GIÁ NHƯ YÊU ĐƯỢC MỘT NGƯỜI
--- ---
Tác giả: Hoàng Minh Tường
Nhà xuất bản Thanh Niên
Nguồn text: Waka
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap
I
B an ngày hay ban đêm, công viên bao giờ cũng là một thế giới nhiều dạng vẻ nhất của cuộc đời.
Chợ chỉ có "kẻ cắp", "bà già", kẻ mua người bán. Nghĩa địa chỉ có người chết và thỉnh thoảng là
những kẻ... đào trộm mả. Công viên là tổng hoà của thiên đường và địa ngục, cõi tiên và cõi tục, nơi mộng
ảo và chốn thô lậu của trần gian. Những du khách hay những cặp tình nhân thánh thiện sẽ gặp ở đây một
thiên nhiên khoáng đạt với rừng cây và trời nước, với những con đường lát gạch hoặc trải sỏi cắt chéo qua
những vạt cỏ xanh, chạy vòng quanh mặt hồ thoáng rộng tràn ngập nắng và gió mát mùa hè, bảng lảng
sương khói mùa đông. Những kẻ "trốn chúa lộn chồng" tha hồ trao cho nhau những cái hôn vụng trộm dưới
những vòm cây, ghế đá, bất kể ban ngày hay buổi tối, thậm chí tranh thủ và hối hả làm tình, tìm mọi cách để
Bthoả mãn nỗi khát khao nhau. Với trẻ con và người già, công viên là thế giới mộng ảo của tuổi thơ và của
những hoài niệm. Những cặp vợ chồng "lịch thiệp", sĩ diện một cách có văn hoá, rủ nhau đến công viên để
cãi nhau, trút lên nhau mọi sự bực bõ và nhàm chán của đời sống gia đình... có biết bao cô gái đã đánh mất
tuổi trinh nữ dưới những gốc cây kia? Có biết bao gã đàn ông cùng thề thốt một điệp khúc giống nhau dưới
một vòm cây với hàng chục người phụ nữ nhẹ dạ? Và ban đêm, trong những góc khuất lẩn dưới bóng tối
vòm cây là "thế giới" riêng của đủ loại đĩ điếm, nơi ẩn nấp và hành nghề của đủ loại trấn lột...
Vào một buổi tối tháng tư, các chiến sỹ an ninh đã bắt quả tang trong một góc tăm tối nhất của công
viên một ả điếm đang hành nghề với một người đàn ông có tuổi. Tiếng lóng của dân làng chơi gọi trường
hợp này là "đi tầu nhanh". Trong cấp độ đĩ điếm, đây là loại hạ đẳng nhất. Loại cao cấp chỉ hành nghề ở
các khách sạn, các restaurant mi ni. Loại trung cấp thường giả danh thành các chiêu đãi viên ở các quán
giải khát, rồi dẫn đến các "vòm", các "động" đã thuê sẵn. Loại hạ đẳng thường là những gái già, hết tơ mỡ,
kém nhan sắc. Chập tối họ thơ thẩn bên ác vườn hoa, dọc những con đường công viên hoặc che mắt công
an bằng một mẹt thuốc lá, một ấm nước chè, gặp khách, ngã giá xong, các ả dẫn khách vào các góc tối công
viên, "đi nhanh" trong năm mười phút rồi lại ra đón lượt khách mới.
Thị là một loại điếm hạ đẳng. Các chiến sỹ công an phường X. đã để ý đến thị từ hơn tháng nay, nhưng
chưa có điều kiện bắt quả tang. Thực ra, trông thị cũng không đến nỗi nào. Thị vận bồ đồ xoa mỏng, màu
xanh lam, loại bộ đồ mặc ở nhà của các phụ nữ biết làm đẹp cho mình, tức là ngoài sắc màu lộng lẫy còn
có thêm những đường đăng ten viền trên cổ áo, cánh tay, có bông hồng thêu trước ngực. chính anh công an
trẻ khi áp giải thị về đồn cũng phải thàm nhận xét rằng vẻ bề ngoài của thị còn mầu mỡ lắm. Bộ ngực không
mặc áo xu chiêng nây naỷa và có phần còn chắc nịch, đôi cánh tay trần trắng và mỡ màng, bộ mông núng
nính tròn căng đầy khêu gợi cảm giác nhục dục... Điểm xấu nhất ở trên người thị có lẽ là khuôn mặt. Một
khuôn mặt tròn, đã bôi son phấn nhưng vẫn không tôn cao một mi li mét nào cái mũi tẹt, không làm mỏng
bớt đi chút nào cái môi dầy. Duy có đôi mắt là đẹp, một đôi mắt to và đen, hơi u buồn nhưng dịu dàng. Ở
nông thôn, người như thế ắt có giá, nếu đức hạnh, gia đình tốt, hẳn mười bẩy mười tám tuổi đã có khối đám
nhăm nhe ăn hỏi.
Gã đàn ông thì thật là thảm hại. Một bộ mặt choắt cheo, đen đúa, với đôi mắt ti hí, cái mũi diều hâu và
hàm răng nhô, đen như răng cải mả. Đã thế, thân hình gã lại cao lòng khòng và gầy nhom. Gã mặc chiếc áo
bay màu cỏ úa đắt tiền mà đôi vai gồ cao lên như hai cái mấu của loại ghế tựa ba nan cải tiến. Chiếc quần
si mi li màu cứt ngựa rộng thùng thình không che giấu được đôi chân sếu gầy ngẳng, vì mỗi khi gã bước,
cái đầu gối xương xẩu lại nhô ra phía trước như mấu của một đoạn gộc tre.
Giấy tờ trong túi áo gã đàn ông cho biết: tên gã là Khúc Văn Khích, phó chủ nhiệm hợp tác xã nông
nghiệp N. Gã lên Bắc Thái mua trâu cho hợp tác xã. Tiền gã dắt theo bạc triệu. Có cả séc chuyển khoản
khống chỉ. Nhưng gã thừa tinh khôn để tiền bạc cho một đàn em giữ ở khách sạn, chỉ dắt theo cái túi vài
chục ngàn tiêu xài. Nhìn gã, có thể ước đoán hai khả năng: Một là vợ gã ở nhà quá xấu xí gầy guộc, đen
đủi, gã muốn ra tỉnh tìm một sự phốp pháp, nõn nà, núng nính, nây nẩy để bù đắp lại nỗi thiếu hụt và thèm
khát của gã. Hai là, gã thực sự là một kẻ phóng đãng, một tên sâu mọt và tham nhũng có hạng. Thời buổi
bây giờ, của Nhà nước, của tập thể, tức là không của ai cả. Cha chung chẳng ai buồn khóc. ở nông thôn,
dân trí còn thấp kém, lại bị nhốt bao nhiêu năm trong cái "lồng" hợp tác xã, cho nên từ anh đội trưởng sản
xuất trở lên đều có thể phất lên nhanh chóng nhờ hà lạm vào của cải tập thể. Chắc chắn gã là một người
như thế. Vậy thì tội gì mà không tiêu xài. Mang tiền đủ mua hai chục con trâu, nhưng gã chỉ mua mười bẩy
con thôi. Tiêu đi ba con trâu với gã có nghĩa lí gì. Và thế là tối nay gã đến đây tìm thị. Ngưu tầm ngưu mà.
*
Đồn cảnh sát phường nằm cách công viên một đoạn phố. Đây là một địa bàn phức tạp nhất quận, có
chợ lớn, có công viên, có cả một cái "xóm liều" ven đê do dân tứ xứ tụ họp. Một địa bàn xung yếu như thế
nên hầu như các chiến sĩ an ninh ở đây nhiều ngày phải trực hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ.
Trực ban giờ này là một nữ trinh sát còn trẻ - thiếu uý Lê My. Trong bộ sắc phục công an trông chị có
vẻ cứng cỏi và già dặn hơn so với tuổi ba mươi nhăm. Giá như Lê My diện một bộ áo phông, quần bò, hay
quần thụng mà phụ nữ bây giờ đang ưa dùng, lại thêm chút son phấn nữa, chắc chắn cái phần nữ tính vốn
tiềm ẩn ở chị sẽ nổi trội hơn rất nhiều.
- Báo cáo đồng chí trực ban, có một trường hợp vi phạm an ninh mà chúng ta cần phải xử lý...
Trong khi chiến sĩ phụ trách địa bàn báo cáo, Lê My nhìn lướt hai công dân mới đến bằng con mắt
nghề nghiệp, nghĩa là chị thử phán đoán bằng trực cảm và kinh nghiệm nghiệp vụ xem họ là người như thế
nào, đã từng có tiền án tiền sự nào chưa?
Người đàn bà quay đi, tránh cái nhìn của Lê My, nhưng vô tình thị lại quay nhìn cái gã mà vài chục
phút trước đây, thị đã sẵn sàng "đi nhanh" với gã. Chao ôi, thật là một nghịch cảnh, thật quá đỗi ê chề.
Trong góc tối công viên thị hoàn toàn không nhận ra mặt mũi gã. Cả lúc bị anh công an giải trên đường, gã
đi trước nên thị cũng không hề nhìn thấy mặt mũi gã. Ừ thì tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh, miễn là thị
kiếm được chút tiền. Nhưng bây giờ, mặt đối mặt, thị mới thấy hết cái ê chề, nhục nhã của cái nghề kiếm
cơm tanh tưởi này. Không những gã xấu xí, đen đủi mà có lẽ gã còn già nua đến gấp ba lần tuổi thị. Bộ
quần áo của gã mới nhom nhem, nhàu nát làm sao. Đúng là một gã lái trâu. Lúc chuẩn bị vào bóng tối, gã
bảo: "Vài hôm nữa về, anh lại hẹn gặp em ở đây. Thắng "quả" này, anh sẽ tặng hẳn em một con trâu..."
- Anh chị cho xem giấy tờ - Lê My mở quyển sổ trực ban rồi nhìn xoáy vào gã lái trâu.
Đang đứng khom người, nghe nhắc đến mình, gã lái trâu bỗng co rúm lại. Thật là nghịch cảnh, mới
hôm kia thôi, trước khi lên đường làm công vụ, gã còn quát lác ầm ĩ với mấy người xã viên mua chịu phân
đạm hợp tác không kịp trả tiền ngay trước trụ sở hợp tác xã. Nếu như cái mũi diều hâu của gã lúc ấy dài ra
bao nhiêu, đỏ tía lên bao nhiêu thì bây giờ nó quặp lại và tái mét hẳn đi.
- Dạ, giấy tờ tôi đã nộp hết cho đồng chí... - Gã nói ấp úng và nhìn liếc con mắt một mí ti hí sang đồng
chí trung sĩ.
Một tấm thẻ chứng minh thư và tờ giấy giới thiệu có con dấu hình bầu dục được anh chiến sĩ trinh sát
đặt lên bàn.
"Họ tên Khúc Văn Khích. sinh năm 1937. Nghề nghiệp: làm ruộng. Quê quán: Thôn X, xã Y, tỉnh Z.
"Đó là toàn bộ lý lịch sơ bộ của gã. Tờ giấy giới thiệu có ghi thêm chức danh: Phó chủ nhiệm hợp tác xã
nông nghiệp N., được cử đi công tác các tỉnh miền núi để hoạt động dịch vụ tổng hợp, tạo điều kiện phát
triển sản xuất nông nghiệp.
Lê My ghi vắn tắt những dòng chữ trên vào sổ trực ban. Chị lắc đầu buồn bã. Mỗi một làng quê chỉ
cần có một vài cán bộ như thế này thì không biết dân tình còn đói khổ đến bao giờ...
- Còn chị? - Lê My quay sang người đàn bà. Nhưng ngay lúc đó anh trung sĩ đã ghé vào tai chị nói
thầm:
- Trường hợp này chúng tôi đã theo dõi ả suốt một tháng nay. Ả là một gái điếm chuyên nghiệp vẫn
hành nghề ở khu vực công viên...
Lê My khoát tay cho anh trung sĩ, tỏ ý đã hiểu mọi chuyện. Chị nhìn thẳng vào mặt người đàn bà và
bỗng nhắm mắt lại một giây như cố lục tìm trong kí ức một hình ảnh nào đó mà chị đã gặp lâu lắm rồi. Ở
đâu nhỉ? Ta đã gặp người đàn bà này ở đâu rồi nhỉ? - Lê My tự hỏi mình. Một gương mặt trái xoan với đôi
mắt đen láy, cái mũi tẹt và đôi môi dầy. Và kìa, một nốt ruồi lớn ngay giữa nhân trung...
- Quê phải không? - Đột nhiên Lê My bỗng bật ra một câu hỏi. Dường như đó là cái câu bật ra từ tiềm
thức của chị, trong cái bộ nhớ không hẳn là của nghề nghiệp mà là của thiên bẩm phụ nữ, một thứ thiên bẩm
chỉ có được ở những người có một trái tim dễ rung động, một tấm lòng vị tha và nhân đạo.
Người đàn bà bỗng run bắn lên như vừa bị bàn tay vô hình nào đó bóp nghẹt trái tim mình. Đã mười
năm rồi, đây là lần đầu tiên có người gọi đúng cái tên cúng cơm của thị. Cái tên trìu mến suốt một thời thơ
ấu, cái tên gắn bó với cái làng nhỏ bên bờ sông Đáy, với ngôi trường làng có cây phượng vĩ già thường trổ
bông rất muộn sau mỗi mùa hè. Đúng, mười năm rồi, cái tên ấy đã chết. Cả làng quê của thị người ta cũng
đã quên nó đi rồi, hoặc giả nếu có ai nhắc đến thì đó cũng chỉ là tín hiệu của một sự điếm nhục, một vết
nhơ mà làng cần phải tẩy rửa. Đào Thị Quê - cái tên ấy đã bị khai tử mười năm rồi. Mười năm nay thị cũng
không về làng. Thị có thêm bao nhiêu cái tên mới: Quế, Quỳnh, Quy, Quyên... Những cái tên na ná với tên
Quê, nhưng đã mang cái dáng dấp thị thành, đã hoàn toàn nhiễm cái chất thập thành.
- Không. Tên em không phải thế. Em van chị - Thị bỗng khuỵu hai chân xuống, quay về phía Lê My và
chắp hai tay trước ngực. Chính thị là người phát hiện ra Lê My đầu tiên, ngay từ lúc bước chân vào phòng.
Có những con người mà cả cuộc đời ta sẽ không thể nào quên được dù chỉ gặp một lần. Với thị, Lê My
chính là người như thế. Chị ấy vẫn như xưa, vẫn như mười năm về trước. Có khác chăng là những nếp nhăn
ở đuôi mắt mau và sâu hơn. Ôi giá như vạt đất dưới chân Quê bỗng sập xuống, chôn vùi Quê đi để cho
Quê không phải nhìn thấy chị. Giá như trước mặt Lê My, Quê chỉ có duy nhất cái tâm trạng của một tội
nhân trước quan toà. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu và tàn nhẫn quá. Mười năm Quê trốn chạy, trốn chạy một
cách chui lủi và đê tiện, vậy mà giờ đây Quê vẫn không trốn thoát được ân nhân của mình. Cuộc đời Quê,
từ cái năm đầy cay đắng và khổ ải ấy, Quê sợ nhất là phải gặp lại những người tốt, những người từng cưu
mang và mong muốn cho mình thực sự được sống với ý nghĩa con người.
Dường như Lê My đã đọc được những ý nghĩ trong đầu người đàn bà. Chị nói với đồng chí trung sĩ:
- Đồng chí đưa chị ấy sang phòng bên. Tôi sẽ làm việc với chị ta sau.
Còn lại gã lái trâu trong phòng. Gã cuống quít xoa hai bàn tay xương xẩu như những khúc rễ tre vào
nhau và lắp bắp cái giọng khan đặc thuốc lào:
- Báo cáo đồng chí. Không, xin lỗi. Kính thưa chị... Tôi trót dại... Tôi đi mua trâu cho hợp tác xã... Vụ
rét vừa qua, chúng tôi bị chết nhiều trâu quá. Nghe nói ở đây có nhiều dịch vụ mát xoa. Chúng tôi quê mùa,
quanh năm bùn đất phân gio... Nhân chuyến đi công tác, tôi cũng muốn biết cái văn minh của...
Mặc dù mấy lần cố kìm lại, nhưng Lê My cũng không thể kìm nổi tiếng cười.
- Văn minh ư? Chính anh đã góp phần giết chết cái nền văn minh của thành phố... Chúng tôi bắt buộc
phải gửi công văn về địa phương...
- Em van chị... Em xin chị... Chị làm thế thì sinh mạng chính trị của em coi như hết. Ở địa phương, em
là người có uy tín và lý lịch trong sạch. Vụ khoán vừa rồi, hợp tác giảm biên chế đến hai phần ba cán bộ,
nhưng em vẫn được đảng uỷ và nhân dân tín nhiệm giữ lại. Đời em chỉ trót dại một lần này thôi. Em xin
hứa... Em nguyện sẽ phấn đấu... Em xin chịu phạt vi cảnh, bao nhiêu cũng được. Chỉ xin các đồng chí đừng
gửi công văn về xã.
Gã vừa nói vừa mếu máo. Gương mặt gã dúm dó lại. Trong đôi mắt gã vừa có sự hoảng loạn vừa có
nỗi ăn năn thành khẩn.
Lê My chống tay lên trán thở dài. Chị không muốn nhìn vào mặt gã. Một thằng đàn ông đã có gan đi
chơi gái mà sao lại hèn hạ và thảm hại đến thế. Chao ơi, sinh mạng chính trị. Con người như gã mà còn
dám nói cái điều ấy bằng cái vẻ mặt và giọng nói đầy cuồng tín và chân thành. Thà rằng gã cứ nói toẹt ra
rằng gã bức bí quá, cần được giải toả, có lẽ chị sẽ thương hại gã và đỡ tởm lợm hơn.
- Kính thưa chị, em... - Chừng như thấy những lời nói của mình đã làm người nữ công an mủi lòng, gã
xun xoe tiến đến cạnh bàn, lấm lét nhìn xung quanh rồi bất ngờ rút từ trong túi áo ra một xấp tiền năm ngàn
mới cứng, đặt lên bàn - Em... có một chút quà nhỏ gửi cho các cháu, mong chị vui lòng...
- Tôi cấm anh... - Lê My bỗng xô ghế đứng dậy. Ánh mắt đượm buồn pha chút chế giễu, chua xót vừa
nãy, bỗng sắc lạnh, bừng bừng giận dữ - Chúng tôi sẽ lập biên bản về sự xúc phạm đến cơ quan an ninh của
anh.
- Dạ thưa... Em... Em hoàn toàn xuất phát từ lòng quí mến chị - gã lái trâu run bắn, vội vã thu ngay xấp
tiền lại.
Lê My không kìm nổi sự khinh bỉ. Chị bỏ vào phòng trong. Gã lái trâu hốt hoảng nhìn quanh quất như
cố tìm một lối thoát. Rồi gã lắng tai nghe. Hình như người nữ công an trao đổi một điều gì đó với người
lãnh đạo của mình về gã.
Lát sau, Lê My trở lại phòng. Chị đã bình tĩnh trở lại, sự bình tĩnh của một người vô cảm khi bước qua
một đống phân rác bên đường.
- Anh có thể về. - Chị nhìn đồng hồ và đưa cho gã giấy tờ - Nhưng trước khi anh đi khỏi đây, tôi cũng
cần phải nói với anh mấy lời...
Gã lái trâu vơ vội giấy tờ đút vào túi áo. Rồi như một con chiên trước Chúa, gã thỗn mặt chờ đợi.
- Dạ, xin chị cứ dạy...
- Trước hết, anh bỏ cái kiểu xưng hô khúm núm và hèn hạ ấy đi. Nó không tỏ đúng tư cách một người
đàn ông ở tuổi như anh. Tôi biết, trước những người nông dân ở làng quê anh, anh hống hách chẳng kém gì
những tên ác bá ngày xưa. Thứ hai, việc chúng tôi tạm tha cho anh về là xuất phát từ việc muốn tạo điều
kiện để anh hoàn thành tốt công việc mà hợp tác xã đã giao phó cho anh, chứ hành vi tối nay của anh, với
cương vị một người cán bộ đang giữ trọng trách ở hợp tác xã, thì thật không thể tha thứ được. Anh hãy suy
ngẫm. Khoá tới này, tốt nhất là anh hãy tự xin thôi việc để làm một gã lái trâu thuần tuý...
Lê My dừng đột ngột. Chị ngán ngẩm quay đi không muốn nói tiếp những điều chị định nói với gã.
- Dạ.. Em xin nghe lời chị... - Hết khoá này em cũng xin nghỉ. Em thấy mình thật không xứng đáng với
nhân dân...
Gã bỗng cười nhăn nhở. Cái cười thật tởm lợm khiến Lê My không thể chịu nổi. Chị lấy tay xua gã như
xua một con dê già kệch cỡm và vô xỉ.
II
L ê My nhận ra Quê hoàn toàn không phải bằng trí nhớ nghề nghiệp, mặc dù chị đã có mười lăm
năm trong ngành, mặc dù chị luôn được cấp trên và đồng nghiệp khen là người có một trí nhớ
tuyệt vời. Có những việc, kinh nghiệm nghề nghiệp cũng chẳng giúp gì cho ta được, nếu ta chỉ có một bộ
nhớ trống rỗng vô hồn.
Đôi mắt đen láy kia, cái nốt ruồi chính giữa nhân trung kia, như một tín hiệu gọi về trong ký ức Lê My
tất cả những gì đã xảy ra mười năm về trước. Ngày ấy My mới hai mươi nhăm tuổi. Một phụ nữ trẻ, xinh
đẹp và có phần mảnh mai, mềm yếu như My, lẽ ra phải làm một cái nghề gì đó, như bán hàng, dạy học,
hoặc nhân viên du lịch. Việc vào ngành công an, với Lê My, quả là một tình cờ, hoặc giả như một sắp đặt
Lcủa định mệnh. Nếu như tiêu chuẩn hàng đầu của người chiến sĩ an ninh là phải dũng cảm, nhanh trí, tháo
vát, quyết đoán... thì Lê My dường như thiếu hẳn những điều đó. Ở My chỉ có lòng nhân hậu, sự dịu dàng
và tận tuỵ, nhưng đức tính dường như chỉ cần thiết cho một người vợ, người mẹ, một người nội trợ.
Vào một buổi sáng, khi Lê My vừa đạp xe đến nhiệm sở thì nhận được lệnh gấp: Chị phải đến ngay
khách sạn Tương Lai để điều tra một vụ án mà các chiến sỹ trinh sát vừa khám phá đêm qua.
Nạn nhân bị gây hại chính là Đào Thị Quê, mười sáu tuổi, một cô gái nông thôn vừa ra Hà Nội hai
tháng qua.
Khi Lê My đến, cô gái chưa đến tuổi vị thành niên, như người bị bệnh tâm thần phân liệt, nghĩa là cô
không nhớ gì hết, có lúc cô lả đi như vừa bị một liều thuốc ngủ quá mạnh, có lúc cô bỗng hết toáng lên
chạy bổ vào một góc nhà hoặc gậm giường, góc tủ, đầy vẻ hoảng loạn. Hồ sơ của vụ án mà Lê My được
bàn giao lại chỉ là mấy dòng hết sức sơ sài:
"- Nạn nhân: một cô gái chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Không rõ tên. Không rõ quê quán.
- Địa điểm xẩy ra vụ án: Phòng số 17, tầng 3, khách sạn Tương Lai.
- Hiện trường khi phát hiện vụ án: Cửa phòng khoá trái. Nạn nhân bị giam và bị bỏ đói ít nhất đã hai
ngày. Chăn đệm trong phòng bị nhàu nát, có vết máu. Nạn nhân trong trạng thái đói lả và hôn mê.
- Các hung thủ đã bỏ trốn, không để lại vết tích gì.
- Trinh sát đang tích cực và khẩn trương truy tìm các thủ phạm..."
Lần đầu tiên sau năm năm trong nghề Lê My được giao một nhiệm vụ hoàn toàn phù hợp với tính cách
và phẩm chất con người chị. Chị vừa làm công việc của một bác sĩ đối với bệnh nhân, vừa là người chị
đối với đứa em gái bé bỏng, vừa làm một trạng sư tiếp cận những cứ liệu chân thực để chuẩn bị bào chữa
cho bị can. Căn phòng riêng, biệt lập của bệnh viện ngành chỉ có Lê My, một nữ bác sĩ và cô gái tội
nghiệp.
Ngày thứ ba, cô gái đã tỉnh táo trở lại. Cô gục đầu vào lòng Lê My khóc như một đứa trẻ, và kể lại
cho chị nghe tấn bi kịch đau lòng mà cô vừa trải qua.
*
Vừa học hết lớp bẩy thì Quê phải nghỉ học, vì nhà quá đông anh chị em. Mẹ Quê, một người đàn bà
nhỏ bé, gầy quắt queo nhưng lại mắn đẻ như gà. Bà đẻ một lèo mười một lần, bỏ đi ba, còn lại tám người
con. Anh con trai cả, mười bảy tuổi đã xung phong đi bộ đội, vào chiến trường hai năm thì có giấy báo tử.
