Ra tới nơi trình diện Thiếu tá Huỳnh Long Phi Mùng 2 Tết tôi theo Chiến đoàn cùng với TĐ 2
Tiểu đoàn trưởng. Mới về chưa có chức vụ gì, ổng và TĐ 7 ND vào Huế. Vào bằng cửa An Hòa không
cho ngồi trực ở TOC để làm quen. Hôm sau TĐ3ND được, phải vào bằng cửa hậu thành Mang Cá, mấy
nhảy xuống bãi nhảy ở chân núi Thị Vãi, trước đó ngày sau Pháo đội C trực thăng vận vào và đụng một
Pháo binh cũng bắn ầm ầm nhì ciné. Rãnh việc tôi trận tơi bời hoa lá. Hai tuần sau có Thủy quân Lục
qua Pháo đội để thăm dân cho biết sự tình. Gặp thằng chiến ra thay thế và Nhảy dù được bốc về Sài Gòn.
Đào Kim Trọng cùng Khóa 17, nó còn thiếu úy đang Tôi được chuyển về làm Pháo đội phó cho thầy Lạc
làm Sĩ quan Tác xạ của Pháo đội B Nhảy Dù. Thằng và cũng yểm trợ tối tăm mặt mũi trong dịp VC tấn
nầy đâu có chịu thua ai, thấy tôi đeo lon Trung úy công đợt hai. Pháo binh Dù không có Trung đội, đi
nó kênh kênh “Mày phe đảng hay chạy chọt mà lên đâu cũng kéo cả Pháo đội 6 khẩu, nên mỗi lần tác xạ
sớm vậy mậy?”. Chỉ cười thôi chớ cãi với nó làm chi là bắn rầm rầm, đã lắm! Sĩ quan chỉ có Trưởng, Phó
cho mệt. và Sĩ quan Tác xạ, nếu cần chỉ có hai người cũng
xong.
Trước đó nó ở Pháo Binh Sư Đoàn 7, ba gai còn
hơn tôi, không xuống Chuẩn úy còn may chứ ở đó Sau Tết Mậu Thân, Pháo binh Dù thành lập thêm
mà đòi lên Trung úy! Nó còn bảo: “Thằng Đào văn 2 tiểu đoàn, lại thêm một số sĩ quan được bỗ sung.
Thương làm Sĩ quan Tác xạ cho Pháo Đội A đang Khóa 17 về lần lượt có Đinh Thành Tấn, Bành Minh
hành quân ngoài Dakto, khóa 17 của mình có mày Trí, Nguyễn văn Toàn, Nguyễn Kim Minh cộng lại
vể nữa là 3 thằng…”. Cũng thấy ấm lòng vì gặp lại 7 mạng và bây giờ ai cũng Trung úy hết. Đào Kim
hai thằng bạn. Trọng đi học Khóa 1/68 Pháo Đội Trưởng rồi tới tôi
học khóa 2/68. Học xong đầu năm 69 tôi bắt cái chức
Hành quân xong kéo về Sài Gòn được đi học Pháo đội trưởng Pháo đội C1 do Đại úy Bùi Đức Lạc
nhảy dù. Không phân biệt quan lính gì cả, cũng chạy, bàn giao để người đi nhận chức Tiểu Đoàn Phó.
cũng bò chung với tân binh và cũng nhảy đủ 4 saut
ngày và một saut đêm rồi được gắn bằng Nhảy dù. Khoảng thời gian tôi làm Pháo đội trưởng thật
Giờ mới biết lương của Nhảy dù cao hơn Bộ binh vất vả, nhận PĐ xong thì kéo xuống Tây Ninh. Lúc
cũng nhờ cái bằng nầy, cũng gần một ngàn chớ ít nầy Nhảy Dù hành quân phối hợp với SĐ 1 Không
sao? Đầu năm 68 gần tới ngày Tết thì được lệnh ra Kỵ Hoa Kỳ. Gọi là không kỵ vì họ chuyên trực thăng
Huế làm Sĩ quan Liên lạc cho Chiến Đoàn 1 ND vận, các căn cứ luôn đóng trong rừng và di chuyển
đang hành quân ngoài đó. luôn luôn bằng trực thăng. Vùng hành quân được chỉ
định xong, BCH Tiểu đoàn với một Đại đội và một
Trình diện Thiếu ta Lê Quang Lưỡng ở Hải Lăng Pháo đội nhảy xuống lập căn cứ hỏa lực để yểm trợ
gần Quảng Trị, lúc đó chưa đổi thành Lữ Đoàn và cho các đại đội hoạt động bên ngoài. Lâu lâu lại đổi
Thiếu tá Lưỡng mới giữ chức Chiến Đoàn Trưởng. căn cứ, Bộ binh thì dễ, chỉ có ba lô súng đạn thật nhẹ
Chiến đoàn cũng mới xong một cuộc hành quân và nhàng, còn pháo binh súng ống đạn dược phải bó
nghĩ chỉnh bị. Tôi qua PĐ C Nhảy dù đóng ở gần đó lưới hay dây cột gọn gàng để trực thăng câu đi.
để thăm một người “quen”, ông Thiếu úy Bùi Đức
Lạc ở trường Pháo Binh ngày xưa chư ai! Ngài bây Đầu năm 70 tôi bị một cú đặc công, lúc đó
giờ là Pháo đội trưởng Pháo đội C và vẫn còn mang đóng chung với TĐ2ND ở căn cứ Caroline, các Căn
lon Trung úy. Ngày còn là SVSQ thì ngán ổng chứ cứ đều lấy tên người đẹp! Pháo đội của Đinh thành
tôi cũng là Trung úy đâu có ngán! Nói vậy chứ gặp Tấn ở Sandra, Đào văn Thương ở Vicky, Nguyễn văn
ổng cũng phải chào và gọi Trung úy đàng hoàng chớ Đương ở Dianna (tên nầy sau trở thành Anh Hùng
đâu có dám giởn mặt, nhất là lại đang ở Nhảy dù! Mũ Đỏ tên….Đương). Chẳng hiểu sao nó nhắm căn
cứ của tôi, nhưng may nhờ lính Pháo đội tôi phát
Cuối năm Chiến đoàn và Pháo đội C kéo về giác kịp thời và hạ được 3 tên ngay trong khẩu đội,
cây số 17 gần An Lỗ. Cây số 17 trở thành địa danh nhờ đó toàn căn cứ báo động kịp thời nên hạ thêm
vì cách Huế 17 cây số. Các đơn vị chuẩn bị ăn Tết được 16 tên nữa, cùng bắt sống 1 tên.
vì có lệnh hưu chiến 3 ngày. Ngày 30 yên chí không
có hành quân, tôi và mấy tên nữa rũ nhau về Huế. Tôi bị phá mất một khẩu với 2 nhân viên khẩu
Có quen biết ai đâu, cứ đi vòng vòng ngắm thiên hạ đội bị thương. Sau đó tôi được lên Đại úy và Mỹ
sắm Tết với không khí thật an bình, có ngờ đâu ngày gắn cho cái Bronze Medal. Ít lâu sau lại nhảy qua
hôm sau, Huế và những thành phố khác bị tấn công Kampuchia với TĐ9ND trong cuộc hành quân của
đồng loạt. Quân Đoàn 3. Nhảy xuống đồn điền cao su Mimot
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ0C1
Tiểu đoàn 9 đụng nặng và Pháo đội cũng bắn tơi bời Sau đó TĐ6ND và Pháo đội Ả của Đào Kim Trọng
hoa lá. Một lần đang bắn thì bị đạn nổ trong nòng, sẽ nhảy xuống Căn cứ 32. Tại phía Nam, Lữ Đoàn
tai nạn nghể nghiệp mà chỉ có Pháo Binh mới hiểu, 1 Thiết Giáp, LĐ1ND, TĐ1PB và Pháo đội A1 của
có lính chết và bị thương, trường hợp nầy bị đau và Đinh Thành Tấn sẽ là nổ lực chính theo đường số 9
thảm còn hơn bị địch pháo kính. May được Pháo đội tiến đánh Chépone. Sau khi chiếm Chépone xong,
A1 CỦA Đinh thành Tấn vào thay và Pháo đội tôi TĐ8ND và Pháo đội C1 của tôi sẽ nhảy vào và cứ
được bốc về Sài Gòn để nghỉ. thế tiến sâu hơn.
Vận Chuyển Pháo qua Hạ Lào Nguyễn văn Toàn lúc đó là Pháo đội trưởng
Đầu năm 71 lại ra Quân Đoàn I để tham dự PĐCH của TĐ2PB đóng ở Tà Bạt Làng Vei để làm
cuộc Hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào, lần trừ bị. Đào văn Thương lúc đó đang làm Trưởng
nầy Nhảy Dù hành quân cả Sư Đoàn, mỗi Tiểu đoàn Ban 3 của TĐ3PB đóng ở căn cứ 31 với Nguyễn
Pháo Binh yểm trợ cho một Lữ Đoàn, và mỗi Pháo văn Đương PĐT/PĐB3. Mấy ngày đầu thì suông sẽ
đội đi theo một Tiểu đoàn. Trận nầy nhiều người viết nhưng càng về sau thì càng bi đát, khởi đầu là căn cứ
và các bạn cũng đã đọc rồi, chỉ xin nói thêm về mấy 31 hứng pháo, căn cứ bị tê liệt và tràn ngập. Đại tá
thằng Khóa 17 mình cùng tham dự cuộc hành quân Thọ LĐT/LĐ3, Trung tá Châu TĐT/TĐ3PB, TĐPhó
bi thảm nầy. và Đào văn Thương bị bắt, còn Nguyễn văn Đương
Theo phối trí lúc ban đầu, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù thì trở thành huyền thoại.
thiết lập 3 căn cứ phía Bắc để án ngữ. Căn cứ 30
với TĐ2ND và Pháo đội C3 của Bành Minh Trí. Kế Hết 31 tới căn cứ 30 bị pháo dữ dội, TĐ2ND
tiếp là Căn cứ 31với BCH/LĐ3, TĐ3PB và Pháo đội và PĐ của Bành Minh Trí phải phá súng rút về phía
B3 của Nguyễn văn Đương yểm trợ cho TĐ3ND. sau rồi được bốc về Khe Sanh bằng trực thăng. Tại
1Ð0Ặ2C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC đường số 9, Đinh thành Tấn và Bộ Chỉ Huy Hành
quân đóng tại căn cứ A Lưới giờ bị địch dồn hỏa lực
pháo và dần dần cũng bị tê liệt. Tình hình như thế
nên PĐ C1 của tôi và A3 của Đào Kim Trọng cứ dậm
chân tại Khe Sanh.
Không có việc gí làm, Pháo đội của Trọng bị
cân hồ đi hộ tống đoàn xe đạn tiếp tế cho các căn cứ
của TĐ2PB đóng dọc theo đường số 9. Nó còn được
bước qua Hạ Lào chứ tôi chỉ đến Lao Bảo những
ngày đầu để yểm trợ cho Chiến Đòn vượt biên, còn
sau đó về Khe Sanh để hồi hộp nằm chở. Tuy không
nhảy qua Lào, nhưng tôi phải xé lẻ pháo đội tăng
cường 3 khẩu đội cho Đinh thành Tấn vì pháo đội
của nó bị thương nhiều.
Sau trận Hạ Lào, Khóa 17 tụi tôi giờ trở thành
thâm niên và lần lượt bàn giao pháo đội cho các khóa
đàn em. Đinh Thành Tấn lên làm SQ Ban 3, tôi nắm
PĐ/CH để chờ đi học Khóa Pháo Binh Cao Cấp tại
Mỹ. Đào Kim Trọng làm SQ Ban 3 cho TĐ3PB, còn
Bành Minh Trí thì giải ngũ vì lý do gia cảnh. Riêng
tôi thi Anh Ngữ xong xuôi chờ gọi đi học thì xảy ra
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 nên khóa học bị cúp luôn.
Lúc đó, LĐ1 và LĐ3ND ở An Lộc còn TĐ1PB và
LĐ2ND ở Kontum. Trận nầy căn cứ Charlie với anh
Nguyễn Đình Bảo bị mất, rồi căn cứ Tân Cảnh với
BTL/SĐ22BB cũng mất. LĐ2 sau đó rút về Kontum,
ít lâu sau bàn giao cho SĐ23BB và được bốc về Sài
Gòn để rồi lại trở ra Vùng I để chặn địch tại sông
Mỹ Chánh. Rồi cả hai SĐ Dù và TQLC cùng đổ ra
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Huế sát cánh với SĐ1BB để giữ Huế và tái chiến Cổ xuống tàu đi qua trường Dục Mỹ và hướng về Khánh
Thành Quảng Trị. Trận chiến khốc liệt nầy quý bạn Dương để ngăn chặn địch đang tử Ban Mê Thuột tràn
cũng đã biết, khỏi cần phải mô tả lại. xuống. Những ngày tháng đó tin tức thật bất lợi, hết
Ban Mê Thuột lại tới Đà Nẳng mất. Ba Tiểu đoàn
Tôi giờ lãnh nhiệm vụ hàng ngày ra Phi trường Nhảy Dù dàn hàng ngang trên đèo M’Brak Khánh
Phú Bài để bay L19 vào Cổ Thành quan sát và bắn Dương không chịu nổi cơn cuồng phong ập tới.
pháo binh. Bay tuốt trên cao vì sợ phòng không
nhưng ngìn xuống Cổ Thành vẫn rõ, nhất là mỗi lần BCH/LĐ3ND kịp rút về đèo Rọ Tượng, còn
bắn khói bụi bốc lên thật dễ điều chỉnh. Mỗi lần có các Tiểu đoàn 2, 5, 6 và 3 Pháo đội A2, B2, C2 bị
tôi ở dưới đều mừng lắm, cứ nhờ điều chỉnh chỗ nầy tràn ngập và đành thúc thủ. Từ đèo Rọ Tượng tôi ra
chỗ nọ, thì bắn! Có lần tôi chơi TOT một lúc cả mấy lệnh cho 3 pháo đội phá súng bằng lựu đạn MK5, ra
Pháo đội nổ chẳng thua gì B52, có người gọi là B53. lệnh mà muốn chảy nước mắt. Sau nầy gặp lại những
người về kể lại, thật bi thảm…Hàng ngày tôi và
Cũng trong trận nầy lâu lâu gặp các ông Khóa Trung tá Khôi LĐ Phó bay ngược về Khánh Dương
17 nhà mình, bây giờ người nào cũng già dặn chiến để tìm các đơn vị thất lạc. Tr/T Khôi gọi được Trung
trường. Gặp Lê thanh Phụng ở Hải Lăng nó làm PĐT tá Bùi Quyền TĐT/TĐ5ND, còn 3 pháo đội của tôi
pháo đội 175 ly đang bắn ầm ầm ra phía Ái Tử, súng chẳng gọi được ai. TĐ5ND sau đó được bốc về Phan
của nó vừa to vừa dài, bắn tới 30 cây số chớ ít đâu. Rang với quân số còn gần 200 người, còn TĐ2, TĐ6
Rồi Phạm Châu Tài vừa gắn lon Thiếu Tá ở trận An và pháo binh coi như thất lạc.
Lộc, nó tìm tôi và Đào Kim Trọng để khoe lon mới.
Gặp nhau trong cảnh khói lửa mịt mùng chỉ bắt tay Bây giờ Phan Rang là tuyến đầu, LĐ3ND được
rồi cười chứ đâu có hàng quán nào để mà cụng ly! lệnh tử thủ cùng với SĐ6KQ. Tử thủ gì được nữa khi
tàn quân chỉ toàn là lính văn phòng với lính tiền trạm
Rồi lại gặp thêm thằng Ngữ mắt kiếng giờ đang của các đơn vị. Sự thực chỉ là để làm nút chặn để
làm Pháo Đội Trưởng Pháo đội Rada, đồ nghề của nó đón những lính thất lạc đang trà trộn theo đoàn dân
chuyên hướng vào núi tìm pháo địch. Một lần ra Huế chúng di tản đang nườm nượp đổ về. Một lần tôi ra
lại gặp Nguyễn Năng Chín tự Ba Lém, trước ở Trung đứng ở Tháp Chàm cùng với toán Trinh sát của Lữ
đội 33 ĐĐ9. Tên nầy mới ngon, lúc đó đã là Thiếu Tá Đoàn nhìn đoàn xe đang xuôi Nam, thì có một người
TĐT của Trung Đoàn 54/SĐ1BB. Những ngày cuối đàn ông lưng cõng một đứa bé tách đám đông nhào
cùng nó còn bắt cái lon Trung Tá, và có lẽ là người tới gọi tên tôi mừng rỡ. Tưởng ai, Thiếu tá Phương
mang lon Trung Tá đầu tiên của khóa mình. TĐPhó TĐ2ND mặt mũi bơ phờ nói như muốn đứt
hơi….: “Thấy mầy như chết đi sống lại! Lữ Đoàn ở
Rồi hòa đàm Ba Lê xảy ra, có ngưng chiến nhưng đâu?....”
ND và TQLC vẫn chôn chân ngoài Vùng I. Tôi giờ
đổi về BCH/PBSĐ ngồi chơi xơi nước và giữa năm Tôi vội chở Phương vào phi trường gặp ĐT Phát
74 thuyên chuyển về TĐ2PB làm Trưởng Ban 3. Rồi LĐT. Chuyện của nó dài dòng và bi thảm lắm, dù sao
VC lại vi phạm hiệp định, lấn chiếm Phước Long và thì cũng đã tìm về được đơn vị. Sau đó tôi cũng nhận
tấn công quận Thường Đức. Nhảy Dù lại di chuyển được Trung úy Ly Pháo đội phó PĐ/C2 của tôi cùng
về Đà Nẳng, LĐ3ND lại một phen chơi xã láng, các mười mấy người lính nữa. Mỗi người mỗi cảnh ngộ,
Tiểu đoàn Dù 1, 2, 3, 5, 8, 9 thay nhau tái chiếm Đồi bị tràn ngập rồi mạnh ai nấy tìm đường tẩu thoát…
1062 và TĐ2PB của tôi cũng yểm trợ mệt nghỉ. Được hai tuần thì LĐ2 của ĐT Nguyễn Thu Lương
với 3 TĐ 3, 7, 11 ND và TĐ1PB ra thay thế. Đây mới
Đầu năm 75 tôi lên Thiếu Tá, cũng tưởng cuộc là lực lượng chính để tử thủ và rồi tất cả cũng không
đời binh nghiệp rộng mở nào dè địch lại tấn công cứu vãn gì được, tất cả cũng bị cuốn trôi như mọi
Ban Mê Thuột và cuộc di tản của QĐ2 trên Tỉnh lộ 7 người đã biết.
đầy khốc liệt. Giữa lúc đó lại có lệnh Nhảy Dù được
rút về Sài Gòn, các đơn vị khác được không vận, Riêng Tiểu đoàn tôi khi về đến hậu cứ Nguyễn
riêng BCH/LĐ3, TĐ2PB và các Tiểu Đoàn 2, 5, 6, 7 Huệ đối diện với Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
lại đi bằng tàu thủy. Đi bằng gì cũng được, miển là thì nhận được lệnh tái thành lập đơn vị. Lúc nầy đúng
được rút về Sài Gòn. Nhưng có như vậy đâu, tới Nha là lúc dầu sôi lửa bỏng, mọi nguyên tắc tham mưu
Trang thì có lệnh đổ bộ lên Nha Trang. với sách vỡ kể như bỏ, mà tất cả chỉ có lệnh và phải
thi hành. Được lãnh ngay 18 khẩu đại bác 105 ly
Cũng tại bãi biển nầy giữa năm 64, tôi cùng mới, lính thì chỉ có một số ít lính cũ, còn toàn là lính
Khóa 17 Pháo binh vào đây để lên xe về trường Pháo
binh Dục Mỹ. Giờ đơn vị tôi lại cùng Lữ đoàn 3 ND ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ0C3
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
văn phòng với quân phạm được bổ sung cho đủ bảng 29 thật sốt ruột sốt gan, TĐT của tôi bị kẹt ở đâu đó
cấp số. vẫn chưa về, tôi bây giờ độc diển, cũng tưởng cờ tới
tay bây giờ sắp được phất.
Như các bạn đã biết, Pháo binh là đơn vị chuyên
môn kỷ thuật. Ngày trước huấn luyện một pháo đội Hết ra lệnh cho 3 Pháo đội tác xạ, lại tới ông
cũng phải ra trường Pháo binh Dục Mỹ, mà bây giờ Toàn vào hỏi đủ thứ, khi thì nó gọi tôi bằng Thiếu Tá,
nguyên một Tiểu đoàn tái thành lập và huấn luyện khi thì nó mày tao cứ loạn cả lên. Đêm 29 là cái đêm
ngay trong sân hậu cứ thì thử hỏi làm sao khá được. không ngủ, có lẻ không phải mình tôi mà cả Sài Gòn
Tiểu đoàn trưởng thì mắc chạy chỗ nầy chỗ kia xin ai cũng đang lo lắng bồn chồn. Không liên lạc được
xỏ dụng cụ tác xạ, nên tôi được giao toàn quyền tự với ai nên giờ chỉ còn biết rà máy theo dõi các tin tức
biên tự diển. Rồi cũng xong, cũng hình thành 3 Pháo từ các đơn vị bạn để rồi chỉ được nghe những báo cáo
đội Tác xạ. hổn loạn. Từ Trường đua nhìn về hướng Bà Quẹo
thấy một chiếc Hỏa Long C119 đang quần quần khạc
Huấn luyện chưa đâu vào đâu thì ngày 29 tháng đạn lửa xuống và ở dưới phòng không bắn lên thấy
4 năm 1975 có lệnh rút về Sài Gòn. Hai PĐ sẽ về rõ mồn một, như vậy địch đã vào gần lắm rồi.
đóng tại Trường đua Phú Thọ và một PĐ đóng tại sân
vận động Cộng Hòa. Ông TĐT của tôi về BTL họp Buổi sáng ngày 30 tháng 4 các xe đi lãnh đạn
vẫn chưa về, tôi phải tự quyết định, và khi đoàn xe vẫn chưa về, lo vì lỡ bây giờ có lệnh bắn không biết
của Phòng 4 Sư đoàn xuống mới hởi ơi, không phải phải làm sao? Đang lo thì Đào Kim Trọng từ BCH/
xe GMC kéo súng mà toàn là xe 18 bánh dùng để PB/SĐND trong Trại Hoàng Hoa Thám chạy ra, nó
chở đạn. Xe cơ hữu chỉ có ít cái, thôi thì ngộ biến thì cho biết từ chiều qua bị pháo tê liệt và Bộ Tư Lệnh
phải tòng quyền, phải dùng xe cần cẩu câu 2 đại bác đã di tản, hèn chi tôi không liên lạc được. Lát sau
lên một xe và rồi cũng đủ cho cả một Tiểu đoàn Pháo bên Bộ Tư Lệnh SĐ 106 BĐQ cho người mời tôi qua
binh 18 khẩu kéo về Sài Gòn. họp, Bộ Tư Lệnh đặt ngay dưới gầm khán đài trường
đua. Buổi họp chỉ có Đại Tá Lộc Tư Lệnh và Đại Tá
Lúc nầy xa lộ Biên Hòa cũng kẹt cứng các đơn Ủy TLPhó.
vị dồn về, mãi đến 3 giờ chiều mới đến cầu Phan
Thanh Giản. Tại đây lại gặp rắc rối, một chiếc thiết Đại Tá Lộc yêu cầu tôi bắn cho BĐQ vì 3 Liên
giáp M48 chắn ngay giữa cầu với những vòng kẽm đoàn của ông ở Bà Hom đang đụng nặng mà không
gai Concertina ngăn chặn không cho ai vào Thủ Đô. có ai yểm trợ. Tôi thật bất ngờ, về đây tưởng bắn cho
Lại phải liên lạc, phải chờ đợi và cuối cùng thì Tiểu Nhảy Dù nào dẻ bây giờ BĐQ lại yêu cầu. Tới giờ
đoàn tôi cũng được cho vào. phút nầy mà tôi còn giữ nguyên tắc tham mưu, tôi từ
chối vì tôi còn phải hỏi về Bộ Tư Lệnh SĐND đã,
Sân banh Cộng Hòa và Trường đua Phú Thọ nhưng thực sự thì từ hôm qua tới nay tôi có liên lạc
cũng gần nhau. Chỉ đường cho PĐ/C2 của Trung úy được với ai đâu mà hỏi. Ông sai lính pha cà phê sửa
Lập vào chiếm đóng vị trí ở sân Cộng Hòa, còn tôi cho tôi uống, trong đời lính dễ gì được một ông Tư
và hai Pháo đội A2 và B2 vào Trường đua Phú Thọ. Lệnh o bế như vậy.
Tại đây có BTL của SĐ 106 BĐQ, lại gặp mấy ông
BĐQ. Trường đua rộng mênh mông, trước chỉ đứng Được uống cà phê nhưng tôi vẫn từ chối vì
trên khán đài nhìn ngựa chạy, giờ thì thay ngựa đứng không…. có đạn. Tưởng thế là xong, ai dè ông bảo:
giữa sân. Chỉ kịp thả súng xuống, gióng hướng súng “Đạn dược anh khỏi lo” rồi ông chỉ tay về cuối
rồi vội cho xe chạy đi Gò Vấp lãnh đạn vì cả Tiểu Trường đua, cả một núi đạn Pháo Binh mà từ hôm
đoàn mà chỉ có mấy chục quả cơ hữu. Xong rồi thì qua tôi cứ tưởng là đạn súng cối. Khoảng cách từ chỗ
chẳng liên lạc được với ai, mất liên lạc với BCH/PB/ đó về vị trí Pháo đội cũng khá xa nên tôi lại từ chối
SĐND dù khoảng cách từ đây đến Trại Hoàng Hoa vì lính của tôi ít quá không đủ người vác về. Ông lại
Thám cũng không xa lắm. bảo: “Anh cũng khỏi lo luôn, lính tôi sẽ vác đạn cho
anh”. Ông liền ra lệnh cho một ông Đại úy huy động
Chỉ bắt liên lạc hàng ngang được với một vài cả trăm lính đi vác đạn cho Nhảy Dù, thật hết đường
đơn vị bạn nhưng hệ thống của ai cũng bận rộn thành từ chối! Nhưng tôi lại chợt nổi lòng tham vì thấy các
ra cũng chẳng biết nhiệm vụ của mình giờ phải làm thùng đạn còn mới quá: “Tôi bắn cho Đại Tá nhưng
gì. Bộ Chỉ Huy TĐ giờ ngoài tôi chỉ còn có Tr/u Tính thùng gổ tôi lấy”- “Anh cứ lấy!”
SQ Trợ Y và Nguyễn văn Toàn PĐT/PĐCH. Ông nội
Toàn Khóa 17 nhà mình theo tôi chạy từ Dục Mỹ về Xin các bạn thông cảm cho tôi, Pháo binh chỉ
đến Phan Rang rồi bây giờ về tới Sài Gòn. Cả đêm sống nhờ thùng gỗ đạn, nhờ đó mới có tiền cà phê cà
1Ð0Ặ4C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
pháo, trong số kia nếu có đuôi đồng nữa thì kể như Khóa 17 Thủ Ðức Hội Ngộ
tôi vớ được khẳm. Thế là lính BĐQ túa ra vác đạn về
cho Pháo Binh. Tôi ra lệnh cho hai Pháo đội chuẩn
bị tác xạ, cũng là dịp cho lính mới của tôi thực tập.
Mấy Liên Đoàn BĐQ ở Bà Hom vào hệ thống tác xạ
và chỉ ít phút sau đạn nổ rầm rầm. Hai Pháo đội 12
khẩu từ Trung tâm Sài Gòn cứ hướng ra ngoại ô vùng
Bà Hom mà bắn liên tục. Tới gần trưa, đống thùng gỗ
chất khá cao nhìn …đã con mắt!
Đang bắn ngon lành thì thật ngỡ ngàng, trên Đài
phát thanh, Tổng Thống Đương văn Minh tuyên bố
đầu hàng. Tôi không còn nhớ tâm trạng của tôi lúc
đó ra sao. Chỉ nhớ trước đó Trường đua Phú Thọ còn
nhộn nhịp lính tráng đi lại sinh hoạt, đạn pháo của tôi
còn nổ rầm rầm mà chỉ ít phút sau trở nên náo loạn
và tan biến.
Cuối cùng thì tôi, Đào Kim Trọng và Nguyễn Sáu ba nhập ngũ cũng như ai
văn Toàn ba thằng Khóa 17 đành “giã từ vũ khí” và Thi hành nghĩa vụ chí làm trai
chia tay nhau tại Trường đua Phú Thọ. Tôi vào Thủ Đức khóa mười bảy,
Học ngành Quân Nhu giai đoạn hai.
Năm mươi năm rồi đấy bạn ! Có phải đúng như
một giấc mơ không? Chín tháng luyện kinh sữ miệt mài
Sáu tư mản khóa “nón tung bay”
California, 30 tháng 4 năm 2014 Buổi lễ ra trường long trọng đó,
Nguyễn Kim Việt Tôi còn mãi nhớ đến ngày nay.
Trung Đội 35 Đại Đội 9 Khóa 17 Thủ Đức Rời quân trường anh đó tôi đây
Cuộc chiến tàn theo bước lạc loài
Tưởng sẽ chẳng bao giờ tương ngộ,
Ai ngờ mình có được hôm nay!
Anh em đồng khóa chuyển tin hay
Hội ngộ đầu tiên sắp đến ngày…
Ôi ! bao ký ức nơi Trường Mẹ
Chia sẻ buồn vui kỷ niệm đầy!
Thơ Phạm Trung Hân
Cựu SVSQ/K17TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ0C5
Lính Thơ&
Thảo Ca Nguyễn Xuân Phần
Khóa 17 SQTB/TĐ
HÁT KHÚC “LỤC QUÂN VIỆT NAM” NHỚ QUÂN TRƯỜNG CŨ. DI CHÚC
Bao người trẻ nay về đâu ai biết Đất nước kể từ lập quốc
Tháng năm dài biền biệt những đêm sương. Trải qua nhiều cuộc bễ dâu
Hồn vất vưởng nơi rừng sâu núi thẳm. Ông cha quật cường tranh đấu,
Hay xác thân vùi dưới đáy đại dương! Giữ yên Quê Mẹ tươi màu.
Anh phương nào hởi người trai Thủ Đức? Trên chặng đường dài Nam tiến
Quân trường xưa giờ đã mất lối về Đổ bao nước mắt mồ hôi
Anh nằm xuống hay vẫn còn lẩn khuất…. Tiền nhân chung lòng xây đấp,
Bên cuộc đời oan nghiệt giữa quê hương? Sao không ra sức tô bồi?
“Này bao hùng binh tiến lên !”…… Giờ đây lũ người hèn nhát
Lời ca trầm hùng các anh từng hát Cúi đầu thần phục ngoại bang.
Nhịp bước chân vang vọng Vũ Đình Trường Cắt dâng rừng vàng biển bạc,
Nung chí cả quyết giữ yên Quê Mẹ Còn đâu hùng khí ngang tàn !
Mà ngờ đâu chim gãy cánh giữa đường! Quên mất ngàn năm nô lệ
Nơi xứ lạ buổi thu về hội ngộ Sử xanh bia đá còn ghi
Mắt dõi nhìn tìm lại bóng hình quen… Kiếm thiêng chém đầu giặc Bắc
Đâu còn nữa, tóc sầu nay bạc trắng Sông Hồng chôn xác quân thù .
Mắt lệ hoen mờ thương nhớ cố hương !
