The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Sở GD&ĐT Hải Phòng, 2023-10-10 23:09:09

Tài liệu giáo dục địa phương Thành phố Hải Phòng 11

TL-11 có logo

ĐỖ VĂN LỢI (Tổng Chủ biên) PHẠM THỊ THU HÀ - NGUYỄN THỊ THU HẰNG (Đồng Chủ biên) Lớp11


Lớp11 ĐỖ VĂN LỢI (Tổng Chủ biên) - PHẠM THỊ THU HÀ - NGUYỄN THỊ THU HẰNG (Đồng Chủ biên) ĐOÀN TRƯỜNG SƠN - NGUYỄN THỊ THU HOÀI - ĐỖ THỊ THU TRANG NGUYỄN THỊ MAI LY - ĐÀO TRUNG QUÂN - HOÀNG THỊ KIM LIÊN - PHÙNG THỊ LAN LÊ THỊ THANH HOÀN - NGUYỄN THỊ LINH - NGUYỄN THỊ LÀ


Hải Phòng được biết đến là một thành phố cảng năng động, hiện đại đồng thời giàu nét văn hóa, lưu giữ nhiều truyền thống tốt đẹp. sẽ giúp các em khám phá về lịch sử, truyền thống, những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội… của thành phố Hải Phòng. Tài liệu gồm 06 chủ đề gắn với các nội dung về lịch sử thành phố Hải Phòng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, một số nhân vật tiêu biểu, truyện ngắn Hải Phòng, quá trình hội nhập quốc tế, thị trường lao động và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hải Phòng. Mỗi chủ đề được thiết kế gồm bốn hoạt động: Mở đầu, Hình thành kiến thức mới, Luyện tập và Vận dụng thể hiện bằng các biểu tượng; thông qua các hoạt động nhằm giúp học sinh phát triển năng lực tự học, tự trải nghiệm khám phá và xây dựng định hướng hướng nghiệp cho bản thân. Chúng tôi hi vọng rằng, không chỉ giúp các em hiểu sâu sắc, toàn diện hơn về mảnh đất, con người Hải Phòng từ đó thêm yêu thương, gắn bó với thành phố quê hương, đồng thời định hướng hành động để góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển thành phố. Chúc các em có những trải nghiệm và niềm vui cùng và sẽ yêu thích, giữ gìn cuốn sách này. LỜI NÓI ĐẦU BAN BIÊN SOẠN 2


MỤC LỤC Chủ đề NỘI DUNG Trang 3 1 2 3 4 5 6 Nhân dân Hải Phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (từ thế kỉ I đến cuối thế kỉ XIX) Danh nhân Hải Phòng trong lịch sử Giới thiệu một số truyện ngắn Hải Phòng Thị trường lao động và việc làm tại Hải Phòng Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm ở Hải Phòng Hải Phòng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 5 15 26 38 46 54


HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SÁCH Câu hỏi Mở đầu Xác định vấn đề học sinh cần giải quyết, kết nối với những vấn đề học sinh đã biết, nêu vấn đề nhằm kích thích tư duy, tạo hứng thú cho học sinh. Kết nối tri thức với các lĩnh vực khác Các thông tin hỗ trợ có tính liên môn nhằm làm rõ các nội dung chính. Vận dụng Sử dụng các kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các tình huống, vấn đề trong thực tiễn. Luyện tập Các câu hỏi, bài tập, thực hành để củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng gắn với kiến thức vừa học. Kiến thức mới Các nội dung (kênh chữ, kênh hình) và các hoạt động học tập giúp học sinh tiếp nhận kiến thức mới. Em có biết? Mở rộng, cung cấp thêm thông tin liên quan đến nội dung bài học. 4


NHÂN DÂN HẢI PHÒNG 1 TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC (TỪ THẾ KỈ I ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX) Chủ đề Mục tiêu: (Hải Như, , 1970, theo báo Hải Phòng ngày 13-5-2005) Hải Phòng - vùng đất cửa biển, phía Đông miền duyên hải Bắc Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong các cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc (179 TCN - 938), kháng chiến chống quân Tống (981 và 1075 - 1077), kháng chiến chống quân Nguyên (thế kỉ XIII), chống ách đô hộ của nhà Minh (1407 - 1427), chống thực dân Pháp (cuối thế kỉ XIX), nhân dân Hải Phòng dù là trực tiếp hay gián tiếp đều đã góp phần làm nên những trang sử hào hùng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. 5


6 I. ĐÓNG GÓP CỦA NHÂN DÂN HẢI PHÒNG TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (TỪ THẾ KỈ I ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX) Thời Bắc thuộc, vùng đất Hải Phòng là một trong những nơi đương đầu trực tiếp chống lại sự xâm lăng và âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43) chống ách đô hộ của nhà Hán, vùng đất Hải Phòng có nhiều tướng lĩnh và nhân dân tham gia, trong đó, nổi bật nhất là nữ tướng Lê Chân. Tham gia khởi nghĩa Lý Bí (542 - 602) chống ách đô hộ của nhà Lương, vùng đất Hải Phòng có 8 danh tướng. Tham gia khởi nghĩa Phùng Hưng (766 - 779) chống ách đô hộ của nhà Đường, vùng đất Hải Phòng có 4 tướng họ Trương. Nhân dân Hải Phòng đã góp phần vào cuộc đấu tranh bền bỉ chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc để cùng dân tộc giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 938. Ngũ Đạo tướng quân và mẹ là Trần Thị Trinh quê ở trang Thượng Câu (nay thuộc xã Tân Viên, huyện An Lão) đều là tướng của Hai Bà Trưng, chỉ huy một cánh quân lớn đi đánh các đồn trại địch ở miền ven biển. Hai mẹ con đã đến lập đồn phòng thủ tại khu Đại Điền (xã Tân Viên), tuyển mộ thêm lính, tổ chức dân binh ở nhiều làng bên sông Đa Độ, Văn Úc. Khi Mã Viện sang xâm lược, cả hai mẹ con đều chiến đấu anh dũng và hi sinh. Bên cạnh đó, còn có nhiều vị tướng lĩnh khác trên vùng đất Hải Phòng tham gia và có công lao trong cuộc khởi nghĩa. Huyện Thủy Nguyên có ba anh em họ Trương là Trương Tế, Trương Lại, Trương Độ (xã Liên Khê), Sĩ Quyền (xã Mỹ Đồng). Huyện Vĩnh Bảo có Phạm Đàm (xã Tam Đa), Long Lang (xã Lý Học). Huyện Tiên Lãng có ba chị em ruột Tạ Ả Ráng, Tạ Huy Thâu, Tạ Đoan Dung (xã Tiên Minh), ba anh em Hoàng Công, Dũng Công, Lược Công (xã Đoàn Lập), Đào Lang (xã Khởi Nghĩa)... Hoàng Độ (huyện An Dương) đã tập hợp nghĩa binh lập nên đội thủy quân Nại Xuyên - Ngọ Dương lập nhiều công lớn, được Trưng Vương khen thưởng. Lễ hội Bơi trải cổ truyền ở Ngọ Dương đã phản ánh phong trào luyện quân thủy của họ Hoàng, đến nay vẫn được lưu truyền. Năm 40, được tin Trưng Trắc, Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, Lê Chân đã tuyển mộ được hơn một trăm thanh niên ở khu vực An Dương tham gia. Do tài năng hơn người nên bà đã được Hai Bà Trưng phong là Thánh Chân công chúa, cùng Trưng Nhị làm tướng tiên phong đánh quân Tô Định. Sau khi giành được độc lập, bà được giao trọng trách Chưởng quản binh quyền nội bộ, đóng quân bảo vệ vùng ven biển Đông Bắc. Trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43), tại Hải Phòng đã thống kê được 12 địa điểm có di tích và thần tích nói về các tướng lĩnh và nhân dân địa phương thuộc các huyện An Dương, Thủy Nguyên, An Lão, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo và nội thành Hải Phòng ngày nay tham gia. Nại Xuyên nay thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ngọ Dương nay thuộc xã An Hòa, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 1. Nhân dân Hải Phòng đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc (179 TCN - 938)


7 Hoàng Thanh, người trang Lương Quy (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện An Dương), tham gia khởi nghĩa từ đầu, lập nhiều chiến công. Khi Lý Bí lên ngôi vua đã phong cho ông chức Hoài đạo tướng quân, rồi Thiên quan tư mã. Khi quân nhà Lương sang đàn áp, Hoàng Thanh hết sức chống trả và đã anh dũng hi sinh. Chị gái ông là Hoàng Thị Lãng có công giúp vua Lý Nam Đế một vạn quan tiền chi việc quân nhu, được phong là Tư Thuận phu nhân. Nguyễn Đình Thản ở trang Tràng Duệ (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện An Dương) đã đem hết gia sản đến giúp Lý Phật Tử đang đóng tại thành Ô Diên đánh đuổi quân Lương. Lý Phật Tử phong ông làm Dũng Liệt tướng quân. Sau đó, ông theo Lý Phật Tử đánh bại quân Tùy. Khi Lý Phật Tử thất bại, ông thu thập tàn quân mưu phục nước, phò giúp Thái tử làm vua. Khi Thái tử bị bắt, ông đau buồn mà mất. Nhân dân Tràng Duệ lập miếu thờ suy tôn ông là phúc thần. Vương Công Hiển ở ấp An Tràng (nay thuộc thị trấn Trường Sơn, huyện An Lão) đã đem quân tham gia khởi nghĩa và được Lý Bí tin dùng. Khi bị quân nhà Lương phản kích, ông đã bày mưu cho vua Lý thoát vây, đánh thắng quân Lương. Lý Bí xưng đế, phong Vương Công Hiển là Thiếu úy , cho cai quản vùng An Tràng. Khi quân Lương sang đánh, ông được vua giao cho bố phòng chặn đánh địch nhưng do thế địch mạnh, quân ta rút lui, Vương Công Hiển đã anh dũng hi sinh. Bên cạnh đó, còn một số nhân vật tiêu biểu khác như: Vũ Công An, người trang Quỳnh Lâu (nay thuộc xã Bắc Sơn, huyện An Dương), làm quan trong triều đình của vua Lý Nam Đế. Nguyễn Hồng, ở trang Hà Liên (nay thuộc xã Bắc Sơn, huyện An Dương), giữ chức Đô ngự sử, tham gia chặn giặc trên sông Bạch Đằng. Hai danh tướng Lưu Quảng và Lưu Thiện chọn trang Hoa Lăng (nay thuộc xã Hoa Động, huyện Thủy Nguyên) lập đồn phòng thủ ven biển chống giặc. Lễ hội Bơi trải Ngọ Dương đã có từ lâu đời, gắn liền với sự tích thờ vị Thành hoàng làng Ngọ Dương là Hoàng Độ. Lễ hội được tổ chức vào ngày 24, 25 tháng Chạp và các ngày 2, 3, 5 tháng Giêng tại đền, chùa Ngọ Dương và sông Cổ Bồng trước cửa đền. Nghi lễ gồm có hành lễ dâng hương (chỉ dâng đồ chay), nghi lễ rước nước và tổ chức thi bơi trải. Tham gia bơi trải là những nam giới từ 18 đến 45 tuổi, có sức khỏe, hiểu biết về bơi trải. Trang phục của các thành viên mỗi trải theo 5 màu: đỏ, vàng, hồng, xanh nõn chuối và xanh lam. Trải được sơn vẽ màu vàng, có đầu và đuôi hình rồng, thân vẽ vẩy. Lễ hội đã được Nhà nước xếp hạng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, năm 2020. Nhân dân Hải Phòng tham gia khởi nghĩa Lý Bí, góp phần xây dựng nhà nước Vạn Xuân (542 -602) Sông Cổ Bồng bắt nguồn từ sông Lạch Tray chảy qua cửa đền, chùa Ngọ Dương và tiếp tục chảy qua địa phận huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. : là cháu của Lý Nam Đế (còn gọi là Hậu Lý Nam Đế). : chức quan võ, chỉ huy cấm quân (quân lính bảo vệ nhà vua và triều đình).


8 Trương Nữu, người trang Du Lễ, huyện Nghi Dương (nay thuộc xã Du Lễ, huyện Kiến Thụy) đã đem quân về tập trung dưới quyền của Phùng Hưng, được phong làm Đại tướng quân, chặn giữ nơi hiểm yếu, chuẩn bị quân lương đánh thành Đại La . Năm 1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ thất bại, đất nước rơi vào một thời kì đau thương dưới ách đô hộ của nhà Minh kéo dài 20 năm (1407 - 1427). Chính sách đô hộ tàn bạo của nhà Minh đã vấp phải sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta với hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng lên ở khắp nơi trong cả nước. Trong đó, có nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra trên vùng đất Hải Phòng khiến kẻ địch không lúc nào được yên. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa sau: 2. Nhân dân Hải Phòng đấu tranh chống ách đô hộ của nhà Minh (1407-1427) Ba anh em họ Trương là Trương Phán, Trương Dị, Trương Thanh người huyện An Lão (nay thuộc phường Bắc Hà, quận Kiến An) đã tham gia khởi nghĩa. Mẹ của ba anh em họ Trương là bà Phùng Thị Trinh đã ngầm chiêu mộ dân binh vùng ven biển An Lão, Kiến Thụy, An Dương tham gia nổi dậy. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là công chúa, cả ba con được ban chức tước. Sau khi Phùng Hưng mất, các tướng họ Trương ở vùng đất Hải Phòng đều phò giúp con của Phùng Hưng là Phùng An. Khi nhà Đường đem quân tiến đánh, Trương Nữu và ba anh em họ Trương đã chiến đấu chống giặc đến cùng và đều anh dũng hi sinh. Khởi nghĩa Nguyễn Sư Cối (1409 - 1410) Nhân dân Hải Phòng tham gia khởi nghĩa Phùng Hưng (766 - 779) Cuối tháng 12 năm 938, đoàn thuyền chiến của quân Nam Hán tiến vào vùng biển Đông Bắc, âm mưu xâm lược nước ta. Trận địa phục kích của Ngô Quyền và nhân dân ta đã khiến quân Nam Hán thất bại nhanh chóng. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 chống quân Nam Hán của Ngô Quyền diễn ra chủ yếu trên vùng đất Hải Phòng. Nhân dân vùng đất Hải Phòng đã tham gia và góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trên nhiều phương diện: tham gia xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng, chuẩn bị hậu cần, tham gia đánh trận… Tiêu biểu là Nguyễn Tất Tố, Đào Nhuận và 30 “thần tử” người làng Gia Viên (nay thuộc Quận Ngô Quyền), Đỗ Cảnh Thạc và ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở làng Hoàng Pha (xã Hoàng Động, Thuỷ Nguyên)… Đầu năm 1410, tướng nhà Minh là Trương Phụ dẫn quân thuỷ, bộ đến bao vây. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, quân giặc bị tổn thất rất nhiều, nhưng do quá chênh lệch về lực lượng, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Cuối năm 1409, Nguyễn Sư Cối tự xưng vương, cùng với Đỗ Nguyên Thố chiếm cứ địa bàn Nghi Dương làm căn cứ khởi nghĩa. Hào kiệt nhiều nơi về tụ nghĩa. Theo chính sử nhà Minh, nghĩa quân có đến trên 2 vạn người. Nghĩa quân nhiều lần tập kích quân Minh và thắng lớn. Đại La là một thành trì, thủ phủ của An Nam đô hộ phủ thời nhà Đường. Thành nằm ở vị trí thuộc quận Ba Đình của thành phố Hà Nội hiện nay. Nghi Dương nay là địa bàn các quận, huyện: Đồ Sơn, Dương Kinh, Kiến Thụy.


