Littérature du Sud Vietnam / Văn học miền nam Việt Nam
Du Tử Lê
Bùi Vĩnh Phúc Nguyễn Đức Tùng,
Huỳnh Ái Tông
Nguyễn Tà Cúc Nguyễn Vy Khanh Phùng Nguyễn
Võ Phiến 1950-2015
Thuỵ Khuê
Viên Linh
Trần Doãn Nho
Vương Trí Nhàn
Trangđài Glassey Tranguyen
Việt-Nam>
littérature du Sud Vietnam / văn học miền nam Việt Nam
Bùi Vĩnh Phúc, Hai mươi năm Văn-học miền Nam (1954 – 1975) : Phẩm tính và Ý nghĩa
Du Tử Lê, Vài khía-cạnh đặc-thù của 20 năm Văn-học miền Nam
Hội-thảo Văn-học miền Nam 1954-1975 (USA 2014),
http://damau.org/archives/category/chuyen-d%E1%BB%81/hoi-thao-van-hoc-mien-nam-2014-usa
http://www.diendantheky.net/search/label/H%E1%BB%99i%20th%E1%BA%A3o%2020%20n%C4%83m%20v%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20Mi%E1%BB%81n%2
Huỳnh Ái Tông, Văn-học miền Nam, http://chimviet.free.fr/vanhoc/phuctrun/HuynhAiTong_VanHocMN.pdf
Lưu Na, Văn-học miền Nam điều sót lại
Nguyễn Đức Tùng, Những kỷ-niệm của tôi về văn-học miền Nam
Nguyễn Hưng Quốc, Số-phận của văn-học miền nam sau 1975
Nguyễn Tà Cúc, trăm năm văn-học tự-do: văn học miền nam hay “văn-học đô-thị miền nam 1954-1975” ?
Nguyễn Thị Thu Trang, Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975
Nguyễn Văn Lục, Hiện-trạng văn-học miền Nam sau 1975
Nguyễn Văn Lục, Hồi chuông báo tử cho một nền Văn Học miền Nam !
Nguyễn Vy Khanh, Văn-học miền Nam qua một bộ “văn học sử” xuất-bản trong nước
Nguyễn Vy Khanh, Văn-học miền Nam tự-do
Nguyễn Vy Khanh, Văn-học tự-do khai-phóng vẫn là nguồn hy-vọng
Nguyễn Vy Khanh, Tản mạn về dục-tính và nữ-quyền
Phùng Nguyễn, Văn-học miền Nam 1954-1975 : Đường về gian-nan
Thuỵ Khuê, Văn-học miền Nam
Trangđài Glassey-TrầnNguyễn, 40 năm Văn-Học Miền Nam thất-Thủ : thế-hệ hậu-chiến khước-từ thân-phận mồ-côi
Trần Doãn Nho, Tính văn-học trong Văn-học miền Nam
Trần Văn Nam, Văn Học Miền Nam (Các thời kỳ văn học miền Nam từ 1963-1975)
Viên Linh, Vài ghi chép về văn-học miền Nam
Võ Phiến, Văn-học miền Nam : tổng quan, http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do;jsessionid=960D6EE594D153D03615CF96040505D9?
action=show&authorId=77
Vương Trí Nhàn, Văn-học miền Nam
Bùi Vĩnh Phúc - Hai mươi năm Văn-học miền Nam (1954 – 1975) : Phẩm-tính và Ý-nghĩa (*)
Thứ Bảy, ngày 13 tháng 12 năm 2014
Nhà lý luận, phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (Hình: Uyên Nguyên)
I. Giới thiệu vấn đề
Văn học miền Nam, từ 1954 đến 1975, là một đóng góp và một thành tựu của văn học Việt Nam, trong một giai đoạn thuộc nửa sau thế kỷ XX. Nó chỉ tồn tại trong vòng 20
năm, nhưng nó đã là một tồn tại quan trọng và không thể thiếu của giai đoạn này. Nói một cách thẳng thắn, nền văn học này nối kết Việt Nam với thế giới, với nhân loại,
trong những khía cạnh hiện-hữu-người một cách vừa bao quát vừa thâm sâu nhất. Nó chia sẻ và phản ánh thân phận và những tình cảm của con người ở những độ rung,
những bảng mầu gần gũi với các nền văn học hiện đại của thế giới, dĩ nhiên với những âm vang và sắc độ riêng của đời sống xã hội và tinh thần của người Việt.
Cũng trong thời gian ấy, miền Bắc Việt Nam có một nền văn học khác. Trong một cái khung xã hội và văn học riêng, nó cũng có những giá trị riêng của nó. Chắc chắn là
thế. Dù sao, một điều chắc chắn hơn là, nền văn học ấy, với cái khung xã hội và văn học riêng của mình, một xã hội mà mọi người dân đều bị kiểm soát về mọi mặt, đặc
biệt là về mặt tư tưởng, một nền văn học mà chủ trương của nó, vô tình hay hữu ý, đã đưa đến sự minh hoạ, đồng phục trong thể hiện, và mang tính sử thi, tô hồng cuộc
chiến trong âm hưởng, giọng điệu, đã gần như chặt đứt nó với những nhịp cầu giao tiếp của nhân loại. Điều đó là một sự đáng tiếc.
Nhưng điều cần phải nói ở đây là tại Việt Nam, ngay cho đến bây giờ, gần 40 năm sau cuộc chiến, đa số những người cầm trịch văn học cả nước, một cách vô thức hay hữu
thức, hình như vẫn chỉ cảm nhận rằng, về mặt âm thanh, Việt Nam, trong giai đoạn đó, chủ yếu chỉ có hơi thở và những tiếng nói, tiếng trống trận, tiếng thúc quân và tiếng
kèn của miền Bắc, và về mặt hình ảnh, chủ yếu chỉ có những bộ đồng phục và những hình ảnh mang tính minh hoạ về một tiếng hát chung, màu đỏ. Trong các tài liệu
nghiên cứu và các sách viết về lịch sử văn học được dùng trong nhà trường, trong các tài liệu sư phạm, chỉ có văn học miền Bắc là hiện diện trong giai đoạn ấy. Người ta đã
không thấy hay lờ đi sự có mặt hết sức đa dạng và tầm vóc của văn học miền Nam. Nếu có nhắc đến đâu đó thì chỉ là để phê phán hoặc mang tính cách chiếu lệ, "hạ cố".
Tâm tình của con người thì ở đâu cũng như nhau, trong hoà bình hay trong chiến tranh. Nhưng con người sống tại miền Bắc, lúc ấy, đã không được cất lên tiếng nói khát
khao trung thực của mình. Tiếng nói của Nhân Văn Giai Phẩm đã bị bóp nghẹt. Cũng thế là những tiếng nói của bất cứ một đoàn nhóm hay cá nhân nào có cái khao khát đi
tìm một hơi thở ở bên ngoài dàn đồng ca. Cái hơi thở, cái tiếng nói đưa dẫn con người đến gần lương tâm, gần trái tim của nhân loại.
Dù có như thế, để lặp lại, văn học miền Bắc trong giai đoạn ấy cũng có những đường nét riêng của nó. Nó phản ánh một gương mặt của chiến tranh. Và gương mặt ấy có
thật. Ở một mức độ nào đó, và trong những góc nhìn nào đó, dù bị chỉ đạo, nền văn học ấy, ngoài âm vọng sử thi, ngoài những tấu tụng về chiến công, về vinh quang, nhiều
khi được tô mầu một cách khá thô sơ, vụng về, cũng nói lên được cái đời sống, cả tinh thần lẫn vật chất, của cả một xã hội, của những con người, với những tâm trạng,
những hy sinh và những đớn đau riêng. Và, như thế, nó cũng đã đóng góp những đường nét của mình để vẽ nên khuôn mặt chung của văn học Việt Nam giai đoạn ấy.
Khuôn mặt của văn học Việt Nam thời chiến.
Dù sao, chúng ta không bàn về những điều ấy ở đây. Nó không phải là chủ đề của bài viết này.
Ở đây, chúng ta sẽ nói về văn học miền Nam.
Lý do là, để lặp lại, đã gần 40 năm trôi qua kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng đa số những người cầm trịch văn học miền Bắc vẫn có thái độ, và cả chủ trương
nữa, là không nhìn đến văn học miền Nam trong giai đoạn 20 năm ấy. Họ biết rõ những điểm mạnh, những điểm đặc sắc của nền văn học này. Biết rõ là văn học miền Nam,
trong giai đoạn ấy, đã là nhịp cầu nối liền Việt Nam với thế giới, với con người, với nhân loại. Nhưng họ vẫn không chịu chấp nhận là nền văn học ấy đã mọc từ rễ cây dân
tộc, lớn mạnh và nối kết dân tộc Việt với con người trên khắp thế giới, nối kết Việt Nam với nhân loại. Thái độ gạt bỏ, thậm chí trù dập ấy, tôi nghĩ, có cái gốc rễ tâm lý của
nó. Dù là tự ti hay tự tôn thì cái tâm lý ấy, cái mặc cảm/phức cảm ấy (vừa không nói ra, vừa rất phức tạp), cũng không xứng đáng và không tốt cho văn học Việt. Nhiều trí
thức, học giả, và những người có hiểu biết, có tâm, có tầm và có tài trong nước, đã nhìn ra điều cần thiết trong việc nhận diện và nhu cầu kết hợp văn học miền Nam vào
văn học của cả nước trong giai đoạn này. Tôi mong con số những người ấy càng ngày càng lớn, vì nguyên khí quốc gia không thể bị đè bẹp. Nó cần và phải được phát triển.
Nói về phẩm tính là nói về những điểm tốt đẹp, những giá trị đạt được trong việc thẩm định, đánh giá. Để trình bày ý nghĩa của dòng văn học miền Nam trong giai đoạn
1954-1975, đặt trong bối cảnh của văn học Việt Nam nói riêng, và văn học hiện đại nói chung, người ta phải nêu ra được những "phẩm hạnh", phẩm chất của nó. Cũng thế,
khi nói về phẩm tính của dòng văn học này, ta cũng sẽ thấy được những ý nghĩa, những giá trị mà nó cưu mang, cho dù là nó đã cưu mang những điều ấy trong tiếng đạn
bom gào xé và trong những vùng đớn đau, đen tối của phận người.
II. Bàn về các phẩm tính
Trước hết, văn học miền Nam là một nền văn học tự do, cho dù, ở một số trường hợp, cũng có một vài sự kiểm duyệt nhỏ, và, cho dù, chính cái tự do ấy cũng có những lúc
tạo vấn đề cho nó. Tuy nhiên, chủ yếu, đó vẫn là một nền văn học tự do, trong đó con người, qua văn học, có thể nói lên những suy nghĩ, ưu tư, trăn trở và tình cảm của
mình. Cái tự do này mang tính chủ yếu, thẩm thấu và phản ánh trong và qua tất cả các sinh hoạt trí thức của con người miền Nam, liên hệ đến văn học. Từ đó, trong một cái
nhìn thâu tóm, người ta có thể nhìn ra bốn tính chất căn bản của nền văn học này. Có thể xem đó là bốn phẩm tính cốt lõi của văn học miền Nam 1954-1975. Những phẩm
tính đó có thể được kể: một, đó là một nền văn học phát triển và mang tính liên tục (bắt nguồn từ văn học tiền chiến); hai, đó là một nền văn học hiện đại, tiếp cận và liên
thông với văn học thế giới; ba, đó là một nền văn học mang đậm tính nhân bản và nhân văn; và bốn, đó là một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng.
Sau đây, ta sẽ lần lượt xét từng thuộc tính quan trọng ấy.
1. Một nền văn học phát triển và mang tính liên tục, từ truyền thống:
Văn học miền Nam 1954-1975 là một dòng chảy liên tục, nhất quán, nối tiếp và phát triển từ văn học tiền chiến, kháng chiến (Nam bộ, 1945-1954), sang đổi mới, hiện đại.
Trong khi tại miền Bắc, dòng văn học có thể nói là bị ngắt quãng giữa văn học tiền chiến và văn học kháng chiến. Thật sự, văn học tiền chiến, tại miền Bắc, ở một mức độ
nào đó, trong giai đoạn đầu, vẫn có đấy, nhưng sau đó nó đã bị lấn ép bởi nền văn học kháng chiến. Là một chủ trương, đường lối được chỉ đạo, văn học miền Bắc đã đi vào
con đường gạt bỏ văn học tiền chiến để dấn mình vào văn học kháng chiến. Có một sự đứt gẫy, nếu không muốn nói là một sự chặt đứt, từ tiền chiến sang kháng chiến ở
đây. Người ta muốn nối liền mạch văn học dân gian và văn học kháng chiến, mà tháo gỡ, hay cắt bỏ, văn học tiền chiến. Người ta xem nó là một thứ lãng mạn tiểu tư sản.
Là viễn mơ và không tiến bộ. Thậm chí, là truỵ lạc. Các nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến, còn sống tại miền Bắc trong giai đoạn ấy, đã bị bắt buộc lên tiếng chối bỏ tác
phẩm của mình. Xem đó là một giai đoạn ấu trĩ, chưa trưởng thành. Hơn nữa, một giai đoạn lầm lạc. Của chính mình. Nhân Văn Giai Phẩm, dù sao, đã ra đời, cất lên tiếng
nói trung thực của lương tâm, của con người trước số phận của nền văn học dân tộc, của đất nước. Những người chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm, ngoài việc lên tiếng cho
Sự Thật, cho tự do tư tưởng, có lẽ họ còn muốn cứu vãn Cái Đẹp, Cái Lành, Cái Thiện, Cái Yêu Thương và Cái Mới trong văn học, trong sáng tạo của nhà thơ, nhà văn.
Nhưng họ đã bị bịt miệng. Và tiếng nói của họ đã bị giam trong tù ngục trong suốt ba mươi năm.
Văn học miền Nam chính là nơi đã nuôi dưỡng và gìn giữ những tinh hoa của văn chương tiền chiến. Trong sách báo cũng như trong chương trình học tập tại trường học.
Cũng chính miền Nam đã lưu truyền và phổ biến tiếng nói và tâm tình của những nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, và những nhà văn, nhà thơ khác trong nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy sau này, những nhóm và những tạp chí văn học tại miền Nam, đặc biệt kể từ Sáng Tạo, đã phổ biến những tâm tình của trí thức và nghệ sĩ miền
Nam, trong những thể điệu mới mẻ khác, đi vào con đường hiện đại, cái mầm hạt tốt tươi và mạnh mẽ của văn chương tiền chiến vẫn đã để lại dấu ấn của nó trong tiến trình
phát triển của văn học miền Nam.
Nói tóm lại, trong văn học miền Nam, có một sự liên tục tiếp nối của những chặng đường văn học, những truyền thống văn chương. Cái đài hoa tốt đẹp kia đã không hề bị
đứt cuống. Sau khi chia tay tiền chiến để bước vào hiện đại, văn học miền Nam vẫn giữ được trong nó những giá trị tốt đẹp của văn chương tiền chiến. Cái giá trị ấy giống
như một cây cầu nối, giúp cho văn học miền Nam thực hiện được một bước chuyển đẹp đẽ.