Huyïnì Thoaåi
Mẹ xưa dẫn con lên núi
Đâu ngờ con biến vượn rừng
Ngày về đồng bằng tàn bạo
Mẹ buồn mắt lệ rưng rưng.
Cha xưa dắt con xuống biển
Lần mò tìm kiếm tương lai
Nay kẻ lạc loài đất khách
Đứa chôn thân xác đảo ngoài.
Trăm con giờ đây lý tán
Vọng về đất nước thương cha
Khóc Mẹ một đời ai oán
Hắt hiu bóng xế tuổi già.
1Ð0Ặ6C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC Thaoã Ca
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
VTSăĐiiểnnĐuhpĐh9v-òio1ênàn0gn-g13ồ1mvàcá1c2 Họp mặt Liên Binh Chủng Cựu
SVSQ/K17TĐ lần đầu tiên Mùa Hè
2005 tại Nam California, thứ tự từ
trái sang phải :
- Một bạn không nhớ tên, Lê văn
Ni (chết), Nguyễn văn Kha (BB-San
José), Phạm Châu Tài (BCDù-Santa
Ana), Lê Viết (BB-Arizona), Trần
Đức Thắng (Ngồi xe lăn-QCụ-Santa
Ana), Lê Đình Bảo (TQLC-Cali,
Nguyễn Thế Đỉnh (BĐQ-Santa Ana),
Bà xã anh Phúc, Bà xã anh Hiệp,
Nguyễn Kim Hiệp (QCụ-Santa Ana),
Nguyễn văn Phúc (BB-San José)
Họp mặt Liên Binh Chủng cựu SVSQ/
K17TĐ lần đầu tiên Mùa Hè năm 2005 tại
Nam California, thứ tự từ trái sang phải:
- Lê văn Ni (chết), Một bạn không nhớ
tên, Phạm Trọng Phúc (CTCT-Chết),
Phạm Châu Tài (81 BCD, Tô văn Mười
(LLĐB/Delta), Nguyễn kim Hiệp (QCụ),
Lê Viết (BB), Nguyễn Thế Đỉnh (BĐQ),
Nguyễn văn Phúc (BB), Nguyễn Kha
(BB), Lê Đình Bảo (TQLC), Đào Kim
Trọng (PB)
Sinh hoạt SVSQ bên trong Đại Giảng Đường
Huấn Luyện Viên và SVSQ
Di hành thực tập Chiến thuật ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð10Ứ7C
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÂM BA TIẾNG SẤM VŨ NINH nơi, đang trở nên ngày càng khốc liệt.
Như mọi buổi sáng, sau khi chuẩn bị xong bửa
Nghĩa Quân Kinh Bắc Nguyễn Đình Liêm
Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ cơm cho gia đình, mẹ tôi ngồi nghỉ tay ở bộ sa lông,
giải lao bằng tách trà trong ấm pha sẵn từ ban sáng
“Thủa trời đất nỗi cơn gió bụi……” cho ông cụ tôi điểm tâm trước khi đi làm. Bỗng có
Chinh Phụ Ngâm Cô ruột của tôi là Cô Cương đến thăm với dáng điệu
không được bình tỉnh như mọi khi:
Nhân ngày Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ năm nay,
các đài TV Mỹ cho trình chiếu lại những hình ảnh -Này mợ Thường! Mợ có đến thăm viếng
của người lính đồng minh đã hào hùng hy sinh cho nhà ông Cụ H. ở trong xóm không?
cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong ký ức của dân Việt
tỵ nạn Cộng Sản, bỗng dưng bị làm sống lại những -Có! Tội nghiệp! Thằng con của ông cụ H.
hình ảnh đẹp của một thời hàng hàng lớp lớp “thanh , Chuẩn úy mới ra trường cùng Khóa 17 với thằng
sĩ phu” Việt Nam cởi áo sinh viên - với ít nhiều màu Liêm nhà nầy!..
sắc “híp pi”- của những năm 62-63 để lên đường:
-Sao tôi thấy thằng Liêm vẫn còn nhong nhong
“ (Đông vô số kể !) ở Sài Gòn trong khi thằng con của ông cụ H. đã hy
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt sinh ngoài mặt trận? Nghe đâu nó chỉ mới đi trình
Xếp bút nghiên theo việc binh đao …..” diện đơn vị được có một tuần lễ!
Trong một thoáng suy tư, tôi nhớ tới trời Sài Thì ra mẹ tôi đã dấu tôi cái “hung tin” nầy. Nhà
Gòn một ngày nào vào cuối tháng 11 dương lịch năm thằng bạn cùng khóa nầy ở cuối đường Đỗ Thành
1964 bắt đầu vào mùa khô…Mùa nầy là mùa nhiều Nhân, quận Tư, gần góc đường Tôn Đản. Vì có sự
tang tóc suốt trong năm: giặc Cộng đột phá khắp chênh lệch tuổi tác nên ít thân với nhau mặc dù cùng
nơi, bao vây đồn bót, ngăn chặn, đào lộ, cắt đứt giao xóm, cùng quân trường, cùng khóa….Sau nầy tôi
thông, ám sát dân sự, khủng bố công chức và cán bộ mới biết là nó đã trình diện đúng ngày ấn định, nhận
xã ấp khắp nông thôn. chức Trung đội phó một đơn vị. Ngay ngày đầu tiên
nhận lệnh, nó dẫn quân đi phục kích ban đêm, đã
Như hầu hết các bà mẹ Việt Nam, me tôi có sẵn đụng trận và tử thương. Thật đúng là số trời!
linh tính nhạy bén về tình hình bạo động của Cộng
Sản. Phương tiện quan sát thời cuộc của bà rất…bình Cô tôi là con gái út của cụ Phán Túc, ông Nội
dân. Cứ mỗi buổi sáng, xách cái giỏ đi chợ Xóm tôi. Tuy quê quán là Xã Công Cối, Huyện Võ Giang,
Chiếu - nhà tôi ở Quận Tư Khánh Hội - chỉ cần thăm nhưng làm việc tại công sở Đáp Cầu, Bắc Ninh. Ông
hỏi những bạn hàng quen thuộc ở các hàng rau, hoa tôi là con trai thứ hai của cụ Xuân Đình Tướng Công
quả, trái cây tươi từ các nơi đem về…là bà thâu thập Nguyễn Đình Nhuận, đời thứ 9 của giòng họ Thuận
được khá đầy đủ về tình hình an ninh và chiến sự các Đức, được sáng lập bởi cụ Thủy Tổ Phúc Nghi, được
triều đình thời Vua Trung Tôn nhà Hậu Lê (1613)
1Ð0Ặ8C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC cho đến ở đất Công Cối, đến đời tôi là đời thứ 12.
Nguyên do là vào khoảng năm 1939, tôi mới
được ba tháng tuổi, Bố mẹ tôi được lệnh của gia tộc
ngoài Bắc gọi phải mang ngay tôi về ra mắt họ hàng
để ghi tên vào bản đồ Tộc phả Họ Thuận Đức. Khi
được bế bồng cháu, cô tôi thấy kháu khỉnh dễ thương
quá, bèn tình nguyện theo me tôi vào xứ Campuchia,
vừa đi chơi một chuyến vừa có thời gian mặc sức ẵm
bồng và trông nom cháu cho thỏa lòng…
Thế rồi không ngờ đâu do duyên tiền định: một
ông bạn công chức ở Bộ Công Chánh Nam Vang làm
việc chung với ba tôi “phải lòng” ngay và xin cưới
làm vợ. Sau biến cố 1945, ông dượng và cô tôi di
tản về Sài Gòn lập nghiệp. Ông dượng mở trường
Tiểu học Tư thục “Minh Tâm” tại đường Lê văn Linh
cạnh chợ Xóm Chiếu, Khánh Hội - một trường Tư
thục được Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH chấm điểm
cao, hoạt động liên tục qua luôn 1975, đến hơn mười
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
năm sau mới tự động giải tán. trông coi “lơ” xe chất lên mui xe đò. Còn tôi, tôi mua
Cô tôi là người thương yêu tôi nhất sau cha và vé ngồi cạnh tài xế để tùy cơ ứng biến!..
mẹ. Chính cô đã gọi tôi về Sài Gòn học, sau khi đậu ***
bằng Trung học Pháp, vì lý do trên Nam Vang chưa Rồi vào một buổi sáng sớm, đúng y như mẹ tôi
có mở trường lớp dạy Ban Tú Tài Pháp. Khi nghe tin đã sắp đặt: hai bà mẹ Việt Nam nữa cùng đến có mặt
tôi bị động viên vào Thủ Đức bà bắt đầu lo lắng…. tại Bến xe đò Chợ An Đông Sài Gòn, vui mừng ủy
Chợt khi nghe hung tin đứa con trai của cụ H. cũng quyền và phó thác sinh mạng của hai đứa con trai
quen trong xóm cùng khóa Sĩ quan với thằng Liêm, mới được đeo lon Chuẩn úy cho mẹ tôi bảo hộ giùm.
bà chưng hửng!...Bà vội vàng vào tìm me tôi để hỏi Tất cà hành khách đã mua vé rồi của chuyến xe đò
đầu đuôi ra sao. “nhất”, từ Sài Gòn đi Gò Công qua ngã Long An -
Cần Đước, phải qua một chuyến phà Mỹ Lợi trên
Sau khi nghe rõ, me tôi giải thích về tình trạng sông Vàm Cỏ rất rộng, phải chờ đợi rất lâu.
đặc biệt của tôi: may mắn được chọn trong số 120 tân Xe đã qua phà nhưng vẫn còn dậm chân tại chỗ,
Sĩ quan đi học một khóa Căn bản Tham mưu ở Sài chưa ai dám lên xe ngồi chờ…Toàn bộ hành khách
Gòn - ngành “Nghĩa Quân” mới thành lập – đã mãn tại bến phà còn ngong ngóng hồi hộp chờ đợi tin tức
khóa cả hai tuần lễ nay! do chuyến xe “nhất” từ Gò Công mang đến: đường
có lưu thông được hay không? Mặt trời đã lên cao,
Mẹ tôi than phiền với cô Cương: nắng bắt đầu gay gắt mới có tin báo: đường hôm nay
-Sau lễ mãn khóa ở Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân, lưu thông! Mọi người reo lên truyền nhau, vui như
trẻ con được quà …!
tụi nó gồm ba đứa được chọn đưa về Gò Công, được Quang cảnh nầy có lẽ rất khó quên đối với những
cấp phép 3 ngày để tự lo liệu phương tiện tự túc…. ai đã từng sống dưới thời mà bọn giặc Cộng vô nhân
Nhưng chã thấy thằng nào lo lắng gì cả, còn rũ nhau đạo nổi lên cướp phá, khủng bố dân lành ở Miền
“dzù” thêm vài ngày ở Sài Gòn chơi cho đã! Nam. Có lẽ chúng còn độc ác gấp bội lần Giặc Ân
thời cổ trên đường tràn xuống Vũ Ninh…Bọn giặc
Cô tôi ngồi tư lự vài phút…có lẽ cô thông cảm Cộng nầy còn đáng kinh tởm hơn, vì là Giặc Ân “nội
hoàn cảnh của tuổi trẻ Việt Nam lao đao lận đận… hóa”, tệ hại gấp trăm lần hơn.
sự học hành gián đoạn, sự nghiệp kể như bắt đầu Đến trưa, khoảng 1- 2 giờ, chiếc xe đò lỡ cũ kỹ
bằng “zéro” ! Nhất là sau ba năm liền, biết bao biến năm xưa thường thấy mang nhản hiệu “Renault” của
cố động trời vừa xảy ra trên đất nước. Nào là Phật Pháp từ từ tiến vào phố chợ với nhà cửa, đường sá
Giáo bị pháp nạn, Tổng Thống bị giết, Tướng Tá đảo được kiến thiết rất lâu đời, chật hẹp, nhưng còn nét
chánh nhau, phe phái xuống đường làm loạn…Tấm gọn ghẽ, sạnh sẽ duyên dáng kiểu cổ.
lòng khoan dung vô bờ bến hiện ra trong ánh mắt, cô Đích thân mẹ tôi cầm ba tờ Sự vụ lệnh của ba
tôi ôn tồn lên tiếng như để bênh vực cho cháu như thằng con “giả dạng thường dân” bước vào Tòa Hành
thường lệ: Chánh tỉnh Gò Công dọ hỏi. Một thoáng bà trở ra,
gọi chúng tôi vào trình diện:
-Thôi kệ! Cho chúng nó được vui vẽ thêm vài
ngày, cũng là dịp may…có thời giờ chia tay cùng bạn -Ông Đại úy Trưởng Ban Chỉ Huy Nghĩa
bè ghệ gộc! Quân tỉnh Gò Công nầy hiền lành dễ thương…..cũng
người Bắc!
Me tôi cắt ngang:
-Nhưng khổ một nỗi là chúng nó phải tự túc Tôi hiểu ngay cái tính “yêu quý đồng hương”
của bà trở nên sâu đậm trong suốt gần 30 năm xa
tìm phương tiện đáo nhậm đơn vị! Không có máy quê hương. Bà đã từng đóng góp công sức quy tụ
bay, không có an ninh hộ tống đường bộ gì cả! Bắt một số đồng hương đủ thành lập một “làng Bắc Kỳ”
buộc phải đi xe đò, mà xe đò dạo nầy dân chúng hay ở thành phố Bông Thơm (Kompongthom) trên đất
bị Việt Cộng chặn bắt. Hên thì cho đi học tập vài Campuchia khi xưa. Cho nên “ông Đại úy cũng
tiếng đồng hồ rồi thả, còn không may thì bị giữ vài người Bắc” kia làm tăng sự tin tưởng của bà trong
ba ngày, tình hình hết “động” rối mới cho về, chưa kể ngày mở đầu một sự nghiệp mới cho ba đứa, mà bà
nếu bị tình nghi thì giam giữ mút mùa !... vẫn xem như là ba thằng “nhóc” .
Cô tôi hốt hoảng: Đại úy C. rất đổi ngạc nhiên, lần đầu tiên thấy
-Thế thì mợ dự tính phải làm gì?
-Tôi có bàn với tụi nó rồi! Hôm nào tụi nó
quyết định chắc chắn từ giả Sài Gòn, đích thân tôi sẽ
đi cùng với chúng nó, bắt mặc thường phục, giả dạng
thường dân, theo mẹ về “thăm đám” bà con ở Gò
Công…Ba cái “vali” đựng quần áo nhà binh tôi sẽ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ0C9
một bà mẹ Việt Nam chưa già lắm, đã can đảm làm “Chàng từ đi vào nơi gió cát”….
Tôi không ngờ chính đó là những thông điệp vô
một hành động trợ giúp cho Quân Đội VNCH vốn cùng quý giá và mầu nhiệm, đã làm cho tinh thần
người chiến sĩ vừa bình an, vừa phấn khởi…Đúng
còn thiếu thốn quá nhiều phương tiện: vậy! Chẳng phải chỉ có cỡi ngựa dong ruỗi sa trường,
chiến y mới lấm bụi cát!
-Tôi sẽ cho nhân viên đưa quý vị ra khách sạn
Với cánh tay nối dài của Phù Đổng Thiên Vương,
tạm trú nghỉ ngơi. Khoảng 10 giờ sáng mai có mặt truyền phương tiện cho Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa ngày hôm nay…, những cánh quạt của những
tại đây để tôi đưa vô trình diện Trung tá Tỉnh Trưởng chiếc trực thăng “UH.1B” thân quen hàng ngày phục
vụ cho chiến trường, luôn luôn ép gió, thổi tung cát
Nguyễn Viết Thanh, vì sáng sớm nào ông cũng rất bụi mịt mùng khi cất cánh cũng như khi đáp xuống!
Ai bảo chiến y có bao giờ…chẳng phủ bụi sa trường?
bận giải quyết công việc bên Tiểu Khu trước.
Công đức của mẹ tôi thật bao la như bài hát thân
Trước khi chào từ giã ông Đại úy C., mẹ tôi quen thương yêu ca ngợi lòng Mẹ như Biển Thái
Bình, và còn hơn thế nữa …! Chỉ cần nghe lóm một
còn lưu ý ông lần chót: câu nói của những ai thường tiếp xúc với mẹ tôi, họ
trao đổi với nhau:
-Mong ông cố gắng hết lòng giúp đở cho việc
-Bà Thường thật “giỏi”….
trình lên cấp trên: căn cứ theo giấy tờ của Bộ Tổng Ý rất bình dân nhưng bao hàm một đức tính đảm
đang, thủy chung trước sau như một, sẵn sàng giúp
Tham Mưu, mấy Sĩ quan mới ra trường nầy chỉ được đở mọi người. Tôi trộm nghĩ chính là do thừa hưởng
phần lớn gia tài đạo đức gia phong, cũng như danh
phép làm việc tại văn phòng, địa phương không có giá của gia tộc bên ngoại.
quyền sữ dụng vào công việc tác chiến! Ông ngoại tôi là Cụ “Hoa Kiếm” - một nho gia
danh giá sống dật cư ở làng Nội Duệ. Cụ có một
-Xin bà cụ cứ yên tâm trăm phần trăm! người con trai làm Hiệu Trưởng trường Hàn Thuyên
- cậu Trang anh kế mẹ tôi - đã từng lặn lội vào Nam
Chúng tôi đã đề nghị lên thượng cấp đúng như vậy: Vang mừng một đứa cháu trai vừa sinh ra đời. Về sau
nầy, chính một người con gái của cậu đã nối nghiệp
tờ trình của chúng tôi đã được Trung tá Tỉnh Trưởng cậu Trang làm Hiệu Trưởng trường Hàn Thuyên. Có
điều đáng ghi nhớ nhất là, sau ngày 30 tháng 4 “đen”
chấp thuận, với sự phối trí như sau: ông Chuẩn úy 1975, bà chị nầy tên Quỳnh Như, đã thay mặt họ
hàng, vội vã đến thăm tôi đang tù “cải tạo” tại Đồng
Đức trước là gốc công chức (Đức mắt kiếng) lớn Tháp Mười. Thật đáng khâm phục biết bao tình ruột
thịt keo sơn gắn bó, đậm đà và bền vững như núi Sóc
tuổi nhất, làm việc tại đây với tôi. Ông Chuẩn úy Sơn cao vời linh diệu !
Liêm nguyên Giáo sư Ngoại ngữ, được làm ở quận Vì thương mẹ, nghĩ đến mẹ là tôi liên tưởng ngay
đến phẩm chất và giá trị tuyệt vời của những người
Châu Thành, sát bên Tiểu Khu, đối diện ngay bên kia dân - nhất là con gái - Bắc Ninh !
đường. Còn lại ông Chuẩn úy Đức trẻ tuổi (Đức cao Nghĩa Quân Kinh Bắc Đại Việt*
Nguyễn Đình Liêm
giò) còn “độc thân vui tính” xin cho đi xa một chút, K17/KBC 4100
làm việc tại Quận Hòa Đồng, cách đây chừng 15 km, * Biết đâu có ngày sẽ được ghi là “Cộng Hòa Đại
Việt” ?
trên tỉnh lộ 24 đường về Mỹ Tho….Như vậy bà cụ
yên chí nhé! Cầu chúc cụ thượng lộ bình an!
Sau khi ra khỏi Tòa Hành Chánh tỉnh, mẹ tôi
tươi tỉnh hẳn lên, việc làm của bà có kết quả tốt, một
là xe đò không bị “VC” chận, hai là công việc trình
diện nhiệm sở nhà binh của ba tên “nhóc” tương đối
suông sẽ. Còn ba đứa chúng tôi đều cố gắng làm cho
bà vui, chứng tỏ tinh thần “Tổ quốc-Danh dự-Trách
nhiệm” cao, cùng với lòng biết ơn sâu xa, thắm thiết
nhất khi đưa tiển cụ lên xe trở về thủ đô.
Về tới Sải Gòn, mẹ tôi gọi tắc xi về thẳng nhà cô
Cương, diển tả chi tiết mọi việc cho cô nghe, để hai
bà cùng yên tâm, dẹp bớt nỗi lo âu ám ảnh của chiến
tranh. *
Rồi từ đó, tôi bắt đầu lao mạnh vào cuộc đời
binh nghiệp đầy bất trắc. Chỉ có những lúc mà hình
ảnh của mẹ tôi hiện ra với những lời ru con bằng tất
cả những đoạn văn chương bất hủ mà bà thuộc lòng
từ nhỏ ở Quê Lim, những đoạn trong Gia Huấn Ca,
Chinh Phụ Ngâm…đều được mẹ tôi “phổ nhạc” lại
theo đủ thể loại, thể điệu của văn chương Quan Họ
Bắc Ninh…
Nhớ đến câu;
“Thủa trời đất nổi cơn gió bụi” …..dài đến câu:
1Ð1Ặ0C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ñŒ Tam Chu Niên SÓ 02 - Ngày 15/7/2013
Người lính
đ ÇÎa phÜÖng quân
......................................................
Anh người Lính : Niềm tin và Hy vọng
Ngăn giặc thù giữ thôn xóm bình an
Ngày hành quân ven biên giới Tỉnh-Làng
Đêm đi kích cũng ruộng hoang, gò mả.
Địa phương quân-Lính con Rùa nhưng vất vả
Sống giữa lòng dân mà nguy hiểm bội phần
Đang nói cười, lựu đạn nổ- thây phân
..................................................... Đường sinh tử đếm thời gian tích tắc
Tôi gặp Anh một chiều vàng rất đẹp Quán cà phê có thể là trạm giặc
Tuổi trăng non chưa hề biết mộng mơ Thằng bé qua đường có thể “giao liên”
Học trường xa ngày nghỉ mới trở về Cô bé xinh xinh trông rất nhu hiền
Con đường vắng chốt lính canh xuất hiện Nào Ai biết là “đặc công Cộng sản"?
Anh chận tôi:“Giờ này về bất tiện Tôi gặp Anh giữa chợ Trời lam lũ
Giặc về làng quậy phá tối hôm qua Tấm thân gầy phủ mảnh áo vá vai
Đơn vị Anh quần thảo đến canh ba Áo rách vá, làm sao vá đời trai,
Giặc rút chạy, toán quân nhà vô sự” Bị tơi tả sau tháng ngày nghiệt ngã?
Tôi gặp Anh, tuổi xuân thì thiếu nữ Tôi gặp Anh đang mong manh hơi thở
Rất bình thường không mơ mộng, kiêu sa Thân phận con người trăn trở giựt giành
Tan trường về biết mong ngóng Người ta Cuộc chiến sau cùng đã định sẵn lằn ranh.
Rồi tự nhủ : chắc đang hành quân gấp đó! Nhưng Người Lính đó vẫn trong tôi mãi mãi
Lê Thị Hoài Niệm
CHUYỆN TRĂM NĂM MỘT LẦN TRỞ LẠI TRÊN
“ĐÁM LÁ TỐI TRỜI”
XÃ GIA THUẬN , TỈNH GÒ CÔNG
NGHĨA QUÂN ĐẠI VIỆT
KBC 4100/K17SQTBTĐ
Lại một lần nữa, tinh thần hào hùng của “Nghĩa Gia Thuận tỉnh Gò Công, tính ra đúng 100 năm sau
Quân Đại Việt” bừng bừng sống dậy. Kể từ ngày Đức (Đức Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Công Định
Bình Tây Đại Tướng Quân TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH được đánh dấu Ngày Giỗ là 20-8-1864), là ngày tôi
tuẩn tiết tại khu vực “Đám Lá Tối Trời” thuộc Xã trình diện vị Trung tá Tỉnh Trưởng kiên Tiểu Khu
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ1C11
Trưởng Tiểu Khu Gò Công (24-11-1964 ?.... không “đeo lon”, thụ huấn Khóa đặc biệt Tổ chức và Tham
nhớ rõ lắm). mưu điều hành Nghĩa Quân tại Bộ Tư Lệnh Nghĩa
Quân cũng vừa ra đời trước đó chừng một năm, với
Người viết bản “báo cáo” nầy đã ghi nhận ngay sự tham gia đóng góp của 120 Tân Sĩ Quan của Khóa
tức khắc lúc đó, một ấn tượng sâu sắc vế chân dung 17 Thủ Đức mang tển Nguyễn Thái Học còn nóng
của một cấp chỉ huy hoàn toàn khác lạ: giản di, uy hổi.
nghiêm, nhưng đầy lòng bác ái! Thật đúng y như lời
đồn trong hàng ngũ các chiến hữu tại địa phương: Nhưng giây phút “hốt nhiên giác ngộ” nhà binh
ông “ Mặt Trời” (theo cách gọi của ám danh đàm trong tâm thức chỉ xảy ra trong chớp nhoáng: mọi
thoại quân sự) không bao giờ biết cười! Nhưng đặc sáng kiến điều hành tham mưu, tác chiến, tâm lý
biệt nhất là không bao giờ chửi thề! Ngôn ngữ lúc chiến, tình báo chiến…tuôn chảy ra trong đầu chỉ
nào cũng trịnh trọng, hòa nhã, rõ ràng và chính xác! sau lần “tao ngộ” với vị chỉ huy quân đội nầy. Tự
nhiên tôi có cảm quan rất ư là hứng thú trong khi
*** phục vụ Tổ quốc, Quân đội dưới phong cách chỉ huy
trầm lặng nhưng oai hùng của một Vị Tướng hiện
Sau nửa thế kỷ trong cuộc sống với biết bao nhiêu còn đang đeo lon Trung tá.
là biến động lịch sữ, huy hoàng trộn lẫn với đắng cay,
tôi vẫn còn nhớ đến giây phút đầu tiên của ngày trình Và may mắn thay, Trời đã không phụ lòng người
diện thượng cấp trình sự vụ lệnh “nhận nhiệm sở” . mang chính nghĩa trên vai. Sự dấn thân vì đại cuộc
Ông chỉ hỏi ba đứa chúng tôi , ba Sĩ quan của Trường của tôi đã được ân thưởng xứng đáng: trong lúc cuộc
Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức biệt phái đến Tiểu Khu Gò chiến còn đang diển ra khốc liệt, có hai sự kiện lịch
Công: sữ vô cùng trọng đại đã nổ ra, mang dấu ấn hiển linh
của lịch sữ dân tộc:
-Đại Tá Xương dặn dò gì các anh?
-Kính thưa Trung Tá, Đại Tá Trương văn Xương, 1/-Phong Trung Tướng đặc cách cho Cố Thiếu
Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân, đã ân cần nhắn Tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ trực thăng
nhủ chúng tôi một câu “điều quan trọng nhất mong khi đang bay chỉ huy trên bầu trời biên giới Việt
các anh làm được là “ mang ánh sáng” đến cho người Nam-Kampuchia!
lính Nghĩa Quân!
-Như thế đủ rồi! Tôi biết ông ấy, rất tốt! Ngày mai 2/-Truyền tụng như một tấm gương cao cả trong
Chuẩn úy Liêm bắt đầu đi với tôi! Quân đội: “Tướng Sạch đã Vị Quốc Vong Thân!”. Và
Lệnh là lệnh. Kẻ thừa hành chỉ biết tiến về phía câu tuyên dương “sống” vẫn còn được vinh danh cho
trước! Guồng máy nhà binh bắt đầu chuyển động, đến ngày hôm nay: “Việt Nam có 4 Tướng Sạch -
trong tim tôi, mọi sự đều cần phải được thay đổi. Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng” , tất
Không còn gì để ưu tư, vương vấn hoặc thắc mắc về cả đều có ghi trong hồ sơ tài liệu Quân sử Mỹ .
các thứ “quyền lợi”, “quy chế Sĩ quan Chủ lực quân
biệt phái”, “văn phòng không tác chiến”…Thậm chí Hằng ngày tôi phải làm việc ở văn phòng Nghĩa
có khi đợi đến ba tháng vẫn chưa có ngày phép để về Quân quận Châu Thành, nằm cạnh Bộ Chỉ Huy Chi
Bộ Chỉ Huy Nghĩa Quân để lãnh lương. Khu Châu Thành. Cách một con đường, bên kia phố
Đây là cơ hội đúng thời điểm để chiêm nghiệm là doanh trại của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Gò Công,
những lời vàng son vang danh lịch sữ của vị Đại Anh chạy dài đến cuối đường là khuôn viên của Tòa Hành
Hùng Dân Tộc Đại Việt nghìn năm vẫn sáng chói, Chánh, văn phòng Tỉnh Trưởng, kế bên là khu dinh
mầu nhiệm: thự của Tư dinh Tỉnh Trưởng, thời Pháp gọi là Tòa
Tham Biện.
“Việc nhân nghĩa cốt ở Yên Dân,
“Quân điếu phát chỉ vì Khử Bạo. Nếu tôi còn nhớ rõ, thì trong khoảng gần cả năm
“Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, trời, tôi không bao giờ phải đi bộ từ văn phòng đến
“Song Hào Kiệt thời nào cũng có…..” Tòa Hành Chánh hay Tiểu Khu để cùng ông đi công
tác, luôn luôn ông cho tài xế đến tận nơi đưa rước
Công việc xếp bút nghiên theo việc binh đao kể đủ hai chuyến đi về, do đó lúc nào tôi cũng phải sẵn
ra cũng dài dòng, nào là quân trường 10 tháng, lễ sàng…Nghe bác tài vừa ngừng xe trước cổng là tôi
1Ð1Ặ2C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC phóng lên xe jeep của “Mặt trời” liền, chẳng để cho
chú vệ sĩ có đủ thời giờ lễ nghi quân cách chào tay
mời lên xe…Đến nổi các nhân viên thuộc hạ của tôi
còn chế diểu để vui; “Ông Chuẩn úy làm việc ở quận,
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mà tối ngày được đi theo “Mặt trời” cũng đủ no rồi! phân tán, khi tập trung, khi ồ ạt cưởng bách nông dân
Đâu cần về Bộ Tư Lệnh lãnh lương chi cho mệt….” đi “công tác” đắp mô, đào lộ, đặt giăng mìn bẫy….