Ngay năm ấy, anh thứ hai lại khoác ba lô lên đường. Đi được ba tháng, ông bố lên đơn vị xin cho anh về
phép, với lý do bà mẹ vừa đẻ đứa thứ mười một bị hậu sản sắp chết. Kỳ thực là ông bà lo thằng Hai không
có người chống gậy, phải dấm dúi giấu đơn vị cưới vội cho anh một cô vợ. Cưới xong ba ngày anh phải đi
trả phép, rồi biền biệt vào chiến trường bốn năm không có một mẩu thư từ. Oái oăm thay, sau đúng một
năm ngày anh về cưới vợ, cô vợ trẻ măng và mũm mỉm của anh đẻ một thằng cu "chống gậy". Thằng bé
giống lão chủ nhiệm thọt như lột. Cả làng ai cũng bảo thế. "Ông bà nội" nó cũng biết thế, nhưng đành phải
ngậm bồ hòn làm ngọt, cắn răng không dám hé nửa lời. Bởi ngày ấy, ông chủ nhiệm có uy thế lắm. Chỉ cần
hé lộ tư tưởng chống đối là bị cắt phần lương thực điều hoà, bị điều đi làm những việc ít công điểm, thậm
chí bị khép tội bôi xấu chế độ, bôi xấu cán bộ, tiếp tay cho địch. Quê vừa đi học, vừa phải nuôi một xuất
trâu, vừa phải vẹo xương sườn bế thằng con cho ông chủ nhiệm thọt.
Một hôm vào buổi chiều, khi Quê vừa bế thằng cháu vừa thả trâu ở rìa làng thì gặp ông chủ nhiệm thọt
đi họp trên huyện về. Trông thấy hai cô cháu, ông vội nhảy đại xuống xe.
- Này Quê, bế cháu vào đây bác bảo - Ông dựa xe vào đống rạ cạnh đường, vẫy tay gọi Quê lại.
Cô bé sợ sệt nhưng không dám trái lời. Có lẽ lúc ấy một phần do cái oai của ông chủ nhiệm, một phần
vì trời đã ngả chiều mà rìa làng lại vắng vẻ quá. Nhưng có lẽ cũng một phần do cái tính tò mò trẻ con. Thử
xem ông ấy đối xử với thằng cu ra sao? Thử xem thằng cu nó có "theo" ông ấy không?
- Đây, bác có quà cho hai cô cháu - Ông chủ nhiệm thò tay vào túi áo lôi ra một gói kẹo giấy bóng kính
óng ánh. Mắt hai cô cháu cùng sáng rực. Lần đầu trong đời Quê được nhìn thấy một gói kẹo ngoại hấp dẫn
đến thế. Ông chủ nhiệm dí sát gói kẹo vào tay thằng cu, nhưng nó sợ, cứ ôm chặt lấy cổ Quê.
- Nào, ra đây bác bế một cái, thằng cu ngoan nào - Ông chủ nhiệm dỗ dành, mặt ông đờ ra, đôi mắt
ngấn ướt. Lúc ấy Quê cảm thấy rất rõ những thớ thịt trên gương mặt ông giật giật, bàn tay ông run rẩy. Rõ
ràng ông đang xúc động, một nỗi xúc động bản năng bị câu thúc bởi mối liên hệ huyền bí nào đó.
- Kìa cu, bác chủ nhiệm mà - Quê nghiêng người, như đẩy thằng bé về phía ông chủ nhiệm. Cô có ý
khuyến khích nó bởi cái vẻ mặt đầy cầu khẩn và xúc động của ông, và cũng bởi cả gói kẹo nhiều mầu sắc
hấp dẫn ở tay ông nữa.
Ông chủ nhiệm choàng tay ôm lấy thằng bé. Vòng tay của ông thật dài, thật rộng, đến nỗi ông ôm cả hai
cô cháu lọt thỏm vào lòng. Ông áp bộ mặt đầy râu vào cổ thằng bé, áp cả cái miệng đầy răng vào mặt cô
nó. Rồi một bàn tay của ông không hiểu vô tình hay cố ý thả trượt từ vai thằng bé xuống vai Quê, rồi ngực
Quê. Cái bàn tay rộng và run rẩy cứ xoa vuốt mãi quanh chiếc vú chũm cau của cô bé mười ba tuổi khiến
tim cô cứ nhảy tưng tưng dưới bàn tay ông. Cô choáng ngợp trong nỗi sợ hãi, cô bàng hoàng trong một cảm
giác khác lạ mà trước đó chưa bao giờ cô thấy ở mình. Vạt áo mỏng nơi ngực như nóng ran lên, như có thể
bốc cháy được. Rồi bàn tay của ông lần sâu xuống dưới, chà sát vào eo cô, vào bụng cô. Những ngón tay
như những con rắn vừa mềm mại vừa cứng cáp trườn vặn khắp da thịt cô bé...
Sau này, khi đã trở thành đàn bà, khi đã lang chạ với đủ các hạng người, nhớ lại cảm giác buổi chiều
đó, Quê đã tự thú với mình rằng đó là lần đầu tiên trong đời cái khát vọng tình dục trong cô đã được đánh
thức. Đánh thức từ ngay cái tuổi mười ba đầy biến động của đời thiếu nữ. Và ông chủ nhiệm thọt, như hiện
thân của ma quỷ đã vùi sẵn trong cô ngọn lửa ma quái sẵn sàng thiêu đốt cả thân xác và cuộc đời cô.
Cái buổi chiều đó như dấu hiệu của một định mệnh, để rồi ba năm sau, ở tuổi mười sáu, Quê đã phải
bước vào phòng số 17 tầng 3 của khách sạn Tương Lai như một gái lầu xanh.
Cái năm Quê mười sáu tuổi ấy, cô đã có vóc dáng của một thiếu nữ dậy thì. Nhiều anh trai làng mười
bẩy, mười tám, mặt non choẹt, râu tơ mép lún phún gặp Quê đã mắt tròn mắt dẹt. Giá như năm ấy mẹ Quê
không bị mất đột ngột, giá như năm ấy anh Hai cô không bị tâm thần vì chấn thương sọ não từ chiến trường
và bố cô không bị ốm ho ra máu vì vụ tranh chấp mảnh ruộng phần trăm với lão Tẻo chột ở xóm Hạ thì đời
Quê có thể đã hanh thông, đã như bao thiếu nữ khác ở làng, đến tuổi lấy chồng, rồi sinh con đẻ cái, rồi trở
thành gái xề, trở thành một bà nông dân như bao cuộc đời lầm lũi mà yên ổn ở làng quê.
Cái năm ấy là một năm tai hoạ. Cả làng mặt xanh xạm vì đói. Người ta ùn ùn kéo nhau lên Bắc Thái,
Tuyên Quang mua sắn. Người ta bán lúa non cho người giàu. Có người đói quá đành vuốt nước mắt đưa
con đến ở nhà người. Gia cảnh nhà Quê còn thảm hại gấp bội. Chủ nhiệm thọt tham ô, tếch vào Lâm Đồng,
mang theo cả cô chị dâu quí hoá của Quê cùng "thằng cháu đích tôn". Anh Hai thỉnh thoảng phát bệnh tâm
thần lại vác dao phay lên văn phòng hợp tác xã tìm thằng chủ nhiệm thọt "để xin hai hòn về nhắm rượu".
Thật may, đúng lúc cả nhà đang sống dở chết dở thì ông chú họ Quê về làng. Ông làm chức gì không
biết, nhưng bao giờ về làng cũng đi một chiếc Maxcơvich màu đỏ chói. Trước kia ông đã từng lấy một cô
vợ ở nhà quê, nhưng rồi bỏ. Năm mươi tuổi ông đi bước nữa, lấy một cô vợ trẻ măng, tuổi chỉ bằng cô con
gái lớn của ông. Cô vợ trẻ vừa đẻ cho ông một cậu con trai. Ông về làng để tìm một người ra giặt giũ, cơm
nước. Thế là Quê trở thành một con sen theo đúng cái nghĩa của thời Tây.
Căn nhà ấy vốn là một ngôi biệt thự của một tên chủ Pháp. Một ngôi nhà kiến trúc gôtích, hai tầng, có
gara ô tô, các phòng lát sàn gỗ lim, có lò sưởi cổ, có hàng rào sắt bao quanh. Suốt một tuần đầu, như một
cô bé lẩn thẩn, những lúc bà thím ngủ hoặc bế con, cô lại dò dẫm đi khắp lượt các phòng, các xó xỉnh để
sờ mó, ngắm nghía. Nỗi sợ nhất khiến cho cuộc "thám hiểm" cái thế giới đầy lạ lẫm và bí ẩn đối với cô
luôn bị chậm lại là con chó bécgiê cao to như con bê mộng mà ông chú hết sức cưng chiều. Con chó trung
thành với chủ đến mức mấy ngày đầu cô không dám cầm một cái xoong, cái rổ ra khỏi bếp, không dám cầm
một vật bất kỳ nào ra ngoài cổng. Được cái ông chú là người rất yêu chiều vợ, nên thấy cô hiền lành, tận
tuỵ, ông cũng quí mến.
Một tháng liền Quê không hề bước ra khỏi ngôi biệt thự ấy. Công việc của cô là giặt giũ, lau quét nhà,
nấu cơm và bế con cho bà thím đi chợ. Tuổi mười sáu, được ăn uống đầy đủ, không phải chân lấm tay bùn,
cô thiếu nữ nhà quê thay da đổi thịt rất nhanh. Cô đẹp ra, trắng mũm mĩm, mông, vú mây mẩy đến mức ông
chú họ những lúc đi làm về, chợt thấy cũng phải sững sờ.
Đừng có ai nghi ngờ về sự trong sáng của ông chú họ Quê. Ông là người cách mạng và ông đang thăng
tiến. Vả lại bà vợ trẻ của ông như một con sư tử cái đang nằm ở cữ. Bà nằm với cậu ấm trên chiếc giường
đệm mút trong căn phòng sang trọng, nhưng tai mắt, nanh vuốt đã để ở khắp mọi nơi, kể cả nhiệm sở và
những nơi đi lại của đức ông chồng.
Thảm kịch bắt đầu từ cái ý thích oái oăm của bà thím đang ở cữ. Bà chủ thích ăn bánh cuốn, nhưng
không phải là thứ bánh cuốn ngoài chợ. Cả thành phố, theo bà, chỉ có bánh cuốn của hàng bà Cả Lợi trên
đầu dốc Yên Phụ mới là loại thứ thiệt. Ngồi xổm trên ghế cạnh chiếc lò than, đợi từng chiếc bánh cuốn
mỏng tang có nhân thịt hành mỡ, nóng hôi hổi, rồi chấm với nước mắm cà cuống Hồ Tây, ăn kèm thêm với
chiếc giò lụa nhỏ bằng ngón tay cái, mềm sựt, thơm ngậy.... thì thật là tuyệt. Hai tháng không đi ra phố, bà
thím thấy nhớ cái vị bánh cuốn ấy ghê gớm, nỗi nhớ thật là vật chất và cụ thể như những cô gái thị thành
vẫn nhớ cái món ốc luộc ở đầu các vỉa hè. Thế là bằng mọi giá bà thím bắt Quê phải đi lên tận dốc Yên
Phụ, tìm đến hàng bà Cả Lợi để mua nhân bánh, nước mắm cà cuống, giò lụa và nước bột xay để về tự tay
làm món bánh cuốn.
Giá như bà thím đừng quá xót của, cứ đưa hẳn cho Quê chiếc xe Điamant, hoặc giả ông chú chịu khó
đèo cháu trên chiếc Vespa của ông thì chỉ một loáng, chắc chắn món bánh cuốn của bà thím đã thành hiện
thực.
Nhà giàu thường đi liền với sự keo bẩn. Quê đành phải đi bộ, đi bộ hơn bốn cây số giữa chằng chịt
phố xá, đông nghịt người xe. Một cô gái quê lần đầu ra Hà Nội, ngơ ngác, lạ lẫm như bò lạc vào phố, tò
mò, háo hức như trẻ con lạc giữa những sạp đồ chơi. Mà dân tỉnh đâu có tận tình chỉ bảo như dân quê. Họ
chỉ phải đi lối này lối kia cho xong chuyện. Có những gã con trai còn chơi khăm, bày cách cho Quê đi lung
tung để chọc cười.
Quê đi quanh quẩn đến bốn tiếng đồng hồ. Cái dốc Yên Phụ ở phía bắc thì cô lạc hẳn sang phía tây.
Cho đến tám giờ tối, khi sực nhớ phải về nhà chịu tội với ông chú, bà thím, thì Quê đã lạc hẳn vào một ngõ
hẻm. Cái ngõ hẻm với lờ mờ những bóng điện đỏ quạch, hai dẫy nhà lợp giấy dầu, lợp nứa, nilông, cót ép
thò ra thụt vào, xiêu vẹo, như đổ sụp vào nhau. Cống rãnh ngập ngụa, nước chảy từng dòng sền sệt, đen
đặc, bốc lên mùi thum thủm của chất hữu cơ và phân người phân lợn chưa phân huỷ. Và những bộ mặt
người, những đôi mắt người sao mà lì lợm, nanh nọc và hau háu thế kia.
- A ha, một con bò lạc - Quê nghe văng vẳng tiếng một gã đàn ông nào đó như ục ra từ một cái cổ họng
mềm, nhũn hơi men. Mà quả thực, Quê có cảm giác của một con bò lạc đang đụng phải một phường săn.
Quê đang định xoay người quay trở lại thì lù lù từ phía sau, năm gã đàn ông tiến tới. Chúng dắt ba chiếc xe
đạp từ trong quán rượu đi ra. Cầm đầu là một gã đàn ông trạc tuổi ba mươi nhăm có đôi mắt ti hí và bộ râu
ngạnh trê vểnh ngược. Bốn tên kia trạc tuổi ngoài hai mươi, trong đó có một tên bé choắt rất khó đoán tuổi.
- Này cô em, tìm nhà ai? - Tên râu ngạnh trê ép sát vào người Quê, bàn tay phải cụt hai ngón của gã
chộp lấy vai cô bóp mạnh.
Quê như một con cua bấy bị con ếch úp lên mai. Cô rúm người lại. Cô run lẩy bẩy.
- Dạ cháu... lên dốc... Phụ... À không phải. Cháu về phố Bà Triệu...
- Hớ hớ... Lên dốc Phụ... thì cho lên dốc chính... Này em, các anh đây sẽ đưa em về nhà. Các anh là
người tử tế. Biết em ở quê ra, thương lắm - Tên bé choắt vuốt má Quê, rồi đưa mắt cho tên cầm đầu.
Không cần nói mà chúng đã hiểu ý nhau.
- Đi vòm hay đi hô-ten-đờ-công viên? - Một đứa hỏi bâng quơ.
- Hô-ten thứ thiệt chứ công viên gì. Non mềm ngang với chén thịt bê thui...
- Thôi, lên xe đi cô em. Bọn anh sẽ hộ tống cô em về tận nhà. Cứ nhìn mặt các anh xem, các anh là
người tử tế. Các anh không muốn em đi bộ trong cái ngõ hẻm này, nguy hiểm lắm...
Bốn gã trẻ lên hai xe, còn gã râu trê luồn bàn tay ba ngón qua eo Quê ép cô lên gác ba ga.
Quê không còn kịp phản ứng gì. Cô như bị bắt mất hồn, như con mồi bị lùa vào bẫy, hốt hoảng và răm
rắp làm theo như một cái máy. Năm gã đàn ông đưa Quê lòng vòng qua những phố hẻm như để cố kéo dài
thời gian. Cho tới mười giờ tối thì cả bọn kéo tới khách sạn Tương Lai.
Người thường trực khách sạn hình như đã quá quen thuộc với những loại khách dạng này. Khách sạn
được đầu tư để đón tiếp những người khách trẻ tuổi cả nước, năm tầng, phòng ốc rộng thênh thang, nhưng
hoạ hoằn lắm vào những dịp hội hè mới có người, còn suốt tháng đóng cửa im ỉm. Ở nơi khuất nẻo, lại
vắng khách, nên thu nhập của các nhân viên ngoài lương cơ bản ra thường không có gì. Bởi thế người ta
mới nghĩ ra sáng kiến cho các khách vãng lai thuê phòng, đấm dúi chia nhau tiền buồng, tiền puốc-boa.
Ban đầu là các khách đứng đắn, có giấy tờ nghiêm chỉnh, sau dần phát triển đến các khách tạp nham, muốn
sử dụng khách sạn như một vòm chứa.
- Này chiến hữu, giành cho một buồng. - Trong khi tên râu ngạnh trê lai Quê phóng thốc qua cửa bảo
vệ vào một góc tối, hai tay trẻ tuổi tiến thẳng đến cửa bảo vệ, vừa nói với người thường trực, vừa dúi vào
tay anh ta một xấp tiền - Không phải đếm chác gì cả. Chơi với bọn này bao giờ cũng có màu. Chẵn một
bách đấy.
Thế là căn phòng 17 tầng 3 thành một cái ổ quỷ. Thảm thương thay cô gái quê mười sáu tuổi đã bị năm
thằng đàn ông thay nhau hành lạc. Gần sáng, cô như một cái xác, loã lồ, nằm mê man trên chiếc nệm nhàu
nát, không biết gì.
III
S ao cuộc đời lại có những người tàn ác và đểu giả đến thế. Không, chúng chẳng còn là người nữa mà
chỉ còn phần thú tính. Chúng đã hành hạ cô bé mười sáu tuổi với tất cả bản năng thú tính điên
cuồng. Bác sỹ phải khâu cho Quê 8 mũi...
Nghe cô bé kể lại tấn thảm kịch, suốt hai đêm liền mình không ngủ được. Phát khóc vì thương cô bé.
Cả tiểu đội trinh sát đều căm uất, quyết tìm bằng được thủ phạm...
14 tháng 4.
Đã tìm ra bọn thủ phạm. Cầm đầu là thằng Lanh râu trê, cụt hai ngón tay phải, biệt hiệu là Lanh cụt.
Nhìn đôi mắt ti hí của nó, muốn nhổ ngay vào mặt. Lanh cụt đã có ba tiền án, mới được tha từ trại cải tạo
Svề. Bốn đứa kia đều là thanh niên lưu manh, không nghề nghiệp. Những tệ nạn trong thành phố gia tăng
trong những năm gần đây đều có nguyên nhân trực tiếp từ tình trạng không có công ăn việc làm và việc
quản lý xã hội lỏng lẻo...
18 tháng 4.
Anh đi công tác các tỉnh phía Nam về. Sau gần hai tháng xa, ngập tràn trong hạnh phúc. Anh như một
con hổ đói, cuồng nhiệt và dữ dội... Không biết có phải vì xa nhau lâu ngày hay vì đã thu nhận được những
kinh nghiệm mới mà anh làm mình vừa... thích thú vừa sợ hãi.
Nằm bên anh, nghe tiếng ngáy đều và bình thản của anh mà mình không thể nào chợp mắt được. Lại
nghĩ đến Quê và thương nó vô cùng. Đời con gái của nó thế là hết. Nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ có được
hạnh phúc, không bao giờ được như mình đây, nằm thanh thản và tin cậy bên một người chồng. Ai dám lấy
Quê, nếu sự việc ở khách sạn Tương Lai bị phát giác? Sáng nay, một phóng viên của tờ báo Phụ Nữ đến
gặp mình để khai thác tài liệu viết bài. Mình đã phải van vỉ: "Đừng, các đồng chí đừng đưa vụ việc này
lên mặt báo. Không phải chúng tôi muốn che đậy một vụ việc tiêu cực, mà điều chủ yếu là muốn bảo vệ
tương lai cho cô bé. Chúng ta đừng câu khách, đừng chống tiêu cực bằng cách dập tắt mọi niềm hy vọng
sống của con người:. Phải tìm mọi cách xoá đi cái vết đen khủng khiếp trong tương lai của cô bé. Cả ban
chuyên án đã bàn bạc kỹ và đề xuất một kế hoạch: Tránh đưa sự việc này ra công luận. Giữ kín tên tuổi và
quê quán của cô bé. Tìm cách đưa cô về nhà an toàn và tốt đẹp. Trích quỹ của cơ quan và quyên góp anh
em cho cô bé một ít tiền. Nhưng cái chính là làm sao xoá đi nổi trong tâm trí của Quê cái ấn tượng về sự
man rợ và khủng khiếp kia?
19 tháng 4.
Nói chuyện với anh về Quê. Ôi, giá như đừng trò chuyện gì với anh về công việc của mình. Anh không
hiểu, hay anh cố tình không muốn hiểu.
- Đã dấn thân vào cái nghề công an của em, tốt nhất hãy tạo cho mình có một trái tim sắt. Vô cảm
trước mọi sự việc. Chỉ biết tuân thủ pháp luật. Thực thi các công vụ như một cái máy. Tại sao em lại than
khóc và quá quan tâm đến thân phận một cô bé bị cưỡng hiếp? Em chỉ mới gặp có một cô bế. Mà cuộc đời
này có biết bao nhiêu cô bé đã từng bị hạ nhục như thế. Hãy vào Sài Gòn, hãy vào các tỉnh phía nam, em
sẽ gặp hàng nghìn cô gái đang hành nghề tự nguyện chứ không chỉ bị cưỡng hiếp đâu. Phải chấp nhận đó là
một nghề nghiệp kiếm sống và sinh nhai, thậm chí đó là một dịch vụ... Ngây thơ và dễ mủi lòng như em thì
không thể làm trong nghề công an được đâu.
Tự nhiên anh phát cáu lên và thuyết lý một hồi. Mình không muốn cãi nhau với anh. Thuật ơi, hồi này
anh khác lạ nhiều quá. Chính anh đã nhờ ông cậu giúp em vào ngành. Chính anh đã từng khuyên em rằng
nghề này, hơn nghề nào hết phải có lòng thương và sự nhân ái cơ mà...
26 tháng 4.
Cơ quan quyết định cử mình đưa Quê về nhà. Ông chú và bà thím quí hoá khi biết sự thật về những
ngày "mất tích" của cô cháu gái đã một mực thoái thác không muốn đưa Quê về trả lại gia đình. Họ sợ liên
đới. Họ muốn rũ bỏ trách nhiệm.
Buồn quá. Trước ngày đi, hai vợ chồng lại cãi nhau. Lần đầu tiên sau ba năm chung sống anh đã bộc lộ
hết tính cách gia trưởng và độc đoán của mình.
- Cô nên để cho người khác làm việc này thì hơn. Đừng có ôm rơm rặm bùng, cầm đèn chạy trước ô
tô. Cái nghề này chẳng cần phải phấn đấu như thế đâu. Trước sau rồi người ta cũng phải kết nạp cô vào
Đảng. Các cô là công cụ của chính quyền cơ mà...
- Nhưng mà việc này, anh xem, còn ai có thể đi hợp lý hơn em... Vả lại em cũng muốn biết hoàn cảnh
gia đình cô bé...
- Biết để quàng vào cổ à? Khôn ra thì cô phải biết tránh xa những cái trò hiếu hỷ vớ vẩn thế này. Gắn
vào với con bé ấy có khi nó vận vào mình. Suốt mấy đêm không ngủ, người thì rộc đi thế kia. Mà cô cũng
phải nghĩ đến cái thân tôi nữa chứ. Chồng đi công tác xa về mà vợ cứ đi biền biệt. Rồi còn thương khóc
những đứa dở hơi.
- Nhưng mà em chỉ đi có hai ngày...
- Hai ngày hay hai năm cũng thế... Tôi chán cái nghề đi đêm về hôm của cô lắm rồi. Thôi, nghỉ việc
cho khoẻ. Tôi sẽ kiếm cho cô một nghề nghiệp khác. Một thằng chồng như tôi không đến nỗi để cô đói rách
đâu...
- Anh Thuật, em có than phiền gì về nghề nghiệp của em đâu. Đây là công việc. Mà cũng vì lương tâm
nữa. Em muốn chính em đưa cô bé về nhà. Giá anh gặp nó, anh cũng sẽ xót thương. Mới mười sáu tuổi...
- Mười sáu tuổi mà dám ngủ với năm thằng một lúc... Không có chuyện cưỡng bức đâu. Cũng chỉ là
một cách làm tiền quá tham lam mà thôi...
- Anh Thuật, không ngờ anh nhẫn tâm đến thế...
Mình khóc. Thế là suốt đêm, kẻ quay mặt vào tường, người nằm xoay ra ngoài. Anh nói một thôi nữa,
thấy mình không đối đáp lại lời nào thì quay ra ngủ. Những tiếng ngáy đều và bình thản khiến mình kinh
ngạc. Anh là người vô tâm hay nhẫn tâm?
...
*
Những trang nhật ký của mười năm về trước vẫn còn nằm yên trong đáy tủ. Lê My cố tránh không giở
lại. Tránh, để khỏi chạm vào những ký ức đau xót một thời, nhưng dường như chị vẫn nhớ như in, dường
như chị ghi chúng ở trong óc mình, chỉ cần chạm vào cái cụm tế bào ấy là sẽ nhớ lại từng dòng, từng chữ.
Sáng hôm sau, Lê My dậy thật sớm, đến bệnh viện ngành để đưa Quê về nhà. Đơn vị có xe con, nhưng
thủ trưởng quyết định hai chị em phải đi xe khách. Lê My đóng vai một người cháu họ của bà thím Quê,
mặc quần lụa đen, áo sơ mi trắng. Trước đó các đồng chí lãnh đạo của My cũng đã làm việc với ông chú
bà thím, đề nghị viết sẵn cho ông bố Quê một lá thư nói rằng do có bà ngoại ở dưới Hải Phòng lên trông
cháu giúp nên tạm đưa Quê về nhà giúp đỡ gia đình trong mùa gặt hái sắp tới.
Hai chị em về làng trong một buổi chiều nắng quái. Lúa đồng đang kỳ uốn câu, lác đác có những vạt
hanh vàng. Chỉ gần tháng nữa sẽ bắt đầu mùa gặt.
