn sương sớm, gởi
đến nàng lời chào vĩnh biệt.

c

Tất cả mọi sự việc trên đời này dường như không
còn chút gì liên quan đến nàng, Cả tuần lễ lặn ngụp
dưới cái đáy sâu thẳm của tuyệt vọng, nàng xem việc
mình vướng phải chứng ung thư ác tính như là viên
đạn ân huệ mà định mệnh dành cho nàng. “Như vậy
mình khỏi phải suy nghĩ nhiều, mọi việc đã có định
mệnh sắp đặt,” nàng nghĩ. Nhưng ngay cả định mệnh
cũng có chỗ sơ xuất. Định mệnh không biết rằng nàng
chưa bao giờ phải chịu đựng những nỗi đau khổ về thể
xác, cho nên khi những cơn đau râm ran từ phía bụng
dưới ngày càng trở nên khủng khiếp đến độ không thể
chịu đựng nổi, nàng thố lộ mọi điều với người mẹ già
nua của nàng. Kể từ hôm ấy, thỉnh thoảng nàng vẫn
bắt gặp mẹ mình nhặt nhạnh những sợi tóc rụng —
ngày càng nhiều— của nàng cất vào túi ny lông. Và
trong những lần thức giấc nửa khuya vì cơn đau kéo
đến, nàng ứa lệ nhìn người mẹ già lặng lẽ ôm chặt đôi
bàn tay nàng để chia sớt niềm thống khổ.

Cái ý định giữ bí mật căn bệnh hiểm nghèo của
mình đối với mọi người trong gia đình như vậy là đã
hoàn toàn thất bại. Bởi vì mẹ nàng không thể không
cho các con của bà —anh chị em nàng— biết. Và
nàng cũng không thể để cho con nàng trở thành người
cuối cùng được biết tin buồn này. Đã có một lúc tình
hình trở nên khôi hài một cách bi đát. Mọi thành viên
của gia đình thừa biết rằng nàng biết rằng họ biết rằng
nàng bị ung thư ác tính, nhưng mọi người, kể cả nàng,
đều gượng gạo cư xử như là không ai biết điều đó. Và
tất cả mọi người, kể cả nàng, đều cảm thấy mình lố
bịch một cách không cần thiết.

Ngày thứ tư sau khi nhận được cái tin động trời,
đứa em gái út gõ cửa phòng nàng.

“Mẹ nói chị bị bệnh nặng lắm phải không?”
“Bệnh gì đâu! Mẹ chỉ lo lắng chuyện gì đâu
không hà.”
“Trời ơi, chị đừng giấu em nữa. Bệnh của chị
như vậy, trễ thêm ngày nào là... phiền lắm đó.”
Đã dến lúc chấm dứt màn hài kịch này là vừa,
nàng nghĩ.
“Thì... phiền quá rồi chứ còn gì nữa! Mà chữa
chạy làm gì? Chết có khi lại giải quyết được nhiều
việc.”
Đứa em gái bắt đầu mất bình tĩnh, cao giọng:
“Chị nói vậy mà nghe được sao? Chị chết... được
phần chị. Còn con trai chị, còn mẹ với tụi này thì
sao?”
“Thì mấy người khỏi còn bị phiền hà chứ sao
nữa.”
“Em không ngờ chị lại ích kỷ như vậy! Chị muốn
sao thì tùy ý chị.”
Nói xong, đứa em gái út giận dỗi quay ra.
Trong mấy chị em thì cô út này tính tình nóng
nảy, hay giận hay hờn nhất. Tội nghiệp chị lắm em ơi.
Chị sắp chết rồi đâu có muốn gây gỗ với em làm gì.
Cố ngăn những giọt nước mắt chực tuôn ra, nàng cất
giọng khô khan:
“Mấy người đi đi, để tôi chết một mình cho yên
thân.”
Tiếng chân giận dữ của cô em gái bỗng ngưng lại
ở ngưỡng cửa. Giọng nói lãnh đạm cố tình của chị cô
không giấu được niềm tuyệt vọng vô biên, nỗi đau
chất ngất, và sự kinh hoàng phải đối diện với cõi vô
cùng, một mình. Cô quay lại, bắt gặp hai hàng lệ ràn
rụa từ đôi mắt của người chị. Trong chớp mắt, hai chị

em thấy mình trong vòng tay của nhau và cùng khóc
như trẻ thơ.

d

Nàng được bác sĩ cho xuất viện đã hơn một tuần
nay. Hai hôm trước, mọi người trong gia đình đã tụ
tập ở đây, hồi hộp chờ đợi kết quả cuộc thử nghiệm
phần tế bào lấy ra từ những hạch chung quanh vùng tử
cung của nàng. Gác ống điện thoại, đứa con trai của
nàng quay lại, khuôn mặt dãn ra bởi nụ cười rạng rỡ:

“Ba mươi bảy miếng mà không có miếng nào
nhiễm tế bào ung thư hết! Mẹ hay quá!”

Như vậy là nàng không phải chịu đựng những
cuộc trị liệu bằng phóng xạ, không phải đeo những
mái tóc giả để che cái đầu trọc, hậu quả của
“chemotherapy.” Như vậy là nàng đã qua khỏi hiểm
nghèo. Tự dưng nàng bật khóc. Mọi người nhìn nàng,
cười độ lượng.

Buổi chiều. Nàng ngồi một mình ở chiếc bàn ăn,
nhìn ra khoảnh vườn nhỏ đầy rau cỏ và những cây hoa
thấp nhỏ trổ bông màu tím mọc xen kẽ. Những bụi cải
xanh, rau húng quế, rau răm, và những bông hoa tím
nhạt trông mới mẻ và kỳ diệu vô cùng. Thực ra, mọi
vật đều có vẻ mới mẻ và kỳ diệu kể từ khi nàng không
còn chênh vênh bên bờ vực tử sinh. Nàng cũng vậy,
mới mẻ và kỳ diệu. Nàng có những lỗi lầm phía sau
lưng để quên và cả một phần đời mới mẻ phía trước
mặt để đi lại từ đầu. Nàng sẽ bước những bước vững
chãi về phía trước. Sẽ không có gì ngăn cản được
nàng.

Hình như nàng quên một điều. Nàng phải tập ...
đi trước đã! Bác sĩ đã bắt buộc nàng phải tập đi bộ
mỗi ngày ít nhất một tiếng đồng hồ, bắt đầu từ ... hôm
qua. Có tiếng dép lẹp kẹp, rồi tiếng mẹ nàng nhẹ

nhàng nhắc nhở:
“Đến giờ đi bộ rồi con.”
Nàng nhăn mặt khổ sở:
“Con còn đau quá mẹ. Hay là để ngày mai đi.”
“Không được đâu. Con phải ráng lên chứ. Đi bộ

cho nó tan hết máu ứ trong người.”
Mẹ nàng trả lời, dịu dàng nhưng quyết liệt.

e

Trên lối đi nhỏ tráng xi măng chạy quanh co giữa
những vuông cỏ của khu chung cư yên tĩnh ở cuối
đường Newhope, nàng tựa người vào thân hình mảnh
dẽ của người mẹ già tóc bạc, bước những bước ngắn
đau buốt, run rẩy, vấp váp của hồi phục. Sẽ còn những
đau buốt, những run rẩy, những vấp váp cho chiều
mai, chiều mốt, và những chiều kế tiếp. Nhưng nàng
đã bước những bước đầu tiên.

tháng mười 1995

khách quen

Với tư cách là chủ một quán cà phê, tôi không
muốn có nhiều khách giống như ông ấy. Ai đời lúc
nào cũng đi có một mình, uống có mỗi một ly cà phê
sữa, và ngồi hàng giờ. Đã vậy lại không hút thuốc nữa
chứ, trong khi thuốc lá lại là một nguồn lợi tức đáng
kể của quán. Ông có mặt hầu như mỗi ngày, ngồi vào
chiếc bàn quen thuộc nếu nó chưa bị chiếm ngụ, đọc
một cái gì đó —một cuốn sách, một tờ báo— trong
khi chờ tôi mang cà phê ra. Ông chỉ uống cà phê sữa
nóng, và ngoại trừ thời gian đầu, người pha cà phê cho
ông luôn luôn là tôi! Có điều hình như ông chẳng
hềquan tâm đến điều đó. Ông chỉ nói khẽ lời cám ơn
rồi lại chúi đầu vào tờ tạp chí hay chỉ quay ra ngó
mông ngoài đường phố.