Nhưng chiếc xe jeep của “Mặt trời” ngang nhiên
Nhưng ở đời, trong cái cực cũng có cái vui: mùa phom-phom chạy vượt bao chướng ngại. Ông đã
Xuạn năm 1965 đang trở về trên quê hương. Trong tính toán kỹ lưởng những điểm giờ giấc then chốt mà
một chuyến đi công tác Xã Ấp trở về, “Mặt trời” bỗng VC hoàn toàn bất ngờ, không kịp trở tay để chuẩn bị
nhiên ngoái cổ về phía ghế sau xe hỏi: “Anh ấy ơi !” phục kích, ám sát…
- Dạ, thưa Trung Tá …? – “ Ngày mai anh qua Tiểu
Khu lấy giấy phép đặc biệt về thăm gia đình…!” Vào những lúc nắng chang chang sau bửa cơm
trưa, hoặc là buổi xế chiều chạng vạng tối, hoặc có khi
Thật quả là ông “Mặt trời” có mắt! Ngay xế chiều vì tình hình quá khẩn trương dù là 9, 10 giờ đêm…
hôm sau, tôi đã được leo lên chiếc trực thăng của Cố ông cũng có thể đến kiểm tra bất thần đốn bót nào có
vấn Mỹ cho quá giang về tới Tân Sơn Nhất, gọi gấp dấu hiệu bất thường, nhằm ngăn chặn kịp thời mọi
một chiếc taxi chạy qua chợ Bến Thành, đại lộ Lê Lợi, âm mưu nội tuyến đánh phá đồn bót của giặc Cộng.
qua Hàm Nghi để vế Quận Tư ăn Tết. Bổng nhiên tôi Rất nhiều lần - riết rồi cũng quen - chiếc xe jeep của
cảm thấy hình như nước mắt trào tuôn hồi nào đầy “Mặt trời” chạy trở về tỉnh lỵ với năm người hoàn
hai bên má và mờ hoen lấm cả cặp mắt kiếng… toàn “tay không”, có nghỉa là còn có súng mà không
có viên đạn nào: ông đã rút hết ra để phân phát “thân
Một phút định thần lại tôi mới hiểu rõ: sự tương tặng” các chiến hữu Nghĩa Quân anh hùng, chịu
phản khủng khiếp và tàn nhẫn của hình ảnh máu đổ chơi..luôn cả băng đạn súng colt, carbine, cộng thêm
thịt rơi của chiến tranh, và khung cảnh tưng bừng cả lựu đạn của anh chàng vệ sĩ cận vệ của Trung tá
đón xuân của Đô Thành muôn màu tràn ngập âm Tỉnh Trưởng.
thanh của nhạc Rock, Cha Cha Cha, Twist…
Đức độ của “Mặt trời” lúc nào cũng hiển lộ ra trên
“Đem Đại Nghĩa mà thắng hung tàn gương mặt trầm tỉnh, điềm nhiên, với vầng tráng cao
Lấy Chí Nhân mà thay cường đạo…” trong sáng oai nghiêm. Giọng nói của ông luôn luôn
(Bình Ngô Đại Cáo) ôn hòa, dù ra lệnh trực tiếp hay nói qua máy vô tuyến,
lúc bình thường hay trong trường hợp khẩn cấp lúc
Mùa khô năm 1964, gió bấc lành lạnh đã hiu hiu nào cũng vậy, gọn ghẻ, chính xác đầy uy lực.
thổi về trên quê hương Gò Công “miền gió chướng”…
tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch Bình Định mở Mặc dầu thế giới đã tiến sâu vào cuối thế kỷ 20
màn: bất kể ngày đêm, 24 trên 24 tiếng, chiếc xe jeep đưa con người vào mặt trăng, quốc gia đồng minh
đơn độc của “Mặt trời” tung hoành khắp bốn hướng lớn nhất của Việt Nam là nước Mỹ hiện có một kho
chiến thuật đúng theo kế hoạch tấn công ưu tiên: vũ khí hiện đại nhất. Nhưng hoàn cảnh độc đáo của
Bình Xuân, Cầu Nổi, Tân Phước, Rạch Già, Tân Hòa, người lính Nghĩa Quân Việt Nam, tay cầm cần câu,
Bình Ân, Thành Công, Tân Thành..v..v.. Điểm đặc tay cuốc tay cày, tay cầm súng giữ nước, tay đùm bọc
biệt là không bao giờ ông cần xe hộ tống, trong chiếc vợ con, xem đồn bót là nhà, chiến hào đã thay thế ao
xe jeep kiểu cũ chỉ có ba người lính, một tài xế, một làng, tình trạng vũ trang tuy được hiện đại hóa nhưng
mang máy truyền tin, một hộ vệ, và cá nhân người vẫn còn nghèo nàn…
viết bài nầy.
Ông “Mặt trời” rất quan tâm vấn đề đó, và ông
Mỗi ngày ông sắp xếp một kế hoạch chi tiết đã quyết tâm cải thiện sự nghèo khó tạm thời của
đầy đủ để thị sát hoạt động của từng đồn Nghĩa quân họ vì tinh thần chiến đấu rất cao, tinh thần hy sinh
nhằm xác định tình hình, thay thế vũ khí cũ kỹ. Tiếp vì nước của họ chẳng bao giờ thua sút, so với những
tế thêm từng viên đạn, từng quả lựu đạn, từng cây thời oanh liệt của cao trào Lam Sơn, Tây Sơn khởi
cọc sắt, từng cuộn kẽm gai . (Ít ai biết chi tiết nầy của nghĩa, của Bà Trưng Bà Triệu nổi lên diệt quân Đông
kế hoạch viện trợ quân sự Mỹ: không có gì Free cả! Hán Tây Hán…
Mà tất cả sự gia tăng viện trợ đều căn cứ vào hiệu quả
cụ thể - giết được một VC, lấy được một khẩu súng Hoặc gần đây nhất, nhân dân toàn vùng Gò Công
– tính thành điểm, đổi ra thành của cải tài nguyên, đã tham gia kháng chiến chống Pháp theo lời kêu gọi
nhân lực, vật lực và tài lực !). của Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Công Định.
Mỗi khi ngắm nhìn ông tiếp xúc, khuyên nhủ chiến
Trong khi phần lớn tại vùng nông thôn, các sĩ Nghĩa Quân, động viên tinh thần họ, người viết đã
Xã Ấp còn chấp chứa một số đông du kích VC, khi cảm thấy “ấm lòng” và hoàn toàn cảm phục tác phong
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ1C3
lãnh đạo của Người, theo đúng tôn chỉ của các danh Đại khái với tình hình sơ lược về Ta và Địch
nho thời trước: được tóm lược như trên, Trung tá Tỉnh Trưởng Gò
Công vẫn không nao núng, vận dụng tối đa những
“Sinh vi anh - Tử vi thần….” ưu điểm có sẵn trong tay để xông xáo tấn công đồng
Để tưởng niệm công lao của một người đã cống loạt vào địch quân trên các Xã Ấp nào xem ra nguy
hiến cho địa phương Gò Công, xin được tóm lược vài hiểm nhất, ngõ hầu ngăn chặn sự bành trướng của
dữ kiện đánh dấu tiến trình thực hiện kế hoạch bình Cộng sản địa phương, giành lại sự kiểm soát các trục
định và xây dựng tỉnh như sau: lộ giao thông huyết mạch của tỉnh.
1/-Tình hình: Có những yếu tố “chiến lược” mà ông đã nắm
Từ 1961 đến 1964, hầu như quê hương “Khổng vững như sau:
Tước” hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát toàn bộ của
Du kích quân Cộng Sản tại các vùng quê: “Ban đêm a/-Thiên Thời: yếu tố nhân dân thuận lợi , vững
giải phóng, ban ngày quốc gia”. Mặc dù tại đây không vàng nhất. Lập những đoàn Cán bộ Hành chánh Lưu
phải là trụ điểm đóng quân của những đơn vị lớn chủ động đến các Ấp Tân Sinh, triệu tập và huy động các
lực hay địa phương cấp Tiểu đoàn hay Trung đoàn, thành phần thân hào nhân sĩ Xã thôn, để bầu chọn
nhưng nhờ sự quậy phá của bọn du kích xã, ấp, giao gấp những Hội đống Nhân dân Cơ sở nồng cốt từ
liên….bọn chúng thường tự do di chuyển qua lại Ấp, Xã, Quận lỵ lên đến Tỉnh
từ Long An, Mỹ Tho, Kiến Hòa bằng đường bộ hay
bằng đường sông. Từ đó, việc thông tin kêu gọi đồng bào đông
Hầu như mỗi ngày, các Tỉnh lộ 5 Sài Gòn - Gò đảo trong tỉnh tham gia với chính quyền. Nhờ lòng
Công hay Liên tỉnh lộ 4 nối liền Mỹ Tho, Gò Công, yêu nước sẵn có từ thời Trương Công Định đã được
Tân Thành đều bị gián đoạn vì VC đấp mô, đào lộ, nung nấu trong bao thời kỳ chống Pháp với tinh thần
bắn sẽ, giật mìn, đón xe cướp của bắt người… “Nghĩa Binh” tự động tự nguyện đứng lên đánh đuổi
quân giặc Cộng sản tàn bạo, vô thần vô tổ quốc, đi
2/- Lực lượng an ninh Tỉnh: ngược lại đường lối sinh sống an bình theo truyền
Hoạt động mở màn cho công cuộc bình định thống dân tộc của Miền Nam Tự Do…
xây dựng chỉ dựa vào lực lượng cơ hữu sẵn có của hai
quận Châu Thành và Hòa Đồng, rất đúng với câu: b/-Địa Lợi: Triệt để lợi dụng hình thể “bán
“vạn sự khởi đầu nan” . đảo” của tỉnh Gò Công có sông sâu biển rộng bao
Lực lượng Địa Phương Quân có 4 Đại đội cộng quanh: phía Bắc có sông Soi Rạp, phía Đông có biển
với khoảng 20 Trung đội Nghĩa Quân, phần lớn bị Tân Thành Vàm Láng, hai con sông lớn Cửa Tiểu và
chia năm xẻ bảy; tăng cường gác cầu, biệt phái canh Cửa Đại ngăn chặn phía Nam.
gác các doanh trại, các cơ quan quân sự tại Chi Khu,
Quận Lỵ và Tiểu Khu mới thành lập. Kế hoạch ưu tiên của Tiểu Khu là không ngừng
Hai Trung đội Pháo Binh của Tiểu đoàn 72 Pháo đẩy mạnh nhiều mũi tấn công càn quét và thiết lập
Binh; đồn bót then chốt kiên cố dọc theo các xã duyên hải
-02 khẩu 105 ly tại xã Tân Niên Tây. và biên phòng: Tân Phước, Rạch Già, Gia Thuận,
-02 khẩu 105 ly tại quận lỵ Hoà Đồng (xã Vĩnh Vàm Láng, Tân Bình Điền, Bình An, Vĩng Hựu,
Bình) Thanh Nhựt, Cù lao Phú Thạnh Đông…Với mục tiêu
Tuy Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh nhằm cắt đứt và triệt hạ những con đường di chuyển
đặt hậu cứ tại tỉnh lỵ Gò Công, nhưng chỉ hiện diện qua lại của những đơn vị Việt cộng.
một Tiểu đoàn luân phiên về nghỉ dưởng quân. Sau
mỗi đợt tham dự hành quân cho Sư Đoàn khoảng 2 Còn lại, nhiệm vụ chính yếu của Tiểu Khu, Chi
tuần lễ, một Tiểu đoàn được di chuyển về dưởng sức Khu là nỗ lực gia tăng và liên tục mở những cuộc
tại những địa điểm trọng yếu khác nhau, đãm trách hành quân lớn nhỏ ngày đêm càng quét. Lớn thì xữ
luôn nhiệm vụ phòng thủ để bảo vệ Tỉnh hoặc tham dụng oanh tạc bằng những phi cơ của Không Quân
chiến hành quân cấp Tiểu Khu. QLVNCH và kết hợp những phi vụ đặc biệt của Đệ
1Ð1Ặ4C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC Thất Hạm Đội Mỹ. Nhỏ thì tung cùng một lúc nhiều
toán biệt kích cơ động của tỉnh, Cảnh sát Quốc gia,
Trung tâm Chiêu Hồi..v..v..
Truy quét Việt cộng đến đâu, Chính quyền tỉnh
cho tập trung thành lập hoặc tái lập các hạ tầng cơ
sở Xã Ấp và hoạt động ráo riết để phục vụ nhân dân
thôn quê về các mặt y tế bảo sanh, giáo dục, giao
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thông, canh nông…và cũng không quên chiến dịch HỒI KÝ CỦA MỘT
Chiêu hồi! “SĨ QUAN NGHĨA QUÂN”
c/-Nhân Hòa: Chiến thuật “Phản Du Kích Cựu SVSQ/K17
Chiến” với ba mũi giáp công của Bộ TTM/QLVNCH Chu Quang Anh Dũng
đề ra đã thành công mỹ mản. Về mặt nầy, xin được Nguyên Th/T Trưởng Phòng Tổng Quản Trị
nhắc nhở lại để làm bằng: Đích thân Trung Trướng
Trần Ngọc Tám, có một lần đã đến Tổng thanh tra TK Lâm Đồng.
Tỉnh Gò Công và đã công nhận là địa phương xuất
sắc nhất cũng như đã tuyên dương. Cuộc đời binh nghiệp của tôi xem ra cũng có vẻ
đơn giản lắm, ít có chuyện để nói vì chỉ có một việc
3/-Thành quả: làm tại một đơn vị duy nhất, nhưng đã phải trải qua
Kết quả cụ thể được đánh giá thành công vượt đến bảy đời Tỉnh trưởng trong mười một năm, từ
bậc so với các tỉnh khác trong Vùng 4 Chiến Thuật Chuẩn úy sau ngày ra trường đến Thiếu tá trước ngày
cùng thời kỳ. Từng năm một, tình hình an ninh tại tan hàng.
Gò Công trở nên ngày càng sáng sủa ra. Mỗi người
dân trong tỉnh đều chứng kiến thành quả đó. Mọi ĐÁO NHẬM ĐƠN VỊ - TRÌNH DIỆN BCH NGHĨA
người đều hoan nghinh, mọi công dân đều trực tiếp QUÂN TỈNH
được san sẻ, tiếp thu và thụ hưởng nhiều quyền lợi
thiết thực của một đời sống an bình thực sự, tự do và Qua khóa hướng dẩn cấp tốc 10 ngày tại Bộ Tư
công chính. Lệnh Nghĩa Quân đường Chi Lăng Gia Định, 110
Để thay lời kết, người viết xin phép quý độc giả Tân sĩ quan Khóa 17 Thủ Đức nhận được lệnh bổ
xa gần được kính trình một đôi lời tâm niệm, hằng nhiệm đáo nhậm đơn vị mới với ấn ký của Đại Tá
bấy lâu nay đã ấp ủ trong lòng: Trương văn Xương Tư Lệnh Nghĩa Quân đề ngày 13
-Trước hết, xin được kính cẩn nghiêng mình tháng 11 năm 1964. Ngày 13 lại nhằm ngày thứ sáu
trước Bàn thờ Tổ Quốc đã từng ghi công ơn của bao nữa mới chết chứ! Anh em chúng tôi mặt thằng nào
anh linh các vị Đại Anh Hùng Dân Tộc trong quá thằng nấy ai cũng méo xẹo như cái bị một lượt, ngoại
khứ, cũng như của Chư Liệt Vị vừa mới nằm xuống trừ những anh được chọn làm việc tại trung ương.
trong cuộc chiến vừa qua.
-Cung kính khẩn cầu Hồn Thiêng Sông Núi giải Một Sĩ quan trẻ tuổi mà phải về hoạt động tại xã
thoát cho tất cả mau được về quy tụ nơi cảnh Giới ấp thật không còn gì nản cho bằng. Tất cả các bạn
Cao Siêu của Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, cứu cùng khóa họ hiên ngang tung hoành khắp nơi: nào
cánh duy nhất để đến bến bờ giải thoát, tiêu diêu nơi Nhảy dù, nào Thủy quân Lục chiến, nào Thiết giáp,
Miền Cực Lạc. nào Pháo binh…Giá chót cũng Sư đoàn nọ Sư đoàn
-Cầu mong có được một đền thờ bên cạnh Lăng kia. Chỉ còn lại 110 mạng chúng tôi bị gạt một phát
Trương Công Định, Lăng Võ Tánh tại Gò Công, để xuống…xã ấp coi Dân vệ.
tôn thờ một vị Danh Tướng đã nằm xuống, nhưng khi
còn tại thế đã từng đóng góp cho quê hương “Khổng Anh Nguyễn Ngọc và tôi về tỉnh Lâm Đồng.Sáng
Tước”, một thập niên An Bình, Thịnh Vượng, mà thứ hai ngày 23 tháng 11năm 1964 chúng tôi cùng
khả năng phát triển thượng thừa đã vượt qua luôn đến Ban Chỉ Huy Nghĩa Quân tỉnh để trình diện. Đại
biến cố 30-4-75, và còn tiếp tục mãi mãi để vun bồi úy Toàn văn Phương niềm nở tiếp đón hai đứa chúng
sức sống cho các thế hệ mai sau. tôi. Ông nói: “Tôi đang trông chờ các anh về đây tiếp
-Gò Công vẫn giữ được mãi truyền thống, nề nếp, tay với tôi. Đơn vị mới thành lập, mọi thứ đều thiếu
phong tục, văn minh, văn hóa…của một nơi chốn thốn….” Ông nói rất đúng, liếc qua phòng làm việc
được gọi là “Địa Linh Nhân Kiệt”./. tôi thấy chỉ có hai ba anh Hạ sĩ quan và một ông Sĩ
quan an ninh, Thiếu úy Thiềm Bửu Cảnh, Ban chỉ
Nghĩa Quân Đại Việt huy được bảo vệ bằng một Tiểu đội Nghĩa quân.
KBC 4100/K17SQTBTĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ1C5
Sau phần thủ tục thăm hỏi xã giao, Đại úy Phương ông là Chủ lực!”. Ngày hôm sau tôi mới được gặp các
đã truyền lại cho chúng tôi những kinh nghiệm đời Chuẩn úy Lê Quốc Uy và Nguyễn Đức Thành khóa
chiến binh của mình. Khuyên nhủ chúng tôi cố gắng 16 đàn anh đã về các quận đảm trách Chương trình
học hỏi và chu toàn mọi việc hết khả năng. Ông cũng Xây dựng Nông thôn. Lúc nầy tôi mới thực sự cảm
nói nhiều về việc phải cải tổ hàng ngũ Nghĩa quân, thấy hết cô đơn.
quan trọng hàng đầu là phải tận diệt nạn “Nghĩa BẮT TAY VÀO VIỆC
quân ma” trong toàn Tỉnh. Nhiệm vụ nầy phải được
xúc tiến càng sớm càng tốt vì Trung ương đã chỉ thị Nhận bàn giao chức vụ Sĩ quan Phụ trách Nghĩa
gắt gao về việc nầy. Cuối cùng ông dõng dạc kết luận: quân Quận Bảo Lộc thay thế Thượng sĩ Vũ văn Cấp
“Tôi là người chịu trách nhiệm trước Trung ương, trong bầu không khí hài hòa đầy tình anh em tại
các anh chịu trách nhiệm trước tôi. Chúng ta hăng Phòng Nghĩa quân tuy chật chội nhưng ngăn nấp,
hái bắt tay vào việc”. Trước khi ra về, ông cho một bốn bề vây quanh bằng tôn, dỉ nhiên mái cũng được
cái hẹn đưa chúng tôi lên trình diện Trung tá Tỉnh lợp bằng tôn.
trưởng vào ngày hôm sau.
TRÌNH DIỆN TRUNG TÁ TỈNH TRƯỞNG Các Ban lần lượt trình bày tất cả những sinh hoạt
của Ban mình. Đến Ban Tiếp liệu và Ban Tinh thần,
Trung tá Tỉnh trưởng bận tiếp Phái đoàn Cố tôi được dẫn sang phòng bên cạnh để chỉ cho tôi
vấn Mỹ, thầy trò chúng tôi phải chờ cả tiếng đồng biết qua về vụ súng ống đạn dược và một số nhu yếu
sau mới được gặp. Dinh Tỉnh trưởng sang trọng lắm, phẩm do Tỉnh tài trợ như sữa bột, bột mì, dầu ăn…
ngồi chờ mất năm ba phút nữa, ngài Tỉnh trưởng mới THANH TRA THĂM VIẾNG
ló dạng. Chúng tôi lần lượt đứng thẳng người xưng
tên và đọc số quân, trình diện Trung tá Tỉnh trưởng Như đã được dặn dò của thượng cấp, ưu tiên hàng
và đợi lệnh. đầu luôn luôn vẫn là việc bài trừ tận gốc “Nghĩa quân
ma”, nên tôi cho phổ biến lịch trình thanh tra thăm
Ông bắt tay và cho chúng tôi ngồi. Ông người viếng đến các Trung đội Nghĩa quân trong Quận.
miền Trung, khi ông nói cứ “hỉ” tới “hỉ” lui cũng đủ
hết giờ, và coi như ông nói hết mà nói về phần mình Trong đầu tôi lúc nào cũng nghĩ đã là những
không! Ông khoe khoang cùng mình về những công người cầm súng thì phải mặc quần áo giống nhau,
trình, kế hoạch đang tiến hành tại Tỉnh. Tôi lắng nhưng thực tế không phải thế. Họ là những thanh
nghe xem ông có nói gì về việc bài trừ “Nghĩa quân niên tại Xã Ấp được cấp phát vũ khí để bảo vệ an
ma” hay không, thì tuyệt nhiên không thấy gì. Có lẽ ninh, và chỉ có thế thôi. Khi đến thăm một vài Trung
ông nói quá nhiều về mình nên quên bẵng đi chăng? đội ngày đầu rồi đến những ngày sau, ở đâu cũng vậy,
TRÌNH DIỆN ĐẠI ÚY QUẬN TRƯỞNG họ được đoàn ngũ hóa theo một cách lạ lùng, mà lạ
lùng thật.
Sau đó hai đứa chúng tôi nhận sự vụ lệnh về làm
việc tại các quận, anh Ngọc quê ở Tân Xuân Dinh Thứ nhất là áo quần lộn xộn có gì mặc nấy, tây
Linh nên về quận Dinh Linh, còn tôi ở Tân Hà nên ta, đồ đen, đồ xanh, đồ rằn ri…, một vài Trung đội
về làm việc tại quận Bảo Lộc. Đại úy Võ thanh Nhàn người Thượng có anh còn đóng khố nữa. Vũ khí
Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng vui vẽ giới thiệu cũng lộn xộn lắm, súng Mousqueton, súng Mauser,
tôi với ông Lê Hiển Đạt, Phó quận Hành chánh và súng săn loại Shotgun nòng 16. Riêng anh Trung đội
các viên chức hành chánh của quận. Sang phần quân trưởng mặc đồ đen đeo súng lục P38, có dăm ba anh
sự, ông giới thiệu tôi với Thiếu úy Nguyễn Nhâm Chi còn đeo thêm lựu đạn có khía, còn anh liên lạc viên
khu phó và mấy vị Sĩ quan tham mưu. thì mang máy vô tuyến HT1.
Tôi cảm thấy mình không giống ai, chỉ vì lúc đến Những anh em người Việt hiểu được tầm quan
trình diện tôi mặc đồ vàng đeo cà vạt đội mũ kết pi, trọng của thanh tra thăm viếng nên họ lên tinh thần,
đeo lon Chuẩn úy - quen đùa gọi là Thượng sĩ gân một số đề nghị và thắc mắc đượi giải quyết thỏa
- trong khi tất cả những sĩ quan khác đều mặc đồ đáng. Riêng với người Thượng thì có phần hơi khó
trận. Cũng có tiếng xầm xì mỉa mai rằng “ai chả biết khăn vì ngôn ngữ bất đồng và phong tục tập quán
1Ð1Ặ6C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC cũng khác. Quen như mấy Trung đội người Việt, tôi
bày tỏ niềm vui và khuyên nhủ anh em nâng cao tinh
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thần đồng đội. có muốn tôi quất củ bao nhiêu ngày đây thì bảo!....”
Tôi cũng có hỏi một anh trong Trung đội người Ông nói một hồi lâu xem ra cũng hả dạ, sau đó ông
Thượng rằng anh có thích tôi đến thăm anh như thế cho phép tôi được trình bày. Việc đầu tiên tôi cảm ơn
nầy không? Anh ta cười cười và nói: “ờ ghịt”. Anh ông “rất khéo” về những sự chỉ giáo. Tôi xin lỗi đã có
Trung đội trưởng K’Ngéo ( Cà Nghéo !) thông dịch những lời văn không đúng cách của cấp dưới đối với
lại “ờ ghịt” là “không biết”. cấp trên. Sau đó ông cho tôi ngồi và bắt đầu khuyên
tôi lúc mới vào đời thì phải học đời. Riêng tôi không
Sau cuộc thanh tra tôi cũng cảm thấy hơi thất thể hiểu nổi tại sao ông lại đối xử với tôi khác lúc ban
vọng, nhưng kết quả lớn lao nhất là đã mang lại cho đầu, tôi nhớ mãi cái câu ông “dạy” tôi như thế nầy:
tôi một danh sách trên 30 “Nghĩa quân ma”, nghĩa là “Có những cái chướng tai, có những cái gai mắt nó
có tên nhưng không có mặt tại đơn vị. Được biết họ đâm vào mắt mình mà mình vẫn phải để yên…”
đang làm nhiều nghề khác nhau như dạy học, hớt
tóc, chạy xe, sửa xe… Sự việc nầy tôi đã trình bày lại cặn kẽ với Đ/u
DỌA QUẤT CỦ Phương cấp chỉ huy trực tiếp của tôi, nhưng ông chỉ
ừ hữ cho qua, chắc ông cũng thừa biết phép vua thua
Suốt một tuần lễ đi thăm các Trung đội, tôi đã thấy lệ làng. Sau tôi mới biết là ông Tỉnh, ông Phó, ông Ty,
được cái hay cái dở, như Nghĩa quân có nhiều người ông Quận…ông nào cũng có nuôi nghĩa quân dưới
trùng tên nhau thường gây trở ngại cho việc quản trị nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy ngài Phó đánh
nhất là trong việc phát lương, tôi cấp phát ngay cho phủ đầu tôi xong rồi vuốt. Đúng ra, việc rút nghĩa
mỗi người một “số quân” bắt họ phải học thuộc lòng, quân biệt phái trở về tôi phải trình lên Đ/u Phương
muốn lãnh lương phải đọc đúng số quân đó. Kết quả mới đúng nguyên tắc tham mưu. Dẫu sao, đây cũng
rất khả quan, cụ thể là đã chận đứng được ngay cái là một bài học quý giá, một kỷ niệm nhớ đời đối với
nạn nghĩa quân đã đào ngũ nhưng không chịu báo tôi.
cáo để xóa tên. NGUỒN GỐC NGHĨA QUÂN
Danh sách trên 30 Nghĩa quân với lý do biệt phái, Trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, lực lượng bảo vệ
tôi đã gởi văn thư đi các cơ quan trong tỉnh yêu cầu an ninh thôn ấp do Dân vệ đảm trách. Trước năm
cho về trình diện Ban Nghĩa quân Quận trong thời 1954, các làng Tề ngoài Bắc thường gọi là Hương
gian ấn định, trễ hạn sẽ báo cáo đào ngũ và xóa tên. Dũng với đồng phục đen được trang bị bằng vũ khí
Hầu hết các Ty Sở trong tỉnh đều có Nghĩa quân biệt cũ sau Thế chiến thứ 2. Càng về sau, nhu cầu an ninh
phái để làm việc mà chẳng thấy người đâu cả. Hỏi kỹ xã ấp càng đòi hỏi cho nên những thanh niên từ
ra mới biết họ là con cháu mấy ông lớn hoặc giã có 18 tuổi đến 45 được kêu gọi đoàn ngũ hóa lấy tên
sự xin xỏ chạy chọt qua cửa sau. Vì “điếc không sợ là Thanh niên Chiến đấu. Lực lượng Dân vệ sau đó
súng”, nên cơ quan nào tôi cũng “yêu cầu phải cho về được đổi thành Nghĩa quân hoạt động song hành với
trình diện”! Thanh niên Chiến đấu. Khoảng năm 64-65, Thanh
niên Chiến đấu lại được cải tuyển thành Nghĩa quân.
Thiếu úy Hồ Quảng Hưng Trưởng Phòng 1 Tiểu
Khu gọi tôi lên trình diện, mắng phủ đầu về việc gởi Nghĩa quân không có cấp Đại đội, mà chỉ có
văn thư vượt hệ thống chỉ huy, không những thế lời từ cấp Trung đội trở xuống, dưới có cấp Tiểu đội và
lẽ lại càng thiếu nhã nhặn mang tính cách “ra lệnh”. Nghĩa quân viên. Trung và Tiểu đội trưởng do Tỉnh
Ông Hưng nói ngày mai lên trình diện ông Tỉnh trưởng ký quyết định bổ nhiệm và được hưởng lương
trưởng rồi sẽ hay. phụ cấp chức vụ, do ngân sách Tỉnh đài thọ. Ngoài
lương hướng hàng tháng, Nghĩa quân còn được cấp
Hôm sau tôi vào trình diện Thiếu tá Nguyễn Thanh phát thêm bột mì, dầu ăn, sửa bột và mở trừu…
Văn Phó Tỉnh trưởng Nội an thấy mặt ông hầm hầm. CẢI TỔ CƠ CẤU TIỂU KHU
Mất một vài giây choáng váng, tôi nghĩ ngay đến
những việc chẳng lành đang đến. Mặt ông vác hất Để phù hợp với tình hình chiến sự, cơ cấu tổ chức
lên, nhìn thẳng vào tôi ông nói bằng một giọng tức Tiểu khu được biến cải qua nhiều giai đoạn, tạm thời
tối hách dịch : “Anh phải về dạy chú mày bữa nay- ra có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
tường được bao lâu- viết văn thư như thế mà cũng
đòi viết à!- anh là cái thá gì mà dám cả gan ra lệnh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ1C7
yêu cầu Tỉnh cho nghĩa quân về trình diện anh?- anh
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
-Giai đoạn I khởi sự vào năm 1965 KẾT LUẬN
Ban Chỉ Huy Nghĩa quân Tỉnh va Ban Chỉ Huy
Địa phương quân Tỉnh được giải thể và sát nhập Trong suốt 11 năm, qua bảy đời Tỉnh trưởng với
vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu lấy tên chung là BCH Địa một đơn vị, một việc điều hành nhân viên tại Tỉnh
Phương Quân- Nghĩa Quân Tiểu Khu. Lâm Đồng, tôi cảm thấy trách nhiệm cùng mình, lúc
Tiểu khu thống nhất chỉ huy và Bảng cấp số mới nào cũng bận bịu như nuôi con mọn. Chăm lo cho
được chính thức áp dụng từ đấy. Trong thời gian một người lính từ lúc họ nhập ngũ, dẫn họ đi huấn
chuyển tiếp, dĩ nhiên cũng có gặp nhiều trở ngại lúc luyện rồi bổ sung cho các đơn vị. Lo hồ sơ thăng
ban đầu. Riêng tôi được điểu động về Phòng 1 Tiểu thưởng, chạy huy chương, lập hồ sơ hưu bổng khi
khu đặc trách quân số Nghĩa quân. đáo hạn tuổi.
-Giai đoạn II vào năm 1968 Những chiến sĩ đền nợ nước, việc hậu sự được
Sang giai đoạn nầy, Bảng cấp số được tu chỉnh lại lo liệu rất chu đáo. Hồ sơ truy thăng truy tặng, hồ sơ
cho phù hợp với hiện trang nhu cầu. Riêng về việc tử tuất, hưu bổng chuyển quyền….lúc nào cũng chu
điều hành nhân viên, Phòng 1 Tiểu khu được tách đáo và mau lẹ.
ra một số nhân viên để thành lập Trung đội Quản
trị Nhân viên đặt trong doanh trại của Trung tâm Tôi tự hào đã làm đầy đủ bổn phận của một
Yểm trợ Tiếp vận hầu trực tiếp với Ban Quân lương. sĩ quan quản trị nhân viên với một tấm lòng trong
Riêng Phòng 1 lo về tham mưu quản trị chỉ số và trắng, không vướng mắc, không nợ nần bất cứ với
nhiều kế hoạch tham mưu khác. một chiến binh nào./.