9 Khởi nghĩa Lê Ngã (1419 - 1420) Khởi nghĩa Phạm Ngọc (1419 - 1420) Phạm Ngọc, nhà sư ở Đồ Sơn, tự xưng là La Bình vương, tập hợp dân chúng nổi dậy chống quân Minh. Nghĩa quân đã chiếm cứ và làm chủ được một vùng rộng lớn, hoạt động khắp vùng Hải Phòng ngày nay, làm chủ nhiều đường sông, đường bộ. Đầu năm 1420, quân Minh đem đại quân đến đàn áp. Phạm Thiện và Ngô Trung bị bắt; Phạm Ngọc và những thủ lĩnh nghĩa quân khác thoát vòng vây, tiếp tục tập hợp lực lượng chiến đấu, gây cho quân Minh nhiều khó khăn. Đến giữa năm 1420, Phạm Ngọc bị quân Minh bắt đưa về Bắc Kinh. Được nhân dân cả vùng Đông Bắc hưởng ứng, cuộc khởi nghĩa phát triển nhanh chóng. Nhiều thủ lĩnh nghĩa quân ở các vùng xung quanh như Đào Thừa, Phạm Thiện, Lê Hành, Ngô Trung... đến tập hợp lực lượng dưới lá cờ của La Bình vương. Lê Ngã (đổi tên là Dương Cung) người làng Tràng Kênh (huyện Thuỷ Nguyên). Vốn là gia nô của một quý tộc họ Trần nên Lê Ngã rất cảm thông với cuộc sống cơ cực của dân nghèo, nhất là tầng lớp nô tì trong xã hội. Lê Ngã kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa vừa để thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang, vừa nhằm đấu tranh cho quyền lợi của tầng lớp nghèo khổ nhất trong xã hội. Cuối năm 1419, Lê Ngã tập hợp nghĩa quân nổi dậy chống quân Minh. Cuộc khởi nghĩa đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng. Lê Ngã tự xưng là Thiên Thượng hoàng đế, chiếm cứ cả một khu vực rộng lớn ở vùng Quảng Ninh - Hải Phòng ngày nay. Lê Ngã còn phong tước cho các tướng thuộc quyền và cho đúc một loại tiền riêng tiêu dùng trong khu vực kiểm soát của nghĩa quân. Trong khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), trong lúc nghĩa quân Lam Sơn hoạt động mạnh ở vùng Thanh Hóa trở vào thì ở phía Bắc, những cuộc đấu tranh của nhân dân vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi. Những cuộc đấu tranh của nhân dân các địa phương phía Bắc, trong đó có nhân dân phủ Tân An (Hải Phòng), đã khiến cho quân Minh gặp nhiều khó khăn, hỗ trợ đắc lực cho nghĩa quân Lam Sơn phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động. Cuối năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, nhân dân vùng duyên hải, trong đó có nhân dân Hải Phòng, không chỉ tiếp tế lương thực, ủng hộ nghĩa quân về mọi mặt mà còn gia nhập nghĩa quân hoặc tự vũ trang lập thành các đội dân binh, cùng với nghĩa quân vây đánh các đồn lũy của địch, giải phóng xóm làng, quê hương, góp phần cùng nhân dân cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa quân đã nhiều lần tấn công vào các thành lũy của quân Minh. Đặc điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa là ngoài tính chất giải phóng dân tộc còn in đậm tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp giữa tầng lớp dân nghèo với tầng lớp quý tộc, quan lại theo nhà Minh. Năm 1420, nhà Minh đưa quân đến đàn áp. Nghĩa quân chiến đấu quyết liệt nhưng cuối cùng tan rã.


10 Khởi nghĩa Đốc Trịch, Thống Ất, Cai Chiêm (1885 - 1886) Khởi nghĩa Tiền Đức (1885 - 1889) Khởi nghĩa Đốc Tít (1882 - 1889) Đốc Tít, người làng Lưu Thượng, Kinh Môn, Hải Dương. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Bãi Sậy, Hưng Yên. Ông được giao nhiệm vụ tuyển quân, lập căn cứ để mở rộng cuộc khởi nghĩa. Ông đã chọn động Thiên Khai, chùa Kim Liên và làng Trại Sơn (xã An Sơn, Thủy Nguyên) lập căn cứ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra nhiều địa phương, liên kết với các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên, khởi nghĩa của Tiền Đức ở Cát Bà. Thực dân Pháp phải huy động lực lượng quân lớn tổ chức nhiều cuộc tấn công vào căn cứ của nghĩa quân nhưng đều bị thất bại. Tháng 10 - 1888, thực dân Pháp dùng gần một nghìn quân, có pháo binh hỗ trợ, tấn công, bao vây, triệt đường cung cấp lương thực của nghĩa quân. Để bảo toàn tính mạng cho nghĩa quân, ông chấp nhận đàm phán để kí hòa ước. Ông đã bị thực dân Pháp lừa bắt và đày đi An-giê-ri. Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) do nhà Nguyễn kí kết với thực dân Pháp đã đánh dấu Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa lớn, đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Hải Phòng, trực tiếp hình thành các căn cứ và lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Đốc Tít, Tiền Đức, Đốc Trịch, Thống Ất, Cai Chiêm, Mạc Đĩnh Phúc… 3. Nhân dân Hải Phòng đấu tranh chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX Tiền Đức cùng Đốc Tít khởi xướng cuộc khởi nghĩa tại khu vực Trại Sơn, Thủy Nguyên. Tháng 6 - 1885, ông phối hợp với Lãnh Pha, Lãnh Hy, Đề Hồng, Đề Hẹn đẩy mạnh hoạt động ở vùng Đông Triều (Quảng Ninh) và vùng biển Cát Bà. Ở đảo Cát Bà, ông dựa vào địa hình hiểm trở vùng Trung Trang, Mái Gợ, Trà Báu, xây dựng đồn tiền phương, đồn trung, đồn hậu. Năm 1889, quân Pháp đổ bộ lên đảo tấn công căn cứ. Ông và nghĩa quân rút về Việt Hải, sau đó rời Cát Bà. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, ở khu vực Sái Nghi, Thái Ngơi, Lang Thượng (xã Mỹ Đức, huyện An Lão) có ba ông Đốc Trịch, Thống Ất, Cai Chiêm kêu gọi dân chúng nổi dậy phò vua, đánh đuổi giặc Pháp. Nghĩa quân đã liên hệ, phối hợp với cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật và Đốc Tít. Quân Pháp tổ chức nhiều cuộc tấn công nghĩa quân nhưng đều thất bại. Tháng 12 - 1886, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn. Ba ông đã hi sinh và cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.


11 Mạc Đĩnh Phúc, người làng Bình Hà (thị trấn Thanh Hà, Hải Dương), vốn họ Mạc ở Cổ Trai (Kiến Thụy, Hải Phòng). Từ năm 1896, ông đã bí mật tích cực chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Năm 1897, ông tổ chức lễ tế cờ, tuyên bố khởi nghĩa, tự phong làm vua, với khẩu hiệu “Bình Tây, diệt Nguyễn”, khôi phục nhà Mạc. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra khắp vùng duyên hải Bắc Kì. Tri phủ Kiến Thụy là Phạm Duy Du cũng tham gia và nộp phủ đường cho nghĩa quân. Tháng Chạp năm 1897, nghĩa quân đồng loạt tấn công các huyện lị Vĩnh Bảo, Ninh Giang, Tứ Kỳ, tỉnh lị Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên, các cuộc tấn công đều bị thất bại. Cuộc khởi nghĩa đã bị thực dân Pháp khủng bố dã man. Có thể nói rằng, những năm cuối thế kỉ XIX, phong trào yêu nước của nhân dân Hải Phòng đã làm cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn trong công cuộc ổn định tình hình Hải Phòng để tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa. Các cuộc khởi nghĩa tuy không thành công nhưng một lần nữa chứng minh tinh thần yêu nước, đấu tranh kiên cường của nhân dân Hải Phòng, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, khơi nguồn cho những trang sử hào hùng trong các giai đoạn tiếp theo. Khởi nghĩa Mạc Đĩnh Phúc (1896 - 1898) Đầu năm 981, quân Tống theo hai đường thuỷ bộ tiến đánh Đại Cồ Việt: đạo quân bộ theo đường Lạng Sơn, đạo quân thuỷ tiến theo sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành đã trực tiếp chỉ huy chặn đánh thủy quân giặc. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng chống giữ, sai binh sĩ đóng cọc ngăn sông, quân Tống rút lui”. Chiến trường chống quân xâm lược Tống đã diễn ra ở nhiều nơi vùng Đông Bắc và vùng trung tâm châu thổ sông Hồng, nhưng khu vực cửa biển Bạch Đằng và địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng hiện nay là chiến trường Sông Bạch Đằng là đoạn cuối sông Đá Bạc, hợp lưu với sông Cấm ở cửa Nam Triệu. Từ cửa biển Bạch Đằng, dùng thuyền có thể tiến sâu vào nội địa nước ta. Từ đảo Vũ Yên đến Hạ Đoạn, Lương Xâm, Xâm Bồ, Tràng Cát hiện nay là vùng cửa biển Bạch Đằng. Kết nối với lịch sử dân tộc Kết nối với địa lí , NXB Thời Đại, 2011, tr.138. 1 Đóng góp của nhân dân Hải Phòng trong kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất (981) II. ĐÓNG GÓP CỦA NHÂN DÂN HẢI PHÒNG TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC (TỪ SAU NĂM 938 ĐẾN NĂM 1288)


12 chính. Nhiều thần tích, di tích còn lại đến nay cho thấy sự tham gia đông đảo của nhân dân trên vùng đất Hải Phòng trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 981. Chợ Phướn ở Thủy Đường (huyện Thủy Nguyên) là nơi đặt bản doanh tiền phương. Huyện Thủy Nguyên có bốn anh em Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn và Phạm Cúc Nương ở trang Thủy Đường (nay thuộc xã Thủy Đường) đã trực tiếp tham gia chiến đấu; Phạm Quảng ở trang Hoa Chương (nay thuộc xã Mỹ Đồng) là người thân tín bên cạnh vua Lê Đại Hành, được giao chỉ huy một đạo binh lớn chia thành các đạo thủy, bộ đánh thẳng vào doanh trại quân Tống trên sông Bạch Đằng. Ba anh em Đào Tế, Đào Lai, Đào Độ ở trang Trinh Hưởng (nay thuộc xã Thiên Hương) đã được vua Lê Đại Hành giao chỉ huy đánh bại quân Tống ở khu vực Lục Đầu Giang (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Huyện Tiên Lãng có năm anh em Đặng Công Xuân, Đặng Công Trung, Đặng Công Thọ, Đặng Công Tuấn và Đặng Công Nghiêm ở trang Đốc Kính (nay thuộc xã Toàn Thắng) đã hăng hái tham gia chiến đấu, lập nhiều chiến công ở chiến trường Đông Bắc. Hoàng Độ, Hoàng Trản, Quảng Đức, Khoan Lưu ở trang Ngân Bồng và Ngân Cầu (nay thuộc xã Quyết Tiến), Huy Thâu Trinh Thục công chúa, Ả Lãng Phương Viên công chúa, Đoan Dung Thục Diệu công chúa và Lý Xoa Kỳ bản lộ đại tướng (xã Tiên Minh) đã chiến đấu đánh quân Tống ngay tại làng quê mình… Cuối năm 1076, quân Tống theo nhiều đường tiến vào xâm lược Đại Việt. Nhân dân vùng đất Hải Phòng tiếp tục có những đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai. Nguyễn Trung Thành, người trang Cam Lộ, huyện Giáp Sơn (nay thuộc phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng), làm quan Gián nghị đại phu , sau vì có công lớn trong “đánh Tống bình Chiêm” nên được phong chức Bình chương quân quốc trọng sự (hàm Tể tướng ), đã hi sinh trong trận Chung Sơn. Vua Lý thương tiếc cho lập đền thờ tại quê nhà Cam Lộ. Đỗ Nghị, tên chữ là Công Hoằng, ở trang Đồng Giới (nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương) được giao chuyên lo việc tuần phòng, bảo vệ vùng ven biển. Khi quân Tống sang xâm lược, ông đem theo cả gia đình, môn khách cùng binh sĩ dưới quyền tham gia. Vợ ông là phu nhân Đỗ Hồng (có tài liệu chép là em gái) cũng xuất lương thực, tiền bạc giúp việc quân cơ. Trong một trận đánh, ông bị giặc bắt, chúng dùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông kiên quyết không chịu đầu hàng. Nhân lúc giặc sơ hở, Đỗ Nghị nhảy xuống sông tuẫn tiết. Đào Lôi ở trang Vân Tra (nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương), là người văn võ song toàn, đời vua Lý Thái Tổ, giữ chức Đô đài lang, rồi Tiền Kim ngô tướng quân, sau về trí sĩ tại quê nhà. Khi quân Tống sang xâm lược, vua Lý Thánh Tông triệu ông hồi kinh, dù tuổi già nhưng ông vẫn xin ra trận. 2 : chức quan có trách nhiệm can gián nhà vua. : chức quan đứng đầu các quan trong triều, giúp vua điều hành công việc. : người có tài năng được một gia đình quý tộc thời phong kiến coi trọng và nuôi dưỡng lâu dài trong nhà. : thôi làm quan, về nghỉ. Cuối năm 1075, trước những hành động chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống, quân đội nhà Lý đã chủ động bao vây, tiêu diệt ba căn cứ quân sự, hậu cần và các trại dọc biên giới của quân Tống, sau đó rút quân về nước, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Đóng góp của nhân dân Hải Phòng trong kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (1075-1077)


3 13 Trong kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) Năm 1287, quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Quân dân nhà Trần đã có kế sách chống giặc, tổ chức chiến đấu quyết liệt khiến quân Nguyên rơi vào tình thế bất lợi, buộc phải tìm đường rút quân về nước. Trong đó, cánh quân rút theo đường sông Bạch Đằng đã bị quân ta đánh tan. Trong chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, nhân dân vùng đất Hải Phòng đã có nhiều đóng góp quan trọng. Nhân dân các làng xã dọc sông Giá, sông Bạch Đằng đã tích cực quyên góp lương thực, lên rừng chặt cây, ngăn các nhánh sông, lạch triều để chặn thuyền giặc, kết bè, mảng để chất củi khô, dầu trám phục vụ đánh hoả công. Để biểu thị quyết tâm tiêu diệt địch, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã trao cho quân dân trong vùng Trúc Động (nay thuộc huyện Thủy Nguyên) một thanh kiếm và một lá cờ. Hang Lương (nay thuộc huyện Thủy Nguyên), Phú Xá (nay thuộc quận Hải An) là nơi chứa lương thực. Chùa Vẽ (nay thuộc quận Hải An) là nơi Trần Hưng Đạo vẽ sơ đồ trận đánh, chùa Đỏ (nay thuộc Quận Ngô Quyền) là nơi binh sĩ nấu cơm chờ đánh giặc. Trong kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (1287-1288) : người đỗ kì thi do triều đình tổ chức dưới thời Trần. An Tấn, người trang Cựu Điện (nay thuộc xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo), bốn anh em Hoàng Uy, Hoàng Tế, Hoàng Thiện, Hoàng Trinh Nương ở trang Dưỡng Chân (nay thuộc xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên), Nguyễn Hùng ở trang Trịnh Xá (nay thuộc xã Thiên Hương, huyện Thuỷ Nguyên)... cũng tham gia chiến đấu chống quân Tống. Đóng góp của nhân dân Hải Phòng trong kháng chiến chống quân Nguyên (thế kỉ XIII) Cuối tháng 1-1285, các mũi tấn công của quân Nguyên bắt đầu vượt qua biên giới, tiến đánh Đại Việt. Trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, nhân dân vùng đất Hải Phòng đã có nhiều đóng góp quan trọng, xuất hiện nhiều tấm gương dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ độc lập dân tộc. Tiêu biểu là hai anh em Trần Nhội và Trần Phương, người trang Văn Đẩu (nay thuộc quận Kiến An) theo Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đánh giặc. Trần Nhội tiến cử các em vợ là Nguyễn Thiên Lộc, Nguyễn Thiên Mẫn và Nguyễn Bình về quê tuyển mộ binh sĩ. Các tướng sĩ thuộc đội quân do Trần Nhội, Trần Phương chỉ huy chủ yếu là người Kha Lâm, Văn Đẩu (nay thuộc quận Kiến An) đã trực tiếp tham gia các trận ở Hàm Tử, Tây Kết… lập nhiều công lớn. Vũ Đăng Dũng, người trang Đan Điền (nay thuộc xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo) đứng ra chiêu mộ hương binh, lập đồn Cự Lai, gia nhập quân triều đình đánh giặc, cứu nước. Tháng 5-1285, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từ Thanh Hóa tiến quân ra Bắc, rồi bất ngờ tổ chức các cuộc tấn công quân Nguyên đang đóng ở kinh thành Thăng Long. Các tướng là người Hải Phòng như Trần Nhội, Trần Phương, Trần Quốc Thành, Vũ Hải, Trần Quốc Thi… đều đem quân tham gia những trận phục kích lớn ở sông Cầu, Vạn Kiếp, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương… Theo thần tích thì tướng Vũ Hải là người chém đầu Toa Đô trong trận Tây Kết.