Nhưng cái đói dường như đã truy đuổi từng người dân suốt từ những ngày giáp tết năm trước. My bắt
gặp những bộ mặt xanh tái vì thiếu ăn, những căn nhà trống trơn bên đường, những con trâu gầy dơ xương,
những con chó nằm thoi thóp thở. Làng Quê đang vật vã trườn qua vụ đói tháng ba. Cái làng của Quê sao
cũng giống như cái làng của My ở vùng ven đê sông Luộc. Những bụi tre gầy khẳng khuyu, những ao bèo
lưu cữu, những mái nhà tranh chen chúc bên những đống rơm rạ cuối mùa chỉ còn vón lại một phần chỏm ở
trên cao.
Chớm đến đầu làng, nơi trụ ở của hợp tác xã, tự nhiên Quê bỗng rúm người lại, ôm chầm lấy My. My
nhận ra một người đàn ông cao vóng, đen đủi, đầu đội chiếc mũ mềm bộ đội, áo quân phục mầu cỏ úa còn
mới, nhưng mặc quần đùi. Chiếc quần bộ đội nhàu nát quấn lấy cổ, buông thõng đũng quần xuống lưng, như
chiếc ba lô, ngang lưng thắt chiếc xanh tuya bạt Mỹ, dắt một khẩu súng lục bằng bẹ chuối.
Quây giữa người đàn ông là một lũ trẻ vừa trai vừa gái. Chúng vừa hò hét trêu ghẹo, vừa bày trò cho
anh ta để đùa chơi. Rất tự nhiên, người đàn ông bỗng vạch quần đái vọt xuống mặt ao.
- Ông đái vào trụ sở của chúng mày xem làm gì được ông? Chúng mày đểu. Lừa ông đi bộ đội để thằng
chủ nhiệm thọt ở nhà nó hiếp vợ ông. Đã thế thì ông đái vào mặt thằng Thọt. Đây, trông đây. Như pháo Vua
chiến trường 155ly. Vút... vút... vút. Thằng nào dám phản pháo thì ra đây. Ông cóc sợ. Bọn Mẽo còn sợ
ông bằng phép. Ông vẫn tiếp tục chiến đấu. Ha ha... Đái cho thằng Thọt ở dưới bùn ao kia phải ngoi lên.
Bọn trẻ cùng vỗ tay hò reo. Mấy đứa con gái ra vẻ xấu hổ, quay mặt đi, nhưng thỉnh thoảng lại cứ
ngoái lại, bấm nhau cười.
- Anh Hai em! - Quê thảng thốt kêu lên và bỗng oà khóc.
Lê My chợt hiểu ra. Trong lời khai của Quê có nói tới một ông anh đi bộ đội về bị mắc bệnh tâm thần.
Biết vậy mà chính Lê My cũng hoảng sợ, khi anh Hai tâm thần chợt chạy túa về phía chị, tay rút khẩu súng
bằng bẹ chuối huơ lên:
- Ê, các cô kia. Có thấy thằng chủ nhiệm thọt nó ở đâu không. Tôi phải xin hai hòn của nó nhắm rượu...
Hơn chục đứa trẻ lẽo đẽo chạy theo, hùa nhau khích lệ:
- Cứ túm lấy hai cô ấy, không có hòn thì cũng có chỉ đấy anh Hai ạ.
Nhưng rồi tất cả bọn chúng và cả anh Hai đều sững lại khi nhận ra Quê. Anh Hai buông thõng khẩu
súng bẹ chuối xuống, tay kia đưa lên gãi đầu.
Quê đứng thần người nhìn anh trai mình một lát, nước mắt lã chã. Rồi, cô bỗng vụt trở nên cứng cỏi,
như thể chính cô chứ không phải ai khác phải đứng ra dàn xếp tấn bi hài kịch này.
- Anh Hai, em đây mà. Thôi, anh về nhà đi. Đừng đi lang thang như thế này nữa, khổ lắm..., - Vừa nói
Quê vừa đưa tay gỡ chiếc quần từ cổ anh xuống - Anh mặc quần vào đi. Và bỏ cái khẩu súng chết tiệt này
đi. Súng đạn bao nhiêu năm làm khổ anh chưa đủ hay sao?
Quê lôi anh đi tuồn tuột và ra hiệu cho My cùng đi theo mình.
- Nhà có khách đấy anh Hai ạ. Đừng để chị My chị ấy cười cho... Kìa chúng mày, đi theo làm cái gì?
Anh Hai tao chứ có phải người từ trên trời rơi xuống đâu?
Anh Hai liếc nhìn My tủm tỉm cười, một nụ cười nửa hiền lành e thẹn, nửa ngây dại.
Suốt từ đó, một nỗi buồn cứ đè nặng trong lòng My. Cho đến khi Quê đưa chị về nhà, nhìn thấy một
căn nhà lợp rạ trống hoác, một ông bố gầy dơ xương, lúc nào cũng ôm ngực ho rũ rượi, bốn đứa em hốc
hác, bẩn thỉu, My đã phải lén ra đầu hè đưa khăn lên chấm nước mắt.
Bữa cơm đãi khách chiều hôm ấy, chính Quê đã phải vác rá chạy sang nhà hàng xóm vay gạo. Dường
như trong căn nhà này lâu lắm rồi người ta chưa được ăn một bữa cơm không độn, chưa được thấy một
miếng thịt, miếng cá. Đói và mệt, nhưng My không thể nào ăn nổi. Và một miếng cơm từ đầu bữa mà cổ cứ
nghẹn lại, miếng cơm đắng ngắt.
Nếu như những ngày trước đây My thương xót Quê theo cái nghĩa của người cùng giới tính, thương cho
một đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên mà đã bị bọn đàn ông đểu cáng làm hại cả một đời thiếu nữ, thì bây
giờ, tại căn nhà của cô, với tất cả hoàn cảnh éo le và gánh nặng gia đình sắp đè nặng lên vai cô, từ đáy
lòng, My thực sự thương yêu Quê như một người chị gái thương đứa em ruột thịt. Thương, nhưng đồng thời
My cũng rất đỗi cảm phục và tin cậy. Cái cô bé Quê ngờ nghệch, khờ dại và có phần đần độn, lạc lõng
giữa cái biển người thành phố đầy bất trắc, giờ không còn nữa. Thay vào đó là một cô bé Quê tháo vát,
đảm đang rất là người lớn. Cô sai bảo bọn trẻ con quét dọn nhà vửa, tất bật gánh nước, dọn dẹp, nấu cơm,
tắm rửa cho các em.
Buổi tối, biết tin Quê về, bà con thân thích lục tục đến thăm. Không ai biết cái lý do vì sao mà Lê My
lại đưa Quê về. Nhìn thấy Quê béo trắng, đẫy đà, ai cũng trầm trồ khen đất thành phố thật khéo nuôi người.
- Bác đến để mừng cho mày - Một bà to béo vừa nhổ toẹt bãi quết trầu, vừa đảo mắt nhìn Quê và nhìn
My - Thấy cháu về bác mừng quá. Về để gặt hái đỡ đần cho bố mày, anh mày. Với lại cháu về đợt này là
chí phải. Nhà bác hồi này chẳng còn hột lúa nào nữa. Hồi mồ ma mẹ mày tao giúp hai thùng thóc. Giá như
người ta thì cứ tính lãi chẻ hoe hai mươi phân. Nhưng chỗ bác cháu, lọt sàng xuống nia, tao chỉ lấy mười
phân thôi. Cháu xem, có ít tiền nào đỡ cho bác, chứ thời buổi này, cám cảnh lắm... Người đàn bà cố thở
dài đánh thượt, rồi tự nhiên lấy vạt áo lau mắt. Mà bà ta khóc thật. Những giọt nước mắt to như hạt ngô lăn
dài trên má.
Tiếp đến là một bà cô, rồi một bà mợ. Tất cả đều nói một giọng điệu giống nhau, thắm thiết và tình
cảm, nhưng cuối cùng đều chốt lại cái ý chính là đòi nợ.
Quê móc trong túi áo của mình ra một gói tiền. Đó là tiền công ở và tiền "bồi thường tai nạn" mà ông
chú bà thím cho cô trước khi Lê My đưa cô về nhà. Số tiền tổng cộng được bốn trăm năm mươi hai đồng,
bằng sáu tháng lương một cán bộ trung cấp hồi ấy.
- Cháu không có nhiều tiền... Các bác, các dì, các mợ cầm tạm phần vốn... - Quê đưa tiền cho những
người bà con đáng quí mà mặt méo xệch trông đến thảm hại.
Ôi, giá như My có thể giúp Quê phần nào trong cái giờ phút cam go này. My ước ao giá mình trở thành
triệu phú, có thật nhiều tiền. My sẽ trang trải hết cả nợ nần cho Quê và giúp Quê một ít vốn để làm giàu. Về
đến cái vùng quê nghèo này, My mới hiểu rằng, sự trinh trắng, lòng thuỷ chung, danh dự... chỉ là những mỹ
từ vô bổ. Chỉ cần có thật nhiều tiền người ta sẽ làm biến dạng và thay đổi tất cả. Có tiền, không những Quê
có thể khoả lấp cái vụ tai tiếng vừa qua, nếu như nó bị vỡ lở, mà có thể Quê còn kiếm được một tấm chồng
danh giá trong làng... Nhưng khốn thay, cả hai thứ đó Quê đều không có. Cái gánh nặng gia đình bắt đầu
kéo trĩu cô xuống, còn cái tai tiếng tày đình kia thì đang treo lơ lửng trên đầu cô, không biết nó sẽ bất thần
đổ ập xuống lúc nào.
Trước khi chia tay Quê, Lê My kéo cô ra góc phản, để trước mặt cô hai gói tiền và bảo:
- Đây là tiền của anh em trong cơ quan chị. Còn đây là tiền riêng của chị. Của ít lòng nhiều, em cứ
cầm lấy mà lo giúp gia đình...
- Không, chị ơi, các anh chị tốt với em thế đủ rồi... Em không dám nhận đâu - Quê nhìn hai gói tiền,
như thể cô không dám tin ở mắt mình.
- Lòng tốt đâu tính được bằng tiền bạc. Nhưng quả thực lúc này, với em, tiền bạc là điều thiết thực
nhất của lòng tốt. Chị chỉ tiếc rằng mình chẳng giàu có gì... Em hãy gắng tiết kiệm và làm lụng để giúp gia
đình. Nếu có dịp nào ra thành phố... Mà thôi, em đừng ra đó nữa. Có thể chị sẽ về thăm em... Chị em mình
sẽ còn gặp nhau mà...
My khóc. Cả hai chị em cùng khóc. Những giọt nước mắt của lòng cảm thông và yêu thương thực sự.
- Nhất định em sẽ gặp chị. Dù thế nào đi nữa chị cũng đừng bỏ em, chị nhé...
Đó là những lời Quê nói khi hai chị em chia tay nhau ở gốc đa đầu làng. Lên đến đầu đê, My còn
ngoái nhìn trở lại. Cô gái vẫn đứng đó. Cái bóng nhỏ bé của cô như bị vòm đa xùm xoà nuốt lấy, trùm lên,
trông thật đơn côi, tội nghiệp.
IV
M ới đó mà đã mười năm.
“Nhất định em sẽ gặp chị.” Chao ơi, câu nói của Quê buổi chia tay chiều ấy không ngờ lại
ứng nghiệm như một định mệnh. Không ngờ Lê My đã gặp Quê trong một cảnh ngộ trớ trêu như thế này ư?
Quê tàn tạ đi nhiều quá. Giá như không có cái nốt ruồi ở nhân trung kia, có khi My đã không nhận ra. Mà
thà như thế lại đỡ đau khổ cho My hơn. My sẽ coi Quê như hàng trăm cô gái điếm chị đã gặp, sau một buổi
hỏi cung, cảnh cáo mấy lời, rồi lại thả thị trở về cái thế giới rác rưởi của thị. Làm sao cưu mang xuể những
cô gái coi xác thịt của mình như một thứ hàng hoá để nuôi thân.
Nhưng Lê My không thể thản nhiên thờ ơ khi trót nhận ra cái nốt ruồi giữa nhân trung ấy. Chị đã xin
Mgặp đồng chí trung tá quận trưởng kể vắn tắt về cô gái và xin được đưa cô về nhà mình. Không có hy vọng
gì làm biến đổi cuộc đời một con người mà bùn đất đã vấy lên đầy người như thế, nhưng ít ra là My cũng
an ủi được chính mình.
Hai người về đến nhà lúc nửa đêm. Quê nhận ra cái ngõ phố dẫn vào khu tập thể nhà Lê My mười năm
trước. Con đường được trải một lớp đá dăm, nhiều ngôi nhà lụp xụp trước đây đã được thay bằng những
ngôi nhà tầng chồi ra thụt vào như muốn cướp lấy lòng đường.
Suốt đoạn đường dài từ đồn công an về nhà, Lê My hầu như tranh phần nói để cố ý tạo ra một mối liên
hệ thân mật và xoá đi những mặc cảm ở Quê. Chị nhắc lại kỷ niệm về chuyến đưa Quê về làng mười năm
trước, hỏi thăm ông bố, anh trai và các em Quê. My trách một cách thân tình:
- Cái lúc em bảo: “Tên em không phải thế” là chị giận em đấy. Em định chối bỏ cái tên Quê ư? Cái tên
ấy chẳng xấu chút nào. Có nhiều cô gái ở nông thôn ra tỉnh là lập tức thay đổi tên họ liền. Em thấy có buồn
cười không nhá, cô bạn chị ở quê tên là Xí, đi học trung cấp lập tức đổi ngay ra Nguyễn Thoa Kim Xuyến.
Một đứa khác tên là Nguyễn Thị Tẹt, liền đổi thành Nguyễn Thị Mộng Tuyệt…
Lần đầu tiên từ lúc giáp mặt nhau. Quê cười. Cô úp mặt vào lưng My mà cười khúc khích.
- Trời ơi, cái nhà của chị vẫn như ngày xưa! - Quê kêu lên khi Lê My dựa cái xe đạp trước căn hộ tập
thể - Em cứ tưởng chị phải dọn lên ở tít tầng năm tầng sáu từ lâu rồi.
My mở chốt cửa phía trong và bật đèn. Một gian nhà chừng mười lăm mét vuông hiện ra trong ánh
điện sáng trắng. Ngoài một chiếc giường đôi kê vuông góc với chiếc giường một là một cái bàn con thấp
với mấy chiếc ghế đôn. Kế đến là nơi đặt bếp dầu. Đồ đạc đáng giá nhất trong nhà là một chiếc ti vi
Nationan đã cũ và một chiếc đài vef đặt trên nóc chiếc tủ đứng bằng gỗ dán.
My đi lại bên giường, vén màn. Bé Trang đã ngủ say, nó ôm con búp bê chặt đến nỗi mà My gỡ mãi
mới được.
- Anh đi đâu hả chị? - Từ lúc vào nhà, Quê trở nên lầm lì, nhưng rồi cô cũng buộc phải lên tiếng.
Lê My không trả lời. Dường như chị không nghe thấy, hoặc giả chị muốn trả lời bằng sự im lặng. Tốt
nhất là im lặng. Không thể nói dối một người đã từng gặp bao nhiêu sự lừa dối trên đời. Mà cũng không thể
nói thật. Chị không muốn Quê đồng cảm với nỗi bất hạnh của chị.
- Quê đi tắm rửa qua một chút đi. Có thể đêm nay chị em mình cùng không ngủ… My nói với Quê
trong khi chị mở cánh cửa ngách phía sau, nơi tiếp giáp giữa hai dãy nhà, vừa vặn xây được một chiếc bể
nước nhỏ và dùng làm nơi tắm, thay quần áo - Đêm nay mình mời Quê về nhà vì nghĩ rằng chị em xa nhau
lâu ngày có nhiều chuyện để nói, vả lại Quê cũng cần phải có một chỗ nghỉ ngơi yên tĩnh…
Chị ấy tốt quá. Quê bước vào ngách phòng tắm, nơi Lê My đã đặt sẵn phích nước, xà phòng thơm và
bộ đồ ngủ của chị, mà bỗng thấy nghẹn ngào. Xưa nay, với Quê, lòng tốt thật là hiếm hoi, hiếm hoi bởi Quê
nghĩ lòng tốt vốn sinh ra không phải để cho cô. Lẽ ra Quê không định tắm, cô chỉ định rửa đi cái thứ gớm
ghiếc mà cái lão Khúc Văn Khích vấy lên người mình. Nhưng nghĩ đến lòng tốt của My, Quê đã quyết định
phải tẩy rwar mình thật sạch sẽ. ít ra là không để vương trong nhà chị ấy những gì quá gớm ghiếc của mình
- Quê nghĩ thế và cởi bỏ tất cả quần áo vắt vào chiếc dây phơi.
Tự ngắm cái thân hình lồ lộ của mình, Quê bỗng thấy xấu hổ. Lâu lắm rồi Quê mới lại có cảm giác xấu
hổ. Mọi ngày, trước khi đi hành nghề, Quê vẫn thường ngắm vuốt cái thân hình của mình với thói quen của
người bán rau tươi, nghĩa là cô vuốt ve, chăm chút nó, như người ta vẫn thường sắp xếp lại, rảy một ít
nước mát lên những mớ rau của mình vậy. Quê cũng tự nhận rằng mình là một thứ hàng rẻ tiền, chỉ hợp với
loại khách nhếch nhác, túng kiết, nhưng dẫu sao vẫn phải dùng đến một ít son phấn và loại nước hoa Thanh
Hương bán để quảng cáo thu hút khách gửi tiền tín dụng. Bây giờ tất cả những thứ ấy bỗng gây cho Quê một
cảm giác ê chề, tởm lợm, tởm lợm với chính mình. Quê hoàn toàn không có ý thích ngắm vuốt, chăm chút
cái thân thể của mình nữa, mà cô chỉ cố kì cọ làm sao cho nó sạch sẽ, cố tẩy rửa đi cái phần nhơ nhớp của
mình, ít ra là trong buổi tối hôm nay
*
Trong khi Quê tắm rửa, Lê My tranh thủ bắc lên bếp một nồi cháo. Chị đổ hết cả soong thịt nạc của bé
Trang vào đó, cộng thêm một ít đỗ xanh. Mình thì chẳng cần phải ăn uống gì, nhưng chắc là Quê đói - chị
nghĩ thế.
Không hiểu sao câu hỏi ban nãy của Quê cứ trở lại trong đầu. Lê My vén màn lại cho con và bỗng thở
dài. Càng lớn con bé càng giống bố. Hình như nó bắt đầu được tạo dựng hình hài từ cái chuyến Lê My đưa
Quê về nhà mười năm tước. Nó là kết quả của một tình yêu, là sản phẩm của một đêm yêu đương cuồng
nhiệt. Vậy mà không ngờ cuộc đời nó lại bất hạnh. Chỉ sau ngày bé Trang ra đời ít lâu, tình yêu giữa Thuật
và My đã bắt đầu rạn nứt.
Giá như Thuật là một người đàn ông chỉn chu và chừng mực, giá như anh không buông thả mình, không
quá chạy theo những cám dỗ vật chất… có lẽ hạnh phúc gia đình đã không tan vỡ.
Có người bảo: Trong những thói hư tật xấu của Thuật, có một phần lỗi tại Lê My. Đúng. Người đàn bà
không giữ nổi chồng, là người đàn bà có lỗi. Lê My cũng đã tự nhận rằng chính chị có lỗi. Dường như chị
đã cảm nhận thấy những vết rạn nứt từ khi nó bắt đầu manh nha. Đó là thời kỳ bé Trang gần hai tuổi. Dạo
ấy toàn ngành dồn sức cho một chiến dịch truy quét tội phạm. Lực lượng triển khai trên khắp các địa bàn.
Nhiều ngày phải trực ban hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ. Nhiều tối phải lên đường thực hiện nhiệm
vụ đột xuất. Suốt một tháng trời Lê My sụt đi đúng ba cân. Chị theo đuổi một vụ án kinh tế mà đối thủ là
một mụ đàn bà đầy mưu mô và thủ đoạn.
Thắng lợi của công việc cũng đồng thời với lúc Lê My phải trả giá cho cuộc sống gia đình. Bé Trang
bị cảm lạnh phải đi cấp cứu bệnh viện. Rồi liên tiếp Thuật cáu bẳn. Anh trở thành một kẻ cục cằn, thô lỗ.
Có đêm Lê My vừa dắt xe ra khỏi nhà, Thuật đã phóng xe chạy bổ theo. Anh rình rập vì ghen tuông vô cớ.
Lê My biết rất rõ những khiếm khuyết của mình: vì đặc điểm nghề nghiệp mà chị đã không có những điều
kiện để trở thành một người vợ chu đáo. Nhưng chị càng thuyết phục chồng, càng thanh minh để anh hiểu
mình thì Thuật lại càng hoài nghi, càng ích kỷ.
Chiến tranh nóng, rồi chiến tranh lạnh. Có lần Thuật bỏ nhà đi hai ba ngày liền. Anh trở thành một con
người khác, lạnh lùng và bất cần cuộc sống gia đình.
Thế rồi tấn bi kịch đã xảy ra.
Suốt đời Lê My sẽ không bao giờ quên được cái cảnh tượng buổi sáng hôm ấy, khi bất ngờ chị từ đồn
công an khu vực trở về nhà. Có ai vào nhà mình mà cánh cửa lại khoá trái? Chị sững người trước hai cái
khuy cửa trống hoác. Hôm qua, sau một cuộc độc thoại ầm ĩ, Thuật đùng đùng bỏ đi. Anh tuyên bố chuyến
này sẽ đề nghị cơ quan bố trí ở hẳn Sài Gòn làm công tác biệt phái. Suốt đêm Lê My chờ Thuật. Cả sáng
nay khi đưa bé Trang đi nhà trẻ, chị vẫn hy vọng Thuật trở về. Bây giờ có lẽ Thuật đang ngủ ở trong phòng
chăng?
Lê My hé nhìn qua khe cửa. Trời ơi! Trên chiếc giường của vợ chồng chị, hai thân xác đàn ông đàn bà
đang nằm sóng sượt bên nhau, không một mảnh vải che, trắng nhầy nhẫy. Hai mắt Lê My sầm lại như có
một màng đen vừa đóng sập, hai chân bủn rủn, chị phải níu tay vào khuôn cửa mới đứng vững được.
Vậy là những lời đồn đại về cô Đào kế toán ở cơ quan Thuật lâu nay là đúng. Lê My đã lầm. Chị
tưởng rằng sự trái tính đột ngột của Thuật thời gian gần đây là do công việc của chị làm anh không bằng
lòng. Nhưng không hẳn. Anh đã bị người đàn bà kia hút mất hồn vía. Anh đã vin vào cái cớ chị hay bỏ
bắng gia đình, hay đi hôm về khuya để dồn ép chị về phía tội lỗi, để khoả lấp đi những tha hoá của mình.
Sau này, khi bình tĩnh để nhìn nhận lại, Lê My càng hiểu rõ rằng, ở Thuật từ trong bản chất đã tồn tại sẵn
một con người ích kỷ và tham lam. Nếu như Lê My có một nghề nghiệp khác, khả dĩ có thể tạo điều kiện
cho chị trở thành một người vợ mẫn cán hơn, chu đáo hơn với bổn phận gia đình thì chắc chắn rồi sớm
muộn Thuật cũng sa vào con đường tha hoá kia. Chỉ có điều là có thể quá trình sa đoạ ấy sẽ đến muộn hơn,
chứ không phải nhơ nhớp và trắng trợn như thế kia…
Vốn là một người đàn bà tự trọng và kiêu hãnh. Lê My đã không thèm làm một động tác gì nữa, ngoài
việc bỏ đi, bỏ đi trong một nỗi đau khổ đến cùng cực, căm thù đến cùng cực và khinh bỉ đến cùng cực. Cái
hành động điếm nhục tởm lợm nhất ấy, ở một cấp độ bỉ ổi ấy đã khiến chị nhìn nhận những cô gái điếm mà
chị bắt được trong việc thừa hành công vụ một cách ôn hoà và khoan dung hơn. So với cô gái trẻ kế toán
trưởng chưa chồng ở cơ quan Thuật, ít ra là họ cũng đàng hoàng, thành thật và sòng phẳng hơn. Họ dám
thừa nhận đó là một nghề nuôi thân, dám trực diện đối thoại với pháp luật. Cái cô Đào kế toán ấy thì không
thế. Cô làm điếm một cách đầy hoa mỹ và có nghệ thuật. Cô bị Thuật lợi dụng, và cũng lợi dụng lại Thuật
một cách hết sức sành sỏi. Ngay cả sau này, khi cô ta đã lấy chồng, cô vẫn lợi dụng Thuật.