Trung đội Quản trị Nhân viên quản trị chỉ danh,
thuyên chuyển bổ nhiệm, huy chương thăng thưởng, Chu Quang Anh Dũng
hồ sơ cá nhân…Sau khi tốt nghiệp Khóa Sĩ quan Căn Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ
bản Tổng quản trị, tôi trở về nắm Trung đội trưởng
Trung đội Quản trị Nhân viên. Hơn một năm sau, Bài cho người tình Văn Khoa
Trung đội nầy được nâng lên Phòng Tổng Quản trị,
đặt ngay trong Bộ Chỉ Huy Tiểu khu. Ta gặp gỡ nơi cổng trường Văn Khoa đó
Anh Kaki, em áo trắng học trò
-Giai đoạn III vào năm 1975 Ngỏ lời quen anh chỉ biết: thưa cô
Bảng cấp số mới một lần nữa lại được ra đời. Tiểu Em cú mặt cắn môi cười mắc cỡ
Khu được tổ chức thành ba Khối. Khối Hành chánh
Tiếp vận gồm Phòng 1 Tổng Quản Trị và Phòng 4, Rồi cũng qua phút ban đầu bỡ ngỡ
Khối Hành quân&Huấn luyện gồm Phòng 2 Phòng Em mộng mơ anh khắc khoải mong chờ
3 và Phòng Truyền Tin, riêng Khối CTCT vẫn giữ Viết thư tình anh ngỏ ý đơn sơ
nguyên nhưng có sát nhập của Đại đội CTCT. Tim rộn rã đón tình vừa chớm nở
PHƯƠNG THỨC QUẢN TRỊ VÀ SỬ DỤNG
NGHĨA QUÂN Em trễ hẹn để lòng anh nhung nhớ
Thoáng nao nao trong những phút mong chờ
Nghĩa quân chưa có Sắc lệnh ấn định quy chế, Tập tễnh yêu nên hay sợ vu vơ
nhưng được cải tổ toàn diện, vũ khí quân trang quân Vẫn biết nếu mình yêu mình sẽ khổ
dụng được trang bị đầy đủ của một chiến binh. Họ
được cấp phát số quân mới, lập hồ sơ cá nhân, chụp Chiều chủ nhật giáo đường ta khấn nguyện
hình lăn tay khám sức khỏe. Lương bổng do ngân Xin Chúa thương dẫu năm tháng có dài
sách quốc phòng đài thọ, không còn lệ thuộc vào Lạy Chúa cao, Chúa ngự trị ba ngai
ngân sách Tỉnh hạt như trước nữa. Xin Chúa giúp chúng con yêu nhau mãi
Nghĩa quân không phải thi hành Quân dịch, Trần Quốc Sĩ
nhiệm vụ chính yếu vẫn là bảo vệ an ninh thôn xóm.
Đôi khi nhu cầu an ninh đòi hỏi, Nghĩa quân cũng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tham gia một vài cuộc hành quân tăng phái như an
ninh lộ trình, canh gác cầu cống…
1Ð1Ặ8C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
MỘT CÁNH HOA DÙ TRONG VÒNG GAI THÉP ĐỎ
Mũ đỏ Lệ Nhân
“Để tưởng nhớ đến Thiếu Tá Trần văn Châu - Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù -
Cựu SVSQ Khóa 17 SQTB/TĐ”
Tốt nghiệp Khóa 17 SQTB/TĐ, Trần văn Châu Ban 2 Lữ Đoàn.
được tuyển về Nhảy Dù với vài người bạn đồng khóa. Năm 1974, Nhảy Dù kéo vào tăng cường cho mặt
Mới đầu Châu phục vụ ở TĐ1ND rồi TĐ6ND, theo
đơn vị hành quân ở khắp bốn vùng chiến thuật với trận Đà Nẳng. Lữ Đoàn 1 Dù trực chiến tại Đồi 1062
chức vụ Trung Đội Trưởng. Năm 1967, sau chiến Thường Đức, còn Lữ Đoàn 3 nằm tại Phước Tường.
thắng lẫy lừng ở Đồi 1416 ở Dakto Vùng 2 chiến Phi trường Đà Nẳng luôn bị pháo kích, Bộ Tư Lệnh
thuật, Châu bị thương rồi được thuyên chuyển về làm giao trách nhiệm cho Lữ Đoàn 3 ND đặt đài quan sát
Phụ tá Ban 2, rồi Trưởng Ban 2 cho Chiến Đoàn 3 tại đồi 750, một cao điểm có thể quan sát khắp vùng
Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Khoa Nam. để phát hiện vị trí súng địch. Đài quan sát trực thuộc
Ban 2, Châu rất khổ tâm vì có đài quan sát rồi mà
Ngày Đại Tá Nam lên Tướng và đi nắm chức vụ phi trường vẫn bị pháo kích và luôn bị cấp trên trách
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, có ý muốn kéo Châu đi móc. Với tinh thần trách nhiệm và với tính xông xáo,
theo nhưng Châu từ chối vì không muốn rời bỏ Nhảy Châu xin Tr/T Phát cho lên đài quan sát để: “xem tụi
Dù. Sự thực chỉ với một vài người bạn thân Châu mới nhỏ làm ăn ra sao, chứ cứ ngồi đây chờ báo cáo với
tâm sự: “Ổng khó bỏ mẹ, lúc nào cũng rếch-lô, làm chờ bị chửi rầu quá!”.
việc với ổng còn hơn làm công chức”. Mà có ở với
Tướng Nam rồi mới biết, trực Trung tâm Hành quân Sau năm ngày lên sống và làm việc với các đệ tử,
cũng phải để nón sắt bên cạnh, bi đông nước luôn Châu trở về râu ria mọc ra tua tủa. Châu vào trình
phải đầy, và dĩ nhiên súng ống luôn kè kè bên mình. diện Tr/T Phát rồi trở ra thở dài: “Có thấy mẹ gì đâu!
Mang tiếng là Đài quan sát mà chỉ có hai mạng với
Châu cao ráo trắng trẻo, lại có hàm râu quai nón một máy PRC 25 và một cái ống nhòm mà bắt trực
dù luôn cạo nhưng vẫn lấm chấm màu xanh nhìn cứ 24/24 thì chịu gì nổi. Ở trên đó lạnh muốn chết, gió
như Tây lai. Một thời gian dài ở với Tướng Nam có thổi lồng lộng, đứng ngoài chừng 10 phút là chảy
lẽ cũng bị ảnh hưởng tình cẩn trọng của vị chỉ huy nước mũi, ở đó mà quan sát. Mà tụi VC chỉ pháo lén
khả kính mà Châu cũng trở thành mẫu mực. Trải như thằng ăn trộm, lâu lâu nó xịt một quả rồi lặng
qua thêm mấy đời Lữ Đoàn Trưởng, Châu vẫn được mất tiêu chứ có bắn nhiều đâu mà phát hiện!”. Mà
tín cẩn. Chả thế mà năm 1972 sau chiến thắng An quả đúng như vậy, một lần thấy điểm pháo, phản
Lộc, Châu được thăng cấp Thiếu tá. Mùa Hè Đỏ Lửa pháo rồi đổ quân xuống, chỉ thấy mấy ống tre được
tại Quảng Trị, Nhảy Dù gần như đóng đô tại Quân dựng làm giàn phóng, còn địch chẳng thấy dấu vết gì.
Khu I. Đại tá Trương Vĩnh Phước về làm Tư Lệnh
Phó, giao Lữ Đoàn 3 ND cho Đại tá Văn Bá Ninh rồi Đầu năm 1975 Ban Mê Thuột bị thất thủ. Sư
Trung tá Lê văn Phát, và Châu vẫn giữ chức Trưởng đoàn Nhảy Dù được lệnh về Sài Gòn, nhưng riêng Lữ
Đoàn 3 ND với các Tiểu đoàn 2, 5, 6 đi tàu hải quân
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ1C9
về Nha Trang rồi trực chỉ Khánh Dương. Chỉ được ít tiền trạm và tăng phái. Châu đã liều lĩnh và có quyết
lâu Nha Trang hổn loạn, BTL Quân Đoàn II di tản và định đúng. Đoàn xe về tới Phan Rang chẳng có biến
Khánh Dương bị tràn ngập, BCH Lữ Đoàn 3 ND bay cố gì. Nhìn lại đàng sau đoàn xe dài dằng dặc vẫn
về Phan Rang, thành phần còn lại do Châu chỉ huy chưa ra hết thị xã Ba Ngòi và cả đêm vẫn tiếp tục đổ
rút bằng đường bộ về Cam Ranh. Lệnh là về Cam dồn về Phan Rang.
Ranh để lên tàu vô Sài Gòn, nhưng phải khó khăn
lắm mới tới được Cam Ranh vì đường bị kẹt cứng bởi Nhưng mọi người đã biết, ngày 30 tháng 4 đen
các đơn vị, các quân trường với đủ loại xe cộ dành tối ập đến. Sau những ngày kinh hoàng và lo lắng,
nhau tháo chạy. Châu cùng những người còn kẹt lại vác ba lô đi trình
diện “học tập”. Tôi gặp lại Châu ở Long Giao rồi Suối
Cam Ranh đóng cửa không vào được, đoàn quân Máu Tam Hiệp. Đứng trong vòng rào kẽm gai nhìn ra
như rắn mất đầu không còn liên lạc được với ai. Các ngoài, mắt Châu buồn vời vợi. Một lần Châu thì thầm
đơn vị bạn kéo về đóng la liệt chung quanh Ba Ngòi, với tôi: “Trốn mầy!”. Tôi lạnh xương sống, hiểu rằng
cũng mất liên lạc và cũng chẳng có ai chỉ huy tổng Châu gợi ý, nhưng lúc đó không dám nhận mà cũng
quát, nên mạnh ai nấy lo và cùng nháo nhác. Không không dám từ chối. Rồi xảy ra việc ba anh Nguyễn
đơn vị nào dám đi tiếp vì nghe nói đường về Phan Hào Thịnh, Trần văn Tư và một anh nữa tên Em trốn
Rang bị cắt, cầu bị giật sập và có đóng chốt, nên thị trại và bị bắt.
trấn Ba Ngòi càng bị dồn cục. Tới chiều, Châu họp
các đơn vị còn lại của Lữ Đoàn và quyết định đi về Riêng anh Tư bị chúng bắn chết ngay ngoài
Phan Rang, đụng đâu đánh đó chứ không lẽ nằm đây hàng rào, còn anh Thịnh và anh Em bị đem ra xử.
chịu chết. Chỉ có các láng trưởng được đại diện đi xem phiên
xử, còn lại thì nghe bằng loa phóng thanh. Mọi người
Phải nói là Châu đã có quyết định đúng vì lúc hồi hộp theo dõi, chỉ nghe chúng đọc cáo trạng xỉ
đó Châu mang cấp bậc lớn nhất. Đúng vì nếu không vả còn hai anh chẳng được nói một lời. Cuối cùng
đi cứ nằm lại tại đây, Cam Ranh sẽ trở nên hỗn loạn chúng tuyên án tử hình rồi nghe hai tràng AK nổ,
và thảm cảnh Đại lộ kinh hoàng ngoài Quân Khu I nghĩa là xử xong chúng lôi ra bắn ngay ngoài phòng
và mới đây tại Tỉnh lộ 7 của Quân Khu 2 chắc chắn xử. Trời hôm đó đang quang đảng nhưng bỗng nhiên
sẽ xảy ra. Tàn quân của Lữ Đoàn 3 Dù do Châu chỉ mây đen kéo đến tối sầm lại. Các anh em ở trại Suối
huy phải lòn lách mãi mới ra được khỏi Cam Ranh và Máu năm 1976 chắc còn nhớ thời điểm bi thảm và
hướng về Phan Rang. Các đơn vị nằm hai bên đường hiện tượng bất thường đó. Tôi thấy Châu khóc, chẳng
nhao nhao mừng rỡ: “Nhảy Dù mở đường! Nhảy Dù biết nói gì ngoài việc bóp nhẹ vai Châu như chia sẻ và
mở đường!”. Tất cả phóng lên xe nối đuôi chạy theo. cũng ngầm nhắc Châu cẩn thận.
Nhảy Dù, hai tiếng đó tạo niềm tin cho các đơn vị. Ít lâu sau đến ngày 19/6/1976 thì tất cả bị lùa
Nhảy Dù đi trước làm cho họ phấn khởi. Nhảy Dù xuống tàu Sông Hương đậu ở Tân Cảng Sài Gòn để ra
làm một việc mà không ai dám làm, nhất là trong lúc Bắc. Sau mấy ngày khốn khổ lênh đênh trên biển thì
thập tử nhứt sanh. Họ đâu có biết rằng Nhảy Dù lúc tới cảng Hải Phòng vào buổi chiều thời tiết âm u. Rồi
đó chỉ là lính văn phòng của Lữ Đoàn 3 với các toán lại bị lùa lên tàu hỏa đi Yên Bái và thất lạc Châu từ
1Ð2Ặ0C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ngày đó. Tôi về Sơn La còn Châu về trại nào không rõ.
Ở Sơn La được khoảng một tháng thì tôi lại chuyển
trại về nông trường trà Trần Phú ở Nghĩa Lộ.
Ngày đến trại mới thì thấy xôn xao, nhìn ba người
tù đang bị trói và bị đánh té lên té xuống. Hỏi ra là ba
anh trốn trại bị bắt lại và bị gởi qua nhập chung trại,
chưa biết là ai vì cả ba sau đó bị nhốt xuống hầm tối
mấy tháng trời. Tới khi ba anh được thả trở về mấy
láng để đi lao động như mọi người, thì mới biết họ
tất cả bốn người, ba người bị bắt lại và một người bị
chết, mà người chết lại là “Châu Nhảy dù” !
Một lần nữa tôi lại lạnh xương sống, chợt nhớ
tới câu gợi ý của Châu ngày còn ở Tam Hiệp. Châu
đã nuôi ý vượt ngục từ lâu lắm và khi mới ra tới đây
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
là thực hiện liền. Mãi mới có dịp gặp lại một trong * Đôi dòng viết thêm:
ba đồng cảnh của Châu để hỏi. Gặp Phong, một Đ/u Đại úy Phong thuộc Tiểu khu Cao Lãnh người
thuộc Tiểu Khu Cao Lãnh, người có vẽ lì lợm nhất.
Phong cười buồn: cùng trốn trại với Châu thật có duyên với Nhảy Dù.
Chuyển trại về Tân Kỳ Nghệ Tỉnh, một lần nữa vào
-Anh Châu rủ tụi tôi, bốn ngưới nhắm hướng năm 1980 Phong lại trốn trại, và lần nầy anh cùng
Tây tính đi qua Lào rồi tìm đường xuống Thái Lan, trốn trại với một Nhảy Dù khác, Thiếu tá Trương văn
đi mấy ngày đói lã vì hết lương thực. Tính vào được Vân TĐPhó TĐ 2 ND. Nhưng lần nầy cũng thất bại,
rừng rồi sẽ tìm kế mưu sinh, nhưng rừng miệt nầy cả toán bốn người đã bị bắt và lại bị những đòn thù
toàn là gay góc chẳng có thứ gì là ăn được. Anh Châu tơi tả.
lại bị đau không đi nổi, tụi tôi cố dìu anh nhưng đói
quá nên bàn nhau để anh nằm lại, đi tìm lương thực thư xuân em gái hậu phương
đã rồi trở lại đón. Anh Châu cũng đồng ý và bảo tụi
tôi nếu cần cứ đi đừng nghĩ tới ảnh. Ảnh nói vậy chứ em là cô bé mắt đen
ai nỡ bỏ. môi thơm ôm những chiếc răng ngọc ngà
“Tụi tôi tìm được một xóm người Mán, có mấy cho em mặc sức cắn ta
thứ quý giá như đồng hồ với một ít vàng đưa cho họ, càng sước nhiều vết thiết tha càng nồng
chỉ xin đổi ít gạo hay thứ gì ăn được. Họ nhìn tụi tôi
như dò xét nhưng rồi cũng đổi cho mấy đấu gạo và em là cô bé má hồng
cho thêm một miếng thịt heo rừng nữa. Ra ngoài xa có hai cái lúm chờ trồng thi ca
nấu ăn một bụng rồi tìm lại chỗ anh Châu nằm tính
cho ảnh ăn rồi đi tiếp. Trở lại chỗ cũ không thấy ảnh, ta mơ màng được lân la
cũng không thể lạc được vì khi đi tụi tôi có làm dấu tỉa lén từng nụ tình ca bốn mùa
và về đúng chỗ cũ mà sao không thấy ảnh.
em là cô bé thích mưa
“Ba đứa túa nhau đi tìm, vừa lo cho ảnh mùi hương mít ướt sáng trưa thơm lừng
mà cũng lo cho mình, nếu không ra khỏi chỗ nầy
thì nguy hiểm lắm. Biết thì biết vậy nhưng chưa kịp không cần dây buộc vào chân
tính gì thì tụi nó ập đến. Lẫn trong đám dân quân ta bước không khỏi chéo sân quê tình
có cả người Mán mà chúng tôi đã đổi gạo, thôi rồi,
nó đi báo cho dân quân chứ ai! Bọn nó trói tụi tôi lại em là cô bé thông minh
rồi hành hạ đủ điều. Tôi nghĩ chắc anh Châu đã bị cánh tay áp sát thân hình lưng ong
bắt trước rồi, chứ ảnh yếu làm sao đi khỏi chỗ ấy xa
được. Nhưng tới nay về đây được mấy tháng rồi chả ta đi không biết mấy vòng
thấy ảnh đâu. Chắc chết rồi…mà chết như thế nào để rồi quị gối vào lòng bao dung
cũng không biết nữa!
thư em từng chữ bọc nhung
Phong chấm dứt bằng những cái lắc đầu. Tôi từng câu bọc lụa khiêm cung thật thà
về láng nằm lịm để nghĩ về Châu. Không phải mấy
tháng đó biệt tin Châu, mà cả mấy năm sau nầy ta là “lính trận miền xa”
chuyển đi nhiều trại cũng không có tin tức gì thêm. nhưng hồn đang quẩn hiên nhà của em
Chắc hẳn Châu đã chết vào những ngày tháng đó.
Núi rừng Việt Bắc nổi tiếng là rừng thiêng nước độc chỉ nhìn không dám đọc tên
chắc đã vùi lấp thân xác Châu rồi. đã vang từng tiếng nhịp tim nồng nàn
Đã hơn hai mươi năm trôi qua, năm nay nhân đêm nay chắc được mơ màng
dịp Xuân về lại thắp lên một nén nhang để tưởng ngay trong phiên gác rừng hoang sao trời
nhớ về Châu, một chiến sĩ Mũ Đỏ, một cựu SVSQ
Khóa 17 Thủ Đức, đã chọn cho mình một cái chết Luân Hoán
hào hùng bất khuất.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ1C21
Lệ Nhân
Khóa 17 TBTĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
LÊN NÚI TÌM CHỒNG
Trần Thị Đông Phương
Hiền Thê của một Cựu SVSQ/
K17TĐ
“Chuyện đã xưa, nhưng xin viết lại để không quên mối thù nầy”
Sau sáu năm dài, ngày nầy qua ngày khác tôi mong mặt yêu dấu của chồng, nhất là khi nghe thằng con út
ngóng tin tức của chồng nhưng vẫn biệt mù, không đọc thư oang oang, tôi cũng vui được đôi chút và cầu
một ai trong tất cả những người đàn bà có chồng nguyện xin ơn trên che chở cho chồng, cho đồng đội
đang ở các trại tập trung cải tạo, biết chồng mình của anh được sống sót trở về.
sống chết ra sao, khỏe yếu thế nào, tất cả đều mù
tịt. Họa hoằn tôi mới nhận được một mảnh giấy với Lần nầy thì đúng là thư thật vì được viết dài hơn
vài dòng như công thức định sẵn. Bao giờ cũng là… một trang giấy, tuy không được kể lễ tâm tình, nhưng
anh đang học tập tốt, lao động tốt…em yên tâm… bù lại anh hướng dẫn tôi phải làm những gì để được
Tôi đang giữ trong túi 4 miếng giấy, cũng chỉ có bấy chấp thuận cho đi thăm nuôi. Việc đầu tiên là tôi
nhiêu chữ. phải mang thư và giấy thăm nuôi của trại gởi về, kèm
theo hộ khẩu, đến phường để được xác nhận giấy tờ
Hôm nay tôi thu xếp hàng đem gởi nhà người mang theo là đúng, tình trạng cư trú hợp pháp và là
quen để về sớm hơn thường lệ. Trong nổi khốn cùng, vợ chính thức của anh ấy. Phường chứng thật xong
tôi cũng gặp được điều may - Chị Liệu vợ anh Lượng, rồi viết thêm mấy chữ giới thiệu lên Quận để được
họ là bạn của gia đình tôi - Anh chị Lượng trước 30- chính thức cấp cho giấy đi đường, cho phép đến trại
4-75 có tiệm buôn bán xe đạp, xe gắn máy và đồ phụ cải tạo thăm chồng.
tùng, thuộc loại lớn ở Ngã Bảy ngay đầu đường Minh
Mạng. Lên đến Quận lại thêm một lần may mắn, trong
lúc ngồi chờ duyệt xét giấy tờ, tôi gặp được các chị
Từ lúc 9 giờ sáng ngày 30-4-75, anh Lượng cũng cũng xin giấy đi thăm nuôi chồng. Hỏi ra thì được
là quân nhân, chạy ra bến Bạch Đằng và biệt tích cho biết các chị ấy là vợ anh Tâm KQ, vợ anh Bình BĐQ,
đến bây giờ, thoát hay chết không ai biết được. Chị vợ anh Đỗ văn Nhĩ thuộc SĐ18BB, và cô Tuyết đi
Liệu là bạn học với tôi ở lại với 6 đứa con, tiếp tục thăm hai người anh ruột là anh Lê Hoàng Nghi cùng
bán đồ xe đạp, chỉ là đồ xe đạp thôi, vì nhà cửa kho trại Lam Sơn Thanh Hóa, sau đó đi tiếp ra trại Ba Sao
hàng bị tịch thu. để thăm anh hai là Tướng Lê Minh Đảo.
Liệu đã thương tình nhường lại cho tôi một số Dù chưa lên đường nhưng chúng tôi đã thấy mối
đồ phụ tùng để bán lẻ nơi lề đường. Hai chị em mỗi cảm thương dành cho Tuyết sẽ phải lặn lội cơ cực đi
sáng trải chiếc poncho của chồng để lại, bày trên đó thăm cùng một lúc hai người anh đang trong lao tù
những thứ phụ tùng xe đạp. Trời cũng còn thương kẻ cộng sản. Sau vài phút làm quen vì cùng cảnh ngộ,
khốn cùng, nên những chú Bắc Kỳ vào Sài Gòn vẫn nên chúng tôi thân nhau nhanh chóng, hẹn nhau
thích tìm mua, nhờ vậy nên mẹ con tôi vẫn còn được mua vé xe lửa để được đi cùng chuyến và cùng toa xe,
ngày hai bửa cơm. để được trò chuyện hàn huyên, hy vọng quên đi vất
vả dọc đường.
Tôi về sớm vì đứa con lên chỗ bán hàng cho hay:
“Mẹ! Có thư của Bố kèm phiếu thăm nuôi, Bố dặn Có giấy phép cho đi Thanh Hóa thăm nuôi chồng
cách xin giấy đi thăm, Mẹ về coi thì mới biết được”. rồi, tôi bắt đầu lo tiền để mua sắm thức ăn, vì ở nhà
Sau sáu năm xa cách, tuy chẳng hề được nhìn mặt chẳng còn gì mấy lon gạo và vài ký khoai mì hợp
nhau một giây, nhưng dù vài chữ tôi cũng đủ thấy ấm tác xã vừa bán theo hộ khẩu. Vật dụng thì còn cái
lòng. Nhìn nét chữ của anh, tôi hình dung ra khuôn tủ lạnh, biết bán nó cho ai bây giờ? Nhìn quanh tôi
1Ð2Ặ2C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đang trơ trọi một mình, gia đình chồng thì chưa liên người nồng nặc cả toa, mỗi lần bị đụng chạm hay xô
lạc được, suy nghĩ đến đau cả óc, cuối cùng tôi phải lấn, lũ gà vịt kêu réo oang oác, hai con heo cũng la
cầu cứu đến mẹ: eng éc phụ họa.
-Mợ ơi! Tuần sau con đi thăm chồng ở Thanh Từ thủa bé tôi chưa được đi xe lửa lần nào, nay
Hóa, con chỉ còn đúng có 30 đồng và mấy lon gạo, là lần đầu tiên nên cảm thấy khó chịu, nhưng rồi tự
con phải làm gì bây giờ hở mợ? - Mẹ tôi im lặng suy an ủi “Có chỗ cho mình đi là may rồi”. Chị vợ anh
nghĩ giây lát rồi nói: Nhĩ thì thật nhanh nhẹn và mau mắn, chị vượt lên
trên trước, loay hoay thế nào mà kiếm được một
-Con xem có còn cái gì bán được thì bán đi, Mợ sẽ chỗ trong góc toa. Chị gọi chúng tôi mang đồ vào để
nói các em mày nó phụ mỗi đứa một chút. Cố gắng chung một chỗ cho dễ canh chừng. Chị Nhĩ căn dặn:
đi con ạ! - Bố tôi nghe được, ông thở dài và quyết “Chị em mình có ngủ thì chia làm hai, một nửa thức
định thật nhanh; giữ đồ đạc, lơ đểnh là chúng nó lấy mất”.
-Đừng lo, cậu còn cái máy chụp hình Canon, bây Tiếp theo chị ghé tai từng người nói thật nhỏ:
giờ cũng chẳng cần đến nữa, Cậu cho con, đem lên “Nếu có tiền hay vàng phải giữ thật kỹ coi chừng bị
nhờ cô Liệu quen biết nhiều bán giúp, lấy tiền mà đi cắt túi, mấy thằng móc túi nó lẹ và ma mãnh lắm”.
thăm nó. Chúng tôi cố thu xếp cho nhau để mỗi người có được
một chỗ ngồi, lúc ngũ thì dựa người trên mấy gói
Tủi thân thế đấy! Lấy chồng làm quan bao nhiêu đồ hoặc gục trên hai gối mình. Nhưng có lẽ không
năm, giờ lại vẫn phải dựa vào vòng tay cha mẹ để ai ngủ đúng nghĩa, mà chỉ thiếp đi trong cơn mõi
nương nhờ. Bán chiếc máy ảnh, tôi bán luôn chiếc mệt, hoặc chập chờn theo âm điệu của các bánh sắt
nhẫn cưới một chỉ vàng đang đeo trên tay. Tạm đủ nghiến trên đường ray.
để mua vé xe lửa và ít đồ khô, theo sự ấn định cho
phép của “cách mạng”. Riêng các em tôi được mẹ tôi Con trai tôi thì quên cả chật chội, chẳng quan tâm
hô hào, đã xúm nhau mỗi đứa cho một ít đồ ăn khô đến mùi hôi hám trên tàu, len ra chỗ hai toa tàu nối
và chút tiền. nhau có chỗ cho người đứng, dõi mắt nhìn say mê
cảnh vật hai bên đường. Chỉ đến lúc thật mỏi mắt
Tôi đã tưởng tượng thật nhiều về chuyến đi tìm mới trở vào chỗ, tội nghiệp cháu, nó sợ tôi đói và
chồng lần đầu, bao nhiêu ngày đêm mòn mõi nhớ mỏi mệt nên thỉnh thoảng lại nhắc chừng; “Mẹ ăn gì
thương, lẫn hận thù oán ghét kẻ đã giam cầm chồng chưa? Mẹ có khát nước không?....”
tôi. Tuy suy đoán, gặp nhau chắc anh mừng lắm, tôi
sẽ được sờ lên mặt, cầm tay chồng, dù chỉ chốc lát Hành trình khởi sự từ ga Hòa Hưng Sài Gòn đến
nhưng cũng đã cho tôi niềm an ủi và yên tâm tần tảo ga Thanh Hóa vừa mất đúng 3 ngày 3 đêm, tàu vào
nuôi con chờ anh về. Đã sáu năm, cà hai chúng tôi ga Thanh Hóa lúc 9 giờ sáng. Chúng tôi vội vàng giúp
đang bắt đầu vào tuổi già, chúng tôi đã cùng ngoài nhau khiêng vác đồ thăm nuôi xuống đặt cạnh đường
bốn mươi. ray. Tất cả đều ngơ ngác nơi chốn lạ quê người, chúng
tôi lấy thư của chồng ra coi lại trong đó có chỉ dẫn
Đúng 5 giờ sáng một ngày chủ nhật, tôi và thằng của trại tù viết trên giấy.
con trai thứ ba, mang đồ đạc ra ga xe lửa. Thật ra đồ
thăm cũng chỉ có trong hai cái giỏ đệm và mộttúi Chúng tôi đi về cuối nhà ga, gặp hai người tù hình
nhỏ đựng vật dụng riêng của hai mẹ con được cháu sự do một công an có súng đứng đợi sẵn. Một trong
đeo sau lưng. Tới nhà ga, tôi gặp đủ những chị đã gặp hai anh tù hỏi: “Các chị có phải ‘nà’ người đi thăm cải
ở quận khi đi xin giấy, ngoài ra còn có các chị đi thăm tạo trong trại ‘lăm Nam Sơn (5, Lam Sơn) không?”.
chồng ở các trại khác như Thanh Cẩm, Thanh Lâm, Chúng tôi trả lời đúng, lúc đó người công an mới lên
Kỳ Anh (Nghệ Tĩnh)… tiếng:
Có lẽ đây là lần đầu, nên số người đi ra Bắc tìm “-Bọn tôi đợi ở đây để giúp các chị chở tiếp phẩm
thăm chồng khá đông. Chúng tôi không đủ tiền để vào trại. Hai thằng nầy sẽ đánh xe trâu đến đây để
mua vé tàu suốt, nghĩa là chạy thẳng không ghé các xếp đồ lên, chỉ chở đồ đạc thôi nhé, người đi bộ theo
ga nhỏ, chúng tôi mua vé tàu chợ, thời gian đến sẽ sau. Đường khá xa và qua phà nữa đấy. Để tranh thủ,
kéo dài hơn vì tàu ngừng lại ở nhiều ga nhỏ để khách bây giờ là 10 giờ, đúng 10 giờ 30 ta sẽ về trại. Các chị
buôn lên xuống. Chúng tôi chen chúc lên tàu vô cùng vào trong lều gần xe trâu nghỉ đi.”
vất vả, trong toa kẻ nằm người ngồi ngổn ngang, đủ
các loại hàng từ thú vật gà vịt đến cả heo con cũng Khoảng đường từ Thanh Hóa vào đến trại 5 Lam
được bỏ rọ mang đi. Mùi phân thú, mùi mắm, mùi Sơn xa thăm thẳm, qua đồng qua ruộng, hết ruộng
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ2C3
đến núi lại rừng. Nàng chinh phụ trong Chinh Phụ Người cuốc đất, người nhổ cỏ hoàn toàn lặng lẽ,
Ngâm, má hồng truân chuyên như thế nào, chỉ đọc đến cả hai giám thị công an một nam một nữ, như
chỉ nghe mà không thấy. Bây giờ, chúng tôi, những hai pho tượng ngồi kế bên nhau trên bờ đường. Trên
người vợ lính đi lên núi, vào đến rừng tìm chồng, lưng áo vải mỗi người tùđề có in hàng chữ “Lam Sơn
có lẽ cơ khổ và truân chuyên hơn bà vợ hào kiệt của 5”, chúng tôi còn gặp thêm hai toán người đang đập
Chinh Phụ Ngâm Khúc gấp mấy lần. để nung vôi. Nhận ra chúng tôi, một vài anh lên tiếng
hỏi “Các chị đi thăm ai?”, nhưng chỉ có thế vì các anh
Dọc đường ai cũng phải ngồi xuống xoa bóp chân buộc phải im tiếng.
mình nhiều lần. Tôi có cảm giác như mấy chục mũi
gai đâm vào lòng bàn chân. Chị Nhĩ khóc mếu máo: Sau khi làm những thủ tục của trại tù xong thì
“ Cha ơi Mẹ ơí! Sao lúc nhỏ cha mẹ không tập cho đã vào buổi chiều hết giờ thăm nuôi, chúng tôi phải
con đi bộ?!” chờ qua ngày hôm sau. Người cán bộ phụ trách thăm
nuôi dẫn chúng tôi đi vòng ra sau căn “nhà việc” (văn
Cũng may, chúng tôi ai cũng đi giày vải Bata, nếu phòng) để đến nhà vãng lai. Sáu người ở chung một
đi giày khác chắc chết. gian nhà, vách ván mái ngói, kê ba chiếc giường tre
tương đối sạch với chiếu mới, họ cho mượn mùng
Cả bọn ai cũng lặc lè sắp quỵ, duy nhất có con trai nếu ai không có. Chúng tôi rũ nhau xuống bếp ngay
tôi vì tuổi nhỏ mong được gặp bố lại được đi xa lần đầu nhà có sẵn củi, nồi. Củi phải mua mỗi người 5
đầu, thỉnh thoảng cháu liều lĩnh đu lên sau xe trâu đồng, nồi thì cho mượn. Vợ anh Bình BĐQ đem lon
ngồi đở vài phút cũng không bị quở trách, vì thế cháu mắm ruốc xào thịt ra xào lại , tôi cũng xào lại lon gà
có vẻ chưa đau chân và mỏi mệt. Cố gắng cách mấy kho gừng cho khô thêm.
chúng tôi cũng không thể nào đến trại Lam Sơn kịp
trong ngày. Đường đi khá xa, có lẽ cũng vài chục cây Thời gian chờ đợi dằn vặt, xao xuyến trong lòng
số, mặt trời đã tụt sau mấy dãy núi phía Tây xa xa. chúng tôi không ít. Mỗi lần có một anh “cải tạo viên”
Những dãy đồi thấp và rừng cây hai bên đường bắt đến, chúng tôi lại rướn cổ nhìn, nhưng vẫn là chồng
đầu nhòa bóng, thỉnh thoảng mới gặp hai ba người người ta. Mấy ông tuy là mặc đồ lành lặn sạch sẽ,
đi thồ hàng, đạp xe vội vã vượt qua hoặc ngược ra nhưng nhìn bóng dáng đi, dù có ưởn ngực thẳng
Thanh Hóa. lưng, vẫn chẳng dấu được cái vẻ tiều tụy tàn tặ trên
thân thể.
