The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Ebook BỤI PHẤN - Lớp Nhất 7-Nhị 15-Khóa 11-Sư Phạm Saigon

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by xuanloc54, 2019-01-16 09:19:38

BỤI PHẤN - Sư Phạm Saigon

Ebook BỤI PHẤN - Lớp Nhất 7-Nhị 15-Khóa 11-Sư Phạm Saigon

1|Page

2|Page

LỜI NGỎ

Chiều nay, người giáo sinh già trở về thăm trường cũ
mà thấy lòng mình mênh mang… Người xưa đã từng nói :
“Tuổi trẻ thường hướng về tương lai còn tuổi già thường
hay nhớ về quá khứ!” Buồn hay vui ? Câu hỏi day dứt của
một kiếp nhân sinh về hoài niệm . Thôi thì thôi, thế thời,
thời phải thế ! Bởi vì năm tháng trôi qua có bao giờ trở lại
và những kỷ niệm ngày xưa biết tìm nơi đâu ?

Hơn bốn mươi năm qua cảnh vật giờ đây đã thay đổi
quá nhiều. Ngôi trường Sư phạm Saigon ngày xưa với
dãy lầu hai tầng cổ kính đã được thay bằng một toà nhà
hoành tráng, hiện đại , trường đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh. Từng tốp sinh viên trẻ trung, xinh đẹp
ra vào cổng khác hẳn năm nào các giáo sinh chỉ được mặc
đồng phục, nam áo sơ mi trắng, nữ áo dài trắng. Không
còn những băng ghế đá dưới hàng phượng vĩ hè về nở
hoa đỏ thắm , những cánh hoa tuổi học trò đầy ắp những
kỷ niệm mộng mơ! Không còn những giáo sinh tuổi đôi
mươi sôi nổi học tập, tranh luận trước tấm bảng xanh trên
có dòng chữ “Lương sư hưng quốc”. Không còn những

3|Page

buổi picnic, dã ngoại tuy mệt nhoài nhưng vui vẻ, đầy ắp
tiếng cười…

Và ngày ấy đã có những mối tình thật đẹp. Có những
bạn hẹn ngày ra trường nên duyên vợ chồng ; có những
người thơ thẩn nhặt từng cánh phượng rơi nơi sân trường
kết thành cánh bướm tặng nhau; có những người nhìn
mưa rơi làm thơ ước hẹn ngày tốt nghiệp sư phạm :

Em hãy trông, hãy đợi buổi giao mùa

Ánh nắng vàng hút cạn biển sầu mưa

Anh trở lại trường xưa trong nắng mới

Hỏi em yêu còn nhớ những ngày xưa ?

Ngày xưa của buổi tan trường là thời điểm chiến tranh
khốc liệt. Những nam giáo sinh phải về dạy những nơi xa
xôi, hẻo lánh để được “động viên tại chỗ” vì lý do công
vụ; những nữ giáo sinh thì được ưu tiên chọn nhiệm sở
tại phố thị thuận lợi. Thế là bạn bè mỗi người một ngả ,
không còn dịp gặp nhau vì đường sá xa xôi, cách trở…

… Rồi hoà bình lập lại. Đó là thời kỳ khó khăn của đất
nước sau chiến tranh. Mỗi người giáo viên ngoài giờ lên
lớp phải trải qua bao nỗi lo toan, vất vả của đời thường.
Bạn bè mình ai cũng vậy! Không mấy người còn nhớ đến
lời ước hẹn với người yêu cũng như ước hẹn họp lớp năm
nào : dù khó khăn đến đâu mỗi năm cũng cố về họp lớp
một lần.

4|Page

Giờ đây, tất cả giáo sinh lớp Nhất 7; Nhị 15 khoá 11
Sư phạm Saigon (1972-1974) đã nghỉ hưu; người còn, kẻ
mất, người ở nước ngoài… nhưng mọi người đều nhớ về
lớp Sư phạm ngày xưa , và từ năm 2013, do điều kiện
kinh tế cho phép, chúng ta đã cố gắng tổ chức họp lớp
mỗi năm một lần, lần lượt tại nhà các bạn. Âu đó cũng là
“chút nghĩa cũ càng” của thời tuổi trẻ đẹp nhất đời người.
Nhớ để mình thấy thương nhau và thương mình thật
nhiều!

Hôm nay, mỗi người chúng ta đều ở bên kia dốc cuộc
đời . Thiết nghĩ, đời người như bóng câu qua cửa sổ và
cũng chỉ là giấc mộng kê vàng mà thôi; giờ đây là lúc
nghỉ ngơi, yên vui bên con cháu và kể cho con cháu nghe
chuyện ngày xưa cha mẹ, ông bà đã có một thời học
trường Sư phạm Saigon với bao thầy cô kính mến và bạn
bè thân yêu ; với những kỷ niệm đong đầy qua những
trang hồi ức này!

Xin thắp một nén tâm nhang dâng lên những thầy cô,
bạn bè đã mất; xin chia sẻ với các bạn những trang hồi ký,
tuỳ bút, bài viết về một quãng đời dạy học “rải mộng đời
theo bụi phấn bay” để:

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

(Nguyễn Du).

Xin gửi đến hương hồn bạn Nguyễn Tri Phúc, Trưởng
ban Báo chí lớp mình ngày xưa, cuốn “Bụi phấn” này mà

5|Page

những năm cuối đời bạn ấy đã có có ý nguyện thực hiện
cuốn hồi ký của lớp ( bạn đã viết xong phần đầu), nhưng
chưa kịp hoàn thành thì bạn ra đi.

BAN BIÊN TẬP

6|Page

HỒI KÝ - PHẦN I

QUẮT QUAY NỖI NHỚ

Một buổi chiều sau ngày Saigon được giải phóng, một
chàng trai dáng nhỏ, cặp kính cận dầy như đế ly, mặt tư lự
đạp xe chầm chậm trên đường Thành Thái. Bất chợt anh
dừng lại trước cánh cổng sắt mở tung, tấm bảng tên màu
xanh lá trên cao đã bạc màu: “ Trường Sư phạm Saigon”,
ra đây là ngôi trường anh vừa chia tay mấy tháng trước đó
để về nhận lớp ở Tam Thôn Hiệp, Quảng Xuyên, Gia
Định.

Bên trong khuôn viên vắng tanh, chầm chậm vào sân,
anh lướt qua các phòng: “…tôi nhìn thấy một đống giấy,
sổ to đùng để ra ngoài hành lang trước cửa văn phòng”.
Đoàn Hùng Sơn, chàng trai đi xe đạp kể tiếp :” …tiến
gần lại nhìn, tôi thấy ngay một đống sơ đồ lớp vứt lăn lóc.
Dựng vội chiếc xe, tôi chạy lại bới tung đống sơ đồ và tìm
ngay được sơ đồ Nhị 15 lớp mình, mở ra xem thì thấy chỉ

7|Page

mất có một tấm hình của bạn Nguyễn Duy Nhơn. Thế là
tôi liền lấy nó đem về nhà làm kỷ niệm.

Mải đến gần 30 năm sau, gặp lại Từ Lương, tôi
liền lấy ra khoe. Anh chàng vừa thấy đã reo lên mừng rỡ,
và bàn với tôi chụp lại, in lớn ra, ép nhựa , tìm lại các
bạn đồng môn để tặng làm kỷ niệm. Lúc này trong lòng
tôi mới chợt bừng sống dậy những kỷ niệm thời “Sư
phạm Saigon” sau một thời gian dài bôn ba cơm , áo,
gạo, tiền; tôi và Từ Lương liền bàn ngay việc kết nối lại
bạn bè xưa.”

TỪ MÙA HÈ ĐỎ LỬA ĐẾN THẢM CỎ XANH
CÀI HOA HOÀNG ĐIỆP

Mùa hè năm 1972, cuộc chiến ngày càng khốc liệt
, báo chí Saigon gọi tên là mùa hè đỏ lửa. Cái chảo lửa
nóng ran từ Quảng Trị tỏa sức nóng vào tận Saigon khiến
lệnh tổng động viên của chính quyền Saigon tụt xuống
thêm một tuổi, nghĩa là những nam thanh niên sinh năm
1954 chỉ còn được gia hạn hoãn dịch vài tháng để thi Tú
Tài 1. Sau đó đậu hay rớt đều phải nhập ngũ: Thủ Đức
hay Đồng Đế. Chợt có ai đó thông tin: vào Sư phạm Bổ
túc thì được hoãn dịch. Vì vậy lượng nam thí sinh tăng lên
đột biến ở một trường mà nhiều năm trước đây nam sinh
là thành phần ít người, thuộc diện quý hiếm tuy chưa vào
sách đỏ. Nhờ đấu như vậy mà chất lượng đầu vào cả nam
lẫn nữ đều rất cao. Đã vậy, ngoài thi viết lại còn thi vấn
đáp: từng thí sinh được gọi lên trước hai giám khảo để

8|Page

kiểm tra ngoại hình, không cần đẹp như Alain Delon hay
Brigitte Bardot nhưng nói chung là không khuyết tật, đọc
một đoạn văn để kiểm tra phát âm có ngọng nghịu gì
không, viết một câu trên bảng đen để xem có anh nào là
bác sĩ trà trộn vào. Có lẽ vì vậy mà lớp giáo viên tốt
nghiệp Sư phạm Saigon trước năm 1975 không vất vả với
cảnh “Hôm lay (nay)Hà Lội (Nội)có gió Nào (Lào)” mà
ngành giáo dục hiện tại đang phải điên đầu giải quyết.
Lớp chúng tôi có 56 người nhưng sau chỉ còn 52 với 14
nữ. Hai vị bỏ cuộc từ ngày đầu, trường hợp thứ ba là anh
Trương Minh Hạnh sau khi nhập học hai tháng bị mật vụ
bắt trên đường tới trường vì tham gia hoạt động trong
phong trào sinh viên học sinh. Còn anh Nguyễn Văn
Kháng thì phải đến khi học môn thể dục, thấy anh lúc nào
cũng mặc áo sơ mi tay dài mà không mặc may-ô ngắn tay
như mọi người , thầy Tịch ,dạy thể dục, gọi vào chỗ vắng
hỏi han, hóa ra tay trái anh bị tật do bệnh sốt tê liệt hồi
còn bé. Vương Hồng Châu còn nhớ ngày chia tay, anh
Kháng khóc dặn mọi người cố gắng giữ vững thiên chức
nhà giáo. Bạn bè ai cũng xúc động, nhưng biết làm sao
được khi các qui định lúc bấy giờ là giáo viên bậc tiểu học
phải toàn vẹn về thể hình. Lúc đó anh Kháng đang học
năm thứ 2 Đại học Khoa học và được miễn dịch vì tật tay.
Nhưng có lẽ anh thi vào Sư phạm Saigon là để gây cơ sở
phong trào, vì năm 1977 Tri Phúc phụ trách Đoàn khối
giáo viên quận Thủ Đức có nghe một cán bộ Sở Giáo dục
cử xuống làm hiệu trưởng tăng cường cho trường An
Khánh (nay thuộc quận 2) cũng tên Kháng và teo cơ tay
trái, giấy sinh hoạt Đoàn ghi chuyển từ Đại học Khoa học
về Sở Giáo dục, tiếc là hai người chưa gặp được nhau thì
Tri Phúc ra biên giới Tây Nam . Lớp Nhất 7 có anh Trình
Dân An đậu thủ khoa đầu vô. Anh này dân trường Tây

9|Page

Taberd mà thủ khoa chương trình Việt thì cũng thuộc loại
đặc biệt quý hiếm rồi.

Khóa 11 năm đó nam giáo sinh chiếm ba phần tư danh
sách trúng tuyển và đều vừa tròn 18 tuổi. Chắc không còn
mấy ai nhớ cái ngày tựu trường tuy không có “mẹ dắt tay
từng bước”, nhưng lác đác có cảnh chồng chở vợ đi học
là điều mà các cậu giáo sinh 18 tuổi phải tròn xoe mắt.
Tất cả tập họp ở hội trường, nghe thầy Quang hiệu trưởng
nói đôi lời. Buổi đầu các anh cảm thấy vẫn thật chưa ổn,
còn cái gì đó cứ nửa vời. Không còn là học sinh, nhưng
chưa phải sinh viên, nên được gọi là giáo sinh, cái tên gọi
lên nghe ngượng nghịu, tốt nghiệp ra trường sẽ gắn thêm
cái mác “giáo học bổ túc”. Chỉ có các chị thướt tha trong
bộ áo dài trắng là tươi cười hãnh diện hoặc vì yêu thích
nghề nghiệp, hoặc đơn giản như Kiều Mai chỉ vì yêu màu
áo dài trắng như thể “áo em trắng quá nhìn không ra” (
Hàn Mặc Tử), vẫn có người bơ vơ như Ngọc Sương
không biết chọn bến nào, thôi đành nhắm mắt xuôi chân,
mặc cho con tạo xoay vần tới…trường Sư phạm Saigon.
Vài năm sau mới biết có chị vào Sư phạm là để gây cơ sở
Cách mạng, hoặc tổ chức ở trường cũ bị bể phải chém vè.
Vậy mà các chị này lúc đi học được xếp loại hiền ngoan
nhất lớp. Ai cũng cố tránh cái từ “trốn lính” nên thầy
Quang chỉ nói xa nói gần khuyên các bạn nam chí thú học
hành. Thầy hiệu trưởng Quang tóc đã bạc trắng, mặt hiền
từ phúc hậu, chỉ phải tội con mắt trái hơi lé. Thầy ở căn
biệt thự một lầu ngay trong khuôn viên trường, quay mặt
ra đường Cộng Hòa, nay là Nguyễn Văn Cừ, giáp ranh
với trường Đại Học Khoa Học. Căn biệt thự này ngày nay
vẫn còn, nhưng không biết để làm gì. Khoảng giữa năm
nhất niên thì thầy Quang về hưu, bàn giao cho hiệu

10 | P a g e

trưởng mới, nghe nói tốt nghiệp Thạc sĩ giáo dục bên Mỹ
về là thầy Đoàn Viết Bửu. Thầy Bửu trẻ, nhìn ra rõ nét trí
thức với cặp kính trắng gọng vàng, miệng lúc nào cũng
cười cười, nhưng coi bộ không dễ chịu lắm đâu. Sau năm
1975, thỉnh thoảng có thấy thầy đạp xe đi từ hướng đường
Nguyễn Văn Cừ về Xô Viết Nghệ Tĩnh. Thầy vẫn mặc
chỉnh tề như xưa, miệng thầy vẫn cười cười, nhưng hơi
gầy và má sạm nắng hơn, không còn trắng hồng như
trước.

Tuy Ban Giám hiệu rất tâm lý, tránh nhắc tới từ “trốn
lính” trong mọi câu chuyện, nhưng cánh nam giáo sinh,
với áo sơ mi trắng quần sậm màu, trán đã có nhiều nếp
gấp trước tuổi, chỉ thở phào nhẹ nhõm vì tạm thoát cảnh
đôn quân bắt lính dọc đường, chứ trong lòng ai cũng lo
lắng vì phải vừa học chuyên môn Sư phạm, vừa học thi
Tú tài 2 cho bằng các bạn may mắn hơn còn ngồi ghế
trung học. Cho nên nói thật, ở năm nhất niên, nhiều anh
tính tình tự dưng cũng ngang ngang dù trước đây thuộc
loại hiền ngoan khi giấc mơ hồng với viễn cảnh du học
hoặc chí ít cũng bác sĩ, kỹ sư tan tành. Nhắc chuyện bắt
lính còn ớn: đang đi, thoáng thấy từ xa có chiếc GMC đậu
bên đường với mấy anh lính quân cảnh, cảnh sát áo trắng
rải dài dài ra thổi tu huýt chỉ tay vào các anh thanh niên
đang chạy xe, ngoắc vào lề, hỏi giấy hoãn dịch, cật vấn
giấy giả , giấy thật, a lê lên xe, anh thanh niên mếu máo.
Thấy vậy thì lẹ làng lủi vô các đường hẻm mà chạy. Đêm
ở phố thị ngủ cũng không yên giấc, giữa đêm, tiếng tu
huýt ren rét, tiếng chân chạy sầm sập, mấy anh thanh niên
tỉnh lẻ ở trọ đi học leo vội lên máng xối, chui vô khạp gạo
mà trốn. Cảnh sát mở nắp khạp, thì phải nhanh chóng rút
chiếc nhẫn vàng lúc nào cũng đeo sẵn trên ngón tay

11 | P a g e

phòng thân cầm để lên đầu. Cảnh sát hiểu ý, lấy chiếc
nhẫn lặng lẽ bỏ túi, đậy nắp khạp lại báo cáo “ không có
ai”. Như vậy thì thà rằng vào sư phạm vẫn hơn, khỏi phải
đau tim hằng ngày, chỉ hơi buồn buồn, tủi tủi khi đi qua
trường cũ, thấy vài người bạn vẫn áo trắng quần xanh vô
tư đến trường, còn mình thì “Buồn ơi, Chào mi” (Bonjour
, Tristesse-Françoise Sagan - tác phẩm thời thượng lúc
đó). Nhưng rồi thời gian cũng làm lành vết thương khi
bước vào các môn học chuyên môn, thấy nghề này cũng
khoa học đấy chứ, cũng hay hay đấy chứ! Vậy là các anh
dần dà tự động xếp mình vào khuôn mẫu như Tuấn Râu
thì chịu khó cắt tóc và cạo râu thường xuyên hơn, Trần
Minh Châu thôi suy nghĩ : “ Trèo lên cây chửi thề/
Trường xưa ta chẳng nhớ/ Chỉ nhớ quán cà phê”.

Những năm 70, khi phong trào hippy với khẩu hiệu
“make love, not war” vừa nguội, phong trào du ca phản
chiến thịnh hành với “Ca khúc da vàng” của Trịnh Công
Sơn và giọng ca ma túy của Khánh Ly, một loạt các nhạc
sĩ du ca từ các trường đại học với những bài ca phản chiến
như Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Trần Long
Ẩn…thổi bùng thêm cái nóng từ chảo lửa Quảng Trị
khiến không khí Saigon thêm bức bối, tưởng chỉ cần
đánh một tia lửa nhỏ là bầu không khí ấy sẽ bùng nổ, nhất
là trong giới thanh niên. Mốt của thanh niên Saigon bấy
giờ là áo ôm phạch ngực, quần “chân voi” (patte
d’éléphant) với hai ống loe ra từ đầu gối xuống phía dưới,
rồi xì- gà thì hai ống nở đều từ đùi và suôn đuột xuống
dưới, xong lại xi -gà-pát kết hợp cả hai trường phái. Còn
nữ thì maxi kiểu “váy lĩnh cô kia quét sạch hè” với hàng
nút 3 hay 4 cái chạy dài từ lai lên tới “vùng cấm”. Kiểu
này thiết kế để đi ô tô thì rất sang, ấy vậy mà có cô mặc

12 | P a g e

maxi đi xe Honda mà chỉ cài có cái nút trên cùng, thậm
chí quên cài, tránh sao chuyện mấy anh chạy xe ngược
chiều phải cảnh “gió lộng sơn hà, anh hùng ngã ngựa”.
Lại còn phải thêm cái túi cái bang, bụi bụi một tí, có anh
chuộng cái túi đựng mìn claymore xem ngầu ngầu, hoặc
vải săn gai với râu ria tua tủa chung quanh. Chưa kể còn
cái món “strickin” nghĩa là “truồng chạy”: Chiếc taxi
dừng lại bên đường, một đôi nam nữ, có khi chỉ là nữ,
bước xuống không một mảnh vải, cứ thế ung dung đi trên
phố đông người, cảnh sát thổi còi đuổi theo thì chạy, qua
góc phố khác đã có taxi đón. Nói tóm lại là ngột ngạt lắm
rồi, muốn bùng nổ lắm rồi, nên mới bày mấy trò kiểu yếm
thế, không gây phiền tới ai. Các thầy cũng nhức đầu, mỏi
cổ với việc canh chừng đừng cho nó bùng nổ trong khuôn
viên trường Sư phạm. Vào sư phạm rồi thì mấy cái maxi,
xi -gà -pát đều xếp vào đáy tủ, chỉ còn giữ được cái túi cái
bang thì giám thị cho qua. Đồng phục nữ sinh áo dài trắng
tha thướt với tóc xõa bờ vai, nam áo sơ mi trắng quần sậm
màu ống không loe ,không ôm. Bảng tên cho cả nam lẫn
nữ là miếng thẻ mica trắng dầy khoảng 3 ly, khắc tên giáo
sinh, tên trường, năm nhất niên nền xanh chữ trắng, năm
nhị niên thì nền màu cam sậm. Thậm chí tới xe đạp cũng
phải có bảng tên hoặc sơn tên lớp màu đỏ lên vè sau. Sau
này học thêm môn quân sự học đường thì nam nữ đều
mặc áo sơ mi trắng, áo hai túi có nắp, trên túi áo trái có
bảng tên in trên vải logo trường là cây đuốc và trang sách
mở trong vòng bán nguyệt, dưới có dòng chữ “ Sư phạm
Saigon” và tên giáo sinh thêu chỉ đỏ. Nói là quân sự học
đường nhưng thực ra chỉ có xếp hàng, đi đều bước. Thầy
Dần giám thị là huấn luyện viên, nghe nói thầy là sĩ quan
biệt phái.

13 | P a g e

Một hôm, giấy hoãn dịch chỉ còn vài ngày là hết
hạn, các anh lo sốt vó. Đã có anh bị tóm lên xe GMC khi
đang trên đường đến trường phải nhắn nhà trường đến
lãnh về. Tất cả nam giáo sinh bị gọi tập trung ở sân
trường sau khi cho nữ về hết để nhà trường đi đổi giấy
hoãn dịch mới. Buổi trưa mỗi người được phát ổ bánh mì
thịt nguội, chờ mãi tới chạng vạng tối mới thấy thầy Dần,
giám thị,chạy chiếc Vespa chở thầy giám học Ngôn nhỏ
con ngồi sau mặt tươi tỉnh chạy vào sân trường, mọi
người reo mừng hớn hở khi cầm tờ giấy hoãn dịch mới
trên tay. Một ngày thơ thẩn trong sân trường cũng đã giúp
các anh, những người vốn bước vào nghề “gõ đầu trẻ” bất
đắc dĩ nên chẳng cần quan tâm gì tới môi trường chung
quanh, nay được nhìn rõ hơn toàn bộ khuôn viên trường
Sư phạm Saigon.

Nhìn tổng thể kiến trúc dễ có suy nghĩ trường Sư
phạm Saigon được cắt ra từ khối trường Đại học Khoa
học Saigon nay là trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.
HCM , vì kiến trúc giống nhau và cùng nằm trong khu tứ
giác các trường: Pétrus Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký) , nay
là Lê Hồng Phong và Đại học Khoa học nhìn ra đường
Cộng Hòa , nay là Nguyễn Văn Cừ, nên số giáo sinh nam
từ trường Pétrus Ký đông hơn từ các trường khác. Phía
hông trái trường Pétrus Ký là đường Nguyễn Hoàng , nay
là đường Trần Phú. Sư phạm Saigon có dãy lớp một trệt ,
một lầu nằm dài theo đường Thành Thái, nay là An
Dương Vương, lúc đó tên đường Thành Thái là vì vua
Thành Thái sau khi bị thực dân Pháp lưu đày ở nước
ngoài, được cho về nước thì bị chỉ định cư trú ở một căn
nhà nhỏ trên đường này. Có lần chúng tôi tò mò đi tìm thử
ngôi nhà vua Thành Thái ở, hỏi mãi mới được nhà văn

14 | P a g e

Sơn Nam chỉ một ngôi nhà gạch trệt lợp ngói tây trong
hẻm, nhưng người chủ mới bấy giờ cũng không biết họ
đang ở ngôi nhà của vua. Không biết sao một ông vua
yêu nước mà không được chọn làm tên đường ? Còn
trường Sư phạm Thực hành và Trung tâm Học liệu thì
nằm phía sau lưng, quay mặt ra đường Trần Bình Trọng.
Năm đầu, lớp chúng tôi là Nhất niên 7, ở tầng trệt, cách
một khoảng sân rộng bên trái là hai lớp của trường Sư
phạm Thực hành nên mỗi khi đổi tiết dạy đều nghe các
em gào lên thật to bài hát “Thương quá Việt Nam” của
Phạm Thế Mỹ (Em nghe gì không hỡi em, con chim nó
hót vang đầu he..è ). Đến năm nhị niên, lại là Nhị niên 15,
được leo lên lầu cho ra vẻ đàn anh. Năm 1973 do trường
có mở 2 lớp đào tạo giáo viên mẫu giáo, chiếm 2 phòng
đầu tiên từ phía nhà xe vào, lại quy tụ toàn các bóng hồng
nên các anh giáo sinh gửi xe xong phải đi qua hành lang
của 2 lớp này cho các cô duyệt . Nhiều cô cũng đáo để
lắm làm có anh luống cuống rơi cả tập sách.

Với những anh giáo sinh mà không nhắc tới sân
bóng chuyền và quán bác Tư quả là thiếu sót. Từ khoảng
sân trước lớp chúng tôi có lối đi tắt qua trường Sư phạm
Thực hành, chỉ là khung cửa nhỏ rộng một thước mở từ
bức tường ranh. Lối đi này ngang qua sân bóng chuyền.
Những năm trước chắc vì ít nam nên sân bóng bị bỏ bê,
lưới đã cũ và rách vá nhiều chỗ, sơn đường ranh cũng
bong tróc. Nhưng từ đợt chúng tôi vào trường, sân bóng
chuyền trở thành nơi tụ họp của nhiều nhân tài nhưng lười
học chọn làm chỗ trú chân. Trưa nắng chang chang cũng
có một, hai cặp nhễ nhại mồ hôi ra quần thảo cá độ.
Thắng thua gì cũng lôi nhau vào quán bác Tư ở góc sân
trường cạnh đó giải quyết. Quán che bằng mấy tấm tôn

15 | P a g e

fibro ximăng, bên trong có mấy cái giường cũ kỹ là chỗ
ngủ đêm của vợ chồng bác Tư và cậu con trai chơi bóng
chuyền rất giỏi. Ban ngày mấy cái giường đó còn là chỗ
ngủ trưa của mấy anh giáo sinh có máu bụi đời như Phạm
Đình Ân, Trần Thành Hội, Nguyễn ĐìnhTúy, hoặc để trải
mấy tờ giấy croquis to bản để vẽ làm giáo cụ thực tập.
Nghe nói vợ chồng bác Tư gốc ở Hóc Môn, cả hai đều ăn
trầu, đặc biệt bác trai còn cái búi tó nhỏ xíu trên đầu và
thường xuyên ở trần với quần đùi xệ rốn. Trong quán,
cạnh cái thùng nướng bánh bằng tôn đã cũ trong có mấy
cái bánh pa- tê- sô lúc nào cũng nóng, là tấm bảng phong
thần để các anh tự giác ghi bằng phấn con số nợ của mình.
Bác Tư trai sẽ kiểm tra mỗi chiều xem anh nào đã đạt tới
3 con số thì xóa trên bảng mà được ghi long trọng vào
quyển tập học trò. Tất cả sẽ được tất toán đầy đủ vào ngày
lãnh học bổng. Khi đó bác Tư trai, mặc áo sơ mi, nhưng
vẫn quần đùi, cầm quyển sổ đứng cạnh ghi - sê phát học
bổng. Có anh méo mặt vì lãnh xong chỉ còn vài đồng
uống cà phê. Hỏi bác Tư gái vậy chứ có anh nào xù luôn
không, bác xỉa cục thuốc rê nhét vào môi trên nói: “ Có
vài đứa nó kẹt quá trốn biệt, nhưng ra trường dạy học
lãnh tháng lương đầu tiên cũng nhớ chạy về đây trả nợ,
còn mua cho tao ít quà bánh. Tao coi tụi bây như con
cháu mà, có mất đâu mà sợ !”. Còn nhớ học bổng năm
thứ nhất của chúng tôi tùy theo thứ hạng đậu vào mà được
toàn phần hay bán phần. Chỉ có 100 anh đầu tiên được
toàn phần, còn lại là bán phần. Sang năm thứ hai thì căn
cứ vào học lực và hạnh kiểm năm thứ nhất để tính.Toàn
phần thì được 1800 đồng, bán phần là 900 đồng (lúc đó
vàng khoảng 2000 đồng một lượng) . Học bổng như vậy
thì quá đã. Chỉ có điều mỗi năm phát một lần vào nghỉ hè,
nên có anh gặp lúc ngặt quá đành ra tiệm phở bình dân

16 | P a g e

đường Thành Thái, cạnh cổng phụ của trường chưa thấy
mở bao giờ, gọi một tô “không người lái” chỉ có bánh
phở, nước lèo, và xin thêm nhiều nhiều giá trụng ních cho
chặt bụng.

Cũng buổi chiều hôm chờ đợi giấy hoãn dịch, ngồi
trong lớp nhìn ra sân trường dọc theo đường Thành Thái,
thấy những ô cỏ xanh mới mượt và mát làm sao; hoặc
năm nhị niên cắm trại tại trường nhân ngày giỗ Tổ Hùng
Vương, nằm trên thảm cỏ xanh nhìn xuyên qua tán cây
hoàng điệp, trên kia là bầu trời cao trong vắt không một
gợn mây, dưới đây quanh ta là những cánh điệp vàng,
hương vị ngọt của cỏ tươi, của hoa mới, làm ta cảm thấy
như được ôm ấp, vuốt ve,bảo vệ ta khỏi cái oi nồng của
mùa hè đỏ lửa, dù đêm đêm vẫn thấy pháo sáng ở phi
trường Tân Sơn Nhất, vẫn nghe tiếng bom B52 rền vang
miệt Củ Chi. Bao nhiêu bực bội, chán nản cũng nhạt dần,
mới thấy cái vô lý khi mình cứ nhìn các thầy trong Ban
Giám hiệu bằng cặp mắt thiếu thiện cảm như thể đó là
những người đã tàn nhẫn xóa giấc mơ hồng của những
chàng trai mới lớn. Trong khi mọi người trong khuôn viên
này lúc nào cũng nhẹ nhàng, cẩn thận từng lời nói, từng
hành động tránh chạm vào vết thương của chúng tôi, làm
cho chúng tôi nguôi ngoai với những sinh hoạt ngoại
khóa. Vậy mà chúng tôi đã vô tâm để đến gần bốn mươi
năm sau, những trái tim mỏi mệt này mới nhận ra điều đó
một cách đầm ấm nhất.

TRI PHÚC - HÙNG SƠN-NGHIÊM HẢI -

NGỌC SƯƠNG- XUÂN HƯỜNG-HỒNG CHÂU

17 | P a g e

PHẦN II
NGÀY XƯA BIẾT TÌM NƠI ĐÂU?

***

VÀI KỶ NIỆM HAI NĂM HỌC SƯ PHẠM

Tôi nghĩ mình vào trường Sư phạm Saigon cũng có cái
hay : thứ nhất là được hoãn dịch vì lý do học vấn, thứ nhì
là được học bổng . Như vậy là từ nay tôi tự lo được mà
không phải xin tiền cha mẹ và còn có thể giúp chút gì cho
gia đình. Học bổng lúc đó có 2 loại : toàn phần : 1.800 đ
và bán phần : 900 đ (tùy thứ hạng đấu vào ).Tôi thì được
toàn phần , sướng quá ! Tôi nhớ vàng lúc đó một lượng
cỡ khoảng hơn 2.000 đồng !

Dường như Trình Dân An đỗ đầu vào Sư phạm
Saigon nên khi vào Nhất 7, nghe đọc danh sách có tên đó
là tôi chú ý đầu tiên. Sau này thấy quả thật là một tay
thông minh, giỏi giang và học tập trong lớp thì thấy nhàn
nhã. Xuất thân từ Taberd nên về ngoại ngữ tiếng Pháp là
quá giỏi ! Dân An ngồi kế Vũ Quốc Chính. Tay này to

18 | P a g e

con , ục ịch, giọng ồm ồm, chiếc áo trắng thì ngả màu
cháo lòng, hơi bốc mùi khi đến gần. Tôi hơi thấy tội
nghiệp cho An quá ! Khi tôi đăng ký vào học lớp 12 ban
đêm tại trường Pétrus Ký thì Chính cũng đăng ký vào học
chung lớp . Do to con nên hắn ngồi phía cuối lớp, cũng

may !

Người bạn thân của tôi từ thuở vào học ở Pétrus Ký là
Trương Minh Hạnh cũng vào Nhất 7 và có ra ứng cử chức
Trưởng lớp cùng với Phạm Đình Ân, nhưng đến ngày
hôm sau thì vắng mặt khỏi lớp. Sau này mới biết là do
làm Cách mạng, bị bắt ở tù và sau đó đày ra Côn Đảo. Tôi
chỉ được biết tin tức qua chị Kiều Mai, vì chị có anh trai
cũng cùng hoàn cảnh tù đày như vậy. Tôi vì nhỏ con và
cận thị nên ngồi đầu bàn, giữa Lý Vân Nam và Lê Văn
Ngọc. Nam lúc đó cũng nhỏ con như tôi, nhưng rất chịu

khó.
Mỗi tối bạn ấy ra ngồi vĩa hè ngay Bùng binh Ngã 6 Công
trường Dân chủ sửa xe , và tôi biết được chuyện này vì
thấy tập vở bạn thường bị dính vết dầu mỡ.

Ngồi ngay sau tôi là Phạm Chánh Trực, vui vẻ, hay
cười, ăn mặc chỉnh tề, nghiêm túc và là một tay organ
chủ đạo tại nhà thờ Cầu Kho. Tri Phúc thì tôi rất nể phục
vì sự giỏi giang, năng động, lãnh vực nào làm cũng được.
Thắng Quần là người bạn cùng ghi danh học lớp 12 AB
ban đêm ở trường Pétrus Ký với tôi, và ngồi cạnh tôi suốt
năm học . Chúng tôi trong danh sách cũng là gần nhau
nên sau này thực tập chung. Quần và tôi cùng hướng khi
đi về nhà nên dù khá kín đáo nhưng rồi anh chàng cũng
cho tôi biết nhà. Tôi đã gặp cô em gái của Quần rất dễ
thương, tóc cắt ngắn, mặt tròn , cười vui chào tôi.

19 | P a g e

Hồi học Nhất 7, tôi luôn canh cánh bên lòng là phải
đậu bằng được Tú tài 2 cho bằng anh em đang còn học
tiếp tục tại trường Pétrus Ký cho nên bên Sư phạm tôi
không chuyên chú học tập . Chính vì thế nên mới sinh ra
chuyện quay cóp khi thi cử ở năm nhất niên Sư phạm và
vì lần đầu làm bậy nên đã bị cô Tâm (dạy Tâm lý Giáo
dục) bắt được Lúc đó, tôi vô cùng xấu hổ ! Từ lúc ấy trở
về sau tôi luôn lòng dặn lòng là không bao giờ làm như
vậy nữa .

Học ở trường Sư phạm Saigon âm thanh quen thuộc
nhất mà tôi nhớ mãi cho đến bây giờ là bài hát “Thương
quá Việt Nam” !. Đám học sinh trường Sư phạm Thực
hành phía bên kia cứ mỗi buổi sáng lại khởi động hát to: ”
Em nghe gì không hỡi em, ….”.

Tôi cũng có cái cảm giác mới lạ, vui tươi khi được
học chung với nữ ( dù số lượng chỉ độ 1/3, và xem như
đàn chị ) , vì trước đây mình chỉ học trường toàn là nam
sinh, và dù sao mình cũng là trai mới lớn mà !

Có lẽ đúng như Tri Phúc viết hồi ký, phe nữ ít ỏi đã là
đích nhắm cho hầu hết các bạn nam ( trừ Lâm Kim Long,
chắc vậy !). Với Sơn, chị Nhan là người được Sơn lân la
làm quen trước tiên, và thật là thích khi nghe giọng nói
như làn gió của chị ! Do đó, khi nhận được miếng logo
vải để may trên áo học quân sự học đường, Sơn đến chị
Nhan ngay và mở lời nhờ chị thêu giùm tên lên trên đó,
với một hy vọng là 5/5, và chị nhận lời !

Ngày chị giao lại logo vải, Sơn thật là vui sướng vì nó
quá đẹp và hoàn chỉnh hơn cả mong đợi ( đấy đủ cả họ và

20 | P a g e

tên ). Lúc đó Sơn thấy chị Nhan thật đẹp và dễ thương.
Rất tiếc là Sơn không có tài thơ văn như Trường Bình
Dân ( Trần Bình Dương, Trần Minh Châu)., mà chỉ biết
“tám” chuyện tào lao nhạt nhẽo nên có lẽ chẳng có effet
gì với ” người đẹp” ! Bây giờ các bạn đã hiểu vì sao Sơn
còn giữ miếng logo vải do chị Nhan thêu đến bây giờ.

Tôi tự dưng lĩnh chức ” Trưởng ban Học tập” lớp, mà
giờ đây nghĩ lại cũng thấy sao mình nông nổi quá ! Trình
độ tầm thường, chẳng có tài cán gì, nên chẳng làm được
cái gì cho lớp cả ( chắc cũng chẳng ai nhớ đâu ). Chị Lý
Ngọc Hà thì làm phó ban. Chị Hà là nữ sinh Gia Long,
với mái tóc dài thướt tha, dáng người thon thả, bước đi
chầm chậm khoan thai , với hai tay cầm nghiêng nghiêng
chiếc cặp đen trước ngực, trông thật đúng như hình tượng
các cô nữ sinh trên các trang báo học trò ! Hồi lên nhị
niên, Khối Học tập trường có thành lập một phòng chứa
các tranh vẽ làm giáo cụ đã qua sử dụng giảng dạy thực
tập, để giáo sinh mượn lẫn nhau , và lên lịch trực cho Ban
Học tập các lớp. Do vậy tôi và chị Hà mới có việc để làm
cho xứng danh chút xíu !

Không biết vì sao mà An lại gọi tôi là ” ngầu” quá,
trong khi mình thì nhỏ con lại xấu trai ( mặt đầy mụn ).
Nhưng phải nói là từ khi vào môi trường này, tôi đã thấy
thích đi xem văn nghệ trường, thích tham dự các buổi hội
hè, cắm trại tại trường và đi dã ngoại. Quả thực trường Sư
phạm Saigon đã nâng con người mình sinh động hẳn lên.

Lớp mình may mắn có Từ Lương cùng Từ Davy (
Đào Khoai Từ như anh em thường gọi đùa) rất nhiệt tình
năng nổ ( dân Hướng đạo mà) lại tranh thủ được sự hỗ trợ
nhiệt tình của thầy Thuận tổ chức cắm trại, đi dã ngoại

21 | P a g e

chỗ này , chỗ nọ cho mọi người. Nhờ thế mà tôi mới biết
Thích ca Phật đài ( Vũng Tàu), núi Bửu Long (Biên
Hòa),v.v…Cũng nhờ trường Sư phạm Saigon tổ chức mà
tôi mới có dịp biết Đà Lạt lần đầu tiên, vì tôi bây giờ đã
có tiền từ học bổng rồi. ! Tôi nhớ là lúc về báo với gia
đình mình đăng ký đi tham quan Đà Lạt, ai trong nhà
cũng dặn dò là ráng chụp lấy được nhiều cảnh về xem Đà
Lạt đẹp như thế nào ! Thật tội nghiệp! Du lịch thời đó
còn xa vời quá, chẳng bằng các con tôi lúc còn nhỏ là đã
biết Đà Lạt rồi, mà cũng lạ, lớp Nhất 7 chỉ có mình tôi
và chị Sương đăng ký đi.!

Chuyến đi do Thầy Minh làm Trưởng đoàn, lên
Đà Lạt được ở tại khu nhà nội trú của trường Cao đẳng
Sư phạm, ngôi trường có kiến trúc tuyệt đẹp, màu gạch đỏ
nổi bật lên trên một ngọn đồi có thông xanh bao phủ. Sau
này tôi lên Đà Lạt cũng nhiều lần, nhưng chỉ lần đó là
thấy Đà Lạt tuyệt vời nhất !

Lần cắm trại suốt đêm nhân ngày giỗ Tổ Hùng
Vương 2 tháng 4 năm 1974 do trường tổ chức cũng để lại
trong tôi nhiều ấn tượng ! Sau 30/4/75, tôi buồn tình lấy
chiếc xe đạp đi lòng vòng Saigon, và bỗng tự khi nào tôi
thấy mình từ từ tiến vào trường Sư phạm đang mở cổng.
Chạy xe chầm chậm lướt qua khuôn viên, qua các phòng,
tôi nhìn thấy một đống giấy tờ, sổ sách để ngoài hành lang
trước cửa văn phòng. Tiến gần lại nhìn, tôi thấy ngay một
đống sơ đồ lớp vứt lăn lóc. Vội dựng xe, tôi chạy lại bới
tìm được sơ đồ lớp Nhị 15 của mình, mở ra xem thì thấy

22 | P a g e

chỉ thiếu có một tấm hình của Nguyễn Duy Nhơn ! Thế
là tôi liền lấy sơ đồ đem ngay về nhà làm kỷ niệm.

Mải đến gần 30 năm sau, gặp lại Từ Lương, tôi liền
lấy ra khoe. Từ Lương vừa thấy đã reo lên mừng rỡ, và
bàn với tôi dùng máy scanner chụp lại, in lớn ra, ép nhựa ,
tìm lại các bạn đồng môn để tặng làm kỷ niệm. Lúc này
trong lòng tôi mới chợt bừng sống dậy những kỷ niệm
thời học Sư phạm Saigon sau một thời gian dài bôn ba
cơm áo, gạo tiền, liền bàn ngay việc kết nối lại bạn bè
xưa. Thật tiếc cho Từ Lương, một người bạn chân tình,
hào sảng, ; bạn đã ra đi khi ước mong tụ họp bạn học cũ
mới bắt đầu hình thành. Ngày cuối cùng , lúc động quan,
khi tiễn bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang phía
sau ngôi chùa trên xa lộ Đại Hàn , tôi rướm nước mắt khi
nghe Trương Minh Hạnh đi cùng kể về việc đã được
Lương cho mượn hai lượng vàng SJC mà không tính toán
lời lỗ ! Xin thắp nén nhang lòng tưởng nhớ đến bạn hiền,
mong bạn được an lạc nơi cõi vĩnh hằng !

Chính nhờ Từ Lương khởi xướng, tạo điều kiện mà
lớp Nhất 7, Nhị 15 khóa 11 mới nối kết lại tạo nên các
buổi họp mặt giao lưu như hiện nay.

ĐOÀN HÙNG SƠN

23 | P a g e

HỒI TƯỞNG

Hưởng ứng cuộc vận động của Trưởng ban Báo chí
Trúc Phi – Nguyễn Tri Phúc, cũng là cơ hội để hồi tưởng
lại những năm tháng tươi đẹp dưới mái trường Sư phạm
Saigon yêu dấu, tôi xin được kể lại vài kỷ niệm mà mình
đã trải qua trong suốt hai năm miệt mài học tập cùng các
bạn bè thân yêu. Những tháng ngày với những kỷ niệm
“buồn ít hơn vui” chắc sẽ gợi cho chúng ta một chút bâng
khuâng nhớ về những người “bạn cũ, có đứa ra đi buồn
thiên thu”, có những buổi chiều ngồi bên nhau dưới bóng
mát cây hoàng điệp hay những buổi dã ngoại đầy ắp tiếng
cười…Gần bốn mươi năm qua rồi, vị thần thời gian ít
nhiều cũng làm mờ phai ký ức của mỗi người trong chúng
ta! Vì vậy, nếu những điều mà tôi sắp kể ra đây có bị đảo
lộn hoặc nhầm lẫn, rất mong mọi người hết sức thông cảm
và đính chính giúp.

1.-Năm Đệ nhất niên 7:

* Hụt ăn bánh canh Trảng Bàng nơi quê nhà Chị
Kim Nhung:

Vô Trường Sư phạm Saigon, học lớp Nhất niên 7, tôi
với Trung Chánh kết thân với chị Ngọc Sương (nhà ở An
Lạc, Bình Chánh) và chị Kim Nhung (quê ở Trảng Bàng,
Tây Ninh) để cùng hỗ trợ nhau trong học tập. Cuối năm
nhất niên, chị Nhung mời các bạn trong nhóm về quê chơi

24 | P a g e

cho biết nhà, đồng thời là thưởng thức bánh canh Trảng
Bàng nổi tiếng quê chị! Ngày chủ nhật đẹp trời, tôi và
Trung Chánh đón chị Sương từ An Lạc xuống, rồi ba
người cùng lên xe Traction đen, bến xe ở trên đường Lê
Hồng Phong ngày nay, bên hông nhà máy thuốc lá Mic để
đi Tây Ninh .Ngày trước, xe khách Saigon – Tây Ninh
cũng như Saigon – Biên Hòa, Saigon –Long Thành đều
sử dụng loại xe Traction đen của hãng Citroen của Pháp.
Xe này chạy lẹ, ít hao nhiên liệu, có điều nó chỉ có bốn
chỗ ngồi nên các bác tài mở luôn cốp sau, nhét thêm vài
ba ông khách nữa, trên mui thì chất toàn xe đạp ngó như
chở người di tản ở các nước Bắc Phi trong các cuộc nổi
dậy mới đây.

…Khoảng 10 giờ thì chúng tôi tới nơi. Chị Nhung ra
đón, mời vô nhà hàn huyên tâm sự. Tới trưa, xem chừng
mọi người ai cũng “đúng bọi”, nhất là cánh đàn ông bọn
tôi nên chị Nhung mời mọi người dời gót ra quán. Ai
cũng hí hửng vì sắp được thưởng thức món ngon có tiếng
xưa nay. Ra tới quán ăn, vừa yên vị, bánh canh vừa dọn ra
nóng hổi thì…bốn, năm chiếc GMC chở đầy lính cộng
hòa trờ tới, anh nào mặt mũi cũng bặm trợn, nhảy ào
xuống rồi hành quân vô đồng. Bọn lính Sư đoàn 25 “Sấm
sét miền Đông” kéo pháo 105 ly ra dọc quốc lộ 22 mà
đùng đùng bắn yểm trợ! Bọn tôi hồn vía lên mây, còn
lòng dạ nào mà ăn uống nữa, vội vã cáo từ rồi lên xe đò
mau mau chạy về Saigon! Vậy là hụt ăn bánh canh Trảng
Bàng rồi.

Sau nầy, Công ty xây dựng nơi tôi làm việc có thi công
một số công trình trường học ở Củ Chi (Trường Tiểu học
Thái Mỹ, Trường THPT. thị trấn Củ Chi…). Ngày khánh
thành công trình, tôi được tháp tùng đi dự. Cứ mỗi lần ghé

25 | P a g e

quán bánh canh Trảng Bàng dưới chân cầu An Hạ để ăn
sáng là tôi nhớ lại chuyện …hụt ăn ngày trước!

* Được ăn kẹo đậu phộng nhà Lâm Kim Long:

Trong số những “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt”
của lớp Nhất niên 7, có lẽ Lâm Kim Long và Vũ Quốc
Chính ít được phe “kẹp tóc” chú ý tới. Về ngoại hình,
Lâm có “cái nhan sắc của người đàn ông …không đẹp
trai”, hơi cục mịch, ít nói , ít cười, y như anh chàng thanh
niên trong bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy:

Chàng là thanh niên, mạch sống dâng trong luống cày,

Nói năng hiền lành như lúa với khoai…

Nghe nói Long sinh năm con Rồng, lớn hơn bọn tôi hai
tuổi, vì trốn lính nên làm lại giấy khai sanh và căn cước
rồi chui vô Sư phạm. Anh chàng đã có vợ con nên ít tham
gia các hoạt động của lớp. Nói chung là “lặng lẽ Sapa!”

Nhưng dáng vẻ cục mịch của Long lại được Từ Lương
chú ý. Lương lân la trò chuyện rồi cả hai kết thân với
nhau. Tôi với Lương thân nhau nên cũng kết bạn với
Long. Càng gần “anh chàng củ mì” nầy, tôi càng sáng tỏ
ra một điều: đó là những người ít nói, không phải vì
không muốn nói, chỉ khi nào khơi đúng mạch thì…nước
sẽ tuôn chảy như suối thôi!

Một buổi sáng chủ nhật, tôi và Từ Lương ghé thăm nhà
Lâm Kim Long. Đó là một ngôi nhà lợp ngói âm dương,
ba gian hai chái, nằm dọc Quốc lộ 22, thuộc địa phận xã
Tân Xuân, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Từ nhà Long,
nhích lên là nhà Chị Phụng Hiếu, cách đó không xa là mái
tranh của anh chàng Nguyễn Văn Đặng, trở lại ngã tư

26 | P a g e

Trung Chánh, hướng về trường THPT Nguyễn Hữu Cầu
là nhà Ánh Tuyết, bọc lên hướng Thới Tam lại là nơi cư
ngụ của Chị Hắc Thị Bạch Tuyết. Mới biết dân Mười tám
thôn vườn trầu giỏi thiệt, trong lớp Nhất niên 7 có tới năm
vị là dân Hóc Môn! Có điều bây giờ không còn lại mấy
người.

… Nhà Long cũng có vườn, trồng rau đậu, cây ăn trái
với hai hàng cau rũ bóng trên con mương trước nhà. Long
mời chúng tôi uống nước trà, xong dắt vô trong. Chái bên
phải nhà Long là xưởng sản xuất kẹo đậu phộng, hai cái
lò đốt trấu đang phừng phừng đỏ lửa, đặt trên lò là hai cái
chảo lớn. Long, mình trần, đầu quấn cái khăn rằn, lẹ làng
đổ vào chảo hai thùng nước đường pha chút gừng với
vani, và một vài chất gì khác rồi lấy hai cái đũa tre đảo
qua, đảo lại để đường không bị cháy khét. Phía chảo bên
kia, người em của Long cũng đồng thời làm như vậy.
Được một lúc, nước đường cô lại, ước chừng đã tới, Long
đổ vô trong chảo một xô đậu phộng gi nhỏ, trộn đều tay
rồi cùng người em nhắc chảo ra khỏi lò, đổ kẹo ra bàn có
lót giấy kiếng, rắc mè để khỏi dính. Rồi, Long lấy một cái
chày cán mỏng kẹo ra, lấy dao rọc thành từng miếng hình
tam giác bằng nhau. Tới lúc đó, vợ Long với mấy người
em gái mới vô bao, đóng gói rồi đem đi bỏ mối.

Chúng tôi lại ngồi thưởng thức dĩa kẹo thơm ngọt mới
ra lò. Long, mặt lấm tấm mồ hơi, xoa xoa tay nói :”Các
bạn cứ tự nhiên nghe, mình phải làm tiếp mấy chảo nữa
cho kịp giao hàng”. Tôi hỏi một ngày nhà bạn làm mấy
chảo? Long cười cười, mỗi lò chừng mười chảo mới đủ
sống, nhà mình cũng đông người mà. Thấy Long lại lấy
khăn lau mồ hôi trên mặt, tôi với Từ Lương ngó nhau,
chắc bạn với tôi cũng cùng chung một ý nghĩ: trong vị

27 | P a g e

ngọt của miếng kẹo đậu phộng chúng tôi đang ăn trong
miệng, có cả vị mặn của những giọt mồ hôi lao động của
bạn tôi!

Một lần khác, Long mời chúng tôi về nhà ăn đám giỗ.
Nhà Long bữa đó người ra vô đông vui , làm nhiều đồ ăn
ngon, có cả nam thanh nữ tú dập dìu. Tôi và Lương được
xếp chung bàn với “các anh trai làng”. Họ ăn ít nhưng
uống đậm lắm. Ly đế nếp Bà Điểm chính gốc cứ xây một
hồi làm tôi đuối. (công bằng mà nói, tôi cũng đang “gồng
gánh” cho Từ Lương mấy vòng rồi). Tôi nhớ hồi nhỏ học
văn, thầy giáo có dạy cho bài ca dao: “Sao Vua chín cái
nằm kề, thương em từ thuở mẹ về với cha, Sao vua chín
cái nằm ngang, Thương em từ lúc mẹ mang trong lòng”.
Mà lúc ấy, sao Vua chín cái nó không nằm ngang, nằm
ngửa gì hết mà …quay vòng vòng, đâm vào nhau loạn xạ!
Thấy tôi xỉn, đám anh em nhà Long xốc nách, dìu tôi tới
võng nằm, “bỏ cuộc chơi”. Được một lúc, tưởng đỡ, ngờ
đâu ruột gan tôi cứ sôi sục, muốn lộn tùng phèo! Tôi leo
xuống võng, loạng choạng mò ra ao trước nhà cho “cá ăn
mồi”. Tôi ngồi “dô ta” một hồi, thấy miệng đắng nghét,
mới biết mình tuôn cả mật xanh, mật vàng ra. Thấy tôi
“hò” dữ quá, má Lâm cũng lo lắng, lấy dầu, lấy đồng xu
ra cạo gió cho tôi. Được uống ly trà nóng pha với chút
gừng giã nhỏ má Long pha cho, tôi thấy đỡ nhiều. Chiều
tối, ngồi rũ như tàu lá chuối sau lưng Từ Lương về lại Sài
Gòn, tôi thấy mắc cở quá! May mà nhà Long cũng thông
cảm, không ai trách móc gì hết!

… Anh chàng “củ mỳ” ngày trước, nghe nói giờ đã làm
chủ một trang trại chừng vài ha, bốn mùa cây xanh trái
ngọt bên bờ kinh An Hạ. Ông bà mình thường nói:”Muốn
giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi…vịt!”

28 | P a g e

Chàng Long không muốn … nghèo mà muốn làm giàu
nên lo đào ao nuôi cá, xây chuồng trại nuôi heo, nuôi bò,
đất trống thì trồng cây ăn trái. Tôi chợt nghĩ hay là bàn
với Long hôm nào đẹp trời mời bạn cũ Sư phạm về chỗ
Long họp mặt, cùng nhau ngắm mây bay, nước chảy, thả
cần câu cá, cùng chia với nhau những củ khoai lang, củ
mỳ nóng hổi thơm hương vị đất mà nhắc lại chuyện cũ
ngày nào quần thô, áo vải, đầu trần chân dép, đeo bị bàng
đựng tập sách, đạp xe lọc cọc trên đường làng đến trường
mà mơ ngày mai làm nhiều việc lớn:

…” Tháng sáu thầy về các em nhớ nha,

Với niềm tin khao khát ở tương lai

Trong mơ ước của những người tuổi trẻ

Thầy trò ta ngồi tính chuyện sau này…”

(Tháng sáu thầy về–Trần Minh Châu)

2.-Năm Đệ Nhị niên 14:

*Mo cau, cơm nắm, muối mè của Bạn Lâm Kim
Long:

Năm học nhị niên, giáo sinh phải tăng tiết và đi thực
tập một số buổi chiều nên chúng tôi gần như ngày nào
cũng học hai buổi. Hết tiết học buổi sáng, có người xuống
quán Bác Tư , có bạn ra đường Thành Thái (An Dương
Vương ngày nay) hay Trần Bình Trọng kiếm quán
cơm “trấn an bao tử”. Vào một buổi trưa , tôi với Từ
Lương có việc phải ở lại lớp nên đi ăn cơm trễ. Nhìn
chung quanh thấy vắng vẻ, bọn tôi tính kéo xuống quán

29 | P a g e

Bác Tư kiếm hai tô mì tôm dằn bụng thì…ngó thấy chàng
Lâm nhà ta xách một cái bọc có vẻ lùm xùm ra một góc
vắng ngồi. Hai chàng vội bám theo, bụng nghĩ chắc vợ
chàng Lâm làm cơm gà cá gỏi cho chồng ăn trưa đây!
Chàng Lâm lúc ấy hơi ngượng ngùng nhưng rồi cũng mở
bọc ra: Một cái mo cau đựng cơm nắm! Thì ra vợ chàng
Lâm từ mờ sáng đã thức dậy, nổi lửa nấu cơm rồi nắm lại
thiệt chặt, bó trong mo cau cho chồng đem theo. Lâm xắt
từng miếng nhỏ rồi mở gói muối mè ra mời chúng tôi ăn
thử. Nhón một miếng, cơm gạo trắng ăn với muối
mè…cũng lạ, cũng ngon ngon. Vậy là mỗi người một
miếng, rồi miếng nữa, một lúc sau mo cơm hết sạch. Lâm
e là chúng tôi chưa no bụng nên đứng dậy phủi tay mời
xuống quán Bác Tư uống trà đá.

Trưa hôm sau, Lâm lại mời chúng tôi ăn cơm. Sợ bạn
ngại, Lâm trấn an rằng bữa nay vợ mình nấu cơm nhiều
lắm, các bạn cứ tự nhiên ăn no đi! Vậy là ba chàng ngự
lâm pháo thủ chúng tôi lại xúm xít quanh mo cơm nắm,
thơm mùi hương của đồng nội mà trò chuyên râm ran.
Những lát cơm thơm gợi cho tôi hình ảnh chịu thương
chịu khó của vợ chàng Lâm. Đó là hình ảnh của nàng Tô
Thị, một lòng một dạ trung trinh với chồng, ôm con hóa
đá thành hòn Vọng phu. Đó là hình ảnh tiểu thư Quỳnh
Nga, từ bỏ lầu son gác tía để vào cuộc sống dân dã, mở
quán gấm đầu làng, ngày ngày thức khuya dậy sớm, nuôi
tằm, dệt lụa để lo cho chàng Trần Minh “ khố chuối” ăn
học thành tài:

“Vì tằm tôi phải chạy dâu,
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay
Chồng tôi thi đỗ khoa nầy
Bõ công đèn sách từ ngày lấy tôi
Kẻo không rồi chúng bạn cười

30 | P a g e

Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa
Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa:
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng!”

(Trăng sáng vườn chè)
(Sau nầy ra trường, nhờ có được hậu phương vững
chắc như vậy, chàng Lâm mới vững bước trên con đường
dạy học gập ghềnh, đầy chông gai của mình!)

“ Thời gian âm thầm như nước về khơi…”
(Thương hoài ngàn năm – Phạm Mạnh Cương )

Rồi, những cơn gió heo may từ phương Bắc ào xuống,
rít từng cơn qua song cửa lạnh buốt, đẩy lùi những cơn
mưa mùa hạ về những vùng đất nào xa lắt. Lớp chúng tôi
bước vào những đợt đi thực tập. Tôi với bạn Đào Từ, các
chị Ngọc Sương, Kim Nhung và Ánh Tuyết chung một
nhóm. Chúng tôi phải tranh thủ lo soạn bài, vẽ tranh minh
họa bài giảng , tất bật lo trang phục, lên lớp dạy thử …
Không còn những buổi trưa với cơm nắm muối mè, vừa
ăn vừa tán gẫu; có lúc vừa tan lớp buổi sáng đã vội đeo túi
giấy croquis, vừa gặm bánh mì (thổi kèn), vừa gò lưng
trên xe đạp đến trường mình sẽ thực tập chiều nay, hối hả
, vội vàng như anh chàng kỵ sĩ ra trận trong bài Binh xa
hành nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Phủ, được người đời ca
ngợi là một trong tam tiên thời nhà Đường:

“Xa lân lân

Mã tiêu tiêu
Hành nhân cung tiễn các tại yêu…”

* Những buổi thực tập khó quên:
“Bạn cũ xa rồi
Có người về đất buông xuôi

31 | P a g e

Năm ba đứa bạt phương trời…
( Trường cũ tình xưa – Thanh Sơn )
Lớp được chia từng nhóm để bước vào đợt thực tập,
mỗi nhóm từ 4 tới 5 người, cả nam lẫn nữ. Nhóm của tôi
có 5 người như đã nêu trên. Tôi nhờ có năng khiếu hội
họa nên thường đảm nhận việc vẽ tranh minh họa bài
giảng cho cả nhóm. Biết nhà trường có máy chiếu
projector nên tôi thường, những lúc không có giáo sinh
thực tập, vô phòng máy phóng hình từ sách giáo khoa lớn
lên trên giấy croquis rồi đem về nhà lấy màu nước vẽ lại,
rất sinh động. Cũng cần nói thêm là lúc ấy, khi nào túi
rủng rỉnh tiền thì vẽ tranh bằng giấy croquis (bằng nửa tờ
nhật trình, giấy dầy, hai mặt trắng phau) còn nếu túi bị
viêm thì mua giấy bristol (một mặt trắng) rẻ tiền hơn để
vẽ.

Nhóm có 5 người, mà bài giảng nào có tranh minh họa
thì thường giáo viên hướng dẫn cho điểm thực tập khá cao
nên tôi luôn bận bịu với các tranh vẽ, lúc nào ở nhà có thì
giờ rảnh là bày giấy cọ ra, có khi quên cả ăn uống nên
thường bị ba má tôi la hoài. Nhưng mỗi lần nghĩ đến lúc
bạn mình lên lớp thực hành mà không có hình ảnh minh
họa ( nói nôm na là dạy chay ), cô giáo hướng dẫn không
cho điểm cao, ảnh hưởng đến việc thi tốt nghiệp ra trường
của các bạn thì tôi lại chạnh lòng, không thể từ chối được.
Căn phòng nhỏ của tôi cũng vì vậy mà chất đầy giấy, cọ,
lâu lâu má tôi phải gom bỏ vô thùng rác.

Nhóm chúng tôi bắt đầu qua thực tập tại Trường Sư
phạm Thực hành. Đến lượt mình, mặc dù đã chuẩn bị khá
kỹ : soạn bài, lên lớp thử, vẽ tranh minh họa bài giảng…
mà tôi cũng không tránh được cảm giác hồi hộp. Cũng nói

32 | P a g e

thêm là nhờ có khoản tiền học bổng toàn phần (2/3 lớp
được toàn phần, 1/3 còn lại hưởng bán phần, học bổng
toàn phần lúc đó là 1.800 đồng, một số tiền khá lớn lúc
bấy giờ), trước đó cả tháng má tôi dẫn tôi tới tiệm may
Dân Sinh, là tiệm nổi tiếng nhứt khu vực cầu chữ Y,
chuyên may veston, chemise, quần tây…nhờ cắt may cho
tôi ba bộ đồ mới để sau nầy ra trường đi dạy học. Ông bà
mình có nói:”Người đẹp nhờ lụa…”. Bận bộ đồ mới, các
bạn khen tôi chững chạc, sáng sủa ghê (sáng sủa chớ
chiều…hổng có sủa đâu nha).

Công việc chuẩn bị đã xong, cả nhóm vui vẻ kéo nhau
qua lớp thực tập. Cô giáo chủ nhiệm lớp còn trẻ lắm, mới
ngoài ba mươi tuổi, gương mặt xinh dẹp như trăng rằm,
xưng là chị và gọi chúng tôi là các em ngọt xớt. Chuông
reng báo giờ học bắt đầu. Học sinh bắt đầu vô lớp. Lớp
trưởng hô “nghiêm”, cả lớp đứng dậy chào thầy. Học sinh
Trường Sư phạm Thực hành có khác! Em nào cũng khôi
ngô, sáng sủa, ánh mắt đầy vẻ tinh anh. Đặc biệt là sĩ số
mỗi lớp đều không vượt quá 30 em .

Đứng trước lớp toàn học sinh xa lạ, tôi thấy
hồi hộp , mồ hôi lấm tấm trên trán , thấm đẫm lưng áo.
Nhìn thấy ánh mắt động viên của bạn trong nhóm và nụ
cười tươi của cô giáo hướng dẫn, tôi lấy lại bình tĩnh và
bắt đầu tiết thao giảng bằng bài hát:

Trên con đường đến trường

Có cây là cây xanh mát

Có gió, gió mát từng cơn

33 | P a g e

Có cơn mưa qua từng mùa

Trên con đường đến trường

Có con là con chim hót

Nó hót, nó hót làm sao

Bạn ơi bạn cùng đi thật mau.

Học trò vỗ tay vang dội, lớp học sinh động hẳn lên. Bắt
đầu kiểm tra bài cũ, tôi đặt một số câu hỏi và gọi vài em
ngồi bàn đầu, bàn thứ hai trả lời (những em ngồi bàn đầu
thường là những em học sinh khá, giỏi). Học sinh thực
nghiệm có khác, các em trả lời câu hỏi rất mạch lạc và
nhận được các điểm 10 đỏ chói.Tôi phấn chấn hẳn lên
bước vào phần giảng bài mới.Lần lượt,tôi đặt ra các câu
hỏi gợi mở ... Cuối cùng tôi tóm tắt bài học lên bảng, rồi
xen kẽ là các câu đố vui… có thưởng.Khi kết thúc tiết
thực hành thì tiếng chuông báo hiệu giờ chơi cũng vang
lên. Tôi thở phào nhẹ nhõm! Các bạn cùng nhóm và cô
giáo chủ nhiệm tươi cười chúc mừng tôi đã hoàn thành tốt
bài dạy!

Ba tháng trước khi kết thúc năm học chúng tôi hầu như
không có thời gian rảnh rỗi vì liên tục đi thực tập ở các
trường thuộc quận 5 và quận 10. Các tiết thực tập của
chúng tôi thường được đánh giá tốt nhờ lôi cuốn được học
sinh bằng các bài hát, tranh ảnh, trò chơi … Còn nhớ có
lần ra chơi khi chúng tôi đi thực tập ở một trường tiểu học
thuộc quận 10, học sinh quây thành vòng tròn, anh chàng
Từ Lương vừa hát,vừa lom khom ra điệu bộ rất hài hước:

34 | P a g e

Xắc cái lỵ là xào xào xào

Búng cái lỵ là bào bào bào

Xắc cái lỵ là xào

Búng cái lỵ là bào

Hầy dà !

Thì ra anh chàng đóng vai chú bán bánh bò giò cháo
quẩy ! Vui quá !

Rồi chúng tôi bước vào kỳ thi tốt nghiệp. Thi viết, thi
trắc nghiệm, thi thực hành … làm ai nấy mặt mũi bơ phờ.
Kết quả xếp loại ra trường của chúng tôi cũng không tệ :
Tri Phúc đậu hạng 5/767 giáo sinh tốt nghiệp Sư phạm
Saigon khóa 11 (1972-194). Tôi , Tri Phúc, Đào Từ và
Hùng Sơn về dạy tại tỉnh Gia Định. Tri Phúc đậu cao hơn
nên dạy tại Thủ Đức. Còn tôi, Hòa Minh và Hùng Sơn
dạy cùng trường tận Tam Thôn Hiệp, quận Quảng Xuyên
(nay là huyện Cần Giờ), phải đi đò xuôi cách trở. Chỉ khi
đến kỳ lãnh lương, chúng tôi mới có dịp gặp Tri Phúc tại
Sở Học chánh Gia Định ( gần chợ Bà Chiểu) . Cầm Sự
vụ lệnh do đại tá Châu Văn Tiên, nguyên Tỉnh trưởng Gia
Định ký tên, đóng dấu đỏ chói, ba chúng tôi đến chợ Phú
Xuân, quận Nhà Bè xuống đò về Tam Thôn Hiệp. Ba
thầy giáo trẻ măng chung trường, chung những chuyến đò
ngày, đêm suốt một năm trời gian khổ cho đến ngày
30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng mới lần lượt
được chuyển về Saigon

DƯƠNG HOÀ MINH

35 | P a g e

TỰ SỰ

Những tháng ngày cuối cấp 3, không hiểu sao mình bún
thiu đến nổi không đủ sức lực để bon chen vào đại học.
Sau khi đậu Tú tài phần 2, mình đi học nghiệp vụ ngân
hàng tổ chức ban đêm tại trường Sư phạm Saigon. Rồi
một hôm vào học, thấy đông người xúm quanh bảng thông
báo. Vì tò mò mình đến xem thì ra đó là thông báo thi
tuyển sinh vào trường Sư phạm. Một chị bạn học chung
xúi mình đi thi . Thế là mình đi thi và đã đậu . Vì không cố
tình thi nên mình đâu có ý định đi học. Cho đến lúc Ba
mình hỏi :“ Sao con không làm thủ tục đi học?” Mình trả
lời : “ Bộ Ba thích con học Sư phạm sao?”. Ba mình “
Ừ!”. Đó là động cơ đẩy mình vô trường Sư phạm. Tuy
không cố tình vào Sư phạm nhưng khi đã vào rồi thì các
bạn đã làm mình vui học. Nơi đây mình đã gặp một người
bạn là Kim Nhung rất hợp với mình, hai đứa thân nhau
đến nỗi mọi người tưởng là chúng tôi đã quen nhau từ lâu.
Đến bây giờ qua mấy chục năm rồi, mình và bạn ấy vẫn
liên lạc động viên nhau trong cuộc sống. Bạn ấy có một
đặc điểm là giậm chân khi có chuyện không vừa ý! Bây
giờ đã thành lục tuần, thành cụ ngoại rồi vẫn vậy.

36 | P a g e

Năm đầu là Nhất 7, năm sau là Nhị 15. Lần đầu tiên
học với con trai ( mình vốn là nữ sinh Gia Long ), mà lại
con trai quá đông nữa nên mình hơi run. Ấn tượng đầu tiên
là sao các bạn trai giỏi Pháp Văn thế nhỉ? Đáng nể thật!

Mình nhớ có một lần, không biết hồi Nhất 7 hay Nhị
15, học Pháp Văn với thầy Nam Minh. Thầy cho bắt thăm
một cặp giáo sinh, đối thoại với nhau bằng tiếng Pháp.
Mình đối thoại với bạn Quách Thắng Quần. Mình run quá
chừng. Mình chả hiểu bạn hỏi mình điều gì nên mình đứng
đơ như cây củi! Thế là bạn nhắc: “ Qui, đi!”. Vậy là mình
“ Qui,”. Buồn cười thật!

Không hiểu nét mặt mình lúc đó già cỡ nào mà tự dưng
được Kim Nhung, Hòa Minh và Trung Chánh tôn làm chị
Hai ngang hông? Cả bọn còn kéo nhau về Trảng Bàng
trình diện gia đình Nhung và được ăn bánh bò nướng ngon
ghê! Nhờ hai người em trai kết nghĩa này giúp đỡ mà suốt
thời gian thực tập, mình luôn có đồ dùng dạy học. Buổi
sáng học ở lớp, buổi chiều ở lại, bốn chị em cùng lo vẽ đồ
dùng dạy học rất vui.

Mình nhớ sau mỗi đợt thực tập, cả lớp tập trung về hội
trường cùng cô Thủy rút kinh nghiệm. Cô Thủy vừa hiền
,vừa nói nhỏ, mà bầy giáo sinh khi tập hợp lại rôm rả quá
chừng! Xúm nhau từng nhóm kể chuyện trên trời dưới
biển, đâu có chịu tập trung nghe cô nói đâu? Nhất là bạn
Tri Phúc hay ghẹo cô! Cuối cùng, cô phán một câu mà
suốt cuộc đời đi dạy mình thấy đúng quá chừng! Đó là: “
Học trò các em sẽ trả báo cho tôi”.

Nhắc đến Tri Phúc, không sao mình quên được chữ ký
của bạn giống y như một cuồn kẽm gai hay cái lò xo gì ấy,
với bút hiệu Nguyễn Thị Trầm Mặc một thời, đã làm mấy

37 | P a g e

đứa con gái họ Nguyễn phải điên đầu! Bạn có biết chữ ký
của bạn Phúc ở đâu không? Trong quyển lưu bút của
mình đấy! Đọc lại quyển lưu bút, thấy những dòng chữ
của các bạn thời giáo sinh ghi lại, mình thấy như còn là
một giáo sinh mơ mộng chớ không phải một bà cụ bà lục
tuần.

Lúc học Nhất 7, mình được dịp đi Đà Lạt lần đầu với
trường nhưng không có một người bạn gái nào bên cạnh.
Cả lớp chỉ có mình và Đoàn Hùng Sơn đi. Đoàn du lịch
được Thầy Minh, dạy thể dục, hướng dẫn. Nhưng cũng
may, chúng tôi nhanh chóng được kết bạn với hai chị nên
chuyến đi Đà Lạt rất vui! Có những tấm hình đẹp nhờ bạn
Sơn đó! Ngoài ra, mình còn đi cắm trại với lớp ở các nơi
như: “ Đường Sơn quán, suối Lồ Ồ, núi Bửu Long, vườn
hoa Anh đào ( bây giờ nơi đây là Bệnh viện Triều An),
Vũng Tàu “Những lúc đi cắm trại, bọn con gái được Thầy
Thuận chở bằng xe hơi, còn các bạn trai đi bằng xe đạp.
Riêng lần đi Vũng Tàu, mình và Nguyên cùng vài bạn trai
giỏi Pháp văn, đi với Thầy Lanfranchi. Lúc đó Nguyên
nói: “ Tui có thể ăn hết 2 ổ bánh mì đó Sương!”. Cái bụng
của Nguyên khỏe thật! Bây giờ Nguyên đang ở đâu? Mình
đang nhớ bạn đây! Bàn nhất mình ngồi có Nhung,
Nguyên và Ánh Tuyết. Ánh Tuyết bây giờ đã là bà xã của
Hòa Minh. Mình có gặp lại bạn một đôi lần gì đó, ngoài ra
chỉ thăm hỏi qua Hòa Minh mà thôi.

Mình còn một chuyện nữa, kể lại cho các bạn nghe. Cái
thời giáo sinh ‘quậy’ của bọn mình. Năm nhị niên, ở
Trường có tổ chức chương trình tuyển chọn các màn văn
nghệ cho ngày Sư phạm Saigon. Lớp mình chỉ có màn đơn
ca của Thanh Hiếu nhưng bọn mình muốn trốn học giờ
Quản trị Thanh tra chán ngắt một cách hợp pháp, phải làm

38 | P a g e

sao? Bạn Túy bày ra trò khoảng 20 đứa cả nam lẫn nữ,
trong đó cũng có mình nữa lên hát bản “ Bình ca 1”. Có ai
hay bằng ban hợp ca Nhị 15, chỉ dượt có một lần mà lên
hát. Hát xong, mấy đứa chạy đi trốn. Quê thấy mồ! Đó là
hệ quả của một sự trốn học. Kỷ niệm này đáng ghi nhớ
đến suốt đời! Thời học trò chắc ai cũng rắn mắt như tụi
mình. Nhưng khi ra trường đi dạy thì mình rất nghiêm túc,
luôn làm gương tốt cho học sinh noi theo. Mình đã theo sự
nghiệp giáo dục cho đến lúc về hưu nhưng không là giáo
viên tiểu học mà là giáo viên toán cấp 2. Sau 7 năm dạy ở
Bình Dương đến năm 1981, mình về thành phố Hồ Chí
Minh. Vậy mà mình hoàn toàn không hay tin tức gì về các
bạn trừ Kim Nhung. Cho đến khoảng 2006 hay 2007 gì
đó, bất ngờ mình nhận dược một cuộc điện thoại của bạn
Từ Lương, nói rằng đang chở mấy thằng “ cốt đột “ đi tìm
nhà mình. Các bạn có biết ai không? Đó là Đoàn Hùng
Sơn, Dương Hòa Minh và Trương Minh Hạnh. Thú thật
mình không nhớ bạn Hạnh vì bạn học với tụi mình thời
gian ngắn quá. Mình mừng quá chừng khi gặp lại các bạn!
Sau đó, từ từ mình mới biết tin về một số bạn nữa qua các
buổi họp mặt ở chỗ Phan Thanh Minh, Nguyễn Tri Phúc.
Mình vui lắm các bạn ạ! Tuy rằng, vui không trọn vẹn vì
mình biết được, đã có vài bạn vĩnh viễn ra đi!

NGỌC SƯƠNG

39 | P a g e

THƯ TỪ CHƠN THÀNH

Viết hồi ký là viết lại sự thật gắn liền với đời mình.
Tuy nhiên sự thật thì quá nhiều mà thời gian thì không
cho phép mình nhớ đủ hết. Mọi chuyện đã qua, bọn mình
đã già. Chỉ có thể nhìn lại ngày xưa của mình và rút ra từ
đó một kinh nghiệm sống.

Hơn 30 năm trôi qua, mình tưởng không còn dịp nào
để sống lại những kỷ niệm vui có, buồn có. Thế mà giờ
đây, nó đã thức dậy trong tôi. Cái tâm trạng háo hức, bồn
chồn mong đợi ngày gặp lại các bạn. Có lẽ các bạn cũng
không khác gì tôi?

Gặp lại bạn bè, tóc ai cũng điểm bạc, đã lên chức ông
bà nội, ngoại, sắp trở thành ông bà cụ hết rồi! Vậy mà
gặp lại nhau cứ mày mày, tao tao. Ôi! sao mà vui quá !!

‘ Gia đình Sư phạm’ nói chung và ‘ Sư phạm Nhất 7;
Nhị 15’ nói riêng, cụm từ quá thân thương! Hình ảnh
ngôi trường cũ những tháng ngày học đã trôi qua, những
môn học mới lạ, nào là Sư phạm lý thuyết ( C. Tâm ); Sư
phạm thực hành ( C. Thủy ); Giaó dục cộng đồng (C.
Tựu ); Tâm lý giáo dục ( Th. Thường ); Hội họa ( Thầy
Thương ); Luân lý chức nghiệp ( C. Điệp ); Dụng cụ thính
thị ( Th. Thành ) .v.v.

40 | P a g e

Những lần thực tập bên Sư phạm Thực hành; những
lần thực tập dã ngoại trong giờ Giaó dục cộng đồng ( C.
Tựu ); cắm trại trong giờ Hoạt động thanh niên ( Th.
Thuận ) mình rất thích vì vui lắm phải không các bạn?

Các Thầy dạy của tôi, mỗi Thầy một vẻ, một tính cách.
Vào học sư phạm, tôi đã gặp được rất nhiều người Thầy
tài năng và đức độ. Các Thầy, Cô đã trang bị cho chúng
tôi những kiến thức, kỹ năng, tâm huyết cho nghề mình đã
chọn. Các Thầy không chỉ dạy cho chúng tôi thành nghề
mà còn là những tấm gương sáng cho chúng tôi soi mãi về

sau.

“ Sư phạm Nhất 7; Nhị 15”ơi! Ngày đầu tiên bước
chân vào trường Sư phạm, mình được sắp xếp vào lớp
Nhất 7 và một sự kiện trùng hợp đã xảy ra : lớp Nhất 7 có
đến 2 Nguyễn Thị Ngọc Sương và 2 Nguyễn Thị Kim
Nhung. Thế là chúng tôi phải theo chân Thầy Ngôn về
văn phòng. Kết quả 1 Nguyễn Thị Kim Nhung ( An Lạc )
và 1 Nguyễn Thị Kim Nhung ( Trảng Bàng TN ) vào lớp
nhất 7. Là “ cái duyên “ đấy các bạn ạ! Kể từ đó hai đứa
tôi trở thành đôi bạn thân thiết ( vì hợp tính nhau ), được
ngồi gần nhau suốt hai năm học. Và cũng từ lớp Nhất 7
nầy, mình được các bạn nữ tặng cho biệt hiệu là ‘ Kim
Nhung Baby’. Hì hì, thích nhỉ! Kim Nhung tha hồ nhõng
nhẽo, tha hồ được cưng chiều.Về sau nầy ra trường đi
dạy,chúng tôi cũng về cùng một nhiệm sở ( thuộc huyện
Châu Thành, tỉnh Bình Dương ) cho đến năm 1976 thì
chúng tôi chia tay; đứa về Tp.HCM, đứa về Tây Ninh
nhưng vẫn liên hệ thường xuyên và gặp nhau hàng năm.

À, nói nhỏ nầy nha: “Tri Phúc ơi! Lúc đó ( 2 năm Sư
phạm í! ), bạn “ gờm” với 2 đứa tụi nầy lắm phải không?

41 | P a g e

Tại sao? Hì! Nhưng dù sao thì trong những giờ làm bài
Pháp văn, bạn vẫn được 2 đứa tụi nầy tôn vinh làm ‘Sư
phụ’ í mờ! ( .. bạn làm bài xong, ra đứng trước cửa lớp
‘quăng’ giấy vô cho tụi nầy chép. Cám ơn bạn nhiều

nha!).

Còn nữa nè! Cái lần ‘ăn vụng’ trái sơ ri làm đổ xuống
đất, lăn dài lên phía bàn giáo viên trong lúc dự giờ môn
toán bên Sư phạm Thực hành. Bị cô giáo trừng mắt, còn
các bạn học sinh nhỏ thì cùng trố mắt, đàng sau quay để
nhìn các Thầy Cô tương lai … đang ‘ minh họa’… gì thế
nhỉ! Chưa biết tội, Tri Phúc... nhá mình, còn che miệng
nói nhỏ với bọn mình câu gì bạn còn nhớ không? “ Cô
nầy bị t… kinh niên và đang bị x … ra vì mặt cô đầy mụn
và không bao giờ nhìn thấy cô cười”.

Cô Thủy, giáo sư hướng dẫn lớp Nhị 15 đã từng
nói:“Mau sám hối đi các bạn ạ! Không thì sẽ bị học trò
các em trả báo đó.”

Ôi! Còn nhiều và rất nhiều kỷ niệm, nào là trốn tiết học
theo Nguyễn Đình Túy tập dượt văn nghệ, lý do chính
đáng thôi chứ nào có tham gia thi hát hò gì đâu!

Nhớ ui là nhớ! Kể sao cho hết những lần chuẩn bị cho
tiết dạy bên Sư phạm Thực hành với Ngọc Sương, Hoà
Minh, Trung Chánh, Quách Thắng Quần vui quá là vui..!

Nhưng rồi hai năm học trôi qua nhanh chóng! Kết thúc
đời giáo sinh vô tư nghịch ngợm, tôi ra trường đi dạy
cho đến khi về hưu. Tôi luôn ghi nhớ các Thầy , Cô đã
hướng dẫn, giúp đỡ giáo sinh thành người có niềm tin, hy
vọng trong cuộc sống. Tôi không bao giờ quên trọng trách
thiêng liêng của người giáo viên là đào tạo học trò mình (

42 | P a g e

thời gian đã qua ), các con cháu của mình( hiện tại ),
thành một thế hệ rường cột tương lai của đất nước.

Cuối cùng, mình muốn nói với các bạn hãy giữ gìn sức
khỏe để bọn mình có thể gặp lại nhau hàng năm các bạn
nhé!

Bài viết này nhằm lưu lại ‘ Sư phạm Saigon Nhất 7;
Nhị 15’ một chút gì để nhớ !

NGUYỄN THỊ KIM NHUNG

43 | P a g e

KỶ NIỆM HAI NĂM THỜI DẠY HỌC

Sau thời gian rong chơi vô định tại quê hương Biên
Hòa, tôi quyết định trở lại nghề giáo mà tôi đã từ bỏ 8
tháng sau 30/4/1975. Trở lại Cà Mau , nhận lương
“rappel” 8 tháng, tôi ký nhận nhiệm sở tại huyện Sông
Ông Đốc ( sau đổi thành Trần Văn Thời).

Đò cặp mạn huyện mà tôi có cảm giác như lọt vào một
khu làng bình thường nằm ven sông. Một vài căn nhà tô
của dân chen lẫn hội trường lợp bằng lá nằm ngay trung
tâm huyện. Về đây, lần đầu tiên tôi biết đến các cán bộ
giáo dục của huyện. Những người này lớn tuổi với nước
da rám đen, trông rõ chất Nam bộ và ngôn ngữ thì mộc
mạc, khác hẳn trong trí tưởng tượng của tôi.

Có lẽ do suốt đời nằm vùng chiến đấu, thiếu hẳn tri
thức cập nhật nên trông ai cũng giống dân làng, chỉ khác
nhau theo từ xưng hô anh Ba, anh Tư và theo độ kính nể
của những lời giao tế thì mới biết cấp bậc vì ai ai cũng
mặc bà ba đen với khăn rằn quấn quanh cổ như nhau, mà
ngày xưa khi còn nhỏ, tôi đã sợ phát khiếp khi nhìn thấy
trên những bích chương treo đầy đường thời chế độ cũ.
Thực tế, các anh cũng hiền lành như mọi người dân khác,
duy điều nên tránh là không nên nói đến chuyện chính trị,
vì lúc đó, các anh đều như mãnh hổ, ăn to nói lớn để bảo
vệ chủ thuyết và lý tưởng.

44 | P a g e

Những ngày ở đây, cũng là lần đầu tiên tôi biết thế nào
là ăn cơm tập thể với lối giữ gìn vệ sinh chung là sử dụng
đũa “hai đầu”. Kể ra thì cũng có cái hay nhưng tôi cứ
ngường ngượng sao đó, các ngón tay chưa thật quen và
phải cần có thời gian! Khi đứng cạnh bàn dài, ăn chung
với rất nhiều người mặc đồ đen, tôi cứ có cảm giác như
mình cũng là người của “cách mệnh!” và tự nhiên như
bắt mình phải sử dụng ngôn từ dân dã như họ, một điều
tôi tối kỵ vì tôi chỉ thích nói chuyện như người có đào tạo
ăn học. Cũng vì tôi sợ bị họ ghét, sợ làm người tri thức
hơn họ và sợ đủ thứ!

Cũng tại đây, tôi tình cờ gặp lại Lâm Kim Long, người
bạn học cùng lớp ở Sư phạm Saigon năm nào. Bạn lớn
tuổi hơn tôi, nhìn như dân võ biền với nước da sạm nắng
vì đồng ruộng, với lối nói chuyện trầm tĩnh đáng nể và
với độ hiểu biết hơn tôi về làng quê, bạn đã hòa hợp
nhanh hơn tôi trong cái thế giới dân gian đầy dừa nước
này. Tôi rất vui khi gặp bạn và tôi thật lòng muốn ‘kết’
bạn như người anh. Quả vậy! Sau này, tôi và Long đã đi
chung đường, đã cùng về xã Phong Lạc dạy chung, đã
cùng nếm trải những vui buồn ở đây trong hai năm 1976-
1977 và Long đã đóng đúng vai trò người anh đối với tôi.
Hai người chúng tôi sát cánh nhau từ đấy!

Cả cái dãy xóm như mừng rỡ hẳn lên khi có đến hai vị
thầy từ miệt Saigon xuống. Bao nhiêu lời chào hỏi và bao
nhiêu lời mời mọc đến nhà chơi cho biết và cũng chính vì
điều này, đã khiến chúng tôi như nặng thêm chứng bệnh
‘chói nước’ sau này.

Người Trưởng ban giáo dục xã là một người Bắc tên
Ba P…. Ông ta trông còm cõi, ốm yếu và nhỏ con. Chúng

45 | P a g e

tôi cứ cười mãi chuyện ông ta sợ vợ, hay bị vợ đánh bầm
dập và phải luôn luôn lội qua con kênh để trốn, con kênh
có bề ngang 10m, chạy dọc theo xóm. Thế mà ông ta cứ
gặp chúng tôi là giảng giải về công việc giáo dục. Tôi biết
là không thể đem chuyện riêng tư mà ghép với công việc
được nhưng tôi vẫn thấy kỳ kỳ sao ấy! Đường đường là
một vị đứng đầu ngành giáo ở xã mà không đủ khả năng
để bảo vệ mình. Tôi và Long bắt đầu có ý xem thường
ông ta và nó cũng là đầu dây, mối nhợ dẫn đến những
đấu tranh sau này. Chúng tôi ghét lắm nhưng cũng phải
chịu thôi!

An ủi cho chúng tôi là người dân ở đây rất tốt bụng và
chúng tôi được cho ở nhờ trong căn nhà lá của anh Bảy
T…. Căn nhà nằm cách mé kênh 20 m. Vợ chồng anh có
4 người con, 3 trai, 1 gái. đều còn nhỏ. Duy chỉ có đứa
con trai lớn khoảng 9 tuổi là học với chúng tôi. Anh thì rất
tốt, cứ mời mọc chúng tôi mãi. Cuối cùng, tôi và Long
cũng đồng ý ở.

Cuộc đời dạy học của hai chúng tôi nếu bình lặng thì sẽ
không có gì để nói. Đằng này, khi đã yên tâm về nơi ở thì
chúng tôi bắt đầu đối mặt với chuyện dạy học không bình
thường. Tôi và Long là hai thầy giáo ‘không trường lớp’.
Ngày về xóm, chúng tôi phải lấy nhà của anh Bảy để tạm
làm nơi dạy trong khi chờ đợi xã xin được đất và sẽ dựng
trường sau. Chị Bảy cũng hơi bực mình nhưng do chồng
đã quyết nên cũng phải chịu.

Số học sinh như càng đông thêm khi nghe tin có lớp.
Học sinh thì đủ loại, thượng vàng hạ cám. Số tuổi trung
bình của nam và nữ học sinh toàn lớp là 14; tuổi như thế
mà chỉ mới học lớp hai, lớp ba thì ta cũng phải cảm

46 | P a g e

thương cái thiếu thốn của dân vùng kháng chiến. Sau này,
nhiều lúc tới ngày thi lên lớp, vẫn vắng vài em, tôi phải
đến tận nhà năn nỉ phụ huynh. Chỉ nhận được câu trả lời
đến nản lòng: “ Thôi Thầy ơi! Để cho cháu nó ở nhà phụ
vụ lúa, chỉ cần nó biết cộng trừ nhân chia vài con số là
được rồi Thầy ơi!” Có em chỉ học được nửa năm là đã đi
lấy chồng, lấy vợ lúc mới 16, 17 tuổi!

Được cái, học sinh rất quí chúng tôi, vẫn thường cho
đủ loại cá, trái cây trong nhà khi tới mùa, nhiều khi ăn
không hết. Phụ huynh mến hai thầy ‘Sè gòong’ nên tới
giỗ là mời. Nhiều khi, đám giỗ trùng nhau nên chẳng
muốn đi dự vì sợ gia đình mấy em buồn nếu chúng tôi đi
nhà bên kia. Chỉ nội cái nhậu không là đã phát ngán, tuy
rằng tôi và Long cũng đã kịp làm quen với ‘lưu linh’ từ
lâu. Rượu đế nhà ai cũng nấu được. Chất lượng cao, nóng
đến xé cổ, có thể đốt cháy như alcool và nướng khô mực
được. Và nó cũng là nguyên nhân có thể giải thích là tại
sao dân uống rượu ở quê cứ phun phèn phẹt nước miếng
vào vách nhà, bất kể là nhà ai và lúc đầu chúng tôi cũng
thấy khiếp, nhưng ở lâu dần cũng đâm quen nhìn và lây
‘bệnh’ luôn? Tôi và Long đã lạc vào thế giới ‘nhậu’.
Không tuần nào mà không có ba ‘độ’ trở lên! Và điều đó
đã nhân đôi chứng bệnh sau này của chúng tôi.

Lớp học của chúng tôi rồi cũng phải dời đi do quá ồn
và do chị Bảy chủ nhà không thích. Lớp tôi lại chuyển
vùng qua nhà khác mà Long đã quan hệ xin xỏ. Đúng là
khổ cái mớ đời! Rồi đến một ngày, chúng tôi được lệnh từ
Ba P…, vác dao rựa đến vùng đất mới, của dân cho
mượn, khai hoang giẫy cỏ để làm trường. Tôi và Long
ngao ngán đến tận cổ khi tới nơi! Khoảnh đất rộng hơn
100m2 mà toàn gốc cây từ nhỏ đến lớn. Lao động chỉ có

47 | P a g e

hai thầy, dụng cụ một dao , một rựa. Hai chúng tôi ngồi
bó gối ngán ngẩm và quyết định bỏ ‘mứa’ và sẽ về báo
cáo lại ‘lão’ sau.

Miếng đất mới nằm sát bờ kênh mà chúng tôi tương
đối ưng ý, chỉ có sau khi Long và tôi phản đối dữ dội về
khu vực đã kể. Ngày đắp nền, chúng tôi huy động toàn bộ
lớp tập trung. Học sinh nam thì cùng chúng tôi ngụp lặn
dưới nước kênh đục ngầu, moi lên từng cục đất màu vàng
to quăng lên bờ, học sinh nữ thì làm tiếp công đoạn hai,
rải thành hàng để tạo nền. Thời gian này, tôi và Long
cũng hơi vui khi thấy có hai cô giáo nhìn được mắt, tăng
cường cho xã và đang ở trọ nhà dân gần đó, cứ chạy ra,
chạy vào nhìn và chọc ghẹo chúng tôi. Long thì đã có vợ
con , tôi thì đơn thân và chết nhát! Không dám hó hé và
vẫn cứ ra dáng nghiêm túc của người thầy giáo. Thực ra
cũng muốn có bạn nữ tán dóc trong vùng quê hẻo lánh
lắm chứ nhưng ngại dân làng đồn thổi thì ‘mất mặt bầu
cua’!

Tưởng rằng sẽ dựng trường sau đắp nền nhưng khi
đang làm thì không hiểu sao, dân đòi lại đất, có lẽ do ghét
lão Ba P…? Chúng tôi lại bơ vơ và chỉ trụ lại khi có căn
nhà dân bỏ hoang, nóc và vách đều tơ hơ mà khi trời mưa
thì phải cho học sinh nghỉ, dứt mưa dạy tiếp. Tôi và Long
đã dạy ở đây được một thời gian, cho đến khi lão Ba P…
tách chúng tôi ra vì sợ chúng tôi hợp đồng làm ‘loạn’?
Long hy sinh nhường tôi ở lại, còn phần mình thì về May
Dóc, một nơi hoang vu sông nước, tôi rất nhớ tấm lòng
của bạn ấy! Ngày Long chuyển đi, mặt tôi buồn còn hơn
đưa đám mà gia đình anh Bảy đều biết, đám trẻ cứ hay
lởn vởn ra gần chỗ tôi chơi như để an ủi.

48 | P a g e

Mỗi buổi chiều nhớ Long, tôi thường xách ghế ra bờ
kênh và cứ ngồi buồn buồn như thế cho đến khi không
chịu nổi muỗi Cà Mau vốn rất ‘nổi tiếng’tấn công, tôi mới
vào nhà đi ngủ. Ở nhà quê, 6 giờ chiều là như tối, xóm
giềng chỉ nhận ra qua dăm ba ngọn đèn cầy leo lét từ xa
và chỉ biết ngủ với ngủ, nếu không có độ nhậu dựng dậy.
Đúng là buồn như ‘cóc chết’!

Hè năm 1976 đã đến, tôi nhận tin Long sẽ đến chỗ tôi ở
và hai đứa sẽ cùng nhau về Saigon. Khi Long đến đi cà
nhắc vào nhà thì tôi cũng chẳng hơn gì, chúng tôi đã cùng
bị chứng bệnh mà dân gian gọi là ‘chói nước’. Hai chân
cứng ngắt mà mỗi lần bước đi là mỗi lần nhăn mặt, đau
nhức thấu tâm can! Hai chúng tôi lết đi dọc bờ kênh như
hai thầy giáo thân tàn , ma dại, tay luôn ngoắc vẫy để
được đi nhờ xuồng.

Ra thị trấn thì trời đã sắp chiều, chúng tôi tạm trú tại
nhà bạn Trương Line, cũng là bạn cùng lớp với nhau, quê
trong nội thành Cà Mau. Hai bác bố mẹ Line rất tốt đã
khuyên chúng tôi ở lại trị bệnh. Chúng tôi về lại quê
hương chỉ sau hai ngày chích thuốc. Tôi và Long chỉ thực
sự hân hoan khi đã về đến thành phố hoa lệ Saigon, như
người tiền sử trở về với đời sống văn minh!

NGHIÊM HẢI

49 | P a g e

ĐỌC LẠI NHẬT KÝ NĂM XƯA

Lâm Tuyết Nhung

(Con gái của Lâm Kim Long )

Thư gởi chú Nghiêm văn Hải.

Chú Hải kính thương!

Cháu đã nhận được rất nhiều thư và bài viết của Chú.
Chú viết bài rất hay! Cháu rất thích. Thích nhất vẫn là
cái tình ở Chú: “ Giờ đây, tôi thực sự muốn nghe những
lời tâm tư của người khác, muốn nghe chuyện về các bạn
xa gần. Muốn kể cho các bạn biết những tâm tư thầm kín,
ít khi bộc lộ của tôi và muốn rằng, đến cuối đời vẫn còn
lưu giữ hoài hình ảnh bạn bè trong trái tim mình”.

Tình bạn trong Chú thật là cao cả, thật là ấm áp. Chú
kính thương! Đọc qua: “ Kỷ niệm nhớ nhất thời dạy học”,
cháu không sao cầm được nước mắt. Cũng qua đó, cách
đây 36 năm đến bây giờ cháu mới thật sự hiểu: một thằng
bạn trong nhật ký của Ba Long được xưng hô bằng
“mầy” lại chính là Chú.

50 | P a g e


Click to View FlipBook Version