Từ buổi sáng ấy, Lê My dã thiết lập một quan hệ băng giá với chồng. Tình yêu, trong đó có một phần
tình nghĩa do Thuật đã giúp Lê My có một vị trí công tác bây giờ, dường như đã chết. Chết tình yêu nhưng
chị vẫn cố giữ lấy cái vỏ hôn nhân, vẫn cố tìm cách níu giữ lấy gia đình, bởi My nghĩ đến con, đến thân
phận đàn bà. Xưa nay Lê My luôn là người phụ nữ cũ kỹ trong quan niệm gia đình. Bố Lê My là một nhà
giáo. Lời giáo huấn của ông đối với con gái là một câu nói có phần cổ hủ: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phủ tử tòng tử”(1) .. Điều luật ấy ràng buộc con người đàn bà, bắt họ phải qui phục, nhẫn chịu, nó
giống như một tôn giáo, vừa bắt người ta phải qui phục, nhưng đồng thời lại mang lại cho người ta một
niềm an ủi, một sự ve vuốt của định mệnh. Lê My đã cam chịu cùng chung sống với một người chồng mà
chính mình đã bắt quả tang anh ta phản bội những điều linh thiêng nhất trong quan hệ vợ chồng. Chị cam
chịu ngay cả trong những lần chung đụng. Những lần ấy, mặc dù cố quên đi nhưng chị vẫn thấy vẩn lên một
cảm giác tởm lợm, như thể bị ép buộc chứ không phải đang ân ái.
(1) Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con
Tình trạng băng giá kéo dài cho mãi tới khi bé Trang lên ba tuổi. Những chuyến đi vào Sài Gòn của
Thuật ngày một mau hơn. Công ty dịch vụ của anh đang làm ăn phát đạt. Anh buôn hàng toa thuốc tây từ
ngoài bắc vào, chở hàng ngàn chiếc catsét, xe cúp từ trong nam ra. Thủ trưởng nhân viên ra vào toàn bằng
máy bay, ăn ngủ toàn loại khách sạn sang trọng nhất Sài Gòn. Nhưng rồi bỗng có một công văn của công an
thành phố Hồ Chí Minh gửi ra cơ quan Thuật: Họ đã bắt quả tang một ổ điếm trá hình trong khách sạn X,
trong đó có một khách làng chơi là Bùi Đức Thuật.
Bây giờ Lê My không còn đau khổ và căm uất như cái buổi sáng nọ nữa, mà chị thực sự ê chề. Sự ê
chề ấy còn tăng lên đến mực nhục nhã khi Thuật dẫn xác từ Sài Gòn ra. Anh đã bị bọn điếm đổ cho bệnh
lậu, phải tiêm Lanhcôxin vài vạn đơn vị một ngày.
Bốn tháng Thuật dưỡng bệnh tại nhà là thời gian hàng ngày Lê My phải tự mổ xẻ với những lời giáo
huấn của bố. Cái câu “Xuất giá tòng phu” ấy bây giờ đã mang một ý nghĩa khôi hài. Mỗi mũi tiêm
Lanhcôxin cho chồng lại như tiêm thêm vào người chị sự ghê tởm và khinh bỉ. Có thể sống cùng những
người mà ta thương hại, thậm chí căm ghét, nhưng không thể sống với những kẻ mà ta ghê tởm và khinh bỉ.
Dường như đó không còn là đồng loại nữa mà đã thuộc một giống loại khác, không thể đồng cảm, không thể
đối thoại và càng không thể đối xử như một con người mà ta phải có nghĩa vụ kính trọng. Vợ chồng mà như
thế thì thôi, sống với nhau làm gì?
Có lẽ Thuật đã cảm nhận thấy điều đó. Anh là một người thông minh và dễ nhạy cảm. Lê My càng tỏ ra
chăm sóc, dịu dàng với anh bao nhiêu thì anh lại càng nhận ra sự cách bức của mình với chị bấy nhiêu. Cái
tốt của Thuật là anh đã biết đọc thấy sự cao thượng và nhân hậu của Lê My. Anh biết, có hối hận, có muốn
làm lại bây giờ cũng quá muộn rồi.
Một năm sau họ chia tay nhau. Một cuộc chia tay lẽ ra phải bắt đầu từ bốn năm trước. Cái chính là vì
Lê My muốn cố níu giữ lại. Nhưng buồn thay, dù chị cố muốn tuân theo những lời giáo huấn xưa cũ, cũng
không thể được.
*
Từ phòng tắm ra, Quê trở thành một cô gái khác lạ. Trong bộ đồ ngủ màu tím hoa cà, mái tóc vén cao
hở chiếc cổ và một khoảng ngực trắng nõn, cô hoàn toàn đã lấy lại vẻ trẻ trung của một cô gái hai mươi
sáu tuổi.
- Kìa chị. Chị nấu cái gì mà trào hết ra bếp rồi - Quê kêu lên, chạy lại nồi cháo đang bị trào vung. Rồi
cô quay lại bên giường. Lê My đang nằm ôm con, thiếp đi trong cái dáng mệt mỏi.
Ôi, cái dáng ôm con của người mẹ, như một biểu tượng bất hủ của tình mẫu tử, bỗng làm tim Quê nhói
đau, bỗng làm cô trào nước mắt. Cô đứng lặng nhìn ngắm hai mẹ con Lê My mà lại chạnh nghĩ đến mình.
Chỉ một chiếc giường nhỏ, chỉ một căn phòng hẹp, đơn giản thế thôi mà hầu như cả cuộc đời Quê cũng
không bao giờ vươn tới được. Cũng một thân phận đàn bà mà biết bao người sống trong nhung lụa, biết
bao kẻ sinh con như sinh hạ những ông hoàng bà chúa. Cái bà thím ngày Quê từ làng ra làm con sen giặt
giũ và hầu hạ khi bà ta sinh con đó. Suốt ngày bà ta chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là nằm ườn trên giường,
ôm con và ngủ. Ba tháng sinh đẻ bà ta tăng hơn chục ký, nhanh như mức tăng trọng của giống lợn lai ngoại.
Như thế mới đáng một kiếp người. Ngay cả với chị Lê My kia, dù trong cái dáng ngủ vạ vật vì quá mệt mỏi
vẫn toát lên một niềm hạnh phúc, một nhịp sống yên lành. Còn Quê? Còn cái thằng cu Tẩm của Quê? Tìm
đâu một mảnh giường tìm đâu một góc yên tĩnh?
Quê bỗng nhớ tới thằng cu Tẩm cồn cào. Giờ này chắc nó đang nháo nhác tìm mẹ. Nó đã quá quen
thuộc với cảnh những buổi tối Quê đi vắng. Nhưng lâu lắm rồi Quê không ngủ xa nó một đêm nào, không
về muộn quá mười hai giờ đêm. Có thể nó sẽ hốt hoảng, gào khóc đi tìm mẹ. Có thể nó sẽ lang thang trong
góc công viên, săm soi các gốc cây, ghế đá quanh bờ hồ. Trời ơi, Quê như nhìn thấy đôi mắt đẫm ướt hoà
với mũi dãi chản tràn trên gương mặt nó. Quê như thấy cái dáng bé nhỏ lũn cũn của nó đi thất thểu trên
đường. Nó có thể bị lao vào một chiếc xe phóng như bay trên con đường vắng. Và kìa, một mụ đàn bà có
bộ mặt gớm ghiếc, đôi mắt cú vọ to lồi, cái mũi diều hâu nhọn hoắt từ một góc phố khuất đi ra. Mụ ta
khoác một cái bị cói thật to, to và dài hơn cả người mụ. Trong chiếc bị cói ấy hình như đã có hai đứa trẻ.
Chúng nó khóc thút thít và thở khò khè, khản đặc như không còn hơi sức. Đúng rồi, thôi chết rồi, mụ ta là
một mẹ mìn…
Quê bỗng hốt hoảng kêu lên. Cô chợt nảy ra cái ý định bỏ trốn. Cứ bỏ mặc Lê My với lòng tốt và cái
nồi cháo đang sôi của chị. Ngay bây giờ cô phải về với thằng Tẩm.
Tiếng kêu của Quê đã làm Lê My choàng tỉnh. Chị ngơ ngác như người vừa qua một giấc mơ quái đản.
- Ấy chết. Mình ngủ quên đi mất - Chị dụi mắt, nhìn Quê như người có lỗi - Mình đoảng quá. Cháo đã
chín rồi đấy. Để mình lấy cho Quê ăn nhé. Ăn một ít cháo cho nó đỡ mệt.
Quê một mực từ chối, sợ làm phiền chị, nhưng Lê My quyết ép cô bằng được. Đợi My thay quần áo
xong, hai chị em cùng ngồi ăn. My ăn một cách qua quýt, chiếu lệ. Riêng Quê lại ăn thật ngon lành. Có đêm
nào đi hành nghề xong, Quê dám bỏ tiền ra ăn một bữa tối như thế này đâu?
Đến lúc đi nằm, Quê một mực từ chối không chịu ngủ chung giường với hai mẹ con My.
- Em bẩn tưởi nhớp nhúa lắm, không đáng được ngủ chung với chị đâu. Thôi, để một mình em ngủ
chiếc giường một này.
- Đừng khách khí thế, Quê. - My tỏ ý không bằng lòng - Mình muốn nằm chung với Quê để hai chị em
dễ nói chuyện. Vào đây. Gối của Quê đây. Nào, mau lên để tắt đèn.
Quê ngoan ngoãn nằm xuống bên Lê My, như một người em gái.
- Bây giờ khuya lắm rồi. Cả hai chúng mình mỗi người phải ngủ ít nhất hai tiếng để lấy sức. Mai Quê
cứ ở nhà. Cháu Trang đi học buổi sáng, trưa sẽ về nấu cơm hai cô cháu cùng ăn. Bây giờ, trước khi đi ngủ,
mình muốn Quê kể cho nghe qua về mười năm đã qua của Quê. Cái gì đã dẫn Quê đến tình cảnh như hiện
nay? Hãy coi mình như một người chị, đừng giấu giếm. Nằm với Quê ở đây mình không còn là một công an
nữa rồi. Mình muốn hiểu cảnh ngộ Quê, thế thôi…
Quê im lặng. Mười năm mà chỉ kể trong một tiếng đồng hồ thôi sao? Có những con người mười năm là
cả một chặng đường bằng lặng. Họ sống suôn sẻ, họ thăng tiến, phát đạt. Cuộc đời họ hệt như đã có một
đường ray bắc sẵn, tàu khởi động là vèo đến ga đích. Nhưng cuộc đời Quê, chao ơi, một quãng đường đời
ngắn ngủi mười năm thôi mà biết bao gian truân cay cực. Chị My làm sao mà hình dung ra nổi, dù nghề
nghiệp của chị đã khiến chị từng trải hơn nhiều người.
- Chuyện của em vớ vẩn lắm chị ạ. Chị nghe làm gì. - Quê nói và bỗng ngáp dài. Dường như chỉ chớm
nghĩ đến quãng đời mười năm qua, chính cô cũng phát ngán lên với chính mình.
- Cứ kể đi… Chị muốn nghe mà - My chợt thay đổi cách xưng hô. Chị nằm xoay người ôm lấy ngang
lưng Quê. Tấm lưng của cô gái mềm nhẽo nhưng mát rười rượi.
- Không. Chị sẽ buồn đến không ngủ được đâu. Mà thôi, để em kể cho chị một câu chuyện vui nhé. Chị
có tin rằng em đã từng có tình yêu không?
- Có chứ. Ai cũng có tình yêu. Cũng như chị, chị cũng đã có một thời yêu… Kể đi Quê, chị bắt đầu
nghe đây này.
*
… Gần một năm sau ngày chị đưa em về nhà, em trở thành cô gái đẹp trong làng. Cái tuổi mười bẩy bẻ
gẫy sừng trâu, ở nông thôn, những cô gái đẹp thường được nhiều người mai mối, để ý lắm. Chính em cũng
đã quên đi cái khách sạn Tương Lai. Em tưởng như không có nó trên đời. Năm ấy dược mùa. Em là một
lao động giỏi trong đội thuỷ lợi 202, công điểm khá nhiều, nên gia đình em cũng tạm ổn định.
Có một anh chàng vừa đi học trung cấp nông nghiệp về làng. Một trí thức trẻ, hai mươi hai tuổi, lại
đẹp trai, thổi sáo rất hay. Trong khi chờ phân công công tác, anh ấy xung phong vào đội thuỷ lợi cùng với
em. Chúng em cùng đi đắp đê sông Đáy, cùng đi làm công trình trạm bơm Ngoại Độ. Vui ơi là vui. Suốt
ngày dầm nước, vác từng tảng đất to bằng nửa chiếc bàn mà đêm về vẫn rủ nhau ra đầu đê đàn hát. Sao
những đêm trăng quê ngày ấy sáng và đẹp đến thế…
Anh ấy tên là Long, con một gia đình nề nếp, khá giả. Long phát hiện ra em ngay từ buổi làm thuỷ lợi
đầu tiên. Suốt buổi chỉ nhìn thôi mà không nói. Ôi, đôi mắt. Cho đến bây giờ em vẫn thấy đôi mắt ấy nhìn
mình. Cái nhìn ngờm ngợp khó tả thế nào ấy. Người em như bị đốt nóng lên bởi cái nhìn ấy. Em vác những
tảng đất cắt kéo băng băng. Có lúc em run lên vì sung sướng và vì sợ hãi. Nếu như Long biết được em đã
bị… ở khách sạn Tương Lai có lẽ em sẽ chết mất.
Dễ có đến hơn một tuần chỉ nhìn nhau như thế mà Long chẳng hề nói gì. Em phấp phỏng chờ đợi, có
lúc đến tuyệt vọng. Bỗng một buổi chiều Long bảo:
- Tối nay tôi có câu chuyện muốn nói với Quê. Bẩy giờ tối Quê chờ tôi ở gốc cây gạo ngoài đầm nhé.
Em chạy một mạch về căn nhà chúng em ở trọ, úp mặt lên gối mà khóc. Khóc vì quá hạnh phúc. Khóc
vì thương Long nữa. Nếu em nhận lời yêu Long tức là em đã lừa dối Long ngay từ giây phút đầu. Em không
đủ nghị lực để nói hết với Long tất cả sự thật về mình.
Đã quá bẩy giờ rồi. Trăng mười sáu lên khỏi ngọn tre, sáng vằng vặc. Chị em trong đội đã sang làng
bên xem phim cả. Em cồn cào muốn vùng dậy chạy ngay ra ngoài cây gạo bờ đầm. Ngoài đó hẳn Long
đang cháy lòng vì chờ đợi. Nhưng rồi em không đủ sức để đi ra đó. Thà như cứ lẩn trốn. Thà như em phụ
bạc Long ngay từ bây giờ.
Chừng tám giờ tối Long bỗng xuất hiện. Anh mặc bộ quần áo còn mới nếp hồ, đội mũ mềm hệt như một
anh tân binh vào ngày trả phép.
- Quê! Quê làm sao? - Anh đến bên giường, mặt mày ủ rũ và giọng nói thì như muốn khóc.
Em ngồi vục dậy, ngơ ngác như kẻ mất hồn.
- Quê ốm à? để tôi đi tìm thuốc cho Quê nhé - Anh nói và toan đi. Em vội vàng níu anh lại:
- Không, em không làm sao đâu. Không cần thuốc gì cả.
- Thế thì sao? Tôi đợi Quê đến lún đất ngoài đồng.
- Anh định nói chuyện gì? - Em bỗng trở nên đáo để.
- Chuyện của tôi và… - Anh ngập ngừng và quay nhìn quanh. Nhưng mà ở đây không tiện. Chúng mình
ra ngoài ngõ đi.
Không hiểu sao lúc ấy em bỗng trở nên ngoan ngoãn lạ lùng. Em vội vã chải lại tóc và theo anh ra ngõ.
Trăng sáng đến mức có thể đọc sách được. Em không dám nhìn Long, nhưng biết rằng đêm nay Long
đẹp vô cùng. Chúng em, cùng im lặng đi bên nhau, không ai dám lên tiếng trước. Lần đầu tiên trong đời em
được - hưởng những phút im lặng thần tiên. Giá như cứ im lặng như thế mãi, cứ đi bên nhau như thế cho
đến suốt sáng.
Và rồi không biết vô tình hay cố ý mà cả hai cùng đi tới gốc cây gạo ngoài bờ đầm. Đó là một bãi cỏ
rất đẹp, trải xuống tận mép đầm, cạnh đó là những bụi duối già mọc quanh nền của một ngôi điếm cổ đã bị
phá huỷ.
- Quê giận tôi phải không? - Long vụng về phá tan sự im lặng.
- Có gì mà giận anh.
- Thế sao bẩy giờ tối nay không ra?
- Ra để làm gì?
- Quê không đoán ra ư? Ôi, vậy mà tôi nghĩ rằng Quê sẽ biết. Tôi nhầm chăng? - Anh nói và bỗng thở
dài.
-Nhầm đấy. Quê không nghĩ gì cả đâu mà. Thậm chí tối nay mệt quá, Quê đi nằm và ngủ quên đi mất…
- Thế thì… xin lỗi… - Người anh run bắn lên. Anh luống cuống cầm lấy tay em, gương mặt méo xệch
đi đến thảm hại. - Chính tôi mới nhầm… Mong Quê hãy quên đi nhé.
Em biết, nếu em im lặng gật đầu, nếu em rút tay ra lúc ấy thì coi như hết. Nhưng bàn tay của Long như
có dòng điện. Chỉ cần một chút tiếp xúc là người em đã ran lên. Nếu như ánh mắt của Long trước đây chỉ
đốt cháy tâm hồn em, thì bàn tay Long giờ đây đã đốt cháy tất cả. Em bỗng đổ gục vào người Long, đu hai
cánh tay lên cổ Long, kéo gương mặt anh về sát mình.
- Ôi, anh ngốc lắm. Em yêu anh mà…
Đó là mối tình đầu tiên, những cái hôn đầu tiên mà em không thể nào quên được. Long như được em
đánh thức tất cả tiềm lực của người con trai hai mươi hai tuổi nhưng chưa hề được yêu bao giờ. Và em
cũng vậy, cho đến giờ, chưa lần nào em có được tình cảm cuồng nhiệt đến thế.
Đêm ấy, chúng em cùng ngủ lại dưới những bụi duối già bên bờ đầm.
Nhưng tai hoạ cũng bắt đầu từ đêm ấy. Em có mang. Long sung sướng và quyết tâm chuẩn bị lễ cưới.
Khi em có thai được ba tháng thì lễ ăn hỏi và lễ cưới được gấp rút chuẩn bị. Chỉ còn năm ngày nữa. Em
phấp phỏng và hồi họp chờ đợi.
Nhưng, tất cả những điều đó đã không xảy ra. Một người bà con của Long từ thành phố về đã tung cái
tin ở khách sạn Tương Lai ra khắp làng. Em trở thành cô Thị Mầu gian giảo và lừa lọc. Mẹ Long đến nhà
em, chỉ thiếu nước nhảy thốc lên bàn thờ mà chửi rủa. Rồi anh em bên họ hàng nhà Long kéo đến, kẻ gậy
gộc, người đao búa bắt em phải mang cái bụng đi khỏi làng ngay. Anh Hai em lại lên cơn, vác con dao bầu
đuổi em khắp ngõ.
Thế là em ra đi. Lang thang ở Hà Nội ba ngày rồi em ngược tàu lên Phú Thọ, đi bộ lên Tuyên Quang.
Ở đó em có một bà chị họ làm ở lâm trường…
- Trời ơi, thế đứa con của em đâu? - Lê My bỗng vục ngồi dậy, nước mắt đầm đìa trên mặt. Chị nhìn
Quê như lần đầu tiên trong đời chị bắt gặp một nỗi đau mà chị chưa từng biết.
- Con ư - Quê bỗng lặng đi. Cô quay mặt ra ngoài. Rồi như không chịu nổi, cô bỗng bưng mặt oà khóc
- Thôi, chị đừng hỏi nữa, chị đừng làm khổ em nữa.
V
C ó cách nào để giúp được Quê?
Suốt đêm câu hỏi ấy cứ xoáy trong đầu Lê My khiến chị không thể chợp mắt được. Mười năm
trước, khi đưa Quê về làng, My những tưởng mình đã làm được một nghĩa cử, và chị có thể hoàn toàn yên
tâm về số phận của một cô gái, nào ngờ cái hành động tưởng như nhân đạo ấy lại là khởi đầu cho những tai
hoạ khác.
Buổi sáng, vừa đúng giờ đầu tập thể dục, My đã trở dậy. Chị đáp xe lên tận Bưởi vay cô bạn một ít
tiền rồi vội vàng trở về nhà. Vừa lúc bé Trang và Quê cũng thức giấc.
- Sáng nay chị phải đi làm - My nói với Quê sau khi cả nhà đã ăn xong bữa sáng. - Quê ở lại đây chơi
Cvới mẹ con chị vài ngày. Với chị, em đừng ngại gì cả. đây, chị có một ít tiền. Quê ra ngoài mậu dịch chọn
mua lấy bộ quần áo. Còn tiền để mua cả cho con em nữa đấy. Chiều nay chị sẽ về sớm. Rồi chúng mình thử
bàn xem…
Quê chỉ biết nhìn Lê My như nhìn một ân nhân. Cô nhận gói tiền mà không dám nói đến cả những lời
khách sáo cám ơn.
Suốt cả buổi sáng chỉ có mình Quê ở nhà. Cả khu tập thể cửa khoá im ỉm. Dường như khắp mấy chục
căn hộ chỉ có mình Quê là chủ nhân duy nhất. Kì thật. Quê, một cô gái điếm, và rất có thể là một kẻ ăn cắp,
phường trấn lột, lừa đảo… Vậy mà người ta dám giao cho làm chủ nhân cả một khu tập thể, chí ít là chủ
nhân hoàn toàn của một căn hộ, có chìa khoá, có quyền sở hữu hẳn hoi. Ôi, sao giữa cái đất thành thị xô bồ
này mà vẫn có những con người cả tin, nhân ái đến thế. Hay chị ấy là công an, chị ấy có máy móc gì trong
nhà, định giăng bẫy để thử mình chăng? Mà đúng thật rồi. Không dưng chị ấy lại xin với đồn công an đưa
hẳn mình về nhà. Chỉ có lòng tốt và tình nghĩa với mình không thôi thì chị ấy cũng chẳng tội gì ôm rơm cho
rặm bụng. Lại còn cho tiền để sắm quần áo nữa, giao cả chùm chìa khoá nhà nữa. Đúng là công an thực.
Chị ấy đang thử thách mình đấy…
Những nghi vấn vởn lên trong đầu khiến nhiều lúc Quê cứ ngẩn ra không biết nên hiểu theo cách nào.
Rồi Quê mở tiền ra đếm, cố soi rọi kỹ từng đồng xem chúng có dấu vết khác lạ gì không. Biết đâu trong
những đồng tiền này có gài một thứ máy móc nào đó. Người ta bảo bây giờ công an có nhiều loại máy móc
tinh vi lắm. Có chiếc máy chụp ảnh chỉ mỏng như tờ giấy. Lại có loại máy dính vào người, đi đâu phát
sóng điện tới đó. Có khi là chị My đã nghi Quê mắc bệnh Siđa. Và chị ấy đang tìm mọi cách để theo dõi.
Quê bỗng thấy lo cho những ngày sắp tới của mình. Cô linh cảm thấy có một cái gì đó đang rình rập,
săn đuổi cô. Phải trốn khỏi đây ngay. Quyết định ấy vụt loé lên. Cô bắt đầu thấy nghi ngờ cả những lòng
tốt.
Cho đến giờ tan tầm chiều, khi Lê My đạp xe về nhà thì Quê đã bỏ đi từ lúc nào. Cô để lại bộ đồ ngủ
của My, giặt phơi trên dây, mặc lại bộ đồ cũ của mình. Đồ đạc trong nhà không hề suy xuyển gì. Trước khi
đi Quê còn bàn giao lại cho bé Trang vừa đi học về cả chùm chìa khoá.
Trên nóc tủ, cạnh chiếc đài vef, có một tờ lịch ghi mấy dòng của Quê để lại:
“Chị My ơi, chị là người tốt nhất trên đời. Nhưng em phải đi thôi. Em không thể lợi dụng lòng tốt của
chị. Đừng tìm em nữa, chị nhé. Q”
Lê My chợt nghĩ đến những gốc cây mờ tối trong công viên, Quê lại về nơi ấy chăng?
*
Đúng như điều Lê My dự đoán, Quê đã trở lại góc công viên ngay từ lúc xế chiều chứ không kịp đợi
cho trời tối. Cô đi con đường mòn qua một lỗ chó chui ở bờ rào để đến một góc vườn cây xanh cổ thụ. Nơi
đây cả ban ngày và ban đêm đều rất vắng vẻ. Người thành phố thích đến công viên nhưng họ lại ngại những
chỗ quá vắng vẻ. Ở đây ban ngày thường là nơi tụ tập những hạng người tứ chiếng, những dân anh chị,
những kẻ bụi đời. Họ vạ vật nằm ngủ dưới những gốc cây, trên những thảm cỏ, kiếm lá kiếm củi khô nấu
nướng, ăn uống xì xụp quanh đó. Ban đêm họ phân tán đi các nơi, thường là đi hành nghề hoặc tìm một góc
chợ, một lều quán bỏ không nào đó để ngủ qua đêm, những nơi đó ít ra cũng có chỗ che mưa, che sương,
mùa đông thì ấm áp hơn, lại đỡ bị công an làm phiền nhiễu. Ban đêm nơi đây trở thành hang ổ của bọn đĩ
điếm. Chúng đứng chờ ở ngoài đường, ven bờ hồ để bắt khách. Những ông khách “đi vòm”, “đi dù”, thì đã
có các hang ổ thuê sẵn, phải trả tiền phòng cho chủ chứa. Những ông khách ít tiền, thích “đi nhanh” làm
qua quýt một tí cho xả cơn nghiện thì chúng dẫn qua lỗ chó chui vào “góc rừng” này. Đêm ở đây là thế giới
của quỷ. Chúng đứng ép nhau vào dưới gốc cây, co quắp nhau trên bãi cỏ. Các gái điếm sành sỏi ra sức
giở thủ thuật nhà nghề bắt các gã đĩ đực phải thốc tháo cho xong hợp đồng để chúng còn kịp ra ngoài
đường đón một kíp khách mới. Có đêm một cô ả vào cầu “đi nhanh” được đến chục khách mà sức lực, gân
cốt vẫn không hề suy xuyển. Có ông khách vừa lướt cò bợ bước ra khỏi lỗ chó chui đã vội bổ ngửa quay
lại vì vừa phát hiện ra mình bị mất chiếc đồng hồ đeo tay hoặc tiền nong giấy tờ trong túi áo. Dịch vụ làm
tình và làm tiền lẫn lộn, chỉ chết những kẻ máu dê.