Chúng tôi đi thêm được chừng hai cây số đến một
khu phố buôn bán có ngôi chợ nhỏ đã họp xong buổi Ai cũng giống nhau, sự hành hạ qua năm tháng
sáng. Người lính công an áp tải cho lệnh hai “tài xế đã làm họ mất thật nhiều phong độ, cố giữ cho thẳng
xe trân” dừng lại nghỉ, đường xa đi không kịp. Họ chỉ mà vẫn thấy xiêu vẹo. Giờ nầy qua giờ khác, lại mất
cho chúng tôi khu nhà trọ và dặn dò: “Các chị thuê một ngày nữa đợi chờ. Chúng tôi an ủi nhau, mình
chỗ ngủ trọ, sáng mai tập trung tại quán nước chè ta tới trại sau nên được gặp sau chắc chắn ngày mai sẽ
sẽ đi tiếp”. đến lượt mình.
Mẹ con tôi đã trải qua một đêm chưa bao giờ Ngày thứ ba kể từ khi chúng tôi bước vào khu
khiếp hãi đến thế. Bộ ván, chiếc chiếu ước chừng đã thăm nuôi của trại 5, chừng 10 giờ sáng, một cán bộ
khá lâu không được làm vệ sinh giặt giũ. Thật mệt, thăm nuôi đến gọi chị Tâm KQ và cô Tuyết em anh Lê
nhưng giấc ngủ vẫn không đến với chúng tôi vì nhiều Hoàng Nghi lên phòng thăm nuôi, mọi người vui hẳn
lý do. Nỗi sơ ám ảnh cùng với phải đối phó với hàng lên và hồi hộp. Mười lăm phút sau việc thăm nuôi
trăm hàng ngàn con rệp, khiến chị em đành ngồi kể xong, chị Tâm và Tuyết trở lại mặt đỏ vì vừa khóc
chuyện cho nhau nghe chờ sáng. xong.
Khoảng hơn 12 giờ trưa hôm sau thì chúng tôi tới Tuyết vội vàng thu xếp đồ đạc và nói: “Em chào các
trại 5 Lam Sơn. Con đường ngoằn nghoèo vòng qua chị, em phải đi ra trại Ba Sao ngay bây giờ. May quá
dãy núi đá không cao lắm xuyên qua một khu đất có xe của trại ra Thanh Hóa họ cho em quá giang”.
rộng đang canh tác. Nhìn từ xa không ai biết, tới gần Nhìn theo Tuyết quảy đồ ra cửa, chúng tôi không
mới nhận ra một đoàn tù, toàn là nữ tù, chia thành ngăn được xúc cảm. Tội nghiệp cho cô bé phải lặn
nhiều tốp kẻ trồng đậu phọng, người đang cấy lúa. lội tất tả đi thăm hai anh ở cách xa nhau hàng trăm
Đám người nầy khá đông, nhưng dường như họ là cây số.
những bộ máy lạnh lùng làm công việc của mình
âm thầm như những chiếc bóng, đầu phủ kín bằng Cuối cùng rồi cũng đến phiên mình, sáng ngày
những tấm khăn vải để chống nắng. thứ tư ở trại (thật ra mới có ba ngày rưởi), vợ Bình,
1Ð2Ặ4C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
vợ anh Nhĩ và tôi, cùng được gọi lên nhà thăm nuôi thuốc và chút đồ ăn cho chồng tôi có được không?
một lượt, ba người ngồi một bàn, đứa con trai ngồi -Không được! Đã là kỷ luật thì phải cấm hết, mang
sau lưng tôi. Chừng 10 phút sau thì một tên công an
bước vào phòng, anh cán bộ thăm nuôi vội đứng dậy về đi các chị. Trại đã lo đủ cả, thuốc men ăn uống
chào rồi nói: “Báo cáo anh, các chị ấy đã tập họp đủ”. không lo.
Chúng tôi chưng hửng tự hỏi: sao lại thế nầy, chồng
tôi đâu? thằng quỷ dịch nầy là đứa nào? Bước vào Biết là vô ích khi mình đang nói với một xác ướp,
chẳng chào hỏi ai, mặt lạnh ngắt như âm binh, một nên chúng tôi càng im lặng. Tên Bắc đãi bôi:
lát sau hắn mới lên tiếng:
-Các chi yên tâm, động viên chồng học tập cho
“-Chào các chị. Các chị đi đường chắc vất vả lắm, tốt, biết đâu chừng sau lần kỷ luật nầy, các anh tiến
nhưng nghỉ mấy ngày chắc cũng khỏe rồi. Tôi là Bắc, bộ lại được tha về sớm.
cán bộ chấp pháp trại, hôm nay đến đây có mấy điều
quán triệt với mấy chị - Hắn ngừng lại, nhìn mặt Tôi có ý muốn trở thành người đanh đá, chửi vào
chúng tôi thật chậm và làm oai - Tôi cũng nhìn lại mặt thằng xác ướp nầy vài câu, nhưng nghĩ lại làm
hắn quan sát và nghĩ thầm, hèn chi nó làm chấp pháp vậy là dại - Thôi! Liếc qua vợ Bình cười nửa miệng.
(an ninh) là đúng, mặt tái xanh, mắt như hai lằn chỉ, Muôn vàn cơ cực đến được đây mà không gặp mặt
môi dầy và đen như hai miếng thịt trâu phơi nắng - chồng, niềm đau nổi buồn đã đóng băng trong lòng
Tên Bắc chợt hỏi: hai người chúng tôi.
“-Chị nào là vợ cải tạo viên Bình? Chị nào là vợ Tên Bắc hướng qua chị Nhĩ giọng trở nên dịu
cải tạo viên Đỉnh? Chúng tôi dơ tay, lại im lặng và dàng:
hồi họp.
-Chào chị Nhĩ, hết mệt rồi phải không? Vất vả quá
“-Thật là quá đáng, từng ấy năm học tập cải tạo, đấy nhỉ! Chị vui lòng cho tôi xem thư và giấy thăm
uổng công cách mạng quan tâm giáo dục, chư nói nuôi từ trại gởi về cho chị nào! Liếc đọc lá thư và tờ
tốn cơm tốn của. Chồng các chị thuộc loại không thể giấy thăm nuôi, tên Bắc hỏi tiếp:
cải tạo, cách mạng rồi sẽ phải xử lý. Tôi và chị X. rụng
rời nghẹt thở, há miệng mà không thở được. Giọng -Chị nhận được thư này lúc nào?
tên Bắc lại cất lên chì chiết: -Tháng 8, cán bộ! Trong thư đề tháng 3 nhưng tới
tháng 8 tôi mới nhận được, có sao không cán bộ? Tên
“-Một bọn phản động ngoan cố cấu kết với nhau Bắc thở dài, có làm ra vẽ trang nghiêm:
ra sức chống phá cách mạng cách nầy cách khác. Bọn -Tiếc quá, chị nhận thư anh Nhĩ hơi muộn, sớm
phản động ấy có chồng hai chị, tập họp lại bày đặt hơn thì chị đã gặp chồng, bây giờ thì quá muộn.
tuyệt thực yêu cầu cải thiện, cho nên trại đã tạm thời -Trời! Sao vậy cán bộ? Chồng tôi làm sao, anh ấy
kỷ luật các tên nầy để tạo cơ hội hối lỗi cho bọn họ. bị cái gì? Anh Nhĩ làm sao rồi?
Các chị không tin lời tôi nói à? Đây, để chứng minh, -Chị bình tĩnh nghe tôi nói, như chị đã biết, anh
tôi đọc cho mấy chị nghe lệnh tạm giam những tên ấy có hai ba thứ bệnh từ thời “Ngụy”, vừa suyển vừa
phản động, cấm thăm nuôi bốn lần, rồi hắn đọc tên cao máu. Trại đã chữa hết sức rồi, đồng chí y tế đã tận
từng người: Nguyễn Xuân, Hồ văn Phước, Phan Nhật lực nhưng anh Nhĩ đã chết hồi giữa tháng 6. Anh ấy
Nam, Hồ Công Bình và chồng tôi, có tất cả trên 10 là người cải tạo tốt sắp được tha về.
người. Nhưng tới lúc nầy thì tôi mắt hoa đầu váng, -Trời ơi là trời! Chồng tôi sao lại chết! Ba mẹ ơi!
mọi vật quay như chong chóng. Vẫn giọng tên Bắc: Chồng con chết rồi! Anh ơi! Tưởng ra đây gặp anh,
bây giờ anh đã đi mất, bỏ mẹ con em, bỏ ba má sao
“-Đấy , phản phản động nguyên cà một buồng, các anh! Chồng tôi mới có 32 tuổi, làm sao mà cao máu?
chị hiểu không? Giờ phút nầy rồi, còn gỉ nữa đâu mà Anh ơi! Anh chết oan rồi!
vọng động. Các chị về viết thư động viên chông hối Hai chúng tôi cùng chồm qua ôm lấy vai chị Nhĩ,
cải, lao động học tập cho tốt để còn về chứ! Trại lần cố kềm nhưng rồi cũng khóc theo. Vợ anh Bình mếu
nầy họp, các đồng chí lãnh đạo đã nhất trí để hai chị máo khuyên: “Chị nín đi, chị nín để hỏi cán bộ anh
đi về, lần sau sẽ thăm nuôi. ấy chôn ở đâ chứ!” Chị Đỗ văn Nhĩ rũ xuống như tàu
lá, toàn thân lạnh và mềm oặt, hơi thở đứt quảng.
Tôi cố chỏi tay để đầu không gục xuống bàn, rồi Chị Nhĩ đã mê đi trong cơn đau mất chồng.
đưa tay trái véo nhẹ lên tay vợ Bình - cần phải can Vợ Bình vội lần trong túi áo bà ba lấy ra chai dầu
đảm - Lát sau vợ Bình hỏi: gió thoa lên trán lên thái dương cho chị Nhĩ, miệng
vẫn gọi liên hồi: “Tỉnh đi! Dậy đi để đi tìm mộ chống
-Trại không cho gặp, vậy xin cho chúng tôi gửi chớ! Tỉnh dậy đi chị Nhĩ!” Im lặng một lúc khoảng
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ1C25
năm mười phút, tên cán bộ Bắc lại nói: Tïuë
-Thôi, để tranh thủ, trại sẽ giao lại cho chị những
BÊN NÀO CŨNG ĐƯỢC
vật dụng của chồng chị và giấy chứng nhận anh Nhĩ Trong 1 trận bóng đá, trên khán đài, một cổ động
đã chết bệnh. Sau đây tôi bận công tác, đồng chí Cận viên gào to: “Chơi cùi chỏ gãy hết răng bọn nó đi”.
(tên cán bộ phụ trách thăm nuôi) sẽ đưa chị ra chỗ Người ngồi kế bên thắc mắc :
mã anh ấy. Tôi và vợ Bình cũng xin đi theo nhưng - Anh nói bên nào thế?
không được chấp thuận. - Bên nào cũng được. Tôi là nha sĩ mà!
Mấy chị em tôi quay về Sài Gòn lúc mờ sáng ngày TIỂU XẢO
hôm sau. Ngày thứ năm ở trại cải tạo của chồng, Một ông đi công tác xa chẳng may mắc bệnh phải
nhìn những dãy nhà cũ kỹ khóa kính cửa, tôi tưởng nằm viện. Ông nhờ cô y tá điện gấp cho vợ : “Anh
tượng là chồng tôi đang phải bị giam nhốt trong mắc bệnh phải vào nhập viện. Bệnh viện này hoàn
những ngôi mộ đó, gần ngay kế bên mà cách biệt hảo, các y tá ở đây trẻ trung, xinh đẹp...”
muôn trùng. Ngày nào đi náo nức, mong ngóng hy - Ông nói tới chúng tôi làm gì vậy? - cô y tá ngạc
vọng bao nhiêu, nay trở về với cỏi lòng tan nát, sự nhiên.
thất vọng chiếm hết mọi suy tư. - Cô thông cảm, tôi nói thế bà ấy mới cấp tốc lên
thăm...
Chúng tôi đi trong vô thức, tội nghiệp chị Đỗ văn
Nhĩ, nếu không có bạn đồng hành chúng tôi phụ BẢN LĨNH ĐÀN ÔNG
giúp, không hiểu có còn đủ sức đủ nghị lực để về với Chồng vừa dắt xe ra ngoài đã nghe thấy vợ quát
các con không. Điều an ủi là ngày về, nhân chuyến xe to: “Vào nhà ngay”.
trâu đi không, họ đặc ân cho chúng tôi quá giang, với Chồng mạnh mồm hét lên:
giá 10 đồng một người đến ga Thanh Hóa. -Sợ gì không vào.
“Phải chăng những người đàn bà Việt Nam LO XA
chúng tôi, những người vợ lính VNCH, là những Người chồng hấp hối trên giường bệnh dặn dò vợ.
người bị đọa dày hơn tất cả mọi người của thế - Bây giờ anh đang gần đất xa trời, em có thể thú
gian?” nhận về mối quan hệ với tay hàng xóm được không?
Lúc này mọi thứ chẳng còn ý nghĩa gì, song anh vẫn
Trần thị Đông Phương. muốn biết sự thật trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Cô vợ ngần ngừ một lúc rồi hỏi lại:
-Thế nhỡ anh không chết thì sao?
1Ð2Ặ6C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC CƠ HỘI SỬA DI CHÚC
Một cụ ông ngoài 80, nặng tai đã lâu, quyết định
nghiêm túc theo đuổi bác sĩ và... được chữa khỏi.
Vài tháng sau, ông già quay trở lại phòng khám để
cám ơn. Bác sĩ hỏi thăm:
- Chắc gia đình ông vui mừng lắm nhỉ?
Ông già đáp:
- Suỵt ! Tôi chưa báo cho con cháu biết BS đã chữa
được tai, hôm nay tôi đến cám ơn BS, nhờ BS tôi
nghe được các câu chuyện của chúng nó ... và tôi đã
sửa lại di chúc ba lần rồi!
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lính &
NaNâ g t h ú
Ta Vïì Tô Thùy Yên
Cựu SVSQ/K17TĐ
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai Ta về cúi mái đầu sương điểm
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Mười năm mặt sạm soi khe nước Làng ta ngựa đá đã qua sông
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ Người đi như cá theo con nước
Ta về qua những truông cùng phá Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may Ta về như lá rơi về cội
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Chỉ có thế. Trời câm đất nín Giải oan cho cuộc biển dâu này
Đời im lìm đóng váng xanh xao Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Mười năm, thế giới già trông thấy Ruột mềm như đá dưới chân ta
Đất bạc màu đi, đất bạc màu Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Ta về như bóng chim qua trễ Người thức mong buồn tận cõi xa
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa Ta về như hạt sương trên cỏ
Ai đứng trông vời mây nước đó Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Một đời được mấy điều mong ước Tội tình chi lắm nữa người ơi
Núi lở sông bồi đã mấy khi Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Mười năm, cổ lục đã ai ghi Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ1C27
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng Ta về dẫu phải đi chân đất
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can Khắp thế gian này để gặp em
Lời thề buổi ấy còn mang nặng Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Mười năm ta vẫn cứ là ta Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Ta về như tứ thơ xiêu tán Tình xưa như tuổi già không ngủ
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách Ta về như giấc mơ thần bí
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ Bé ơi, này những vui buồn cũ
Khách cũ không còn, khách mới thưa Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Ta về khai giải bùa thiêng yểm Con dế vẫn là con dế ấy
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ Ta về như nước Tào Khê chảy
Một lần kể lại để rồi thôi Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn Thân thích những ai giờ đã khuất
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Mười năm, cây có nhớ người xa? Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Ta về như đứa con phung phá Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Mười năm, con đã già trông thấy Ta về như bóng ma hờn tủi
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu Lục lại thời gian kiếm chính mình
Con gẫm lại đời con thất bát Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Hứa trăm điều một chẳng làm nên Như từng hài cốt sắp vô danh
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ta về như tiếng kêu đồng vọng Ai đó trong hồn ta thổn thức
Rau mác lên bờ đã trổ bông Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng Ta về như hạc vàng thương nhớ
Chờ anh như biển vẫn chờ sông Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta gọi thời gian sau cánh cửa Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu Đành không trải hết được lòng ta
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau Tô Thùy Yên
1Ð2Ặ8C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
HĂM
TCHỒNG
“Thương tặng chồng và các con tôi,
những người đã chung góp đau khổ với tôi
trên quê hương bất hạnh nầy….”
Nguyễn Ngọc Bạch Tuyết tôi lại đi Vĩnh Phú Ấm Thượng, chúng tôi phải lui trở
Hiền thê Cựu Thiếu Tá TQT Nguyễn văn Cẩn lại 70 cây số!
Cựu SVSQ/K17TĐ. Đến ngày thứ 6 chúng tôi mới tới trại Vĩng Quang
A, sau khi trình giấy tờ xong hồi hộp đợi chờ…Rồi
Chúng tôi yêu nhau khi còn ở Trung học, mãi đến thấy hai người cán bộ cộng sản đang kè hai bên một
sáu năm sau mới làm đám cưới, khi đã có tới năm người trẻ tuổi có gương mặt sáng láng, nhưng không
đứa con, chưa bao giờ chúng tôi phải xa nhau quá đi được vì thiếu dinh dưởng. Tôi rụng rời….nhưng
một tuần. Vậy mà khi đất nước được gọi là “giải không phải chồng tôi, đó là một sĩ quan trẻ ở Sài Gòn
phóng”, vợ chồng chúng tôi phải chia tay, không biết có thân nhân miền Bắc thăm nuôi.
đến bao giờ mới được gặp lại.
Còn tôi, cán bộ trại cho biết là trại Vĩnh Quang A
Đứng trước cổng trường trung học Pétrus Ký, chỉ không có tên anh ấy, phải đi thêm 5 cây số nửa đến
ngăn cách có cái cửa rào, nhưng tôi sao cảm thấy đã trại B. Chúng tôi lại phải quảy gánh leo núi tới trại
có sự cách chia vời vợi, một sự cùng cực của chia ly, B, lúc đó đã là 3 giờ chiều. Nhưng lại thêm một thất
rồi nhìn theo bóng chồng tôi xa dần…xa dần… vọng nữa, người cán bộ cầm phong thơ trả lại: “Anh
ấy không có ở đây!”.
Bao nhiêu đau khổ của một người đàn bà bơ vơ
với năm đứa con thơ dại - đứa lớn nhất 11 tuổi và nhỏ Sau sáu ngày đêm chỉ uống nước và ăn vặt với ba
nhất mới biết nói bập bẹ - ngày qua tháng lại sống lần đi lạc, tôi chán nản muốn khóc thốt lên với dì tôi:
trong đợi chờ thương nhớ và tuyệt vọng…càng nghĩ “Nếu không tìm ra được ảnh, con quăng đồ đạc nầy
đến tôi càng hận thù Cộng sản bấy nhiêu. xuống hố và nhảy theo…chứ không về nhà khi chưa
gặp mặt chồng”. Người cán bộ nghe thấy vậy cũng
Khi nhận được lá thư đầu tiên của chồng gởi về động lòng, một lần nữa cầm bao thơ trở vô trại tìm.
từ miền Bắc, tôi quyết định phải đi thăm anh. Không
rành đường đi, không biết nơi đến, trong tay chỉ vỏn Dì cháu tôi đứng ngay ngoài cổng chờ đợi. Khoảng
vẹn có một bao thư viết bằng ám số với chữ Vĩnh nửa tiếng sau tôi bỗng nhìn thấy chồng tôi từ đàng xa
Quang (Vĩnh Phú), tôi cùng người Dì chồng quảy đang đi ra - bốn năm trời mới thấy được mặt!- anh
gần 100 ký lô đồ thăm nuôi ra đi sáng ngày Mồng 4 mặc bộ đồ bà ba, khi đến gần nhận ra tôi anh cười.
Tết mùa Xuân năm 79. Tôi la lên: “Dì ơi! Anh Cẩn kìa!...Tìm được rồi, Dì
ơi!”.
Tôi không biết phải tả làm sao cho hết nổi sơn
trường của một người đàn bà mang trong tay 7 giỏ Sau đó chúng tôi được vào ngồi nói chuyện ở
hành lý nặng. Phương tiện chuyên chở không có, đến phòng “tiếp tân” ngăn cách bởi cái bàn dài, người cán
nổi khi mệt mõi quá, tôi và dì tôi phải mang mỗi lần bộ ngồi ở đầu bàn chính giữa, vợ chồng tôi ngồi đối
từng giỏ một và đi trở lại xách tiếp…thành ra quảng diện hai bên, theo sự chỉ dẩn của cán bộ, chớ không
đường dài gấp ba lần. Vậy mà chúng tôi lại đi lạc được ngồi gần.
đường, thay vì Vĩnh Phú Tam Đảo gần hơn, chúng
Câu đầu tiên anh nói với tôi: “Anh thật không ngờ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ2C9
được, em là người đầu tiên từ Sài Gòn ra thăm ở trại những sĩ quan đang cùng hoàn cảnh với chồng mình.
nầy!”. Sau đó anh chỉ ngồi nhìn tôi mĩm cười nghe Họ phải sống nhục nhằn đói khát, đọa đày trong chốn
tôi nói. Còn tôi thật bình tĩnh vì tôi rất ghét khóc lao tù miền Bắc. Tôi cố gắng buôn bán trở lại và sống
trước mặt kẻ thù, tôi muốn cho họ biết rằng dù tôi bị thật tiện tặng để có tiền đi thăm nuôi nữa. Ba tháng
mất tất cả: mất chồng mất của cải, mất niềm tin, mất sau tôi lại tiếp tục đi thăm nuôi chồng tôi…cứ như
tự do…tôi vẫn tươi cười trước mặt họ. vậy kéo dài hơn bảy năm.
Tôi nói thao thao bất tuyệt chuyện nhà chuyện Và ngày trở về của anh ấy cũng là một kỷ niệm
cửa, chuyện con cái ngoan ngoản và học giỏi (thật đẹp khó quên trong đời tôi, nhưng mà có nghĩa lý gì
sự các con tôi rất ngoan và học giỏi, đó cũng là niềm khi được “tự do” với Cộng sản? Chồng tôi tiếp tục ở
tự hào để tôi sống đến ngày hôm nay). Tôi muốn níu vào ngục tù thứ hai, dù được gần vợ gần con, anh vẫn
thời gian ngừng lại, chồng tôi chắc cũng đang nghĩ bị quản chế tại nhà thêm 6 năm nữa.
như tôi. Anh không hề ăn uống gì cả mặc dù thức ăn
đang bày ra cả bàn và tôi biết anh đang thiếu ăn từ Bây giờ tất cả gia đình tôi được định cư ở C.T theo
năm nầy sang tháng kia. Anh chăm chú nghe và đắm chương trình H.O. Chúng tôi sống là để chờ đợi cái
đuối nhìn tôi như muốn nuốt trọn hình hài tôi vào tim ngày con cái mình được sống, được hít thở cái không
óc của anh. khí tự do nầy! Nhưng chúng tôi rất ngở ngàng và e
ngại…Phải khó khăn lắm mới lèo lái con thuyền cho
Đúng nửa giờ sau người cán bộ chấm dứt câu vững, vì cái bến bờ tự do nầy có quá nhiều cám dỗ
chuyện của chúng tôi: “Thôi anh thu xếp đồ đạc để cho những kẻ thơ ngây, non dại như con chúng ta.
trở vô trại”. Chồng tôi đứng dậy nắm lấy tay tôi và
hôn phớt nhẹ lên trán tôi một cái. Tôi rụng rời… Các con tôi đã lớn, đã biết là sau lưng nước Việt
không phải vì xúc động bởi cái hôn mà vì thương Nam thân yêu, gia đình tôi đã bỏ lại tất cả trong đó
chồng quá…lo sợ anh ấy phải bị nặng nhẹ , kiểm có những tình cảm thiêng liêng chân thật của những
điểm. Chồng tôi gánh quà vô trại, tôi đau xót ngậm người còn ở lại…Chúng ta phải hiểu rằng vì sao lại
ngùi đứng nhìn bóng dáng anh từ từ khuất dần. phải bỏ nước ra đi.
Bây giờ tôi mới bật khóc, bao nhiêu nổi uất hận Cầu xin ơn trên gia hộ cho đám con chúng ta,
chất chứa bấy lâu nay, giờ đây tuôn tràn ra. Tôi khóc những người H.O bạc phước nầy, phải sống cho
như bao giờ được khóc…Chiều xuân ở vùng Tam thành người, phải làm việc cho xứng đáng. Đừng để
Đảo thật ảm đạm với mưa bay lất phất, chung quanh mang tai tiếng, làm tủi hổ vong linh những người
tôi là đồi núi chập chùng cao ngất… đã bỏ mình trên quê hương, trong chốn lao tù Cộng
sản, tủi hổ cho những bậc cha mẹ đã trót mang cái
Dì cháu tôi ở lại trại một mình với cây đèn bão leo “nghiệp” H.O. nầy.
lét, tôi khóc suốt đêm đó. Từ Nam ra Bắc, sáu ngày
đi đường vất vả, dù được gần nhau trong gang tấc mà Nguyễn Ngọc Bạch Tuyết.
chỉ nhìn nhau có nửa tiếng đồng hồ. Bây giờ người
trong ngục tối, kẻ ở ngoài trại…biết đến bao giờ mới ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
được gặp lại nhau đây?
Tiếng kiểng đổ rùng rợn buổi sáng, chỉ có ở với
Cộng sản mới thấm thía tiếng kiểng nầy, nó báo hiệu
cho một ngày nô dịch lê thê của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi từ giã núi đồi, từ giã trại tiếp tân lạnh lẽo…
từ giã người yêu quý nhất đời…ngậm ngùi đau xót
xách túi nhẹ tênh ra về.
Mười lăm ngày sau tôi mới về tới nhà gặp lại các
con tôi. Tôi bị mất ngủ sau khi đi thăm chồng về,
nhắm mắt là chập chờn hình ảnh chồng tôi, nhắm
mắt là thấy lờ mờ hình ảnh người sĩ quan trẻ không
đi được vì thiếu ăn…chập chờn từng đoàn người tù
binh đang làm khổ dịch ngoài ruộng hay dưới chân
núi, họ lặng lẽ âm thầm như những bóng ma….
Tôi thấy xót xa đau đớn và thương cảm cho tất cả
1Ð3Ặ0C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
MỘT CÁNH HOA DÙ RƠI RỤNG
Quản Dù
Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ
Từ Việt Nam, một người bạn gọi qua báo tin Mũ sang Hạ Lào khai diển. Lữ Đoàn 3 ND cùng TĐ 3 PB
Đỏ Bành Minh Trí đã ra đi vào cuối tháng 3 năm 2007, Dù được phối trí đóng các căn cứ phía Bắc đường số
làm Quản Dù tôi thương nhớ ngẩn ngơ. Bành Minh 9 (Căn cứ 30, 31) để Lữ Đoàn 1 ND cùng TĐ 3 PB
Trí, một pháo thủ Mũ Đỏ đã từng tham chiến nhiều Dù làm nổ lực chánh đánh vào Schépone.
trận lẫy lừng, trên ngực năm sáu cái huy chương, ba
bông mai vàng từng phai màu với thời gian, giờ nằm Pháo Đội C3 ND của Trí được trực thăng vận đầu
xuống với cơn bệnh bất ngờ: nhồi máu cơ tim. tiên vào Căn cứ 30 cùng với TĐ 2 ND và một Pháo
đội 155 ly của TĐ44PB thuộc QĐ 1 tăng phái. Trận
Bành Minh Trí tốt nghiệp Khóa 17 Thủ Đức, một địa đã được địch điều nghiên và chuẩn bị, Căn cứ 30
trong những sinh viên sĩ quan xuất sắc của Trường chưa thành hình thì đã được dàn chào bằng những
Pháo Binh Dục Mỹ, ra trường cuối năm 1964 lúc tràng pháo thăm dò điều chỉnh. Pháo đội C3 vừa
chiến tranh đã bắt đầu sôi động. Trình diện Tiểu củng cố vị trí vừa yểm trợ cho quân bạn không kịp
Đoàn 28 Pháo Binh tại Dĩ An Biên Hòa, sau đó Trí thở.
cũng như các sĩ quan mới ra lò của ngành Pháo Binh,
đi tiền sát viên cho các đơn vị thuộc Sư Đoàn 25, Sư Ngay sau đó Lữ Đoàn 3 ND, TĐ 3 PB, TĐ 3 ND
Đoàn 5 Bộ Binh hành quân khắp Vùng 3 Chiến thuật. cùng PĐ B3 của Nguyễn văn Đương cũng được thả
xuống Căn cứ 31 ở phía Tây để hai căn cứ hỗ tương
Năm 1969 làm Trung đội trưởng coi hai khẩu 155 yểm trợ. Trận chiến pháo mỗi ngày một dữ dội, Căn
ly là quá khỏe, nhưng rồi Trí xin thuyên chuyển về cứ 30 và 31 bị pháo liên tục. Cái khổ của con nhà
Nhảy Dù vì khoái màu Mũ Đỏ. Lúc đó Pháo Binh pháo là vừa bị ăn pháo địch vừa phải gồng mình ra
Nhảy Dù đang bành trướng. Tiểu Đoàn 2 rồi Tiểu yểm trợ cho quân bạn cũng đang chạm súng ác liệt.