Quán cà phê nằm trên một khu phố tương đối
vắng, so với các con đường kế cận. Thực ra, khó mà
tìm được một địa điểm thực sự vắng vẻ ở cái thành
phố chật hẹp và vô cùng bận rộn này, nơi mà mọi
người cùng hè nhau đổ xô ra đường để làm một điều
(hay nhiều điều) gì đó với mục đích tối hậu: kiếm tiền.
Tôi cũng đâu có khác gì! Tôi đã có thể chấp nhận một
chân giáo viên Trung Học ở Biên Hòa—tôi tốt nghiệp
Đai Học Sư Phạm— năm năm về trước, nhưng sau ba
tháng thử lửa, tôi nhận ra mình không thích hợp mấy
với cái chức năng cao cả và món thù lao thấp kém của
nghề gõ đầu trẻ. Hơn nữa, thực là khó khăn khi phải
nói về những điều mình không hiểu rõ và không tin
tưởng gì mấy! Sau này nghĩ lại, tôi cho rằng tôi đã

thổi phồng mối băn khoăn của mình về “những điều
không hiểu rõ và không tin tưởng gì mấy” chỉ để yên
tâm hơn với món lợi tức gấp năm lần lương giáo viên
mà tôi thu về hàng tháng nhờ vào cái quán cà phê
khiêm tốn của mình.

Nghĩ cho cùng, bán cà phê không phải là một
điều tệ hại lắm, nhất là khi bạn mới ngoài ba mươi và
có chút nhan sắc (và học thức nữa chứ!). Ông khách
trung niên ít nói không phải là khách hàng thường trực
duy nhất của tôi. Có khá nhiều người đã và đang đến
mọc rễ ở đây, và hầu như ai trong bọn họ cũng muốn
gây sự chú ý ở tôi. Như Thắng chẳng hạn. Sinh viên
Đại Học, trẻ măng, tóc lòa xòa và... cận thị, ngón tay
vàng khói thuốc. Cũng lầm lì ít nói ra vẻ bất cần đời,
nhưng tôi có thể nhìn thấy những ngón tay run lên đón
ly cà phê tôi mang tới, đôi mắt chớp liên hồi sau lần
mắt kính dầy cộm, và những lần ngoái đầu nhìn tôi lén
lút mà tôi thỉnh thoảng bắt gặp ở một góc mắt. Hay
như Hoàng, tự tin và ân cần, như một ông anh lớn đầy
quyền lực. Anh là người tử tế và khiêm tốn một cách ý
thức về tầm quan trọng của mình. Hình như anh đang
làm việc cho một cơ quan trọng yếu của chính quyền,
và mặc dù không công khai nói ra, anh cho phép
người khác hiểu như vậy, dĩ nhiên là hiểu ngầm. Có
lần anh khen tôi xinh đẹp và giỏi giang, “Ai mà lấy
được em làm vợ là có phước nhất trần gian đấy,” anh
bảo. Tôi nhẹ nhàng phản đối, “Anh Hoàng nói sai rồi,
người đàn bà xinh đẹp và giỏi giang nhất đời chính là
bà xã anh đó. Em giỏi lắm chỉ đứng hàng thứ hai
thôi!” Hoàng hơi lựng khựng, nhưng anh chỉ cười xòa
vui vẻ. Thực ra tôi thích anh lắm, nhưng anh không
gợi cho tôi một chút tò mò háo hức nào, kể cả cái
nghề nghiệp bí mật của anh và khoảng thời gian du
học ở nước ngoài. Nếu muốn, tôi đã có thể thuộc lòng

một số chi tiết về cuộc đời anh, không như cái ông
khách trung niên ít nói kia, đã gần hai tháng trời mà
tôi chưa biết được cả cái tên!

Vào một ngày cuối tuần, ông khách xuất hiện
thực bất ngờ. Thường thì ông chỉ ghé quán vào ngày
thường, và vào buổi sáng. Chiều Chúa nhựt hôm đó
trời mưa tầm tã, quán vắng tanh. Ông đến trên chiếc
xe gắn máy quen thuộc của mình, người phủ kín bởi
chiếc áo mưa màu xám tro. Ông có vẻ lúng túng với
chiếc áo mưa đang rỏ nước ròng ròng xuống hàng
hiên lót gạch bông của quán. Tôi chạy ra đề nghị
mang áo vào phía sau cất giùm. Ông nhìn tôi vẻ cảm
kích, gọi một ly cà phê sữa và ngồi vào bàn, ngó
mông ra con đường nhòa nhạt trong màn mưa dày
đặc. Tôi mang chiếc áo mưa sũng nước nặng trĩu vào
phía trong, máng vội vã lên phía sau cánh cửa thông
xuống nhà bếp, rồi quay trở lên quầy pha cà phê cho
ông.