Dân đĩ bợm, anh chị, gọi góc công viên này là “Chiến khu”. Đó là một phần cuộc đời của những kẻ
lang thang không nhà cửa. Với Quê, góc công viên “Chiến khu” này cũng là một phần cuộc đời cô, ít ra là
hai năm nay. Chao ơi, đời người gì mà lại coi một xó chợ, một góc vườn cây, một chỗ khuất vỉa hè làm nơi
sinh sống của mình. Cũng một kiếp người mà chỉ không đầy vài chục mét ngoài kia thôi, bao kẻ nhà lầu xe
hơi, tiền tiêu như rác. Người ta sẵn sàng bỏ ra ba, bốn triệu đồng để mua một con chó Nhật, và hàng tháng
tiếp tục bỏ ra chừng trăm ngàn đồng để nuôi chúng. So với chúng, Quê cũng chẳng đáng giá gì, huống gì
kiếp người. Dẫu vậy vẫn cứ phải sống. Rồi còn phải nuôi con nữa. Cho nên Quê phải tạo cho mình một thứ
triết lý riêng. Đó là lấy mình để nuôi mình, hành hạ cái thân xác của mình cho đến khi nào không thể khai
thác nó được nữa.
Quê trở thành một trong những cư dân của “chiến khu”, của một góc xó chợ.
Bây giờ Quê đang trở về “căn nhà” của mình. Cô luồn qua lỗ chó chui đi về phía gốc cây của mình.
Nhưng kìa, sao “nhà cửa” trống trơn thế kia? Vạt tro mọi ngày lụi ẩm. Những chiếc áo chiếc quần, không
hơn gì những thứ đồ thải làm giẻ lau của nhiều người, mọi ngày vẫn phơi vạ vật trên những cành cây, giờ
đâu cả rồi? Và hai bà cháu? Hai bà cháu đi đâu? Quê đứng ngẩn dưới gốc cây. Đến bây giờ Quê mới thấy
nỗi nhớ con mà hai hôm nay cô cố kìm nén, bỗng cồn cào. Cái thằng cu Tẩm của Quê, nó mới năm tuổi đầu
mà đã sớm trở thành một thành viên có thâm niên của dân làng bụi. Hai bà cháu nó đâu rồi?
Quê chạy bổ ra ngoài bờ hồ.
- Này Quyên tẹt, con đĩ, mày đi đâu từ hôm qua đến giờ? Bị CÁ đớp hả? - Cô gái bán thuốc lá bên gốc
cây bỗng gọi giật. Quê nhận ra con Thảo bùng vừa gọi mình. Dân bớp vẫn thường gọi Quê là Quyên tẹt.
- Ừ, đớp. Này, mày có thấy hai bà cháu thằng cu Tẩm nhà tao đi đâu không?
- Đêm qua vẫn thấy ngủ trong xó chợ. Suốt đêm hai bà cháu cứ lo cho mày mãi. Sáng nay biến đâu mất
rồi. Chắc là đi làm dịch vụ.
Quê hiểu làm dịch vụ tức là hai bà cháu đi xin ăn.
- Chán mớ đời. Tối nay biết là có về không? - Quê ngồi thụp xuống cạnh Thảo bùng, thuận tay lấy một
điếu thuốc ViNa trên mẹt hàng châm lửa hút.
- Tối qua mày bị CÁ đớp thật hả?
- Ừ đớp. Nhưng lại hoá may. Tao gặp một người quen cũ. Chị ấy tốt lắm. Rủ tao về nhà ngủ, lại cho cả
tiền.
- Chỉ xạo. Có mà mày đi xoáy của người ta - Thảo bùng bĩu môi rồi bỗng ghé sát vào người Quê -
Này, tao vừa mới kí một hợp đồng. Thằng này trước tao đã tiếp một lần rồi. Nó vừa đến nói là tối nay cần
chiêu đãi mấy thằng bạn. Đi vòm hẳn hoi. Tao đã bảo cái Lan lừa, cái Sâm lột. Với mày nữa là bốn. Bẩy
giờ tối nay hội bọn nó sẽ đến đây. Phải chuẩn bị mắt xanh mỏ đỏ vào nhớ. Có mầu đấy. Lũ dê này có vẻ
máu lắm.
Quê ngồi lơ đãng chụm môi nhả những vòng khói thuốc. Cô không nghiện thuốc, thậm chí cũng chẳng
biết nó ngoan lành bổ béo gì, nhưng những lúc buồn chán hoặc có điều gì nghĩ ngợi cô vẫn thường hút chơi
vậy.
- Ờ để xem sao… Quê nói và đứng dậy - Tao phải đi tìm bà cháu thằng cu Tẩm đây.
Lúc đó, ở một đường phố tấp nập, có hai bà cháu. Họ như cái mụn ghẻ của một cơ thể mĩ miều đầy son
phấn. Họ là cái mụn vá nhom nhếch của một tấm áo nhiều màu sắc loè loẹt. Họ như hai bóng ma giữa chợ
người nhộn nhịp.
Phải nói rằng thành phố vài năm gần đây thay đổi với tốc độ chóng mặt. Những hè phố rêu mốc, cửa
đóng im ỉm, tường xây bịt bùng những năm trước, giờ bung ra, nhà nhà trổ cửa, tầng tầng cơi nới, rối rít,
hối hả mở sạp hàng, đóng tủ kính, khênh cả nồi soong bát đĩa ra hè phố, ra lòng đường để bán bún ốc, thịt
chó, riêu, phở, bánh cuốn bánh trôi… Khắp các phố phường chỗ nào cũng chợ búa, chỗ nào cũng ăn nhậu
ồn ã. Cái cơ chế thị trường làm cho bộ mặt thành phố tươi rói lên, mật độ dân cư sống trên hè đường, đi
lại trên đường tăng lên gấp bội. Kể ra dân thành phố cũng chóng giàu lên thật. Người ta dám bỏ ra năm
mươi cây vàng để mua một căn nhà lụp xụp có diện tích đất một trăm mết vuông để phá đi, xây hẳn một
ngôi nhà bốn tầng. Có gia đình, bốn đứa con mỗi đứa đi một chiếc cúp mười triệu đồng và chòng vào tai,
vào cổ, vào tay một số vàng bằng chừng ấy nữa. Nhiều gia đình còn bỏ vàng ra sắm xe tải, xe ca, xe lam.
Những chiếc xe Toyota mang biển số trắng tư nhân sang trọng hơn cả xe của nguyên thủ quốc gia. Vàng
muôn năm, đô la muôn năm. Đồng tiền lên ngôi, trở thành thống soái, bất chấp mọi thang giá trị xã hội.
Song, cái sự giàu có ấy đâu phải chia đều cho tất cả mọi cư dân thành thị. Hơn chín mươi phần trăm
người làm công vẫn chỉ cầm cự với năm mươi ngàn đồng lương một tháng, nghĩa là vừa xoẳn để đong hai
yến gạo. Và, còn hàng ngàn người sống thấp hơn cả con số thu nhập đó. Còn một đội quân hùng hậu từ tứ
xứ kéo đến, mỗi ngày lê bước trên các hè phố ngửa tay xin tiền, như hai bà cháu khốn khổ kia.
Đó là một “cặp bài” lý tưởng cho cái việc đi xin xỏ. Bà, tuổi chừng bẩy mươi, lưng hơi còng, mặt
nhăn nheo như vỏ củ lạc già. Bộ quần áo trên người bà không đến nỗi cáu bẩn, nhưng đã quá sờn cũ. Cháu,
là một thằng bé chừng sáu tuổi, người đen đúa sắt lại như một ông già. Không hiểu nó không được chăm
sóc hay cố ý làm ra thế, mà cả gương mặt vốn có vẻ thông minh của nó cứ lem luốc một thứ mồ hôi lẫn mũi
dãi, lẫn bụi đất và cả nhọ nồi. Nếu như bà cụ có vẻ khốn khổ một cách chân thật bao nhiêu thì thằng bé lại
có vẻ láu lỉnh một cách khốn khổ bấy nhiêu. Nó khoác chéo người một cái bị cói, trong đó phình ra đủ mọi
thứ, từ củ khoai luộc, mẩu bánh mì, quả dưa chuột… đến những miếng thịt chó, miếng lòng lợn người ta
đang ăn dở. Một tay nó dắt bà cụ, còn tay kia thì chìa ra trước mặt mọi người. Chìa ra với tất cả vẻ nhẫn
nại và van vỉ, với một quyết tâm sắt đá rằng nó chỉ có thể rụt tay lại khi bàn tay của nó đã có một cái gì đó.
- Lạy ông lạy bà cho con xin mấy đồng…
- Cháu xin các bác các chú. Hãy thương lấy bà cháu…
Nó nói với một âm điều đều đều, không cố ý thiểu não, nhưng cũng không hề chiếu lệ. Vừa nói, nó vừa
nhìn thẳng vào mặt người đối diện, dọi vào họ ánh mắt trẻ thơ rất tội nghiệp, khiến cho cả người keo kiệt
nhất, sắt đá nhất cũng phải mủi lòng.
Lúc này cái “phố bia” đang ở vào tầm cao điểm. Suốt một dãy phố dài các bàn bia tràn hết ra hai bên
vỉa hè. Từng dãy dài xe máy, xe đạp, xe ô tô xếp san sát. Đông nhất là xe cúp, đủ loại, đủ màu. Khách ở
phố bia toàn là loại khách sộp, túi anh nào cũng căng tiền, mặt anh nào cũng phừng phừng rất khí thế. Họ
đến đây để giải khát một phần, nhưng cái chính là để giao tiếp, thù tạc bạn bè. Ít tiền thì uống với nhau một
vại bia, ăn dăm củ lạc, nhiều tiền thì thịt chó, ốc luộc, bồ dục trần, tái dê. Một cuộc bia trăm ngàn là
thường. Càng uống càng có nhiều chuyện để nói. Ngồi với nhau mà ra tiền, ra bạc. Chỗ nào có xe máy giá
hời? Công trình xây dựng kia đấu thầu mấy trăm triệu? Giá đồng và kim loại quí ở biên giới bao nhiêu? Có
chỗ nào cần tiêu thụ vàng, đô la, đá quí không?
Có một ông khách hình như lần đầu tiên xuất hiện ở phố bia. Mọi người chú ý đến ông không phải ở vẻ
người, điệu bộ, mà chính vì cái đài Nationan chạy pin ông đeo cạnh người. Giá như ở cái thời điểm những
năm sáu mươi, chắc hẳn ông sẽ được liệt vào loại người sang, hoặc chí ít là một cán bộ trung cấp, đi đâu
đài điện cũng đeo cạnh người, kêu oang oang. Nhưng ở vào cái thời kỳ viđêô màu, tivi mấy chục hệ này
mà ông vẫn đeo cái đài cạnh sườn, vẫn mở oang oang ngay giữa phố, thì quả là tẩm hết chỗ nói. Người ta
nhìn ông như nhìn một người vừa từ hành tinh khác đến. Có người vừa tu bia ừng ực, vừa vằn mắt về phía
ông ta, văng tục: “Đ.mẹ. Cái quân đồng rừng, ngu không chịu được”. Ông khách lạ, đúng là người đồng
rừng, dường như không hay biết, dường như pho phú tuốt. Ông chén tái dê, uống bia ừng ực, và cứ để đài
nói ông ổng.
“Chương trình thông tin - quảng cáo” - Tiếng cô phát thanh viên bỗng cao vóng lên. Tiếp theo là nhạc
hiệu xập xình như huơ mọi người cùng vào cuộc nhảy.
“Tìm người nhà” - Vẫn tiếng đài của ông khách đồng rừng - “Con gái là Nguyễn Kim Thoa và con rể
là Bùi Danh Vọng hiện đang công tác tại Tổng công ty Luđamếx nhắn tìm mẹ là Đào Thị Nụ, bẩy mươi hai
tuổi. Mẹ Đào Thị Nụ bỏ nhà đi ngày… tháng…. năm… Khi đi mặc chiếc áo lụa sát si gụ, quần láng đen đã
cũ. Đặc điểm: cao chừng một mét năm mươi, người gầy, hơi còng. Có một nốt ruồi to dưới đuôi mắt trái.
Ai biết cụ Đào Thị Nụ ở đâu xin đưa đến theo địa chỉ… Gia đình xin hậu tạ và chịu mọi phí tổn…”
Đang đi cùng thằng cháu, bà cụ vội buông tay nó ra và đứng lặng. đúng là đài vừa nhắc đến tên bà. Bà
chính là Đào Thị Nụ, có cô con gái là Nguyễn Kim Thoa và ông con rể quí tử là Bùi Danh Vọng. Chúng nó
còn dám vác mặt lên đài mà tìm bà kia à? Ôi chao, nhân tình thế thái, đảo điên hết cả rồi. Hai khoé mắt
nhăn nheo của bà bỗng nhiên hoen ra hai dòng lệ. Nước mắt chảy xuống cái nốt ruồi đón lệ ở đuôi mắt trái,
như dòng nước gặp phải một gò đất, ứ lại rồi lan nhoè cả gò má.
- Kìa bà, làm sao thế hả bà? - Thằng bé quay lại hỏi, đôi mắt nó tròn xoe không hiểu vì sao bà nó
khóc?
Câu hỏi của thằng bé làm bà Nụ như chợt tỉnh.
- Không. Con muỗi nó bay vào mắt bà - Bà nói cho qua chuyện rồi nhổ phì phì một bãi nước bọt về
cái tiếng đài vừa réo gọi tên bà.
Nhưng thằng bé không hiểu ý bà nó. Nó cứ dắt bà phăm phăm tới chỗ ông khách đồng rừng đeo đài ở
cạnh sườn kia. Nó chắc đây là một ông khách sộp.
Cái bàn tay nhỏ xíu của thằng bé chìa ra trước mặt ông khách đúng cái lúc ông đang cúi vục mặt xuống
bát bồ dục trần khiến ông có cảm giác một chiếc thuổng đào ếch vừa xỉa vào mặt ông. Và ông ngửng bộ
mặt đỏ tái, dọi hai con mắt ngầu đỏ vào mặt thằng bé. Bốn con mắt gặp nhau. Đôi mắt thằng bé mỗi lúc một
lì lợm và nhẫn nhục, còn đôi mắt ông khách đồng rừng thì cứ dãn dần ra, tròn xoe, đầy kinh dị. Liệu ông có
quá say không? Tâm trí ông có còn tỉnh táo hay đang bị ma ám? Sao cái thằng này nó giống ông lạ lùng.
Cũng cái trán dô bướng bỉnh, cái cằm vuông và đôi mắt xếch. Hà, nó bao nhiêu tuổi nhỉ? Năm hay sáu
tuổi? Thôi đúng rồi. Nếu đẻ đúng cái năm ấy thì… Ông khách ngẩn người, ông thò tay ấn nút cái đài đánh
xoạch, cái đài câm tịt.
- Này cu, mẹ mày đâu?
Thằng bé lắc đầu.
- Mẹ mày tên là gì?
Thằng bé lại ngoẹo đầu.
- Nói đi thì tao cho tiền. Mẹ mày tên là gì?
- Cháu không biết - Thằng bé buộc lòng phải trả lời, nhưng nó vẫn giữ một nguyên tắc là không khai
báo gì về cái lý lịch đầy bí ẩn của nó. Nghề nghiệp ăn xin đã dạy nó như thế. Không được hở một chút gì
về bản thân mình, ngoài sự khốn khổ.
Vẻ bí mật của thằng bé càng làm tăng thêm mối linh cảm của ông khách đồng rừng. Ông bỗng nhớ đến
một người con gái của tám năm về trước, khi ông còn đang làm đội trưởng một đội lâm nghiệp ở lâm
trường H. Tuyên Quang. Chao ôi, con gái chi mà trắng nõn nà. Hai vú thây lẩy như hai quả bưởi Đoan
Hùng mọng nước. Và mông, và đùi. Ờ, cứ nghĩ đến đã thấy toát mồ hôi. Ông khách nuốt khan đánh ực và
thọc bàn tay chuối mắn vào cái túi áo ngực ông đang có rất nhiều tiền. Tiền bán đá đỏ. Từ ngày nghỉ việc
lâm trường ông xoay sang làm cai đầu dài của bọn thợ đào vàng và khai thác đá quý. Kiếm được. Mỗi
chuyến về thành phố chỉ cần một gói nhỏ nhét trong túi áo là vớ được bạc triệu, tha hồ tiêu xài.
- Tiền đây, bác cho… Nào, lại đây bác thơm một cái… - Ông khách vừa xoè ra hai tờ năm ngàn vừa
đưa tay kéo thằng bé vào lòng.
Vừa lúc đó một người đàn bà từ đầu phố hớt hải chạy lại.
- Bà ơi… Ơi cu Tẩm. Đi đâu mà biền biệt, để tìm suốt từ trưa tới giờ…
Ông khách đang ôm thằng bé bỗng sững người.
- Quê! - Ông buông thằng bé và kêu lên.
Quê choáng váng khi chợt nhận ra ông khách vừa gọi tên mình. Không còn biết phản ứng ra sao, cô
đứng khựng lại như người vừa bị chứng đau tim đột phát. Rồi cô bỗng lao đến chỗ thằng Tẩm, giằng nó ra
khỏi ông khách, gạt phắt hai tờ bạc từ tay ông và cứ thế lôi nó đi xềnh xệch.
Suốt một dẫy hàng bia, ai cũng tròn xoe mắt kinh ngạc. Người ta tưởng như cô gái mắc bệnh tâm thần,
còn ông khách đồng rừng thì rõ ràng đang bị cơn say làm cho rồ dại. Ông lảo đảo, một tay ôm chặt cái đài
bên hông, còn tay kia cứ chới với giơ lên hai tờ bạc, lưỡi líu lại mấy từ “con… Quê…” đến là vô nghĩa.
VI
C hín năm trước.
Một chiều mùa đông ảm đạm, trên con đường rừng heo hút, nơi dẫn vào lâm trường H. có một
cô gái trẻ đang lê từng bước khó nhọc. Một ngày chen chúc trên tàu, hai ngày đi bộ, cô tưởng như mình
không còn đủ sức để tới cái góc rừng hẻo lánh này. Đói và mệt. Trong túi không còn một đồng xu. Trước
khi rời nhà trong óc cô gái chỉ kịp loé lên một cái địa chỉ mơ hồ: Nguyễn Thị Điệp, giáo viên trường phổ
thông cơ sở lâm trường H. Tuyên Quang. Thế là cô nhắm mắt lao đi.
Điệp là chị họ của Quê, hơn cô đến hơn chục tuổi. Ngày Quê còn học lớp bốn, Điệp đã trở thành một
cô giáo cấp một. Chị xung phong lên miền núi dạy học. Thỉnh thoảng viết thư về cho Quê. Những lá thư
Cmang hương vị một vùng đất lạ, lấp lánh màu xanh của rừng, màu đỏ của hoa chuối rừng và màu chàm của
váy áo những cô gái Tày. Hai, ba năm rồi không thấy Điệp viết thư về nữa. Có lẽ chị đã lấy chồng, hoặc
giả vì công việc quá bận bịu. Nhưng Quê thì vẫn nhớ. Cứ tưởng tượng ra cái lâm trường của chị với trùng
điệp rừng, bạt ngàn những đồi cọ, đồi chè là Quê lại thấy tràn ngập một không khí êm đềm no đủ.
Cô gái mười bảy tuổi mang cái thai ba tháng lên rừng với một niềm hy vọng mong manh, còn nỗi tuyệt
vọng thì hầu như lúc nào cũng thường trực trong người. Chỉ biết đi khỏi làng cái đã, có gặp chị Điệp không
thì chưa biết. Gặp thì van vỉ chị cưu mang, không gặp thì nhảy xuống sông xuống hồ cho xong một đời. Quê
đã tìm đến lâm trường H. với cảnh ngộ của người bị đẩy vào bước đường cùng như vậy.
May mà cho tới khi gần như tuyệt vọng, nghĩa là đã bị đói, bị khát, bị chồn chân vì hỏi thăm đường, thì
Quê gặp Điệp. Trời ơi, hoá ra những lá thư chị viết những năm trước đây chỉ là một sự lừa mị, chỉ là sản
phẩm của trí tưởng tượng. Nơi Điệp ở là gian đầu hồi của một lớp học đã xiêu vẹo. Đúng ra cả nơi chị ở,
cả cái lớp học của bọn trẻ chẳng khác gì một cái chuồng trâu, nghĩa là nó tuềnh toàng, trống trải và nhếch
nhác đến thảm hại. Còn Điệp, sau ba năm không về nhà, trông chị tiều tuỵ gày ốm như một bà già. Không
thể nhận ra một cô giáo Điệp trẻ trung, đoan trang, tự tin tới mức hơi kiêu kỳ trong những lần về phép
trước đây. Mới chưa đầy ba mươi tuổi mà tưởng chừng như chị đã quá tuổi bốn mươi rồi.
- Ba tháng nay chị chưa được lĩnh lương em ạ. Có ít đồ đạc cũng phải bán đi để đong gạo - Câu
chuyện đầu tiên hai chị em gặp nhau đã phải nhắc đến miếng ăn thì thật tội nghiệp. Nhưng Điệp biết mình
không thể hoa mỹ mãi được. Cứ nói toẹt ra cảnh ngộ của mình để hai chị em đỡ hiểu lầm nhau - Bao nhiêu
năm rồi chị tưởng nạn sốt rét đã dập tắt được. Ai ngờ năm ngoái lại tái phát. Đây, cứ nhìn thân hình chị thì
biết. Bây giờ thì chị chẳng dám vác mặt về nhà nữa đâu. Mang tiếng là cô giáo, đi thoát ly mà vác cái thân
tàn ma dại này về nhà để họ cười cho…
Điệp kể bằng cái giọng rầu rĩ. Đến khi nghe Quê về kể về cảnh ngộ của mình và ngỏ lời muốn trông
cậy vào sự cưu mang của Điệp, thì Điệp bỗng ôm lấy Quê mà khóc.
- Chị tưởng chỉ mình chị khổ, hoá ra em còn khổ gấp trăm lần. Bây giờ chị em mình biết sống làm sao?
Ôi, sao mà mày dại thế, dính dáng đến cái bọn đàn ông làm gì? Chúng nó chỉ biết sướng thân xác chúng nó,
còn bao nhiêu tội nợ đổ lên đầu bọn đàn bà hết. Tao biết thế nên tao thề sẽ quyết không lấy chồng…
Tự nhiên giọng Điệp đay nghiến một cách đầy căm tức, trái hẳn với cái vẻ nhu mì thường ngày của
chị. Thì ra lúc ấy chị chỉ muốn nói cho hả nỗi ấm ức bao năm nay. Ấy là sự thiếu vắng đàn ông ở cái xứ sở
khỉ ho cò gáy này. Một cô gái hơ hớ mơn mởn đã bị giết chết trong sự chờ đợi, khao khát yêu đuơng. Gần
chục năm trời cô bị giam hãm cầm tù trong những cánh rừng bịt bùng. Chẳng có chàng trai nào đến tán tỉnh
cô, chẳng có một người đàn ông nào khả dĩ để cho cô một hy vọng lựa chọn. Thảng hoặc có một gã đàn ông
nào đó mon men đến thì lại là một con dê già ngứa nọc, hoặc một gã trốn vợ đi tìm của lạ. Điệp không thể
chiều nịnh họ được, một phần vì sự nghiệt ngã của nghề nghiệp bắt chị phải đạo đức, mô phạm, nhưng cũng
một phần vì chị vô cảm trước những thứ tình cảm đầy tính mưu mô, dung tục ấy. Điệp trở thành một “bà
cô” thực sự theo cái nghĩa đen của nó. Chị gày đét đi về thân xác đã đành, ngay cả phần tâm hồn, tình cảm
cũng mỗi ngày một teo tóp đi, khô héo dần.
Dẫu vậy, bản tính Điệp vẫn không phải là một người tàn ác, nhẫn tâm. Điệp đã tiếp nhận “người khách
không mời”, cộng thêm một đứa trẻ ba tháng trong bụng với một tình cảm của người chị gái. Cũng may Quê
là một cô gái vốn quen lao động chân tay và không nề hà trước bất cứ một khó khăn nào. Cô đi chặt nứa
thuê cho các các gia đình xung quanh, hái chè, dỡ sắn cho những người có vườn rừng rộng mà thiếu nhân
công. Đời sống của hai chị em vì thế cũng đỡ chật vật.
Sáu tháng sau Quê đẻ một bé gái. Đứa trẻ đẻ rơi ở trên nương, khi Quê đang đi làm cỏ chè. Có những
đứa trẻ thật kì lạ. Đẻ rơi đẻ rụng mà chẳng hề gì, vẫn cứ lớn như thổi.