Đoàn 3 Pháo Binh Dù được thành lập, Trí về Tiểu
Đoàn 3 Pháo Binh của Thầy Cò Châu. Một lần Trí chửi thề với vẻ thất vọng:
- Biết hướng bắn của tụi nó, nghe tiếng départ của
Về Nhảy Dù hết được ngồi một chỗ coi súng mà tụi nó mà tức quá không làm gì được!
lội mệt nghỉ. Hết làm Sĩ quan Liên lạc cho Lữ Đoàn Bị pháo thì phản pháo, nhưng ở Hạ Lào phản pháo
nầy lại làn Sĩ quan Liên lạc cho Lữ Đoàn khác. Năm gì nổi. Tại đây địch dùng toàn loại đại bác 130 ly với
1970, Trí được đề cử giữ chức vụ Pháo Đội Trưởng tầm bắn 30 km, trong khi Pháo binh Dù chỉ có 105
Pháo đội C3 Nhảy dù, thay Đ/u Đào văn Thương ly với tầm bắn 10 km. Mặc dù có thêm đơn vị 155
cũng là người bạn cùng khóa. Cũng thời gian nầy, ly bên cạnh, nhưng cũng chỉ vói tới 15 km là hết cỡ.
anh hùng Mũ Đỏ tên Đương tức Đ/u Nguyễn văn Mọi sự diệt pháo chỉ trông cậy vào không quân
Đương cũng lên làm Pháo Đội Trưởng Pháo đội B3 Mỹ, nhưng phòng không địch cũng phối trí dầy đặc
Nhảy dù. làm hạn chế khả năng của Không quân. Lúc Không
quân rời vùng là các căn cứ lại ăn pháo, mọi sự tiếp
Rồi năm 1971, cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ13C1
tản thương cũng lại trông cậy nơi trực thăng Mỹ. gặp lại, Trí vẫn bô bô:
Nhưng lúc nầy, bãi trực thăng lại là mồi ngon cho - Hên quá, tao giải ngũ nên không bị đi ở tù như
pháo địch, nên cả hai căn cứ gần như bị tê liệt.
tụi mầy.
Bị pháo như thế, nhưng PĐ C3 của Trí vẫn phải Nhưng rồi sau đó khi chương trình HO rộ lên, gặp
vừa củng cố vị trí vừa yểm trợ cho quân bạn, nên số
thương vong tăng cao. Rồi chuyện phải đến đã đến, lại Trí lại nghe chửi thề:
căn cứ 31 thất thủ, Đại tá Thọ LĐT/LĐ 3 ND cùng - ĐM xui quá! phải chi tao ở thêm lính một năm
toàn bộ BCH/TĐ3 PB Dù bị bắt, Mũ đỏ Nguyễn văn
Đương đi vào huyền thoại. nữa…đi tù, thì giờ nầy cũng….
Lúc đó, Quản Dù thấy Trí lắc đầu rồi thở dài. Đi
Tin xấu của chiến trường làm rúng động các Mũ
Đỏ đang chiến đấu. Căn cứ 30 giờ bị địch tập trung không kịp từ biệt Trí, nhưng sau đó thư từ và hình
hỏa lực để biến thành địa ngục. Chiến xa cùng bộ ảnh của Trí vẫn gởi qua cho tôi, mới mấy năm mà
binh địch tháp tùng bò lên tấn công Căn cứ 30 ngay nhận không ra vì râu tóc giờ bạc phơ. Râu lại còn để
chính diện. PĐ C3 giờ như đứa con mất mẹ, đôi lúc dài hơn râu cáo Hồ trông mà thấy sợ.
Bành Minh Trí la thất thanh trong máy gọi về TĐ 1
PB ở căn cứ A Lưới xin tăng cường yểm trợ. Kể từ Trí ơi! Thôi bây giờ nhà ngươi hết còn được chửi
lúc nầy, PĐ C3 vào hẳn hệ thống chỉ huy của TĐ 1 thề. Hết còn “Hên-Xui” nữa. Dù sao, khi nhắc đến
PB để nhận lệnh và báo cáo. Bành Minh Trí các Mũ Đỏ và các Pháo Thủ ngày xưa
vẫn còn nhớ đến thằng Trí cao nghều và móm sọm.
Bốn trong 6 khẩu đại bác của PĐ C3 đã bị hư
hại, Pháo đội 155 ly cũng không khác gì. Còn lại hai Yên nghỉ, Trí nhé!
khẩu, Bành Minh Trí vẫn cố trực xạ, cũng bắn hạ Quản Dzù.
được 2 chiến xa của địch ở gần bờ rào, nhưng rồi Trí Cựu SVSQ/K17TĐ
cũng phải la:
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Bắn không nổi nữa! Nó pháo dữ quá….!
Cũng may, Bộ Tư Lệnh SĐND thấy tình trạng
nguy ngập của Căn cứ 30 nên cho lệnh phá súng và
triệt thoái khỏi căn cứ để tránh bị rơi vào tình trạng bi
thảm như Căn cứ 31. Toàn bộ Mũ Đỏ và đơn vị tăng
phái tại Căn cứ 30 rút về phía Nam nơi có TĐ5ND
đang án ngữ và sau đó được trực thăng bốc về Khe
Sanh.
Gặp Quản Dù tại Khe Sanh, câu đầu tiên của Bành
Minh Trí là chửi thề:
- ĐM cho tao bộ đồ thay coi mầy! Tao chỉ còn có
mỗi một bộ nầy, mặc từ hôm vào căn cứ tới giờ có
kịp tắm rửa thay đồ gì đâu…bỏ mẹ nó lại hết rồi!
Hỏi về lính tráng, Trí gật gật:
- Ra được hết, mấy thằng bị thương và cả mấy cái
Poncho (xác chết) cũng đem ra được…hên quá (!) .
Tính nó vẫn vậy, dân Nam Kỳ, quê hương bản
quán của nó ở ngay Bà Quẹo nên nói năng bộp chộp
và chửi thề vui chi lạ. Trí còn có một người anh tên
Bành Minh Đúc khóa 7 Thủ Đức và cũng là dân Pháo
Binh kỳ cựu. Anh Bành Minh Đức bị thương sau đó
giải ngũ. Còn Trí năm 1974 vì hoàn cảnh gia đình
cũng xin được giải ngũ. Năm 1988, anh Đức chết vì
bệnh gan, tại người buồn, mà dân Bà Quẹo nữa nên
cứ Đế Hóc Môn nhậu cho quên đời, gan gì chịu nổi!
Lâu lắm không gặp nhau, năm 1988 sau khi ra tù
1Ð32ẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
HÀNH TRÌNH VÀ SUY TƯ
CỦA MỘT CỰU SVSQ/K17 THỦ ĐỨC
Cựu Th/T Dương Minh Chấn là “lính” khi ngồi vào ghế để được hớt “cua” theo
Nguyên Chánh văn phòng kiểu nhà binh.
Thiếu Tướng Tư lệnh Phó QĐ III
Chiếc túi “Sac Marin” nặng trĩu trên vai được
Tháng 11 năm 1963 một bước ngoặc lịch sử của anh em khệ nệ vác về doanh trại. Cảnh ăn mặc
đất nước Việt Nam và cũng là một biến cố của đời lượm thuộm rộng thùng thình của những chàng trai
tôi. Cuối năm nầy tôi cùng bốn người bạn Trung học lính mới tò te, quân phục phát sao mặc vậy. Lúc đó
Ngô Quyền Biên Hòa, xếp bút nghiên, tình nguyện trong hàng quân, mình cũng như anh em và anh em
tòng quân nhập ngũ. Các bạn Nguyễn Đức Hiền và cũng giống như mình…nhưng sau nầy khi trở thành
Nguyễn văn Cữu đầu quân vào Binh chủng Không Sĩ quan cán bộ rồi nhìn thấy lính mới tò te mới tội
Quân. Nguyễn văn Tơ, Nguyễn Tấn Phước và tôi nghiệp làm sao!
cùng gia nhập vào Khóa 17 SQTB Thủ Đức. Anh
Hiền sau là Pilot F5, còn anh Cữu trước lái H34, sau Cái vui nhất là Khóa 17 được đi phép cuối tuần
lái trực thăng VIP cho Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí và với bộ đồ dân sự khi chưa được gắn Alpha. Trước
các vị Tư lệnh QĐ III kế tiếp cho đến ngày 30 tháng ngày khai giảng, Thiếu tướng Chỉ Huy Trưởng Trần
4 năm 1975. Ngọc Tám tuyên bố chỉ “giữ” SVSQ/K17 trong vòng
4 tuần lễ đợi ngày gắn Alpha, sau đó sẽ tiếp tục đi
Năm mươi năm qua, tôi luôn nhớ đến cảnh cũ nơi phép như thường lệ.
bắt đầu đổi xác, nhớ đến những dãy nhà tôn, nhớ đến
những hàng cây bã đậu. Làm sao quên được những Giai đoạn I đã qua, các SVSQ đã chọn được ngành
ngày thứ bảy chủ nhật với tâm trạng đợi chờ…Buồn và rời trường Mẹ đi vào học chuyên môn. Giai đoạn
ơi là buồn! Nhất là đối với những chàng trai vừa II bắt đầu, ĐĐ 11 bị giải tán và tôi được bổ sung vào
mới bị “đào đá”. Nhưng tôi cũng nghĩ đối với những ĐĐ1 khu dãy nhà tôn gần căn cứ Pháo binh. Trong
chàng trai đang có tình yêu và đã được yêu, phải xa thời gian nầy, văn phòng Liên Đoàn Trưởng là căn
người mình yêu mới là buồn nhiều hơn! nhà nhỏ nằm bên phải Vũ Đình Trường mà Thiếu tá
Hà văn Tấn là Liên Đoàn Trưởng.
Nhìn trên thân những cây bã đậu, những hình
trái tim, những tên của các giai nhân…được anh em Gối đầu là dãy nhà văn phòng Tham Mưu Trưởng
chiếu cố khắc đầy. Để rồi sau đó anh em lên GMC có của Trung tá Nguyễn Duy Hinh. Khi Chuẩn tướng Bùi
xe Quân Cảnh hướng dẩn trực chỉ Trường Sĩ Quan Hữu Nhơn làm Chỉ Huy Trưởng thay thế Thiếu tướng
Trừ Bị Thủ Đức, nơi rèn luyện thể xác lẫn tinh thần Trần Ngọc Tám thì Trung tá Đào Duy Ân làm Tham
để đào tạo chúng tôi trở thành những Sĩ quan ưu tú Mưu Trưởng. Các ĐĐ sinh viên khi đi học ngang qua
của QLVNCH. hai dãy nhà VIP nầy phải đi đều bước, ngay hàng
thẳng lối, nhất là phải có Sĩ quan cán bộ hướng dẫn.
Ngồi trên xe lòng tôi bồi hồi cảm động dù nơi đây Sinh viên phải hát thật to, hô thật lớn…nếu ĐĐ nào bê
tôi đã đi qua hàng ngày. Đây Ngã ba Hàng Xanh, bối đêm đó khó tránh khỏi bị phạt dã chiến.
đây xa lộ Biên Hòa, đây cầu Sài Gòn đây cầu Rạch
Chiếc. Đây Nhà máy ciment Hà Tiên và đây Ngã tư Ra trường tháng 10 năm 1964, tôi ở lại trường
Thủ Đức…Rồi đoàn xe rẽ phải vào Chợ Nhỏ ngang và phục vụ trong Ban Thể Dục Thể Thao thuộc
qua Cư xá Kiến Thiết, qua khỏi Ngã ba rẽ vào đình Liên Đoàn Sinh Viên do Thiếu úy Lê văn Hưởn làm
Phong Phú và hãng dệt Liên Phương. trưởng ban với vỏn vẹn chỉ có 4 người: Thiếu úy
Hưởn, Chuẩn úy Nguyễn Thanh Trang, Chuẩn úy
Đoàn xe chạy vào cổng trường và thẳng đến văn Lương quan Mỹ và tôi. Nhiệm vụ của Ban nầy- trừ
phòng Liên Đoàn Sinh Viên, sau đó anh em được thứ bảy và chủ nhật- lúc 6 giờ sáng tập trung cả hai
các Sĩ quan cán bộ nhận lãnh và hướng dẫn vào khóa tại Vũ Đình Trường, cùng các Sĩ quan trực ĐĐ
doanh trại. Làm sao tôi quên được khi Sĩ quan cán bộ chạy theo Đại lộ Bình Long trước tư dinh Chỉ Huy
hướng dẫn đến kho quân trang quân dụng, và cũng Trưởng đến khu cư xá Sĩ quan cấp Tá…cùng hô to “
tại nơi nầy tôi mới thấy rằng anh em đã thật sự mới
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ3C3
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sinh Viên- Khoẻ !” văn lớn đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền
Sau các cuộc chỉnh lý ở Sài Gòn, vì thiếu Sĩ quan văn học nước nhà.
cán bộ, nên Ban Thể Dục Thể Thao của Liên Đoàn Năm 2012 Xuân Nhâm Thìn, tôi cùng Hội đã vinh
Sinh Viên phải giải tán, tôi được chỉ định đi xuống danh Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Cố Giáo sư đã
nhận nhiệm vụ Sĩ quan cán bộ của các Khóa 20, 22, ra đi, nhưng đã để lại cho hậu thế, cho thế hệ trẻ một
24, 26 và 4/68. gương tranh đấu không mệt mõi, với lý tưởng mong
làm sao cho tương lai một đất nước Việt Nam được
Tháng 8 năm 1968, Trung tướng Đỗ Cao Trí đang sáng lạn hơn.
làm Đại Sứ tại Nam Hàn được lệnh về nước giữ chức
Tư Lệnh Quân Đoàn III- Quân Khu III, Đại tá Đào Tôi là Cựu học sinh trường Trung học Ngô Quyền
Duy Ân được điều về làm Tham Mưu Trưởng Quân Biên Hòa, để tưởng nhớ đến người đồng môn trẻ
Đoàn. Đối với tôi, những ngày phục vụ tại Trường tuổi có nhiều tài nhưng mệnh yểu, năm 2013 Hội đã
Bộ Binh Thủ Đức là những ngày vàng son trong đời cùng đồng hương tổ chức buổi họp mặt mừng Xuân
binh nghiệp. Trực 1 ngày, hướng dẫn chính 1 ngày, để nhớ đến nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Và ngày 19
hướng dẫn phụ 1 ngày, 1 ngày được tự do….. tháng Giêng năm 2014 cũng nhân dịp Xuân về, Hội
cũng không quên tưởng nhớ đến Cố Nhân sĩ Lương
Làm Sĩ quan cán bộ ở Thủ Đức lúc nầy rất có giá, văn Lựu, người đã ghi lại trang lịch sữ của Biên Hòa
lại được thêm nếu có mã đẹp trai sẽ có khối cô mê từ khi mới lập quốc.
(?). Tôi từ bỏ tất cả để về Quân Đoàn III làm tùy viên
cho Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, làm tùy viên Suốt bốn năm trời, tôi đã được đồng hương Biên
mà chủ tướng của mình là một vị sĩ quan thanh liêm Hòa và thân hữu xa gần khắp năm châu, yểm trợ giúp
chính trực, không lo tư lợi, chỉ biết có công việc. Khi đở cũng như động viên tinh thần, nên tất cả anh em
Quân Đoàn cấm trại 100% vị Tham Mưu Trưởng nầy đã cùng tôi đem hết nhiệt tâm nhiệt thành ra phục vụ
cùng nhân viên ngũ lại tại nơi làm việc. đồng hương. Tôi quan niệm Hội là nơi nối kết bền
vững tình đồng hương sống nơi đất khách quê người.
Khi Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí tử nạn trên bầu trời Chúng tôi đã thực hiện chương trình “đền ơn đáp
Tây Ninh, Trung tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh nghĩa, trã món nợ ân tình” đối với những thương phế
Biệt Khu Thủ Đô kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh QĐ binh QLVNCH còn kẹt ở quê nhà trong phạm vi hạn
III - QK III, Thiếu tướng Đào Duy Ân vẫn giữ chức hẹp của tỉnh Biên Hòa.
vụ Tư lệnh Phó QK III đặc trách các Tiểu khu, Đặc
khu thuộc Vùng 3 Chiến Thuật. Trong đó Chuẩn Sau buỗi Họp Mặt kỷ niệm 50 năm ngày Khóa
tướng Lê văn Hưng giữ chức Tư lệnh Phó QĐ và sau 17 SQTB/TĐ mãn khóa, tôi đề nghị anh em trong
cùng là Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. khóa đang sống nơi hải ngoại khắp năm châu- với
tinh thần lá lành đùm lá rách- kẻ ít người nhiều cùng
Sau 50 năm nhìn lại, sau 7 năm trong lao tù Cộng nhau đóng góp và tìm lại những bạn bè cùng khóa
Sản, sau cùng thì gia đình tôi cũng được định cư tại kém may mắn còn sống vất vưởng tại quê nhà. Giúp
Hoa Kỳ, Tiểu bang California, tôi là một trong những đở, an ủi những anh em nầy mà 50 năm qua chúng ta
hàng triệu người được “đẻ bọc điều”. Năm 2010 tôi đã quên lãng.
được đồng hương Biên Hòa đề cử điều hành Hội Ái
Hữu Biên Hòa tại California, tôi đã không quên vị Tôi cũng hy vọng anh em chúng ta mà đa số là
Tướng, người anh hùng của QLVNCH, người con HO, với tình Huynh đệ Chi binh, mọi tị hiềm thắc
ưu tú của Xứ Bưởi: Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí đã bỏ mắc nên cho vào dĩ vãng nếu có. Anh em chúng ta có
mình vì đất nước. Chiếc quan tài phủ Cờ vàng ba sọc sự suy nghĩ phải hướng tới sự tồn vong của đất nước,
đỏ được đặt trên chiếc Thiết Vận Xa M113 tiến về tương lai của dân tộc, mà anh em chúng ta đã hy sinh
Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa để ông an giấc ngàn cuộc đời son trẻ, đã chiến đấu quên mình, nhưng nay
thu cùng các binh sĩ thuộc hạ, nhưng sau năm 75 bọn vì hoàn cảnh nên đành phải trôi nổi theo vận nước,
Cộng Sản cũng chẳng để yên. sống tha hương nơi đất khách quê người.
Buổi Họp mặt năm Canh Dần 2010, Hội đã vinh Anh em Khóa 17 Nguyễn Thái Học chúng ta phải
danh để tưởng nhớ đến Cố Đại Tướng với sự tham có sự suy nghĩ và phải làm gì để đất nước Việt Nam
dự của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Đại tá Ngô sớm thoát khỏi ách Cộng Sản./.
văn Minh, Đại tá Lê văn Trang, Trung tá Bình và các
Sĩ quan thuộc BTL/QĐIII. Năm 2011 tôi vẫn là Hội Kỷ niệm một đêm trong bệnh viện Bakersfield.
trưởng, Xuân Tân Mão tôi đã cùng 300 đồng hương California 24 tháng 3 năm 2014
đã vinh danh Cố nhà văn Bình Nguyên Lộc, một nhà Dương Minh Chấn
1Ð3Ặ4C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
LƯU ĐÀY MIỀN BẮC
Hồi ký của Luca Luân
Cựu SVSQ/K17TĐ
Sống trong cảnh cá chậu chim lồng, chung quanh Toa xe bít kín cuộc đời tối tăm
nhà ở kẻm gai rào bọc một con chó nhỏ cũng chui Về nơi hoang vắng xa xăm
qua không lọt. Sáng trưa chiều đều nghe đi nghe lại Bến phà Yên Bái cạnh nằm bờ sông.
giọng hát the thé của ‘ca sĩ gái’: “Chưa có hôm nào
đẹp như hôm nay- Đất nước thanh bình lòng ta mê Lộ trình đến nơi là vùng núi non hiểm trở bao
say….” Nghe hoài, anh em chúng tôi muốn phát điên quanh. Những dãy núi hình rẽ quạt lúc học môn địa
lên và muốn kéo chiếc loa xuống đập nát, để khỏi lý về Miến Bắc, bây giờ mới có dịp chứng kiến tận
phải nghe những lời mâu thuẩn cho bản thân hiện mắt. Đây cũng là trại tù cũ xưa kia do thực dân Pháp
tại. Tôi ngồi phơi nắng nhìn lên trên những tàn cây cất để lưu đày các nhà Cách mạng nổi lên chống Tây
bã đậu trồng phía trước cổng trại, vài cặp chim rất an thập niên 30-40, nay chỉ còn là những bức tường
nhàn đang rỉa lông tắm nắng. loang lỗ rêu phong hoang phế, cây cối mọc um tùm.
Vùng nầy là Liên trại 3,tôi ở trại 3, lúc đầu ở tạm
Đúng như lời đồn của anh em, chiều hôm đó cả trại trong các nhà lều. Sau đó chúng tôi đi rừng đốn gỗ
được ăn cơm sớm hơn mọi khi và được lệnh mang tư làm khung nhà, cắt tranh làm mái. Rồi lắp ráp vào
trang ra tập họp ở sân trại. Tên bộ đội trực trại gọi tên các bức tường cũ thành khu nhà, lấy tre vầu làm hàng
từng người mang tư trang ra xe đậu sẵn phía trước rào. Chính mình làm trại làm hàng rào để nhốt….
trại. Cũng giống như các lần di chuyển trước, xe đều mình.
di chuyển kín trong đêm. Đoàn xe lăn bánh chạy ra
xa lộ đến thẳng New Port. Anh em chúng tôi gồng Phúc Yên thuộc tỉnh Sơn La
gánh tư trang leo lên tàu thủy neo ở bờ sông. Núi cao hiểm trở trại Ba giam tù
Dân tình huấn luyện hận thù
Lên tàu tên gọi Sông Hương Để cho thù hận bọn tù bơ vơ.
Lênh đênh mặt nước dặm trường về đâu?
Hải trình không biết bao lâu Gần trại tù là người đồng bào thiểu số Thái Trắng,
Con tàu định mệnh u sầu thế nhân. họ sống cuộc đời rất cơ cực vất vả. Quanh năm cuộc
đời chỉ biết làm ruộng và làm rẩy chân lấm tay bùn
Trong số tù chúng tôi, các anh em sĩ quan Hải suốt ngày, cơm không đủ ăn phải ăn độn bắp khoai.
Quân quan sát nhìn sao biết rõ chắc chắn theo hải Áo quần không đủ mặc, bệnh tật không thuốc men,
trình nầy ra miền Bắc, không biết tàu sẽ cặp ở bến trẻ em không có trường học.
cảng nào? Thời gian trôi nổi tương đối sóng lặng biển
êm, anh em tùy theo tôn giáo thầm kín cầu nguyện Dân đây thiều số thật thà
đến nơi bình an. Sống vùng sơn cước tên là Mường Thai
Quanh năm ruộng lúa nương khoai
Tàu đi mất bốn ngày đường Cuộc đời cơ cực, oằn vai chiếc “guồi”.
Thời gian trôi nổi tưởng chừng một năm
Hầm tàu địa ngục trần gian Vùng đồi núi vực sâu Sơn La có rất nhiều trại tù,
Đến nơi cặp bến chứa than Hải Phòng tại trại Ba chúng tôi, có một bạn tù lớn tuổi, lao động
quá cực nhọc vất vả ăn uống lại thiếu thốn, cơ thể già
………………
Lên toa xe lửa đón mời ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ3C5
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
yếu bệnh tật. Lại không thuốc men điều trị cộng với Gần năm năm trôi qua trong các trại tù, nhóm
khí hậu khắc nghiệt nên đã bị kiệt sức…và vĩnh biệt chữ “học tập cải tạo” gần như vô nghĩa. VC chẳng
anh em. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã tù đày, thân xác có giáo dục cái gì, chỉ là những trò lừa bịp của bọn
các anh được bó chiếu đem chôn dập vùi nơi chân người “đỉnh cao trí tuệ”. Chúng đã để những người
Đèo Ban không một nén hương. tù sống trong cái chết lần mòn, như ngọn đèn dầu lụn
tim trước gió. Chúng tôi sống đến giờ phút nầt cũng
Khai hoang, đốn củi mắt mờ là phép lạ, và niềm tin nghĩ đến gia đình đã giúp anh
Tù già sức yếu cuộc đời hắc hiu em chúng tôi vượt qua những thống khổ tủi nhục tù
Đèo Ban an giấc ngàn thu đày.
Tiếc thương số phận bạn tù ra đi…
Giết tù kiểu mới tinh vi
Trong những đêm trăng sáng tôi thường trằn trọc Vắt cho kiệt sức còn chi ngày về
khó ngủ vì nhớ gia đình. Tôi nhìn xuyên song sắt Nửa đêm tiếng hét não nề,
của nhà giam thấy vầng trăng tròn thật đẹp. Tôi liên Bạn tù vĩnh biệt tứ bề sót thương….
tưởng cũng vầng trăng đó vợ tôi nhìn thấy, nhưng hai
người mở hai phương trời cách biệt, cùng một tâm Chúng tôi bị giam tại trại Đầm Đùn Ba Sao Hà
nguyện mong sao được sớm thả về lo cho đứa con Nam Ninh khoảng ba năm. Tuy không lâu lắm,
nhỏ vô tội phải xa cha mẹ từ mới ba tháng tuổi, sống nhưng “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nhưng
côi cút thiếu vắng tình thương. Đây là vết thương tại sao VC lại chuyển anh em chúng tôi sau đó về
lòng cho hai vợ chồng chúng tôi đã kéo dài từ khi Nam? Vì Đặng Tiểu Bình của Trung Cộng đã hăm
vào tù cho đến nay. Tôi nghĩ nếu VC xử án 10 hay 20 dọa sẽ cho VC một bài học thứ hai, lần nầy có thể
năm rất tốt. Tôi sẽ tình nguyện ở thay cho vợ tôi, để đánh đến mấy tỉnh gần Hà Nội. Nếu không có sự
vơ tôi được về trước lo cho gia đình. Chúng tôi ở Sơn hăm dọa đó, chắc chắn VC sẽ tiếp tục lưu đày anh
La cho đến khi Trung Cộng “dạy bài học thứ nhất” em cho đến khi vĩnh biệt người thân.
cho VC dọc theo các tỉnh biên giới, nên mới chuyển
cho công an giam giữ. Bằng chứng cụ thể là khi anh em chúng tôi đến
miền núi rừng Sơn La, đã gặp một số anh em thuộc
Vội vàng di chuyển tù nhân Quân đội Quốc gia bị kẹt lại sau Hiệp Định Genève
Ba Sao nổi tiếng là Tân Đầm Đùn năm 1954 không kịp vào Nam, đã bị lưu đày biệt xứ
Chung quanh cò lát um tùm lên vùng này từ ngày đó đến nay. Một bằng chứng
Khó mà trốn thoát trùng phùng vợ con. khác là bà Đại Tá Trần Cẩm Hương, con chim đầu
đàn của Đoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH sau 11năm
Đây là trại giam rất lớn của tỉnh Hà Nam Ninh tù, VC đã không cho trở về sống trong căn nhà cũ ở
thuộc Bộ Công An. Tù nhân bắt đầu được phép Tân Định, phải đi về sống ở vùng quê Hậu Nghĩa.
gởi thơ về gia đình và được gặp thăm nuôi. Danh Sau đó bà bị bệnh đau màn óc không thuốc men chửa
từ “thăm nuôi” bị bọn cai tù không cho phép dùng. trị phải qua đời, để lại sự tiếc thương cho chị em Nữ
Vì với luận điệu xảo trá “Nhà nước không nuôi các Quân Nhân.
anh được hay sao mà phải để gia đình thăm nuôi?”.
Nhưng vợ con gia đình tù nhân đi thăm đều mang ***
theo các thứ gần bằng một tiệm tạp hóa nhỏ ở thôn Những năm tháng khó quên, tôi viết lại sau ngày
quê, để nuôi chồng con. rời khỏi ngục tù Cộng Sản. Đây là những sự kiện
sống thực chính bản thân tôi đã trải qua. Bài viết ít
Riêng tôi không hy vọng thăm nuôi, chỉ mong khi đề cập đến miếng ăn manh áo, cái mà bọn cai tù
biết được tin tức vợ con ra sao? Sau khi nhận được đã dùng như một loại vũ khí sắc bén để dễ bề điều
thư hồi âm mới biết rõ là vợ còn bị giam giữ ở Long khiển. Khi đã sống trong cảnh cá chậu chim lòng,
Thành, và con gái được bà Ngoại dẫn đi thăm mẹ ba cái cao quý nhất là Tự Do, thì đã bị tướt đoạt rồi, đâu
lần. Tôi vô cùng vui sướng còn hơn được quà thăm còn diều gì để nói.
nuôi. Sống ở trại nầy anh em đi làm lao động tương Câu nói bất hủ của Patrict Henry “Hãy cho tôi Tự
đối đở hơn, phần được tiếp tế thăm nuôi nên sức Do, nếu không hãy giết tôi” đã rất thấm thía cho thân
khỏe và tinh thần dần dần hồi phục đôi chút. phận những người tù. Một khúc quanh lịch sử đã
minh họa thảm kịch bi đát nhất chưa hề xảy ra trong
1Ð36ẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
quốc sử Lạc Hồng, mặc dù đã từng bị 1000 năm đô Mùa Xuân Dân tộc giữa hồn ta
hộ bởi giặc Tàu, cũng như một trăm năm dưới ách
cai trị của giặc Tây. Tôi tỉnh giấc, sao còn đây tiếng khóc
Dù đăng trình tôi vẫn quyết tâm đi.
Nay đã bị một tập đoàn “tam vô” cùng một màu Ba mươi năm không mỏi gót, chỉ vì
da, cùng một dòng máu, xé nát đất nước, cũng chỉ Nghe tiếng trống Hà Hồi vang thúc giục.
vì tham vọng thực thi chủ nghĩa ngoại lai quốc tế Xuân Đống Đa, dù tay nghèo gậy trúc
Cộng Sản, gây nên cuộc chiến tranh huynh đệ tương Cũng lừng danh vạn thuở giống Rồng Tiên.
tàn suốt hơn một phần tư thế kỷ, mà ngày kết thúc Tôi sẽ về - tìm dáng mộng trinh nguyên
là tiếng khóc than kinh hoàng của sinh ly tử biệt, Tranh thủy mạc ngày xưa - : Em xỏa tóc
của gia đình tan nát, của vợ chồng con cái xa cách Bên bờ sông - sắc Xuân vờn châu ngọc
nhau…. Nụ cười em nhung mượt một đời Thơ.
Tôi không còn thân lữ thứ bơ vơ
Tháng tư cay đắng đời tôi Khi quỳ ôm chân Mẹ.
Đau thương dân tộc đổi đời Miền Nam Được hôn lên từng nếp da nứt nẻ
Mười năm trong chốn giam cầm Vì lịch sử oan khiên
Hận thù chan chứa âm thầm khó quên Vì nửa đàn con quên cả hịch truyền
Sống còn phó thác ơn trên, Dựng xây Mùa Xuân Dân Tộc.
Nỗi lòng uất hận kêu rên thấu trời Tôi thành trẻ thơ nhoài ôm Tổ Quốc
Thập niên đốt hết tuổi đời Như con tìm Mẹ, thơm ngủ mơ vàng.
Đắng cay tủi nhục vạn lời xót xa…. Mẹ dẫn con đi, cuốc lại đồng hoang
Cho lúa mọc lừng hương trời Đông Á.
Người đem nắng ra phơi Luca Luân. Bầy em con không còn ai trả giá
Viết lại sau khi được phóng thích 1985 Bán buôn nô lệ da vàng.
Vườn Bà Lớn Sài Gòn. Cho con khỏi nhục khi nhìn cảnh suy tàn
Vì giống Việt đang cằn khô Đạo Lý.