Vẽ sơ đồ khái quát đóng góp của nhân dân Hải Phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (từ thế kỉ I đến cuối thế kỉ XIX). Sưu tầm tư liệu và trình bày theo cách của em (đoạn phim, tập san, bài thuyết trình…) để giới thiệu về một nhân vật hoặc đóng góp của nhân dân vùng đất Hải Phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (từ thế kỉ I đến cuối thế kỉ XIX)mà em ấn tượng nhất. 14 Với những công lao của Bùi Thị Từ Nhiên trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Trần Hưng Đạo đã phong tặng cho bà là Nữ tướng hậu cần. Năm 1328, Nữ tướng hậu cần Bùi Thị Từ Nhiên qua đời, dân làng tưởng nhớ công lao của bà đã tạc tượng thờ tại đền Phú Xá cùng với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Đền đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia, năm 1988. Hiện nay, ở phường Đông Hải 1, quận Hải An có một con đường mang tên nữ tướng Bùi Thị Từ Nhiên. Ở Thủy Nguyên, có hai anh em Trần Hộ, Trần Độ huy động dân làm bè chất đồ dễ cháy để đánh hoả công, lập các đội dân binh các làng Phục Lễ, Phả Lễ tuần tra trên sông, đảm bảo việc giữ gìn bí mật cho trận địa cọc. Lý Hồng, Vũ Nguyên tổ chức cho dân làng Do Lễ rèn giáo mác. Vũ Đại ở Dưỡng Động dẫn một đạo dân binh mai phục ở bên sông Bạch Đằng. Ông Lủi, bà Lủi là những người dân kiếm củi ở làng Tràng Kênh tự nguyện làm liên lạc. Vũ Chí Thắng, người Hàng Kênh (nay thuộc Quận Lê Chân), đã đến hành doanh của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn xin gia nhập quân ngũ. Ông được Hưng Đạo vương khen ngợi là người có mưu lược và tin dùng. Vũ Chí Thắng từng đi theo Hưng Đạo vương quan sát địa thế Bạch Đằng, vẽ địa hình chi tiết, có đóng góp lớn trong quá trình xây dựng trận địa cọc. Sau chiến thắng Bạch Đằng (1288), ông được thăng chức Điện tiền đô chỉ huy sứ, phụ trách Cấm quân. Nguyễn Danh Uy người làng Quỳnh Hoàng (nay thuộc xã Nam Sơn, huyện An Dương) cùng Nguyễn Lãng tuyển quân tham gia chiến đấu. Bùi Thị Từ Nhiên ở trang Phú Lương (nay thuộc quận Hải An) có công đóng góp và vận động dân làng góp lương thực nuôi quân. Bà được Hưng Đạo vương trọng dụng và giao giữ trọng trách chăm lo quân lương, hậu cần cho quân đội. Quận Đa phu nhân ở trang Câu Tử (nay thuộc xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên) động viên hai con trai đánh giặc và cả hai đã anh dũng hi sinh… Có thể nói rằng, nhân dân hầu khắp các địa phương trên vùng đất Hải Phòng đều đóng góp sức người, sức của làm nên thắng lợi oanh liệt của dân tộc trên sông Bạch Đằng năm 1288.


Mục tiêu: 2 Chủ đề Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng, danh nhân. Hải Phòng tự hào là một vùng đất có nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu, đó là những người lập nhiều chiến công trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, hoặc có những đóng góp đối với sự nghiệp xây dựng đất nước (bộ máy nhà nước, phát triển kinh tế…) hoặc góp phần vào sự phát triển của nền văn hóa, giáo dục của dân tộc. Hải Phòng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Trong lịch sử, thời kì nào vùng đất Hải Phòng cũng có những người tài năng, tiêu biểu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và trong sự nghiệp chống ngoại xâm. Dù đó là những người sinh ra ở Hải Phòng hoặc là những người từ địa phương khác tới sinh sống, làm việc, gắn bó nhiều năm với vùng đất cửa biển thì ở họ đều có điểm chung là lòng yêu nước và sự đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Về chính trị, vùng đất Hải Phòng là nơi phát tích của vương triều Mạc với hai vị vua tiêu biểu là Thái tổ Mạc Đăng Dung, người khởi lập Vương triều Mạc; Thái tông Mạc Đăng Doanh, người đã ngăn I. KHÁI QUÁT DANH NHÂN HẢI PHÒNG TRONG LỊCH SỬ 15 : bắt đầu làm nên sự nghiệp từ nơi nào đó.


chặn sự suy thoái kinh tế, phục hồi nền văn hóa dân tộc và đặt nền móng cho sự hình thành “Đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam”. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trên vùng đất Hải Phòng mỗi thời kì đều xuất hiện những nhân vật tiêu biểu, góp công đầu trong những chiến công chung của dân tộc. Đó là Nữ tướng Lê Chân, người có công khai phá vùng đất nội thành ngày nay và mở đầu truyền thống chống ngoại xâm của người Hải Phòng. Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận là những chàng trai trẻ thạo nghề sông nước đã giúp Ngô Quyền dựng trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng (938). Vũ Hải, sinh ra từ làng chài ven biển, đã chiến đấu và hi sinh trên vùng biển quê hương (1288). Thời hiện đại, Hải Phòng có Nguyễn Đức Cảnh, người sáng lập Chi bộ Cộng sản ở Hải Phòng (1929) - một trong những chi bộ cộng sản ra đời sớm nhất ở nước ta… Trên lĩnh vực kinh tế, đầu thế kỷ XX, cùng với hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn, thành phố Hải Phòng là nơi khởi nghiệp và phát triển của một số nhà tư sản dân tộc có tinh thần yêu nước và tư tưởng độc lập trong kinh doanh, cạnh tranh quyết liệt với tư sản Pháp - Hoa, tiêu biểu là hai nhà tư sản Bạch Thái Bưởi và Nguyễn Sơn Hà. Trên lĩnh vực văn hóa và giáo dục, vùng đất Hải Phòng cũng có những nhân vật góp phần vào sự phát triển văn hóa, giáo dục của quê hương, đất nước. Trong đó, phải kể đến Tiến sĩ Nguyễn Chuyên Mỹ (thời trung đại) và nhạc sĩ, nhà thơ Văn Cao (thời hiện đại). II. MỘT SỐ DANH NHÂN TIÊU BIỂU TRONG SỰ NGHIỆP CHỐNG NGOẠI XÂM Lê Chân quê ở trang Vẻn, Đông Triều (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Năm 20 tuổi, Lê Chân nổi danh tài sắc, bị Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định ép làm tỳ thiếp và giết cha. Vì vậy, bà đã cùng nhiều bạn hữu lánh ra vùng đất bên sông Cấm khai phá, lập trang An Biên (tên nôm là làng Vẻn), chuẩn bị lực lượng cho ý chí quyết “Đền nợ nước, trả thù nhà”. Đồng đất được mở mang, dân chúng hội tụ, chăm chỉ cày cấy, tích lũy lương thảo. Nhiều thanh niên trong vùng xung phong tham gia nghĩa quân, lực lượng nghĩa binh ngày càng đông đảo. Mùa xuân năm 40, hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa. Lê Chân lập tức kéo quân về tụ nghĩa. Bà được Hai Bà Trưng phong làm Thánh Chân công chúa, cùng Bình Khôi công chúa Trưng Nhị làm tướng tiên phong đánh quân Tô Định. Sau khi khởi nghĩa giành thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, giao cho nữ tướng Lê Chân trọng trách Chưởng quản binh quyền nội bộ , đóng quân bảo vệ vùng ven biển Đông Bắc. Nữ tướng đã huy động quân dân xây dựng khu vực trang An Biên thành đồn lũy đề phòng giặc từ biển vào, gọi là Hải tần phòng thủ. Bên cạnh việc canh giữ biên cương, bà còn chiêu mộ thêm dân, chăm lo phát triển mở mang trang ấp. 1 Lê Chân 16 Nhà Hán sau khi đặt được ách cai trị trên đất nước ta đã chia nước ta làm hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Quận Giao Chỉ tương đương vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay. : nhiệm vụ quản lí quân đội trong triều.


Mùa hè năm 42, nhà Hán cho quân sang đàn áp, thủy quân theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Nữ tướng Lê Chân trực tiếp chỉ huy đánh chặn nhưng do lực lượng mỏng, thế địch mạnh nên quân ta phải rút lui. Thế cùng, Lê Chân tuẫn tiết, quyết không sa vào tay giặc. Nữ tướng Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Tiêu biểu là đền An Biên (xã Thủy An, huyện Đông Triều, Quảng Ninh), quê hương nữ tướng; đền Nghè, đình An Biên (phường An Biên, Quận Lê Chân, Hải Phòng), nơi bà khai hoang, lập trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đền thờ Nữ tướng Lê Chân ở Núi Voi (An Lão), nơi bà đóng quân; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Tây Hồ, Hà Nội), nơi bà lập sới vật để huấn luyện quân sĩ; đền thờ ở Lạt Sơn (xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam), nơi đặt căn cứ địa và nơi bà tuẫn tiết... Để ghi nhớ công ơn của nữ tướng Lê Chân, ở thành phố Hải Phòng hiện nay có một quận, một phố và hai ngôi trường mang tên bà: Quận Lê Chân, phố Lê Chân, trường THCS Lê Chân và trường THPT Lê Chân. Đồng thời, tên của bà được đặt tên cho giải thưởng trao cho những người phụ nữ có thành tích xuất sắc của thành phố Cảng - giải thưởng “Nữ tướng Lê Chân”. Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân được tổ chức vào tháng Hai (Âm lịch) hằng năm, là một trong những lễ hội lớn nhất ở thành phố Hải Phòng, được Nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, năm 2016. Kết nối với lịch sử dân tộc Kết nối với ngày nay Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận, người làng Gia Viên , là một trong những người lập công đầu trong trận đại chiến đánh bại quân Nam Hán trên cửa sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền chỉ huy. Đào Nhuận, gốc người Thủy Đường (Thủy Nguyên), cùng cha làm nghề đánh cá, có sức khoẻ, tinh thông võ nghệ. Nguyễn Tất Tố cùng cha làm nghề thuyền câu, có tài bơi lặn, giỏi võ. Năm 938, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta theo đường biển vào cửa sông Bạch Đằng. Ngô Quyền gấp rút cùng quân sĩ và nhân dân chuẩn bị cuộc kháng chiến. Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố đã tự nguyện đầu quân, được Ngô Quyền trọng dụng. Đào Nhuận được Ngô Quyền giao cho chỉ huy quân sĩ và nhân dân lên rừng lấy gỗ đẽo cọc nhọn cắm ở cửa sông rồi cùng Ngô Xương Ngập và Dương Tam Kha đem quân mai phục hai bên bờ sông. Nguyễn Tất Tố được Ngô Quyền giao chỉ huy 20 thuyền nhẹ ra cửa biển chờ giặc tới thì khiêu chiến nhử chúng vào trận địa cọc của quân ta. Khi thuyền giặc vượt qua bãi cọc cũng là lúc thủy triều bắt đầu rút, Nguyễn Tất Tố phất cờ hiệu tấn công. Phục binh của ta ở hai bên bờ sông do Dương Tam Kha, Ngô Xương Ngập, Đào Nhuận chỉ huy tiến ra đánh phá, chia cắt đội hình quân giặc. Ngô Quyền chỉ huy đại quân tiến công. Quân Nam Hán lúng túng run sợ, quay thuyền tháo chạy, thuyền xô vào hàng cọc vỡ, đắm. 2 Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận 17 (4) Làng Gia Viên thuộc khu vực trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng hiện nay. Nữ tướng Lê Chân được lịch sử ghi nhận có những đóng góp to lớn trong việc khai phá, hình thành nên vùng đất nội thành Hải Phòng ngày nay và là người mở đầu truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân vùng đất Hải Phòng.


4 Nguyễn Đức Cảnh Sau khi đánh bại quân xâm lược, năm 939, Ngô Quyền xưng vương. Đào Nhuận, Nguyễn Tất Tố và nhiều người lập chiến công đã được Ngô Vương khen thưởng. Nhân dân làng Gia Viên cũng được miễn thuế khoá và binh lương. Theo thần phả làng Du Lễ (nay là xã Du Lễ, huyện Kiến Thụy), Vũ Hải thuở nhỏ là cậu bé khôi ngô, thông minh, lớn lên có sức khỏe hơn người, tính tình hiền hậu, hay làm việc thiện. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai (1285), nhà Trần tuyển chọn người tài giúp nước, Vũ Hải đã lên kinh đô ứng thí. Ngay sau khi trúng tuyển, ông đã được vua ban chức Phó Đô trung lang tướng và tham gia đội quân của Thái sư Trần Quang Khải chặn đường tiến của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An. Do chiến đấu dũng cảm, ông được phong chức Tả tham nghị . Sau đó, ông tiếp tục tham gia đánh tan quân Nguyên trên sông Nhị Hà và Tây Kết . Kháng chiến thắng lợi, Vũ Hải được phong chức Phó Đô ngự sử và được vua cho về quê nhà an dưỡng. Năm 1287 - 1288, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ ba, Vũ Hải được nhà vua phong chức Bạt Hải tướng quân và cho chỉ huy một đạo quân thủy. Ông đã chọn 40 trai tráng giỏi nghề bơi lội xung vào đội quân của mình. Sau những trận chiến ác liệt, tướng quân Vũ Hải đã hi sinh trên vùng biển quê hương ở cửa biển Đại Bàng (Văn Úc). Ông được triều đình truy phong là Bạt Hải đại vương và nhân dân lập đền thờ tại quê hương. Nguyễn Đức Cảnh, sinh ngày 02-02-1908, quê làng Diêm Điền, nay là thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Cha là thầy giáo, có thời kì dạy học ở làng Cựu Đôi, huyện Tiên Lãng. Mẹ là người họ Trần làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo. Cha mất sớm, gia cảnh khó khăn nên Nguyễn Đức Cảnh được bạn của cha là Trần Mỹ, người làng Cổ Am, đang làm Tuần phủ tỉnh Thái Bình xin được đem về nuôi và đổi sang họ Trần. Sau khi học xong Tiểu học, Nguyễn Đức Cảnh được sang học trường Thành Chung ở Nam Định. Vì vậy, Nguyễn Đức Cảnh được thừa hưởng gia phong và sự học hành nghiêm túc. Những năm 1925 - 1926, khi học ở Nam Định và sau đó làm thợ nhà in ở Hà Nội, Nguyễn Đức Cảnh rất tích cực tham gia phong trào yêu nước của học sinh và thợ thuyền. Tháng 9-1927, ông sang 3 Vũ Hải 18 chức quan đứng đầu đội bảo vệ hoàng cung. tên gọi của vương quốc Chăm-pa giai đoạn từ thế kỉ IX đến thế kỉ XV - một quốc gia cổ có lãnh thổ trên phần đất tương ứng miền Trung Việt Nam ngày nay. chức quan thuộc hàng ngũ phẩm, có vai trò dự bàn những công việc quan trọng. tên gọi của sông Hồng đoạn chảy qua địa phận Hà Nội ngày nay. Tây Kết nay thuộc địa phận huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. chức quan đứng đầu Ngự sử đài, có nhiệm vụ can gián nhà vua, đàn hặc (phê phán) các quan, bàn chính sự, xét hỏi các vụ kiện người quyền quý ở kinh đô ức hiếp dân lành. (1 chức quan đứng đầu một tỉnh thời Nguyễn.


Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Tháng 2-1928, ông được kì bộ Thanh niên Bắc Kì cử làm Bí thư Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tháng 4-1929, thành lập Chi bộ Cộng sản thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1930, Nguyễn Đức Cảnh dự hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng (Trung Quốc). Sau đó, Nguyễn Đức Cảnh trở về Việt Nam, thành lập và làm Bí thư Đảng bộ thành phố Hải Phòng. Tháng 5-1930, ông làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kì và cuối năm được điều vào tham gia Xứ ủy Trung Kì. Tháng 4-1931, Nguyễn Đức Cảnh bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình. Thời gian trong nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), ông đã dồn tâm trí soạn cuốn “Công nhân vận động” nêu rõ đặc điểm giai cấp công nhân, kinh nghiệm vận động công nhân. Mờ sáng ngày 31-7-1932, thực dân Pháp cho thi hành bản án đối với Nguyễn Đức Cảnh. Trước khi lên máy chém, thái độ bình tĩnh, hiên ngang của người chiến sĩ cộng sản kiên trung đã làm cho kẻ thù phải run sợ. Nguyễn Đức Cảnh là học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư đầu tiên của Đảng bộ Hải Phòng, là người tận trung với nước, tận hiếu với dân, nêu cao tấm gương sáng về phẩm chất, khí tiết và đạo đức của người chiến sĩ cộng sản. III. MỘT SỐ DANH NHÂN TIÊU BIỂU TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, vùng đất Hải Phòng là đất phát tích của Vương triều Mạc, người khởi dựng là Mạc Đăng Dung. Ông sinh năm 1483, đời vua Lê Thánh Tông, tại làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi thời Trần. Sinh thời, Mạc Đăng Dung làm nghề đánh cá, có sức khoẻ phi thường, tướng mạo khôi ngô tuấn tú, đi thi võ trúng Đô lực sĩ và được sung vào đội túc vệ chuyên cầm dù theo vua Lê Uy Mục. Bằng sự nhạy bén chính trị của bản thân, Mạc Đăng Dung thăng tiến rất nhanh. Năm 1511, ông được phong tước Vũ Xuyên bá, đến năm 1516, được cử làm Trấn thủ Sơn Nam với chức Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung được ban tước vương, uy thế bao trùm. Năm 1527, trước sự hỗn loạn của triều Lê, ông đã phế truất vua Lê Cung Hoàng, lên làm vua, lập ra nhà Mạc. Mạc Đăng Dung ở ngôi 3 năm, giống như nhà Trần, tháng 12 năm 1529, ông nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, còn mình thì rút về ở Cổ Trai làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn là người quyết định triều chính. Hằng tháng, vào ngày 8 và 22, vua và triều thần vẫn phải về yết kiến Thái Thượng hoàng. Mạc Đăng Dung mất năm 1541, thọ 59 tuổi. 1 Mạc Đăng Dung 19 : đội quân hầu bảo vệ trong cung vua (thời phong kiến).


Mạc Đăng Doanh (sử sách không ghi năm sinh), là con trai trưởng của Mạc Đăng Dung, cũng đã từng làm quan dưới triều Lê sơ. Tháng Giêng năm 1530, ông lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính và cho xây dựng Dương Kinh như kinh đô thứ hai sau trung tâm quyền lực ở kinh thành Thăng Long, với cung điện, lầu các làm nơi ở của Thái Thượng hoàng. Dương Kinh cũng là “Đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam”. Dưới sự trị vì của Mạc Đăng Doanh, Vương triều Mạc đã tạo ra nhiều bước phát triển cho đất nước. Ông có nhiều cải cách về kinh tế, khuyến khích phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp. Mạc Đăng Doanh thấy trong nước còn nhiều trộm cướp nên ra lệnh cấm nhân dân các xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ngoài đường. Nếu ai trái lệnh thì sẽ bị trị tội. Vì vậy, các sử gia phong kiến dù không ưa nhà Mạc nhưng vẫn phải thừa nhận: “Từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân tứ trấn đều được yên ổn” . Mạc Đăng Doanh cũng là một vị vua coi trọng văn hóa - giáo dục. Năm 1536, ông đã cho sửa lại Quốc Tử Giám (1536), năm sau (1537) lại đích thân đến tế ở Văn Miếu. Ba khoa thi dưới triều ông đã chọn được 45 Tiến sĩ, trong đó có 3 Trạng nguyên nổi tiếng là Nguyễn Thiển, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Giáp Hải. Vùng đất Hải Phòng có 8 Tiến sĩ và Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mạc Đăng Doanh ở ngôi không được lâu, ông mất năm 1540 và từ đó, nhà Mạc suy yếu dần. “[Mạc Đăng Doanh] là con Đăng Dung, tính khoan hậu giản dị. Ông giữ pháp độ, cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp dịch, nhẹ thuế khóa. Bấy giờ được mùa, nhà no, người đủ, trong nước gọi thời ấy là trị bình”. Khu Tưởng niệm Vương triều Mạc được khởi công xây dựng năm 2009, khánh thành năm 2010 trên diện tích đất rộng 10,5 ha. Nhà chính điện là nơi thờ 5 vị vua nhà Mạc là Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp. Khu Tưởng niệm hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật quý giá như chiếc chuông đồng lớn nặng 1.527kg, chiếc chiêng đồng với hình ảnh hai con rồng khắc nổi... Đặc biệt là thanh Định Nam Đao được Nhà nước công nhận là Bảo vật quốc gia, năm 2020. Kết nối với lịch sử dân tộc Kết nối với ngày nay Hình 2.3. Khu Tưởng niệm Vương triều Mạc (xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy) (Ảnh: Cổng TTĐT TP. Hải Phòng) (Theo Phan Huy Chú, , Bản dịch của Viện Sử học Việt Nam năm 1960) 2 Mạc Đăng Doanh 20 Địa bàn hành chính của Dương Kinh là một vùng rộng lớn, bao gồm Hải Dương, Hải Phòng, một phần của Bắc Ninh, Thái Bình ngày nay. Các vùng đất xung quanh Thăng Long (Hà Nội ngày nay) đươc gọi là tứ trấn gồm: vùng phía Tây Thăng Long gọi là trấn Sơn Tây, vùng phía Nam gọi là trấn Sơn Nam, vùng ven biển phía Đông gọi là trấn Hải Đông, vùng phía Bắc gọi là trấn Kinh Bắc. Lê Quý Đôn, , NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.342.


IV. MỘT SỐ DANH NHÂN TIÊU BIỂU TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ Đầu thế kỷ XX, tư sản người Việt từng bước trỗi dậy, cạnh tranh mạnh mẽ với tư sản Pháp-Hoa. Một trong những người tiêu biểu nhất là Bạch Thái Bưởi và thành phố Hải Phòng là nơi phát triển sự nghiệp của ông. Bạch Thái Bưởi, tên thật là Đỗ Thế Bửu, sinh năm 1874, người làng Yên Phú, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là thành phố Hà Nội). Thiếu thời, ông làm thư ký cho một hãng buôn và được chọn làm thuyết minh tại giới thiệu tiềm năng kinh tế của xứ Đông Dương tại Boóc-đô (Pháp). Trở về, ông bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Dù gặp nhiều khó khăn, thua lỗ, bị tịch thu tài sản nhưng người thanh niên tài trí này không thoái chí, ngã lòng. Năm 1909, trước sự chèn ép của chính quyền thực dân, ông chuyển sang kinh doanh vận tải thủy tại Hải Phòng, với tên Bạch Thái Bưởi. Lúc đầu, hãng chỉ có 3 chiếc tàu thuê lại là Phi Long, Phi Phụng, Bái Tử Long. Lúc này, ông gặp phải các đối thủ cạnh tranh quyết liệt là các chủ người Pháp và người Hoa. Trong tình thế khó khăn đó, Bạch Thái Bưởi nghĩ đến thứ “vũ khí” mà cả hai đối thủ trên đều không có, đó là tinh thần dân tộc của người Việt Nam. Ông đã tìm ra những giải pháp hợp lý như đặt tên các anh hùng dân tộc cho các đội tàu của mình, tạo dựng các bến đỗ thuận tiện và giá vé hợp lí, cổ động đồng bào sử dụng phương tiện của ông để đi lại, giao thương trên các miền sông nước. Vì vậy, việc kinh doanh của ông ngày càng phát triển, thâu tóm được các công ty vận tải của người Pháp và người Hoa. Năm 1915, ông mua 3 chiếc tàu, mua xưởng sửa chữa và đóng tàu của Mác-ti tại Cửa Cấm nay thuộc thành phố Hải Phòng. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Định ra Hải Phòng. Trong vòng 10 năm (1909 - 1919), công ty của Bạch Thái Bưởi đã có tới 30 chiếc tàu lớn nhỏ cùng nhiều xà lan hoạt động hầu hết các tuyến sông Bắc Kì rồi vươn ra các vùng lãnh thổ và các nước xung quanh như Hồng Kông, Nhật Bản, Trung Quốc, Phi-lip-pin, Xin-ga-po… Vì vậy, Bạch Thái Bưởi được mệnh danh là “Chúa sông ở Bắc Kì”. Ngày 7-9-1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu có tải trọng 600 tấn, hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Sự kiện này làm kinh ngạc giới kinh doanh và được xem là sự kiện tượng trưng cho “Phong trào chấn hưng thương trường cổ động thực nghiệp” của tư sản Việt Nam lúc đó. Bên cạnh đó, Bạch Thái Bưởi còn mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực khác như mở nhà in, khách sạn, tiệm buôn, mở đồn điền và khai thác than ở Bí Chợ (Đông Triều). Ngoài ra, ông còn là Nghị viên tỉnh Kiến An và tích cực hoạt động từ thiện. Dù thành công như vậy, nhưng trước sự chèn ép của chính quyền thực dân và tư sản Pháp - Hoa, cuối cùng, hãng vận tải thủy của Bạch Thái Bưởi vẫn bị phá sản. Hình 2.4. Bạch Thái Bưởi (1874 - 1932) 1 Bạch Thái Bưởi : thành viên của Hội đồng một tỉnh hoặc thành phố. 21


Nguyễn Sơn Hà là nhà tư sản đã tạo nên bước đột phá của ngành sơn Việt Nam và là một doanh nhân yêu nước. Ông sinh năm 1894 ở Hà Nội, hoạt động kỹ nghệ, chính trị - xã hội và văn hóa chủ yếu ở Hải Phòng, được giới tư sản Pháp xếp vào đội ngũ doanh nhân tiêu biểu của xứ Đông Dương. Thời trẻ, ông về Hải Phòng làm kế toán cho hãng sơn Xô-va Cốttuy (Sauvage Cottu) và khéo léo học kỹ nghệ pha chế sơn. Năm 22 tuổi, để thực hiện ý tưởng của mình, ông xin thôi việc và tiến hành sản xuất thử sơn. Với sự kiên trì, sáng tạo, ông đã thành công và lập hãng sơn Résitenco nổi tiếng, không thua kém sơn của Pháp. Sản phẩm hãng sơn của ông có nhiều chủng loại, chất lượng cao, giá rẻ và hoàn toàn sử dụng nguyên liệu trong nước… Dù bị chính quyền thực dân và tư sản Pháp chèn ép nhưng với nghệ thuật kinh doanh léo léo, đặc biệt giữ chữ tín nên hãng sơn của ông ngày càng phát đạt. Bên cạnh đó, gia đình ông còn tích cực hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, sáng lập tổ chức Ánh Sáng, trường học Trí Tri, Hội Truyền bá Quốc ngữ, cứu tế… Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong “Tuần lễ vàng” do Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động, gia đình ông đã đóng góp 105 lạng vàng và nhiều tiền bạc cho cách mạng. Vợ và con gái của ông cũng hiến tặng toàn bộ số nữ trang gồm vàng bạc, đá quý, cân được 10,5kg. Với những đóng góp tích cực của ông và gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng ảnh của Người, Mặt trận Việt Minh đã tặng giấy khen cho ông. Trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông được nhân dân Hải Phòng bầu là đại biểu Quốc hội khóa I. Vợ ông là ủy viên của Ủy ban cách mạng lâm thời thành phố (từ cuối tháng 8-1945). Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), ông và gia đình lên chiến khu Việt Bắc, tiếp tục sản xuất những sản phẩm mới phục vụ quân đội và nhân dân. Khi miền Bắc giải phóng (1955) , Nguyễn Sơn Hà là ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội và tiếp tục trúng cử đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV, V. Hình 2.5. Nguyễn Sơn Hà (1894 -1980) Ngày 13-10-2006, nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã truy tặng danh hiệu “Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu” cho Nguyễn Sơn Hà, Bạch Thái Bưởi. Năm 2010, Nhà nước đã xếp hạng căn nhà số 49 Lạch Tray (Quận Ngô Quyền, Hải Phòng), nơi gia đình nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà sinh sống trong nhiều thời kì, là di tích văn hóa. Hiện nay, tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, có những con đường được đặt theo tên hai ông. Kết nối với ngày nay 2 Nguyễn Sơn Hà 22


Nguyễn Chuyên Mỹ (không rõ năm sinh, năm mất) người làng Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn (nay là thôn Thạch Lựu, xã An Thái, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng) được lịch sử ghi nhận là một trong những nhà văn hóa, nhà giáo tiêu biểu. Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, ba cha con đều là Tiến sĩ Nho học. Cha ông là Nguyễn Kim, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất (1502), đời vua Lê Hiến Tông, khi mới 33 tuổi, làm quan đến chức Hiến sát sứ . Ông cùng em trai là Nguyễn Đốc Tín đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Tuất (1514), niên hiệu Hồng Thuận thứ 6. Sau khi đỗ, anh em ông ra làm quan với nhà Lê, sau thấy triều Lê suy đồi, Nguyễn Chuyên Mỹ giúp Mạc Đăng Dung lên làm vua. Ngay đợt khen thưởng đầu, ông được vua Mạc Đăng Dung ban tước Văn Đẩu hầu, dần làm quan đến chức Thượng thư . Dân chúng lưu truyền đôi câu đối (nghĩa là: Cùng một đời, cùng một triều đại có ba tiến sĩ; cùng một nhà, cùng một ngày có hai người vinh quy). Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài “Đề Văn Đẩu hầu gia” ca ngợi truyền thống học hành của gia đình Tiến sĩ Nguyễn Chuyên Mỹ. Khi về trí sĩ, ông mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông, tương truyền có tới 300 người, trong đó nhiều người thành đạt. Theo Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Chuyên Mỹ còn sáng tác nhiều văn thơ nhưng bị thất lạc, nay chỉ còn lại 5 bài thơ được chép trong tập “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn. Sau khi mất, Nguyễn Chuyên Mỹ được gia đình và học trò an táng, sau này được triều đình nhà Lê phong làm phúc thần . V. MỘT SỐ DANH NHÂN TIÊU BIỂU TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA, GIÁO DỤC Từ đường Tam Tiến sĩ là từ đường của dòng họ Nguyễn - một công trình kiến trúc cổ nay thuộc làng Thạch Lựu, xã An Thái, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Từ đường thờ ba cha con đỗ Tiến sĩ đồng triều là Nguyễn Kim, Nguyễn Chuyên Mỹ và Nguyễn Đốc Tín. Từ đường được khởi dựng vào cuối thế kỉ XVI do học trò, sĩ phu địa phương cùng con cháu xây dựng. Các đồ thờ tự chính bằng gỗ được bài trí trong từ đường có niên đại tạo tác cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Từ đường đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa, năm 2005. Hình 2.6. Từ đường Tam Tiến sĩ (xã An Thái, huyện An Lão) (Ảnh: Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng) (17) : chức quan đứng đầu Hiến sát sứ ty - cơ quan có chức năng duy trì trật tự, kỉ cương, lo việc giám sát, xét xử ở địa phương. : chức quan đứng đầu một bộ trong triều đình phong kiến (tương đương chức Bộ trưởng ngày nay). : những người có công với làng, với nước, được nhân dân thờ phụng, mong đem tới điều may mắn, yên lành, được triều đình ban sắc phong. 1 Nguyễn Chuyên Mỹ 23


Nhạc sĩ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15- 11-1923, tại Hải Phòng, trong một gia đình viên chức. Ông học tiểu học và trung học tại trường Bonnal (trường Trung học phổ thông Ngô Quyền ngày nay), Trường Xanh Giô-dép (nay là Trung tâm Giáo dục Thường xuyên). Từ năm 16 tuổi (1939), tài năng âm nhạc của Văn Cao đã được bộc lộ với một loạt ca khúc nổi tiếng do ông sáng tác: Điều đặc biệt là tuy học nhạc phương Tây nhưng Văn Cao ít chịu ảnh hưởng của âm nhạc Pháp, mà hướng các giai điệu của mình gần với âm nhạc dân tộc. Từ năm 1943, ông tham gia hoạt động trong Mặt trận Việt Minh. Thời gian này, ông sáng tác nhiều ca khúc yêu nước, nổi tiếng như Đặc biệt, năm 1944, ông sáng tác bài hát , sau này đã trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), ông sáng tác các ca khúc mang âm hưởng cách mạng như Hình 2.7. Văn Cao (1923 - 1995) 2 Văn Cao 24 Ngoài ra, trong các sáng tác của mình, Văn Cao còn viết những ca khúc dịu dàng, đẹp đẽ về một tương lai tươi sáng cho quê hương, đất nước như Cùng với âm nhạc, tài năng của Văn Cao còn được thể hiện qua các tác phẩm hội hoạ và thơ ca. Tiêu biểu là ba bức tranh sơn dầu Các ca khúc của ông cũng mang đầy chất thơ và có những bài thơ Văn Cao sáng tác mang hơi thở nóng hổi của hiện thực cuộc sống như Văn Cao mất năm 1995 tại Hà Nội. Trong cuộc đời và sự nghiệp của mình, ông đã được Nhà nước trao tặng nhiều giải thưởng cao quý như Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật đợt 1 (1996). Hiện nay, tên của ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh…


Sử dụng thông tin về các danh nhân tiêu biểu của Hải Phòng đã học trong chủ đề, lập bảng tóm tắt những đóng góp của họ đối với quê hương, đất nước theo gợi ý sau: 25 1. Sưu tầm tư liệu và trình bày theo cách của em (đoạn phim, tập san, bài thuyết trình…) để giới thiệu về một danh nhân tiêu biểu của Hải Phòng mà em ấn tượng nhất. 2. Tìm hiểu các hoạt động tôn vinh những danh nhân tiêu biểu ở địa phương em sinh sống và chia sẻ với bạn học, thầy/cô và người thân. Em hãy lựa chọn một trong 2 nhiệm vụ sau đây: Lĩnh vực Tên danh nhân Công lao, đóng góp


Mục tiêu: 3 Chủ đề ruyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường chỉ xoay quanh một, hai tình huống diễn ra Ttrong khoảng thời gian, không gian hạn chế. Do dung lượng bị giới hạn, truyện ngắn thường chắt lọc, dồn nén để từ những lát cắt đời sống mà tạo được sức khơi gợi mạnh mẽ. Đây là thể loại có vị trí, vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam. Với riêng các cây bút Hải Phòng, truyện ngắn cũng có sức hấp dẫn mãnh liệt. Thể loại này thu hút đông đảo các thế hệ văn sĩ Hải Phòng - những người sinh ra, lớn lên ở Hải Phòng và cả những người có duyên gắn bó văn nghiệp với mảnh đất này. Trước Cách mạng, những người tiên phong đặt nền móng vững chắc cho thể loại truyện ngắn trong văn học Hải Phòng có thể kể đến Khái Hưng và Nguyên Hồng. Nếu Khái Hưng để lại dấu ấn với truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa ca ngợi tình yêu tự do, khẳng định cái Tôi cá nhân ( ,…) thì Nguyên Hồng lại đau đáu với những trang văn hiện thực lấm láp gió bụi cần lao của cầu tầu, bến sông, xóm thợ ( ,...) Trong giai đoạn kháng chiến, các nhà văn Hải Phòng hòa mình vào dòng chung của văn học dân tộc, tập trung viết về đề tài chiến đấu và lao động sản xuất và để lại một số thành tựu đáng ghi nhận. Đặc biệt từ sau 1975 đến nay, truyện ngắn Hải Phòng có sự nở rộ, bứt phá và đổi mới không ngừng. Dù là những người đã thành danh từ thời kì kháng chiến hay những gương mặt mới xuất hiện trên văn đàn thì các cây bút đều cống hiến với sức sáng tạo mãnh liệt, nhanh chóng bắt nhịp với yêu cầu đổi mới của văn học và sự chuyển mình của đời sống. Đó là Lưu Văn Khuê, Bùi Ngọc Tấn, Đình Kính, Nguyễn Quang Thân, Bão Vũ, Đoàn Lê,… Diện mạo truyện ngắn Hải Phòng được tạo nên từ sự đóng góp đầy tâm huyết của nhiều thế hệ nhà văn tài năng. Mỗi người một góc khám phá riêng, một chất giọng riêng, một tâm tư riêng nhưng dường như luôn có “một sợi chỉ xanh óng ánh” xuyên suốt các trang văn của họ. Đó chính là tình yêu với cuộc đời với con người với mảnh đất Hải Phòng. Hải Phòng như một điểm tựa giúp các tác giả vun trồng đời văn của mình, khơi nguồn sáng tạo để viết nên những trang truyện phong phú, đặc sắc, giàu giá trị. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN HẢI PHÒNG 26


ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Người con gái 1. Chuẩn bị - Truyện ngắn của Nguyên Hồng được sáng tác và phản ánh hiện thực đời sống Hải Phòng giai đoạn trước Cách mạng. Các em cần tìm hiểu những nét chính về bối cảnh lịch sử và ghi chép lại một số thông tin giúp em đọc hiểu văn bản. - Khi đọc hiểu truyện ngắn , các em cần chú ý: câu chuyện được kể, sự kiện chính; nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật; thông điệp của tác giả… Đặc biệt, cần khám phá và cảm nhận về đặc trưng của không gian Hải Phòng, con người Hải Phòng được thể hiện trong tác phẩm. 2. Đọc hiểu Người con gái ấy da nâu nhờn. Ðó vừa là nước da của hai cha mẹ không nhan sắc mấy, vừa là cái sắc riêng biệt của hạng người phải làm ăn lấm láp. Vả lại, có muốn trau chuốt, người con gái ấy cũng không thể khác hơn. Những thứ phấn màu gạch non hay da cam cho hợp làn da và những thứ son thắm tươi, thơm, hạng tốt, y không có tiền mua, mà dùng táp nham hay xin của chị em bạn mỗi người một tý thì chỉ làm rõ rệt cái nghèo nàn đắng cay của mình. Ai đấy ở lâu Hải Phòng chắc còn phải nhớ cái ngõ hẹp giữa hai bức tường thẳng vút, toả ra mấy ngõ nữa với những dãy nhà một mái cho thuê từng giường, cái ngõ Hàng Gà trước cầu Carong đi sang chợ Sắt ấy... Mười ba, mười bốn năm về trước, con bé ấy vẫn thường bế em ra ngoài ngõ này, hau háu nhìn những hàng quà và sự nhộn nhịp suốt bờ hè. Nhà y cũng thuê được một gian, chen ngay vào dãy nhà của phường buôn gà vịt. Mẹ y mất đã hơn một năm, phường buôn kia thường chép miệng nhắc đến người bạn tháo vát mà biết điều, không biết đến bao giờ họ mới được một kẻ như thế. Cha y đi làm cho xưởng thợ tiện của người khách bên kia phố. Ba cha con ăn uống do vợ người em trai ở chung nhà thổi nấu. (Lược một đoạn: ) Con bé ấy phải thôi học. Y ở nhà để trông coi cả em mình và hai đứa con nhỏ của chú thím. Mười tuổi đầu rồi. Vào cái trạc này, những trẻ nhà nghèo khác đã xách được ấm nước, cái hòm kem phấn đánh giày mũ, hay rá bánh rán, bánh kê đi rong phố kiếm ngày mươi lăm xu đỡ cha 27


mẹ. Ðây, y không phải dầu dãi mưa nắng, đầu đường cuối chợ, chỉ nhởn nhơ chơi với các em cho người lớn lo ăn, thì cũng phải tập làm đôi việc chứ. Quét tước nhà cửa, dọn cơm rửa bát, dần dà biết đun ấm nước, luộc mớ rau rồi ghế nồi cơm, con bé ấy còn phải nhận lấy nhiều công việc lặt vặt khác. Cái con bé tóc cợp bằng chiếc lược nhựa xanh, xưa kia luôn luôn có mặt ở ngoài ngõ, giờ thỉnh thoảng mới dám ra khỏi nhà. Nhưng chỉ chơi đùa được một lúc rồi sực nhớ, y lại vội dắt lũ em về trước cửa, trống ngực đập thình thình. Cửa vẫn khép chặt, đồ đạc vẫn y nguyên, tiếng reo cười ngoài kia vẫn rộn ràng, con bé thần mặt ra, vẻ mến tiếc và tủi cực hiện như in qua sắc da bừng bừng mồ hôi nhễ nhại. Người thím, trưa đến không gửi hàng về nhà nữa; cả người chú, ông vào làm thay anh và cũng lại biền biệt từ sáng sớm đến chiều tối. Tinh sương, con bé ấy dậy cùng người đàn bà nọ. Bà thổi cơm cho cả nhà ăn rồi nắm sẵn mấy bát để lúc nào những đứa bé đói thì bảo chị lấy cho ăn. Không buôn cất của người ta, bà lần mò đi những chợ xa mua rau đậu, hoa quả. Hai gành hàng của bà nặng trĩu, cả những đàn ông khoẻ nhấc lên cũng phải nhăn mặt. Thế mà nó cứ lẽo đẽo trên vai bà một tháng đủ ba mươi ngày, nắng mưa cũng mặc. Ðã nhiều hôm, sau một đêm ngủ li bì bàng hoàng thức dậy, người thím thấy mặt mày choáng váng, hai thái dương đau chói và khắp người ê ẩm, đã tưởng đến nằm liệt giường mất. Nhưng chỉ một nồi lá tre, lá bưởi hay lá sả đun sôi lên xông, và ít gừng giã, hoà rượu đánh với tóc rối, người thím lại áo dài nâu thắt vạt ra đi với những người đàn bà khác. Mặt trời mới lộ một khoảng hồng phớt mà người thím cuống quít lo sợ như ngày đã bị cướp đi gần hết. Bà quẳng vội cho con bé ấy đồng năm xu, nói qua những tiếng thở: - Ðây, cầm lấy trưa mua bún hay canh bánh đa cho chúng nó ăn. Trưa nay không có cơm và tối tao mới về được đấy. Cúi mặt xuống, nghe từng tiếng nói khản ấy dằn ra, con bé thấy rõ trên đầu mình hai hàm răng người thím rít lại và hai con mắt bà lại gờm gờm đưa nhìn qua mình ra thằng bé em còn nằm ngủ thiếp đây kia. Thằng em con bé này nuôi mãi mà đi vẫn chưa vững. Ðến bao giờ nó mới lớn, đi làm được và có đồng tiền đưa về? Ðó là những chiều hè, hoa xoan tây đỏ ối, bụi lầm đường, những màu áo tơ lụa phấp phới. Phố xá ồn ào như có những tiếng hát man rợ tràn lên cuồn cuộn. Những giờ đó, con bé ấy thường bế em ra chơi. Tuy nhà cơm nước thu dọn xong rồi, người thím đã về chợ rửa ráy cho con cái, con bé ấy được phép đưa em ra đường, nhưng y vẫn phải lảng vảng gần nhà. Trẻ con đứa nào đứa ấy đều về quấn quít lấy bố mẹ, y có muốn nô đùa cũng không có bạn. Y chỉ còn biết thơ thẩn nhìn những cái ồn ào rực rỡ toả ra mọi nơi, trong khi thằng bé em lò dò dưới những tủ hàng, mắt ngơ ngác. * * * 28


Qua ngõ nhà con bé ấy, khu Trại Cau, An Dương mở ra bên kia. Ðường đây rộng, trắng xoá, chạy vút về những vùng quê xa có ruộng lúa chín vàng và bóng núi tím mờ mờ lẫn với mây. Những ô tô bóng loáng thỉnh thoảng phóng qua. Mui xe cụp xuống, những người ngồi thoáng hiện ra như trên màn ảnh. Tóc họ bay phất phới rắc trong gió những mùi thơm sực nức cùng với những mùi phấn sáp và quần áo. Những đứa bé tóc như tơ vàng, da thịt hồng hào lồ lộ, đứng hẳn lên, cười hát, vẫy gọi, trông chúng xinh tươi hơn những tiểu thiên thần trong tranh. Những người khác không đi ô tô thì đi xe nhà, chồng một xe, vợ một xe, người ôm con lớn, người con bé, song song chuyện trò theo những bước chân của người kéo. Cũng có nhà đặt con nhỏ vào xe đun để người ở trông rồi dắt con lớn đi sau mà hưởng cái mát của chiều. Trong đám trẻ ấy, thường có mấy đứa trước học với con bé. Từ ngày y thôi đến trường ông giáo già, những bạn nhỏ mặt mày rạng rỡ, quần áo đẹp mắt, cười nói ngoan ngoãn ấy, thế là xa hẳn. Không một đứa đến tìm y. Có qua nhà y, chúng mải ríu rít với nhau cũng có và cố làm lơ đi cũng có. Gần gũi con bé chỉ còn những đứa tên nghe thế nào ấy: cái Sẹo, cái Bống, thằng Nhớn. Bố mẹ chúng thì nào bác Sế Cấu, bác Phở, bác Bò, bác Củi. Nhiều nhà còn để chúng nó rách rưới hơn y và lắm khi phải sang nhà y cầu cạnh vay tiền, vay gạo và xin cả cơm về mớm cho con…. Khác hẳn với những cảnh trên kia, con đường ngoài ngõ và dãy phố bên kia con sông Lấp bị chắn một đầu, lúc đó huyên náo vô cùng. Suốt bờ sông bờ hè, san sát hàng quà. Toàn những hàng nước chanh, nước đá, kem và hoa quả. Những ánh chai lọ thuỷ tinh đựng những thứ nước chanh xanh đỏ và những sắc tươi của dưa hấu, mận, xoài làm nhức cả mắt. Vang toả trên mấy khu đó, những tiếng sôi động ngùn ngụt của những phố Hàng Cháo, Ðầu Cầu dồn lại. Ðây, người ta đương mê mải ăn uống, may mặc, sắm sửa, như không biết chán, như đã bị bao năm hết sức kìm hãm sự khát khao rõ cả những tiếng thở hổn hển và nóng rực… Người chú về tầm ăn cơm xong là giở đồ làm ra ngay. Nhà ông không có tiền mắc điện, thắp cầy đèn dầu ngọn vặn cao, vàng ngụt. Búa, đục, giũa, kìm, đinh ốc, dây thép, sắt vụn... bày la liệt trên cái mặt bàn rộng như cái giường, tự tay ông đóng lấy với những mảnh ván thùng xi măng. Trước ông chỉ nhận việc tư về làm những ngày nghỉ. Giờ, cả trưa và tối. Ông chữa xe đạp, đồng hồ, khoá, máy chữ, bất cứ cái gì hỏng của những máy móc thường dùng. Một gian nhà thuê chung đã kê hai cái giường, một tấm phản xếp và một cái bàn đã chật ních, lại còn xếp bao nhiêu thúng, mẹt và những đồ đạc, trông bức bối còn hơn cái lò. Mồ hôi vã ra đầm áo, tóc dính bết vào trán mà người chú không quạt lấy một cái. Mặt ông chỉ tái đi thêm và môi mím lại. Dưới đất, chỗ cửa ra vào, người thím cũng cặm cụi như thế. Bà chọn, nhặt rau, đậu bó lại từng mớ rồi xoay ra chẻ củi, gánh nước, giặt giũ cho cả nhà.….Giữa những tiếng nhèo nhèo của con nhà mình và những tiếng khóc tiếng ru của những mẹ con nhà chung quanh, người chú như một cái máy, chỉ có cử động chứ không một lời nói. Thông phong đèn lau lúc chập tối đã cháy bỏng và đặc khói bên trên. 29


Sương đêm mờ mờ xám dần là là xuống mái ngói. Cái cửa sổ xế bàn người chú vẫn sáng rực. Ánh đèn vàng ngụt toả ra với những bụi bặm. Chiếc bóng đèn của ông đầu tóc bơ phờ, in dài ra ngoài đường rõ như cắt. Tiếng sắt giũa ken két xiết sâu vào cái yên lặng. Ông càng cúi mặt vào những đồ làm. Lúc đó, ở cái máy nước đầu ngõ, tiếng ầm ầm xô xát giành giật nhau vẫn không giảm đi chút nào. Những giọng cười hát kệch cỡm vẫn thấp thoáng trong cái không khí đặc sệt dưới bầu trời sao đầy như cắt. (Lược một đoạn: ) Còn một buổi tối nữa. Sáng sớm mai, người con gái đã ra đi. Một lần nữa, y rụt rè đến trước mặt bà thím, đầu cúi thấp, run run xin lỗi bà và xin phép bà. Nhưng bà đứng phắt dậy, xua tay bỏ sang hàng xóm. Người con gái đành gạt nước mắt nhìn theo. Ðể tránh sự sô xát tan hoang làm đau lòng thêm cho chú, đến trưa, người con gái lên sở chú. Ông chỉ yên lặng nhìn cháu rồi thở nhẹ một tiếng. Ông nói ừ thì y đi. Nhưng, đã biết y không phải là hạng gái hư hỏng, ông vẫn dặn dò y và xin y hết sức giữ gìn thân mình, phải cẩn thận từng ly từng tý trong bất cứ công việc gì để khỏi hối hận về sau. Ông lấy ở túi áo trong ra mười đồng bạc, bắt người con gái phải cầm để thêm vào tiền tàu và lại dặn hễ về tới trong đó phải gửi ngay thư về, rồi làm ăn ra sao hay gặp sự gì không hay cũng phải cho ông biết tin luôn. Người con gái lại chan hoà nước mắt. Trưa hôm ấy nắng. Những tiếng reo vàng rực của gió và cây cỏ làm hoa cả mắt y. Y đã chợt toan ở lại vì thấy những cái như là dây chão, là dao sắc, trói ghì lấy lòng mình và xẻo ra từng miếng. (1) Sài Goòng , một trong những viên ngọc Viễn Ðông. Ðây người ta nói thành phố to như Thượng Hải hay xa xôi hơn, như Nữu Ước của Mỹ châu. Ban đêm, sự buôn bán làm ăn không ngừng, ánh sáng còn rực rỡ hơn ban ngày. Chung quanh, các miền cày cấy cứ thẳng cánh cò bay, lúa chín rừng rực, sông nước mát rợi, cá ăn không hết. Bao nhiêu công việc tạp nhạp, người trong ấy để cả cho khách trú và người Bắc làm hết. Hầu hết họ cứ đến bữa ăn thì ra tiệm, tối đến đi chơi, chẳng lo nghĩ gì cả. Ðồng tiền thật như nước. Bao nhiêu kẻ đã nhờ đây mà nổi cơ đồ. Cả những kẻ đi phu, vợ con dắt díu nhau với chăn chiếu, quần áo tay xách nách mang kia, họ bước chân xuống tàu đều tươi như hoa nở. Chuyến xe lửa suốt chạy vào Sài Goòng khởi hành lúc sáng sớm. Người con gái dậy sớm từ bốn giờ, chào lạy chú thím, nức mở cầm tay các em bé, cháu bé rất lâu rồi đi... Tám tháng sau, người con trai trở về Bắc. Anh về mỗi mình với cái hòm sơn của cha anh cho. Người anh gầy tóp, xơ xác, phải nhận lâu mới ra. Cái nhà in anh làm sang tay chủ khác đã năm tháng. Anh là một trong bọn người ông chủ mới giãn ra. Còn người con gái nghe đâu y cũng ốm lắm. Mà vừa ốm, vừa tiền không, quần áo lành lặn không, y đâu dám trở về cái nơi đã ghen tức nhìn y ra đi với một người con trai hớn hở. Một dạo, được tin y thôi giữ chân bán * * * 30 (1)


hàng, lại về ở trọ nhà người quen nhận quần áo các nơi đan. Bẵng đi lâu mới thấy nói y theo giúp một chị em người Bắc mở nhà hộ sinh. Rồi cả người con trai và người chú cũng không hay biết gì về y. Hiện giờ người con gái này ở đâu, còn sống hay chết và làm gì? (1) Lệ Hà ! Lệ Hà da nâu chín, trán thô, tóc cứng chải bồng lên kia hiện giờ ở đâu, còn sống hay chết và làm gì, hỡi những bạn đọc tin cậy của tôi? Nguyên Hồng (1918 - 1982) sinh ra ở Nam Định, theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo. Hải Phòng trở thành quê hương thứ hai và cũng là mảnh đất ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp văn chương của ông. Đất và người thành phố Cảng là nguồn cảm hứng để Nguyên Hồng sáng tác thành công hàng loạt tác phẩm văn xuôi, trong đó có bộ tiểu thuyết “Cửa biển” và các truyện ngắn thấm đẫm hơi thở cuộc sống lao động, đấu tranh ở miền đất đầy sóng và gió. Truyện ngắn được đăng trên , từ số 486 (6-11-1943) đến số 489 (27-11-1943). (1)Tên người con gái tự đặt cho mình “ “ 1.1. Chuẩn bị nói: - Tìm đọc và lựa chọn một truyện ngắn của tác giả người Hải Phòng hoặc tác giả có sự nghiệp sáng tác gắn bó sâu sắc với Hải Phòng để giới thiệu với mọi người NÓI VÀ NGHE GIỚI THIỆU MỘT TRUYỆN NGẮN HẢI PHÒNG 1. Chuẩn bị 31


GIỚI THIỆU MỘT TRUYỆN NGẮN HẢI PHÒNG Tên truyện ngắn: ………………………………………………………........... Tên tác giả, vài nét về cuộc đời ( )…… 1.Lí do chọn giới thiệu truyện ngắn: …………………………………….. 2.Nội dung giới thiệu: -Giới thiệu tóm tắt về nội dung, nghệ thuật:………………………….... -Giới thiệu về chủ đề, thông điệp của tác phẩm:……………………..... 3. Một vài cảm nhận, đánh giá về truyện ngắn: ………………………….. 1.2 Chuẩn bị nghe: - Tìm hiểu về truyện ngắn sẽ được thuyết trình - Chuẩn bị tâm thế lắng nghe, xác định các vấn đề, câu hỏi cần thảo luận. 2.1. Người nói: - Mở đầu: Giới thiệu khái quát truyện ngắn được lựa chọn, lí do chọn truyện ngắn đó. - Triển khai: + Tóm tắt truyện. + Nêu và phân tích ngắn gọn về nội dung và đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn. + Đánh giá khái quát về giá trị của truyện ngắn. - Kết thúc: Nêu ấn tượng sâu sắc của bản thân đối với truyện ngắn, chia sẻ sự tác động của tác phẩm với nhận thức và tình cảm cá nhân. - Trao đổi với người nghe: giải đáp các thắc mắc của người nghe với thái độ chân thành cởi mở, có thể nêu lên những điều mình trăn trở, muốn làm rõ thêm về truyện ngắn mình yêu thích và giới thiệu. - Tìm hiểu, ghi lại các thông tin về tác giả, bối cảnh văn hóa - xã hội của truyện ngắn, tóm tắt truyện, nắm vững nội dung và đặc sắc nghệ thuật của truyện, hiểu chủ đề tư tưởng của truyện. - Xác định đối tượng người nghe, thời lượng trình bày bài thuyết trình. - Các tài liệu, phương tiện hỗ trợ: văn bản truyện ngắn bằng bản giấy hoặc trên trang trình chiếu của máy tính để cung cấp cho người nghe trước khi trình bày, bài nói bài trình chiếu, tranh ảnh, nhạc, đoạn phim,... ( ). - Lập dàn ý bài thuyết trình. 2. Thực hành 32


… Khai vẫn mơ ước được ở gần sông, cảnh sông nước đối với anh hấp dẫn lạ lùng. Thuở nhỏ đi học, Khai rất thích bơi lội. Vào những trưa hè nóng nực, Khai thường rủ các bạn ra sông Hạ Lý cùng nhau hụp lặn thỏa thuê. Những năm chưa có chiến tranh, Hải Phòng vẫn hay có những cuộc thi bơi lội, nhiều lần Khai giật giải, hay những buổi tối mù sương, học bài xong, Khai lại vác chiếc cần dài vót nhọn ra chân cầu thả mồi. Những con cá song tục ăn và béo nục tranh nhau cắn. Khai chỉ ngồi một lúc là có năm sáu con to bằng cổ tay mang về nấu với canh Xóm chân cầu 2.2. Người nghe: - Lắng nghe giới thiệu và ghi chép lại một số vấn đề cần lưu ý. - Chia sẻ những điều thấy hấp dẫn ở bài thuyết trình và ở truyện ngắn được giới thiệu. - Có thể đặt câu hỏi để làm rõ điều còn muốn biết về truyện ngắn được giới thiệu. Người nghe và người nói có thể sử dụng bảng kiểm sau để đánh giá, tự đánh giá bài giới thiệu truyện ngắn: (2)Nguyễn Hồng Quang là hội viên Hội nhà văn Hải Phòng từ năm 1972. Tác phẩm: tập truyện ngắn (in chung), (in chung với Chu Văn Mười), (in chung với Huy Liệu và Vũ Hoàng Lâm) và (in riêng); tiểu thuyết (2007), (2007). Ông sống trong xóm nhỏ nằm ở chân cầu Quay thuộc phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chính cuộc sống nơi đây là cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn . STT Nội dung đánh giá Kết quả Đạt Chưa đạt Giới thiệu các thông tin cần thiết về tác phẩm truyện ngắn được lựa chọn để thuyết trình. Giới thiệu được nét chính về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn. Nêu được một số nhận xét đánh giá về truyện ngắn. Sử dụng hiệu quả các phương tiện hỗ trợ. Thuyết trình tự tin, tương tác tốt với người nghe. 1 2 3 4 5 3. Đánh giá Tham khảo 33


chua hoặc rán vàng lên chấm với nước mắm Cát Hải, ngon tuyệt! (Lược một đoạn: ). Xóm chân cầu ngày ấy lúc nào cũng nhộn nhạo khác thường, cái nhộn nhạo hấp dẫn và cuốn hút. Ngày cũng như đêm, cuộc sống ở đây không ngừng hoạt động. Chốc chốc lại một đoàn tàu hỏa suỳnh suỵch phóng qua hoặc những chiếc xe tải lăn bánh trên ván cầu rầm rầm. Về đêm, mặt sông như mênh mang mờ ảo, xa xa chấp chới ánh đèn của dãy nhà hai tầng rọi xuống lung linh … Bất chợt chiếc ca nô chạy qua, chân vịt sục nước đánh sóng vào mạn bờ, tiếng còi rúc lên nhè nhẹ, ngân dài xen vào đấy tiếng quát ầm ĩ của mấy anh chân sào. Lắm lúc, Khai có cảm giác nơi đây tập trung tất cả mọi hoạt động của thành phố Cảng. Ngày đầu chưa quen, Khai có cảm giác khó chịu vì đêm đêm anh thường phải thức giấc nhiều lần, giấc ngủ bị cắt quãng. Nhưng rồi chỉ ít ngày sau quen dần, chính anh lại thấy dễ chịu. Đôi khi vắng những tiếng động ấy, anh thấy như thiếu vui, thiếu hứng thú ngay cả trong giấc ngủ. Thường thường những lúc đi làm về tới dốc cầu, xuống xe đạp, tự dưng Khai thấy người nhẹ nhõm hẳn và quên hết mệt mỏi. Anh ung dung dắt xe qua hành lang cầu ngó nghiêng xuống dòng sông, nước trong xanh đầy ắp. Từ xa anh đã nhìn thấy cái xóm thân yêu của mình hiện ra, những nếp nhà tranh nho nhỏ, nối tiếp nhau bao bọc quanh phía chân cầu, cửa nhìn ra sông thoáng đãng. Kia rồi, căn nhà của anh nằm chênh chếch bên đầu xóm, cánh cửa màu xanh luôn mở rộng. Thằng Sáng con trai lớn đang học bài ở hiên, thỉnh thoảng lại đưa mắt lên phía đường ngắm người qua lại, còn mấy đứa nhỏ chơi đùa ở sân. Tất cả gợi trong anh niềm thân thiết bồi hồi … Buổi sáng hôm sau, hai vợ chồng Khai đến thật sớm, đã thấy đội cầu đang tíu tít bắt tay sửa chữa lại cầu xe hỏa. Mặt sông, nước triều dâng lên đầy ắp mượt mà phù sa. Máy nổ vang lên xình xịch, át cả tiếng động khác trong thành phố vọng ra, khiến cho không gian ở đây náo nức hẳn lên. Lửa hàn bay tung trên nóc cầu nổ tanh tách khiến Ngát khó chịu vì ngửi không quen, hắt hơi liền mấy cái, quay ra nhăn nhó bảo chồng: - Có lẽ họ chuẩn bị làm cầu mới rồi anh ạ. Hình như Khai không chú ý đến câu nói của vợ, đôi mắt anh đăm đăm nhìn về phía cầu, chiếc đà nổi nằm ngang choán hết dòng sông rộng, không khác gì một chiến hạm. Trên đà đặt máy móc, tời, dụng cụ đồ nghề giống như một cái xưởng vậy. Chừng hơn chục anh em thợ, người nào người ấy đang khẩn trương gấp rút. Nước da ai cũng xạm đen vì nắng gió, khuôn mặt rắn rỏi cương nghị. Trong lòng Khai như sẵn cảm tình với họ từ lâu. Cách đây hơn mười năm, anh đã từng làm thợ cầu, nhưng hồi ấy đâu được trang bị hiện đại như bây giờ. Anh nhớ ngày bắc cầu Việt Trì mới gian khổ chứ! Sông thì rộng, nước chảy như thác, ai cũng tưởng phải bó tay trước khó khăn ấy. - Bây giờ trông còn ngổn ngang thế đấy. Ta xong nhà họ cũng xong cầu cho mà xem, mấy 34


ông này phải nói là thánh lắm. Ngát không tin: - Cái nhà của mình giỏi lắm năm ngày nữa chứ bao nhiêu. Anh tưởng làm một chiếc cầu cũng dễ dàng như vậy ư? - Khai gật gù đáp: - Rồi em xem, đừng bảo anh nói khoác. Khai vẫn để ý tới công việc của anh em đội cầu. Cô thợ hàn chạy lên chạy xuống và máy điện đang nổ bỗng dưng tắt đột ngột. Anh đội trưởng vội vội vàng vàng với nét mặt lo âu. Có lẽ anh em gặp khó khăn gì đây? Khai bước tới và bỗng anh kêu lên, ôm chầm lấy đội trưởng cầu: - Ôi Cường! Chúng mày làm gì ở đây hở? Cường còn có vẻ mừng hơn Khai, vui vẻ đáp: - Lại mày đấy ư Khai? “Vua hàn” đây rồi. May tao quá! Khai không ngờ gặp lại bạn cũ, cách đây mười năm họ cũng đi làm cầu với nhau. Anh tâm sự: - Ấy tao đang dựng lại cái nhà. Có cái lều tre thằng Ních-xơn chó má làm sập. Bây giờ phải dựng lại. Khai nhìn trụ cầu đứng chênh vênh giữa lòng sông rộng. Một nhịp bị cắt rời khỏi trụ, đầu chúc xuống và nhìn những mảnh bom xuyên qua lở loét, thanh chắn quằn quại, vênh váo, Khai hỏi: - Bây giờ các cậu cho cẩu hay cắt toàn bộ nhịp cũ đi? - Phải bỏ toàn bộ cậu ạ, không dùng một cái gì cũ nữa. Cầu mới lắp ghép xong rồi, chỉ việc dùng cẩu đưa vào thôi. Ấy chính khâu này lại dễ, khó khăn của mình là thiếu béng nó thằng thợ hàn. Tối qua không hiểu thế nào mà lăn đùng ra ốm, đi cấp cứu rồi. Thế mà lịch thông cầu vẫn không đổi mới chết chứ! Cường nói dứt câu, khẽ thở dài ý lo lắng. Khai rít xong hơi thuốc ngửa cổ thở khói, vỗ nhẹ lên vai anh đội trưởng: - Tớ sẽ lôi về cho các cậu một tay thợ. Đội trưởng nửa tin nửa ngờ, xiết mạnh tay Khai: - Nếu thế thì tốt quá, hay mày bỏ nhà đấy, giúp tao có được không? - Để còn xem xem - Khai lấp lửng. * * * Buông bát đũa, Khai uống vội bát nước bảo vợ: - Kế hoạch làm nhà của mình tạm hoãn em ạ. 35


Ngát đang và cơm, quay sang chồng hỏi lại: - Sao vậy? Anh định ở đâu bây giờ? Mọi người về đông về tây dựng nhà ầm ầm. Đấy anh xem chỉ vài ngày nữa thôi nhà cửa xóm mình lại như bát úp. Chỉ có nhà mình là chậm chạp nhất. - Em đừng lo. Tất cả rồi sẽ đâu vào đấy hết. Ngát vùng vằng vẻ như giận dỗi với chồng: - Anh thì lúc nào cũng chẳng lo. Mấy ngày nữa anh định làm gì? Khai nhẹ nhàng nói với vợ: - Anh bàn thế này nhá. Chiều nay em cứ đắp nền trước đã, xong nền ta dựng. Con cái thì hãy gửi tạm dưới đó. Ngát lầu bầu: - Anh định sao cũng phải nói cho vợ con biết chứ? Cuối cùng Khai thấy mình cũng chẳng nên giấu vợ làm gì. Nhưng nói ra có thể Ngát sẽ ngăn cản anh. Đắn đo một lát, Khai mới nói thực cho vợ nghe ý định của mình: - Bây giờ thế này Ngát ạ. Anh em đội cầu gặp khó khăn, lại vì thằng đội trưởng là bạn cũ của anh. Anh định giúp nó một chốc. Ngát lặng thinh. Anh hiểu sự lặng thinh của vợ. Công việc làm nhà của Khai thực ra cũng đang bận lắm. Hai vợ chồng phải tranh thủ làm cả buổi tối hôm qua. Ý vợ là muốn có nhà ngay để mang con về. Nhưng Khai lại nghĩ khác. Hòa bình rồi cứ thong thả, làm gì phải gấp rút cho vất vả. Mình có giúp anh em đội cầu chốc lát cũng chẳng sao. Sớm muộn một hai ngày nữa là có nhà ở rồi. Anh em họ gặp khó khăn cũng như mình gặp khó khăn vậy. Ừ, giá như mình không biết nghề đã đành. Tính Khai có cái lạ, biết mà không giúp, lương tâm cứ áy náy thế nào ấy. Thấy vợ bằng lòng, rất mừng. Khai cười vui vẻ bảo Ngát: - Dứt khoát hai ngày nữa ta sẽ xong. Độ sơ tán về lần trước, em còn nhớ không, chỉ có hai vợ chồng dựng một đêm đã thành khung nhà, sáng hôm sau bác Nguyễn và chú Dậu cùng anh em trong tổ đến cắm tường, cắm vách và lợp vừa vặn một ngày đã chu tất mọi việc. (Lược một đoạn: ). Hôm nay còn một ngày phép cuối cùng, vợ chồng Khai cùng với bà con trong xóm hoàn thành nốt căn nhà tre hai gian. Nếu không xong, tối nay có trăng rồi, hai vợ chồng sẽ tranh thủ làm; mấy đứa trẻ nhỏ nhà anh chỉ mong mỏi làm sao về được xóm chân cầu, chúng lại có bạn bè cũ để chơi. Cái Tuyết luôn luôn nhắc tới anh Tuấn, con trai bác Nguyễn. Hai đứa thường cả ngày chỉ quanh quẩn bên nhau, có lúc chòng ghẹo nhau khóc chí chóe, sau rồi lại thân ngay. Buổi tối hôm nọ, thằng Sáng, con anh hỏi: “Ông Ngạc văn nghệ đã về chưa?”. Anh hiểu ý con, cười đáp: “Ông Ngạc về rồi”. Độ này, Ngát thấy chồng gầy đi, lại bận vào làm nhà, nhưng được cái anh ấy rất khỏe, lúc nào người cũng đen bóng mà chẳng bao giờ ốm đau. Nhất là độ đi sơ tán, anh đi làm xa, lại còn 36


chạy gạo, chạy mắm muối cho vợ con … trông anh xạm và gầy quắt lại. Chợt có tiếng suỳnh suỵch vang lên, một âm thanh quen thuộc thân thiết. Ngát chợt ngẩng lên, nói như reo: - Cầu đã thông rồi, anh ạ! Tuy Khai đã nhìn thấy con tầu, nhưng anh vẫn làm như ngạc nhiên: - Ừ nhỉ. Tàu hôm nay dài quá chừng, phải hơn hai chục toa chứ ít à? …Khu chân cầu bỗng dưng tưng bừng nhộn nhịp. Khai ngắm lại cái xóm thân yêu của mình, những căn nhà đã mọc san sát, hình dáng hao hao như nhau, mái lợp giấy dầu gọn nhẹ, cửa nhìn ra sông trìu mến. - Chú Khai tối nay sang tôi uống nước chè nhé. Khai quay ra, thấy ông Ngạc xách túi thủng thẳng đi qua, vẫn mái tóc bạc lốm đốm, với nụ cười lúc nào cũng thoải mái, vô tư, mặc dù bên mép đầy những vết nhăn nheo, mà sao trông ông còn trẻ, rất trẻ. - Bác xong nhà đâu đấy rồi nhỉ? Giọng hào hứng, ông đáp thật to: - Yên trí rồi. Tối mai đội văn nghệ lại bắt đầu tập chú mình ạ. Chừng cuối tháng hội diễn toàn nhà máy. Ông Ngạc còn đứng lại ngắm ngôi nhà của Khai, gật gù khen: - Chú làm rộng hơn trước nhỉ, trông đẹp đấy. Hà hà! Xóm chân cầu của ta có vẻ sầm uất hơn trước nhiều. Xong cầu rồi, thế là ta lại đi thoải mái chú ạ. Đứng trên nóc nhà trông thẳng ra sông, nước lên mấp mé bờ đá, khiến cho nhịp cầu như dài thêm ra, vững chãi, óng ánh màu sơn mới tươi mát, Khai đưa tay gạt mồ hôi lợp tiếp mái trước. Từng cơn gió từ xa tràn về thổi tung tóc anh. 37


Mục tiêu: 4 Chủ đề THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TẠI HẢI PHÒNG ền kinh tế Hải Phòng đang tăng trưởng đều qua các năm, với mục tiêu phát triển Nthành trung tâm kinh tế vững mạnh của quốc gia, khu vực phát triển hàng đầu của miền Bắc, thành phố Hải Phòng đang hết sức chú trọng đến phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh. Thời gian gần đây, Hải Phòng trở thành điểm đến hấp dẫn của rất nhiều nhà đầu tư trong nước và quốc tế, nhiều công ty, doanh nghiệp, khu công nghiệp được thành lập với quy mô lớn, nhờ đó thị trường việc làm trở nên sôi động và kéo theo nhu cầu về lực lượng lao động không ngừng nâng cao. I. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG 1. Thực trạng thị trường lao động ở Hải Phòng Hải Phòng là thành phố với quy mô dân số lớn, xếp thứ 7 cả nước, có nguồn lực lao động dồi dào. Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm khoảng 50% dân số. Ngoài lực lượng lao động tại chỗ, Hải Phòng còn thu hút một lượng khá lớn người lao động nhập cư từ các địa phương lân cận như Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình…đổ về tìm việc. Số lượng lao động nhập cư chiếm khoảng trên 24% số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. 38


Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2030 đặt ra mục tiêu sẽ lấp đầy 90% diện tích 12 khu công nghiệp, đồng thời mở rộng thêm 15 khu công nghiệp với tổng diện tích hơn 6.400 ha. Tương ứng với quy mô đó, ước tính Hải Phòng cần có số lượng lao động lên tới 300.000 người. Đối tượng cần tuyển dụng gồm lao động phổ thông, lao động có trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên, lao động chất lượng cao. Số lượng tuyển dụng lớn nhất là lao động phổ thông, chiếm khoảng 50%; nhóm ngành có nhu cầu tuyển dụng cao nhất là ngành công nghiệp - xây dựng. Một số ngành, nghề đang phát triển mạnh ở thành phố như: Logistics, Điện công nghiệp, Điện tử công nghiệp, Cơ khí chế tạo, Công nghệ ô tô, Công nghệ thông tin (ứng dụng phần mềm)…Trong mục (1) tiêu thu hút FDI , Hải Phòng định hướng thu hút những dự án có hàm lượng công nghệ cao, hiện đại, các ngành nghề không có nguy cơ ô nhiễm môi trường. Hải Phòng đang có nhu cầu khá lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao. Thành phố xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá có tính chiến lược, trong đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng. Cùng với xu thế phát triển của kinh tế của thành phố, xu hướng tuyển dụng lao động trong ngành công nghiệp tăng cao, giảm ở ngành nông nghiệp, lâm nghiêp và thủy sản. Nhu cầu tuyển dụng lao động giảm ở khu vực kinh tế nhà nước, tăng nhanh khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Năm Dân số Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo 2019 2020 2021 2.033.248 2.053.493 2.072.388 54,65% 52,48% 49,88% 31,44% 34,70% 35,30% Lao động của thành phố Hải Phòng đang có sự thay đổi: giảm tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp, ổn định trong ngành dịch vụ. Quá trình chuyển dịch đó theo hướng tích cực, phù hợp với định hướng phát triển của thành phố. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay, nguồn nhân lực của thành phố Hải Phòng đang có xu hướng giảm, chất lượng nguồn nhân lực đứng trước nguy cơ không đáp được nhu cầu việc làm. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, chưa theo kịp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tình trạng thiếu hụt lao động có xu hướng ngày càng tăng, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động, kể cả lao động phổ thông, lao động đã qua đào tạo. 2. Xu hướng tuyển dụng của thị trường lao động 39 Bảng 1: Số liệu lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Hải Phòng


40 II. THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM Ở HẢI PHÒNG 1. Thực trạng của thị trường việc làm Hải Phòng Hải Phòng là trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc, là vùng đất có tiềm năng phát triển kinh tế. Với nhiều điều kiện thuận lợi, Hải Phòng đang là nơi thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước. Vì thế, thị trường việc làm ở Hải Phòng rất đa dạng, sôi động và hấp dẫn, hàng loạt cơ hội việc làm mở ra cho người lao động tại địa phương và các tỉnh lân cận. Là một trong những thị trường việc làm tiềm năng, Hải Phòng hiện đang là thị trường việc làm lớn thứ ba sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ở Hải Phòng, các loại hình kinh tế đều đang rất phát triển, cơ hội việc làm cho người lao động rất lớn; nhiều việc làm phù hợp với các đối tượng lao động khác nhau, từ sinh viên, công nhân, lao động phổ thông đến lao động trí thức, người đã nghỉ hưu… Tại Hải Phòng, công nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt, hàng năm có hàng trăm nghìn việc làm thuộc các ngành công nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động như ngành đóng tàu, luyện gang thép, sản xuất hóa chất và dệt may da giày, sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng… Số lượng công ty, doanh nghiệp đã tạo ra hàng chục nghìn công việc trong khối việc làm hành chính văn phòng, phổ biến là: kế toán, nhân sự và nhân viên kinh doanh...trong đó công việc kế toán chiếm đa số. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản phát triển mạnh mẽ với hàng loạt dự án bất động sản nổi bật như các dự án Hoàng Huy Riverside, Flamingo Cát Bà Beach Resort, dự án Vinhomes Imperia, BRG Coastal City…cùng với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ của Hải Phòng đã tạo nên rất nhiều việc làm thuộc lĩnh vực bất động sản, xây dựng. Với mục tiêu trở thành thành phố đi đầu cả nước có nền công nghiệp gắn với cảng biển hiện đại, thông minh, bền vững, Hải Phòng chú trọng đầu tư cho kinh tế cảng biển, tạo ra nhiều việc làm ở lĩnh vực logistic, nhân viên xuất nhập khẩu, lái xe, lái tàu, kĩ sư cơ khí, dịch vụ cần tuyển dụng… Là một trong những trung tâm công nghiệp lớn, có sức cạnh tranh của cả nước, Hải Phòng nổi bật là một thành phố có nhiều cụm khu công nghiệp thu hút được các nhà đầu tư lớn ở nước ngoài như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và các tập đoàn lớn trong nước như VinGroup, Sun Group, Geleximco, FLC... Những khu công nghiệp có quy mô lớn, đa dạng việc làm cho người lao động như: Khu công nghiệp VSIP; khu công nghiệp Đình Vũ; khu công nghiệp đô thị Tràng Cát; khu công nghiệp Tràng Duệ; khu công nghiệp Nam Cầu Kiền; khu công nghiệp Nomura,... Làm việc tại khu công nghiệp hiện đang là lựa chọn của nhiều ứng viên, kể cả lao động phổ thông lẫn lao động tri thức. Các khu công nghiệp là nơi hội tụ đầy đủ tinh hoa về công nghệ và kỹ thuật, người tìm việc ở đây sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận được trình độ hiện đại của thế giới và khu vực. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.


Người lao động ở địa phương và các tỉnh lân cận đến Hải Phòng tìm việc có thể dễ dàng tìm kiếm và lựa chọn công việc phù hợp với khả năng của mình thông qua các kênh thông tin khác nhau. Theo cách truyền thống thì người lao động có thể tìm việc trên các trang báo, tờ rơi, quảng cáo, băng rôn treo trước các công ty hoặc qua người quen giới thiệu… đến với trung tâm Dịch vụ việc làm Hải Phòng. Trung bình hàng tháng, trung tâm tổ chức ba phiên giao dịch việc làm miễn phí tại trung tâm, mỗi phiên giao dịch việc làm thu hút từ 30 đến 40 doanh nghiệp, đơn vị tham gia tuyển dụng lao động trực tiếp. Mỗi năm trung tâm tổ chức 5 đến 7 phiên Sàn việc làm lưu động tại các quận, huyện xa trung tâm thành phố với mong muốn mang cơ hội việc làm tốt nhất cũng như thông tin thị trường lao động đến với mọi người lao động và doanh nghiệp. Đến với các Ngày hội việc làm tại Hải Phòng cũng là một cơ hội lớn để các doanh nghiệp và người lao động kết nối trong việc giới thiệu và tìm việc làm. Ngày hội việc làm tại Hải Phòng thường được tổ chức tại Cung văn hóa hữu nghị Việt – Tiệp, trường Đại học Hàng Hải, trường Đại học Hải Phòng… Vào mỗi dịp tổ chức, có sự tham gia của 20 đến 30 doanh nghiệp với hơn chục nghìn vị trí việc làm có nhu cầu tuyển dụng. 41 2. Tìm việc làm ở Hải Phòng Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng 4.0 ngày càng phát triển các nhà doanh nghiệp chủ yếu dựa vào mạng xã hội và các trang website để đăng tin tuyển dụng. Qua kênh thông tin này, quá trình kết nối giữa nhà tuyển dụng và người tìm việc được thuận tiện hơn rất nhiều. Người lao động có thể tìm kiếm trên các trang facebook qua các từ khóa: “Việc làm Hải Phòng”; “Việc làm Hải Phòng cho sinh viên”; “Việc làm Hải Phòng thông tin tuyển dụng”; “Tuyển dụng Hải Phòng”.


42 Bên cạnh đó là các trang web hỗ trợ tìm kiếm việc làm uy tín, chất lượng như website tuyendunghaiphong.vn; haiphongjob.vn; topcv; work247.vn … Thông qua các trang web người lao động có thể nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp hoặc có thể ứng tuyển trực tuyến bằng cách điền các thông tin của bản thân hoặc nộp hồ sơ để gửi đến nhà tuyển dụng, đây là cách ứng tuyển rất tiện lợi và dễ dàng nhất, 80% các công ty, doanh nghiệp, tổ chức tại Hải Phòng thường xuyên đăng tin tuyển dụng trên các website online chuyên cung cấp tin việc làm và nhân sự trực tuyến. Hàng năm, hàng chục nghìn lao động ở Hải Phòng đã tìm được việc làm qua hỗ trợ của các website tuyển dụng. Với thị trường việc làm đa dạng như hiện nay, cùng với những chính sách ưu đãi của các doanh nghiệp, tạo điều kiện rất lớn cho người lao động ở Hải Phòng có thể tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng, đáp ứng được yêu cầu nâng cao thu nhập và mức sống….Hải Phòng đóng vai trò là một thị trường việc làm nhiều triển vọng và là mục tiêu của nhiều ứng viên trong quá trình tìm kiếm sự nghiệp cho riêng mình. III. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM. Để phát triển thị trường lao động và việc làm của địa phương, thành phố Hải Phòng đã ban hành một loạt các chủ trương, giải pháp đồng bộ: Thứ nhất: Cải cách thủ tục hành chính, giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư. Thứ hai: Phát triển và nâng cao chất lượng nhân lực tại chỗ thông qua hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Thứ ba: Đẩy nhanh chuyển đổi số, triển khai cập nhật cơ sở dữ liệu cung, cầu lao động trên địa bàn thành phố Hải Phòng để thu thập thông tin cơ bản, chính xác về thực trạng lao động, việc làm, thất nghiệp của người lao động; xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động. Thứ tư: Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, kết nối giữa Hải Phòng với các tỉnh lân cận như: Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh... nhằm tạo điều kiện giúp người lao động đi lại thuận tiện, dễ dàng hơn.


43 Thứ năm: Xây dựng và phát triển nhà ở thu nhập thấp và ký túc cho công nhân, quan tâm đời sống và bảo đảm việc làm cho người lao động. Thứ sáu: Đẩy mạnh thông tin về thị trường lao động, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận thông tin nhanh nhất. Tổ chức có hiệu quả hoạt động Ngày hội việc làm và phát huy vai trò của Trung tâm Dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố. 1. Em đồng tình hay không đồng tình với các quan điểm sau? Vì sao? a. Người lao động ở Hải Phòng khó tìm việc làm. b. Hải Phòng đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. c. Việc làm ở Hải Phòng chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu tìm việc của người lao động ở địa phương. d. Thị trường việc làm ở Hải Phòng đa dạng các ngành nghề. e. Đào tạo nguồn nhân lực của các trường Cao đẳng và Đại học ở Hải Phòng cần gắn với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp địa phương. f. Bên cạnh việc làm chính, người lao động ở Hải Phòng khó có thể tìm được việc làm thêm.


44 2. Em hãy đọc thông tin sau và cho biết: Xu hướng thị trường việc làm và tuyển dụng lao động ở Hải Phòng. Định hướng phát triển kinh tế đến năm 2025 của thành phố Hải Phòng là chú trọng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng phát triển 3 trụ cột chủ yếu: công nghiệp công nghệ cao, cảng biển - logistics, du lịch - thương mại. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng tập trung phát triển công nghiệp mũi nhọn như: công nghiệp ô tô, chế tạo máy, điện tử tin học và các sản phẩm công nghệ cao... Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm cảng biển, dịch vụ logistics trọng điểm quốc gia và quốc tế, phát triển du lịch và thương mại trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đưa Hải Phòng trở thành trung tâm du lịch quốc tế. 3. Em hãy đọc thông tin sau và cho biết cơ hội việc làm cũng như những hành trang mà học sinh, sinh viên Hải Phòng cần trang bị để tham gia vào thị trường lao động. Thông tin 1 Việc ký kết hợp tác giữa các doanh nghiệp FDI với các cơ sở giáo dục đào tạo, dưới sự chủ trì kết nối của Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng đã đặt nền móng thúc đẩy chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Hải Phòng, lấy trọng tâm là nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và nguồn cung lao động là các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp trên địa bàn thành phố. Hải Phòng hiện đang có hơn 110 nghìn lao động đang làm việc tại các Khu kinh tế, Khu công nghiệp, theo yêu cầu phát triển đến năm 2025, thành phố cần hơn 300 nghìn lao động có tay nghề cao, trình độ ngoại ngữ tốt để cung cấp cho các Khu kinh tế, Khu công nghiệp. Muốn vậy, việc đào tạo sớm, đào tạo đúng ngành nghề lĩnh vực là rất quan trọng. Doanh nghiệp sẽ có nguồn lao động dồi dào, có trình độ ngoại ngữ, chuyên môn kỹ thuật tốt, không phải tuyển dụng ở nơi khác hoặc đào tạo từ đầu, đào tạo lại. Thành phố sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Sau lễ ký kết, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo, phân luồng học sinh ngay từ các cấp học, tăng cường hỗ trợ các trường về chuyên môn, chương trình giảng dạy, công tác tuyển sinh. Doanh nghiệp FDI sẽ hỗ trợ bằng hình thức tài trợ các chương trình giảng dạy thí điểm về ngoại ngữ như tiếng Hàn, Nhật, Trung ngay tại các cấp học. Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng sẽ đề xuất với thành phố về chính sách cho đào tạo nguồn nhân lực kỹ sư và công nhân có chất lượng. Theo Kết nối doanh nghiệp FDI với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn thành phố,


45 “Ngày hội việc làm 2022” có hơn 30 doanh nghiệp tham gia tuyển dụng. Trong đó nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lớn như: Regina Miracle, Pegatron, LG Display, LG… Tổng nhu cầu tuyển dụng hơn 20 nghìn vị trí việc làm trống trong các lĩnh vực sản xuất da giầy, may mặc, điện, điện tử, cơ khí, kĩ thuật, kinh doanh, bán hàng, kế toán, văn phòng, công nhân …Tham gia “Ngày hội việc làm 2022” các bạn sinh viên, thanh niên, người lao động trên địa bàn thành phố có cơ hội tìm hiểu, phỏng vấn các vị trí việc làm trực tiếp với các đơn vị tuyển dụng. Các doanh nghiệp tham gia tuyển dụng tại ngày hội việc làm là các doanh nghiệp có uy tín, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có chính sách tiền lương và có chế độ phúc lợi tốt, có nhu cầu tuyển dụng số lượng lớn và nhiều vị trí việc làm hấp dẫn nên mang lại tâm lí háo hức vui vẻ tin tưởng cho các ứng viên. Bên cạnh thị trường việc làm trong nước các bạn sinh viên và người lao động còn có cơ hội tìm hiểu, lựa chọn các thị trường làm việc nước ngoài như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…với mức lương hấp dẫn. (Theo , Ngày hội việc làm năm 2022 trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, ) Thông tin 2 1. Định hướng lựa chọn việc làm sau này của em là gì? Hãy viết bài kể về trải nghiệm của bản thân trong việc tìm việc làm trên các trang mạng xã hội. 2. Hãy tìm hiểu và viết một bài giới thiệu về Ngày hội việc làm ở địa phương.


Mục tiêu: 5 Chủ đề VẤN ĐỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM Ở HẢI PHÒNG H ải Phòng là một trong những địa phương có rất nhiều loại thực phẩm cung ứng không chỉ cho người tiêu dùng trên địa bàn thành phố mà còn cung ứng trong cả nước như: nước mắm, các loại thủy hải sản tươi sống, đông lạnh và khô… Vì vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố là một trong những vấn đề cần được quan tâm đúng mức. “Năm 2022, các đoàn thanh tra, kiểm tra của Hải Phòng đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 12.205 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống, trong đó có 9.939 cơ sở đạt yêu cầu, đạt tỷ lệ 81,4%; có 144 cơ sở vi phạm bị xử lý với số tiền xử phạt là 897.500.000 đồng.” 46 I. CÔNG TÁC AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TẠI HẢI PHÒNG Để đảm bảo yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm cần có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan tới thực phẩm như: nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế và người tiêu dùng.


Loại hình cơ sở thực phẩm Tổng số cơ sở Số CS được thanh, kiểm tra Số cơ sở đạt (*) Sản xuất Kinh doanh (**) KD DVAU (***) Tổng số 7.752 5.591 10.115 23.458 1.707 4.267 6.231 12.205 1.455 3.465 5.019 9.939 Tỷ lệ % đạt 85,2 81,2 80,5 81,4 Nội dung vi phạm (Không đảm bảo ATVSTP) Số cơ sở được kiểm tra Số cơ sở không đạt Số lượng 6.411 6.361 6.937 964 181 2.478 3.862 3.315 433 824 761 940 139 5 413 509 551 57 Tỷ lệ % Bảng 1: Kết quả kiểm tra công tác bảo đảm ATVSTP tại các cơ sở sản xuất kinh doanh năm 2021 TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Điều kiện cơ sở Điều kiện trang thiết bị dụng cụ Điều kiện về con người Ghi nhãn thực phẩm Chất lượng sản phẩm thực phẩm (mẫu kiểm nghiệm) Quy trình chế biến Bảo quản Nguồn gốc nguyên liệu, phụ gia thực phẩm Lưu mẫu thức ăn 47 Bảng 2: Kết quả kiểm tra công tác đảm bảo ATVSTP tại các cơ sở sản xuất kinh doanh năm 2022 1 Thực trạng vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) tại Hải Phòng Thời gian qua, các cấp, các ngành đã tiến hành kiểm tra công tác đảm bảo ATVSTP tại các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn thành phố. Kết quả kiểm tra cụ thể trong một số năm gần đây đối với một số nội dung được thể hiện ở các bảng số liệu sau: 12,85% 11,96% 13,48% 14,42% 2,76% 16,67% 13,18% 16,62% 13,16%


Tỷ lệ % đạt Loại xét nghiệm Thử nhanh tinh bột Thử clo dư trong nước Hoá lý Vi sinh Tổng số XN tại Labo Năm 2020 TS mẫu Tỉ lệ % KĐ 1. Xét nghiệm nhanh 2. Xét nghiệm tại Labo Số mẫu KĐ Năm 2021 Năm 2022 TS mẫu Tỉ lệ % KĐ Số mẫu KĐ TS mẫu Tỉ lệ % KĐ Số mẫu KĐ Ngoài ra, qua kiểm tra năm 2022 toàn thành phố có 916 cơ sở giết mổ gia súc nhỏ lẻ. Phần lớn các cơ sở này tự phát, không đăng ký kinh doanh, cơ sở vật chất không đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y, ATVSTP, không có hệ thống thu gom, xử lý chất thải và nước thải gây ô nhiễm. Năm Số vụ Số người mắc Tử vong 2017 2018 2019 2020 2021 2022 Tìm hiểu thông tin thực tế, thực hiện báo cáo về thực trạng ATVSTP ở địa phương theo các nội dung tương tự từ bảng 1 đến bảng 4. Bảng 3: Kết quả kiểm nghiệm mẫu thực phẩm của các đoàn thanh tra, kiểm tra thành phố từ năm 2020 đến năm 2022 Bảng 4: Tình hình về số vụ ngộ độc thực phẩm trong 5 năm từ năm 2017-2022 5 247 0 2 47 0 0 0 0 2 61 0 3 90 0 0 0 0 4.048 552 141 34 175 279 11 4 4 8 4.060 265 92 17 109 466 11 2 0 2 5.533 422 92 27 119 710 10 2 0 2 48 6,89 1,99 2,83 11,77 4,57 11,48 4,15 2,17 0 1,83 12,83 2,37 2,17 0 1,68


2 Tình hình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng Năm 2022, trên địa bàn thành phố có nhiều loại hình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm được ghi nhận thông qua biểu đồ sau: Hải Phòng có đầy đủ các loại hình sản xuất, kinh doanh chế biến thực phẩm. Con đường thực phẩm đến tay người tiêu dùng trải qua các giai đoạn sau: II. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT AN TOÀN THỰC PHẨM Nguy cơ từ thực phẩm đối với sức khỏe con người có thể đến từ các mối nguy mang bản chất sinh học, hóa học hoặc vật lý. Một nguyên tắc then chốt để giảm bệnh tật từ thực phẩm và củng cố các hệ thống an toàn thực phẩm là phân tích nguy cơ. Người tiêu dùng Nuôi trồng/ sản xuất Chế biến Cung ứng Sơ đồ 1: Con đường thực phẩm đến tay người tiêu dùng Hình 5.1. Tình hình sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm ở thành phố Hải Phòng năm 2022 12000 10000 8000 6000 4000 2000 Số cơ sở Sản xuất nông, lâm thuỷ sản Chế biến thực phẩm Giết mổ gia súc, gia cầm Kinh doanh dịch vụ thực phẩm Kinh doanh dịch vụ ăn uống Kinh doanh dịch vụ ăn uống nhỏ lẻ và đường phố Loại hình sản xuất kinh doanh 49


Click to View FlipBook Version