Điệp vừa là cô giáo của bọn trẻ ở lâm trường, vừa là người bảo mẫu của cô bé Rớt. Chị yêu con bé
như chính chị đã đẻ ra nó. May mà sau khi đẻ Quê lại khoẻ ra. Bé Rớt chưa đầy tháng cô đã phải đi làm.
Vẫn công việc làm thuê ở mướn lấy tiền công nhật để sống.
Một buổi chiều, sau một buổi hái chè, mồ hôi ướt đầm vai áo, Quê ra suối tắm. Con suối ở đoạn này
bị chặn bởi một dải đồi đá gan gà nên dòng chảy bị bẻ cong như chiếc vai cày. Ở chỗ gấp khúc nó tạo
thành một cái vực sâu, nước tĩnh lặng như một cái ao làng. Quê tắm. Hồn nhiên như tuổi mười tám, như thể
cô chưa từng làm mẹ. Ban đầu cô còn để cả áo quần, lối tắm cổ điển của các cô gái quê bên bờ sông Đáy.
Nước mát quá, trong quá. Nước xanh như mời mọc, quyến rũ Quê. Cô đứng ngập dưới nước, cởi quần giặt.
Rồi cô cởi luôn cả áo. Quê hoàn toàn khoả thân trong nước để mặc làn nước trong mát ve vuốt thân hình
ngồn ngộn, trắng muốt của cô.
Quê không hay biết rằng có một người đàn ông ngồi câu cá ở một bụi cây gần đó. Ông ta đã phát hiện
ra Quê ngay từ lúc cô ở trên đồi đi xuống. Chiếc cần câu trong tay ông suốt từ đó hầu như bất động. Ông
ngồi nép sát vào những vòm lá, cố thu nhỏ mình lại, cố nguỵ trang mình thật kỹ để Quê đừng phát hiện ra
có một người lạ mặt ở đoạn suối vắng này. Thật là một pha trinh thám hồi hộp. Đôi mắt ông xuyên qua
khoảng trống vòm lá, như hai ống kính tê lê cực nhạy, không bỏ sót một cử động nào của nàng tiên tắm
suối. Trời ơi, đã đến lúc nàng cởi áo. Thế chứ, nhất định phải có động tác ấy. Ôi chao, sao mà trắng nõn
nà. Cái cổ thon dài vuốt xuống đôi vai ngà ngọc. Và đôi bầu vú, núng nính, căng mọng, cương ra, nhô lên
hai đầu vú phớt hồng đến khêu gợi.
Ngắm một người đàn bà tắm đã là một niềm khoái cảm, ngắm một người đàn bà trẻ đẹp tắm suối trong
một tư thế hoàn toàn tự nhiên, thậm chí nàng vừa tắm vừa tự chiêm ngưỡng, ve vuốt mình, thì đó quả là một
niềm hạnh phúc tột bậc. Người đàn ông câu cá kia đang hưởng trọn niềm hạnh phúc đó. Ông ta nuốt nước
bọt ừng ực, hai mi mắt giương mãi như bất động. Và tim ông đập thình thịch, cái thình thịch vừa là của một
kẻ ăn vụng sợ người ta bắt quả tang, vừa là của một kẻ đầy ham muốn đang hưởng trọn vẹn niềm khoái lạc.
Giá như được đến gần một chút nữa, được nhìn suốt từ khoảng ngực kia cho tới chót bàn chân - Ông ta
thầm ao ước. Và ông ta gián người xuống đất, cố trườn gần thêm một chút nữa.
Bỗng ùm. Một hòn đất lở. Cái tiếng động bất thình lình đó khiến Quê giật bắn người. Cô ngã té về một
bên. Và thật không may, chính lúc đó chân cô đã trượt khỏi chỗ đứng, lộn nhào xuống một chỗ nước sâu
hơn. Cô chới với vì không biết bơi. Cố nhoi lên, cố vùng thoát khỏi vực nước thì cô lại càng bị nước nhấn
chìm xuống.
Người câu cá không ngờ vận may rơi xuống trúng đầu mình, không ngờ chính cái hòn đất vô tình ông
làm rớt xuống lại là cái duyên cớ cho ông hưởng thêm một lần hạnh phúc nữa. Ông ta bàng hoàng một giây
rồi cắm đầu lao ùm xuống vực nước. Như một con rái cá. Chỉ tích tắc sau ông ta đã bơi tới chỗ cô gái.
Động tác đầu tiên của một người sành sỏi cứu người chết đuối là ông ta túm lấy tóc cô gái. Rồi vừa dùng
chân bơi đứng, bàn tay kia ông ta luồn xuống eo lưng Quê. Ơi trời, khắp người ông bỗng run bắn lên khi
bàn tay của ông phát hiện ra toàn bộ cơ thể Quê hoàn toàn trần truồng. Ông ghì sát Quê vào người. Toàn
thân ông như cương hết lên, như mọc đầy gai ngạnh khi ông cảm thấy một cách hết sức cụ thể từng đường
cong mềm mại, từng bộ phận cơ thể chắc nịch, nuột nà của người con gái bắt đầu phát lộ vẻ đẹp trời phú.
Quê được đặt nằm trên bờ, trong cái nắng mơ hồ như hắt từ đâu đó lại. Một pho tượng vệ nữ bằng
xương thịt với tất cả vẻ đẹp lồ lộ, đẹp mê hồn và đầy khêu gợi. Trong đời chưa bao giờ anh chàng câu cá
kia được chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời đến thế. Ông ta đã có vợ và sáu đứa con gái. Nhưng chưa
bao giờ ông nhìn ngắm vợ khoả thân, và cũng chưa bao giờ ông có một chút thèm muốn nào ngắm vợ trong
trạng thái này. Chán chết đi được. Cứ tắt đèn đi đêm cho nó xong chuyện. Nhưng lần này thì khác. Hoàn
toàn khác. Cổ ông khô cháy vì thèm muốn, người ông hầm hập một khối năng lượng cần được giải toả. Và
ông quỳ xuống bên cô gái.
Nhưng chính lúc ấy Quê bỗng vùng ngồi dậy. Cô bị sặc nước và quá hoảng sợ nên chỉ thiếp đi một vài
giây.
- Cháu cảm ơn ông, cháu van ông… Quê chắp hai tay vái lia lịa và bò giật lùi về chỗ để quần áo.
- Anh thương… Để anh chữa cho khỏi sặc nước… ông ta vừa nói một cách khó nhọc vừa nuốt nước
miếng.
Nhanh như một phản xạ tự vệ Quê đã khoác chiếc áo vào người.
- Cháu đội ơn ông… cháu van ông… đừng, ông… Cháu sợ…
Quê lấy quần che người, tiếp tục đi giật lùi, rồi bất thần cô ù té chạy, để lại người đàn ông trong bộ
quần áo ướt sũng chết đứng bên bờ vực. Rồi ông ta khuỵu xuống, hai tay ôm lấy mặt.
*
Người đàn ông có cái diễm phúc nhìn và vớt Quê tắm truồng đó chính là Toại, đội trưởng đội lâm
nghiệp số ba của lầm trường H. Toại là người miền xuôi, lên khai hoang miền núi từ năm 1962, sau ngày
lâm trường H, được thành lập, Toại xin vào làm công nhân lâm trường. Toại lấy một cô vợ người Tày,
cùng làm một đội sản xuất, đẻ liền một mạch sáu cô con gái. Người ta thường bảo: “Kinh già hoá Thổ”, ý
nói sống lâu ở vùng dân tộc thì người Kinh cũng bị thiểu số hoá đi. Nhưng với Toại không phải như thế.
Càng sống với những người dân hiền lành chất phác, Toại lại càng trở nên lọc lõi, thạo đời. Giống như con
sói sống giữa bầy thỏ, ban đầu sói có thể đội lốt thỏ để dễ hoà đồng, sau rồi sói sẽ tìm cách mà ăn thịt thỏ
dần. Toại cũng vậy. Để có thể kiếm được một tí chức quyền, Toại cùng vợ con xung phong vào một cánh
rừng hẻo lánh nhất lâm trường. Nghiễm nhiên anh ta trở thành một đội trưởng. Rồi anh ta trổ mánh lới, nịnh
nọt cấp trên, lừa mị cấp dưới để vào Đảng. Có chức, có quyền, anh ta trở thành ông vua con, ông chúa sơn
lâm. Nghề rừng nói là vất vả, nhưng mà cũng tuỳ từng loại người, tuỳ nơi. Công bằng mà nói, Toại chỉ thực
sự làm nghề sơn tràng có hai năm, còn thì tất cả thời gian còn lại anh làm nghề lãnh đạo sơn tràng. Làm
ông chủ của hơn một trăm công nhân, làm ông chủ của tám trăm héc ta rừng, quyền hành bổng lộc còn hơn
cả các ông chủ tư bản. Bởi chủ tư bản muốn có rừng phải bỏ tiền vốn ra mua cây giống, phải thuê công
nhân trồng rừng, tu bổ, khai thác, phải nộp thuế rừng cho nhà nước, vân vân. Nhưng các ông đội trưởng,
giám đốc lâm trường nước ta thì cứ việc toạ hưởng kì thành. Rừng tự nhiên sẵn có, muốn khai thác lúc nào,
loại cây gì mặc sức. Lương công nhân do nhà nước cấp. Vốn trồng rừng, tu bổ rừng đã có nhà nước lo. Thế
nên nhà nước cứ cấp vốn, rừng chẳng trồng được cây nào vẫn cứ khai khống để ăn tiền. Dăm bữa nửa
tháng lại chặt bán cho bọn lái buôn gỗ vài chục khối, dấm dúi chia nhau. Về cái mánh lới gặm dần rừng
của nhà nước để ăn, Toại là người có sạn trong đầu. Nhưng mà Toại khôn, Toại ăn vụng nhưng biết chùi
mép, thành thử với lâm trường Toại vẫn là một cán bộ trong sạch, rất được tín nhiệm với cấp trên.
Cái buổi chiều Toại đi câu giải buồn và bắt gặp Quê tắm suối ấy đúng vào thời kỳ uy tín của Toại ở
lâm trường đang lên. Đội ba đang là đội tiên tiến xuất sắc, được nhận cờ luân lưu ngành lâm nghiệp, bản
thân Toại đang là chiến sỹ thi đua. Nhưng tất cả những lợi lộc, danh hiệu cùng là uy tín ấy chưa bao giờ
làm cho Toại sung sướng bằng được ngắm trộm Quê tắm, càng chưa bao giờ có ý nghĩa bằng được ôm Quê
trong lòng, bằng được ngắm Quê nằm khoả thân bên bờ suối. Toại sẵn sàng đánh đổi hết để được ngủ với
Quê, được chiếm đoạt Quê hoàn toàn. ý nghĩ ấy nung nấu trong Toại như than đỏ vùi trong trấu.
Ngay tối hôm ấy Toại đã mò ra lớp học. Toại tảng lờ làm như thay mặt lãnh đạo đội ra xem tình hình
cô giáo Điệp và các cháu dạy dỗ, học hành ra sao. Toại tự nhận khuyết điểm là quá quan liêu, không để
tâm đến trường sở, để các “mầm non” của lâm trường phải học hành trong một cơ sở rách nát quá. Toại
hứa với cô giáo Điệp ngay ngày mai sẽ cho “quân” xẻ gỗ, cắt gianh dựng lại lớp học, ngay ngày mai sẽ
xuất quĩ đội trợ cấp cho cô giáo, trả lương trước cho cô giáo rồi sẽ kiến nghị với ngành giáo dục sau. Rồi
cũng làm như tình cờ, Toại phát hiện ra Quê, em gái của cô giáo Điệp. Toại bế cháu bé khen nó xinh giống
mẹ và hứa sẽ bằng mọi cách tuyển dụng Quê vào làm công nhân lâm trường.
Lời hứa của Toại hoàn toàn không phải là một sự lừa mị như anh ta từng làm với cấp trên và cấp dưới
hơn chục năm may. Hơn một tháng sau Quê được vào làm công nhân ở đội sản xuất số ba.
Nhưng, ý đồ của Toại thâm thuý hơn nhiều người tưởng. Lấy cớ là công nhân mới, lại trẻ, cần phải qua
thử thách, Toại điều Quê đến một cánh rừng thật xa, cách trung tâm đội đến mười cây số đường rừng. Đó
là một tiểu khu toàn người Dao bản địa mới sát nhập vào lâm trường. Quê là người Kinh duy nhất xen vào
đó.
Hơn một năm, tiếng là làm công nhân lâm nghiệp nhưng hầu như Quê được giành trọn thời gian để nuôi
con. Toại khéo bố trí cho cô chăm sóc một vườn ươm nhỏ ngay cạnh một gian nhà nhỏ xinh bên bờ suối.
Cô như một chủ vườn ẩn giật chốn rừng sâu. Nơi ấy thật yên tĩnh, yên tĩnh đến mức cô tịch.
Và rồi chiến thuật mưa đầm thấm lâu của Toại đã thành công. Người chịu ơn bao giờ cuãng cả nể,
không bao giờ nỡ làm cho ân nhân của mình phật ý. Người cô đơn thì luôn khao khát bạn bầu, luôn luôn
muốn được chia sẻ, được cưu mang cả vật chất lẫn tinh thần. Quê là hai con người ấy cộng lại. Có thể nói
Toại hoàn toàn thành công trong chiến thuật săn mồi của mình. Anh ta không sấn xổ, không thô bạo. Giống
như một con mèo già, anh vờn con chuột từ khi nó hoảng sợ cho tới lúc nó bình tâm lại, trở nên dạn dĩ, thì
đùng một cái, xơi tái đúng cái lúc nó hồn nhiên nhất. Toại đã chiếm đoạt Quế hệt như vậy.
Ấy là một buổi chiều mùa hè gió rừng hây hẩy, Quê đang ngồi tắm ở sau tấm phên nứa đầu nhà thì ông
đội trưởng bất thần xuất hiện.
- Kìa chú. Đừng vào… Đợi cháu một tí… Quê vừa nói vừa ngồi thụp xuống để che đi nửa khuôn ngực
trần trắng muốt.
- Cho ngắm một chút… như cái buổi chiều nào bên bờ suối…
Toại nói ỡm ờ và tiến lại phía Quê.
- Ứ ừ… Xấu hổ lắm… Kìa đừng…
Nghe giọng nói, nghe cái ngữ diệu, Toại biết rằng mình phải làm gì. Và anh đã không bỏ qua cơ hội.
Anh gạt tám phên nứa, cúi xuống bế bổng Quê lên. Tấm thân đàn bà mát lạnh ròng ròng nước được Toại
nâng niu đặt lên giường.
- Kìa đừng… Cái bé nó thức dậy bây giờ…
- Nó thức thì mình ngủ. Nào ngoan… Anh yêu mà . Anh sẽ lấy em làm vợ. Em cứ ở trong này… Em sẽ
đẻ cho anh một thằng con trai…
Vừa phả vào tai Quê những lời hổn hển, đứt quãng, Toại vừa tới tấp hôn lên khắp người cô. Hôn đến
đâu người Quê khô đến đó, nóng rẫy lên đến đó. Thay vì sự hưng phấn nhục dục, tâm hồn Quê bỗng được
thổi bùng lên bởi một hưng phấn về một cuộc sống yên ả. Ừ, Quê sẽ ở mãi đây, dù phải chịu phận lẽ mọn.
Cuộc đời Quê coi như đã yên hàn. Phận đàn bà chỉ cầu mong có thế. Sống và nuôi con yên ổn, dù là trong
một xó rừng khuất nẻo nơi thâm sơn cùng cốc. Quê sẽ lấy cho các con những cái họ người Dao. Quê sẽ
mặc quần áo dân tộc, sẽ hoà tan cả quá khứ và tương lai của mình trong những cánh rừng…
Chính những niềm mơ ước giản dị và khiêm nhường ấy đã làm cho Quê hiến trọn một cuộc tình không
có tình yêu. Người cô bồng bềnh như trong một cõi mộng du. Cô khóc vì cay đắng và vì cả những toan tính
hết sức nhỏ mọn và tầm thường của mình.
Họ sống với nhau trong cảnh già nhân ngãi non vợ chồng như thế được hơn một năm.
Nhưng rồi một buổi trưa…
Đúng là cái lúc mà Toại và Quê đang hành sự trên giường thì một tốp bốn người đàn ông có súng cùng
với một người đàn bà lặng lẽ xuất hiện. Người đàn bà chính là vợ Toại. Bốn người đàn ông kia thuộc lực
lượng bảo vệ của lâm trường bộ, dẫn đầu là đồng chí chánh thư ký công đoàn. Thì ra chính vợ Toại đã
nghi ngờ mối quan hệ bất chính của chồng từ lâu. Chị tuyệt nhiên không hề hé răng hỏi chồng, nhưng chị
vẫn ngấm ngầm theo dõi, rình rập. Và hôm nay cơ hội ấy đã đến. Đôi gian phu dâm phụ bị bắt quả tang.
Đáng thương thay cho Quê. Cô đã bị người đàn bà gầy nhẳng, mọi ngày vẫn nhu mì nhẫn nhục như một cái
bóng, giờ bỗng dữ dằn hung bạo như một con sư tử cái nhảy xổ vào đấm đá, hành hạ một cách hết sức nanh
ác.
Những ngày tiếp theo, những trận đòn ghen còn ác độc và dữ dội hơn nữa. Cả ba cô con gái lớn của
Toại cùng hợp sức với mẹ xung trận. Quê bị đánh tơi tả phải đi cấp cứu bệnh viện. Bị đánh, bị hạ nhục
trong khi Toại cứ điềm nhiên như người ngoài cuộc mới kì lạ. Trong đời chưa bao giờ Quê thấy thằng đàn
ông nào hèn mạt đến thế. Hắn cố tình rũ bỏ trách nhiệm. Hắn làm như vô can. Trong khi Quê đi cấp cứu
bệnh viện thì hắn còn bận lo chạy chọt để mong xoá bỏ cái vụ bắt quả tang kia. Hắn tung tin rằng Quê
quyến rũ hắn, nhưng hắn luôn luôn giữ vững phẩm chất của một đảng viên, một cán bộ lãnh đạo. Hắn vẫn
trong sạch. Chuyện ầm ĩ lên chẳng qua vì vợ con hắn quá ghen tuông mà thôi.
Một lần nữa Quê lại đành phải ra đi. Chao ơi, số phận đến là nghiệt ngã. Cái mong ước nhỏ nhoi nhất,
tầm thường nhất của kiếp đàn bà là được sống yên ổn ở một xó rừng, được biến thành một người dân bản
địa, không quê quán, không gốc tích, chỉ cốt sao lần hồi nuôi được mình và đứa con xấu số mà cũng không
được.
Quê gửi lại bé Rớt cho cô giáo Điệp nuôi giúp, một mình lặng lẽ rời khỏi lâm trường.
Quê hoàn toàn không hay biết rằng, giống như cái lần Quê chạy khỏi làng bỏ lên rừng ba năm trước,
lần này sự bi thảm lại được lặp lại, lặp lại với một cấp độ còn thảm khốc hơn. Ấy là một cái bào thai mới
đã làm tổ trong người Quê hơn một tháng trời. Cái bào thai ấy chính là thằng Tẩm sau này.
VII
N gười đồng rừng đeo đài bên hông ngồi ở phố bia chiều ấy chính là Toại. Bẩy năm qua Toại đã
già đi nhiều. Mái tóc muối tiêu, bọng mắt chảy xệ, da mồi. Ở ông vừa có cái vẻ chán chường,
mệt mỏi của một người già, vừa có cái vẻ ham hố, cuồng nhiệt của một chàng trai mà tất cả những hoài bão
dự định còn đang chờ ở phía trước.
Cái vụ trai trên gái dưới với Quê ngày ấy, ban đầu, tưởng như to tát, tưởng như sẽ là một vụ sì-căng-
đan điển hình của ngành lâm nghiệp. Nhưng rồi rốt cuộc, mọi chuyện đều im re. Toại đã khéo léo thu xếp,
bịt chỗ này, trấn áp chỗ kia, thậm chí bắt vợ và các con mình phải lên gặp lãnh đạo lâm trường nhận đã
chót dại dột mà dựng chuyện lên thế. Sau ngày Quê bỏ đi khoảng nửa tháng thì mọi chuyện ổn thoả. Đại hội
Nđảng bộ, Toại vẫn chúng với số phiếu cao, được cơ cấu vào đảng uỷ. Đội ba của Toại vẫn là một tổ đội
lao động XHCN.
Nhưng mà cũng từ đó, Toại bỗng thấy chán ngán tất cả. Chán vợ con, chán chính mình, chán cả những
thứ danh hiệu, chức tước hão. Sự ra đi của Quê hầu như đã làm rỗng cả cuộc đời Toại. Biết bao nhiêu đêm
Toại dằn vặt và phỉ nhổ chính mình. Một thằng đàn ông đốn mạt. Một gã Sở Khanh siêu hạng. Toại tự xếp
mình như thế. Toại mong ước giá như cái sự kiện ấy được lặp lại, Toại sẽ sẵn sàng đánh đổi - quyền chức,
danh hiệu, vợ con - để bảo vệ Quê, để được chung sống với Quê.
Đã ba lần Toại xuôi Hà Nội, chỉ với mục đích tìm kiếm Quê. Toại tha thẩn ở các bến xe, nhà ga, Toại
lân la hỏi dò những bà hàng nước. Nhưng đều vô hiệu. Nghe cô giáo Điệp nói Quê đã đẻ một thằng con
trai, Toại như muốn phát điên lên. Ông luôn luôn linh cảm thấy giữa ông và Quê nhất định phải có một mối
liên hệ nào đó.
Toại quyết định xin nghỉ hưu trước tuổi. Bao nhiêu vốn liếng góp nhặt được trong hơn hai mươi năm
nghề rừng Toại dốc ra xây nhà. Một ngôi biệt thự giữa rừng, hai tầng, tám phòng, thắp điện bằng máy phát
Nhật, rồi ti vi màu, xe kích, ra đi ô cátxét, tủ lạnh. Bây giờ Toại mới thực sự là một ông chúa sơn lâm. Một
mình một dinh cơ, một khoảnh rừng, một nương chè và bạt ngàn những sắn và mía.
Giàu có, đề huề, nhưng mà Toại vẫn cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng. Sáu thị mẹt, sáu vịt giời thì dù
có sống trên núi của, ăn sơn hào hải vị, vẫn vứt đi. Chán quá, Toại bỏ đi đào vàng. Rồi trúng quả, Toại
làm cai. Toại mang vàng và đá quí về Hà Nội, Hải Phòng, lên biên giới Lạng Sơn, Quảng Ninh để bán cho
người Tàu. Có chuyến, một mình Toại tiêu hết bạc triệu. Ăn ngủ toàn khách sạn mi-ni, muốn thì có cả hầu
phòng non phục vụ qua đêm. Từ lối tư duy của một kẻ cơ hội hãnh tiến ham muốn quyền chức và danh vị,
Toại chuyển sang tư duy của một gã lái buôn thuần tuý tôn thờ đồng tiền. Bây giờ thì Toại chẳng có thứ chủ
nghĩa nào cả, ngoài đồng tiền. Và, phải nói thực tình, tận trong li ti huyết quản của Toại vẫn ngấm ngầm
mong muốn một cái gì lớn lao hơn, cụ thể hơn, đó là một thằng con trai. Mà ở cái tuổi năm mươi nhăm của
Toại bây giờ kiếm một thằng con trai đâu có dễ dàng. Bọn đàn bà có thể sẵn sàng ngủ với Toại, nhưng
chúng lại không thích có con. Chúng chỉ rình cuỗm của ông ít tiền rồi chuồn chứ đâu thích an phận nuôi con
cho ông. Lắm lúc Toại nghĩ mà bế tắc. Và Toại càng nuối tiếc Quê. Nuối tiếc đến dằn vặt, nuối tiếc đến
thẫn thờ.
Bỗng nhiên vận may lại một lần nữa đến với Toại. Toại có say không? Không. Cái thằng bé ấy rõ ràng
giống Toại như lột. Rõ ràng Toại đã gặp Quê. Cô ấy có tàn tạ đi, nhưng cái nốt ruồi ở giữa nhân trung thì
không thể nhầm lẫn được. Không cần phải hoài nghi gì nữa, phải bằng mọi cách giành giật lấy thằng bé.
Chao ơi cay đắng quá, con, con trai của ta mà phải đi ngửa tay ăn xin thiên hạ? Ta sẽ giành tất cả ngôi nhà
và đất rừng của ta cho con. Bao nhiêu vàng và đã quí mà ta có sẽ là của con hết.
Ngay buổi chiều ấy Toại không về khách sạn mi-ni, nơi ông ở nữa. Vẫn khoác chéo chiếc đài bên
hông, ông dò dẫm đi từng phố, hỏi thăm từng người bán hàng nước và bọn trẻ con chơi trên đường phố để
tìm ra nơi ở của mẹ con Quê.
*
Dường như Quê đã linh cảm thấy trước một tai hoạ, kể từ lúc Quê gặp lại Toại ở cái phố bia ấy. Nhìn
ánh mắt của Toại, Quê biết rằng bằng mọi giá ông ta sẽ quyết giành giật lại đứa con. Cho nên phản xạ đầu
tiên của Quê là chạy trốn. Phải giấu kín thằng Tẩm đi, cấm chỉ không cho nó lang thang trên đường phố, ít
nhất là một tuần. Quê lôi xềnh xệch hai bà cháu qua cái lỗ chó chui vào “chiến khu” trong công viên. Chờ
cho đến lúc trời sập tối, phố xá đã lên đèn, Quê lại lôi hai bà cháu đi một vòng nữa rồi mới trở về cái góc
chợ xép quen thuộc.
Phải nói rằng khi sáng chế ra cái chợ, loài người đã bộc lộ trong đó một ý tưởng nhân đạo sâu sắc.
Ban ngày thì dân tứ xứ, bất kể giàu nghèo sang hèn, ai muốn thì cứ vào họp chợ. Có thì bán, cần thì mua,
không cần mua bán gì thì cứ việc dạo chơi vài ba vòng để giết thời gian. Ban đêm, người không họp chợ
thì đã có ma họp. Ma âm không ai nhìn thấy, còn ma dương thì ít thôi, nhưng mà cũng sống động, nhộn nhạo
với đủ mọi dạng vẻ, lứa tuổi. Ấy là những hạng người cơ nhỡ, lỡ tàu xe, thất tán gia đình, và đông đúc,
thường xuyên hơn cả là dân bờ bụi chuyên lê la các vỉa hè để kiếm sống.
Quê cũng có một “căn hộ” cố định ở cái góc chợ xép ấy. Đó là một góc khuất sát với lối đi ra nơi vệ
sinh công cộng. Xếp mấy cái sạp gỗ của các bà bán hàng khô cho gọn lại, lấy cái chổi phảy qua một lượt
rồi lôi cái manh chiếu giấu kín trong khe tường ra, thế là có một cái ”giường” rộng chừng ba mét vuông,
vừa chỗ nằm cho cả ba bà cháu. Cũng từ trong khe tường khuất, một tấm ni lông nhỏ được lôi ra, trong đó
là một chiếc màn bằng vải xô, màu nước dưa, đã bị vá chằng đụp, nhưng vẫn còn dùng được. Góc chợ này
muỗi nhiều như trấu, nên chiếc màn đụp này vừa là tấm bình phong chắn gió, vừa làm nhiệm vụ chống
muỗi. Kể cả có một chỗ ngủ đêm như thế này, với bà cháu Quê đã là quá hạnh phúc rồi. Cũng là do cái tài
“dân vận” của Quê với ông gác chợ. Thỉnh thoảng phải biếu ông ta một bao thuốc lá, thậm chí, nếu ông ta
thích thì cũng phải “chiều” một tí. Đời có ai cho không ai cái gì bao giờ. Một góc chợ tồi tàn bẩn thỉu
chẳng để làm gì, thế mà đều có giá hết.
- Cái con mẹ này đến là gàn - Đợi cho Quê dắt màn xong, nằm xuống cạnh cu Tẩm, bà cụ Nụ mới trở
lại câu chuyện ban chiều - Tao nhìn thấy rõ hai tờ giấy năm nghìn của ông khách đeo đài ấn vào tay thằng
bé. Mười nghìn, bằng đi xin cả một tuần chớ có phải ít đâu.
- Mẹ đến là tẩm - Cú Tẩm cũng phụ hoạ theo - Con thích cái ông đeo đài ấy. Mai con lại ra phố bia…
- Này dở hồn. Tao cấm - Quê bỗng phát bẳn lên - “Mẹ mìn” đấy có biết không? Lão ta chuyên rình bắt
trẻ con để mang lên miền ngược bán. Bà nhỉ, có phải bọn mẹ mìn chuyên mang tiền để dỗ trẻ con phải
không?
- Ừ, đúng lão ta là mẹ mìn. - Bà Nụ đã hiểu ý Quê.
- Ở trên mạn ngược có loại người chỉ thích mua trẻ con để nấu cao. Hôm qua ở ngoài ga có sáu đứa
trẻ con bị bắt. Này, Tẩm, mẹ dặn nhé. Từ ngày mai không được đi qua phố bia nữa. Cứ vào trong công
viên mà chơi. Có tiền đây rồi. Đủ sống nửa tháng.
- Ứ ừ. Con với bà cứ đi xin - Thằng cu Tẩm giãy nảy. Nó tin rằng bà cháu nó đang vào cầu, mỗi ngày
cứ dạo qua phố bia một hai vòng cũng kiếm ăn được.
- Đừng có làm tôi điên tiết nhá. Tôi nói là phải nghe. Thôi, ngủ.
Cả ba cùng im được một lúc. Bà cụ Nụ chợt thở dài.
- Mẹ Tẩm này, chiều nay tao nghe đài. Vợ chồng nhà nó lôi cả tên tao lên đài…
- Vợ chồng nhà nào hả bà?
- Vợ chồng cái con Thoa với cái thằng Danh Vọng ấy mà. Ôi dào, rõ là đồ đạo đức giả. Cướp hết tài
sản của mẹ, đánh đuổi mẹ đi mà bây giờ còn đám vác mặt lên đài nhắn tin tìm mẹ. Nghe mà lộn cả ruột.
Tao thì nhổ vào cái đài ấy…
Quê đã hiểu ra câu chuyện của bà Nụ. Thì ra con gái và con rể bà nhắn tin trên đài để tìm mẹ.
- Này bà ơi, bà nên về với anh chị ấy. Thế là họ đã hối hận lắm rồi đấy. Mẹ con làm sao mà bỏ được
nhau hả bà? Bà ở với mẹ con con ba tháng nay là chúng con biết rõ lòng tốt của bà rồi. Nhưng mẹ con con,
không chốn nương thân, không còn mặt mũi nào để vác mặt về quê, thì nó đã đi một nhẽ. Màn trời chiếu
đất, ăn mày đánh đĩ nhục lắm bà ạ.
Bà Nụ xoay người ôm thằng Tẩm vào lòng và bỗng khóc hu hu.
- Mày định đuổi tao đấy hả Quyên? Tao sống với mẹ con mày có đến nỗi nào. Ba bà cháu có khoai thì
ăn khoai, có cháo thì ăn cháo. Tao thương thằng cu Tẩm như cháu mình…
- Ôi, bà không hiểu ý con rồi… Con đâu dám nghĩ đến chuyện đuổi bà. Chỉ nghĩ rằng bà ở với mẹ con
con thì bà khổ. Lúc khoẻ đã vậy, còn khi trái gió trở trời, biết chui rúc vào đâu? Thế nên con nghĩ, tốt nhất
là bà tha thứ cho chị Thoa. Bà nên về với chị ấy…
- Tao về để cho cái thằng chồng nó lại nhổ vào mặt rồi đuổi tao bước ra khỏi nhà à? Tao đã thề có
giời có phật rồi. Thà chết đường chết chợ còn hơn là sống với vợ chồng nó. Cái thằng chồng thì thật là bất
nhân. Lấy con gái người ta, dỗ dành người ta bán cả cửa nhà đem tiền cho nó mua đất xây nhà xây cửa. Thế
rồi lật mặt, đuổi mẹ vợ ra khỏi nhà. Mà cái đứa con gái như thế thì cũng thật là đại bất hiếu. Nghe chồng
vào hùa đuổi mẹ. Biết như thế thì hoài hơi mà đẻ cho nó rát l.
Mỗi lần nghe bà cụ Nụ nhắc lại gia cảnh, Quê lại thấy tê tái. Thật hiếm có một cuộc đời nào lại nhiều
oan trái như bà. Chồng chết trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi đứa con gái duy nhất mới có hai tuổi. Bà
ở vậy nuôi con, một mình xây dựng một cơ ngơi năm gian nhà ngói cây mít đàng hoàng. Rồi cưới chồng
cho con gái. Anh chồng, một thanh niên nghèo kiết xác từ miền xuôi lên miền ngược khai hoang. Cưới xong
anh ta đi bộ đội, rồi chuyển ngành, được về làm chân cung ứng vật tư của một công ty buôn bán. Do khéo
xoay xoả móc ngoặc, năm sau anh ta xin cho vợ và hai đứa con cùng chuyển về cơ quan, được ăn gạo sổ.
Bốn vợ chồng con cái từ quê thoắt một cái thành người thị thành, tiêm nhiễm nhanh chóng cái máu thị dân,
coi người nhà quê như rác. Về thăm mẹ lần nào cô con gái cũng chê giường hôi chiếu bẩn, chưa tối đến đã
như trong hũ nút. Rồi vợ chồng bàn soạn, rủ rê bằng được bà ra tỉnh. Bán thốc bán tháo nhà cửa, bán cả ba
bụi tre ngâm, mười sáu cây soan vườn, cả lợn gà, thóc lúa, tổng cộng được ba cây vàng, bà Nụ đưa hết cho
con gái, con rể rồi xách mấy bộ quần áo đi làm con ở cho vợ chồng nhà họ. Hai năm đầu không khí còn
thuận hoà, mẹ con bà cháu ra chiều yên ấm lắm. Nhưng rồi, cùng với thời gian, ba cây vàng của bà Nụ
cũng bị vợ chồng người con quên dần. Anh chồng được đề bạt chức vụ, lại móc nối được nhiều đường dây
buôn bán nên giàu lên nhanh chóng. Không tuần nào trong nhà không có tiệc tùng. Vợ chồng ngồi chéo kheo
cùng với khách để ba bà cháu còm cõi dưới bếp như những đứa ở. Có lần sợ ngượng với khách, Danh
Vọng nói dối: bà là người hàng xóm trong quê ra giúp việc. Nghe thế bà Nụ tủi, bỏ ăn sang nhà hàng xóm
hàng buổi. Tiệc tan, khách về, anh con rể bắt đầu sinh chuyện. Anh bảo bà cố chấp, không hiểu gì về lối
sống mới, rằng bây giờ đồng tiền là trên hết, bố mẹ, con cái cũng chỉ là công cụ để phục vụ đồng tiền, rằng
nếu bà không chịu được vợ chồng anh thì mời bà về. “Về đâu? Anh bảo tôi về đâu nữa? Tôi bán hết nhà
cửa vườn tược để đi theo anh chị. Bây giờ anh chị định đuổi tôi ra đường à? “ “Đi ra đường cũng được
chứ sao? Bà tưởng cái nhà to lắm hản? Ba năm qua một mình bà cũng ăn hết đến mấy cái nhà rồi… Đấy,
bà xem còn cái gì của bà nữa thì mang đi…” Thế là bà Nụ đi thật. Bà chỉ mang theo mình cái tay nải với
mấy bộ quần áo. Lang thang năm ngày suốt các ga tầu bến xe thành phố, đôi mắt sưng húp, khóc đến mờ đi.
Rồi bà gặp mẹ con Quê cũng lang thang trên hè phố. Thương cảm hoàn cảnh bà cụ, Quê bảo: “Thôi, bà ở
cùng với chúng con. Số phận con cũng chẳng ra gì. Mẹ con mất sớm… Bà hãy coi con như con đẻ và coi
thằng Tẩm như cháu nội bà vậy". Ba tháng qua, phải nói rằng “gia đình” ấy sống rất thuận hoà. Quê đi kiếm
tiền ở quanh bờ hồ, công viên, còn hai bà cháu làm thành một cặp bài lý tưởng - một bà già khốn khổ với
một thằng bé côi cút - đi làm dịch vụ ăn xin.
*
Có một người từ nãy tới giờ vẫn nấp sau cái phản bán thịt lợn ở gần đó và nghe trộm hầu như trọn vẹn
câu chuyện của ba bà cháu Quê. Đó là Toại. Cả một buổi chiều và một buổi tối lần mò, cuối cùng ông đã
tìm ra “nơi ở” của Quê. Tất nhiên để đến được đây, ông phải chi mất khá nhiều tiền cho bọn trẻ con đường
phố, nhất là dân cùng bờ bụi như bà Nụ, chằng Tẩm, và lẽ đương nhiên cũng phải chi một khoản kha khá
cho người gác chợ nữa.
Khi cái màn xô màu cháo lòng hiện ra lờ mờ trong ánh đèn điện bảo vệ hắt từ góc chợ vào, khi đã
nhận ra trong cái màn nhuôm nhoam bẩn thỉu ấy là bóng ba người lờ mờ nhân ảnh, lòng Toại bỗng se thắt
lại. Không ngờ cuộc đời đã đẩy mẹ con Quê đến cảnh khốn cùng này - Chính Toại, đúng, Toại là một trong
những kẻ đã nhúng tay đẩy Quê tới cái xóm chợ này. Chao ơi, cái thằng bé nằm co quắp trong cái mớ giẻ
rách kia chính là con của Toại mới thảm thương chứ. Không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Nó giống Toại như
đúc. Nó sinh đúng tám tháng sau ngày Quê bỏ đi khỏi lâm trường. Sáu năm qua nó thành một thằng bé ăn
mày. Nó đi la liếm khắp hang cùng xó chợ. Ôi, thật là đau đớn, thật là thê thảm. Giàu có mà làm chi, quyền
chức mà làm gì khi cái giọt máu suốt đời ta mơ ước bị vứt lăn lóc ra ngoài lề đường, bị thiên hạ coi như
một thứ rác rưởi bẩn thỉu…
Trong cuộc đời, dường như đây là lần đầu tiên Toại mềm yếu với chính mình. Ông rời khỏi chỗ nấp
với hai cẳng chân run rẩy như chực khuỵu xuống.
- Quê ơi… Đừng lẩn trốn tôi nữa… Cho tôi được nói câu chuyện…
Tiếng gọi của Toại rồi cái bóng đen của ông lừ lừ tiến lại khiến Quê giật thót người, vục ngồi dậy. Cả
bà cụ Nụ và thằng Tẩm cũng vục ngồi dậy.
- Ông là ai? Ở đây không có ai là Quê - Tiếng Quê thảng thốt.
- Ông nhầm rồi. Không có quê hương nào ở đây đâu - Tiếng bà Nụ rành rẽ. Chính bà cũng tin rằng ông
khách này nhầm.
- Quê đừng làm thế… Tôi đã đi tìm suốt buổi chiều nay. Hãy cho tôi được nói. Quê, tôi biết mình có
tội lớn với hai mẹ con… Tôi là một kẻ khốn nạn. Lẽ ra tôi không nên vác mặt đến đây. Nhưng Quê hãy
hiểu cho tôi… Hãy tha thứ cho tôi… Suốt mấy năm qua tôi đã cất công đi tìm. May mà trời đã xui khiến
cho tôi được gặp em và con chiều nay.
- Kìa, tôi đã nói rồi, tôi không quen biết ông - Quê vén hẳn chiếc màn lên, giọng cô bỗng rung lên bởi
một cơn uất giận đến nghẹn ngào. Như một cơn lũ vô hình, bao nhiêu tủi nhục, bao nhiêu đau khổ ê chề của
những ngày qua bỗng dồn dập kéo đến. Chúng tạo thành một ngọn thác dựng đứng trước mặt Quê khiến cô
hoàn toàn băng giá trước những lời lẽ sám hối một cách nhiệt thành của Toại.
- Ông nhầm mẹ con nhà nó với ai rồi - Bà Nụ giương cặp mắt mờ nhìn ông khách. Bà nhận ra chiếc đài
đeo bên hông của ông - Hoá ra ông khách ở phố bia. Này ông, ông say rồi. Tôi nói để ông biết nhá. Mẹ con
nhà nó là Quyên chứ không phải quê quán của ông đâu.
- Thưa cụ, con không say đâu. Con nhận ra cô ấy ngay từ lúc thoáng gặp… Quê ơi, em hãy tha lỗi cho
tôi. Và cả con nữa, con hãy tha lỗi cho bố - Toại quì xuống, đưa hai bàn tay về phía thằng cu Tẩm.
- Kìa ông, ông đi ra đi - Cu Tẩm giẫy nẩy. Nó nép hằn người vào mẹ nó. - Ông đi đi. Ông say rồi.
- Bố cháu là Hiển cơ. Ông chỉ nhận vơ.
Hai bàn tay Toại bỗng nặng như đeo đá, rơi thõng xuống.
- Ông thấy đó, không ai quen biết gì ông cả… - Quê nói.
Toại bỗng bật lên một tiếng cười chua chát. Ông lắc đầu toan đứng dậy, nhưng dường như ông không
thắng nổi cái sức hút của huyết thống mà ông linh cảm rất rõ rệt và chính nó đã dẫn dắt ông đến đây. Bây
giờ thì lý trí hầu như không kìm giữ nổi. Ông nhoài người ôm ghì lấy thằng Tẩm, khiến nó bỗng hét lên, vừa
dãy đạp vừa nhe răng cắn vào bắp tay ông đau điếng.
- Kìa, ông làm thằng bé chết khiếp lên mất - Quê giằng thằng Tẩm từ tay Toại - Ông đi đi không tôi kêu
công an đến bây giờ.
Nước mắt giàn dụa, ông Toại vừa quì vừa thọc tay vào túi áo móc ra một bọc tiền.
- Thôi được. Cô cứ suy nghĩ lại đi. Đừng vì tự ái mà để cho thằng bé khổ. Tôi không thể để cho thằng
bé đi ăn mày. Cô hãy cầm lấy ít tiền. Rồi tôi sẽ chuộc thằng bé, bao nhiêu cũng được.
Ông Toại đặt bọc tiền trước mặt ba bà cháu rồi đi. Món tiền lớn đến nỗi cả ba bà cháu đều bàng hoàng
tưởng như trong mơ.
Thằng cu Tẩm bảo:
- Ông này vừa say vừa điên mẹ nhỉ.
- Ừ điên - Quê nói - Để mai mang trả ông ta.
- Ứ ừ. Không trả đâu. Đã bao giờ mẹ kiếm được số tiền thế này? Ông ấy điên thì cho ông ấy chết. Mai
mẹ mang vào trong nhà giam cho bố có khi bố sớm được ra…
Quê ôm ghì lấy thằng Tẩm. Cô nhớ đến Hiển, người mà thằng Tẩm vẫn coi là bố đẻ chính thức của nó.
Nó vẫn không hề hay biết rằng cái con người điên khùng vừa đến đây mới chính là người mà nó mang dòng
máu.
- Ông ấy chỉ nhận vơ, mẹ nhỉ. Con chỉ có một bố Hiển thôi. Mai mẹ cho con vào thăm bố, mẹ nhé…
Quê gật đầu, nhưng rồi cô bỗng ôm ghì lấy cu Tẩm chặt hơn và lắc đầu quầy quậy: - Không. Không đi
đâu cả. Mẹ chẳng cho con đi với ai đâu…
VIII
G iá như không gặp Quê, giá như không đưa Quê về nhà, những ngày qua Lê My đã không buồn đến
thế. Chị không thể cắt nghĩa nổi vì sao Quê lại bỏ đi trong lúc chị đi làm vắng. Quê cho rằng chị
giam lỏng cô để rồi đưa cô vào trại cải tạo ư? Hay vì Quê đã quá quen với công việc hành nghề của mình,
cô là con ngựa đã quá quen đường cũ mất rồi… Dù lý do nào đi nữa, Lê My vẫn cảm thấy tình cảm của
mình bị thương tổn. Lòng tốt cũng như lòng trắc ẩn của con người đâu phải lúc nào cũng phung phí một
cách hào phóng? Cho ai, cho lúc nào đều phải cân nhắc, bởi vì cuộc sống hàng ngày còn biết bao điều phải
lo toan, sắp đặt, bởi vì, đôi khi những nỗi buồn chán, bực bõ choán hét cả tâm trạng của ta, làm ta quên đi
cả lòng tốt. Quê đâu biết rằng chính cái buổi tối cô gặp Lê My ấy, chị đang ở trong một tâm trạng buồn
Gchán đến rã rời. Nếu như không phải là Quê, cái cô gái có nốt ruồi ở giữa nhân trung mà chị từng thương
cảm mười năm trước, có lẽ chị đã xử lý như bao cô gái làm tiền khác mà chị đã gặp, nghĩa là tạm giữ ở
đồn để chờ đưa đến một trại cải tạo nào đó, hoặc lại thả ra theo đúng như thông lệ.
Cái buổi tối hôm ấy quả thực là Lê My đã không còn lòng dạ nào để tâm đến công việc. Bốn năm ly
hôn với Thuật cũng là bốn năm chị phải vật vã với chính mình để chống lại sự cô đơn. Tuổi ba mươi của
đời người đàn bà đâu phải “đã toan về già” như người xưa nói. Một người con gái chưa qua cuộc sống gia
đình, chưa qua sự chung đụng vợ chồng, ở tuổi ba mươi, họ vẫn chưa bị đánh thức những khát vọng. Giống
như một người được thừa hưởng một gia tài lớn nhưng lại chưa được cầm chúc thư, chưa được luật pháp
thừa nhận quyền kế thừa, nên họ tưởng như hành trang của đời mình không có gì. Những người đàn bà đã
từng có chồng, đã từng có một cuộc sống gia đình, không giống như thế. Rõ ràng là họ đã bị tước đoạt, bị
đánh mất đi cái phần gia tài mà họ đã có. Gia tài càng lớn, tức là tình yêu của họ, những hoài bão và công
sức của họ ký thác ở cuộc sống gia đình đã qua càng lớn, thì sự mất mát ấy là không thể bù đắp được. Với
Lê My cũng vậy.
Chị đã dâng hiến và gửi gắm ở Thuật toàn bộ cuộc đời con gái. Bản tính của chị là người đàn bà
hướng về cuộc sống gia đình nhiều hơn là cuộc sống xã hội. Chị không lấy mục đích là những nấc thang
danh vọng trong xã hội. Như bao người đàn bà bình thường khác, chị luôn chăm lo cho tế bào tổ ấm gia
đình. Cuộc chia tay với Thuật thực sự là một đổ vỡ lớn trong cuộc đời chị. Và như một lẽ tự nhiên, bốn
năm qua Lê My đã phải gồng mình lên để sống. Bộ sắc phục màu cỏ úa mà chị thường xuyên vận trên
người phần nào đã giúp chị tạo nên một bề ngoài khô cứng cần thiết, giúp chị che khuất đi cái phần mềm
yếu bên trong. Lê My trống trải và cô đơn. Chị lấy công việc, lao vào công việc để khoả lấp đi những giây
phút buồn chán, những ngày dài dằng dặc.
Có khá nhiều người đàn ông đã tìm đến với chị. Quả tình là chị vẫn có một sức hấp dẫn của người đàn
bà đang bộc lộ hết vẻ đẹp nữ tính.
Trong số những người đàn ông đến với Lê My một cách nghiêm túc và chân thành có Đặng Phong. Anh
là cán bộ có uy tín trong một cơ quan nhân đạo của Chính phủ. Phong cũng đang trải qua một bi kịch gia
đình. Vợ anh trong bốn năm công tác ở nước ngoài đã trở thành một người đàn bà khác. Chị ta dan díu với
một gã trai ít hơn mình tám tuổi. Hai người rủ nhau trốn qua Tây Đức không thành. Họ hùn nhau vốn để làm
ăn, hùn nhau tình cảm và thể xác để hưởng lạc. Về nước, mối quan hệ của họ vẫn ngang nhiên công khai,
bất chấp mọi dư luận. Đặng Phong biết mình bị cắm sừng, nhưng anh vẫn kiên trì thuyết phục. Nhưng rồi
chính anh cũng không thể nhẫn nhục hơn được nữa. Anh viết đơn ly hôn, với hy vọng sẽ giải thoát cho cả
hai người.
Lê My gặp Đặng Phong trong một cuộc họp liên ngành bàn về công tác ngăn ngừa tội phạm. Ánh mắt
của Phong hôm ấy rõ ràng làm chị bối rối. Chị có cảm giác như anh đã đọc được những ý nghĩ của chị,
hiểu được phần nào cuộc đời chị. Sau này, khi đã quen nhau rồi, Phong bảo: “Lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp
một ánh mắt phụ nữ làm tôi ấm áp và yên tĩnh lại”. “Yên tĩnh cái gì cơ? Chỉ có những đôi mắt không còn
sức sống mới làm cho người ta yên tĩnh. Nó chẳng làm xáo động nổi một cái gì cả.” Lê My đã nói với
Phong thế. Họ thân nhau và ngày càng hiểu rõ hoàn cảnh của nhau. Có những buổi chiều hai người rủ nhau
đi chơi hồ, có những buổi tối Phong mua vé cho hai mẹ con My cùng đi xem.
Cho đến buổi chiều hôm ấy… Phong bỗng đột ngột gọi điện thoại đến cơ quan chị. “Tối nay My có
bận trực ban không?” Dạ có. Phiên em trực từ mười giờ”. “Vậy Lê My đi sớm lên một chút nhé. Tám giờ
được không? Tôi có một việc cần muốn nói chuyện với Lê My”. “Trưa mai không được ư?”. “Hình như
không thể được. Nếu không phải tối nay thì có lẽ không thể có lúc nào được nữa.”
Họ gặp nhau đúng tám giờ ở một nơi hẹn trước. Cả Lê My và Đặng Phong cùng có vẻ bối rối. Hình
như họ đã đọc thấy ý nghĩ nhau cả rồi. Họ sóng xe đi trên con đường đôi quen thuộc. Họ cùng ngồi trên
chiếc ghế đá bên mép hồ.
- Lê My ạ. Tôi quyết định phải nói ra cái điều mà lâu nay vẫn ấp ủ… Cả hai chúng mình đều chẳng
còn trẻ trung gì nữa. Hình như chúng ta đã hiểu nhau cả rồi…
Trống ngực Lê My bỗng đập rộn. Hình như chị đã chờ đợi những điều Phong nói từ lâu. Đã hơn một
năm nay rồi hình ảnh của anh luôn tràn ngập trong tâm trí chị. Nhiều đêm nằm bên bé Trang, ôm con vào
lòng nhưng chị làm thầm nói chuyện với Phong. Chị ao ước giá như Phong trở thành người tự do.