*Chú thích của Ban biên tập ĐS/K17: Cựu SVSQ/ Bạo lực vùi chôn Nhân Vị
K17TĐ “Luca Luân” đồng cấp Thiếu Tá với Hiền Đường hầm heo hút tương lai.
thê là một Sĩ quan Nữ Quân Nhân QLVNCH, cả hai Đời tạm dung, trong mê-tỉnh đêm dài
phải rời đứa con gái mới sinh ba tháng để lên đường Tôi vẫn thấy đẹp trời Xuân Dân Tộc.
“học tập cải tạo”. Xuân giữa hồn tôi, hồi sinh Tổ Quốc,
Nhạc bừng reo, hoa tỏa ngát hương nồng.
Hồn sông tôi trôi chảy, vẫn xuôi giòng
Len sỏi đá, về Biển Đông tìm Mẹ.
Xin chờ con - dù hành trang gánh nhẹ
Nhưng nặng lòng vì Lẽ Sống Quê Hương.
Em hãy chờ tôi , bóng nước soi gương
Hồng lên má, nụ cười xưa giấu thẹn.
Tôi sẽ về ! - Không quên lời ước hẹn
Giữa triều dâng bừng dậy sắc Xuân sang.
Xuân của đời tôi là Xuân của Vinh Quang
Toàn Dân Tộc, - nắng Xuân hồng phơi phới.
Trời Việt Nam lụa là thay áo mới
Trẩy hội lên đường, vui đón TỰ DO !
Hoàng Phong Linh - Võ Đại Tôn
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ3C7
KẺ PHẢN BỘI HUỲNH CHÍ THIỆN
Nỗi đau của K.17 TÐ
Pháo thủ Tiền Giang
Cựu SVSQ/K17TĐ
Khóa 17 SQTB/TĐ Binh chủng Pháo binh được đi tiền sát viên thường trực cho TĐ43BĐQ, và cùng
phân phối về Tiểu Đoàn 9 Pháo Binh đồn trú tại Sa mướn một căn nhà gần Tòa Hành Chánh Vĩnh Long
Đéc - sau nầy đổi tên thành TĐ 91 PB sau khi Tiểu ở chung với Tr/u Nguyễn văn Thửa đang làm Quan
Đoàn 9 Súng Cối giải tán - tổng cộng 7 tân Chuẩn úy. sát viên phi cơ, và Huỳnh Chí Thiện đang đi đề lô
Ngoại trừ tôi và Mạc Thành Phụng được giữ lại BCH cho Trung đoàn 16 BB (Trung đoàn 13 cũ). Những
Tiểu Đoàn, còn lại tất cả xuống các Pháo đội Tác xạ ngày không có hành quân, ba đứa chúng tôi tà tà đi
để đi tiền sát viên. ăn đi chơi thân thích với nhau.Trong lúc tôi với anh
Thửa ăn mặc tương đối chải chuốt, thì Huỳnh Chí
Tôi được cử giữ chức Phụ tá Ban 3 cho Thiếu úy Thiện lúc nào cũng lè phè bê bối với quần áo dân sự
Lê Thơm, còn Phụng thì làm Sĩ quan Địa hình Tiểu cũ mèm. Đồ trận thì lãnh sao mặc vậy không cần sửa
đoàn. Tên chức vụ thì nghe oai lắm, nhưng mỗi khi lại.
có cuộc hành quân cấp Sư Đoàn hay Trung Đoàn, thì
hai đứa tôi cũng cặp nách bản đồ đi “đề lô” như ai, Lúc đó tôi có thì giờ để đưa đón “cô em gái bé
nhưng có điều là chỉ đi cho những đơn vị lớn hoặc trừ bỏng” của tôi nhiều hơn là lúc còn BCH/TĐ ở Sa
bị cho Sư Đoàn như các Chi đoàn của Trung đoàn 2 Đéc - mà sau nầy đã trở thành “đấng bề trên” của
Thiết giáp, Tiểu đoàn 43 Biệt động quân hay Đại đội tôi - Còn anh Thửa hôm nào không có giờ bay hành
Trinh sát 9 Sư đoàn. quân, thì cũng đến “bao vùng” nhà ông Trung Tá Lý
Đ., nơi có cô con gái tên Lý thị X.H. nho nhỏ dễ
Huỳnh Chí Thiện, Trương Hữu Hùng và Cao văn thương, mà sau nầy cũng là “Tư lệnh” của anh. Ca sĩ
Long về Pháo đội A hậu cứ đồn trú tại Vĩnh Long để tí hon Viviane Huỳnh ở San José chuyên hát những
đi tiền sát cho Trung đoàn 13 đóng tại Ngã Tư Long bản nhạc đấu tranh, chính là cháu ngoại của đôi uyên
Hồ. Trương văn Hữu về Pháo đội B đồn trú tại Vĩnh ương nầy. Riêng Huỳnh Chí Thiện thì chỉ mê có…
Bình để đi tiền sát cho Trung đoàn 14, chỉ riêng có đánh phé, căn nhà của Tr/u Ch. Đại đội trưởng Đại
Vương xùi Lũy mặc dù về Pháo đội C có hậu cứ đội Quân vận Vĩnh Long là nơi Thiện thường lui tới
đang đóng cạnh BCH Tiểu đoàn ở Sa Đéc, nhưng đấu trí sát phạt trong những canh phé.
Lũy phải xuống nằm với Trung đội 1C của Thiếu úy
Nguyễn Công Lý ở quận Đức Tôn cũng để làm đề lô Năm 67 tôi lập gia đình, rồi trở về Trường Pháo
trừ bị. Binh học Khóa 1 Sĩ quan Tu Nghiệp Cấp Pháo Đội,
ra trường xuống quận Minh Đức coi đơn vị 3A/91PB.
Ở BCH Tiểu đoàn được một thời gian sau khi đã Huỳnh Chí Thiện thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 92
lên Thiếu úy, tôi xin thuyên chuyển xuống Pháo đội Pháo Binh của Thiếu tá Nguyễn Thiện Cường - Tiểu
A ở Vĩnh Long, mặc dù lúc đó tôi đã thay thế Thiếu đoàn nầy trước đây là TĐ67PB nay sáp nhập vào
úy Lê Thơm đã lên Trung úy đang nắm PĐT/PĐA, SĐ9BB vừa được cải danh - xuống coi một trung đội
làm quyền Trưởng Ban 3 Tiểu đoàn và đang được pháo binh thuộc PĐA/92 đóng ở ngoại ô tỉnh Vĩnh
chạy đặc cách lên Trung úy nhiệm chức. Bình. Anh Thửa sau khi toán Quan sát viên Phi cơ
giải tán, trở về Sa Đéc làm Trưởng Ban 3 TĐ91PB,
Lý do vì Tr/u Trần Hữu Vạn K6/TĐ đang làm
PĐT/PĐ Chỉ huy, trước đây chơi rất thân với tôi,
nhưng có một lần anh làm đơn xin đi du học Mỹ,
Ban 3 tôi chuyển lên, nhưng không được Tiểu Đoàn
Trưởng chấp thuận, giận cá chém thớt, nhiều lần anh
kiếm chuyện với tôi ra mặt. Thấy làm việc trong
không khí như vậy, nên tôi xin ra Pháo đội Tác xạ.
Xuống PĐ/A của Tr/u Lê Thơm, tôi tình nguyện
1Ð38ẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
sau đó xuống nắm PĐB/91PB cũng đóng ở Vĩnh qua, mà mai nầy là thứ ba sẽ xổ, tôi nói với anh em
Bình. nếu ngày mai tôi trúng số độc đắc, tôi sẽ bỏ tiền ra để
chuộc Tr/u Huỳnh Chí Thiện được thả về.
Sau trận Mậu Thân 1968, tình hình các nơi đã trở
lại yên tỉnh sau khi VC bị tổn thất nặng nề. Một buổi Còn đang bàn tán xôn xao trong sân đơn vị, chợt
sáng chủ nhật vào khoảng gần cuối năm 68, tôi lái xe Hạ sĩ nhứt Tuấn điện tín viên hớt hải từ Đài tác xạ
chở bà xã cùng với một xe GMC chở toán đạn dược chạy ra tay cầm sổ công điện đưa cho tôi:
hộ tống, về hậu cứ pháo đội tại Vĩnh Long trước để
nhận tiếp tế, sau để bà xã tôi thăm nhà, thường những -Trung úy! Trung úy Thiện không có bị bắt, ổng
lần như vậy sáng đi chiều trở về đơn vị. theo Việt cộng!
Khi xe jeep của tôi ra khỏi hương lộ quận Minh Cầm lấy sổ công điện mở ra đọc, mở đầu là “Tên
Đức đến tỉnh lộ Vĩnh Long – Vĩnh Bình thì cũng vừa Huỳnh Chí Thiện….”chớ không còn gọi là Trung
lúc gặp chiếc xe jeep của Huỳnh Chí Thiện do tài xế úy nữa. Đại khái công điện cho biết lúc 1 giờ khuya
lái chạy ngược đường xuống Vĩnh Bình. Gặp nhau nay, Huỳnh Chí Thiện mặc bộ đồ bà ba trắng đã bắn
chúng tôi ngừng xe lại đấu hót, lúc đó Thiện mặc bộ chết lính gác, mở cổng căn cứ cho Việt Cộng tràn
đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn, ngang bụng vào trong số đó có 2 nữ cán binh VC, rồi chạy đến
mang dây nịt TAB với khẩu súng Rulô xề xệ. Trông từng hầm ngủ bắn lính của trung đội. Riêng Thiện đã
thấy Thiện, vợ tôi buộc miệng nói: chỉa súng vào một Trung sĩ khẩu trưởng, bắt nạp đạn
bắn vào hướng Tiểu Khu Vĩnh Bình trước khi cùng
-Anh Thiện mặc bà ba đen mang súng giống Việt những đặc công Việt cộng rút lui vô mật khu.
Cộng quá!
Sau nầy, khi tôi thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 92
Thiện cười hì hì. Tướng Thiện lớn con với nước Pháo Binh, sau một thời gian làm Trưởng Ban 3 TĐ,
da ngâm đen, miệng rộng với cặp môi dày, lại cộng tôi xuống làm Pháo đội trường PĐA/92, tức là pháo
thêm cái càm bạnh nửa, nên quả tình là dù bạn bè đội trước đây có trung đội bị Huỳnh Chí Thiện tàn
cùng khóa, anh em vẫn hay gọi đùa là “Thiện Việt sát, được Hạ sĩ quan truyền tin pháo đội, khi trước
Cộng”, mỗi lần như vậy Huỳnh Chí Thiện chỉ cười từng là điện tín viên của trung đội Thiện, vì ở trong
hề hề không giận, không phản đối. hầm tác xạ nên thoát chết, sau chạy sang được Đại
đội ĐPQ kế bên, đã kể lại chi tiết như sau:
Trong lúc chuyện vãn, Thiện cho biết vừa đi phép
về Long Xuyên hôm nay trở xuống Vĩnh Bình, riêng - Vào buổi chiều, Thiện đã ra lệnh làm yếu tố tác
tôi đòi Thiện đưa cây súng Rulô cho tôi như đã hứa xạ cho một khẩu đại bác nhắm vào Tiểu Khu với lý
trước đây. Thiện không chịu, bảo rằng khi nào Đ/u do có tin tức VC sẽ tấn công Tiểu Khu, sẵn sàng yếu
Lê Thơm, lúc đó đang làm Quận trưởng Quận Chợ tố để yểm trợ. Nhưng ông trung sĩ khẩu trưởng nầy
Lách, cho nó cây súng khác thì nó mới đưa khẩu súng dưới khẩu súng của Huỳnh Chí Thiện, trước khi nạp
nầy cho tôi. Giởn hớt một hồi sau đó hai đứa chia tay, đạn giật cò, đã lén quay nhẹ tay quay biểu xích, khiến
Thiện chạy xuống Vĩnh Bình, còn tôi và bà xã tiếp những viên đạn nổ ngoài Tiểu Khu Vĩnh Bình. Trung
tục chạy về Vĩnh Long. sĩ khẩu trưởng nầy sau đó đã bị Huỳnh Chí Thiện
dùng khẩu Rulô bắn ngã gục nhưng may mắn không
Khoảng năm giờ sáng thứ hai ngày hôm sau, điện chết.
tín viên gỏ cửa phòng tôi báo có công điện thượng
khẩn của Tiểu Đoàn. Trong công điện cho biết hồi Sở dĩ tin tức được xác nhận sớm, nhờ Thượng sĩ
1 giờ khuya nay, Việt Cộng đã tấn công tràn ngập Thạch Khâu, thường vụ trung đội và một số ít anh em
Trung đội 2A/92 đóng vị trí tại ngoại ô tỉnh Vĩnh lính tráng pháo thủ liều chết phá hàng rào chạy thoát
Bình, và đã bắt dẫn đi mất tích Trung úy Huỳnh Chí sang Đại đội Địa Phương Quân kế bên báo cáo lại,
Thiện Trung đội trưởng. Công điện còn ra lệnh các nên mới biết rõ sự việc phản bội và tàn ác của Thiện.
đơn vị kiểm soát lại hệ thống an ninh, phòng thủ và Sau khi tàn sát anh em lính tráng trong đơn vị xong,
phản pháo, đề phòng một đợt tấn công tương tự vào Huỳnh Chí Thiện cùng các cán binh Việt cộng chạy
các đơn vị pháo binh tại Vùng 4. vô vùng mật khu Dừa Đỏ gần quận Càn Long. Sau
đó có tin đồn là Việt cộng đã phong cấp bậc Thượng
Tám giờ sáng thứ hai, sau khi tập họp chào cờ, tôi tá cho Huỳnh Chí Thiện.
thông báo cho đơn vị biết tin tức VC tràn ngập Tr/
Đ2A/92PB và Tr/u Thiện đã bị VC bắt, đồng thời ra Sự việc một sĩ quan Quốc Gia phản quốc, rời bỏ
lệnh cấm trại 100% quân số. Lúc đó trong túi tôi có hàng ngũ theo Cộng sản chống lại QLVNCH, cũng
mấy tờ vé số Kiến Thiết mới mua ở Vĩnh Long hôm là chuyện bình thường và đã xảy ra nhiều nơi. Nhất
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ39C
là sau khi Miền Nam hoàn toàn sụp đổ, những tên mình đang nói chuyện với một cán bộ Việt Cộng!
nội tuyến nằm vùng trong thời gian chiến tranh đã lộ Được biết Thiện cùng vợ, cưới hồi sau năm 75, đi
ra nguyên hình, chúng đã từng mai phục trong quân du lịch sang Mỹ hơn tháng nay, sau khi rời vùng
đội, các cơ sở hành chánh, kể cả truyền thông báo Washington DC sẽ đến Nam Bắc Cali trước khi trở
chí. về Việt Nam.
Nhưng trường hợp của Huỳnh Chí Thiện thì có lẻ Sau khi hỏi thăm nhau về gia đình vợ con, Thiện
hiếm hoi. Hiếm hoi ở chỗ đã có cái “can đảm” cầm hỏi tôi về những bạn bè hồi ở chung Tiểu Đoàn 91
khẩu súng bắn thẳng vào thân thể của từng thuộc cấp Pháo Binh ai còn ai mất. Sau một hồi chuyện vãn,
của mình, đã một thời phục vụ và chia sẻ những gian đã đến lúc tôi phải nhắc lại chuyện xưa với Thiện,
lao khổ cực, là một điều không phải ai cũng có thể những điều mà không phải chỉ riêng tôi là thằng bạn
làm được. Nếu đã chủ tâm làm nội tuyến cho Việt cùng khóa từng ở chung một căn nhà lúc còn độc
cộng, đến giờ phút phải xuất đầu lộ diện vô bưng, thì thân, mà là nhiều người, nhứt là cùng binh chủng
thiếu gì cách làm tê liệt phản ứng của đơn vị, cần gì Pháo Binh, muốn biết về việc làm tàn ác của Thiện
phải tàn sát anh em lính tráng thuộc quyền của mình, đối với lính tráng của mình.
cần gì phải “lấy điểm” với VC đến như vậy? Chỉ có
người Cộng sản mới làm được việc sắt máu đó. Dỉ nhiên tôi không muốn dùng những lời lẽ hằn
học đối với một thằng bạn cùng khóa từng có nhiều
Sau biến cố nội tuyến của Huỳnh Chí Thiện, các kỷ niệm với nhau, dù nay đã đứng bên kia chiến
đơn vị pháo binh đồn trú ờ các vị trí quận lỵ để yểm tuyến và từng có những hành động tàn ác đối với
trợ lãnh thổ, đã bị địa phương nhìn với cặp mắt nghi anh em thuộc cấp,sau hơn bốn mươi năm trời mới
ngại. Tại quận Minh Đức tỉnh Vĩnh Long, Đ/u Quận nói chuyện lại dù chỉ qua điện thoại. Tôi chỉ ôn tồn
trưởng Trần Đình Hòe gốc BĐQ đã “nói đùa” với nói với Huỳnh Chí Thiện rằng: “ Anh em ở hải ngoại
tôi: “Sơn ơi! Tối ngủ nhớ đừng bao giờ mặc pyjama vẫn ‘oán trách’ việc làm của mầy ở Vĩnh Bình…”,
trắng nghe toa!”. Ngay lúc đó mới thấy tiếc rằng tôi không nở dùng chữ ‘hận thù’.
sáng nay mình đã có ý nghĩ dùng tiền trúng số để
“chuộc lại” Huỳnh Chí Thiện. Khi nghe tôi nhắc đến chuyện nầy, Thiện đã cắt
ngang: “Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến chuyện đó nữa
Câu chuyện nội tuyến VC và giết lính dã man của Sơn ơi! Trong chiến tranh có nhiều chuyện đau lòng
Thiện rồi cũng nhạt dần với thời gian, duy chỉ có lắm. Tao chỉ làm những việc cấp trên của tao ra lệnh,
những anh em Pháo binh gốc Khóa 17 TĐ, cũng như cũng như tụi mình trước đây phải tuân hành lệnh
các bạn bè ở các Tiểu đoàn Pháo Binh thuộc SĐ 9 của thượng cấp giao phó. Thôi bỏ qua đừng nói lại
BB trước đây, thỉnh thoảng gặp nhau vẫn còn nhắc chuyện đó nữa, Sơn!...”. Tôi cũng không nở nói gì
lại sự việc đau buồn nầy. hơn, sau khi qua loa vài câu thăm hỏi, tôi và Thiện
chấm dứt.
***
Bỗng một buổi trưa cách đây hơn một năm, tôi Kể lại nội dung cuộc nói chuyện điện thoại cùng
nhận được điện thoại từ Niên trưởng P.V.Q ở Virginia, Huỳnh Chí Thiện với gia đình và nhiều bạn bè, ai
nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ92PB (kế nhiệm Th/T cũng hỏi tôi, đặc biệt là con trai tôi, là có cảm thấy
Nguyễn Thiện Cường). Ông hỏi tôi có nhớ Huỳnh Thiện có vẻ gì là ăn năn hay hối hận về việc làm tàn
Chí Thiện không? Tôi trả lời ông là làm sao quên nhẩn của mình đối với anh em lính tráng thuộc cấp
được thằng bạn cùng khóa phản bội giết lính theo trước khi vô bưng theo VC không?..Quả tình là tôi
VC. Ông cho biết Thiện đang ở Mỹ, sáng nay nó đi không cảm thấy Thiện có mặc cảm hối hận gì cả, mà
ăn sáng với một người bạn gốc H.O ở Maryland và chỉ là những chống chế biện bạch.
hỏi thăm những người gốc binh chủng Pháo Binh,
biết được số điện thoại của ông nên Thiện gọi thăm. Sau đó tôi gọi sang Cali và vài nơi khác để báo cho
Sau đó ông hỏi tôi có muốn nói chuyện với nó bạn bè cùng Khóa 17 Pháo Binh cũng như các bạn
không để ông cho số điện thoại. Và tôi đã gọi nói ở cùng chung TĐ91PB khi trước, biết việc Huỳnh
chuyện với Huỳnh Chí Thiện trên đất Mỹ nầy. Quả Chí Thiện sang Mỹ du lịch, và cho số điện thoại của
tình thì tôi thực sự xúc động khi nghe lại giọng nói nó nhưng không ai muốn nói chuyện với Thiện hết.
của Thiện, vẫn còn trong và mạnh dù Thiện cho biết Thằng Th. Khóa 15 ở cùng 91PB nói: “Dẹp! Không
đã vào lứa tuổi 76, 77 rồi, và xúc động hơn nữa là có nói chuyện với thằng VC đó! Muốn qua Mỹ nầy
làm một trận Mậu Thân nữa phải không?!”. Thằng L.
1Ð4Ặ0C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ở San José thì mắng tôi: “Mầy đừng có nói chuyện
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
với thằng đó! Hồi ở tù về, gặp nó ở Long Xuyên tao Tóc Thề
sợ thấy mẹ!”.
em mang giọt nắng hồng
Chỉ có V. ở Pháo Binh Dù là bản lãnh: “Để tao nói gieo giữ đời mênh mông
chuyện với nó, sợ đếch gì! Nó sợ mình thì có!”. Và em mang tình nắng ấm
cũng giống như tôi, khi V. đề cập đến việc giết lính cho đời nhiều bâng khuâng
vô bưng theo VC, Huỳnh Chí Thiện cũng cắt ngang em buông giòng tóc mềm
và nói y như đã nói với tôi là thôi hãy bỏ qua chuyện lời tình chưa dám trao
cũ đi…Độ tuần lễ sau đó Thiện gọi lại tôi nói là đang bàn tay chưa dám nắm
ở Cali, cho biết chỉ có nói chuyện được với V. mà măt nhìn đã nhớ nhau
thôi, ngoài ra không có ai. Nhân đó tôi lại khơi màu em mang tim cỏ dại
lại chuyện cũ, là có lẽ anh em vẫn còn “giận” mày về tóc thề rũ ngang vai
vụ ở Vĩnh Bình - tôi cũng không xài chữ “thù”- và mùa thu rơi đầy lối
Huỳnh Chí Thiện vẫn tiếp tục gạt ngang nói chuyện nắng vàng theo áo bay
khác. em mang hồn tình nồng
cho đời thêm nỗi sống
Những lời chót mà Thiện nói với tôi là: “Mầy và xin em giọt nắng đầy
anh em bạn bè đã may mắn được sống và thành công ru tình vừa cơn say
dân của một quốc gia hùng cường nhứt thế giới, con em buông giòng tóc mềm
cái được học hành thành đạt, như vậy là hạnh phúc con đường tình nắng lên
hơn biết bao nhiêu người đang còn ở Việt Nam. miên man hồn gío mới
Chiến tranh là tàn ác, và tụi mình là những con chốt tóc dài xõa trong tôi
trên bàn cờ của những siêu cường…” Tôi không biết em gieo giọt nắng hồng
đó có phải là một câu nói bộc lộ một chút lòng hối cho đời đầy hương thơm
hận, hay chỉ là một câu ngụy biện chạy tội thường thư hồng vừa mới nhận
vẫn có ở những con người điêu ngoa Cộng sản? mà tình đã mong manh
tóc thề, tóc thề ơi
Sau đó độ vài tuần, có lẽ đã đến thời điểm vợ sao em còn ngại
chồng Huỳnh Chí Thiện sắp sửa rời Mỹ trở về Việt cho lòng này bối rối
Nam, Thiện có gọi cho tôi nhiều lần chắc là để từ cho hồn này chơi vơi
giã, nhưng tôi không bắt điện thoại, bởi vì cũng cho tình mình xa xôi
chẳng còn gì để nói với nhau nữa. tóc thề ơi
tóc thề của tôi ơi
Sự kiện Trung úy Huỳnh Chí Thiện, một Sĩ quan
Pháo Binh QLVNCH đã tàn sát lính mình rồi vô bưng khê kinh kha
theo Cộng sản, cả Vùng 4 ai cũng biết đến hành Lời Nhạc “Tóc Thề”
động kinh tởm đó. Đối với thân nhân của những binh
sĩ đã chết dưới bàn tay của Huỳnh Chí Thiện, đến
nay chắc chắn vẫn là một mối hận ngút trời. Đối với
Khóa 17 Thủ Đức nó vẫn còn là một niềm đau chưa
nguôi. Đối với Binh chủng Pháo Binh nó là một cái
gai nhức nhối, và đối với riêng tôi đến nay, còn là
một nỗi mất mát ngậm ngùi./.
Mùa Hè 2014.
Pháo Thủ Tiền Giang.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ4C1
1Ð4Ặ2C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
BẢN ĐỒ TRƯỜNG SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ4C3
Thao trường đổ mồ hôi - Chiến trường bớt đổ máu
Bùnç g hûuä vaâ kyã niïåm quên trûúâng
Cựu SVSQ Nguyễn Xuân Phần Đầu tháng 12 năm 1963, khi đang học trong lớp,
Tr/Đ33-ĐĐ 9-K17TĐ vị Giám thị trường cầm lệnh nhập ngũ đọc tên tôi, Dụ
và Quy, trước sự ngạc nhiên của các bạn, vì lúc ấy
Sau khi thi đậu kỳ thi Tú Tài I Ban A vào mùa Hè học sinh tình nguyện vào quân đội rất ít. Sau khi về
năm 1963, tôi tình nguyện nhập ngũ Khóa 17 SQTB quê nhà từ giả mẹ, tôi lên lại thành phố Phan Rang
Thủ Đức tháng 12 năm 1963. Thời gian nầy quân đến từ giả người chị tinh thần rất đổi thương tôi. Chị
trường còn danh xưng là Liên Trường Võ Khoa Thủ rất buồn cầm tay tôi tiển đưa trong nghẹn ngào, rồi
Đức. Trong khi chờ đợi lệnh gọi nhập ngũ, tôi vẫn dúi vào tay tôi một số tiền gần hai ngàn làm lộ phí
tiếp tục học lớp Đệ Nhất A trường Trung học Công lên đường.
lập Duy Tân Phan Rang với thái độ thờ ơ như một kẻ
rong chơi nhàn hạ, thường trong tay không sách vỡ. Số tiền của chị, cộng với số tiền ba ngàn đồng
của mẹ cho, tôi đã tiêu sạch cho một đêm ăn kem
Các bạn học đều nghĩ chắc tôi đang thất tình một cùng các bạn học tại tiệm kem Tuyết Sơn góc đường
bóng hồng nào đó, vì tôi giữ kín việc tình nguyện Thống Nhất và Ngô Quyền thành phố Phan Rang, và
vào quân đội, ngay cả mẹ tôi, vì sợ mẹ buồn ngăn một bửa tiệc tưng bừng sau đó để ngày mai lên trình
cản việc tôi bỏ học. Với tình thế của Miền Nam lúc diện Trung Tâm 2 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ Tháp
đó bóng dáng chiến tranh đã cận kề, thì lớp người trẻ Chàm.
như tôi chắc phải dấn thân vào binh lửa để làm tròn
bổn phận công dân. Tại đây tôi gặp và quen các bạn khác ngoài Dụ và
Quy như Dương Trọng Hòa nay đã chết, Nguyễn văn
Chung tâm trạng ấy, hai bạn cùng lớp là Nguyễn Lào, Lê văn Kiệt nay còn ở lại quê nhà. Phan văn Sự,
văn Dụ gốc Bắc di cư, nhà ở sau Tòa án Phan Rang, anh Minh, anh Diệu nay chẳng biết tông tích nơi đâu.
và Trần Vinh Quy quê ở thôn Hòn Thiên phía Bắc Anh Minh gốc cán sự Y Tế Bệnh viện Phan Rang bị
thành phố Phan Rang cũng tình nguyện vào Thủ Đức động viên, là người lớn tuổi nhất trong đám anh em
khóa 17 như tôi. Cả ba chúng tôi đều giữ kín chuyện chúng tôi, sau vào Thủ Đức cùng chung Trung đội 33
của mình. Đại Đội 9 với tôi, và anh là tay thiện xạ Garant M1
trong đại đội
Gia đình Dụ ở sau lưng tỏa án vì cha của Dụ làm
nhân viên tòa án. Tôi và Dụ thân nhau từ lớp Đệ Thất Sau khi trình diện quân trường, tất cả các tân khóa
bên trung học bán công Nguyễn Công Trứ. Cha mẹ sinh được lãnh quân trang, cắt tóc ngắn còn ba phân,
Dụ rất mến tôi, mỗi lần đến nhà Dụ ôn bài cuối tuần, y phục rộng thùng thình, xách mang đủ thứ hướng về
tôi thường được dịp ăn cơm chung với gia đình Dụ. khu nhà tiền chế cạnh Vũ Đình Trường. Tôi về Trung
Món ăn chính là rau muống luộc với canh cua đồng, đội 33 Đại đội 9 do Tr/u Trần văn Ba làm Đại đội
món ăn dù đơn sơ đạm bạc nhưng rất ngon miệng.
1Ð4Ặ4C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trưởng. Ông gốc giáo chức bị tái ngũ, là Sĩ quan cán Trung đội 33 từ cửa phòng bước vào bên phải có
bộ cần mẫn, khắc khe về kỷ luật, nên Đại đội của tôi Hiệp lùn nay ở Illinois nhưng gọi phôn hoài không
là ĐĐ gương mẫu của Khóa 17. liên lạc được. Tỉnh lùn hay ra vào phòng Thiếu úy
Cao Ngọc Tú mỗi lần đi phép về. Nguyễn Hạng da
Quân số đại đội khoảng 120 người gồm 4 trung đen hiền hòa hay coi bói chỉ tay, thường bị Hùng con
đội, Trung đội 33 do Th/u Cao Ngọc Tú làm Trung chọc phá, anh Hạng đã chết gục trong trại tù Cũng
đội trưởng, Trung đội 34 do Ch/u Nguyễn Hữu Vẹn, Sơn vì bệnh gan vào năm 1978 có tôi chứng kiến tận
Trung đội 35 Ch/u Ông văn Chính và Trung đội 36 mắt giờ phút lâm chung của anh tại Bệnh xá 54 thuộc
Thiếu úy Lê Kỳ Ngộ. Ngày mãn khóa 23 tháng 10 Tổng trại 5 Tuy Hòa nơi quê anh, thân xác bị vùi dập
năm 1964, đại đội tôi danh dự có được sĩ quan tốt sau trạm xá, vợ con không ai hay biết.
nghiệp Thủ Khoa, đó là bạn Nguyễn Kim Long. Nay
bạn Long đã qua đời cách đây mấy năm sau khi được Nguyễn văn Xên người Nam cao trắng, cùng anh
định cư bên Úc. Nguyễn Ngọc Bửu quê Ninh Hòa da đen bóng đẹp
trai, cả hai cùng cầm quốc quân kỳ trước hàng quân
Suốt hai Giai đoạn 1 và 2, các bạn cùng đại đội tôi đại đội. Xên không rõ mất còn, còn Bửu đã hy sinh
còn nhớ được như Nguyễn văn Phúc có nốt ruồi bên tại chiến trường Miền Tây trước năm 1975, tôi có
mũi trái, đã gặp bạn tại San José. Bạn Trương Cảnh gặp vợ con anh tại San José.
Đôn ra trường về Lực lượng Đặc Biệt, đã tự tử chết
trên đường công tác. Nguyễn Thế Đỉnh BĐQ định cư Bạn Lâm Tấn Phước nằm trên tầng hai giường kế,
ở Nam Cali với đầu bạc trắng có biệt danh “Đỉnh Đầu tầng trên của giường kế bên là tôi, nên cả hai rất thân
Bạc”. Bạn Tô văn Mười LLĐB nay ở Nam Cali. Bạn nhau kể cả lúc ra bãi tập, xa cách nửa thế kỷ không
Phạm Châu Tài đại diện Sinh viên Khóa sinh, cùng biết anh về đâu. Nhân đọc danh sách các bạn cùng
với bạn Lê Tấn Tài đại diện Vũ Khí. Phạm Châu Tài khóa thấy tên anh cùng địa chỉ và điện thoại, tôi vội
đã chiến đấu kiên cường anh dũng trong LĐ 81 Biệt gọi ngay, cũng là lúc anh đang dự đám cưới tại một
Cách Dù nay cũng định cư ở Nam Cali. nhà hàng gần San José, cách chỗ tôi ở 15 miles vào
một buổi chiều đầu tháng 6/2014 này.