Quán chỉ có mỗi mình ông là khách. Tôi thích
những lúc như thế này. Tôi có thể quan sát ông kỹ
hơn. Còn ông thì đang ngắm mưa. Đôi chân mày cau
lại tạo một vết hằn thực sâu ở giữa, cặp mắt đăm đăm
vào vũng nước mưa đục ngầu trên hè phố loang lổ
trước hiên quán, ông ngồi bất động như vậy rất lâu.
Bỗng dưng trong tôi dậy lên nỗi ước ao được biết ông
đang tìm kiếm gì trong cái vũng nước ngầu đục bị
khuấy động bởi vô số bong bóng nước thay nhau vỡ
tung trên đó. Đúng ra, tôi muốn đến gần, ngồi xuống
chiếc ghế sắt mà phần tựa lưng được làm bằng những
sợi ny lông to bản xanh trắng, nhìn thẳng vào mắt ông
và hỏi những điều tôi muốn hỏi. Ông là ai? Làm gì? Ở
đâu? Sao ông không nói chuyện với bất cứ ai trong
quán? Sao ông không nói chuyện với tôi? Cái vũng
nước đục ngầu ngoài kia có gì mà thu hút ông dữ vậy?

Nếu mà tôi luôn luôn làm được điều tôi muốn làm!
Coi bộ tôi không làm được rồi! Tôi lặng lẽ mang đến
cho ông bình trà nóng mới pha rồi lặng lẽ quay đi, nắp
chiếc bình trà cũ nguội lạnh trong tay khẽ rung lên khi
tiếng thở dài được nén xuống.

Cơn mưa bỗng ngưng lại đột ngột. Mặt trời chiều
lại ló ra, phản chiếu lấp lánh trên những vũng nước
mưa trên hè phố loang lổ và mặt đường nhựa trơn ướt.
Và cùng với ánh nắng là người ngợm từ đâu không
biết kéo ra đầy đường, rộn ràng xuôi ngược. Quán cà
phê đông dần, và tôi bận túi bụi. Con nhỏ em họ vẫn
phụ tôi bán hàng xin nghỉ một hôm để đi chơi. Với
bạn trai, dĩ nhiên rồi! Lúc tôi quay lại từ chiếc bồn rửa
chén đặt cạnh chiếc bếp điện dùng để pha cà phê, ông
khách ít nói đã không còn ở đó. Tờ giấy bạc thẳng
thớm được dằn trên bàn bởi chiếc ly uống nước trà
cạn một nửa. Chắc hẳn ông khách đã ra về lúc tôi
đang bận rửa mớ ly và “phin” cà phê bẩn. “Không
sao,” tôi nghĩ thầm. Ông ta sẽ trở lại ngày mai để đòi
lại chiếc áo mưa màu xám tro ông bỏ quên!

Ông khách không trở lại ngày hôm sau và những
ngày sau đó. Nhưng vào ngày thứ năm thì tôi được
biết về tình trạng của ông. Hôm đó anh Hoàng đến
quán với một người bạn, một người đàn ông thấp lùn
và nghiêm nghị. Họ kéo tôi vào phía trong và hỏi
thăm tôi về ông khách. Trời đất, tôi phản đối, cái ông
đó có bao giờ mở miệng đâu! Có anh Hoàng làm
chứng đó. Người đàn ông có vẻ mặt nghiêm trọng lại
hỏi tôi về lần sau cùng ông khách có mặt ở
quán.“Hôm Chúa nhựt vừa rồi,” tôi trả lời. “Ông ấy
bỏ đi lúc nào tôi cũng không hay!” Tôi tiếp lời. Dĩ
nhiên là tôi không nói gì về chiếc áo mưa màu xám tro
sũng nước mà ông khách đã bỏ quên hôm đó. Vì vậy,
tôi lại càng không thể nói gì về cuốn sổ tay tôi bắt gặp


Click to View FlipBook Version