- Tôi đã kiệt sức vì cô ấy rồi My ạ. Đã mấy lần toà án gọi, nhưng cô ấy đều khước từ. Cô ấy thực sự
muốn hành hạ tôi, muốn ràng buộc tôi vĩnh viễn. Bởi cô ấy biết rằng có tôi, cô ấy sẽ hoàn toàn yên tâm về
việc chăm sóc, dạy dỗ con cái dể cô ấy tự do với các mối quan hệ…
- Anh không có cách nào để thuyết phục chị ấy quay lại ư? Em nghĩ rằng nếu chị ấy không muốn li hôn
tức là chị ấy còn yêu và gắn bó với anh…
- Không. Tôi không còn đủ kiên nhẫn để chịu đựng… - Giọng Phong bỗng nghẹn lại. Hình như anh
đang khóc.
Lê My nhấc bàn tay lên. Chị muốn đặt bàn tay mình lên tay anh. Chị thương và yêu anh. Nhưng chị vội
rút tay lại và khẽ dịch người ra xa Phong.
- Lê My ạ… Em có hiểu không? Tôi yêu em… Tiếng Phong đứt quãng. Anh quay lại choàng tay lên
vai My.
My tưởng như mình sẽ đổ oà vào ngực anh, ôm chầm lấy anh mà khóc trong một niềm hạnh phúc tột
cùng. Chính chị đã chờ đợi cái giây phút này từ lâu. Có những đợt xa Phong lâu, chị thấy nhớ anh cồn cào.
Chị hiểu rằng, chỉ cần anh nói một lời, chị sẽ hoàn toàn thuộc về anh.
Vậy mà không. Lê My đã gỡ hai bàn tay Phong ra khỏi vai mình.
- Không nên… anh Phong. Chúng ta chỉ nên coi nhau như bạn. Em không thể giành giật hạnh phúc của
người khác… My nói và vội vã đứng dậy.
Đó là cái giây phút mà con người lý trí đã chế ngự Lê My, khiến chị trở nên khô cứng khác thường.
Chị đi như chạy về nơi gửi xe đạp, bỏ mặc Đặng Phong ngồi lại trên ghế đá. Lên xe rồi Lê My mới khóc
được. Nước mắt làm mờ cả con đường. Chị thương Phong vô cùng, trách mình vô cùng. Chị thấy chán ngán
cho chính mình. Yêu mà không dám đi tới cùng, không dám đón nhận lấy hạnh phúc.
Chính buổi tối hôm ấy Lê My đã gặp Quê và cái lão lái trâu Khúc Văn Khích.
Chính cái đêm đưa Quê về nhà, Lê My lại càng nghĩ nhiều đến Phong. Biết anh là người đang chủ trì
việc thành lập làng SOS (làng nuôi dạy trẻ em không nơi nương tựa), chị liền nảy ra ý định nhờ Phong giúp
cho Quê được vào làm việc ở đó. Một chân lao động, một công việc cấp dưỡng thôi cũng đủ làm cho cuộc
đời Quê trở nên lương thiện.
Lẽ ra phải rất lâu sau Lê My mới đủ dũng cảm để gặp lại Phong được. Chị muốn Phong nguôi quên đi.
Chị thấy cần phải tôn trọng cái phần lý trí tuy khô cứng nhưng rất hợp đạo lý của mình. Nhưng vì Quê, chị
vẫn phải gặp Phong. Tìm cho Quê một công việc tức là đã cứu vãn được cho cô phần đời dài dặc phía
trước.
Đặng Phong đã nhận lời giúp Quê một cách nhiệt tình. Ngay buổi chiều ấy anh cùng Lê My về nhà để
gặp Quê. Nhưng Lê My đã làm công việc của dã tràng xe cát. Quê đã trốn chạy.
*
Lê My đi tìm Quê suốt hai ngày. Như một người đàn bà thất tình, chị đã đi tha thẩn trong cái công viên
“chiến khu” hàng buổi. Chị dò la tìm kiếm trong các xó chợ. Chị đứng chờ bên bờ hồ buổi tối như một gái
làng chơi đang tìm khách. Bao nhiêu gã đàn ông ỡm ờ trêu chọc. Bao nhiêu kể bụi đời lân la gạ gẫm, gây
sự. Vẫn không tìm thấy Quê.
Nhưng rồi tình cờ, sáng ấy, khi Lê My bước chân tới phòng phạm nhân gặp gỡ người nhà trong trại
giam thì chị bỗng nhận ra Quê trong đám người nhà vào tiếp tế cho đám tù thường phạm. Người mà Quê
đang ngồi nói chuyện là một thanh niên cao gầy, đầu húi cua, trạc ngoài ba mươi tuổi. Gã có đôi mắt to
buồn, mệt mỏi. Một vết sẹo dài, láng bóng chạy từ giữa má trái xuyên ngang dái tai khiến khuôn mặt gã có
vẻ dữ dằn và khắc khổ.
Quê ngồi mớm ở một đầu ghế băng, giữa cô là một túi ni lông trong đó đựng một vài gói nhỏ, hai hộp
sữa Ông Thọ, mấy cặp bánh mì… Họ nói với nhau một câu chuyện gì đó, thầm thì và rời rạc. Thỉnh thoảng
Quê lại nhìn gã, ánh mắt và điệu bộ có vẻ thân tình trìu mến lắm.
Sao Quê lại đến đây? Cô ta có liên hệ với cả những kẻ phạm pháp nữa ư? Lê My tự đặt câu hỏi và chị
cảm thấy Quê hoàn toàn không phải là một cô gái đơn giản như chị tưởng.
Ngồi đợi ở ngoài cổng nhà giam chừng nửa tiếng thì Lê My gặp Quê. Khi nhận ra chị, Quê có vể hốt
hoảng.
- Sao em lại lẩn trốn chị hả Quê? - Lê My hỏi, giọng trách móc nhưng không có vẻ gì ác cảm.
- Chị tha lỗi cho em… Em không xứng đáng được chị thương xót. Em không muốn làm phiền chị…
- Đừng nói những điều ấy. Chị chỉ nghĩ rằng em đang rất cần được sự giúp đỡ. Thôi, hãy vào đây, hai
chị em mình nói chuyện một lát đi.
Họ rẽ vào một quán giải khát. Lê My gọi hai cốc nước cam.
- Hãy nói cho chị biết, người mà em vừa vào thăm trong trại giam là ai đấy?
- Dạ, anh Hiển, chồng em.
- Chồng em ư? Sao tối hôm ấy em chẳng nói gì với chị? Hiển bị bắt vì tội gì?
- Dạ… Tội đánh người gây thương tích. Anh ấy vào trại đã gần một năm rồi.
- Các em đã có con với nhau chưa?
- Dạ, đã có một đứa. Cháu trai, năm nay đã hơn sáu tuổi.
- Hiện nay cháu ở đâu, với ai? Chị muốn đến thăm cháu một chút.
Quê yên lặng. Những câu hỏi dồn dập và thái độ đầy sốt sắng chân thành của My khiến cô xúc động.
Dường như My đã đụng đến phần sâu kín nhất của đời cô. Lâu lắm rồi không có ai ân cần chăm sóc đến cô
như vậy, dù chỉ là những thăm hỏi xã giao thuần tuý.
- Chị. Em rất cám ơn chị. Nhưng… Quê khóc. Những giọt nước mắt của người đàn bà thập thành, chai
sạn với mọi xúc động không trong veo và tuôn tràn mà chỉ hoen ra hai bên khoé.
- Nhưng làm sao? Nếu em không ngại thì chị đón luôn cháu về chơi với bé Trang. Này, chị có một dự
định…
Lê My định nói cái ý định mà chị đã nhờ Đặng Phong xin việc cho Quê. Nhưng chị kịp dừng lại.
Không nên nói với Quê những điều mới chỉ là dự định. Lỡ ra việc không thành. Cuộc đời Quê chắc đã bị
lừa dối quá nhiều rồi.
Lê My hỏi gặng mãi, Quê mới nói ra cái sự thật đau lòng: nhà cô là một góc công viên, một góc xó
chợ, ngoài đứa con trai của cô ra, cô đang ở với một bà già bị con cái ruồng bỏ không nơi nương tựa.
Quả tình trong suốt mười lăm năm trong nghề Lê My chưa bao giờ mường tượng ra một gia đình với
tất cả sự khốn khổ và cơ hàn đến thế. Chị và các đồng chí của chị có thể rất thành thạo trong công tác truy
lùng thủ phạm, lần tìm ra những đường dây rắc rối và phức tạp của các ổ trộm cắp đĩ điếm, buồn lậu…
chứ chưa hiểu biết bao nhiêu về thân phận và những cảnh ngộ của những lớp người bụi bặm luôn luôn phải
sống ở cái ranh giới cheo leo giữa người và thú, giữa lương thiện và tội ác. Họ là một thế giới riêng đầy bí
ẩn mà chúng ta luôn đuổi theo những tham vọng thường ngày nên dường như đã bỏ quên họ. Trong cái thế
giới ấy có thể hội tụ rất nhiều những kẻ cặn bã mà phần lương tri đã bị bán cho quỉ, nhưng có thể cũng còn
biết bao người giữ lại những phần tốt đẹp nhất của bản tính người, có thể họ còn nhân ái, cưu mang nhau
hơn cả những kẻ đang khoác lên mình bao nhiêu thứ danh vọng, chức tước và những thứ hàng xa xỉ của con
người …
Những ý nghĩ ấy khiến Lê My nhìn Quê với một nỗi cảm thông và trân trọng hơn. Nhưng rồi chợt nghĩ
đến cái anh chàng tội phạm mà Quê vừa gặp trong nhà giam, lòng chị lại gợn lên một thoáng nghi ngờ. Có
thể với chị, cái vở kịch mà Quê đóng mấy ngày qua khá đạt, nhưng hình như cuộc đời của Quê không phải
đơn giản như vậy. Cô ta còn có những đường dây, những mối quan hệ phức tạp hơn nhiều. Một cô điếm là
vợ của một tù nhân, riêng một điểm lý lịch ấy đã đáng khả nghi lắm rồi. Ý thức cảnh giác nghề nghiệp bảo
My như vậy. Chị hỏi lại Quê cái góc chợ ba bà cháu vẫn thường ở, hẹn với cô buổi tối chị sẽ đến thăm, rồi
vội vã đạp xe trở lại nhà giam.
IX
"T hưa cán bộ, tên tôi là Nguyễn Văn Hiển, sinh năm 1954, trú quán tại số nhà X. phố Y.
Năm 1976, đang làm công nhân ở nhà máy cơ khí Z. thì tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự,
gia nhập quân đội. Tôi đã tham gia chiến đấu ở biên giới Tây-Nam, rồi biên giới phía Bắc. Năm 1979,
trong một trận giữ chốt đường biên, tôi bị thương nặng. Một trong những vết thương mà cán bộ có thể thấy
trên má tôi đây. Giá như viên đạn đi nhích lên phía trên vài phân nữa, có lẽ lại may mắn cho số phận của
tôi. Cán bộ thấy không, vết đạn mà như một vết chém ngang mặt. Ai nhìn cũng bảo đó là một vết chém tặng
cho một kẻ có quá nhiều tiền án tiền sự, chứ họ không nghĩ rằng đó là dấu tích của một người đã từng trải
qua chiến tranh.
"TNăm 1980 tôi xuất ngũ với thương tích hai mươi tám phần trăm, được xếp loại thương binh. Nhà máy
của tôi đang ở thời kỳ làm ăn khó khăn, lại giảm biên chế, nên người ta tìm mọi cách vận động tôi rời khỏi
nhà máy. Tôi trở thành một kẻ thất nghiệp.
Cũng phải nói thêm rằng bố tôi vốn là một nhà tư sản cũ của Hà Nội. Năm 1954, đúng năm tôi đẻ thì
bố tôi chạy vào Nam. Mẹ tôi là vợ kế của ông và chỉ có mình tôi là con trai. Tôi có hai người anh và một
chị gái nữa khác mẹ còn ở lại Hà Nội. Cho tới trước ngày tôi xuất ngũ trở về, không khí gia đình tôi tương
đối hoà thuận. Các anh chị tôi đối xử với mẹ tôi và tôi tuy không thân thiện nhưng cũng chẳng quá tệ bạc.
Cũng năm 1980, bố tôi từ Sài Gòn di tản sang Mỹ theo con đường hợp pháp. Trước khi đi, ông có viết
cho mẹ tôi một tờ giấy thừa kế gia sản. Theo tờ giấy này, ngoài hai ngôi nhà đã hiến cho nhà nước năm
1956, ngôi nhà còn lại mà mẹ tôi và các anh chị tôi đang ở, được phân chia đều cho các con cái. Lúc ấy
mẹ tôi đang ở gian nhà hầm dưới tầng trệt, ngay sát mặt đường, các anh chị tôi ở trên tầng lầu. Cách phân
chia chỗ ở như thế này những năm trước đó rõ ràng là mẹ tôi đã cố ý giành phần thuận lợi nhất cho các anh
chị tôi rồi. Bởi vì hồi ấy, tất cả đều là cán bộ, ai cũng muốn ở tầng trên cho sạch sẽ, yên tĩnh, tránh bụi
bặm. Các gia đình ở tầng một đâu có biết trổ cửa buôn bán như bây giờ, mà suốt ngày phải đóng cửa im ỉm
vì quá bụi và ồn.
Mối bất hoà bắt đầu nảy sinh từ ngày mẹ tôi có cái giấy phân quyền thừa kế tài sản ấy. Đang có phong
trào buôn bán. Ai có cửa hàng, ai chiếm được mặt đường là người đó có cơ hội làm giàu. Hai ông anh tôi
đều có ý định chiếm gian nhà dưới từ lâu. Lúc này ý định đó càng trở nên bức xúc. Công việc đầu tiên là
họ tìm mọi cách chiếm lấy tờ giấy phân quyền thừa kế mà mẹ tôi đang giữ. Họ đạo diễn một vụ trộm. Thế
là cái bằng chứng hợp pháp của bố tôi để lại đã lọt vào tay họ.
Như tôi đã thưa với cán bộ, sau khi đi bộ đội về, tôi trở thành kẻ thất nghiệp. Không còn cách nào
giúp mẹ, tôi bàn với mẹ tôi mở một hàng nước để mẹ tôi kiếm sống. Riêng tôi, nhờ bạn bè giúp một số
tiền, tôi mua một chiếc xích lô, hàng ngày chở hàng thuê cho các cửa hàng mậu dịch và đón khách ở các
nhà ga, bến xe.
Một đêm đi làm về khuya, tôi gặp một cô gái lang thang trên đường. Tôi nhớ, đêm ấy là một đêm gió
mùa đông bắc. Trời mưa lâm thâm và gió lạnh hun hút. Những bóng điện đường đỏ quạch và run rẩy trong
bụi nước. Cô gái chỉ mặc phong phanh một chiếc áo mỏng. Hỏi chuyện, tôi biết cô không có tiền, không
người thân thích trong thành phố. Tôi đem lòng thương cảm, đưa cô về nhà. Một tuần sau cô gái ấy chính
thức trở thành vợ tôi, đó là Quyên mà cán bộ đã biết.
Cái duyên số đã gắn bó tôi với Quyên như thế. Thực ra hồi ấy tôi là một chàng trai chưa vợ, tuy không
có nghề nghiệp tử tế nhưng công việc đạp xích lô cũng chẳng phải là một việc gì quá tồi tệ. Tôi có thể lấy
được một cô vợ xinh xẻo hơn, hoặc là có một nghề nghiệp hẳn hoi. Nhưng tôi nghiệm ra hình như đó là
định mệnh của mình. Chúng tôi yêu nhau. Mẹ tôi cũng tỏ ra thương và hợp với tính cách cô ấy. Những tháng
đầu cô ấy giúp mẹ tôi bán hàng, làm các công việc nội trợ. Hơn bẩy tháng sau, Quyên đẻ một đứa con trai.
Mọi người bảo rằng đó không phải là con tôi. Nhưng tôi không coi điều ấy là quan trọng. Chúng tôi đặt tên
cháu là Tâm, tên thường gọi ở nhà là cu Tẩm.
Thưa cán bộ, tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ sống hạnh phúc, nếu các anh chị tôi không đối xử với mẹ con
tôi tàn ác đến thế.
Ông anh cả tôi có một bà vợ có thể gọi là một con quỷ cái. Vâng. Không có một danh từ nào gọi mụ ta
xác đáng hơn thế. Mụ ta tên là Quì, nhưng xin phép cán bộ từ lúc này cho tôi gọi là Quỉ. Quỉ vốn là một
nhân viên bán hàng thực phẩm của mậu dịch.
Những năm nhà nước còn bao cấp, tất cả hàng hoá đều phải mua bằng tem phiếu, mụ ta sống như tiên.
Ngày nào sau ca bán hàng mụ cũng mang về vài cân thịt, vài cân cá thu loại ngon nhất. Mụ ta thu các ô
phiếu rời của các con phe, rồi tuồn hàng cho bọn chúng. Mụ cân điêu cho khách hàng để rút phần tiêu
chuẩn của họ mang về nhà. Lương của anh chồng giáo viên mỗi tháng chỉ vài chục bạc, không đủ hút thuốc.
Tất cả mọi sinh hoạt gia đình do mụ lo liệu hết.
Nhưng rồi trước sau quỉ vẫn là quỉ. Mụ dính vào một vụ tham ô lớn và bị sa thải.
Vốn máu con buôn, sau khi bị mất việc làm, mụ Quỉ nghĩ tới chuyện bằng mọi cách phải chiếm ngay
gian nhà tầng trệt. Mụ bàn bạc với chồng, bàn bạc với các em chồng. Ít lâu sau có một cái đơn gửi lên toà
án vu lên rừng mẹ tôi không phải là vợ kế của bố tôi, và tôi không phải là con do ông đẻ ra. Anh cả tôi còn
về tận nhà quê, gặp các bà cô bà dì còn sống vận động họ lấy điểm chỉ của họ chứng nhận rằng mẹ tôi chỉ
là người ở trong nhà, lợi dụng lúc bố tôi chuẩn bị chạy đi Nam để nhận xằng là vợ kế với mục đích muốn
chiếm đoạt tài sản của ông để lại.
Không kịp đợi toà xét xử, họ hùa nhau đuổi mẹ con tôi ra đường. Họ vu chuyện Quyên là cô gái lưu
manh trộm cắp ngoài đường được tôi nhặt về nhằm bêu riếu họ hàng. Những ngày ấy chúng tôi sống hết sức
cực khổ. Gian hàng của mẹ tôi bị đập phá. Chiếc xích lô của tôi bị bẹp dúm. Quê bị đánh đập thâm tím đến
cạn nguồn sữa cho con bú. Có tuần cả nhà không còn một đồng xu, không còn một hạt gạo.
Thế rồi bi kịch bắt đầu ập đến. Thưa cán bộ. Cán bộ có thể tưởng tượng được không? Một đêm Quyên
bỏ nhà ra đi. Tôi bế thằng bé đi tha thẩn các phố tìm nhưng đều bặt vô âm tín. Đến ngày thứ ba cô ấy về
nhà, trên người khoác một bộ đồ mới, lông mày, mi mắt kẻ chì than, má và môi thoa son đến mức tôi ngỡ
như một cô gái xinh đẹp nào đó, không thể nhận ra. Cô ta ào đến bế thằng cu Tẩm, ào vào lòng tôi, xoè ra
một xấp tiền và bỗng oà khóc nức nở. Tôi không kịp hỏi mà chỉ ngỡ ngàng về những thay đổi khác thường
của cô ấy. Lúc sau cô ấy ôm riết lấy tôi, lạy van tôi như tế sao và kể ra tuồn tuột những công việc cô ấy đã
làm trong mấy ngày qua. Trời ơi, cán bộ có tưởng tượng được không? Bốn ngày vừa qua cô ấy làm những
việc gì? Ngày đầu tiên cô ấy đến gánh nước, nắm than và rửa bát cho một hiệu phở. Công việc nặng nhọc
này cô ấy vốn quen làm, nên dẫu suốt ngày quần quật, Quyên vẫn mừng thầm vì đã kiếm được một công
việc để may ra có một ít tiền nuôi chồng con. Cô ấy bảo: “Có một bà ở nông thôn ra làm công cho hiệu
phở này hai tháng nhưng vừa bị nồi nước phở đổ vào người. Thật may cho em. Em khoẻ mạnh, lại nhanh
nhẹn nên ông bà chủ có vẻ quí em lắm”. Sang ngày thứ hai, vào lúc xế chiều có một ông khách đến ăn phở.
Ông ta trạc ngoài năm mươi tuổi và hình như là một khách quen. Suốt từ lúc bước vào hàng, ông ta cứ nhìn
Quyên chằm chằm, nhìn suốt từ đầu tới chân, hệt như một gã buôn bò ngắm nghía, soi mói từng bộ phận của
con bò mộng. Ông ta trao đổi với chủ quán phở một lúc lâu rồi gọi Quyên ra một góc riêng và bảo: “Tôi
đã để ý tới cô từ hôm qua. Cô khoẻ mạnh, nhanh nhẹn lại ưa nhìn, làm cái công việc gánh nước rửa bát này
nó phí người đi. Người như cô, tôi biết rất cần tiền, nhưng kiếm đồng tiền một cách thanh thản nhẹ nhàng
vẫn hơn chứ. Tôi có một cửa hiệu cà phê nhưng đang thiếu người bán. Nếu cô ưng thì tôi sẽ trả tiền công
gấp ba quán phở này. Mà là trả tiền ngay. Ngày nào sào ngày ấy”. Quyên bảo: “Nhưng mà cháu đã chót
nhận làm cho hiệu phở này rồi. Giá mà ông nói trước…” Ông kia cười xoà: “Tôi đã trao đổi với ông bà
chủ ở đây rồi. Chỗ tôi với bên này đều là anh em cả. Cô đừng có băn khoăn gì cả. Nào, đi sang quán cà
phê của tôi ngay bây giờ.” Thế là Quyên chuyển sang quán cà phê ngay bên kia đường.
Thưa cán bộ, đó là một quán cà phê xanh như lâu nay người ta vẫn thường gọi. Một quán cà phê bình
thường như bao quán cà phê khác, nghĩa là phía ngoài mặt phố chỉ có một khoảng sân rộng kê những chiếc
bàn nhỏ và những chiếc ghế mây thấp được ngăn thành những ô kín đáo. Nhưng phía bên trong mới thực sự
là nơi kinh doanh chính của chủ quán. Ba căn buồng rộng được ngăn thành những khoang biệt lập. Mỗi
khoang đều có giường, bàn nhỏ và tủ gương. Khách đã vào đây, dù ban ngày hay ban đêm đều được phục
vụ theo sở thích, miễn là có nhiều tiền.
Ngay từ lúc bước vào quán, Quyên đã được bà chủ gọi vào phòng trong, đưa cho một bộ đồ xoa mới
cùng với đồ lót, xà phòng thơm ca-may bảo đi tắm gội sạch sẽ. Rồi ông chủ gọi lên tầng hai và bảo: “Công
việc ở bên này nhàn nhã và sạch sẽ hơn bên quán phở nhiều. Làm ở đây, cơm nuôi ngày ba bữa, quần áo
chúng tôi may, lại thêm son phấn… mỗi tháng cô còn được trả thêm hai trăm ngàn. Đó là chưa kể tiền
thưởng của khách… Yêu cầu duy nhất đối với cô là phải tuyệt đối chiều khách, coi khách hàng là thượng
đế. Phải học cách ăn nói cho vừa lòng khách. Phải học cách đi đứng cho duyên dáng khêu gợi… Đây, tiền
tạm ứng trước cho cô một tháng. Cô nhận tiền và ký vào tờ giấy này.”
Thưa cán bộ, đó là một tờ giấy vay nợ. Nội dung tờ giấy viết ông bà chủ quán cà phê cho Quyên bay
hai cây vàng. Người vay sẽ phải trả bằng cách hàng tháng làm công cho đến khi nào thanh toán xong tiền
công nợ. đọc qua tờ giấy, Quyên sợ hãi không dám ký. Ông chủ lại bảo: “Cô đừng ngại. Sở dĩ phải làm thế
này cho đúng thủ tục. Chứ tôi bắt cô vay nợ làm gì. Thôi tuỳ cô, cô có cần tiền tiêu bây giờ thì hãy ký vào”.
Xấp giấy hai trăm ngàn cứ dập dình trước mặt. Nghĩ tới một món tiền lớn có thể giúp chồng con vượt qua
những ngày khốn quẫn, Quyên đành nhắm mắt ký liều. Ông chủ đút tờ giấy vào túi vào nói: “Từ giờ cô là
người của chúng tôi. Phải hoàn toàn phục tùng chúng tôi. Cô sẽ có một cái tên mới là Tuyết Lan. Ngoài
việc chạy bàn, cô sẽ phải tiếp khách, cả ban đêm lẫn ban ngày… Trước mắt trong một tuần đầu, cô không
được đi đâu ra khỏi nhà. Có ai hỏi cô cứ nhận là cháu gái tôi ở trong quê ra phụ giúp chú. Ở đây nhàn nhã,
nhưng mà rất có kỷ luật. Nếu cô vi phạm những điều tôi đã căn dặn thì thằng Thiết Cật kia nó sẽ không để
cho cô yên đâu…” Thiết Cật chính là gã vệ sĩ của lão chủ có đôi mắt và bộ mặt hung ác suốt ngày lầm lì
như một cái bóng. Gã được chi lương riêng chỉ để làm công tác bảo vệ, canh chừng công an và giám sát