Trương Đăng Định về Pháo Binh nay không biết
ở đâu. Bạn Lê văn Ni về Quân Cụ, sau đó bị đưa ra Cả hai xúc động vui mừng, nhắc lại bao kỷ niệm
bộ binh đã qua đời tại San José. Bạn Nguyễn văn năm xưa, từng tên các bạn, nào Sinh cao hầu kỳ,
Nư biệt danh trâu nước nay định cư ở Tiểu bang nào Hiệp lùn. Trịnh Hiếu Chánh da ngâm đen hay đi
Minesota. Bạn Trần khắc Thịnh biệt danh Thịnh khom về trước. Nào Thành ca hay đàn giỏi, hay cầm
Đen, giày bóng như gương, ra trường về SĐ22 nay guitar đờn vang những bản tình ca khi cả trung đội
bán chợ trời ở San José. Bạn Lê Đình Bảo ra trường nghỉ ngơi tại phòng. Nào Mai văn Việt Hùng cưòi
đi TQLC nay định cư ở thành phố Irvine Nam Cali . vui rạng rỡ, nào Hảo nào Mừng nay biền biệt nơi
Bạn Đào Kim Trọng lanh lẹ hay chọc phá anh em, đi đâu?
PB Dù nay cũng ở Nam Cali.
Bạn Hứa Thanh Hiệp da trắng có vẻ như lai tàu,
Riêng Trung đội 33, tôi nhớ hơi nhiều vì có vài một Hoàng Hữu Thuận gốc Bắc Kỳ di cư, nóng nảy
kỷ niệm khó quên. Tr/đ 33 nằm gần văn phòng Đại nhưng chân thật, mỗi lần giận dữ anh hay lớn tiếng
Đội do Th/u Cao Ngọc Tú làm Trung đội trưởng. om sòm, bạn bè ít ai dám chọc anh giận, nay Thuận
Sinh viên lớn tuổi gồm có anh Minh cán sự y tế, anh hiện định cư tại Orange County, Nam Cali.
Thành gốc Bắc Kỳ, anh Hạng gốc giáo sư. Hạnh trẻ
nhất mới 18 tuổi và Nguyễn xuân Hùng biệt danh Bên trái có Liểu Hùng Dũng biệt danh Dũng lèm
Hùng con nay đã chết. Nguyễn Hữu Hiếu đi Quân bèm, vì đến giờ ngủ, trung đội có ai ồn ào to tiếng
Nhu có nhiểu kỷ niệm với tôi. là anh hay quát lớn: “Im đi! Nếu không sẽ lên trình
báo văn phòng Đại đội!”. Có Hạnh con nhỏ nhất đại
Ra trường gặp lại Hiếu ở Quân Nhu SĐ22, khi tôi đội, tánh tình trầm lặng như ông cụ, ít chơi thân với
thuyên chuyển về Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn ở ai, ra trường về ngành An ninh Quân đội. Có Nguyễn
Dục Mỹ có gặp Hiếu đi thanh tra Quân Nhu tại đây. Thới Dưởng, biệt danh Dưởng lé, ra trường về BĐQ,
Có một lần tôi được đề cử làm Bồi Thẩm tại tòa án thăng cấp sớm nhất và hy sinh cũng sớm nhất. Cạnh
Quân sự Nha Trang, ghé lại nhà Hiếu nhậu say một Dưởng có Cầu cùng về BĐQ và cũng đã hy sinh.
đêm, hôm sau ngồi ghế xử ở Tòa án mà mặt tôi còn
đỏ gấc vì men rượu. Nay Hiếu trôi giạt về đâu, hỏi Lê Tấn tự Tấn lắc, nay đã từ Mỹ trở về sống tại
các bạn Quân Nhu không ai rõ. Nha Trang. Phan văn Trước tự Trước cà lăm nay còn
ở lại Việt Nam. Kế đến có Nguyễn Năng Chín gốc
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ45C
Bắc Kỳ di cư và Nguyễn Xuân Căn cũng Bắc di cư, đó vài tháng, để lại người vợ trẻ và một con thơ tại
Căn là em rễ của Chín. Mỗi lần nhận cơm ở bãi tập Mỹ Tho.
cả hai gọi nhau ơi ới, sắp hàng nhanh nhất để ưu tiên
lãnh trước. Ra trường Chín về Quân Cụ, còn Căn về Ngồi viết lại những dòng chữ nầy, dỉ vãng đã qua
Quân Y do có phe cánh chớ không phải do kiến thức đúng nửa thế kỷ. So với thời gian vô tận thì quá ngắn,
chuyên môn. nhưng so với một đời người thì quá dài. Biến cố 30
tháng 4 năm 1975 cùng chung vận nước trong cái
Về cuộc thi “Trắc nghiệm Tâm Lý” theo tôi, rất đau ngút ngàn oan trái, chúng ta đã mất tất cả, gia
chính xác đến 95%, sự việc nầy tôi còn nhớ rõ như đình ly tán, bạn hữu cách xa.
sau, tôi có hỏi một số bạn bè cùng khóa nhưng đều
không nhớ được. Đó là đầu Giai đoạn I có cuộc thi Nay có bạn may mắn thoát được đến bến bờ tự do,
Trắc nghiệm Tâm lý để chọn đi ngành chuyên môn. có bạn còn kẹt lại nơi quê nhà, có bạn đã vỉnh viễn ra
Tôi ngồi giữa, bên phải tôi là Nguyễn Tấn Nhym (Y đi. Việc tổ chức “Họp Mặt Kỷ Niệm 50 Ra Trường”,
dài chớ không phải I ngắn) bên trái là Trần Vinh Quy. chính là điều ấp ủ và mong mõi của toàn thể anh em
Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Nguyễn Thái Học
Các câu hỏi trong bài trắc nghiệm có các câu như của chúng ta…./…
sau:
Nguyễn Xuân Phần
-Các ca sĩ, anh thích ca sĩ nào nhất? Tr/Đ 33- ĐĐ 9- K17TĐ
-Các nhạc sĩ, anh thích ai nhất?
Tôi trả lời thích ca sĩ Thanh Thúy nhất, về nhạc Tïuë
sĩ tôi thích Trúc Phương. Nhìn xem các bạn phải trái
chưa thấy ai ghi. Đến câu tiếp là bài làm về ghép CÁI “KIM ĐỒNG HỒ”
hình, tôi làm cho có lệ thôi, Quy cũng thế. Riêng
Nhym làm rất kỹ lưởng gạch từng vạch ngang dọc Một ông tuổi cuối thu mới sắm được một đôi giầy
vào hình. Cuối là đề thi toán có 6 câu, tôi làm được 4 rất ưng ý. Vừa bước vào nhà, cụ liền khoe với cụ bà:
câu, Quy làm mạch lạc đúng cả 6 câu. Kết quả Nhym
được chọn về Công Binh Kiến Tạo, Quy về Pháo - Này bà! Bà có nhận ra điều gì khác lạ trên người
Binh, còn tôi học tiếp Giai đoạn 2 ra trường về Bộ tôi không?
Binh. Các bạn thấy kết quả chính xác không, vì cả ba
không có ai thân thích trong quân đội cả. Cụ bà nhìn sơ rồi đáp:
Qua Giai đoạn 2 có một số đi ngành, một số các - Tôi chẳng thấy gì khác lạ cả! Vẫn cái áo ông
bạn ở các đại đội khác dồn lại. Đại đội 9 nay đổi mặc từ tuần trước. Cái quần vẫn cáu bẩn như vậy!
thành Đại đội 4, Trung đội tôi nhận người mới vào, Bực mình, cụ ông vào phòng cởi bỏ hết quần áo,
tôi chỉ còn nhớ 4 bạn đó là Hoàng Hạp về TQLC, bạn đi ra hỏi bà vợ:
Hiền, bạn Ngọc, anh Dục gốc Không Quân. Nguyễn - Thế nào, bây giờ bà có thấy điều gì khác lạ trên
văn Ngọc tự Ngọc lùn ra trường về SĐ22BB sau biệt người tôi chưa?
phái Cảnh sát. Cuối cùng về làm Quận Trưởng An - Tôi chẳng thấy điều gì khác lạ cả! Vẫn là cái
Nhơn, Bình Định với cấp bậc Thiếu Tá, nay Ngọc “kim đồng hồ” lúc nào cũng chỉ sáu giờ rưỡi! - Cụ
định cư ở San José. bà thở dài.
Cụ ông hớn hở:
Giờ đây thời gian mịt mù lước qua, bước vào tuổi - Phải rồi! Nó chỉ sáu giờ rưỡi bởi vì nó đang nhìn
trên “thất thập”, cảm thấy mình đã già quá đổi nhưng xuống đôi giầy mới của tôi đây này!
lòng vẫn còn đầy ấp những kỷ niệm năm xưa. Hình Cụ bà bỗng tươi tỉnh hẳn lên:
ảnh các bạn hữu vẫn còn in đậm trong ký ức, nhớ - Vậy hả! Vậy ngày mai ông nên đi mua cái mũ
bạn Trần Thúc Vũ nhà văn, tức cựu SVSQ Bùi Kim mới đi nhé! cho cái kim đồng hồ chỉ ngược lên.
Đính, thường hay ghé đại đội thăm tôi và các bạn văn
nghệ khác vào những lúc rảnh rang việc học tập, nay ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đã qua đời tại Bệnh viện Anaheim Nam Cali vào năm
2005. Nhớ bạn Lữ Đắc Quảng, tức nhà thơ Hoài Lữ,
em ruột Trung Tướng Lữ Lan khóa 18 TĐ, ra trường
về Tiểu khu Gia Định, đã hy sinh tại đồn Bà Tà sau
1Ð4Ặ6C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thuúã Chinh Chiïnë Cuä
GIẢ TỪ ĐÀ NẲNG
ĐẦU THÁNG 4 NĂM 1975
Cựu SVSQ/K17TĐ Trần văn Hên vụ , chỉ biết những việc mà mình phải thi hành hằng
ĐĐT/ĐĐ Duyên Hải ngày trong phạm vi đơn vị của mình . Những vấn đề
chiến thuật , chiến lược , đối sách , thật sự là ngoài
Tưởng niệm anh linh các chiến sĩ Thủy Quân Lục khả năng hiểu biết và nhiêm vụ của tôi .
Chiến Đã anh dũng hy sinh trên bãi biển Thuận An
ở Huế , trên bãi biển Mỹ Khê , bãi biển Non Nước ở Ở vị trí một Đại Đội Trưởng , tôi chỉ điều động
Đà Nẳng năm 1975. được những sinh hoạt của đơn vị mà tôi trực tiếp chỉ
huy theo lệnh của cấp chỉ huy trên tôi . Tôi có thể
NHỮNG NGÀY ĐẦU THÁNG BA NĂM 1975 hiểu biết thêm một số sinh hoạt trong nội bộ của Tiểu
TẠI QUẢNG TRỊ VÀ HUẾ Đoàn mà tôi được cho biết . Đây cũng là tâm trạng
chung của những người đồng cấp như tôi . Tuy nhiên
Khoảng tháng 7 năm 1973 . Từ Tiểu Đoàn 9 Thủy không hẳn sự nhận biết của tôi về những biến cố bên
Quân Lục Chiến , tôi được điều động về Tiểu Đoàn ngoài xã hội sẽ bị đóng khung trong sinh hoạt thường
Yểm Trợ Thủy Bộ tiếp nhận Đại Đội Duyên Hải từ ngày của đơn vị mà tôi đang phục vụ .
niên trưởng Hiếu Khóa 12 Thủ Đức . Đại Đội Duyên
Hải là một đơn vị thành lập cho riêng Binh Chủng Những ngày đầu tháng 3 năm 1975 có thể nói là
Thủy Quân Lục Chiến . Nhiệm vụ chính là một đơn những ngày dài đen tối nhất trong cuộc chiến đã kéo
vị được xử dụng để lập đầu cầu đổ bộ cho những dài gần 20 năm . Giữa những người cộng sản cuồng
cuộc hành quân thủy bộ từ ngoài khơi vào đất liền vọng và những người Việt Quốc Gia quyết tâm bảo
. Nhưng sau năm 1973 , theo nhu cầu thực tế Đại vệ Tổ Quốc trên mãnh đất còn lại của Miền Nam
Đội Duyên Hải phải phân tán thành nhiều toán tăng Việt Nam . Hằng ngày thu thập tin tức trên báo chí
phái cho các đơn vị khác đang tham chiến trên tuyến , trên đài phát thanh Sài Gòn , cùng những bản tin
Quảng Trị . trên đài phát thanh ngoại quốc như đài BBC ở Luân
Đôn , đài VOA ở Mỹ … Những bản tin về chiến
Những ngày đầu tháng 3 năm 1975 . Hằng ngày sự , những bản tin bình luận về tình hình chính trị
theo dõi tin tức chiến sự , cùng những biến cố đang của Miền Nam Việt Nam đã nói lên những biến cố
xảy ra chung quanh vị trí phòng thủ của đơn vị . Tôi dồn dập, hoàn toàn bất lợi và nguy hiểm cho tình thế
cũng như các quân nhân trực thuộc giữ vững tinh Miền Nam trước áp lực chiến tranh của cộng sản Bắc
thần trách nhiệm và chờ lệnh . Chúng tôi không thể Việt và sự quay mặt lạnh lùng của thế giới .
nào biết trước được những gì sẽ đến với chúng tôi
trên đoạn đường đen tối đang ở trước mặt … Trong khoảng thời gian nầy , có thể tóm lược tình
thế qua những gì mà tôi nhận thấy :
Trong thời điểm nầy , những ngày đầu của tháng 3
năm 1975 . Tôi không thể hiểu được các cấp lãnh đạo . Chiến sự đã bộc phát trên khắp 4 Vùng Chiến
ở Trung Ương , các cấp chỉ huy trong Quân Lực Việt Thuật , áp lực nặng nề là Vùng II . Nhất là các tỉnh
Nam Cộng Hòa , các Tư Lệnh chiến trường đã có thuộc vùng Tây Nguyên như Kontum , Pleiku , Buôn
những nhận định gì , những giải pháp gì để đối ứng Mê Thuộc đã có những cuộc di tản của dân chúng
với hoàn cảnh đất nước hiện nay không ? Đây chỉ là về khu vực biển như Nha Trang theo quốc lộ 21 và
một số điều suy tư của bản thân tôi trước cuộc diện Qui Nhơn theo quốc lộ 19 . Kế đến là Vùng I cũng có
. Là một quân nhân ở cấp chỉ biết thừa hành nhiệm chung tình trạng như Vùng II , dân chúng từ Quảng
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ Ð1Ứ4C7
Trị , Huế , Quảng Ngải bắt đầu di tản về Đà Nẳng . thanh toán lẫn nhau tại bến phà Thuận An . Có những
Từ những biến động trong sinh hoạt của dân chúng cuộc chạm súng trong đêm giữa các lực lượng quân
ngoài xã hội . Các đơn vị hành chánh cũng như các sự của chi khu Phú Vang với các đơn vị cộng sản địa
đơn vị quân sự địa phương ở những vùng địa đầu phương .
chiến tuyến đã âm thầm bỏ nhiệm sở , rời vị trí theo
làn sóng di tản , tạo thành những vùng đất bỏ ngỏ - Ngoài ra có nhiều gia đình từ Quảng Trị và
không người . Huế chọn con đường di tản bằng đường bộ , bằng
mọi phương tiện di chuyển kể cả việc phải đi bộâ
. Từ Trung Ương các cấp lãnh đạo hình như chưa trên Quốc Lộ 1 để vào Đà Nẳng . Tôi có tiếp xúc hỏi
có giải pháp gì để đối kháng với kẻ thù ngoài kế thăm với vài gia đình di tản từ Quảng Trị vào Huế thì
hoạch di tản chiến thuật ở Vùng II . được nghe nhiều câu trả lời , tựu trung có hai ý làm
tôi luôn ghi nhớ : “ Chúng tôi không thể sống với
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ Ở TÂY NGUYÊN cộng sản “ và “ Thủy Quân Lục Chiến ở đâu chúng
Ngày 11 tháng 3 năm 1975 . Tôi nhận lệnh di tôi ở đó “ . Tôi đã đưa ý kiến với Tiểu Đoàn Trưởng
trình về Bộ Tư Lệnh , xin rút các toán Duyên Hải
chuyển Đại Đội Duyên Hải vào Đà Nẳng tiếp nhận tăng phái cho các Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn trở về để có
bàng giao căn cứ Non Nước với một đơn vị Nhảy đủ quân số và dễ dàng điều động , nhưng không được
Dù . Khi tôi nhận được lệnh nầy , thì tình hình chiến chấp thuận .
sự theo tôi nhận thấy là đã đi đến giai đoạn vô cùng
nghiêm trọng . Bản tin từ đài BBC Luân Đôn loan tin Cư dân Huế di tản vào Đà nẳng trên Quốc Lộ 1 .
: Buôn Mê Thuộc đã bị thất thủ vào ngày 11 tháng 3 Tháng 3 năm 1975
năm 1975 . Dân chúng cùng các lực lượng Quân Đội
đang mở đường máu di tản chiến thuật dọc theo Quốc NHỮNG NGÀY GIỮA THÁNG BA NĂM 1975
Lộ 21 để về hướng biển Nha Trang . Còn Kontum TẠI CĂN CỨ NON NƯỚC
và Pleiku dân chúng và các lực lượng Quân Đội cũng
đang mở đường máu di tản chiến thuật theo Quốc Lộ Ngày 13 tháng 3 năm 1975 . Đại Đội Duyên Hải
19 để về vùng biển Qui Nhơn . Về mặt lãnh thổ thì chúng tôi di chuyển từ Huế vào Đà Nẳng để nhận
vùng Tây Nguyên là một điểm trọng yếu về chiến bàn giao phi trường Non Nước từ một đơn vị yểm trợ
lược nhưng nay không còn giữ được nữa , thì Vùng của Sư Đoàn Nhảy Dù . Đơn vị nầy sẽ di chuyển về
II chiến thuật sẽ khó mà duy trì trong những ngày sắp Sài Gòn . Thành phần quân số của chúng tôi lúc nầy
tới . Theo tin tức được loan trên hệ thống phát thanh gồm có Ban Chỉ Huy Đại Đội , Trung Đội Xuồng
Sài Gòn có một Lữ Đoàn Nhảy Dù đang án ngử tiếp máy và một Trung Đội Duyên Hải .
ứng ở Khánh Dương . Trong khi đó tình hình ở Vùng
I cũng trở nên nghiêm trọng . Cư dân ở Quảng Trị Căn cứ Non Nước còn gọi là Phi Trường Non
và Huế ồ ạt di tản vào Đà Nẳng . Cảm nhận đầu tiên Nước hay là phi trường Nước Mặn . Theo như tôi
của tôi là cuộc chiến ở Miền Nam đang đi vào chung được biết , trước đây phi trường nầy là một căn cứ
cuộc . Vùng I đang trong tình thế bị chia cắt cô lập quân sự do một đơn vị đặc biệt của Mỷ thiết lập và
với Sài Gòn . Con đường về lại phương Nam trước điều hành , nhằm để thực hiện những chuyến công
mắt tôi hình như đang từ từ khép lại , tôi thấy chỉ tác đặc biệt xâm nhập của các toán Lôi Hổ và Biệt
còn một hướng đi vô vọng thâm thẩm không có điểm Hải vào lãnh thổ Bắc Việt . Sau năm 1966 thì ngưng
đến sau cùng . Và tôi không loại bỏ ý nghĩ sẽ có một hoạt động . Hiện tại không có đơn vị nào đồn trú ,
ngày di tản chiến thuật đang diễn ra như ở Vùng II đây là một khu vực rất rộng , nên chúng tôi chỉ có
Chiến Thuật .
TÌNH HÌNH TẠI THỪA THIÊN HUẾ VÀ CỬA
THUẬN AN
Trong thời điểm nầy , tình hình sinh hoạt tại thành
phố Huế và khu vực ở cửa Thuận An bắt đầu xáo trộn
bất an .
- Một số đông quân nhân địa phương và gia đình
, cùng dân chúng đang tập trung về đây để tìm cách
di tản bằng đường biển . Có cảnh trả thù cá nhân
1Ð48ẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khả năng bảo vệ khu vực trú đóng của đơn vị và cổng cho toàn khu vực chung quanh Đà Nẳng và những
vào phi trường . Vài ngày sau , toàn bộ Tiểu Đoàn vùng phụ cận . Diễn tiến sinh hoạt trong dân chúng
Yểm Trợ Thủy Bộ di chuyển từ Huế đến căn cứ , trú tại thành phố Đà Nẳng mỗi ngày càng tăng mức loạn
đóng chung với Đại Đội Duyên Hải ở khu vực gần động nhiều tệ trạng xã hội đã xảy ra , không kiểm
cổng phi trường . soát được an ninh trật tự , thành phố gần như bỏ ngỏ
…
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG BA NĂM 1975
di chuyển từ Hương Điền đến căn cứ , vị trí Bộ Tư TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẲNG
Lệnh được thiết lập cạnh bãi biển . Hậu trạm của các NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 1975
Tiểu Đoàn cũng tập trung trong căn cứ . Còn lịch
trình di chuyển của các Tiểu Đoàn từ Quảng Trị vào - Từ những ngày giữa tháng 3 đến 24 tháng 3
Đà Nẳng để thay thề các đơn vị Nhảy Dù tôi hoàn năm 1975 , người di tản từ các nơi đến Đà Nẳng mỗi
toàn không được biết . Chỉ nghe nói lại một cách ngày một đông , mọi sinh hầu như đều bị xáo trộn ,
tổng quát từ đơn vị trưởng trực tiếp của tôi mà thôi bất an . Từ mấy ngày hôm trước đến ngày 26 tháng 3
. Theo những gì tôi ghi nhận trong khoảng thời gian năm 1975 tôi ghi nhận được một số tin tức từ những
nầy thì có mấy điểm chính liên quan đến việc điều người di tản :
động các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến như sau :
. Khoảng thời gian 23 , 24 tháng năm 1975 :
Ngày 16 tháng 3 năm 1975 : Lữ Đoàn 369 Thủy Quảng Trị hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của
Quân Lục Chiến từ Quảng Trị di chuyển về Đại Lộc cộng sản bắc việt . Các đơn vị địa phương đã tự rời
– Đà Nẳng . bỏ vị trí từ nhiều ngày trước .
Ngày 18 tháng 3 năm 1975 : Lữ Đoàn 258 . Khoảng thời gian 25 , 26 tháng 3 năm 1975 :
Thủy Quân Lục Chiến từ Mỹ Thủy di chuyển về đèo Thừa Thiên – Huế nằm trong sự kiểm soát của lực
Phước Tường để giữ trục di chuyển chiến thuật trên lượng cộng sản Bắc Việt và đang lập chánh quyền .
Quốc Lộ 1 – thuộc vùng phía Bắc đèo Hải Vân . Lữ
Đoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến cũng đang trách . Khỏang thời gian 23 , 26 tháng 3 năm 1975
nhiệm tại khu vực đèo Hải Vân . Quảng Ngãi và một phần lớn lãnh thỗ của tỉnh Quảng
Nam đã bị cộng sản chiếm đóng , chỉ còn lại khu vực
Từ thời điểm nầy và những ngày sau đó , toàn Đà Nẳng và một số vùng phụ cận . Một số các đơn
cảnh thành phố Đà Nẳng đã có nhiều biến động bất vị thuộc Sư Đoàn 2 Bô Binh từ Quảng Ngãi di tản về
ổn . Dân chúng cùng quân nhân thuộc nhiều binh Đà Nẳng .
chủng từ Quảng Trị , Huế đã di tản vào thành phố Đà Những điều tôi ghi lại trên đây là những nguồn tin
Nẳng rất đông . Bối cảnh mỗi ngày thêm hổn loạn vô mà tôi thu thập được vào những ngày cuối tháng 3
cùng phức tạp . năm 1975 ở vị trí của một người quân nhân cũng là
một chứng nhân . Hơn 10 năm sau , tôi vượt biên
Trên Quốc Lộ 1 – Từ Huế vào Đà Nẳng – Người dân di bằng đường biển đến tị nạn tại Hoa Kỳ , được xem
tản phải đi bộ dưới hỏa lực của cộng sản bắc việt – Đang lại những thước phim tài liệu ghi lại hình ảnh của
được các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến giải thoát và chăm những cuộc di tản chiến thuật của vùng II trên Quốc
sóc thương tích . Lộ 19 và Quốc Lộ 21 , của Vùng I trên Quốc Lộ 1
( ảnh trích trong tập san Sóng Thần TQLC ) từ Quảng Ngải về Đà Nẳng và từ Huế về Đà Nẳng
không khác gì cảnh tượng giết hại kinh hoàng người
Một số đơn vị địa phương đã tự rời bỏ vị trí dân vô tội đã diễn ra trong những ngày mùa hè đỏ
phòng thủ , tạo nên một bối cảnh nguy hiểm bất an lửa năm 1972 trên Quốc Lộ 1 từ Quảng Trị đến Mỹ
Chánh . Cộng sản Bắc Việt luôn cố tâm bắn giết để
mong ngăn chận làn sóng di tản , họ có thể làm chủ
tình thế nhưng không ngăn chận được ý muốn của
người dân . Khi được xem những thước phim nầy tôi
xác định với một câu ngắn gọn : “ cộng sản lúc nào
cũng khát máu , vô nhân đạo , là những con người
không có nhân tính “ .
Tại thành phố Đà Nẳng trong những ngày nầy ,
có thể ghi nhận tổng quát như sau :
. Dân chúng từ các nơi di tản về Đà Nẳng quá
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨ14C9
đông , sống lây lất khắp đường phố , lâm vào cảnh là khu vực có căn cứ Trần Ba của Thủy Quân Lục
đói lạnh , không có sự chăm sóc y tế . Chiến trong phi trường Thái Dương Hạ , Đại Đội
Duyên Hải của tôi có trách nhiệm bảo vệ căn cứ nầy
. Các đơn vị hành chánh và quân sự địa phương . Tôi thường xuyên theo dõi tình hình và tìm hiểu địa
đã rời bỏ nhiệm sở từ nhiều hôm trước . thế . Nhận định về toàn cảnh chung quanh khu vực
bãi biển Thuận An , về mặt địa hình thì đây là một
. Có nhiều quân binh chủng từ các nơi đổ dồn vùng đất rất hẹp , giống như cồn cát nằm giữa hai cửa
vào thành phố Đà Nẳng không theo tổ chức đơn vị , biển , phía bắc là cửa Thuận An , phía nam là cửa Tư
không có hệ thống chỉ huy , thật vô cùng phức tạp . Hiền . Mặt ngoài là biển , mặt phía trong là đầm lầy
nước mặn .
. Từ căn cứ Non Nước có thể quan sát về hướng
phi trường quân sự Đà Nẳng , phi cơ lên xuống tấp Sơ đồ Huế và bãi biển Thuận An
nập để thực hiện những phi vụ di tản , tạo thêm sự Riêng cửa biển Thuận An là điểm hợp lưu của hạ
hoang mang cho cư dân trong vùng .
lưu sông Hương với một đầm nước mặn rộng lớn tạo
. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I gần như bỏ trống , thành một túi nước khổng lồ trước khi chảy ra biển
chỉ còn vài bộ phận nhỏ làm việc , tất cả hầu như bất Đông , người dân địa phương thường gọi là Phá Tam
lực không còn khả năng điều động . Giang . Để dễ dàng nhận định về địa thế cửa biển
Thuận An , có thể lấy cửa biển làm tâm điểm :
Cảnh di tản trên một bãi biển vùng duyên hải miền
Trung . Ngày 9 tháng 4 năm 1975 - Bờ phía bắc là Thôn An Dương - Thái Dương
Thượng , một bãi cát rất hẹp , phía ngoài là biển ,
Trong thời điểm nầy , theo tôi được biết thì chỉ có phía trong là đầm nước mặn chạy dài từ cửa Thuận
các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến là không bị giao An lên đến quận Hương Điền , từ bờ Bắc có một con
động, giữ vững vị trí và đánh bật những cuộc tấn đường đất rất hẹp thông với bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở
công của lực lượng cộng sản Bắc Việt . Hương Điền . Tại bờ Bắc là một xóm làm nghề biển
với khoảng trên hai trăm ngôi nhà với một số lớn ghe
NGÀY 26 THÁNG 3 NĂM 1975 VỚI LỮ ĐOÀN lưới cá hằng ngày ra vào cửa biển Thuận An .
147 NƠI CỬA THUẬN AN
- Bờ phía Nam là Thôn Thái Dương Hạ , có phi
Sáng ngày ngày 26 tháng 3 . Tôi được tin Lữ trường Thái Dương Hạ do người Mỹ thiết lập đã bỏ
Đoàn 147 tan tại bãi biển Thuận An . Sư Đoàn đang hoang phi đạo hư hỏng hoàn toàn , không còn sử
nổ lực tìm cách bốc những toán quân nhân tản mác dụng được nữa . Nơi đây cũõng là một bãi cát chạy
trong vùng bằng đường biển, dùng trực thăng thả dài về phía Nam , phía ngoài là biển , phía trong
lương khô và nước uống cho nhiều toán còn tản mác đầm nước mặn , có một xóm lưới đông đúc hơn xóm
trên bãi biển . Nhưng số quân nhân về được rất ít . lưới bờ bắc , nằm bên ngoài vòng đai phi trường .
Sau khi được hậu trạm tái trang bị , một số quân nhân Trong phi trường có hai đơn vị đồn trú : một đơn vị là
rời căn cứ đi ra ngoài , có thể là để về với gia đình , của Đại Đội Duyên Hải Thủy Quân Lục Chiến thuộc
hoặc tìm đường di tản . Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ và một là xưởng sửa
chữa tiền phương của Hải Quân Vùng I , chịu trách
Khi nhận được tin nầy , tôi vừa sửng sốt , vừa nhiệm phòng thủ tổng quát toàn khu vực phi trường
nghe chua xót khi nghĩ đến sự sống còn của các đồng . Từ thành phốâ Huế đi xuống cửa Thuận An chỉ có
đội . Tôi không hiểu vì sao Lữ Đoàn lại chọn bãi biển một con đường nhựa hỏ hẹp , ra khỏi quận Phú Vang
Thuận An làm điểm triệt thối . Vì nơi đó kể từ sau , bên phải là một khu đầm lầy rộng lớn chạy dài theo
ngày 11 tháng 3 trở đi đã không còn an toàn . Đâây trục lộ cho đến bến phà , bên trái là sông Hương .
- Khoảng cách giữa bờ phía Bắc và bờ phía Nam
, khi mực nước lên cao ước tính gần cây số , khi mực
nước hạ xuống thấp thì tại cửa rất cạn có cồn cát ở
giữa cửa nên tàu lớn không thể qua cửa để vào bến
phà khi nước thủy triều xuống thấp .
- Về phía mặt biển , bờ biển có nhiều cồn cát nhỏ
, nên có chỗ sâu chỗ cạn , biển thường bị động , nếu
tàu ủi bãi không được hướng dẫn từ trên bãi có thể
1Ð5Ặ0C SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC