Khát vọng sống
nguyễn cảnh bình
SINH NĂM 1972: KHÁT VỌNG SỐNG
Bản quyền © Nguyễn Cảnh Bình, 2021
SỐNG - Thành viên của Alpha Publishing Group.
Sống ra đời với mong muốn xuất bản những cuốn sách phản ánh hơi thở đời sống, tinh thần tự do,
khát vọng mãnh liệt của người Việt. Ngoài các mảng sách Truyền cảm hứng, Hồi ký - Tự truyện, Theo
dòng sự kiện, Sống tiếp tục mở rộng tầm nhìn và sứ mệnh của mình, vươn ra tiếp cận tri thức thế giới
với những mảng nội dung thường thức mà người đọc Việt chưa được tiếp cận nhiều như Âm nhạc,
Nghệ thuật, Tâm lý... Sống - Mãnh liệt khát vọng Việt
Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát hành dưới bất kỳ hình thức
hoặc phương tiện nào mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Cổ phần Văn hóa
Truyền thông Sống. Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả
để sách ngày càng hoàn thiện hơn.
Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch: [email protected]
Liên hệ ebooks, hợp tác xuất bản & truyền thông: [email protected]
Liên hệ dịch vụ tư vấn, đại diện & giao dịch bản quyền: [email protected]
2-
Nguyễn Cảnh Bình
Khát vọng sống
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
nguyễn cảnh bình
ĐỘI NGŨ TRIỂN KHAI SỐNG
Phụ trách xuất bản: Lý Hồng Điệp
Điều phối viên: Lý Hồng Điệp
Thiết kế bìa: Mạnh Cường
Trình bày: Vũ Lê Thư
Thư ký xuất bản: Kim Khuyên
ĐƠN VỊ HỢP TÁC TRUYỀN THÔNG
TRẠM ĐỌC
https://www.facebook.com/tramdocvn
website: http://tramdoc.vn/
4-
Tôi kính tặng cuốn sách này cho cha và mẹ tôi, ông Nguyễn Cảnh
Thứ và bà Nguyễn Thị Thu Hường, những người chịu đựng nỗi vất
vả và hy sinh cho tôi nhiều nhất, những người giúp tôi có nghị lực
sống để trở thành một con người mạnh mẽ và kiên cường.
Tặng con gái tôi, cháu Nguyễn Ngọc Bình Minh và gửi tặng bạn bè
tôi về những gì chúng ta đã và đang sống với tất cả mơ ước, hy vọng,
niềm vui, với cả những nỗi buồn, những khoảnh khắc cô đơn hay
thất vọng tràn trề.
Cám ơn tất cả mọi người.
Mục lục
Lời tác giả 11
Mở đầu 15
01
THỜI THƠ ẤU
Một đứa trẻ ít nói, lầm lì, cục tính 20 29
Lớn khôn từ cái nghèo 27
Tuổi thơ hồn nhiên, bình yên nhưng cũng thiệt thòi, vất vả
Bầu bạn cùng sách vở 35
Đổi thay - Suy nghĩ về cuộc sống và tiền bạc 44
Ngoài vũ trụ bao la và mênh mông
vẫn còn có vật chất 53
Bài viết của Trí và nền giáo dục 61
Lại trở thành học sinh đặc biệt của trường! 67
Giấc mơ khoa học dang dở 73
“Hà Nội trong mắt ai” và “Người tử tế” 81
Quốc hội 8A - Những ước mơ trai trẻ 86
02
NHỮNG THÁNG NGÀY BẠC NHƯỢC
Đường vào đại học và sự thất bại
của kẻ đi ngược chiều 92
Bài văn lạ “Đời sinh viên”
và những tháng ngày trống rỗng 100
-7
Trốn học và lang thang 106
Kiếm tiền thật vất vả 111
Chỉ là một viên gạch nữa trên bức tường mà thôi! 115
Nhận giấy dừng học ở trường Bách Khoa 122
Ý nghĩa cuộc sống 126
Suy nghĩ về thế hệ chúng tôi 128
03
CHẶNG ĐƯỜNG ĐẾN VỚI TỰ DO
Những ngày tháng tự do 136
Làm việc ở Petrolimex 141
Tự rèn luyện kỹ năng mềm, không cần ai chỉ bảo 144
Những chuyến đi thực tiễn 149
Internet - Chân trời tri thức 155
Tập tành viết lách 166
Đoàn thanh niên sôi nổi 175
Nghịch lý trong công việc 182
Quyết tâm rời bỏ nghiên cứu khoa học 189
Bị kỷ luật 195
Con đường mới dưới chân ta 198
04
KHÔNG THỂ TỪ BỎ ĐAM MÊ
Sống không có tiền thật vất vả 205
Cuộc hội ngộ tri thức 211
Tại sao tôi biên soạn cuốn Hiến pháp Mỹ? 218
Những nỗ lực lẻ loi, nhóm C&G và Học bổng cho sinh viên
ngành Luật Hiến pháp 228
Thành công và thất bại chỉ cách nhau một gang tấc mà thôi 236
05 252
ALPHA BOOKS
Kinh doanh bất động sản và bán ô tô 246
Lại thất bại trên hành trình theo đuổi học tập ở nước ngoài
8-
Sa cơ lỡ vận, và rồi quyết định làm sách 256
Thành lập Alpha Books, và làm sách quản trị kinh doanh 264
Bên bờ vực phá sản và đóng cửa 273
Tủ sách tinh hoa nhân loại 277
Tranh cãi, chia tay, dù thế nào vẫn cứ tiến lên 287
Từ Henry Ford đến Alpha Culture 291
15 ngày với cuốn sách Steve Jobs và Quốc gia Khởi nghiệp 297
Sách, những câu chuyện bếp núc và gian khó của việc kinh doanh 301
Ý nghĩa của tiền bạc, và vì sao chúng ta cần kinh doanh? 309
06
NHỮNG CHUYẾN ĐI
Ứng cử Đại biểu Quốc hội 313
Tham gia đóng góp ý kiến về Hiến pháp 325
Nghiên cứu về Giáo dục 328
Những chuyến đi, những con người, những vùng đất 334
Châu Âu: cái nôi văn hóa của nhân loại 341
Thăm các nước Á châu 349
Những chuyến đi trong nước 354
Những bản thảo vẫn còn trong tủ 358
07
HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
Ông tôi, bố tôi, tôi và tuổi gần 50 371
Hai mục đích lớn trong cuộc đời 376
Hệ sinh thái tri thức 384
Viện lãnh đạo ABG 399
Những dự định ấp ủ 409
Xe đạp, Trại Muỗi và nông nghiệp 414
Lời kết 417
-9
Tôi rất biết ơn những người
đã nói không với tôi. Nhờ vậy mà tôi biết
cách tự mình giải quyết sự việc
- Einstien -
10 -
Lời tác giả
Hơn năm năm trước, khi bắt tay viết cuốn sách, tôi không
nghĩ việc này lại khiến tôi mất nhiều thời gian đến thế. Tưởng chừng
đơn giản, nhưng cho đến khi hoàn tất những dòng cuối cùng, tôi
vẫn đầy đắn đo, băn khoăn, chần chừ bởi không cảm thấy hài lòng
với những gì mình viết, và cả những chuyện không thể được viết
ra. Là người đọc hàng ngàn cuốn sách, cũng giúp cho nhiều người
viết sách và xuất bản nhưng đến lượt mình, đến câu chuyện của bản
thân, tôi lại thấy thật khó khăn. Đến mức mỗi lần đọc lại, mỗi lần
định đưa đi in, tôi lại đầy day dứt, suy tư.
Bản thảo này đã trải qua nhiều lần dừng lại giữa chừng mà thật
khó hoàn tất. Tôi đã không đủ tập trung, không dành đủ thời gian, đủ
tâm trí và đôi khi không đủ cả sự dũng cảm cần thiết bởi còn rất nhiều
điều tôi thấy không hài lòng với mình. Còn rất nhiều chuyện tôi không
biết có nên kể ra không, hay nên kể thế nào, nên kể đến mức độ nào và
thật khó có thể kể chính xác, chân thật mọi chuyện.
Nhiều năm trước, khi bắt tay viết cuốn Tự truyện này, ban
đầu, dự định của tôi chỉ là kể lại những chuyện xảy ra trong cuộc đời
như để chiêm nghiệm lại những chuyện đã qua, những gì tôi trải
nghiệm với Alpha Books, với việc đọc sách, việc kinh doanh, xã hội,
con người, bạn bè. Nhưng rồi cuốn sách đã được mở rộng ra cả về
những kỷ niệm thời gian khó và thấp thoáng câu chuyện của những
- 11
nguyễn cảnh bình
người bạn đồng trang lứa. Rồi tôi lại thấy cần viết cả về dự định tôi
muốn làm trong những năm tháng tiếp theo…
Tôi muốn viết đúng về mình hết mức có thể như một bản mô
tả chân dung con người xù xì, thô ráp, đầy những vết sẹo trong suy
nghĩ, về những gì tôi đã sống, về những thời điểm bạc nhược và thất
bại cay đắng, cả những tranh đấu và niềm vui, niềm hy vọng trong
cuộc đời, dù rằng, đôi khi tôi ước mình có thể trở thành một người
mềm mại, nhẹ nhàng hơn.
Chắc chắn tôi không thể viết tất cả, nhớ được chính xác tất cả
những gì xảy ra với mình và những biến chuyển của xã hội, của bạn
bè… Nhưng tôi rất hy vọng rồi có một ngày nào đó, một ngày đẹp
trời như chúng ta vẫn thường nói, tôi có thể viết tất cả, thành thật
mà không cần che giấu hay xóa bỏ điều gì. Do thời gian, trí nhớ và
cả góc nhìn nên hẳn những gì tôi viết không tránh khỏi nhiều điểm
không hoàn toàn chính xác. Có thể ở góc nhìn khác, ai đó có thông
tin đúng hơn về những điều tôi kể. Vì thế, xin được lượng tất cho
những nhầm lẫn và sai sót mà có thể tôi viết ở đây. Những suy nghĩ
và hành động của tôi cũng khó có thể nói là đại diện cho cả thế hệ
vì nhiều người bạn tôi có cuộc sống, cách nhìn nhận và suy nghĩ rất
khác với tôi. Tôi chọn tên cuốn sách là “Sinh năm 1972” cho tôi và
bạn bè, và chọn tên Khát vọng Sống cho chính mình, bởi tôi yêu Van
Gogh, yêu cuộc đời ông, yêu cuốn sách Khát vọng Sống của Irving
Stone đầy quyến rũ mà tôi đọc suốt thời thơ ấu.
Cuối cùng, tôi cám ơn nhiều người đã giúp tôi hoàn thiện cuốn
sách này, Lý Hồng Điệp, Nông Bích Vân và Trần Lan Hương đã
giúp chỉnh sửa, hoàn thiện cuốn sách. Và tôi muốn gửi lời cám ơn
đến những người bạn thời thơ ấu: Mai Hải Lâm, Nguyễn Thanh
Giang, Trần Thu Quỳnh, Nguyễn Thanh Huyền, Lê Huy Hòa, Đặng
Huỳnh Nga, Bạch Quốc Thắng, Vũ Hồng Cương, Nguyễn Phú An,
Hoàng Việt Cường, Lê Cảnh Toàn và nhiều người bạn khác. Họ đã
12 -
sinh năm 1972
kể cho tôi nghe câu chuyện của họ, và đó cũng là câu chuyện của tất
cả chúng tôi, lứa sinh năm 1972.
Tôi cũng muốn cám ơn anh Trần Đoàn Lâm và NXB Thế Giới,
đã giúp tôi hoàn thành việc xuất bản cuốn sách này. Cuốn sách đầu
tay của tôi “Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào?” được xuất bản
ở đây nên cuốn tự truyện cuộc đời mình này, tôi cũng muốn vậy.
Cám ơn những đồng nghiệp ở Alpha Books, ở Viện lãnh đạo ABG,
ở NXB Tri thức, Nhóm dịch Trẻ và ở Petrolimex và các tổ chức tôi
từng làm việc, và những độc giả, những người bạn mà nhiều trong
số đó tôi vẫn trò chuyện trên mạng dù chưa gặp mặt.
Hãy tha thứ nếu những gì tôi viết không đúng, và cả những gì
tôi không thể viết ra. Một ngày nào đó, có thể sẽ có một phiên bản
“Sinh năm 1972” gần với sự thật hơn, đúng với chính con người
tôi hơn.
Cám ơn tất cả các bạn.
Tháng 8 năm 2021
NGUYỄN CẢNH BÌNH
- 13
Cuộc sống mạnh hơn hay
cái chết mạnh hơn?
Cuộc sống, bởi vì cuộc sống phải
chịu nhiều cay đắng hơn”
- Plutarch -
Mở đầu
Với tôi, quyết định rời khỏi Petrolimex rồi thành lập Alpha
Books chắc chắn là quyết định quan trọng nhất cuộc đời. Chính
quyết định này đã dẫn tôi đến với bầu trời tri thức và trí tuệ, từ đó
giúp tôi có cơ hội được gặp gỡ những con người, những nhân vật
tuyệt vời. Rồi tôi được trưởng thành, và hơn hết được sống và làm
việc với những mơ ước, dự định và ý tưởng của mình.
Những ngày tháng đó, nhiều tháng trời, không, phải là nhiều
năm trời, tôi băn khoăn mãi về con đường mình sẽ đi, những gì
mình sẽ làm. Tôi biết rằng tôi phải rời khỏi Petrolimex, đó không
phải nơi giúp tôi thực hiện ước mơ, dự định của mình. Suốt những
năm tháng cấp Ba, rồi đại học, chìm đắm trong những cuốn sách,
chìm trong ý tưởng có phần viển vông, và rồi sau này sống với
những câu chuyện về những nhân vật lịch sử Việt Nam và những
tư tưởng như Fukuzawa Yukichi, Alexander Hamilton, James
Madison, Thomas Jefferson, hay câu chuyện về nền văn minh Hy
Lạp, La Mã cổ đại, rồi chịu ảnh hưởng bởi những cuốn sách cũ tôi
đọc được khi sống ở Sài Gòn, về đất nước, con người Việt Nam,
chúng thôi thúc tôi cất bước, thôi thúc tôi hành động. Tôi không
biết đích xác tôi sẽ làm gì, nhưng tôi tin rằng đó sẽ phải là thứ gắn
với tri thức, với thế giới, với bầu trời văn minh, với những điều
có ý nghĩa lớn lao.
- 15
nguyễn cảnh bình
Đầu năm 2002, tôi viết thư cho Mai Hải Lâm và ghi trong Nhật
ký Quốc hội 8A: “Đã đến lúc tao phải rời khỏi đây để theo đuổi
những gì tao mong muốn. Dù biết như vậy và chẳng có gì lớn lao
nhưng rời khỏi một nơi đã gắn bó tới bảy năm, với biết bao kỷ niệm
của những ngày trẻ đầy say mê, nên dẫu sao tâm trạng tao mấy hôm
nay cũng cảm thấy bùi ngùi, xao động. Thế là từ ngày mai, tao sẽ là
một con người tự do, được tự do theo đuổi những gì tao muốn. Phía
trước là Bầu trời!”
Dù viết cứng cỏi như vậy, cùng với nhiều năm sống đầy cá tính
thời phổ thông và vượt qua những trở ngại thời đại học, tôi cũng
không hình dung được trong những năm tháng sau này tôi lại có
nhiều thời khắc khó khăn, vất vả và cả những khoảnh khắc hoang
mang đến thế: Những xung đột nặng nề với đồng nghiệp, với bạn
hữu, với đối tác; những thách thức trên hành trình theo đuổi các giá
trị và mục tiêu, những ngày tháng cô đơn thậm chí cô độc do tính
cách cứng cỏi của mình.
Gần hai mươi năm qua đi, tôi đã trải qua rất nhiều biến động và
thăng trầm của công việc kinh doanh, qua những trục trặc của việc
quản trị, qua những nỗi buồn phiền và trăn trở với công việc xuất
bản, khi hiểu và trò chuyện với các tác giả, khi cảm nhận tâm sự của
họ qua từng trang sách. Có những ngày tháng đầy khó khăn trong
hành trình dài, những thời điểm bán sách rất chậm, chất đầy ắp
kho, có những khoảnh khắc đầy bế tắc. Nhưng cùng với đó là niềm
vui gặp gỡ độc giả, gặp gỡ bạn bè và hơn hết là niềm vui được đọc
những trang sách, những ý tưởng tuyệt vời, những kiến thức mới
mẻ đầy hấp dẫn. Tôi từng nói, có những cuốn sách khi đọc chúng,
tôi như thể đang được trò chuyện với các tác giả vậy..
Mãi sau này, nhiều lần tôi tự đặt ra câu hỏi cho mình, như một
cổ đông từng chất vấn tôi, chúng ta lập công ty là để kiếm tiền, kinh
doanh vì lợi nhuận, chứ không phải theo đuổi lý tưởng. Có thật vậy
16 -
sinh năm 1972
không? Không! Tôi không nghĩ thế. Nếu chỉ để kiếm tiền tại sao tôi
lại rời khỏi Petrolimex? Nếu chỉ để làm giàu tại sao tôi từ bỏ việc
kinh doanh ô tô, bất động sản?
Có những khát vọng không ngừng cháy trong tôi. Những dự
định & ý tưởng mới cần làm đó luôn thôi thúc trái tim, khối óc tôi
mỗi ngày. Tôi muốn làm nhiều điều cho bản thân, cho gia đình, xã
hội. Và như Van Gogh từng vẽ chiếc ghế mòn vẹt đi, bởi đó là chiếc
ghế hữu ích nhất, tôi muốn sống với những gì tốt đẹp nhất và ý
nghĩa nhất như thế.
Viết trên chuyến bay đêm từ Sài Gòn ra Hà Nội.
Ngày 15/1/2021
- 17
Nếu bạn không thích cái gì đó,
hãy thay đổi nó. Nếu bạn không thể thay
đổi nó, hãy thay đổi thái độ của bạn
- Maya Angelou -
01
Thời thơ ấu
Một đứa trẻ ít nói,
lầm lì, cục tính
Tôi cất tiếng khóc chào đời vào tối ngày 18 tháng Tám năm
1972 tại trạm xá làng Xuân La thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đó
là năm máy bay Mỹ ném bom Hà Nội, mọi gia đình đều phải đi sơ
tán, rời thủ đô về vùng nông thôn. Bố tôi làm việc ở Công trường 2
(một đơn vị của Cục Quân báo, nay là Tổng cục Tình báo, Bộ Quốc
phòng) ở Xuân La nên cả nhà tôi, lúc bấy giờ đang sống trong một
căn phòng nhỏ hẹp chỉ chừng 10m2 trong ngõ 2 của Phố Giảng Võ,
(ngay cạnh Đền thờ Phùng Hưng bây giờ, phía sau bến xe Kim Mã),
chuyển về làng Xuân Đỉnh ở nhờ nhà một người dân trong làng.
Những người dân làng quê như bà Tý, bà Hành ở thôn Đông làng
Xuân Đỉnh đã bao bọc, giúp đỡ gia đình tôi trong những ngày tháng
chiến tranh bom đạn gian khó ấy.
Với tôi, làng Xuân Đỉnh, nơi tôi được sinh ra và nuôi dưỡng
suốt những năm tháng đầu đời thân thuộc như thể quê nhà vậy.
Khi học cấp một, cấp hai, cứ một hai tháng, vào chủ nhật tôi lại
được bố cho về Xuân Đỉnh thăm người làng. Sau này, hằng năm
tôi vẫn đưa bố mẹ về thăm lại Xuân Đỉnh, nơi trồng nhiều hồng
xiêm và có nghề làm bánh kẹo. Khi về thăm làng, mọi người vẫn
gọi đùa tôi là “trai Xuân Đỉnh”! Giờ đây, Xuân Đỉnh không còn là
20 -
sinh năm 1972
ngôi làng nữa, nó đã trở thành đô thị hiện đại với những tòa nhà
Ngoại giao đoàn rất đẹp.
Suốt ba tháng từ khi chào đời, tôi thường khóc rất to, khóc
không ngừng nghỉ, chỉ trừ khi ngủ im lặng còn cứ tỉnh dậy, mở mắt
ra là khóc, dỗ thế nào cũng không nín. Mọi người bảo đó là khóc dạ
đề nên mách bố tôi đi tìm nhiều thầy lang, nhiều bài thuốc nam về
chữa. Lại có người khuyên đặt con dao lên đầu giường trừ ma quỷ,
rồi bố mẹ tôi tìm đủ mọi cách nhưng tôi vẫn không hết khóc. Một
trăm ngày đầu đời, tôi cứ khóc váng lên, có lẽ nhờ vậy mà họng tôi
sau này khỏe, nói rất to cũng nên.
Tôi sinh ra trong một dòng họ có truyền thống, từ bé đã quen
với nếp gia phong nghiêm khắc. Ông nội tôi là người rất khó tính
và nói nhiều đến mức cả nhà, các cô chú ai cũng sợ ông. Sau này tôi
chịu ảnh hưởng nhiều từ tính cách này, đó là sự gia trưởng, khó
tính, khắt khe, nghiêm nghị, cục tính...
Cái cảm giác thích thú và yên bình thuở bé trước gia cảnh, nếp
nhà của ông bà nội ở Đô Lương vẫn in sâu trong tôi. Vì là cháu đích
tôn nên suốt những năm tháng ấu thơ, cứ đến tết bố lại đưa tôi về
quê. Chừng 27-28 Tết, bố con tôi ra ga Hàng Cỏ đón chiếc tàu hỏa
chạy xình xịch chậm chạp và chật chội. Có những lần bố con tôi
phải ngồi trên sàn tàu chứa đầy đồ đạc lỉnh kỉnh, lợn gà nhếch nhác,
hoặc đi nhờ xe đơn vị quân đội về ngã ba Diễn Châu rồi chờ bắt xe
tải để trèo lên ngồi trên thùng xe về Đô Lương. Khi về quê, ông nội
hay dẫn tôi đi chào hỏi các cụ, thăm nhà người này người kia, đến
các nhà thờ họ... Dù ngày ấy tôi không hiểu những truyền thống
và phong tục đó nhưng sau này, tôi thấy được giá trị và ý nghĩa của
chúng tác động nhiều đến suy nghĩ và hành động của tôi. Tôi tâm
niệm, điều quan trọng của một con người là được dạy dỗ và thấm
nhuần những giá trị làm người tốt đẹp. Khi còn nhỏ biết hiếu kính,
lớn lên biết sống có đạo lý, biết trên dưới, phải trái, trước sau.
- 21
nguyễn cảnh bình
Ngồi trên chiếc xe ngựa kéo hoặc trên thùng xe tải chạy theo
đường 7 về Đô Lương, tôi nhìn thấy những đám khói bay ra từ nóc
nhà, từ những căn bếp mái tranh, mái rạ thấp lè tè vào lúc trời chạng
vạng tối. Tiếng chó sủa inh ỏi vang khắp ngõ quê lúc đêm khuya khi
tôi được bố đưa đi thăm nhà họ hàng, bà con chòm xóm… Những ấn
tượng về quê hương làm tôi thấy thân thuộc với đồng quê. Nhờ thế,
tôi bắt đầu biết đến những câu chuyện lịch sử vùng đất và tổ tiên từ
khi nào không biết nữa.
Một điều thú vị khác là khi về quê, nhất là vào dịp nghỉ hè, tôi
có thời gian lục lọi trong nhà ông nội rồi tìm thấy khá nhiều sách.
Những buổi trưa hè, tôi thường nằm trên chiếc phản gỗ rộng mải
mê đọc, dù nhiều cuốn tôi không hiểu gì nhiều. Ngày đó, sách báo
rất ít ỏi, chẳng mấy nhà có nhưng thật may mắn vì chú ruột tôi
là chú Nguyễn Cảnh Định, cửa hàng trưởng cửa hàng sách ở phố
huyện Đô Lương, cả đời theo nghề phát hành sách nên trong nhà
cũng lưu giữ một ít sách để đọc1. Những ngày sát tết, tôi thường đi
theo chú tôi bán sách hay bán những câu đối ngày tết cho bà con
trong vùng xuống chợ Đô Lương. Cái hiệu sách tuyệt vời đó nhiều
năm nay đã trở thành cửa hàng Thế giới Di động và điều khiến tôi
rất thất vọng là khi về thăm nhà họ hàng, hầu như tôi không tìm
được cuốn sách nào… Những truyền thống và văn hóa của cả vùng
đất, của dòng họ tôi đã mất mát, mai một đi rất nhiều. Không còn
cảnh các cụ già chống gậy đi thăm nhau hoặc bàn những chuyện văn
hóa, lịch sử, địa phương và cả về đất nước nữa. Giờ đây, câu chuyện
trong mỗi lần gặp mặt chỉ là làm ăn, kiếm tiền, xây nhà, mua sắm.
Đó cũng là động lực thúc đẩy tôi phát triển các hoạt động văn hóa,
1. Bây giờ, con trai chú tôi là Nguyễn Cảnh Thạch cũng về Alpha Books phụ trách các hoạt động
xuất bản và phát hành sách ở thành phố Vinh giống hệt chú tôi ngày xưa. Âu đó cũng là duyên
và nghiệp.
22 -
sinh năm 1972
nói chuyện, tặng sách cho học sinh ở các trường cấp hai, cấp ba Đô
Lương nhiều năm nay.
Nhờ sự nghiêm khắc của ông tôi mà từ nề nếp trong nhà đến
khung cảnh vườn tược và nhà cửa đều ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ.
Nhưng sau khi ông mất, quang cảnh đó không còn giữ được nếp gia
giáo nữa. Ngay cả các cuộc họp họ hàng, các dịp lễ tết, giỗ chạp…
dù mâm quả, đồ cúng, đồ bày biện nhiều hơn xưa nhưng đã mất đi
vẻ trang nghiêm ngày nào. Ngày nhỏ, khi về quê, nhìn thấy nhà cửa
sạch sẽ, gọn gàng, dù là nhà gỗ ba gian thì với tôi cũng thật đẹp và
yên bình, còn nay cái gọi là nếp nhà dường như đã mờ nhạt dần,
biến đổi đi, trở nên khô cứng, xa lạ, vắng lặng, chẳng bao giờ còn
được như trước. Hồi nhỏ, tôi không hiểu về những việc này nhưng
khi trưởng thành, biết nhiều hơn, hiểu nhiều hơn, tôi mới cảm thấy
những điều ông nội tôi làm, những nề nếp, quy củ mà ông đặt ra rất
có ý nghĩa, ảnh hưởng nhiều tới con cháu.
Những sự nghiêm cẩn đó ăn sâu vào thói quen, tính cách, ngấm
dần vào tôi từ khi nào không biết nữa... Ở nhà tôi cũng vậy, bố tôi
rất nghiêm khắc và rèn giũa tôi trong mọi việc đều phải chỉn chu,
cẩn thận. Từ một chuyện đơn giản nhất là cây bút chì, ngày nhỏ tôi
luôn phải tự gọt bút bằng dao, chỉ gọt lệch chút thôi cũng bị nhắc
nhở. Vở viết phải xếp đặt ngăn nắp, bọc giấy phải đẹp, cẩn thận; xe
đạp, đôi dép đi phải được lau chùi… Trong gia đình, bàn ghế và giầy
dép phải để ngăn nắp, tôi về nhà mà vứt dép ngổn ngang là bị rầy la
ngay. Hay như sáng dậy, nếu chăn, gối, màn bừa bộn là bị quở trách.
Từ những chuyện nhỏ như thế, cứ chỉnh dần mọi tác phong, cách
thức khiến tôi cũng bị ảnh hưởng theo. Nhiều người cảm thấy tôi
rất khó tính, khắt khe cả trong công việc và với mọi người, nhưng
đó là ảnh hưởng từ truyền thống gia đình. Bây giờ khi làm việc,
những văn bản, email trình bày luộm thuộm, sai lệch đều khiến tôi
thật khó chịu và bực mình.
- 23
nguyễn cảnh bình
Càng trưởng thành, càng sống và làm việc, gặp gỡ và đi nhiều
hơn, tôi càng thấy rõ ý nghĩa, tác động của truyền thống, gia đình,
dòng họ, quê hương in đậm trong mỗi người. Không ai có thể
vươn lên thật cao, đạt được thành tựu mà tách rời khỏi quá khứ.
Họ được thừa hưởng (và cả gánh chịu) kết quả và truyền thống
gia đình, dòng họ dù có thể dần dần trở nên ít hơn. Nhưng số
phận của hầu hết chúng ta, con đường chúng ta đi, học vấn, nghề
nghiệp, tính cách, số phận… phần nào đó chịu ảnh hưởng từ cha
mẹ, ông bà và môi trường sống. Bao nhiêu câu chuyện, con người,
nhân vật quanh tôi đều như vậy. Xa hơn, những vĩ nhân như Van
Gogh, Beethoven, Gutenberg, anh em nhà Grimms – những người
tôi đã từng đến thăm nhà, quê hương, nơi họ sinh ra, hiểu về gia
đình, môi trường… đều chứng tỏ điều này. Tôi sẽ viết kỹ hơn ở
phần sau cuốn sách.
Trong cuộc sống, một phần tôi bị ảnh hưởng bởi gia đình bên
nội, bởi bố tôi và ông nội tôi, về truyền thống lễ giáo, Nho học, lịch
sử và truyền thống; nhưng tôi cũng chịu ảnh hưởng từ mẹ tôi. Mẹ
tôi là một người cứng cỏi, mạnh mẽ nên có lẽ sự phản ứng có phần
thái quá đối với những sự kiện, con người xung quanh của tôi có thể
bắt nguồn từ đó.
Họ ngoại tôi khác nhiều với bên nội. Nếu bên nội tôi nhiều đời
ở Đô Lương, với truyền thống hơn 600 năm đầy ắp những di tích,
sự tích, câu chuyện và nhân vật tổ tiên thì họ ngoại tôi, quê gốc ở
ngay làng Định Công, (xưa là ngoại thành Hà Nội, nay đã là phố rồi).
Ông ngoại tôi đi theo người chị họ vào Thanh Hóa mở đồn điền từ
nhỏ, rồi gặp bà ngoại tôi ở Thanh Hóa. Bà ngoại tôi gốc ở làng Cổ
Am, huyện Vĩnh Bảo, là làng của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
nhưng các cụ vào định cư ở làng Vạc, huyện Thiệu Hóa. Làng Vạc
xưa kia có tên là Cổ Đô, đây là một ngôi làng cổ nhiều di tích từ thời
24 -
sinh năm 1972
Lê, từng có câu tục ngữ “Làng Vạc ăn cỗ ông nghè; Làng Vận, làng
Chè kéo đá ông Đăng” vì là làng có người đỗ đạt, là đất nhà quan nên
dân làng không phải đi phu, đi lính…
Cả vùng đất này đều có lịch sử rất lâu đời. Gần đó là quê hương
của Dương Đình Nghệ. Tôi cũng từng đến thăm Đền thờ ông, tại
đây xưa kia ông nuôi tới ba nghìn con nuôi để mưu việc phục quốc.
Đó thực sự là câu chuyện truyền cảm hứng, cũng là một lối tư duy
chiến lược rất sâu sắc về việc phát triển con người. Gần quê ngoại
tôi chính là quê hương Bà Triệu, đứng từ nhà các cậu mợ hay nhà dì
tôi, nhìn xa xa qua cánh đồng lúa rộng mênh mông, có thể thấy rõ
Núi Nưa, nơi Bà Triệu khởi nghĩa…
Ông bà ngoại tôi xưa kia buôn bán thuốc lào và cũng là gia đình
khá giả trong vùng. Nhưng mẹ tôi vẫn kể lại câu chuyện nặng nề về
một người bác tức là anh trai bà ngoại tôi, chết trong cuộc cải cách
ruộng đất. Bi kịch xảy ra khi ông bị quy kết là địa chủ, rồi không
chịu được cảnh bức bách, ông chạy lên nhà bà tôi định nương nhờ,
nhưng rồi không biết bàn chuyện ra sao, có lẽ thấy rằng cũng không
thể thoát nên ông đi bộ cả đêm từ làng Sim về làng Vạc chừng 30km
rồi treo cổ tự vẫn ngay trong thềm nhà mình. Đó là những bi kịch
thật nặng nề với bên ngoại tôi..
Do cuộc sống thời bao cấp gian khó, mẹ tôi hay làm thêm kế
hoạch hai, kế hoạch ba, rồi đổi bobo lấy gạo của dân làng về cho con
cái; phải làm lụng vất vả nên tính cách mạnh mẽ, không cam chịu ở
mẹ tôi rất rõ ràng. Tôi chịu ảnh hưởng từ tính cách mẹ rất nhiều.
Lớn lên, tôi phản ứng thái quá với bất kỳ ai có thái độ, hành vi và lời
nói nghi ngờ về con người tôi. Tôi tranh cãi với đủ mọi loại người,
từ những bảo vệ kho than nghi tôi ăn trộm than năm lớp Năm, đến
những giáo viên dạy tôi, tranh cãi với mấy bác bảo vệ già trông xe,
cãi đám bảo vệ kho xăng dầu, cãi các sếp khi tôi đã đi làm... và bất
- 25
nguyễn cảnh bình
kể chuyện gì bất bình, không hợp lý. Sau này, bạn bè kể lại rằng hồi
đi học, họ thấy tôi là đứa khó gần, cục tính, dễ nổi nóng, nhưng có
lúc lại trầm ngâm như người già… nên trẻ con trong khu ngại chơi
cùng, còn tôi thường ở nhà chơi một mình.
Từ khi còn rất nhỏ tôi đã là một đứa trẻ không yên phận, không
dễ dàng chấp nhận những quy tắc hay sự áp đặt nào. Sâu bên trong,
tôi là đứa trẻ đầy sáng tạo, nhưng cũng có tinh thần phản kháng,
ngấm ngầm tranh đấu.
26 -
Lớn khôn từ cái nghèo
Cha mẹ tôi ở làng Xuân Đỉnh đến cuối tháng Một năm
1973, sau khi Hiệp định Paris ký kết lại dọn về sống tại đường Kim
Mã. Như tôi đã nhắc đến ở trên, đó chỉ là một căn phòng nhỏ, diện
tích chừng 8-10m2, vốn là một phòng cấp bốn chia đôi cho hai gia
đình ở. Cũng do ở Kim Mã này nên cứ chiều tối, tôi thường được
chị đưa ra vườn cỏ trước Lăng Bác chơi. Ngay sát nhà tôi là Lăng
Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương, nơi các chị tôi hay đưa tôi ra
chơi hằng ngày.
Gia đình tôi sống ở Kim Mã cho đến năm 1976 thì chuyển về
khu Trung Liệt, Quận Đống Đa, (nay là đường Đặng Tiến Đông và
tình cờ thế nào văn phòng Alpha Books giai đoạn 2012-2019 chỉ
cách ngôi nhà đó chừng 200 mét). Đó chỉ là một ngôi nhà cấp bốn
thường xuyên chịu cảnh ngập lụt, ẩm thấp trong khu tập thể của Bộ
Tổng tham mưu. Đến năm 1989, nhà tôi chuyển về khu tập thể Nam
Đồng, một khu nhà binh, thường hay được gọi đùa là Quân khu
Nam Đồng nổi tiếng ở Hà Nội, được kể lại trong cuốn sách Quân khu
Nam Đồng của Bình Ca vô cùng thú vị và hấp dẫn.
Tôi bắt đầu đi học mẫu giáo năm 1978, trong một ngôi nhà nhỏ
ở Hoàng Cầu, rồi học vỡ lòng ở phố Trung Liệt khi đó chỉ là ngôi
nhà tranh vách đất. Những người bạn học đầu tiên của tôi mà đến
giờ chúng tôi vẫn thường gặp nhau là Trần Thu Quỳnh, Mai Hải
- 27
nguyễn cảnh bình
Lâm, Lê Đình Cương, Bạch Quốc Thắng... Quỳnh là cô bạn từ thuở
bé tí, học cùng tôi từ thời nhà trẻ, vì cũng gần nhà nên bố tôi hoặc
mẹ Quỳnh chở cả hai đứa ngồi chung trên gác baga xe đạp mỗi khi
đưa đón đến trường.
Tôi học cấp một, cấp hai tại trường Thái Thịnh, cũng chỉ cách
văn phòng Alpha Books ở Thái Hà chừng 500 mét, nơi ghi dấu
vô vàn kỷ niệm thời niên thiếu. Cũng từ ngôi trường này, tôi có
những tình bạn thân thiết kéo dài mãi đến tận bây giờ như Bạch
Quốc Thắng sau này sáng lập Công ty thuốc thú y GreenVET; Lê
Đình Cương làm nghề đá quý, Ngô Minh Đức, Chủ tịch công ty Du
lịch HG Travel, Vũ Hồng Cương kinh doanh các thiết bị y tế, Trần
Thanh Vân, lớp trưởng, nay làm ở Vietnam Airlines, Đặng Huỳnh
Nga, Liên đội trưởng… và nhiều người bạn khác nữa ở khu Trung
Liệt - Yên Lãng đó.
Phía góc trường là hàng phi lao - nơi chúng tôi thường chơi đá
bóng, bắn bi, đuổi bắt, giờ đây là con phố Thái Thịnh. Đằng sau là
một cánh đồng lúa rộng trải dài tới tận Láng Hạ. Từ khu Trung Liệt,
chúng tôi còn phải bám vào cây rồi men theo bờ hồ, bờ ao tới trường.
Cuộc sống thời đó còn nhiều khó khăn, vất vả. Vất vả với đám học
trò thì ít mà vất vả với những người thầy, người cô thì nhiều. Đám
chúng tôi đi dép cao su nên trong túi, trong cặp đứa con trai nào cũng
có đôi rút dép. Đôi khi, chúng tôi phải mang ghế từ nhà hay áo nilon
để làm ghế ngồi. Buổi chiều, chúng tôi còn phải xếp hàng mua bánh
mì và gạo bằng tem, bằng phiếu cho gia đình. Cả tuổi thơ của chúng
tôi đầy ắp những câu chuyện với gian khó, với cái nghèo nhưng đầy
những kỷ niệm với bạn bè, nó giống như những đứa trẻ thân thiết và
gần gũi với nhau như trong một ngôi làng vậy. Cứ thế, chúng tôi lớn
lên, trưởng thành và gắn bó với ngôi trường này, với vùng đất Trung
Liệt, Thái Thịnh, Gò Đống Đa yêu dấu này.
28 -
Tuổi thơ hồn nhiên, bình yên
nhưng cũng thiệt thòi, vất vả
Những năm tháng ấu thơ của tôi gắn với cái nghèo và cuộc
sống đầy khó khăn. Thật ra khi ấy nhà nào cũng nghèo. Cái nghèo
của gia đình tôi cũng giống như mọi gia đình cán bộ nhà nước khi
đó. Cuộc sống của một gia đình cán bộ nhà nước với năm miệng ăn
trong những năm tháng ấy thật vất vả, ngoài số lượng tem phiếu
được cấp theo quy định thì chẳng có gì khác. Nên giống như mọi
gia đình khác, nhà tôi cũng nuôi vài con lợn, dăm bảy con gà, con
ngan… tăng gia trồng rau ở mảnh đất trống gần nhà, nhận thêm
những việc lặt vặt về làm thêm để đổi gạo, đổi thứ nọ thứ kia cho
gia đình.
Cũng như nhiều bạn bè, hết giờ học ở trường về là tôi lại phụ
giúp gia đình việc nhà. Chiều đến, học xong bài, mỗi tuần 1-2 lần tôi
cầm một cái rổ sề, đi dọc bờ đất chạy lên bãi rác Thành Công rộng
mênh mông, nay là Trung tâm Điện ảnh Quốc gia đường Láng Hạ,
để hái rau sam, đi vớt bèo hoa dâu ở mấy cái hồ quanh nhà về cho
lợn, hay xách nước tưới rau. Mẹ tôi hay nhận việc về làm thêm, và
tôi rất hào hứng tham gia. Tôi từng cuộn thuốc lá trong cái máy
bằng gỗ hết sức thô sơ, nhưng nhiều nhất là bóc tỏi, bóc lạc thuê và
kể cả việc se sợi. Có lẽ tinh thần yêu thích lao động và cả kiếm tiền
nhen nhóm lên trong tôi từ những ngày đó.
- 29
nguyễn cảnh bình
Đám trẻ con còn có trò nhặt hạt táo bán cho các bà đồng nát,
nghe đâu là để làm thuốc. Bọn trẻ con chúng tôi cứ đi khắp các ngõ
ngách để nhặt những hạt táo người ta ăn xong vứt đi, mang về gom
trong một ống bơ để ở góc nhà, khi nào đầy một bơ thì mang đổi
lấy gạo hoặc bán được vài hào. Chúng tôi cũng tìm nhặt các miếng
nhôm, sắt vụn… để bán cho mấy bà đồng nát. Những chuyện đó thật
khó hình dung với trẻ con ngày nay.
Quãng những năm 1984, mấy thứ việc nhỏ nhặt ấy là cơ hội
để có thêm đồng rau đồng cháo, hay vài ba con lợn, con gà chính
là gia tài lớn của mỗi gia đình. Có những ký ức tôi vẫn không thể
nào quên là chuyện bán lợn. Trong khu nhà nào cũng nuôi lợn, nên
tháng nào cũng dăm ba bận có nhà bán lợn, cứ khoảng năm giờ sáng
lợn đã kêu eng éc váng cả khu, không tài nào ngủ được. Nhưng hôm
nào đến lượt nhà mình bán thì chị em chúng tôi vui và háo hức từ
trước đó mấy hôm. Sáng sớm đã dậy để chờ người mua đến, rồi
tiếng lợn kêu váng nhà, sau khi người mua xẻ thịt, cân hơi để mang
đi thì để lại cho gia đình bộ lòng và vài lạng thịt, thế là hôm ấy cả nhà
có được một bữa tươi cải thiện, ngon vô cùng. Vài tháng, có khi cả
năm mới có được một bữa tươi ngon như thế.
Hè những năm cấp một, tôi hay theo mẹ lên cơ quan cả ngày,
trong lúc mẹ làm việc thì tôi thơ thẩn đi chơi trong các phòng thí
nghiệm, hay đi quanh trường Đại học Dược. Hấp dẫn nhất là xương
bộ voi mamut nay vẫn còn ở cạnh giảng đường Ngụy Như Kon Tum
(thật tuyệt vời khi sau này, các buổi khai giảng các khóa đào tạo lãnh
đạo trẻ ABG được tổ chức ở đây, giúp tôi hình dung lại những ngày
tháng tuổi thơ êm đềm và đẹp đẽ đó). Đến bữa trưa, hai mẹ con ăn
chung cặp lồng cơm mẹ mang đi, chỉ có độc một quả trứng luộc với
vài hột lạc rang. Suốt những tháng ngày thơ bé, tôi chỉ được ăn thứ
gạo đỏ khô rộc, hạt rời rạc đến nỗi thành quen. Sau này khi đời sống
30 -
sinh năm 1972
đã khấm khá hơn, tôi vẫn không sao ăn được gạo tám, gạo dẻo, chỉ
ăn được cơm khô, cơm cứng.
Chính tại bộ môn Tinh dầu của trường đại học Dược này, tôi
được tiếp xúc đầu tiên với khoa học khi cả ngày ngồi giữa các dụng
cụ và máy móc khoa học, từ các bình chứa, phễu lọc, máy sấy, lò
nung, nhiệt kế và nhiều đồ thí nghiệm khác. Được chứng kiến các
cô chú làm các các thí nghiệm khoa học, đặc biệt là chưng cất tinh
dầu, tôi thấy đó là những công việc tuyệt vời thế nào, và ước mơ
đầu tiên của tôi là trở thành Edison - một nhà khoa học có những
phát minh sáng chế là được nuôi dưỡng, nhen nhóm từ những ngày
tháng yên bình đó.
Hết thảy chúng tôi đứa nào cũng đói, cũng gầy gò nhom nhem,
hãn hữu mới có bánh kẹo. Những ngày giáp tết, đám trẻ con đứa
nào cũng náo nức chờ mong, vì chỉ có tết mới được ăn bánh kẹo,
mới có thịt. Gần tết nhiều nhà chất bí đỏ kín cả gầm chạn để ăn
dần, và hình như chỉ có mỗi mấy thức ấy để ăn tết, chứ chẳng có
thịt cá, xôi giò như ngày nay. Chị cả tôi xếp hàng từ sáng sớm tới
trưa ở quầy mậu dịch để đổi được vài gói kẹo lạc, vài gói bi ron ron
mà đứa trẻ con nào cũng thích mê. Rồi bố chở tôi đi ra phố Hàng
Bột để xếp hàng chờ làm bánh bích quy, mỗi nhà tự đùm nắm nào
bột, nào sữa, nào trứng… rồi đưa phần mình cho hàng làm bánh,
mấy tiếng sau thì quay lại lấy. Nhà nào có nhiều trứng, nhiều sữa
thì bánh còn ngon, chứ nhà nào chỉ có hai, ba quả trứng thì bánh
chỉ toàn bột mì.
Bố mẹ thời nào cũng thương con, nhưng ở thời đói nghèo ấy,
có thương cũng chẳng có gì cho con. Vào mùa hè, thỉnh thoảng lắm
chị em tôi được bố mua cho một cái kem. Kem que hẳn hoi, chỉ bán
ở khu căng tin của Bộ Tổng tham mưu. Hôm nào ông mua kem,
thường là vào cuối giờ chiều, ông cũng gói kem vào trong ba bốn
lần giấy báo rồi đạp xe thật nhanh về nhà để kịp cho con ăn. Về đến
- 31
nguyễn cảnh bình
nhà, khi tôi giở ra thì kem đã chảy đầy ra giấy, chỉ còn lại chừng hai
phần ba cái thôi. Nhưng được thế là sung sướng lắm rồi, đó là phần
thưởng ý nghĩa cho những điểm cao, hay đơn thuần là tình yêu
thương của cha mẹ dành cho con.
Giờ đây, nghĩ lại những ngày bần hàn ấy, tôi lại càng thương
bố mẹ tôi nhiều hơn và cả thế hệ những người đi trước. Tôi thương
mẹ tôi vì mẹ lúc nào cũng hy sinh, cần mẫn tìm hết việc nọ tới việc
kia để làm thêm, kiếm thêm cho gia đình. Còn tôi thương bố tôi vì
khi ấy ông cũng là một sĩ quan cấp tá, vậy mà nhiều lúc phải chịu
ngượng, chịu đựng những bế tắc, những khó khăn vì miếng cơm
cho gia đình. Hằng năm, sĩ quan được cấp phát áo dạ, mũ cối, nhưng
ông đều mang ra bán ở phố Trịnh Hoài Đức. Thời đấy những đồ
như thế rất được giá, bán một cái mũ cối tàu phải đủ tiền ăn được
cả tuần, nên bố tôi cứ dùng tiếp đồ cũ, đồ sờn, để dành đồ mới còn
đem đi bán. Sau này, khi ông đã già, nhiều lần tôi cứ cáu um lên vì bố
mẹ tôi có những đồ cũ không chịu bỏ đi, con cái muốn mua đồ mới
thì lại thấy tiếc tiền. Quá khứ vất vả, bần hàn, chật chội… khiến con
người quen với thói dành dụm, tiết kiệm và thậm chí cả cam chịu,
nhẫn nhịn với mọi điều dường như là vô lí của cuộc sống.
Tất cả những thứ gì tốt hơn mà bố tôi may mắn được hưởng,
ông đều bán hết để có thêm tiền chi tiêu cho gia đình. Thậm chí sau
này, năm 1997, có lần ông Vũ Ngọc Nhạ - ông Cố vấn cực kỳ nổi
tiếng, khi ra Hà Nội đến nhà tôi chơi, cũng kể chuyện ngày đó phải
bán hết cả mũ cối, áo dạ… Còn gì cay đắng hơn khi những người
lính, người sĩ quan phải bán đi những món quà, hành trang ý nghĩa
của mình trong cuộc đời binh nghiệp?
Với những người bạn từ thời thơ ấu, tôi vẫn còn nhớ rất nhiều
kỷ niệm về quãng thời gian nghèo khó ấy. Trừ nhà vài đứa có điều
kiện, còn lại đứa nào cũng nghèo, cũng đói. Những năm cấp một tôi
thường qua nhà Bạch Quốc Thắng chơi. Nhà Thắng ngày đó đúng
32 -
sinh năm 1972
nghĩa là nhà tranh vách đất, vách dựng bằng những thanh tre đan
lại với nhau rồi trộn bùn với rơm để trát vào, mái lợp bằng tranh.
Lâu dần mấy cái vách đất ấy khô lại, nứt ra, hở những khe, những lỗ
thủng lỗ chỗ quanh nhà. Những ngày mùa đông tôi sang nhà Thắng
chơi, gió lùa qua vách nhà rét buốt người. Trong nhà tối om, chật
chội, bụi bặm, đầy những que rơm rạ hay bụi bặm rơi trên nền nhà
đất. Khu bếp lại càng tồi tàn, cũ kỹ nhưng chúng tôi đôi khi tan học
về là chui vào để lục đồ ăn, thường chỉ là cơm nguội với cháy trong
một cái nồi to đen sì những nhọ, thậm chí có cả đám ruồi bu đầy
xung quanh. Bây giờ Thắng là giám đốc công ty GreenVET sản xuất
thuốc thú y rất lớn ở Việt Nam.
Còn nhiều những người bạn thơ ấu của tôi, sau này nhìn lại
tôi càng thấy rõ hơn, có lẽ những ngày tháng gian khó, vất vả ấy đã
tạo nên dấu ấn rất đặc biệt với tất cả chúng tôi. Nếu như đám con
trai từng ác cảm với cái nghèo, ghét cái nghèo và sau này chỉ muốn
kiếm thật nhiều tiền, thì mấy cô bạn hiền lành, ít phản kháng chọn
cách thích nghi với điều kiện sống khó khăn và sống gần như tối
giản, không có nhu cầu về vật chất, sắm sửa… Vũ Hồng Cương, một
cậu bạn học cùng trường Thái Thịnh với tôi, nhà Cương rất nghèo
và mẹ thường xuyên đau ốm. Nhưng ngày ấy điều kiện khám chữa
bệnh, thuốc thang chẳng có mấy, nên cả gia đình chạy chữa rất vất
vả. Dần dần, chính vì hoàn cảnh khó khăn của gia đình mà Cương
nhen nhóm quyết tâm phải thi bằng được vào ngành Y, để trở thành
bác sĩ. Sau này Vũ Hồng Cương không trở thành bác sĩ, mà trở
thành một doanh nhân nhập khẩu thiết bị y tế công nghệ cao về Việt
Nam. Có lẽ Cương ý thức được ý nghĩa của điều kiện sống, điều kiện
khoa học đầy đủ, hiện đại đối với sức khỏe con người. Cương giờ đã
định cư ở Australia nhưng dường như vẫn đau đáu với cái nghèo,
nên vẫn tham gia chương tình Cơm có Thịt của anh Trần Đăng
Tuấn, và vẫn đầy băn khoăn về các vấn đề xã hội…
- 33
nguyễn cảnh bình
Tinh thần yêu lao động, không lười biếng gắn với tất cả bạn
bè tôi, khác rất nhiều so với thế hệ 9x sau này. Ý chí của chúng tôi
mạnh mẽ hơn, tính bền bỉ, kiên trì cũng lớn lao hơn. Nhưng ước
mơ hầu hết có phần đơn điệu, thậm chí tẻ nhạt. Ít người có những
giấc mơ lớn, tính thẩm mĩ, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa... hay cả
triết học, tâm linh, tư duy cũng hạn chế hơn. Tình cảm có phần khô
khan, cứng nhắc… nhưng chân thật.
Dù thích thú và chúng tôi thường vẫn ôn lại thời bao cấp đầy
niềm vui, đầy sự trẻ thơ, hồn nhiên, nhưng đó thực sự là nỗi buồn,
là sự vất vả thiệt thòi của những thế hệ sinh ra và lớn lên trong thời
bao cấp. Lẽ ra, chúng tôi cần được nuôi dưỡng bởi một nền giáo dục
đầy đủ, rộng mở và được học những kỹ năng, kiến thức hay được
sống đúng với tuổi thơ, được biết đến ánh sáng của khoa học, trí tuệ,
của bầu trời, của thế giới… Nhưng suốt những năm tháng đó, điều
kiện vật chất vô cùng ít ỏi, và không gian sống đầy chật chội, không
ai biết được bầu trời bao la của thế giới là thế nào. Tất cả chúng tôi
coi sự nghèo khó, vất vả là đương nhiên, thậm chí có khi vui mừng
với chúng.
Đúng là giấc mơ con đè nát cuộc đời con, không gian sống
chật chội và vất vả hằn sâu trong tâm trí chúng tôi khi rời ghế nhà
trường, gánh nặng kiếm sống, mưu sinh… đè nặng lên suy nghĩ mỗi
người. Suốt những năm 1990 đến tận những năm 2010, dần dần tư
duy và hành động của chúng tôi mới được mở rộng. Dẫu vậy, bởi đã
trải qua khó khổ, nên ý chí vươn lên của chúng tôi rất lớn, nghịch
cảnh không làm bạn lùi bước. Những gian khó đó có thể khiến thế
hệ chúng tôi trở nên mạnh mẽ hơn, bền bỉ hơn. Nhưng trên hết,
chúng tôi vẫn là những đứa trẻ thiệt thòi, như tôi vẫn nói với các em
học sinh, sinh viên sau này: Cuộc sống và không gian sống của thế
hệ chúng tôi chật chội, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
34 -
Bầu bạn cùng sách vở
Khi tôi còn nhỏ, vì bố tôi làm trong quân đội ít khi có mặt ở
nhà nên người có ảnh hưởng nhiều nhất đến tôi là mẹ. Có những
điều từ mẹ mà khi nghĩ lại tôi thấy bản thân thật may mắn, như việc
mẹ tôi rất thích đọc sách. Tôi nhớ bà luôn kể với tôi rằng ngày bà
15-17 tuổi, khi còn ở trong quê Thanh Hóa, sách rất ít nên bà phải
tìm mãi mới được một vài cuốn sách để đọc. Hồi đó, sách chủ yếu
là các tiểu thuyết lãng mạn của nhóm Tự lực Văn đoàn như Hồn
bướm mơ tiên của Khái Hưng, hay các tiểu thuyết khác của Nhất Linh,
nhưng quý và hiếm lắm. Sau này khi ra Hà Nội học Đại học Dược bà
vẫn đi tìm sách vở, vẫn giữ thói quen đọc sách. Rồi khi mẹ tôi công
tác tại trường Đại học Dược, trong phòng có những nhân vật như
ông Đỗ Tất Lợi, chú Pha là con ông Thế Lữ và bà Song Kim, những
người tham gia Tự lực Văn đoàn, nên gia đình ông bà có rất nhiều
sách, lại hay mang cho phòng mượn đọc. Ông Đỗ Tất Lợi là nhà
nghiên cứu nổi tiếng về những cây thuốc Việt Nam và là con cháu
của nhà Mai Lĩnh, tức là một trong những nhà xuất bản đầu tiên
của Việt Nam những năm 1940. Một may mắn nữa là trên đường
từ cơ quan mẹ tôi về nhà đi qua phố Lê Văn Hưu và Hàn Thuyên,
nơi đây có một cửa hàng cho thuê sách truyện. Mẹ tôi đi qua đó hay
thuê truyện mang về. Thế là chúng tôi được đọc rất nhiều, cả sách
mẹ mượn ở cơ quan lẫn sách thuê.
- 35
sinh năm 1972
Không chỉ được đọc sách, tôi còn được nghe kể nhiều chuyện
hay. Mẹ tôi yêu thích sách vở, trong cơ quan có nhiều người đều
yêu thích sách vở nên mọi người hay nói chuyện về sách vở, về
văn chương, về cuộc sống và về những nhân vật trong quá khứ của
Tự lực Văn đoàn, nhất là những chuyện về Nhất Linh, Hoàng Đạo,
Thạch Lam… Những câu chuyện đó dần thấm vào tôi mỗi ngày,
hình thành nên ở tôi thói quen đọc sách từ lúc nào không biết, và
rồi cũng hình thành dần trong tôi những suy nghĩ, nhận xét đầu tiên
về cuộc sống và xã hội.
Bản thân tôi khi đó cũng học hành ngoan ngoãn, chăm chỉ. Tôi
chăm học từ nhỏ, trái với suy nghĩ chung về tôi bây giờ, ngày đó tôi
có phần rụt rè, ít khi chơi với trẻ con trong khu nên học bài xong
chỉ quanh quẩn ở nhà hay sang nhà mấy người bạn cùng lớp. Những
lúc rảnh rỗi tôi thích vùi đầu vào sách vở. Độ sáu, bảy tuổi thì tôi
biết đọc biết viết thành thạo, rồi do được tiếp xúc với sách vở sớm
nên tôi tự mình đọc sách. Tôi đọc nhiều và bắt đầu bị ấn tượng bởi
những cuốn sách hay. Tôi mê mải đọc những cuốn sách như Những
vì sao đất nước, Trăng nước Chương Dương, Hai làng Tà Phình và Động
Hía và vô số cuốn sách khác. Nhờ những cuốn sách này mà tôi hiểu
về đất nước, về lịch sử, về những người anh hùng. Tôi cũng được
truyền thêm tinh thần anh hùng từ những tấm gương được kể trong
sách. Như trong cuốn Hai làng Tà Phình và Động Hía là câu chuyện ca
ngợi sự hy sinh của con người, ca ngợi sự thông minh, nhanh trí của
mấy cậu bé trong giai đoạn chống Pháp, tôi đọc và nhớ mãi. Những
cuốn sách, những câu chuyện đó hun đúc trong tôi tình yêu đầu
tiên với lịch sử, với đất nước, và có lẽ đó chính là tiền đề cho những
chuyến đi khám phá của tôi sau này, cho sự tìm tòi của tôi về những
nhân vật, con người và vùng đất…
Năm tôi học lớp Bốn có một chuyện thế này. Ở trường tổ chức
cuộc thi kể chuyện, mỗi bạn lên kể một câu chuyện mình đã được
- 37
nguyễn cảnh bình
đọc. Bạn bè tôi hay kể truyện cổ tích, những câu chuyện đầy đẹp đẽ
như Nàng Bạch tuyết và Bảy chú lùn. Nhưng với tôi những truyện đó
quá đơn giản, chẳng để lại ấn tượng gì. Đến lượt mình tôi kể lại câu
chuyện Hai làng Tà Phình và Động Hía. Một câu chuyện thật dài, vài
chục trang sách, tôi đọc và nhớ rất lâu, rồi kể lại theo trí nhớ của
mình. Những câu chuyện cảm động đó in sâu vào tâm trí còn đang
non nớt của tôi.
Vì cứ quanh quẩn đọc sách suốt ngày, dần dần tôi bắt chước,
tự học và tập viết được vài chữ ngoại ngữ đơn giản, dù chẳng ai dạy,
cứ tự xem sách, tra và đoán chữ để học. Lớp Năm, lớp Sáu, khi mùa
hè đến, đám bạn hay qua nhà tôi hái quả sung rồi nằm lăn lóc dưới
sàn nghe tôi kể chuyện Tam Quốc diễn nghĩa, mà tôi thuộc khi đọc ké
cuốn sách của ông nội người bạn. (Ngày ấy, do xung đột Việt Nam
và Trung Quốc nên sách loại này không được xuất bản). Lên lớp
Sáu, học theo Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi, mấy thằng gồm
tôi, Duy Tuấn (nay đang định cư ở Thụy Điển, khi đó là một cậu
bạn học rất giỏi) và Việt Phương (nay là Giám đốc một công ty xuất
nhập khẩu sách báo, có cửa hàng sách ngoại văn InfoStone trên phố
Tràng Tiền) lấy quả mùng tơi bóp ra bôi lên tay để thề kết nghĩa
vườn đào. Tôi được đặt biệt danh là Trương Phi vì nóng tính từ
nhỏ, còn Duy Tuấn là Lưu Bị, Phương “tròn” là Quan Công. Nhưng
được vài tuần thì tan, vì chúng tôi lại cãi nhau.
Dần dần lên lớp Bảy, lớp Tám, tôi bắt đầu đọc những cuốn
sách khó và cao siêu, sâu sắc hơn nhiều so với lứa tuổi. Đó là những
cuốn tiểu thuyết do mẹ tôi mượn hoặc thuê về. Tôi đọc cuốn tiểu
thuyết Jăng - Krixtốp1 của Romain Rolland, hay những tiểu thuyết
1. ROMAIN ROLLAND (1866 - 1944): Nhà văn, nhà viết kịch Pháp; nhận giải Nobel văn học
1915 vì tính lí tưởng cao cả của các tác phẩm văn học, vì sự cảm thông và tình yêu chân lí. Tiểu
thuyết Jean Christophe lấy cảm hứng từ cuộc đời của Beethoven mang lại cho R. Rolland danh
tiếng thế giới.
38 -
sinh năm 1972
như Ruồi trâu1, Thép đã tôi thế đấy, Trăm năm cô đơn… Bây giờ có thể
các bạn 14-16 tuổi đã đọc những truyện đó rồi, nhưng vào thời điểm
năm 1986-1987, sách vở ít, hầu như chẳng có gì để đọc, thì việc đọc
những cuốn sách đó giống như đột nhiên lạc bước vào một thế giới
mới, bước vào những thế giới nội tâm, những cuộc đấu tranh giằng
xé, những cuộc chiến tranh giữa thiện và ác, và gặp gỡ những người
anh hùng như Pavel Corsagin…. Chúng tạo nên tác động lớn với
tâm trí tôi, khiến tôi trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ nhiều về những
điều dường như vượt quá trí óc của một đứa trẻ thường vẫn chỉ
quen với sách giáo khoa và những câu chuyện thường ngày. Tôi kể
những chuyện thế để mọi người thấy chúng tôi bị ảnh hưởng bởi
sách vở thế nào, và đó là lý do tôi thấy ý nghĩa của sách, của những
câu chuyện trong sách tác động đến con người, và xa hơn là ảnh
hưởng đến xã hội thế nào. Đó là sự khởi đầu cho niềm tin của tôi
về sách và xuất bản, về ý nghĩa và giá trị đối với con người, và góp
phần hình thành những ý tưởng đầu tiên để rồi tôi theo đuổi câu
chuyện về sách vở sau này.. Những năm tháng đó, tôi cứ thế nghiền
ngẫm những cuốn sách mà bố mẹ tôi mang về và những cuốn sách
tôi mượn được từ bạn bè.
Nhưng rồi khi trưởng thành hơn, tôi bắt đầu chịu ảnh hưởng
từ bố tôi, từ những công việc và những cuốn sách của ông. Vì là con
trai một nên từ nhỏ tôi thường được bố tôi cho đi theo, nên khi tha
thẩn chơi loanh quanh rồi tôi ngồi hóng nghe câu chuyện của ông
và các chú, các bác lớn tuổi. Họ đều coi tôi như đứa trẻ không đáng
chú ý nhưng với đứa trẻ biết đọc, biết viết sớm như tôi, tất cả những
câu chuyện đó đều có sức thẩm thấu và không còn quá xa lạ... Tôi
1. Ruồi trâu (tên gốc: The Gadfly) là tên một cuốn tiểu thuyết của Ethel Lilian Voynich, xuất bản năm
1897. Nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam đã lớn lên dưới ảnh hưởng của tác phẩm này và tinh thần
khắc kỷ của nhân vật chính - Arthur bí danh “Ruồi trâu”, chàng thanh niên đã hiến dâng cả cuộc đời,
hy sinh tất cả tình cảm riêng tư cho lý tưởng cách mạng.
- 39
nguyễn cảnh bình
cứ tha thẩn chơi, tha thẩn lắng nghe mọi chuyện, rồi có thể trong
vô thức tôi cũng chịu ảnh hưởng từ các buổi nói chuyện đấy của bố
tôi. Những người quen biết đều bảo bố tôi có khả năng kể những
câu chuyện chính trị xã hội thật dễ hiểu và lôi cuốn. Ông có điều
kiện tiếp xúc, hiểu biết nhiều và cũng thích nói chuyện với người
khác. Ngoài các buổi nói chuyện ở nhà tôi và ở nhà các bác, các chú
cùng cơ quan thì mỗi lần về quê, cả ở Đô Lương và Sim, tối đến,
nhiều người họ hàng, chòm xóm đều quây quần ở nhà ông bà tôi
để nghe bố tôi nói chuyện. Bố tôi hay kể những câu chuyện về đất
nước, chuyện về công cuộc đổi mới, về những tranh đấu và những
khó khăn, những trăn trở của cuộc sống, của các tướng tá quân đội
và giới học giả, trí thức mà ông quen biết. Do điều kiện công việc
nên ông cũng kể rất nhiều chuyện về Liên Xô và các nước Đông
Âu, cả những chuyện về Mỹ và về Trung Quốc. Chính những câu
chuyện đó đã gieo rắc trong tôi khái niệm đầu tiên về các vấn đề xã
hội, chính trị và quốc tế.
Bạn bè, họ hàng hay các bác quen với bố tôi cũng hay qua nhà
tôi thăm và nói chuyện với bố tôi như bác Phạm Như Cương, từng
làm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội - nơi giờ đay tôi thường tới làm việc). Ông Phạm Như
Cương cũng quê ở Đô Lương, làm trưởng nhóm nghiên cứu chủ
nghĩa Marx – Lenin những năm sau Cách mạng tháng 8, mà bố
tôi cũng tham gia nhóm này, hay chú Phạm Hào (chông O Trân
là con gái họ Nguyễn Cảnh), làm bên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,
ông Nguyễn Cảnh Toàn, khi đó làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục, chú
Nguyễn Cảnh Dinh, Bộ trưởng Bộ Thủy Lợi, chú Nguyễn Cảnh
Chất, Tổng công trình sư Cầu Thăng Long… Tôi còn bé chưa hiểu
nhiều những câu chuyện mà bố tôi và các bác, các chú nói với nhau,
nhưng tôi biết đó là những chuyện rất nghiêm trọng, rất lớn lao. Đó
là những câu chuyện về đất nước, về quê hương, về dòng họ, về các
40 -
sinh năm 1972
chính sách hay các nhà lãnh đạo của đất nước. Những câu chuyện
như thế giúp tôi có những khái niệm đầu tiên về nền giáo dục và tự
học, những góc nhìn khác nhau về các chính sách.
Bố tôi cũng mang nhiều sách báo từ cơ quan về nhà nghiên
cứu. Vì ông làm trong Cục Tình báo nên có những cuốn sách mà
bên ngoài không có, nhất là những tài liệu tham khảo đặc biệt. Nhờ
vậy tôi được đọc những câu chuyện vô cùng lạ lẫm với một đứa trẻ
như tôi, và chính việc đọc các thông tin đó làm cho suy nghĩ của tôi
trở nên khác đám bạn học cùng. Trong khi đám bạn tôi đọc truyện
tranh, sách ôn thi, sách bài tập hay giáo khoa… thì tôi lại tò mò và
háo hức đọc những tài liệu tham khảo đặc biệt và các cuốn sách, các
tập tài liệu của bố. Tôi đọc tất cả những thứ đó vì ở nhà không có
việc gì, học bài một loáng là xong hết và không khó khăn gì với tôi.
Rồi sau này, trong nhiều năm trời, cho đến cả sau khi nghỉ hưu, tuần
nào bố tôi cũng hai lần vào Thư viện Quân đội ở Phố Lý Nam Đế
để mượn sách về cho tôi đọc. Ban đầu, có lẽ chỉ là chiều chuộng cậu
con trai, rồi xa hơn ông muốn tôi mở mang hiểu biết. Chính những
việc đó đã định hình nên tương lai và cả sự nghiệp của tôi, điều mà
ngày đó ông không sao hình dung được.
Những năm 1985-86, thông tin thật ít ỏi, còn thông tin từ
nước ngoài thì chỉ những người làm công việc đặc biệt như bố
tôi mới tiếp cận được. Thậm chí, thời đó có lẽ việc nghe tin tức
nước ngoài như bản tin tiếng Việt của BBC hay RFI, và cả đài phát
thanh của Trung Quốc có thể xem là bị cấm. Ai muốn nghe các đài
như BBC thường phải lén nghe chứ không nghe tự do, thoải mái
ở chỗ công cộng bao giờ. Thế nên những thông tin tài liệu của bố
tôi mang về rất lạ lẫm, mới mẻ, chúng khiến tôi vô cùng tò mò.
Tôi thấy chúng thật hấp dẫn, vì thế dần dần tôi say mê chúng hơn
nhiều so với việc học trên trường. Tôi bị cuốn hút bởi những tài
liệu tham khảo đó: tin tức về tình hình thế giới, tình hình biến
- 41
nguyễn cảnh bình
động ở Liên Xô và Đông Âu, những đánh giá của Mỹ về Việt Nam,
những phân tích về đổi mới hay cả cuốn sách Thư vào Nam của Lê
Duẩn cũng vô cùng thú vị và hấp dẫn với tôi, đến mức tôi đọc miệt
mài… Tôi cũng bắt đầu nghe láng máng tin về đổi mới, về biến
động ở Đông Âu và Liên Xô, lần đầu tiên nghe đến những bình
luận và sự trông đợi kỳ vọng vô cùng lớn về Gorbachev qua những
câu chuyện bố tôi kể…
Từ những cuốn sách mẹ tôi mang về và những bản tin tham
khảo, những tài liệu của bố, chúng dần dần tạo nên thay đổi rõ rệt
ở tôi, nhất là khi tôi lên cấp ba, bắt đầu nhận thức về thế giới và
cuộc sống. Tôi dần nhận ra rằng ngoài kia, ngoài cái thế giới đơn
giản tôi đang sống là những điều mà mình không được biết. Trên
thế giới hay ở đâu đó, ở quốc gia nào đó có những câu chuyện mà
mình không thể tưởng tượng được. Những điều đã và đang diễn ra
trên thế giới thật khác với những gì tôi được học ở nhà trường. Và
ngay ở Việt Nam, có những câu chuyện, những bi kịch, những cay
đắng cả trong quá khứ và trong thời hiện đại chưa được nhắc tới,
thậm chí mọi người còn chẳng biết là chúng đã từng tồn tại. Chúng
cho tôi hiểu được một thế giới mới, những khoảng trống mà sách
vở bình thường cũng chưa thấy nói đến. Tôi cũng tò mò về nhiều
cái tên mà tôi chưa bao giờ nghe đến, chưa bao giờ được học về
họ, như Phan Văn Trường, Trương Vĩnh Ký, Phan Thanh Giản,
Nguyễn An Ninh và rồi sau này những năm tháng sống ở Sài Gòn
giúp tôi biết đến những nhân vật như Phạm Quỳnh, Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long, Trần Trọng Kim, Nhượng Tống….
Những thông tin đó kích thích, những nhân vật đó lôi cuốn tôi,
khiến tôi tò mò, suy nghĩ về nó. Và quan trọng hơn, những thông
tin đó hé mở nhiều điều và chúng nói với tôi rằng còn một thế giới
bao la khác mình cần phải biết, phải tìm hiểu nhiều hơn nữa ở bên
ngoài kia. Càng đọc, tôi càng thấy háo hức và khao khát những bầu
42 -
sinh năm 1972
trời mới, những tri thức mới. Tôi muốn biết nhiều hơn về họ, về
nhieuf nhân vật từng bị quên lãng. Có lẽ sự tò mò của tuổi trẻ, của
sự ham hiểu biết thôi thúc tôi tìm kiếm những chân trời mới, và
tôi dần dần tự đặt ra những câu hỏi cho mình, và cả những câu hỏi,
những câu chuyện tôi muốn nói với những người tôi gặp - khác
hẳn những gì tôi thường học.
Có lẽ vì sự khác biệt đó mà suốt thời niên thiếu, tôi không
có mấy bạn bè trong khu tập thể. Tôi cũng không thích chơi với
bọn trẻ hàng xóm vì chúng không nói chuyện về những gì tôi biết,
chúng không cho tôi chơi những môn tôi không giỏi, những môn
chúng thường chơi. Tôi không có mấy bạn bè, không đi đâu chơi,
chỉ quanh quẩn trong nhà với sách. Và cứ thế, những thông tin cứ
ngấm dần, chảy dần vào tôi. Cả hai điều đó đã giúp tôi có được thế
giới quan, từ lý thuyết đến những câu chuyện và con người thực tế
từ khi còn rất nhỏ.
- 43
Đổi thay - Suy nghĩ
về cuộc sống và tiền bạc
Lên cấp ba, giai đoạn 1986-1989, tôi vào học lớp 10A là lớp
chọn những học sinh khá giỏi của trường PTTH Đống Đa, trong
ngõ Quan Thổ 3 ngay gần Ô Chợ Dừa. Vẫn chỉ là một ngôi trường
thôi nhưng ngày đó, buổi sáng được gọi là trường Đống Đa, buổi
chiều lại mang tên Trưng Vương. Năm học lớp 10A, tôi vẫn là một
cậu trò giỏi và là một học sinh ngoan. Đầu năm học đó, từng có lần
thầy giáo khen tôi là niềm tự hào của cả lớp, nhưng chuyện đó chẳng
kéo dài lâu. Những tháng đầu tiên, tôi còn đứng đầu lớp nhưng rồi
theo thời gian, điểm học của tôi cứ dần dần tụt xuống khúc giữa.
Sang đến năm lớp Mười một, tôi vẫn học khá các môn tự nhiên
nhưng không còn chăm chỉ như trước. Tôi ngày càng xao nhãng
việc học và có suy nghĩ khác về những giá trị, mục tiêu mà trước đây
tôi từng theo đuổi.
Tôi dần dần không còn tình yêu với việc học bình thường
nữa. Những bài giảng trên lớp, những điều được giảng trên lớp
trở nên quá tẻ nhạt. Chúng dường như không có thật, chúng
không giống những suy nghĩ, những mơ ước mong manh đang
hình thành trong đầu tôi. Tôi bắt đầu linh cảm, bắt đầu cảm nhận
thấy chúng không còn khiến tôi hào hứng, thậm chí không có ích
gì với cuộc sống sau này nên tôi không còn niềm vui trong việc
44 -
sinh năm 1972
học. Trước đó, tôi hào hứng và mải mê với việc học, với điểm
số, với các đề toán khó hay tự hào với những thành tích học sinh
giỏi, hãnh diện với các giải thưởng, với lời khen ngợi thì nay,
những bài giảng trở nên nhàm chán. Trước đây, những điểm 9,
điểm 10 khiến tôi vui mừng và hãnh diện thì giờ đây những con
số đó chẳng còn ý nghĩa nhiều. Tôi thờ ơ nhìn những người bạn
vui mừng với điểm cao, thậm chí đôi khi tôi thấy xem thường hay
nhún vai dửng dưng trước những kết quả đẹp đẽ kiểu đấy. Chúng
có ích gì cho mình không? Không, tôi bắt đầu thấy chúng không
còn ý nghĩa nhiều với tôi nữa.
Tôi không thấy điều gì thú vị từ những bài giảng, có thể do tôi
đọc sách ngày càng nhiều và những gì tôi đọc được trong sách hấp
dẫn, lôi cuốn tôi hơn. Đầy ắp những câu chuyện, những sự kiện lịch
sử, những nhân vật và con người mới lạ, sống động, khác hẳn sách
giáo khoa, khiến tôi hình thành những suy nghĩ mới. Những năm
tháng đó, tôi đọc rất nhiều, dường như tôi ngấu nghiến đọc tất cả
những gì tôi nhìn thấy trước mắt. Tôi đọc hàng chục, hàng trăm
cuốn sách, cuốn truyện khác mà dường như sau Mở cửa, bắt đầu
xuất hiện ở Việt Nam, những cuốn tiểu thuyết của phương Tây,
những cuốn truyện như Túp lều Bác Tôm, Không gia đình…, bắt đầu
xâm nhập tâm trí tôi.
Cũng giai đoạn đó, tôi còn đọc say mê rất nhiều lần cả những
cuốn như Thư vào Nam của Lê Duẩn, Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội, rồi Tây Phương gia tô bí lục (một cuốn sách thật sự đặc
biệt). Những cuốn sách đó đầy lôi cuốn và thôi thúc tôi, khiến tôi
tò mò về những điều lớn lao của đất nước, của dân tộc, của lịch
sử… Tôi đọc mải mê để rồi chìm đắm trong thế giới mới. Với tôi,
đó thực sự là một bầu trời mới, một thế giới nơi tôi có thể mơ ước,
nơi tôi có thể tưởng tượng, có thể tìm thấy mình để mơ mộng
- 45
nguyễn cảnh bình
rằng tương lai, sau này, tôi có thể làm được điều gì đó khác biệt và
tuyệt vời.
Nhưng cùng với đó, có lẽ chính những biến chuyển của xã hội
cũng đã góp phần tác động tới tôi rất lớn và sâu sắc. Qua những
cuốn sách mà tôi được đọc, qua Bản tin Tham khảo đặc biệt, qua
những câu chuyện của bố tôi và những biến động trong xã hội
Việt Nam mà tôi cảm nhận được vào những năm 1986-1989, tôi
bắt đầu có nhiều suy nghĩ khác biệt. Ấn tượng nhất và nhớ mãi
đến bây giờ là những thông tin về Đại hội Đảng VI, năm 1986,
khi tôi mới 14 tuổi. Nó như thể một sự kiện gì trọng đại, ghê gớm
lắm mà tôi cảm nhận được qua những câu chuyện của bố tôi với
những bạn bè, những đồng chí của ông. Dường như có dòng máu
nóng sôi nổi tuôn chảy trong những người bạn và của cả bố tôi khi
đó. Tôi thấy ở họ sự hào hứng và có lẽ tràn đầy hy vọng về những
đổi thay của xã hội, của đất nước. Qua giọng nói, qua câu chuyện
tôi nghe được đủ để khiến một thanh niên mới lớn như tôi biết nó
quan trọng đến nhường nào.
Đầu tiên là câu chuyên trên các số báo Văn Nghệ, mẹ tôi hay
kể những chuyện thời bao cấp, đến nay tôi vẫn nhớ, như chuyện
về vua Lốp Nguyễn Văn Chẩn1, hay chuyện về Tạ Đình Đề2… Rồi
1. Nguyễn Văn Chẩn, có biệt danh “Vua lốp”, hay còn gọi là “Vua dép lốp”, là một người đương đại
có tiếng vì tài năng và sự tháo vát, gây dựng nên một tài sản lớn từ hai bàn tay trắng, nhưng cuộc
đời gặp phải nhiều oan trái, tù tội, một “bi kịch lớn”. Ông chỉ mất tổng cộng chừng chục năm trời
để gây dựng nên sự nghiệp, nhưng lại mất tới gần hai mươi năm để đi kiện đòi lại tài sản của mình
bị tịch thu và đòi lại công lý cho mình.
2. Tạ Đình Đề (1917 – 1998) là một nhân vật và một huyền thoại cả thời chiến và thời bình. Ông
đã xây dựng và góp phần đưa Xưởng Dụng cụ Cao su Tổng cục Đường sắt trở thành một doanh
nghiệp lớn có nhiều sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài ngay từ khi còn chiến tranh và thời kỳ bao
cấp. Ông đã tạo điều kiện, dìu dắt, nâng đỡ và cưu mang nhiều người sa cơ lỡ vận, nhiều người
nhờ vậy đã thành đạt nhưng cũng vì những sự phá rào đó mà ông bị nghi ngờ và bị bắt, bị xét xử
vì tội đi ngược đường lối. Ông đã có nhiều quyết định táo bạo: áp dụng hình thức khoán sản phẩm,
khoán công việc đến từng người, từng tổ và trả lương theo sản phẩm, thực hiện thưởng lương
46 -
sinh năm 1972
những tin tức về cải cách, mở cửa kinh tế. Và những thông tin về
Đông Âu, những dự báo về sự tan rã của CNXH ở Đông Âu và sự
sụp đổ của Liên Xô… Tất cả đều là những chuyện vô cùng to tát,
chấn động với tôi. Tôi còn đọc cả những cuốn như Cù Lao Chàm và
Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn1, rồi những cuốn sách được
in vào năm 1984 - 1986 của Dương Thu Hương và sau đó là Tướng
về hưu và Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp… Những
tiểu thuyết ấy thực sự là hiện tượng, có tác động rất lớn trong xã hội
thời đó. Có một truyện của Nguyễn Huy Thiệp cũng tác động đến
tôi, đó là Thương nhớ đồng quê. Những sự kiện ông kể về cái chết của
Mị, và bài thơ của Bùi Văn Ngọc cũng thật cảm động. Qua các trang
sách, tôi thấy cuộc sống gần gũi của những con người bình thường,
không chỉ rõ ràng giữa trắng và đen, giữa bạn và thù. Đó là những
con người thực, với tính cách của con người bình thường, không
phải chỉ là người anh hùng.
Ngay trong cuộc sống hằng ngày, xã hội cũng xuất hiện nhiều
thay đổi. Nó như thể một luồng gió mới thổi ào vào xã hội đang trì
trệ đó, tác động đến hết thảy mọi người, và với những người thanh
niên đầy hăm hở sống như tôi, luồng gió đó thật mạnh mẽ. Nền kinh
tế bao cấp đã đến giai đoạn cuối, kiệt quệ hơn, khó khăn hơn, mọi
gia đình đều quá nghèo. Nhưng rồi Đổi mới ào đến, khi mọi người
còn chưa nhận ra được thực sự nó có thể mang lại những gì thì cuộc
sống của mọi người đã bắt đầu chứng kiến những thay đổi lớn lao.
tháng 13... Năm 1987, Tòa án Thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử ông khiến dư luận đặc biệt
quan tâm khi rất nhiều người dân đến bênh vực, ủng hộ nên kết quả Tòa không luận được tội và
tuyên là Tạ Đình Đề không phạm tội. Ông được trả tự do ngay tại Tòa.
1. Từ những năm 1980, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn nổi lên với các tiểu thuyết như Đứng trước
biển, Cù Lao Chàm viết về những vấn đề xã hội khi đó, cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu…
Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết Cù Lao Chàm đạt lượng phát hành cao kỷ lục (160.000 bản). Nhà văn
Nguyễn Mạnh Tuấn viết trong Cù Lao Chàm: “Cuộc sống xung quanh lúc nào cũng như lửa cháy.
Cả cái tốt lẫn cái xấu của nó đều hừng hực than hồng… Và đã truyền sang tôi những hối thúc đấu
tranh, những phân loại nóng bỏng”
- 47
nguyễn cảnh bình
Bố mẹ bạn tôi, nhiều người đi làm chuyên gia ở châu Phi, mua về
xe máy Cup 79, 80, 81… Một vài người đã lên giữ chức này nọ, như
kế toán trưởng, giám đốc, hiệu trưởng, trưởng phòng, rồi kế hoạch
3… nên cuộc sống dần bớt khó khăn. Cùng với những chiếc xe máy,
là câu chuyện về cuộc sống ở thế giới ngoài kia, nó lan dần vào mọi
ngõ ngách của các gia đình. Sự biến chuyển cứ từ từ xuất hiện như
thế, xuất hiện trong mỗi gia đình, trong mỗi con người, trên từng
con phố và ở từng khu nhà.
Khác với nhiều bạn bè, hoàn cảnh gia đình tôi vẫn như những
ngày bao cấp, chẳng thay đổi gì. Bố mẹ tôi cao tuổi hơn so với bố mẹ
các bạn và đã bắt đầu về hưu đúng khi cải cách bắt đầu, nên không
còn được hưởng lợi từ việc mở cửa, từ nền kinh tế thị trường nữa.
Mọi thứ trong nhà tôi vẫn tuềnh toàng như thể thời bao cấp trong
khi xung quanh đang thay đổi. Năm 1989, gia đình tôi chuyển nhà
về khu tập thể Nam Đồng, tất cả đồ đạc không đầy một cái xe tải
nhỏ, đấy là còn mang thêm cả hàng chục cục gạch theo. Gạch cũng
là tài sản, những thanh gỗ, tấm ván, cái tủ cong vênh... đều là tài
sản đáng giá của nhà tôi, ngoài ra chẳng có gì. Cái nghèo ấy cứ đeo
đẳng nhà tôi mãi đến sau này, và có lẽ nó cũng là thứ ám ảnh tất cả
những người khác. Sau này, có lần tôi nói chuyện với anh Trương
Gia Bình và nhiều anh tham gia sáng lập FPT, nghe kể lại sự nghèo
khổ là động lực lớn nhất, thôi thúc mọi người lập công ty hoặc lao
động kiếm sống. Hầu như không có mấy ước mơ lớn lao nào khác
trong cảnh khốn khó đó, không có âm nhạc, không có hội họa hay
triết học, không có mơ ước về bầu trời, về vũ trụ… Chỉ có cuộc
sống, cơm ăn, áo mặc và những thứ rất đời thường chi phối tâm trí,
suy nghĩ và hành động của con người.
Suốt những năm cấp ba, tôi nằm ngủ trên một tấm phản kê
trên hai chân kệ hoặc đôi khi chỉ là những viên gạch xếp chồng lên,
rồi rải chiếu lên để ngủ. Tài sản quý giá nhất của tôi ngày đó vẫn chỉ
48 -
sinh năm 1972
là những cuốn sách ít ỏi nhặt nhạnh, gom góp từ khắp nơi. Ngay với
căn nhà mà tôi sống tới tận bây giờ ở khu Nam Đồng cũng chứng
kiến những thay đổi sâu sắc về giá trị. Quy định khi đó, cấp tá, sĩ
quan thì ở nhà tầng, còn lính tráng, cần vụ thì ở nhà cấp bốn, bên
dưới đất… Bố tôi và nhiều người là sĩ quan cấp tá, được phân căn hộ
tầng ba, còn lính tráng thì được phân nhà nhỏ cấp bốn chừng 16-
18m2 trên mặt đất. Nhưng rồi kinh tế thị trường mở ra, những ngôi
nhà cấp bốn đó có thể cơi nới thành 50-60m2 , trở nên có giá hơn.
Tôi cũng nghiệm thấy rằng, giống như cuộc đời ông nội tôi, khi xã
hội thay đổi, vận mệnh, tài sản và số phận của mỗi con người, mỗi
gia đình cũng thay đổi theo, không thể hình dung trước được… Xưa
kia, nhiều tài sản là nguy cơ, nhiều đất đai có thể mang lại sự sợ hãi,
ngày nay thì ngược lại.
Lúc đấy tôi không hiểu vì sao, nhưng sự thực là gia đình tôi cứ
dần trở nên nghèo hơn. Khi xã hội bắt đầu khá giả lên nhờ những
chiếc xe máy Nhật cũ mua về hay nhờ các kế hoạch 3, không mấy
gia đình nhà bạn bè nghèo như nhà tôi, còn tôi thì không thể kể
ra điều đó với chúng bạn. Tôi dần dần tự cảm thấy có phần cay
đắng vì cái nghèo đó. Trong khi xung quanh bắt đầu có xe máy, ti
vi, tủ lạnh, thì nhà tôi vẫn tuềnh toàng y hệt như trước Đổi mới.
Dường như Đổi mới và Mở cửa không tác động gì đến nhà tôi vì
cha mẹ tôi hầu như đã nghỉ hưu, có phần còn khó khăn hơn cả khi
đi làm... Các chị tôi mới bắt đầu đi làm, đồng lương cũng không
nhiều gì. Tới năm 1994, khi tôi đã 22 tuổi, mẹ tôi mới dành dụm
đủ tiền mua một chiếc ti vi nội địa cũ của Nhật để lần đầu tiên, tôi
được xem ti vi ở nhà mình mà không phải sang xem nhờ nhà hàng
xóm hay bạn bè. Rồi mãi sau khi tôi đi làm, mới có điều kiện lắp
điện thoại cố định, rồi mua xe máy… Tôi ghét những vật chất tiện
nghi, sang nhà bạn chơi thấy có ti vi, đồ mới là tôi khó chịu, ganh
ghét… Tôi ghét cái nghèo!
- 49