2. Một nền văn học hiện đại, tiếp cận rộng rãi với văn học thế giới
Không bị cô lập và bóp bẹp trong tư duy, suy nghĩ một chiều, văn học miền Nam mở rộng cửa chào đón nhiều luồng tư tưởng đến từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt từ châu
Âu. Các trào lưu, lý thuyết văn học được tự do giới thiệu, phát triển tại miền Nam. Chúng ta có thể tạm kể đến chủ thuyết hiện sinh, với S. Kiekegaard, F. Nietzsche, K.
Jaspers, M. Heidegger, J.-P. Sartre, v.v.; đặc biệt trong sáng tác và kịch bản văn học của Sartre, Camus, S. de Beauvoir, F. Sagan. Rồi hiện tượng luận với Husserl, Merleau-
Ponty, Gabriel Marcel, Heidegger, Karl Jaspers, Paul Ricoeur, Emmanuel Lévinas và Mikel Dufrenne. Thuyết cấu trúc, đi từ lĩnh vực ngôn ngữ học của F. de Saussure đến
nhân chủng học và văn học với Claude-Levi Strauss, Roland Barthes, v.v... Và phân tâm học (hay nói cho chính xác hơn là "tâm phân học") của Freud, và, sau đó, của Jung,
của Adler, và của những nhà tâm lý khác. Phương pháp "dòng ý thức" ("stream of consciousness") trong sáng tạo văn học của những tác giả như Hemingway, Faulkner,
James Joyce... cũng được giới thiệu và áp dụng trong các tác phẩm văn chương của các nhà văn miền Nam. Rồi chủ nghĩa siêu thực của nhóm André Breton cùng quan
niệm của nhóm Dada. Trào lưu tiểu thuyết mới của những tác giả như Claude Simon, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, v.v... Người ta đọc và thảo luận về Socrate,
Platon, Descartes, Kant. Viết và nói về Hegel, Marx, Lenin, Althusser. Không chỉ thế, người ta còn tìm hiểu, nghiên cứu và thảo luận về các nền triết học cổ đại và trung
đại, về biện chứng pháp của Platon, Hegel và Marx; từ đó, có người, như Nghiêm Xuân Hồng, đã tìm hiểu về "Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ", hoặc "Biện
Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa", v.v...
Chính cái tự do tại miền Nam đã cho phép các lý thuyết, trào lưu văn học này được giới thiệu và phát triển ở đây, thậm chí với những khuynh hướng trái chiều nhau. Cụ thể
là về lý thuyết và chủ nghĩa hiện sinh. Việc giảng dạy, phổ biến và đưa vào trong sáng tác văn học đã được tiến hành khá đồng bộ. "Hiện sinh vô thần" với Nietzsche và
Sartre, chẳng hạn, có thể cùng đi song song với "hiện sinh hữu thần" của K. Jaspers và Gabriel Marcel. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được phổ biến trong khung cảnh đại
học, mà nó còn xuất hiện trong sách báo, đi vào tâm tư người đọc. Hơn nữa, nó còn thể hiện trong thái độ sống của những người trẻ trong giai đoạn này. Tiêu cực thì là lối
sống mệt mỏi, buông thả và hưởng thụ, trước một cuộc chiến kéo dài với bao nhiêu đổ vỡ, mất mát. Tích cực thì là thái độ dấn thân, nhập cuộc, "lên đường" hay "xuống
tàu" của một lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, muốn cụ thể làm một cái gì tích cực cho xã hội, cho đất nước, quê hương trước một guồng máy đang tan rã.
Tất cả những điều đó, cả những điều tích cực và một số thái độ tiêu cực, trong việc tiếp nhận và phổ biến các trào lưu, lý thuyết văn học tại miền Nam, đã chỉ có thể được
thực hiện trên mảnh đất của tự do. Nó cho phép con người ta tiếp cận với những cái mới, cái đang hiện ra, nóng hổi, cái đang được theo dõi và tranh luận, với nhiều góc
cạnh, ảnh hưởng của chúng. Tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn, trí tưởng của con người như một căn phòng mở cửa để đón gió lộng bốn phương. Có thể những luồng
gió có lúc đã làm xáo trộn phần nào mọi thứ được bày biện trong phòng, nhưng chính những ngọn gió ấy đã làm cho người ngồi trong phòng hít thở được những nguồn
hương lạ, dạt dào. Cửa sổ nhìn ra từ căn phòng ấy đã giúp cho chủ nhân của nó nhìn ngắm được những hình ảnh, phong cảnh tươi mới, đầy mầu sắc của cuộc đời. Từ đó,
chúng tạo cho con người những cái nhìn, những viễn tượng mới, đưa tâm hồn con người đi xa vào nhiên giới bên ngoài, cũng như đi sâu hơn vào nội giới bên trong nó, để,
từ đó, nhận biết chính con người mình và cuộc đời hơn. Nhận biết rằng người ta đang hiện hữu trước cuộc đời. Người ta đang sống. Và sống với tất cả những tiềm thể,
những khả thể có thể tìm thấy trong chính con người.
Về phẩm tính "hiện đại" của văn học miền Nam, một điều chúng ta cũng nên để ý đến ở đây là khía cạnh thi pháp.
Thi pháp mà tôi muốn nói đến ở đây là cách thể hiện tác phẩm văn học. Là cái hình thức, cái kết cấu, cái nguyên tắc nghệ thuật đã sáng tạo ra tác phẩm văn học. Nó cũng
có thể là cái cách viết, cách diễn ý, dùng từ, dùng hình ảnh để tạo hiệu ứng cần thiết cho những gì mà nhà văn, nhà thơ muốn diễn tả. Ngày xưa, thơ văn là để nói cái đạo,
cái chí (như trong "Văn dĩ tải đạo" và "thi ngôn chí"). Lúc đó, người ta hầu như chỉ quan tâm đến cái ý, cái chí, cái "đạo", cái nội dung mà nhà thơ, nhà văn muốn chuyển
đạt. Về sau, đặc biệt từ thời hiện đại, người ta nhận thấy rõ rằng cái hình thức (mà ngày xưa người ta xem thường, chỉ coi như cái "vỏ" bên ngoài) cũng chính là cái nội
dung, cái bên trong. Cái bên ngoài, cái dùng để thể hiện, cũng chính là cái bên trong, cái phần ruột thịt của tác phẩm. Bởi lẽ, hình thức chính là cái mà nhà thơ, nhà văn
ể ắ ấể
chọn lựa, như cách thể hiện thích đáng, đúng đắn nhất, để nói lên những suy nghĩ và tư tưởng của mình. Nói lên những gì mình muốn diễn đạt, trao gửi.
Thi pháp của một dòng văn học sẽ cho thấy, hoặc không cho thấy, tính đồng bộ, song song, cùng nhip của nó, sự bắt kịp của nó với những cung cách, thể điệu, lối viết, được
diễn tả trên thế giới, trong một khung thời gian nào đó.
Miền Nam chính là vùng đất tốt đẹp và màu mỡ để những đường nét, hình thức mới, những thể điệu, cung cách mới, lối dùng từ ngữ, ý tưởng, hình ảnh mới mẻ trong thơ
văn được phô diễn và phát triển. Những điều đó trong các tác phẩm của miền Nam đã cho thấy sự nhịp nhàng và đồng bộ của nó với văn học thế giới.
Trước hết, hãy nhìn về Thơ.
Chúng ta hãy thử đọc những câu sau:
Anh yêu em, yêu em vì em biết nói
Ðã biết thưa: Thưa Anh ! Em còn biết gọi
Sáng trời mưa, khiến cho anh nhớ em
Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều.
Ngồi xuống đây, nghe chim là chim ca hót
Ðồng cỏ như bàn tay, trời như mắt say
Ta ngó nhau, ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi, ngồi đó như hai hòn bi
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay ...
Đây là bài hát "Mùa Xuân Yêu Em" do Phạm Duy phổ bài thơ "Chuyện Tình" (1) của Đỗ Quý Toàn, viết vào khoảng năm 1959. Tôi tạm trích lời bài hát của Phạm Duy, ở
đây, mà không trích nguyên văn bài thơ của Đỗ Quý Toàn vì bài của Phạm Duy hầu như đã dùng lại nguyên văn những câu thơ của thi sĩ, chỉ thay đổi chút ít cho hợp âm
điệu của dòng nhạc. Lời của anh con trai nói với người con gái, ắt hẳn là người yêu của anh. Nó nghe như ngô nghê và không "thơ mộng" hay "triết lý" gì cả. Có lẽ đúng
như thế, vì nó chỉ là tiếng của hạnh phúc thốt ra thành lời. Cách nói như một dạng "baby talk" của những kẻ đang yêu nhau. Nói với nhau như những con chim. Gù gù. Luýt
chuýt.
Nhưng nó đã trở thành thơ. Nó mang xúc cảm và nó chuyên chở cái hơi thở và hình ảnh của cuộc đời. Về mặt văn học, nó cũng là một sự thử nghiệm. Thử nghiệm với tiếng
nói, với cái tình cảm sơ nguyên của con người. Không màu mè, làm dáng, nó nói thẳng cái tiếng nói của cảm xúc, của tình yêu con người giữa thiên nhiên và tạo vật. Nó là
thơ ở miền Nam.
Bài thơ này của Đỗ Quý Toàn làm tôi nghĩ đến hội hoạ của Henri Julien Félix Rousseau, một hoạ sĩ Pháp trong dòng Hậu-Ấn Tượng (Post-Impressionism) theo cung cách
Ngây Thơ, Sơ Thuỷ (Naive, Primitive manner), nhưng đầy chất nghệ thuật.
Hay là cái cách "nói thơ" sau đây:
Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển...
Đó là những câu mở đầu của bài thơ "Nga" của Nguyên Sa, một thi sĩ, trong giai đoạn đó, mới từ Pháp về. Nói về người yêu mà nói như thế! Nhưng miền Nam, trước hết,
đã cho phép anh làm thơ để chỉ nói về những điều nhỏ bé như vậy, về những tình cảm rất cá nhân, nhưng cũng rất con người. Sau đó, vùng đất và cái văn học của vùng đất
này cũng đã cho phép anh thử nghiệm những giọng điệu khác nhau để nói lên những cung bậc tình yêu khác nhau của con người. Anh sống ở đây và anh có tự do. Anh có
quyền thở và thở theo cái nhịp riêng của mình. Đặc biệt, không ai nhòm ngó và can thiệp vào tình yêu của anh. Nếu nó buồn cười, dị hợm, và anh công bố nó ra trước thiên
hạ, anh phải chịu trách nhiệm về lời công bố của mình. Nếu nó có vẻ buồn cười, nhưng lại duyên dáng và đánh được vào những sợi dây đàn cảm xúc của người đón nhận,
anh được khen là thi sĩ. Và được người đọc yêu mến. Thậm chí bắt chước. Ở đây, anh được tự do. Nói hay không, và nói thế nào, hoàn toàn là quyền của anh. Sẽ không có
người đòi kiểm duyệt và yêu cầu anh phải nói năng cho phải phép. Hoặc là cấm anh không được nói những điều cỏn con, đầy tính "cá nhân chủ nghĩa", và đi ngược dòng
với "tiếng hát chung" như thế. Mà phải lên tiếng về những gì vĩ đại hay cao cả hơn.
Ở miền Nam, anh có quyền nói ra những câu thơ như thế.
Hoặc những cách nói bâng quơ mà rất duyên dáng sau đây của Bùi Giáng:
Thưa em phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
hay:
Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
Hay, nói bâng quơ mà người nghe cảm nhận được như có gì triết lý ở phía sau lời nói:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau
Thi sĩ miền Nam có quyền bày tỏ tâm ý mình theo đúng cách mình nghĩ và mình thích. Tiếng nói của anh sẽ không bị mổ xẻ, hoặc bị đem ra "đấu tố" trong những buổi họp
ban này hay ban khác. Hơi thở riêng của anh sẽ không bị "đấu tố". Đó là hạnh phúc và là cái quyền mà người cầm bút miền Nam được trao tặng.
Bây giờ, hãy đọc những câu thơ này:
Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai tuyết lạnh bảy ngày sẽ qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu
Đến anh mở sẵn môi điều
Cho anh hôn xuống trăm chiều ái ân
Đến anh gót chớ phân vân
Để mai sau có trăm lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em. (2)
Đây là bài thơ có tựa đề là "Râu Xanh" của Cung Trầm Tưởng, làm vào năm 1965. Ý và tứ, cũng như hình ảnh, rất mới lạ. Cho dù nó đi theo thể lục bát. "Thân phận tình
yêu" của người con gái được nhà thơ yêu sẽ ra sao khi phải đối diện với tình yêu "râu xanh" của người thơ? Lấy hình ảnh chuyện "con yêu râu xanh" của Charles Perrault,
Cung Trầm Tưởng đã thử nghiệm với cách nói mới về tình yêu. Thử nghiệm với chính cái hơi thở của mình. Và bài thơ của người thi sĩ đã không bị lạc mất trong cách nói
đồng phục của những người khác.
Cũng trong cách tìm tòi ý và tứ mới như thế, ta có thể để ý đến Trần Dạ Từ:
Hoa và trái một đêm nào thức dậy
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
Con đường đó một đêm nào trở lại
Với gió mưa phùn trên cánh tay anh
Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Máu thơ dại vẫn tươi mầu kỷ niệm
Bóng cây nào che mãi mắt hư vô...
Đây là hai đoạn đầu trong bài "Một Tháng Giêng" (còn có tên gọi khác là "Mộng Đời") của ông. Ông dùng những ẩn dụ "hoa" và "trái" một cách mơ hồ nhưng đầy tính bí
ẩn, thu hút để bắt đầu bài thơ. Người ta có thể để ý đến việc để nói về tình yêu, nhà thơ đã dùng những hình ảnh như "hoa" và "trái". Rồi "đêm". Rồi "mộng". Vân vân.
ế ầể ấ
Nhưng còn "máu thơ dại" và "mắt hư vô" nữa. Có âm hưởng gì của thuyết hiện sinh ở đây không? Hay đó chỉ là những tiếng vọng của một bầu khí quyển bao trùm lấy con
người trong cuộc. Hình ảnh và chữ nghĩa trong bài thơ, trong cái nhìn của riêng tôi, đã cho thấy ít nhiều những vọng âm của thời đại. Của thuyết hiện sinh với những khái
niệm "hư vô", "xao xuyến". Của tâm phân học Freud với những ẩn dụ mang tính ức chế, libido, trong hình ảnh của những "hoa" và "trái", "gió" và "mưa" và "mộng". Và
cũng có thể của tâm phân học Jung với những khía cạnh mang nét tâm lý miền sâu trong những kết hợp của "đêm" và "máu", "thơ dại" và "mộng". Và cả "máu thơ dại"
nữa. Tất cả những điều ấy ánh xạ những hồi quang và vọng âm của cả một thời đại.
Cũng thế, đây có thể là một hơi thở thời đại khác trong thơ Trần Dạ Từ:
Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
Đây là bài "Thuở làm thơ yêu em", viết năm 1962, của Trần Dạ Từ. Tôi đã có cơ hội phân tích khá kỹ và đưa ra một vài nhận xét cũng như... rung động có tính hơi "vũ
đoán" của mình (3) về nó. Ở đây, tôi muốn đặc biệt nhắc lại về bốn câu cuối cùng trong phần trích đoạn này. Nó làm tôi chợt nhớ xa gần về những câu thơ cũng rất đẹp của
Apollinaire trong bài "Le Pont Mirabeau", với hình ảnh của hai người yêu nhau. Thi sĩ Pháp đã tả hai người nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống
như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Hoàng Hưng, một thi sĩ Việt Nam khác, sau này đã dịch khá đẹp là:
Cứ mặt nhìn mặt, cứ tay cầm tay
Cánh tay mình kết cầu này
Cho làn nước dưới kia chạy trốn
Những ánh nhìn muôn thuở chán chường thay
Cho đêm cứ về, cho giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây (4)
Hình ảnh cây cầu dịu dàng làm bằng vòng tay âu yếm của hai người yêu nhau trong thơ của Trần Dạ Từ và Apollinaire có thể là trùng hợp. Cũng có thể là những liên tưởng
"liên văn bản". Từ thi sĩ Việt Nam, hay từ một người đọc Việt nam. Vấn đề "liên văn bản" (5) là một vấn đề thú vị, cho thấy văn bản nào của bất cứ một tác giả nào cũng là
một "liên văn bản", bởi lẽ "viết", trong những cái nhìn khác nhau của các lý thuyết hiện đại liên hệ đến "liên văn bản", luôn luôn là "viết lại". Viết lại một điều gì đó đã
được một ai đó viết ra từ trước. Dĩ nhiên là với dấu ấn riêng của mình. Viết lại, với ý thức, và, trên hết, với vô thức, sau khi người viết đã đọc, đã thẩm thấu bao nhiêu là câu
chuyện, lời thơ, văn bản khác nhau mà mình đã được đọc hay nghe trong đời. Tất cả chữ viết của con người, kết hợp lại, là một liên văn bản bất tận. Trong trường hợp "cây
cầu" ở đây (như tất cả những hình ảnh khác mà ta có thể đưa ra phân tích trong bất kỳ một văn bản văn học nào), có thể là có một sự trùng hợp bất ngờ. Và, để lặp lại, cũng
có thể đây là một hiện tượng "liên văn bản", xảy ra với sự làm việc của vô thức nhà thơ. Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, chỉ có thể sống ở miền Nam, nhà thơ Trần Dạ
Từ mới dễ dàng có cơ hội tiếp cận, trong cái đọc của mình, với những hình ảnh và ý tưởng mới lạ, đang hiện diện trong văn bản của đủ loại người viết khắp nơi trên thế
giới.
Dù sao, tôi cũng nghĩ, có khi, cách dùng từ "vai cầu" trong câu thơ này của Trần Dạ Từ chỉ là một cách dùng đặc biệt theo lối người miền Trung, đặc biệt người xứ Huế;
nhất là khi người con gái ông yêu lại là người của đất Thần Kinh văn vật. "Vai cầu", khi ấy, sẽ là hình ảnh mang tính hoán dụ của cây cầu Trường Tiền. Lấy một "vai cầu"
để nói về cả cây cầu. Thi sĩ so sánh cây cầu như một cánh tay dịu dàng bắc ngang qua thành phố Huế. Và đó là thành phố của tình yêu, nói chung, thành phố của kỷ niệm
yêu đương của nhà thơ, nói riêng. Đó cũng là một cái nhìn ẩn dụ. Và như thế, so với hình ảnh thuần ẩn dụ mà ta từng nhìn thấy trong cách phân tích trước, là cánh tay của
hai người con trai con gái bắc qua vai nhau làm thành cây cầu dịu dàng yêu thương kia, hình ảnh hoán dụ pha lẫn ẩn dụ trong phân tích sau cũng có cái đẹp mềm mại và
đáng yêu riêng của nó.
Nhìn thế nào đi nữa, tất cả cái đọc, cái suy nghĩ, cái tu dưỡng ngày này qua ngày khác, cộng với một tài năng riêng của mình, nhà thơ mới tạo được những câu thơ đẹp,
trong một nhịp điệu đáng yêu như thế. Và tất cả những điều đó, những cái nghe, cái đọc, cái suy nghĩ, tu dưỡng ấy, phải nằm trong một vùng khí quyển nào đó. Người nghệ
sĩ phải có cơ hội sống trong nó, thở hít cái vùng dưỡng khí ấy, cái vùng dưỡng khí tự do, mở rộng ra khắp bốn phương trời, thì mới có thể viết ra những ý, những lời như
thế. Cái vùng dưỡng khí ở đây chính là cái khí quyển miền Nam mà ta đang nói đến.
Thi pháp, dù sao, có lẽ sẽ được nhìn thấy rõ nét nhất trong hình thức của câu văn. Ở thơ, hãy thử chỉ nói về thể lục bát. Cách ngắt nhịp thông thường và cổ điển nhất là ngắt
nhịp chẵn.
Chẳng hạn, Nguyễn Du, với những bức tranh trong truyện Kiều:
Đầy vườn cỏ mọc / lau thưa
Song trăng quạnh quẽ / vách mưa rã rời
Trước sau / nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái / còn cười gió đông
Xập xè / én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất / rêu phong dấu giày.
hoặc:
Người về / chiếc bóng năm canh
Kẻ đi / muôn dặm một mình / xa xôi
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường.
Bây giờ, hãy thử đọc bài thơ sau đây của một thi sĩ trẻ miền Nam:
Đò qua sông / chuyến đầu ngày
Người qua sông / mặc áo dài suông eo
Sông hiền / sóng lạ lùng reo
Trời bao la / cũng nhìn theo... / ái tình
Người qua sông / qua một mình
Nắng trên sông / nắng vàng hanh mái đầu
Xin em vài sợi tóc nhầu
Trói thân ta / với nghìn sầu / chung nơi
Mong em gìn lấy ơn trời
Thấy quanh năm / thấy ta đời tai ương!
Người qua sông / mặc áo hường
Nắng dương gian / nắng buồn hơn trước nhiều.
Người thi sĩ trẻ mà tôi nói ở đây là Nguyễn Tất Nhiên. Và bài thơ là bài "Chuyến Đò Cửu Long". Người thi sĩ trẻ, vào lúc anh làm bài thơ này, năm 1972, đã thường xuyên
phá đổ cái nhịp chẵn cổ điển của lục bát trong bài thơ của mình. Bài thơ của anh, phần nhiều đi nhịp lẻ, từ đó, cho thấy cái nét chênh chao, uốn lượn dập dờn của những con
sóng. Sóng trên sông quê hương, và sóng trong lòng người. Sóng trong lòng anh.
Nhịp của bài thơ không có cái mượt mà, suôn sẻ của một tâm trạng hạnh phúc. Nó chập chờn, như do dự, như thiết tha, nhưng là cái thiết tha của một thứ "tình không/chưa
dám ngỏ". Nó quẩn quanh và nó phả ra một giọng buồn xa vắng. Như cái buồn của nắng trên dương gian. Hết cuộc đò, hay ở cuối chuyến đò, nhà thơ trẻ chỉ còn thấy rơi lại
một mầu nắng. Từ "dương gian" trong câu thơ cuối này làm người ta liên tưởng đến một điều gì không mấy hạnh phúc. Như hình ảnh một linh hồn trở về nhìn lại dòng
sông và chuyến đò, và cuộc tình (có lẽ là "một chiều"), đã chớm nở trong lòng mình một ngày trên cái "cõi dương" cũ kỹ. Tôi nghĩ cái nhịp thơ và, cũng có nữa, những chữ
dùng trong thơ đã khiến tôi, như một người đọc, xúc cảm với bài thơ như thế.
Một thí dụ khác về cách phá nhịp lẻ của lục bát:
Hồn tôi / cái đĩa thâu thanh
Tròn nguyên nét nhạc / trung thành ý ca
Do / ré / mi / fa / sol / la
Ngẫm từng âm điệu / nghe ra chiều buồn
("Chiều" của Cung Trầm Tưởng)
Câu thứ ba, như thế, đã được nhà thơ ngắt nhịp lẻ, một cách đầy sáng tạo, thành 1/1/1/1/1/1.
Về thơ, văn học miền Nam còn nhiều con người tài tuấn khác. Như Viên Linh hay Du Tử Lê. Như Nguyễn Đức Sơn, Phạm Thiên Thư, hay Tô Thuỳ Yên. Họ, cùng với
nhiều nhà thơ khác, đã để lại dấu ấn của mình trong lòng người đọc. Và, đặc biệt, là Thanh Tâm Tuyền. Người đã, từ cái cội nguồn thơ tự do của Xuân Thu Nhã Tập và thơ
thời kháng chiến, mở rộng cái biên độ của thơ tự do đến những cõi miền mới. (6)
Đã nói về thơ thì chúng ta cũng phải bàn về Văn.
Người đã có những đột phá rõ nét nhất trong việc làm mới câu văn, trong giai đoạn hai mươi năm văn học miền Nam, là Mai Thảo. Ngoài tài sử dụng chữ nghĩa một cách
"diệu thủ", ông cũng là người tiên phong trong việc làm mới câu văn Việt. Ông viết nhiều câu văn dài, gồm nhiều câu phức, liên kết, lồng ghép vào nhau, mà ý tứ vẫn rõ
ràng và đẹp. Hoặc kiểu câu dài, nối kết nhau để diễn tả một dòng ý thức, như đoạn văn dưới đây. Đó là một dòng chảy và cháy không ngừng. Để ý, cả đoạn này chỉ là một
câu được phát triển với những giới ngữ (prepositional phrases) dùng làm trạng từ chỉ thời gian.
Tôi muốn bảo Luân, anh nhớ đến em trong tiếng súng ban đêm, những vệt lửa dài cháy vào bóng tối, lúc bò núi sau lưng cái hình ảnh xót thương còn mang hình trái núi,
lúc xuống đồng bằng trước mặt cái hình ảnh xót thương đã mang hình những ngọn lửa dài, lúc anh muốn chết, lúc anh muốn sống, lúc tuyệt vọng tối đen vực thẳm, khi tin
yêu sáng chói mặt trời, lúc nhìn xa cái hình ảnh lớn theo ngút mắt, lúc tưởng gần cái hình ảnh thu cũng nhỏ vào một góc trái tim như một tấm hình kỷ niệm.
Đây là một đoạn văn trong truyện ngắn "Luân" của Mai Thảo. Trong đoạn kết của truyện này, Mai Thảo dùng những câu thật ngắn và gọn. Hai câu cuối cùng được tách ra
thành một đoạn riêng. Tính chất ngắn, gọn của các câu văn ở đây khác hẳn tính chất đan kết, liên tục, mở rộng của những ý nghĩ reo vui như những bọt sóng trong một đoạn
khác nói về tiếng nói của người con gái tên Luân; của những yêu thương bùng cháy không dứt như một vệt lửa cháy mãi trong đêm tối. Cái ngắn, gọn ở đây mang tính
tragic pha với pathos. Nó nằm trong cái biểu tượng của con bướm chết. Một cái đẹp mong manh, tàn lụi trong cái vô nghĩa và vô tình của cuộc đời.
Sáng hôm sau, tôi xuống núi thật sớm. Như người đi trốn. Tôi không có can đảm ở lại để nhìn thấy cái hình ảnh lam lũ của Luân đẩy lưỡi cày trên nền đất rừng cằn cỗi.
Trời đã sáng nhưng hai bên núi rừng còn yên lặng ngủ. Gần tới đường lớn tôi trông thấy một con bướm. Nó đậu trên một bụi cây thấp. Mình nó vàng ánh với những chấm
đen ở hai đầu cánh. Tôi bắt lấy con bướm và bỏ đi không nhìn trở lại.
Suốt dọc đường tôi nghĩ đến Luân, đến Phạm, đến Trương, đến tôi. Lúc nhìn xuống, con bướm tự lúc nào đã chết nát trong lòng bàn tay.
Mai Thảo, trong cung cách làm mới câu
văn, chữ nghĩa của mình, còn đặc thù ở chỗ viết những câu văn được cắt thật ngắn, gọn. Những câu văn có khi mềm, có khi sắc. Nhưng luôn luôn đẹp. Chẳng hạn:
(…) Mùa thu. Moderato, trong nhạc dân gian Phạm Duy. Lá vàng mùa thu. Doloroso, trong nhạc trữ tình Cung Tiến.
(…) Thơ tiền chiến về mưa thu, nắng thu lấp lánh thật nhiều châu báu, kim cương nơi thể thơ như một bình ngọc riêng được đúc ra để đựng hết mùa thu ngây ngất là thể
thơ lục bát. Câu sáu đội mưa thu bay. Câu tám nhặt ngô đồng rụng.
(Văn số 40, 10/1985)
(...) Đích thực mưa xuân. Phơi phới, nghiêng nghiêng. Và lục bát trên những mái nhà. Và tứ tuyệt trên những đường phố. Và song thất ở những ngã tư. (…) Đêm qua thức
giấc, thoáng nghe thấy, thật xa, những tiếng mưa trên những cảnh ngộ, những thân thế quê nhà. Tiếng mưa dài như một cuộc đời buồn. Những tiếng mưa tăm tối.
(Văn số 57, 3/1987) (7)
Một nhà văn khác của miền Nam cũng đã có những cách tân trong việc làm mới câu văn, tạo hình ảnh và nhịp điệu lạ lẫm cho riêng nó, là Nguyễn Đình Toàn. Nhiều câu
văn của ông được kéo dài ra gần như một đoạn văn, với nhiều câu văn nhỏ được dính kết, lồng ghép hoặc xếp kề cận bên nhau, như từng mảnh rừng nhỏ. Rậm rạp. Và
thơm. Và Nguyễn Đình Toàn đã đưa vào trong những câu văn mình cái khí hậu rất riêng do ông tạo ra. Một khí hậu đầy ắp sương mù. Quấn quyện. Lan toả. Và ôm lấy
người đọc trong cái sinh quyển riêng của nó. Như một "câu văn" dài có tính điển hình sau đây trong tiểu thuyết "Áo Mơ Phai" của ông:
Cái lạnh, hơi nước, và đất ẩm quanh hồ, bám cả trên hai người, nhất là Lan dù đã lên đến bờ cứ còn chần chờ mãi chưa chịu đi về ngay, thành thử lắm lúc nàng làm cho
Quang có cảm tưởng rờn rợn như là nàng bị ma quỷ của khu hồ nhập vào người, tiếng cười của Lan nghe lanh lảnh, hoặc có khi nàng lặng lẽ xếp lại những đồ dùng, quần
áo tắm, gió từ dưới hồ thổi lên vẫn không ngớt làm cho quần áo đầu tóc nàng bay tung, những trận gió mang theo các đám sương nặng trĩu từ rừng cây xanh đặc bên vườn
Bách Thảo vẽ những đường răn reo trên mặt sóng, mùi bèo nước, mùi rễ cây thối và xa hơn nữa, hương thơm của những vườn hoa trong khu Ngũ Xã trộn lẫn với nhau, lẩn
khuất trong đám sương quần tụ trên mặt hồ, những đám sương dầy đặc đến nỗi dường vây kín lấy những dư âm hồi chuông của đền Quan Thánh vừa đổ xuống, làm cho
không tan biến đi được, và khi dư âm của những tiếng chuông đó còn vương vất trên mặt sóng, trong trí tưởng bị huyễn hoặc, và ngay trên mặt da đã nổi gai vì lạnh, vì bị
những ảo giác làm cho tê điếng, những tiếng chuông nhỏ hơn, nhưng gần hơn của chùa Trấn Quốc phía bên kia con đường, bên kia những hàng cây, khuất sau con dốc cao
giống như một con đê nhỏ, lại chậm rãi gõ vào cái vắng lặng mênh mông đã vây quanh bốn phía, đó là lúc bóng tối đã xoá hết riềm cây xanh mờ của phía bờ hồ xa tít tắp,
những âm hưởng cũ còn chưa tan hết, những âm thanh mới đã dội tới ép vào hai bên thái dương, cùng một lúc với mùi trầm hương phảng phất, trông Lan lúc đó chỉ còn là
một cái bóng mơ hồ, nàng cử động, đi lại, cười nói như trong một giấc mơ (...)
Câu văn trên không có một dấu chấm; nhưng, thật sự, nó vẫn chưa chấm dứt. Tôi tạm chỉ ghi lại khoảng ba phần tư của nó. Đó là một câu văn dài với kỹ thuật ghép nối,
thắt bện theo lối liên hoàn mà tôi đã thử ghi nhận ở trên. Cái đáng nói ở đây là, trong một câu văn như thế, Nguyễn Đình Toàn đã collapse ("dồn đẩy"), trong một số trường
hợp, những câu văn nhỏ, có thể đứng độc lập, vào nhau. Và, cùng với hình ảnh và chữ nghĩa, cùng với cách lắp và ngắt đoạn, tiết nhịp của các hình ảnh cộng với nhịp điệu
bằng trắc của từ ngữ, nhà văn đã tạo được một không khí, hay đúng hơn, một thứ khí hậu đặc thù vây hãm câu văn mình. Làm cho mọi thứ trong ấy như bám quyện vào
nhau, có tính cách bội trương, và như được phủ lên bằng một dải sương mù, không dễ tan đi hoặc không vội tan đi. Tất cả tạo thành một vùng "hãm địa" thơ mộng vây kín
lấy người đọc. Nhà văn đã đạt được hiệu ứng cần thiết cho câu văn mình. Trong sự làm mới, làm lạ nó. Và trong việc tạo một khí hậu truyện riêng.
Cách viết của Nguyễn Đình Toàn, phần nào, cũng làm cho ta nhớ đến Proust, trong "À la Recherche du Temps Perdu", người đã viết những câu văn dài cả trang giấy. Với
cấu trúc trùng bội (la duplication), kết cấu chính phụ (la subordination), và kỹ thuật phát triển vòng tròn (le développement cyclique), theo Jean Milly (8), những câu văn
của Proust đa tầng và rất phức tạp, được phân nhánh chi chít như hình ảnh của một cây cổ thụ vĩ đại, những nhịp điệu, suy nghĩ cùng với các biện pháp chuyển nghĩa đan
cài trong đó, khiến chúng được kéo dài ra hay được làm cho thành rậm rạp, "thậm phồn". Hiệu ứng đạt được, trong cái nhìn của tôi, là một dòng ý thức như chảy tràn lan,
vô tận trong những ngõ ngách của hồi tưởng, hoài nhớ.
Từ trái sang, hàng đầu: Lê An Thế, Hoàng Quốc Bảo.
Hàng giữa: Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Đình Toàn. Hàng cuối: Nguyễn Mạnh Trinh
Không phải chỉ riêng Mai Thảo và Nguyễn Đình Toàn có những nỗ lực và thành công trong việc làm mới, làm lạ câu văn mình. Nhiều nhà văn khác của miền Nam cũng đã,
trong những mức độ đậm nhạt khác nhau, làm được điều ấy. Ngoài ra, nếu không chú trọng vào việc làm mới câu văn, nhiều nhà văn miền Nam đã thành công trong việc
thể hiện tư tưởng, suy nghĩ của mình trong cách thức diễn đạt, trong giọng điệu, hay trong cách xây dựng tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ trần thuật. Võ
Phiến, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Nhật Tiến, Viên Linh, Cung Tích Biền, Thế Uyên, Duy Lam, Nguyễn Thuỵ
Long, Thảo Trường, Văn Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Trần Thị NgH.,
Lê Xuyên, An Khê, v.v..., đã là những nhà văn như thế. Ngoài những người này, miền Nam cũng còn nhiều nhà văn khác nữa mà ta không thể kể hết tên ở đây.
Thi pháp trong các tác phẩm cả thơ lẫn văn của văn học miền Nam, như đã nói, chính là cái cho ta thấy sự bắt nhịp, tính song song, nét hoà quyện với thế giới của nó.
Trong cung cách thể hiện, trong việc "lập trình" tác phẩm. Không khí tự do, cởi mở và sự tiếp cận rộng rãi với thế giới của miền Nam đã tạo điều kiện cho các nhà văn của
nó bước đi trên những con đường đầy mầu sắc ấy.
3. Một nền văn học đậm tính nhân bản, nhân văn
So sánh với văn học miền Bắc, vốn là một nền văn học mà âm hưởng, giọng điệu của nó phản ánh tính sử thi, thiên về việc thúc giục con người bước vào trận chiến, ca
tụng chiến công, thậm chí tô mầu cho cuộc chiến (và miền Bắc có những lý do để theo đuổi con đường đó), văn học miền Nam phản ánh cái đau thương, mất mát của con
người trong cuộc chiến nhiều hơn. Nó đi gần với những trạng thái nhân thế, những gập ghềnh, chao đảo trên nẻo nhân sinh của con người hơn. Có nghĩa là, trong văn học
miền Nam, người ta có thể nhìn thấy những rung động, những tình cảm phản ánh toàn bộ những cung bậc sống của con người trong cuộc chiến. Đau thương, bi phẫn, khốn
khổ, cay đắng, tuyệt vọng, lên án cuộc chiến. Lồng vào những xúc cảm đớn đau nhưng hết sức con người ấy, đâu đó, người ta cũng thấy có những niềm vui, những hạnh
phúc nho nhỏ, cỏn con trong đời thường, những hãnh diện, tự hào vì vai trò của mình trong việc bảo vệ quê hương.
Nếu bức tranh của đời sống có thể bao gồm đủ mọi sắc độ cuộc đời, thì, không kể những niềm vui, những tiếng cười, những nét thắm tươi mà người ta vẫn có thể tìm thấy
trong đời sống văn học miền Nam trong giai đoạn hai mươi năm này, những cung bậc đau thương nhất trong bản bi ca của con người cũng có thể được tìm thấy ở đây. Tôi
gọi đó là những nét nhân văn. Những nét đẹp của con người. Văn là vẻ đẹp. Nhưng cái-đẹp-người cũng có nhiều khuôn mặt. Có khuôn mặt của hạnh phúc. Và có khuôn
mặt của khổ đau. Tôi nghĩ những bức tranh đời trong các tác phẩm của Dostoievsky, những bức tranh đi gần với sự xót xa, đau khổ, dằn vặt của kiếp người, thật sự rất nhân
văn. Nhà văn này đã nói, "Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới". Và cái đẹp của ông là gì? Chắc chắn là nó có bao gồm những điều muốn xé toạc thế giới, xé toạc trái tim con
người, nhưng chính những điều ấy, cùng với sự hy sinh và kiên nhẫn của chính con người để chịu đựng chúng, từ đó vươn lên và chiến thắng, đã tạo nên cả khuôn mặt lẫn
trái tim con người. Một nền văn học đi gần với những điều ấy, tôi gọi đó là một nền văn học mang tính nhân bản. Hơn nữa, nó phản ánh cái khuôn mặt mang nét nhân văn
của nhân loại.
Người ta có thể đọc Dương Nghiễm Mậu hay Phan Nhật Nam để nhìn thấy rõ điều đó. Dù sống trong thành phố hay ở ngoài mặt trận, những con người cầm bút này đã
trung thực viết nên những trang văn phản ánh cuộc sống chung quanh và trong trái tim mình. Họ đã đi dọc quê hương và đi dọc tâm hồn người để nhìn ra những điều đớn
đau, xót xa và bi đát của thân phận con người trong cuộc chiến. Một cuộc chiến tàn khốc mà nhiều người viết miền Nam, kể cả những nhà văn này, đã vừa sống với vai trò
của mình như một công dân, vừa sống với trái tim mình như một con người, để viết lên những trang văn thấm đẫm sự khổ đau, bi phẫn với một thái độ trung thực nhất.
Mà không phải chỉ có Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu. Còn biết bao nhà văn, nhà thơ khác của miền Nam như Thảo Trường, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên, Nhã
Ca, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, cùng với bao nhiêu khuôn mặt, cây bút khác nữa, đã nói lên tất cả những trạng thái con
người của cả một nửa dân tộc trong cuộc chiến. Họ thẳng thắn nhìn nhận những nỗi đau của con người, thân phận của nó, với những tân toan cay đắng cũng như ngọt bùi
hạnh phúc, trong những nhát cắt, giống như những vết chém, những tia sét, của một cuộc chiến tàn khốc và vô lý. Họ nhìn thẳng vào những góc cạnh tan nát của gương mặt
quê hương. Đôi khi, họ cũng lau mồ hôi và nước mắt trên khuôn mặt ấy, nhưng họ đã để cho cái nhân dáng ấy được nguyên là nó. Không tô vẽ. Không giấu giếm. Cho dù
họ có xót xa, đau đớn đến mấy chăng nữa.
Mà cũng không phải chỉ mô tả hình ảnh một "quê hương tan rã" (nói theo ngôn ngữ của Chinua Achebe), những nhà văn miền Nam, trong khung cảnh chiến tranh tàn khốc,
vẫn không quên theo dõi và mô tả cuộc sống và tâm hồn người như nó vẫn đang tiếp diễn, bất kể tên đạn và lửa cháy vây quanh. Họ mô tả cuộc sống bên trong và bên
ngoài con người như nó vẫn đang vận hành, máy động. Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng Dương, Lệ Hằng, Trần Thị NgH., chẳng hạn, vẫn được
phép viết về những thao thức của thân xác người nữ, của những đam mê cháy bỏng bên ngoài hay của những dằn vật, bùng bốc tình dục bên trong. Nguyễn Đình Toàn vẫn
được viết về cái hơi nóng âm ỉ, như một hòn than trước khi nguội chết, của một ông già, khao khát một thân thể phái nữ. Nhân vật chính của ông, ở đây, như quán chiếu,
nói thầm với chính lòng mình, với cơn khao khát mình, trong một không gian đầy sương mù của lãng quên. Và trong một giọng nói nhuốm đầy "khí hậu" mục rữa của tuổi
già.
Hay như Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, trong một truyện ngắn, đã viết về cái yếu đuối, tầm thường của một con người. Truyện ngắn "Lòng Trần" kể về cuộc đời của con người ấy.
Nửa đầu là đời sống của một cô đào hát bội tài sắc, được bao người yêu chiều, săn đón; nửa sau, lấy chồng, là người đã mê man theo mình, chăm sóc từng chút cho mình
trong cuộc đời duổi rong lưu diễn. Rồi chồng chết, cô cắt tóc đi tu, trở thành một sư nữ, sống một cuộc đời khổ hạnh, giữ gìn trai giới rất nghiêm cho tới lúc tuổi già. Thế
mà, trước khi chết, trong cơn hấp hối, người nhà bu quanh, mong nghe những lời chỉ giáo cuối cùng, thì vị sư nữ già chỉ khát khao xin được húp một muỗng nước mắm. Và
bà, lúc ấy, cũng chẳng còn nhớ mình là một vị sư nữ được bao người trọng vọng, nể vì. Bà chỉ còn nhớ mình là một cô đào hát bội mà thôi. Và người nhà đã từ chối bà
muỗng nước mắm mà bà thèm khát ấy, với mong ước giúp bà đi cho trọn đường để thành chánh quả. Bà chết đi trong cơn hành hạ của thể xác vì không được thoả mãn
mong ước cuối cùng. Trong một đất nước đang trong cơn binh đao, lửa máu, câu truyện về cái thèm muốn tầm thường, bé nhỏ ấy của con người vẫn được viết ra và được
phổ biến tại miền Nam. Cái nhân bản, nhân văn, cái khuôn mặt người của văn học miền Nam, ở một mức độ và góc cạnh nào đó, cũng nằm trong ấy.
Như thế, văn học miền Nam, trong tất cả những sắc thái miêu tả nhân sinh, miêu tả cuộc đời, miêu tả cuộc chiến, và miêu tả tâm hồn con người ấy, đã cho thấy đầy đủ cái
quang phổ của cuộc đời. Dù cái quang phổ ấy như thế nào đi chăng nữa, nó đã cho người ta thấy được con người. Và con người miền Nam cũng như tâm hồn của nó đã
được chiếu sáng trong cái dải sáng, khi thì chập chờn, lúc lại chói gắt, nhiều mầu sắc ấy. Ở đó, chúng ta thấy một khuôn mặt người. Một khuôn mặt có những khi bị xé nát,
dúm dó, đau khổ, quằn quại và đầy thương tích. Nhưng đó là một khuôn mặt người. Nó không phải một tấm mặt nạ.
4. Một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng
Văn học miền Nam là một nền văn học khai phóng. Có thể chưa phải là "khai minh", vì nó vẫn còn những vùng tối, những giới hạn, do những yếu tố thuộc cả về con người
lẫn lịch sử. Nhưng đó là một nền văn học mở. Nó mở ra thế giới, đón nhận nhiều luồng gió mới với tất cả những màu sắc và đường nét của một thứ "hương xa". Nó liên
thông với thế giới, gắn bó mật thiết với tất cả những gì thuộc về con người. Sở dĩ như thế vì, trước hết, yếu tố căn bản của nền văn học này, để nhắc lại lần nữa, là tự do.
Khái niệm và vấn đề hành xử quyền tự do ấy có thể được nhìn thấy trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
4.1 Lĩnh vực Giáo dục
Trước hết là trong lĩnh vực giáo dục. Đây là một nền giáo dục mở, bắt nguồn từ những quan niệm đúng đắn và khai phóng. Trong giai đoạn đầu, những lớp học theo
chương trình Pháp và Pháp-Việt đã đào tạo được một lớp trí thức có cái nhìn rộng và chắc chắn về văn chương và văn học thế giới. Lớp người này đã đóng góp được những
cống hiến quý báu cả trong lĩnh vực sáng tác lẫn trong lĩnh vực đào luyện những thế hệ lớp sau, nối gót họ. Giai đoạn sau, khi môi trường giáo dục đã được chuyển hẳn qua
chương trình Việt, những nỗ lực trao truyền và phát triển tiếp tục được thực hiện. Chương trình tiếng Việt dần dần được củng cố, cả ở cấp độ trung học và đại học. Và nó
trở thành nguồn trao truyền và phát triển kiến thức trên đủ mọi mặt của học sinh, sinh viên Việt Nam.
Ngay tại trình độ trung học, học sinh đã được học tập và hướng dẫn để đón nhận những kiến thức nền, những kiến thức căn bản trong hiểu biết của con người về thế giới
nói chung. Ngoài phần khoa học tự nhiên, họ được học hỏi về văn, về sử một cách khách quan, không định kiến. Và họ bắt đầu được làm quen với các khái niệm và những
vấn đề căn bản của triết ở năm cuối trung học, trong những lĩnh vực Luận lý, Đạo đức, Tâm lý, và Siêu hình. Khi lên đến Đại học, người sinh viên bước vào một khung
cảnh mới mẻ và nhiều tự do hơn nữa. Ở trình độ này, họ càng nhận thức rõ vai trò của người trí thức nơi thái độ độc lập trong suy nghĩ. Nền giáo dục đại học tại miền Nam
được phát triển nhờ vào tính tự trị của đại học. Đại học không chịu áp lực hay ảnh hưởng của chính quyền.
Trên phương diện văn học, tại miền Nam, các giáo sư có thể giới thiệu với môn sinh mình đủ các thứ triết thuyết và trào lưu mới trên thế giới. Các giáo sư có thể có những
thiên hướng về triết hoặc văn học trái chiều nhau, nhưng họ vẫn được công khai giảng dạy. Thậm chí, họ có thể trình bày và giảng dạy cả các khuynh hướng thiên tả hoặc
về chủ nghĩa của Karl Marx mà không có vấn đề gì. Nguyễn Văn Trung, một giáo sư đại học và cũng là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học, đã có thể phát biểu: "Cộng
Sản, người anh em tôi", như tựa đề một "nhận định", một tiểu luận, của ông (Sau này, hình như đổi lại thành "Cộng Sản, người anh em thù địch"). Cũng trong tinh thần
khuyến khích phát biểu, trao đổi và dám thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình, ông còn viết các cuốn sách như "Ca Tụng Thân Xác" và "Ngôn Ngữ và Thân Xác", trong
khi chúng ta hiểu rằng, trên căn bản, Việt Nam nói chung, và miền Nam nói riêng, lúc ấy, vẫn là một quốc gia chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh. Ngoài ra, trong khung cảnh xã
hội miền Nam giai đoạn đó, "thân xác" chưa được lên ngôi, và người ta vẫn dành cho tinh thần một ngôi vị cao quý. Thân xác, trong văn học và trên bề mặt đức lý, của tôn
giáo cũng như của đời sống văn học, chỉ là một "vai phụ", cho dù đôi khi cái "vai phụ" ấy cũng cất tiếng đòi hỏi quyền sống của nó.
Các sinh viên được khuyến khích tham dự tranh luận theo nhiều chiều, mở rộng nhãn quan và tư tưởng mình qua việc tiếp cận với những trào lưu, chủ nghĩa, triết thuyết
khác nhau. Và tự do đại học là gần như tuyệt đối. Nguyễn Trọng Văn, một giáo sư Triết trung học và cũng là một người viết tiểu luận văn học trên một số tạp chí giai đoạn
thập niên 1970, đã có thể thuyết trình tại đại học Văn Khoa Sàigòn đề tài "Phạm Duy đã chết như thế nào?". Chúng ta nên nhớ là, trong giai đoạn đó, Phạm Duy vẫn là một
nhạc sĩ rất nổi tiếng. Bây giờ, có một độ lùi thời gian để nhìn lại, có thể hiểu rõ hơn về những phức tạp trong nguyên nhân về vụ thuyết trình này, người ta lại càng nhận
thấy rõ tinh thần tự do, mở cửa trong phát biểu, trao đổi, tranh luận trong không khí văn học và sinh hoạt học thuật của miền Nam thời ấy.
4.2 Ảnh hưởng của các triết thuyết
Triết cũng là một lĩnh vực quan trọng trong việc khai mở, khuyến khích sự suy nghĩ và đặt vấn đề của con người. Triết khuyến khích, thúc đẩy người ta đặt câu hỏi về vấn
đề hiện hữu, hiện hữu với tha nhân, vấn đề sống cùng và sống với người khác, vai trò của tôn giáo, ý nghĩa của cuộc sống, về vấn đề luân lý, đạo đức trong đời sống, vấn đề
bản thể của con người, hiểu biết về con người cũng như về những giới hạn của nó, v.v...
Triết khiến cho con người không phải là một thực tại "lù lù có đó", mà là một thực thể hiện sinh sống động, có hơi thở và máu thịt. Và suy tư. Cogito. Sinh viên được đào
tạo để hiểu biết về cả hai nền Triết Đông và Triết Tây, nhờ thế, có được sự quân bình trong hiểu biết, suy nghĩ của mình. Các trào lưu triết học được nghiên cứu và suy
ngẫm. Những khuynh hướng khác nhau được bênh vực và chống đối. Và trong những sinh hoạt sôi động, phản ánh tinh thần trao đổi và học hỏi, người sinh viên được tập
cho làm quen với những cái mới, cái khác. Và cũng từ đó, tập bao dung hơn với những điều không nằm trong quan điểm, lập trường của mình. Thái độ ấy làm cho con
người tỉnh táo và sống một cách "nhân văn" hơn. Con người trí thức, vì thế, tuy được huấn luyện để có một khả năng phán đoán và chọn lựa, để có một "thái độ" và chủ
kiến trong những vấn đề của cuộc đời, nhưng họ không được khuyến khích đi đến chỗ cuồng tín và gạt bỏ niềm tin hay sự xác tín, suy nghĩ của người khác.
Một lớp giáo sư, học giả có uy tín thời đó, có thể tạm kể những tên tuổi như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nghiêm Xuân Hồng,
Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, và nhiều người khác nữa, đã có những đóng góp về mặt này mặt khác, trong cả hai lĩnh vực Triết Tây và Triết Đông, đã là những
đầu tầu đầy năng lực, kéo cái toa tầu triết miền Nam đi đến những vùng suy tưởng của đời sống tinh thần nhân loại.
4.3 Lĩnh vực Dịch thuật và Sáng tác
Nét khai phóng của văn học miền Nam cũng có thể thấy rõ trong lĩnh vực dịch thuật. Các tác phẩm dịch thuật chính là một cây cầu nối rõ rệt nhất đưa con người từ một nền
văn hoá này đến một nền/những nền văn hoá khác. Nó làm giàu kinh nghiệm và nhận thức của con người. Qua tác phẩm đến từ những nền văn hoá dị biệt, người đọc miền
Nam được tiếp cận với nhiều truyền thống văn học khác nhau, những lối sống, ứng xử, suy nghĩ, mơ mộng... khác với cung cách sống đời của họ. Người đọc miền Nam có
dịp thâu thái những hiểu biết về con người, nói chung, trên tất cả các mặt như lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hoá từ những ngọn nguồn khác biệt. Tất cả những điều đó làm
phong phú thêm cái nhìn và sự cảm nhận của độc giả đối với những hiện tượng con người, những trạng thái nhân thế.
Theo Võ Phiến trong "Văn Học Miền Nam / Tổng Quan", vào năm 1972, thị phần sách dịch chiếm đến 60% số đầu sách được xuất bản tại miền Nam; và đến năm 1973, nó
đã lên đến 80%. Và theo Trần Trọng Đăng Đàn, trong "Văn Hoá, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975", số dịch phẩm tại miền Nam trong 20 năm đó có thể được chia ra
thành: Pháp 499 cuốn, Đài Loan và Hương Cảng 358 cuốn, Mỹ 273 cuốn, Nga 120 cuốn, Anh 97 cuốn, Nhật 71 cuốn, Ý 58 cuốn, Đức 57 cuốn. Các nước khác chiếm 38
cuốn. Như thế, các sách được dịch, bao gồm cả sách nghiên cứu và các sáng tác, nhưng chủ yếu là tiểu thuyết, đến từ cả Âu châu, Mỹ Châu và Á Châu. Chúng chuyên chở
suy nghĩ và kinh nghiệm sống của một mẫu dân số rộng lớn và bao quát, gần như bao gộp tư tưởng và đời sống của cả nhân loại. Ta có thể kể tên những dịch giả tài ba của
Việt Nam, như Nguyễn Hiến Lê, Vũ Đình Lưu (Cô Liêu), Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phùng Khánh, Phùng Thăng, Trần Xuân Kiêm, Bửu Ý, Ngọc Thứ Lang, Nguyễn
Hữu Hiệu, Đỗ Khánh Hoan, Mặc Đỗ, Phạm Trọng Khôi, Đinh Bá Kha, Vương Đăng, và bao nhiêu dịch giả khác nữa. Tất cả đã kéo thế giới và tâm tình nhân loại về gần
với con người Việt.
Cùng thời gian đó, trong lĩnh vực dịch, văn học miền Bắc không phải là không có những đóng góp. Nhưng hầu hết các dịch phẩm được phổ biến là từ Liên Xô và các nước
Đông Âu trong quỹ đạo Cộng Sản. Những dịch phẩm này, ở một mặt nào đó, cũng làm giàu cho hiểu biết và sự nhận thức của con người Việt, nhưng, ở một mặt khác, đặc
biệt với những sáng tác phẩm được viết trong cái khung của chủ nghĩa Cộng Sản, phản ánh lý luận và suy nghĩ có phần nào đồng phục và một chiều, biên độ nhận thức và
những kinh nghiệm con người trong đó không được mở rộng. Chúng có những giá trị riêng về mặt nhân văn, nhưng có những cung bậc và mầu sắc phản ánh chưa đạt được
tầm phổ quát của những cái nhìn nhân loại.
Miền Nam, trong lĩnh vực dịch, từ sự giới thiệu các triết lý, chủ thuyết, trào lưu văn học, đến các sáng tác của bao nhà văn nhà thơ tài ba khắp nơi trên thế giới, đã bơm vào
một dòng máu mới cho sự nhận thức và mở rộng biên độ xúc cảm của người đọc. Nó gắn bó người đọc Việt với nhịp đập chung của con tim, của tâm tình nhân loại. Nó làm
phong phú thêm cho người đọc, nhất là cho người viết miền Nam, sự hiểu biết về những kinh nghiệm con người. Nó đẩy họ đến việc khám phá chính trong đời sống và tâm
hồn mình những vùng đất lạ, vốn, trước đó, đã có mặt, nhưng chưa từng được khai hoang. Thế nên, từ đó, sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt trở nên hết sức phong phú,
so với giai đọan trước 1954.
Sáng tác văn học của các nhà văn, nhà thơ Việt, từ đó, mang đủ giọng điệu, đề tài và phong cách. Con người sáng tạo trong nền văn học miền Nam như tìm được cái phần
tâm hồn thiếu vắng của mình. Họ đào sâu vào những nhận thức, những rung động mới khám phá, mới tìm được. Và họ đã đem cái hiểu biết, cái kỹ năng mới về mắt nhìn
cuộc đời cũng như về những cách thức mới để mô tả nó vào tác phẩm của mình. Con người trong các tác phẩm họ như được cấp cho nhiều chiều hơn. Và hình như nó cũng
hạnh phúc và đau khổ hơn trước. Cả cái cay đắng, mệt mỏi, thất vọng, chán chường, lẫn cái ngọt ngào, lấp lánh, thiết tha, hy vọng của cuộc sống đều như ùa vào trong tác
phẩm họ.
Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ miền Nam đã tự nói, tự viết về mình, cũng như đã nói hộ, viết hộ, cho bao con người miền Nam, những tâm tư, tình cảm mà cuộc sống đã đẩy
họ đối mặt với. Những nhà văn tiêu biểu và được người đọc nhận biết nhất đã được chúng ta thử nhận diện trong một phần trước, phần nói về cái hiện đại của văn học miền
Nam. Dù sao, đó chỉ là một vài khuôn mặt và nhân dáng nổi bật. Văn học miền Nam trong giai đoạn này, thật sự, đã được làm nên bởi một tập hợp những người viết với
những bản sắc khác nhau, những suy nghĩ và cách diễn tả, trình bày khác nhau. Cái quần thể tạo thành bởi tất cả những người viết ấy đã làm nên văn học miền Nam. Và cái
văn học ấy, ở một mức độ nào đó, cũng đã làm nên con người miền Nam trong 20 năm của cuộc chiến. Và những con người đó vẫn đang còn sống, tan loãng và dàn trải vào
cuộc sống mới mẻ tại quê nhà, cũng như vào cuộc sống mới ở khắp nơi, tại khắp các vùng đất có con người sinh sống trên mặt địa cầu. Và cái văn học ấy đã thấm đượm,
tiếp tục làm cho họ sống và thở với những giá trị nhân bản và nhân văn mà họ đã, trong một giai đoạn sống, được tiếp cận trong đời.
4. 4 Sự nở rộ của báo chí, tạp chí văn học và ảnh hưởng của nó nơi người viết, người đọc
Tự do báo chí cũng là một yếu tố góp phần vào việc phát triển văn học miền Nam. Trong cả hai nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà tại miền Nam, báo chí đã giống như một
vườn hoa muôn sắc, phản ánh tiếng nói, quan điểm và suy tư của cả một xã hội. Kể từ sau di cư 1954, tiếng nói của báo chí miền Nam đã hiện rõ với những tờ báo như Tự
Do của nhóm Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Phạm Tăng, Đinh Hùng, và tờ Ngôn Luận của nhóm Hồ Anh. Rồi tiếp đến là
những tờ như Người Việt Tự Do của Mặc Thu, Tiếng Miền Nam của Nguyễn Phương Thiệp, Tự Do của Lý Trung Dung (sau đó, thay vào bằng Phạm Việt Tuyền), Chính
Luận của Đặng Văn Sung, Tin Văn của Tô Văn, Sống của Chu Tử, Thời Luận của Nghiêm Xuân Thiện, Tiền Tuyến của Lê Đình Thanh, Xây Dựng của Nguyễn Quang
Lãm. Rồi Tin Sáng, Dân Chúng, Dân Đen, Chánh Đạo, Dân Chủ, Thời Đại, Dân Tiến, Sống Mới, Chuông Mai, Thần Chung, Điện Tín, Đại Dân tộc, Sóng Thần, Hoà Bình,
Công Luận, v.v...
Chúng ta không thể kể hết được tên các tờ báo trong 20 năm văn học miền Nam. Đó là một sự nở rộ của báo chí, thể hiện nhiều lập trường và quan điểm khác biệt. Với
những ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng, tất cả những sự nở rộ đó đã cho thấy một không khí nhộn nhịp và náo động, nhưng khá nhiều chất tự do của miền Nam.
Ngoài các tờ báo, ta cũng phải nói đến sự phát triển và ảnh hưởng của các tạp chí văn học. Chúng ta có thể kể đến những tờ như Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp,
Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo (với sự cộng tác thường xuyên của nhiều tên tuổi trong giới văn học nghệ thuật thời đó như Quách Thoại, Lữ
Hồ, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Tô Thuỳ Yên, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Cung Trầm Tưởng); Hiện Đại của Nguyên Sa Trần Bích Lan; Bách Khoa của Huỳnh Văn
Lang, (và, sau đó, Lê Ngộ Châu, với nhiều cây bút được độc giả theo dõi kỹ như Võ Phiến, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Nguyễn Ngu Í, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Đoàn
Thêm, Bình Nguyên Lộc, v.v.); Đại Học của linh mục Cao Văn Luận (với những bài viết đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, mang theo một luồng gió mới lạ vào tiểu luận,
nhận định văn học với hướng phân tích hiện tượng luận theo thể điệu Sartre-Nguyễn Văn Trung); Nghệ Thuật của Mai Thảo, với thư ký toà soạn là Viên Linh; Thế Kỷ 20
với Nguyễn Khắc Hoạch; Quê Hương của Nguyễn Đăng Thục; Vấn Đề của Vũ Khắc Khoan; Văn Học của Phan Kim Thịnh; Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và Dương
Nghiễm Mậu; Văn của nhóm Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao (và, sau đó, của Mai Thảo); ba tờ tạp chí Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày của nhóm Nguyễn Văn
Trung, Thế Nguyên, Lý Chánh Trung; Giữ Thơm Quê Mẹ của Nhất Hạnh. Rồi Nghiên Cứu Văn Học (Thanh Lãng), Tư Tưởng và Vạn Hạnh (nhóm Phật giáo thuộc viện
Đại học Vạn Hạnh, nổi bật với Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Nguyễn Hữu Hiệu), Đối Diện (và, sau đó, là Đồng Dao, ĐD, Đứng Dậy, của nhóm
Công Giáo, với các linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan); Ý Thức (Lữ Kiều, Nguyên Minh), Khởi Hành, và sau đó là Thời Tập (Viên Linh), Thái Độ (Thế Uyên), Đời
(Chu Tử) ...
Tất cả các tạp chí/nguyệt san này, với những tác giả thuộc đủ mọi nhóm, đoàn, gốc gác địa lý, khuynh hướng xã hội, tôn giáo, hoặc trào lưu văn học, đã thể hiện tiếng nói,
tư tưởng học thuật, quan điểm xã hội, lập trường chính trị của mình một cách rõ nét; từ đó, ảnh hưởng đến lối nhận thức, suy nghĩ, nhìn ngắm vấn đề của tầng lớp trí thức,
nói riêng, và của người đọc miền Nam, nói chung. Qua những tạp chí văn học, đặc biệt là tờ Văn, người đọc miền Nam đã được giới thiệu để làm quen với những tư tưởng,
trào lưu văn học mới nhất trên thế giới. Họ cập nhật được những kiến thức, hiểu biết về văn học, văn chương của thế giới. Và, cũng từ đó, những sáng tác phẩm của nhà văn
miền Nam trong giai đoạn này đã bứt thoát khỏi cái ảnh hưởng của trào lưu lãng mạn tiền chiến để bước chân vào những vùng khai phá mới: tiểu thuyết mang mầu sắc hiện
sinh, ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa siêu thực, dấu ấn của phân tâm học, những sáng tạo theo khuynh hướng tiểu thuyết mới, v.v...
Việc thành công hay thất bại, cũng như nếu thành công thì ở mức độ nào, của những sáng tạo đó không phải là chủ đích của phần viết này. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận là
đã có những chuyển động, trên phương diện văn học, về phía những cái mới, qua sự ảnh hưởng của các tờ tạp chí đó. Thái độ của người dân trước những vấn đề của xã hội,
của con người cũng được đào sâu, mở rộng hơn, trên một số khía cạnh. Người ta không sống thờ ơ, cạn cợt như trước được nữa. Trong một khung cảnh xã hội như thế,
trước những vấn đề cấp bách, thiết thân với cuộc sống con người được mang ra mổ xẻ, đào xới đến tận gốc rễ như thế, con người, nếu không nhập cuộc, theo một cung cách
nào đó, thì cũng đã cảm thấy mình gắn bó hơn với những vấn đề bức thiết của xã hội, với lương tâm của con người, của chính mình, và với hướng đi của đất nước.
III. Tóm Kết
Đặt trong sự phát triển chung của văn học Việt Nam, cũng như của văn học hiện đại thế giới, hai mươi năm văn học miền Nam đã có những đóng góp hết sức đáng kể. Nó
cũng phản ánh văn học thế giới trong cuộc sống hiện đại. Dòng văn học ấy không bị cắt rời khỏi những tư tưởng, trào lưu chung của con người, đặc biệt con người hiện đại,
với những dằn vặt, suy tư, trăn trở, khủng hoảng, tìm kiếm, và với những hạnh phúc, đớn đau, chán chường, tuyệt vọng, hay những nhận thức, ý thức về bản thể, về hư vô,
về vai trò của con người như một khả thể, như một giá trị (một giá trị tự tại trong cuộc sống giữa đời, hay một giá trị siêu hình khi đối mặt với hư vô hay với ý nghĩa đời
người). Con người trong các tác phẩm văn học miền Nam không mang tính chất mặc định, đông cứng. Mà nó được trình hiện ở đủ mọi góc độ, gam mầu, và trạng thái nhân
gian.
Văn học miền Nam, qua đó, cũng gắn bó với các khám phá về những chiều kích tâm lý, những chiều sâu vô thức của con người. Văn học miền Nam, cùng với văn học thế
giới, trong 20 năm đó, qua những hình thức mới, đã góp phần tìm hiểu và phản ánh con người như một thân phận và một giá trị: văn học đã đặt con người trước nhiên giới
và nhân giới như những chứng nhân nhìn cuộc hiện sinh bi tráng, hân hoan hạnh phúc cũng như khổ đau hệ luỵ của nó. Nó cũng đặt con người cầm bút Việt Nam nói
chung, các nhà văn nhà thơ Việt Nam nói riêng, trước lương tâm nhân loại. Nói như William Faulkner trong phần cuối của bài diễn văn nhận giải Nobel:
"Tôi tin tưởng là con người không chỉ chịu đựng để sống còn: nó còn thắng cả định mệnh của nó. Con người bất tử không phải ở chỗ nó là loài vật duy nhất trong các tạo
vật cất lên tiếng nói không mệt mỏi về thân phận của chính mình, nhưng ở chỗ nó có một thần khí, một tâm hồn có khả năng trắc ẩn và hi sinh và chịu đựng. Nhiệm vụ của
nhà thơ hay nhà văn là phải viết về những điều ấy. Trọng trách của nhà văn nhà thơ là phải giúp con người chịu đựng để sống còn bằng cách nâng cao tâm hồn con người,
bằng cách nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hi sinh đã là vinh quang huy hoàng của quá khứ nó. Tiếng nói của
nhà thơ không nhất thiết chỉ là để ghi lại dấu chứng của con người, nó còn có thể là một trong những thứ nâng đỡ, những trụ cột giúp cho con người kiên trụ và chiến
thắng." (9)
Trong hai mươi năm văn học miền Nam, các người cầm bút miền Nam nói chung, và đặc biệt trong quy chiếu giới hạn vào các nhà văn, nhà thơ Việt miền Nam, nói riêng,
đã hoàn tất khá tốt đẹp điều đòi hỏi mà Faulkner, như một nhà văn tài năng của thế kỷ XX, và như một biểu tượng cao đẹp của lương tâm nhân loại, lương tâm con người,
đã cất tiếng nhắc nhở: Nhà văn, ngoài nhiệm vụ giúp con người chịu đựng để sống còn, ngoài trách nhiệm nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và bác ái và hi
sinh đã từng là những điểm sáng soi chiếu vóc dáng nó, các người cầm bút VN, trong hai mươi năm văn học miền Nam, đã làm được công việc cần thiết và cao đẹp ấy:
nhắc nhở con người về tính nhân bản mà nhiều khi nó đã bỏ mất, về sức sống và sự chịu đựng mãnh liệt để tồn tại và vươn tới của con người nói chung, con người Việt
Nam nói riêng.
Văn học miền Bắc, trong bối cảnh và chủ trương riêng của mình, trong hai mươi năm của cuộc chiến, đã có những nét vẽ riêng, những bảng mầu, những cung bậc, tiếng nói
riêng, để, phần nào, định dạng và định tính xã hội và con người miền Bắc. Qua đó, cũng cho thấy một khuôn mặt cần được nhìn ngắm của cuộc chiến, của lịch sử Việt Nam.
Văn học miền Nam, cũng trong giai đoạn khó khăn ấy, không hề rời xa truyền thống, bám rễ chắc chắn vào những giá trị bền vững và tốt đẹp của truyền thống, trong hai
mươi năm sống và thể hiện sức sống của mình, nó đã tiếp tục phát triển và liên thông, nắm tay với thế giới, với con người trên khắp cõi đất, để bước chân vào thời hiện đại,
với tất cả những nét khai phóng và đa sắc, đa dạng của nó, với tất cả những cung bậc, những gam mầu tuyệt vọng và thăng hoa của nó.
Văn học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã phản ánh được con người, cái nhân văn của con người, cái tâm tình của con người.
Văn học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã cho thấy rõ nét: Văn Học là Nhân Học. Nó đi vào cái cốt lõi, vào trái tim của Con Người. Con Người viết hoa nói chung, và
con người Việt Nam nói riêng.
Bỏ mất đi phần đóng góp đầy mầu sắc cũng như những phản ảnh cao đẹp và cần thiết đó, văn học Việt Nam, trong giai đoạn phát triển tươi tốt ấy của rừng cây văn học
nhân loại, còn lại gì?
Chúng ta, như những Con Người Việt Nam nói chung, còn lại gì?
Bùi Vĩnh Phúc
California, 7-XII-2014
______________________________________
Chú Thích:
(*) Khai triển từ bài thuyết trình cùng tên của tác giả tại hội thảo về Văn Học Miền Nam 1954-1975 tại Westminster, Nam Califormia, ngày 6 & 7 tháng 12, 2014.
(1) Nguyên văn bài thơ "Chuyện Tình" của Đỗ Quý Toàn:
Ôi anh yêu em vì em biết nói
Em đã biết thưa em còn biết gọi
Buổi sáng trời mưa khiến anh nhớ em
Bây giờ trời nắng anh nhớ em hơn
Ngồi xuống đây đi nghe chim đang hót
Đồng cỏ bàn tay trời cao mắt ướt
Khi ngó nhau thôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi đó như hai hòn bi
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay
Này em yêu quý em có biết nghe
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu “bò” “bò” và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao, yêu em, hỡi gió
Và trên đỉnh đồi có cây to tướng
Ở một cành ngang có một tổ kiến
Có con đi ra có con đi vào
Trời hôm nay nắng, yêu em xiết bao
Này em yêu dấu em nào có hay
Hồi nãy trên trời có con chim bay
Có con chim nó bay qua trên trời
Trời xanh đến thế đôi mình lứa đôi
(2) Một dị bản khác, dài hơn, có những câu hay hơn, nhưng, trong cái nhìn của tôi, bố cục nói chung lại không chặt như dị bản đã ghi trên kia. Tôi ngờ rằng dị bản dài hơi
dưới đây đã được nhà thơ sửa chữa và bổ túc thêm vào dị bản ngắn, đã được viết trước đó:
Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai gió lật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy kiêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
Gót ngờ rớt chín phân vân
Để sau một hóa mười lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em
Hồn anh em thắp lên xem
Ác như một chiếc lồng đèn kéo quân
Tình anh sương giá đầy sân
Cần em mái phủ cho thân ấm nhờ
Chuyện mình mới nửa trang thơ
Phải hai cùng viết trang thơ vẹn tình
Chờ em anh để râu xanh.
(3) Cũng nên nhắc lại là bất cứ diễn dịch nào, đặc biệt trong lĩnh vực văn chương, ở những mức độ khác nhau, đều có phần "vũ đoán". Thậm chí, đều cần phải "vũ đoán".
Dĩ nhiên, trên một cơ sở lập luận nào đó. Tất cả mọi diễn dịch văn học đều mang tính chủ quan, và đó là một sự chủ quan mang tính bản thể luận. Xin xem Bùi Vĩnh Phúc,
"Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương" (18/8/2009) tạihttp://damau.org/archives/8179 .
(4) Xem Hoàng Hưng: "Thảo luận về Dịch Thuật: Từ các bản dịch Le Pont Mirabeau, nghĩ về dịch thơ" (27/6/2014) tại http://vanviet.info/thao-luan/thao-luan-ve-dich-
thuat-tu-cac-ban-dich-le-pont-mirabeau-nghi-ve-dich-tho/
(5) Liên văn bản nối kết nhiều loại văn bản khác nhau, từ nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, để làm thành một “tấm vải” đan kết chằng chịt bởi những trích
dẫn khác biệt. Những “tấm vải” này sẽ có hình dáng khác nhau trong sự nhìn ngắm cụ thể của mỗi một người đọc. Với kinh nghiệm, cá tính, cùng tất cả những yếu tố khác
tạo nên con người đặc thù của mình, người đọc sẽ nhìn ra trong tác phẩm mình đang đọc dần dần hiện lên hình dáng “tấm vải văn bản” của tác phẩm mà người ấy đang tiếp
cận. Từ đó, dẫn đến ý nghĩa của tác phẩm đối với riêng người ấy. Khái niệm “liên văn bản”, như thế, gắn bó chặt chẽ với vai trò và cá tính của người đọc. Từ đó, nó lại liên
hệ đến phương pháp phê bình dựa trên sự hồi ứng của người đọc (Reader-Response Criticism). Và, nói rộng hơn, nó liên hệ đến mỹ học tiếp nhận (Reception Theory) phát
xuất từ trường phái Konstanz của Đức.
(6) Về Thanh Tâm Tuyền, đã có nhiều nghiên cứu đào sâu vào những gốc rễ tinh thần cũng như những góc cạnh hình thức của thơ ông, nên tôi xin phép miễn bàn thêm ở
đây. { Năm 1986, tôi cũng đã viết một bài về thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, xin xem "Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy", đăng làm hai kỳ,
tạihttp://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5335. Năm 2006, khi nhà thơ qua đời, tôi cũng đã có bài về thơ Thanh Tâm Tuyền ở giai đoạn sau; xin xem "Biệt khúc
cho Thanh Tâm Tuyền (Đọc lại Thơ Ở Đâu Xa)", Talawas 21/4/2006, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6997&rb=0101, và tại Văn (California, Hoa Kỳ) số
tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền, số đôi 113 & 114, tháng 5 & 6, 2006.} Trong phần trình bày này, chỉ nên nói thêm rằng cái tài thơ ấy đã may mắn được nuôi dưỡng và phát
triển trong một vùng đất tốt. Nó không bị còi cọc vì đã không bị kìm hãm, đè nén hay bứng gốc. Và nó đã cho ra những hoa trái tốt đẹp, như ta đã thấy.
Về thơ Tô Thuỳ Yên, trong khoảng trên dưới 15 năm trở lại đây, cũng có một số bài viết về thơ ông. Nhiều năm trước, trong giai đoạn 1992-1994, tôi cũng đã có một bài
viết khá kỹ, sau đăng làm nhiều kỳ (xin xem "Tô Thuỳ Yên: Thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người") tại http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?
res=5411&rb=0102), nên cũng xin không nói thêm ở đây.
Viên Linh và Du Tử Lê cũng là những tài thơ đặc biệt của miền Nam. Về thơ Viên Linh trước 1975, bài tôi nhớ và có nhiều sự thích thú là bài "Đêm Trường", với phong
cách nửa lãng mạn, tiền chiến Hà Nội, nửa hiện đại, sáng tạo Sàigòn. Với cách dùng chữ tài hoa và hình ảnh độc đáo, tác giả đã tạo được một khí hậu đặc biệt cho bài thơ
của mình:
Nhớ em rồi Cúc Hoa xưa
Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm
Nhớ em vèo cái thu âm
Hồn theo bóng ngoại
phân thân chín từng.
Nhớ em ly rượu còn lưng
So đôi đũa mộc cười bừng cơn say
Phải anh rồi phải anh đây
Bữa cơm hai bóng
một ngày phần dương.
Nhớ anh chưa Cúc mắt vàng
Cúc xanh mi Cúc biếc hường trái tim
Cúc đen đâu đó Cúc mềm
Vùi anh trong bụng
Cúc hiền như dao.
Năm năm đời trú mái sầu
Thời gian phai nhạt những mầu yêu đương
Nhớ em lần lữa chiếu giường
Đêm nay lại một đêm trường như xưa.
Còn thơ Du Tử Lê trước 1975, có lẽ một trong những bài tôi thích nhất là bài "Khi Người Về":
Người về đâu không người không về đâu
Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu
Tôi cây me đứng run từng lá
Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo
Tình người say không tình người không say
Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy
Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo
Tay áo người bay hương ngất ngây (...)
Những câu thơ với những hình ảnh ẩn dụ, đẹp, mềm, và đầy thiên nhiên. Nhưng cái nhịp điệu của những câu thơ thì lại tạo ấn tượng quẩn quanh, buồn bã. Và như có chút
gì ẩm mục. Ẩm mục, có lẽ, ngay cả cái mùi "hương ngất ngây" kia. Cái mùi hương ẩm mục của tình yêu mà những kẻ yêu nhau không ai lại muốn rời bỏ.
Đặc biệt hai tài thơ này, khi ra ngoài nước, lại ngày càng khởi sắc. Tôi nhớ Viên Linh với tập thơ "Thuỷ Mộ Quan", và, đặc biệt, một đoạn trong bài "Ẩn Mật":
Ba sinh hương lửa có gần
Gửi em đầy đủ
Thân
Tâm
Ý
Lời.
Gửi em tiếng khóc câu cười
Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v...
Hãy để ý đến từ "v.v..." viết tắt kia. Nó chui được vào thơ mới lạ. Và thần tình nữa.
Còn Du Tử Lê thì luôn có những nỗ lực làm mới ngôn ngữ. Ông cũng thường tạo ra những phân cảnh trong thơ. Như trong kỹ thuật của cinéma. Những phân cảnh lóng
lánh và đầy thần sắc. Chẳng hạn:
mưa ủ bệnh: những con đường cớm nắng / tiếng hát còn ủ bệnh những chia, ly / tôi ủ bệnh: những ngày em nhập viện / cây góc vườn ôm ngực ốm o, ho.
lá ủ bệnh: những mùa hò hẹn, lỡ / môi-khuyết-trăng ủ bệnh nhớ thơ, nàng / chim ủ bệnh: giữa đường bay thất lạc. / tôi ủ tình: người trả lại. trăm năm.
áo ủ bệnh: dệt, thêu hương tóc bạn. / vá nụ cười lên vết rách chênh, chao / tôi ủ bệnh: những ngón tay nhiễm tội / trên thân người. ký ức nhịu chân đi.
ghế ủ bệnh: chỗ ngồi ai sớm bỏ / tội ngọn đèn tự chít lấy khăn tang / tôi tự quấn quanh đầu mưa, nắng, mới / biết người còn ủ giữ nụ hôn, đêm?
đời nhớ nhé: nhân gian kia hớn hở!?! / riêng tôi về ủ bệnh giữa hư vô.
(Ủ bệnh giữa hư vô, Du Tử Lê )
(7) Phần viết ngắn này về Mai Thảo cùng đoạn trích văn ở đây được lấy lại từ bài viết về Mai Thảo, của tôi. Xin xem "Văn chương Mai Thảo: biên địa của cảm xúc và cái
đẹp, giao thoa với ý thức về đời sống", trong Bùi Vĩnh Phúc, Lý Luận và Phê Bình/ Hai Mươi Năm Văn Học Việt Ngoài Nước (1975-1995). Westminster, California: Văn
Nghệ, 1996.
(8) Theo Jean Milly, La phrase de Proust: Des phrases de Bergotte aux phrases de Vinteuil, Paris: Larousse, 1975.
(9) Nguyên văn của Faulkner: " (...) I believe that man will not merely endure: he will prevail. He is immortal, not because he alone among creatures has an inexhaustible
voice, but because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance. The poet's, the writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the glory of his
past. The poet’s voice need not merely be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help him endure and prevail." (Trích từ Diễn văn nhận giải Nobel, 10
tháng 12, 1950)
http://www.diendantheky.net/2014/12/bui-vinh-phuc-hai-muoi-nam-van-hoc-mien.html
http://damau.org/archives/34812
DU TỬ LÊ - Vài khía-cạnh đặc-thù của 20 năm Văn-học miền Nam
(12/12/2014 05:58 AM)
Tác giả : Du Tử Lê
(Bài nói chuyện trong cuộc Hội-thảo chủ đề “20 Năm văn học miền Nam, tổ chức tại phòng SH nhật báo Người Việt, Thứ Bảy, ngày 6 tháng 12-2014)
Không cần phải nhấn mạnh, chúng ta đều biết dòng VH miền Nam 20 năm, là một dòng văn học cực kỳ phong phú, nhiều mầu sắc. Dù tuổi thọ của dòng VH đó, chỉ kéo
dài vỏn vẹn có 20 năm.
- Đứng về phương diện nhân sự tức những cá nhân làm thành dòng VH này, tôi trộm nghĩ, có thể tạm chia thành 3 thành phần chính :
- Thành phần thứ nhất : Những nhà văn, nhà thơ gốc miền Bắc
- Thành phần thứ hai : Những nhà văn nhà thơ gốc miền Trung. (Và)
- Thành phần thứ ba : Những nhà văn, nhà thơ Nam Bộ.
- Vì miền Nam phải đương đầu với cuộc chiến được khởi xướng bởi nhà cầm quyền CS Hà Nội, nên miền Nam sớm có chế độ quân dịch hay động viên.
Do đó, trừ một thiểu số thanh niên được hoãn dịch vì lý do gia cảnh hay nghề nghiệp thì, trong hạn tuổi quân dịch, ai cũng phải nhập ngũ. Và nhà văn, nhà thơ không ngoại
lệ.
Tuy cùng ở trong quân đội, nhưng về phương diện sinh hoạt văn chương, chúng ta lại có hai thành phần :
a- Thành phần thứ nhất, là những người cầm bút tiếp tục theo đuổi con đường văn chương mà họ đã, hay muốn chọn.
Ở thành phần này, tôi có thể nêu thí dụ như các nhà thơ, nhà văn Tạ Tỵ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Mai Trung Tĩnh, Lê Tất Điều, Tô Thùy
Yên, v.v.…
b- Thành phần thứ hai, là những người cầm bút chọn viết về đời sống quân ngũ.
Ở thành phần này, tôi nhớ tới các nhà văn quân-đội như Văn Quang, Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam (nổi tiếng với bút ký chiến-trường). Tôi cũng nhớ tới nhà thơ Tường
Linh, nổi tiếng với những bài thơ viết về người lính v.v…
Nhưng, dù thuộc thành phần nào thì không một ai, tôi lập lại, không một ai bị bắt buộc hoặc, nhận được chỉ thị phải viết theo nhu cầu này, đòi hỏi kia từ thượng cấp hoặc,
cao hơn là từ bộ Tổng Tham Mưu QL / VNCH.
1- Tính chất TỰ-DO đó, theo tôi là khía-cạnh đặc-thù thứ nhất, của dòng VH miền Nam 20 năm.
2- Khía-cạnh đặc-thù thứ 2, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là TÍNH NHÂN-BẢN.
Dù cho các nhà văn nhà thơ miền Nam, trong khoảng thời gian vừa kể, có đề cập gần xa hay, trực tiếp tới cuộc chiến tranh tàn khốc do chế độ CS Miền Bắc chủ xướng thì,
cũng không một độc giả nào tìm thấy trong tác phẩm văn chương của họ tính chất hận thù, sắt máu, như trong các sáng tác văn chương của miền Bắc.
- Khía cạnh này, nổi bật tới độ, giáo-sư Neil L. Jamieson, hiện đang giảng dạy tại đại-học George Mason, Virginia, đã phải công nhận và, ngợi ca qua cuốn phê bình văn
học nhan đề “Understanding Vietnam” của ông. Cuốn này được xuất bản bởi liên đại-học Berkeley, Los Angeles và London ấn hành, bìa mỏng đầu tiên in năm 1995.
- Cũng vậy, trong cuốn “La Rage d’être Vietnamien” của ký giả nổi tiếng thiên tả Jean Claude Pomonti, do nhà Seuil de Paris, Paris, XB năm 1975, cũng đã xiển dương
khía cạnh đó với dẫn chứng thơ của miền Nam.
3- Khía-cạnh đặc-thù thứ 3, của 20 năm VH miền Nam là NHỮNG CÁI “TÔI” TRẦN-TRỤI. Hay, những cái “Tôi” khác hẳn với cái “Tôi” có trong văn chương tiền chiến.
- Cụ thể hơn, theo ghi nhận của tôi thì, trong văn chương tiền chiến, cái “Tôi” xấu xa, dị hợm, khuyết tật hoặc, không mấy đẹp đẽ nếu có hiện ra trong văn bản thì, chúng
cũng được thác vào các nhân vật A,B,C, D nào đó. Và, rất hiếm thấy trong thi ca.
- Nhưng, với 20 năm VH miền Nam thì ngược lại. Người đọc thấy được rất nhiều cái “Tôi”, dị hợm, xấu xí, hèn nhát, bậm trợn… được phơi bày một cách trực tiếp từ các
tác giả, chứ không thể hiện qua một hình nhân thế mạng nào hết.
Thậm chí, đời sống tình cảm riêng tư của tác giả, cũng được phơi bày trong thi ca. Điển hình như nhà thơ Nhã Ca, trong bài “Tiếng chuông Thiên Mụ”.
Bài thơ phản ảnh một sự việc phải nói là can đảm, táo bạo hiếm thấy.
Đó là khi bà ghi lại việc bà trốn nhà đi theo tiếng gọi tình yêu – (tình yêu của nhà thơ Trần Dạ Từ) năm bà 19 tuổi.
Bài thơ khá dài, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn ngắn, như sau :
“Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến chỉ một mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố…”
4- Khía-cạnh đặc-thù thứ 4, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là sự tự phát nhà XB, do các nhà văn, nhà thơ chủ trương.
Tôi không nói chế độ miền Nam có một nền tự-do rộng rãi, lý tưởng. Nhưng chí ít về phương diện XB thì miền Nam, 20 năm được ghi nhận là dễ-dàng, thoải-mái không
thua gì những quốc gia tự-do dân-chủ khác trên thế giới.
Hồi đó, không kể những nhà xuất-bản lớn, chuyên-nghiệp thì, để XB một tác-phẩm văn-chương, các tác-giả chỉ phải nộp bản-thảo cho phòng Kiểm-Duyệt tại Bộ Thông-
Tin, với một tờ khai rất sơ sài là tên họ, địa chỉ người xin XB. Khoảng 2 hoặc 3 tuần, tác giả trở lại, sẽ nhận lại bản thảo và, giấy phép XB.
Điều đáng nói nữa là dù bạn XB bao nhiêu đầu sách trong năm thì, cũng không ai bị sở thuế tìm kiếm, gây khó dễ.
Về những nhà văn, nhà thơ điều hành những nhà xuất bản kiểu “tự phát” như vậy, có thể kể tới nhà Thời Mới của Võ Phiến, Kẻ Sĩ của Tô Thùy Yên, Thương Yêu của Nhã
Ca-Trần Dạ Từ, Hoàng Đông Phương của Nguyễn Thị Hoàng, Đại Ngã của Nguyên Vũ, Kinh Thi của Hoàng Như An (một trong những bút hiệu của giáo-sư Như Hạnh /
Nguyễn Tự Cường sau này) v.v…
5- Khía-cạnh đặc-thù thứ 5 của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là :
- Song song với dòng chảy văn chương bởi những cây bút miền Bắc và miền Trung thì, VH miền Nam 20 năm, còn có dòng chảy của văn chương “Nam Bộ” với những tác
giả miền Nam - - Viết bằng ngôn ngữ đặc thù miền Nam.
- Tiêu biểu như nhà văn Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Phổ cập hơn, có thể kể tới những tác giả khác, như Bà Tùng Long, Ngọc Linh, Sĩ Trung, Trọng Nguyên, Dương Hà,
Dương Trữ La, Hoài Điệp Tử, v.v…
6- Khía-cạnh đặc-thù thứ 6, trong ghi nhận của tôi là sự xuất hiện rực rỡ, tươi tốt của hàng ngũ những nhà văn nữ.
Tất nhiên, ở giai đoạn văn chương Tiền Chiến, cũng có sự góp mặt của một số tác giả nữ. Nhưng họ không chiếm lĩnh những vị trí trung tâm, chói lọi của ánh sáng tiền
trường.
Có thể kể các tác giả như Tương Phố, Anh Thơ, Vân Đài, Thụy An, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, v.v…
Trong khi các nhà văn nữ của 20 năm VH miền Nam thì ngược lại. Họ hiện diện như những điểm đứng nổi bật.
Có thể kể Trùng Dương, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH, v.v…
Ở lãnh vực này, có một đặc điểm mà tôi chú ý đó là :
- Trong khi đa số các nhà văn nữ thời đó, tuồng có xu-hướng chung là : đem tính-dục vào tác phẩm, thì Nhã Ca lại là người duy nhất, nói “không” với tính-dục trong các tác
phẩm của mình.
Những tưởng điều đó sẽ khiến số lượng độc giả đọc bà bị sút giảm. Nhưng thực tế không hề - - Nếu không muốn nói là ngược lại.
7- Khía-cạnh đặc-thù thứ 7, theo tôi là sự THAY-ĐỔI CÁCH VIẾT.
Người có công lớn trong nỗ lực thay đổi cách viết là nhà văn Mai Thảo. Khi ông biến những động-từ, tính-từ thành những danh-từ, làm chủ-từ cho một mệnh-đề.
- Thí dụ…khi ông viết “Ném một cái nhìn về thành-phố…” Thì, “Ném” là động-từ, nhưng được ông dùng như một danh-từ, làm chủ-từ cho câu văn của mình.
- Cũng với Mai Thảo, một câu văn có thể dài lướt-thướt hoặc chỉ có một, hai chữ. Hình-thức này, trước đó, người ta chỉ thấy trong thi-ca mà, không có trong văn xuôi.
- Sự đổi mới cách viết của Mai Thảo, sau đấy, được nhiều người hưởng ứng.
8- Khía-cạnh đặc-thù thứ 8, của 20 năm VH miền Nam, theo tôi là sự tiếp nhận, KHAI-TRIỂN MỌI TRÀO-LƯU VĂN-CHƯƠNG THẾ-GIỚI.
Nói rõ hơn, bên cạnh các tác giả tiếp tục con đường văn chương tiền chiến, dựa trên các yếu tính như cốt truyện, khai thác tâm lý nhân vật, nghiêng về mặt tối tăm của xã
hội thì, đa số còn lại, lại hăm hở tìm kiếm, thử nghiệm những trào lưu văn chương mới : Từ thơ Tự-Do tới những xu hướng văn chương khác, như Hiện-Sinh, Triết-Học,
Phân-Tâm-Học, Tiểu-thuyết Mới (Nouveau Roman) v.v…
9- Khía-cạnh đặc-thù thứ 9 và, cuối cùng theo tôi, là khía cạnh ĐẢ-KÍCH TÔN-GIÁO. Đây là một lãnh vực cực kỳ nhậy cảm. Thời tiền chiến, các nhà văn, nhà thơ của
chúng ta, rất ít chạm tới. Nhưng với 20 năm VH miền Nam thì vòng phấn cấm kỵ này cũng đã bị vượt qua.
Người mạnh mẽ, quyết liệt xóa đi cái “taboo” đó, là nhà văn Thế Nguyên với tác phẩm “Hồi Chuông Tắt Lửa” - - Và, những truyện dịch do nhà Trình Bày của ông ấn hành,
như cuốn “Chúa đã khước-từ” của nhà văn Đại-Hàn Richard Kim v.v… Tuy tác-giả Richard Kim không phải là nhà văn VN, nhưng sách của ông sau khi được chuyển dịch
sang Việt ngữ, thì nó đã chảy chung trong dòng văn chương miền Nam.
Để kết thúc bài nói chuyện của tôi hôm nay, ở đây, tôi xin nhấn mạnh :
- Có thể 20 năm VH miền Nam còn nhiều điểm đặc-thù khác nữa, nhưng tự biết khả năng giới hạn của mình, nên bài nói chuyện của tôi, có tựa đề là “Vài khía-cạnh đặc-
thù của 20 năm VH miền Nam”, mà thôi.
Dám mong quý vị và, các bạn lượng thứ cho mọi sơ sót không thể tránh khỏi của tôi.
Trân trọng cám ơn quý vị và, các bạn.
Du Tử Lê.
http://www.dutule.com/D_1-2_2-105_4-6598/du-tu-le-vai-khia-canh-dac-thu-cua-20-nam-van-hoc-mien-nam.html
Văn-Học miền Nam điều sót lại
26 Tháng Chín 20143:07 SA
LƯU NA
Một phút một đời - Sống mới xuất bản 1972
Tôi đến Mỹ đầu tuổi đôi mươi. Tôi đã lao vào một cuộc phiêu lưu, đã hứng lấy những kinh hoàng không ai tưởng tượng được, để bắt đầu một cuộc đời mới với cái vạ tuyệt
thông trùm phủ lên tất cả mọi người dân Việt lưu lạc: tuyệt lối về, đoạn dứt tình thân. Dưới chân không còn đất, chung quanh không còn người, chỉ còn mảnh trăng cũ thì
cũng chỉ là trăng của nhà ai. Trong nỗi bơ vơ thất lạc, còn cứu cánh nào hơn là tìm lại chính mình. Mà biết đâu tìm, quanh tôi chỉ là nỗi trống. Chỉ còn một sợi chỉ mỏng
manh _ đó là tiếng Mẹ, những con chữ. Tôi lao vào đống chữ còn sót, và thấy…
Thấy tôi
Tôi thấy tôi những ngày thơ dại, 10 tuổi, lớp nhất. Cô giáo Tân áo dài đen tóc búi da trắng ngà ánh mắt buồn bã tâm sự cùng lũ trẻ ngây ngô: cha cô không thích cô học
Luật, nói rằng đó là nghề bất nhân. Tôi thấy tôi tìm mua Tâm Hồn Cao Thượng vì thầy dạy luyện thi đệ thất nói nên đọc.
Tôi thấy tôi vào trường nữ trung học, những năm đệ nhất cấp học Kim văn với Lê văn Trương, Tự Lực Văn đoàn, Nửa chùng Xuân…, học cổ văn với những bài thơ của
Cao bá Quát Tú Xương Nguyễn công Trứ Lê thánh Tông, giảng và bình:
Nghi ngút đầu gềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dù nhẵn đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả đã đôi vừng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn đến đàn tràng
Qua đây mới rõ nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phụ phàng
(Đề Miếu chàng Trương, Lê Thánh Tông)
http://hovuvo.com/Forum.aspx?View=ViewNews&NewsID=41
Ở tuổi 13 tôi vẫn còn cột 2 tà áo dài vào một bên hông để chơi u trong sân chùa Xá Lợi, mấy bài thơ vớ vẩn ấy chỉ gieo được vào lòng một âm hưởng ngậm ngùi. Nhưng
ngoài học đường, sách truyện vui và hay hơn nhiều. Tha hồ đọc Tuổi Hoa Xanh tình cảm nhẹ nhàng hay Tuổi Hoa Đỏ trinh thám giật gân, hay xé rào mà đọc Quỳnh Dao,
đọc truyện chưởng. Anh tôi mê truyện du đãng Duyên Anh, chị tôi tỉ tê em ơi lửa tắt bình khô rượu, má tôi khoái Bên giòng sông Trẹm đăng hằng ngày trên nhật báo, ba tôi
bĩu môi _ xem tin tức nghị luận chứ xem chi những thứ rặt màu son phấn.
Mười lăm mười sáu tôi đã có thể tha hồ đọc những quyển sách người lớn, nhờ cô hàng xóm học Văn Khoa. Tôi mượn cô đưa liền, chắc hẳn thâm tâm cô nghĩ tôi trả lại
ngay vì có đọc được đâu. Những cuốn truyện dịch Yêu Chỉ Một Người, Những Bông Hồng Đầu Hạ, Một Phút Một Đời… Bạn tôi thì đằm thắm hơn, đọc sách học làm
người do Nguyễn Hiến Lê giới thiệu, và các anh của nó thì lúc nào cũng suy tư nghiêm trọng mà lẩm bẩm những cái tên lạ hoắc hết hồn…
Bên cạnh khói mù xe lam xe gắn máy, trưa trưa các bác xích lô ăn cơm tấm hành mỡ xong thì đọc báo và úp tờ báo lên mặt đánh một giấc. Các chị giúp việc đến tối rảnh
rang thì ra tiệm tạp hóa của ông Z27 đường Phan Đình Phùng mua bản nhạc về hát, mua tập vọng cổ về ca. Cả xã hội miền Nam lăn ra nuốt chữ, nghĩa là đâu đó có cả
huyện các tác giả lăn ra viết, và những nhà xuất bản tiệm sách sạp báo tiệm cho thuê truyện lăn ra mà sống bằng chữ. Sách giáo khoa ở trường, sách đọc ở bên ngoài, nhìn
lại, tôi đã lớn lên trong văn học miền Nam dẫu tôi không nhìn thấy không ý thức được điều ấy. Vả chăng, muốn “thấy” một nền văn học thì phải đứng bên ngoài nó chứ
không thể nào đứng ở trong ở giữa nó mà mong thấy đúng thấy đủ một nền văn học. Bây giờ, dù muốn hay không, tôi cũng đã ra khỏi nền văn học đó.
Thời cuộc buộc Văn Học Miền Nam phải chấm dứt năm 1975, tôi cho đó là phải lẽ vì không thể nào có một biến động xã hội lịch sử lớn lao ảnh hưởng đến cuộc sống con
người xảy ra mà văn học không chuyển mình thay đổi, chấm dứt một thời kỳ để bước qua một thời kỳ khác. Vấn đề chỉ là nó đã chấm dứt ra sao, ở đây có thể nói ngay là
hết, không chuyển hướng không đẩy lùi cái cũ tiếp thu cái mới không thêm vào một khuynh hướng một đường lối gì cả, chấm hết, hết; và nó đã được bảo tồn thế nào cho
thế hệ chuyển tiếp. Tôi nói bảo tồn, vì văn học cùng với giáo dục cùng với tập quán sinh sống cùng với tục lệ xã hội là những thành tố của văn hóa dân tộc, văn hóa một
miền đất một nhóm con người, không bảo tồn để cho nó mất đi thì kể như lịch sử bị đục thủng bị đứt đoạn, quá khứ bị xóa nhòa, ai biết ai là ai, chúng ta liên hệ với nhau ra
sao, làm sao để tôi thấy được người?
Thấy Người
Thấy người, chẳng phải tôi không thấy người. Còn người còn chữ viết, chả phải không thể thấy. Chỉ là, tôi phải thấy nền văn học cũ qua hoài niệm của những người đi
trước, của thế hệ đàn anh hơn tôi một giáp, mươi mười lăm tuổi. Tôi chỉ thấy Mai Thảo, Sáng Tạo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, thầy triết Nguyên Sa, thầy triết
Nguyễn xuân Hoàng… Cả một rừng chữ với người đâu phải chỉ có bấy nhiêu tên? Bậc đàn anh tôi đã đi qua rất nhiều, đã thu nhận biết bao nhiêu, sao chỉ lập lại mãi hoài
mấy tên tuổi đó, và cũng chả ai nói được điều gì mới, có đủ ý nghĩa về một tác giả, ngoài những tiểu sử, những vụn vặt bên lề, những hào quang đã tỏa những vương miện
đã được trao. Tôi khát khao biết tại sao văn Mai Thảo hay, tại sao người ta chỉ biết có Thanh Tâm Tuyền Dương Nghiễm Mậu, tại sao các thầy triết Nguyên Sa, Nguyễn
Xuân Hoàng mới đáng nhắc. Không phải thầy Nguyễn văn Trung mới thực đã góp nhiều công mang khái niệm triết học đến cho sinh viên thời ấy? Tại thầy Hoàng đẹp trai,
tại thầy Lan biết làm thơ? Tại Nguyễn Đình Toàn không thuộc nhóm Sáng Tạo? Đi học ở Paris thì phải nhắc Paris trong nhạc trong thơ và như vậy mới hay mới xịn mới
sang? Hoàng Ngọc Tuấn Thư Về Đường Sơn Cúc đâu có đi Paris bao giờ nhưng thơ truyện hay quá trời đó chứ?
Tôi đi tìm tôi tìm người trong văn học cũ, lòng ngao ngán ê chề, vì tôi thì còn nhỏ, còn ngu, và người thì dường mang nhiều quên lãng, quên quá khứ, quên nhau? Tôi hậm
hực, người ta càng tung hô tôi càng không đọc Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. Cũng còn may tôi biết mê Võ Phiến _ văn Võ Phiến không cần sự tung hô hay giới thiệu,
ngày ngày chờ Văn Học Tổng Quan in ra được cuốn nào thì rước về cuốn đó, mua bao ny lông bọc, mua tem màu hình sao dán vào gáy sách để đánh dấu phân loại… Cái
trò trẻ con ấy tôi làm với tất cả thành kính, vì chứa trong đó là dĩ vãng của tôi, của biết bao người. Nhưng tôi vẫn không thấy người.
Tôi đi qua một nửa đời, tìm đọc không biết là bao sách cũ dù biết là mình không thể nào đọc hết dẫu có thể thu góp lại tất cả kho tàng, những câu hỏi cũ còn hoài, cho đến
khi tuổi đời ghè bớt cái tánh cứng đầu, bớt lòng háo thắng. Tôi phải tìm đọc Mai Thảo Thanh Tâm Tuyền để tự trả lời mình, văn học miền Nam lẽ đâu chỉ gồm những cái
tên vô nghĩa. Quá khứ của tôi, của bao người, lẽ nào chỉ là những dòng mực đen.
Tôi tìm thấy Mai Thảo khi đọc câu thơ “Đời ta sử chép cả nghìn chương,” khi đọc Luân, đọc trang nói lên cảm xúc của người đàn ông, một lòng xót thương, và bị cuốn hút
theo cái lên đồng của Mai Thảo khi Mai Thảo tuôn đổ cảm xúc nghĩ suy xuống trang giấy trắng. Cái nhìn về một quyết định không thể giải thích của một cõi lòng hoang
mang trong một khoảnh khắc thật ngắn mà không thể bỏ qua không thể quên đi, đọc lại vẫn thấy ngợp. Và không thể nhớ gì hơn dù một chữ một lời. Những con chữ, chấm
câu ngắt khúc, nó có nhịp sống riêng không gạn lọc so đo. Chưa chắc người viết có thể sửa được những gì đã được viết xuống mà không phản bội cảm xúc ý nghĩ của mình.
Nếu đọc chữ của Mai Thảo như đọc văn, một mạch với những kết cấu dựng nên thì sẽ bị nhốt trong cái sườn văn hoa đó. Quên hết đi chỉ đọc những suy cảm, không tìm mà
thấy một Mai Thảo với tâm hồn và suy nghĩ thật phong phú sâu sắc, một con người chỉ viết về quá khứ và chỉ nói về cảm xúc của mình. Mai Thảo sống thật trọn vẹn mà
vẫn mang theo mình một nỗi cô đơn; xem thường tất cả mà mọi người chung quanh vẫn cảm được cái quan hoài; thật ngang ngược thật quái mà người chung quanh vẫn bị
cuốn hút vào, hạt cát sông Hằng ấy, từ những năm 50’s, 60’s, đã đòi
…chế lấy mây và gây lấy nắng
Chế lấy, đừng vay mượn đất trời…
Văn học với những tâm hồn ý tưởng đó đáng ra phải được bảo tồn phát huy, có phải ?
Và văn học đó không chỉ có Mai Thảo. Bây giờ tôi cắm đầu đọc Thanh Tâm Tuyền. Tôi hiểu vì sao thanh niên thời đó, những bậc đàn anh của tôi chỉ nhớ TTT. Những lời
TTT viết ra chỉ toàn gầm gừ đòi xóa bỏ mình, xóa bỏ chữ nghĩa, xóa bỏ suy tư, xóa bỏ tình cảm _ những thói quen của cuộc đời, tự làm rỗng mình để sống, sống trọn vẹn
từng phút giây, sống cuộc sống như phải là, sống:
“nếu ưa cái đời sống của mình thì hãy sống với nó thực hơn. Viết là muốn cái khác, trong khi muốn cái khác mà cứ phải che đậy nói về cái mình đã bỏ đi là giả dối, là đạo
đức giả. Anh có ưa cái đời sống loăng quăng này của anh không? Có. Anh còn muốn gì khác không? Không. Vậy đúng rồi, ôm lấy nó mà sống mà tận hưởng thú vị, việc gì
phải viết, bỏ cái thú sống thực đổi lấy cái thứ sống giả..”
(Khuôn Mặt, Tập truyện ngắn, nxb Sáng Tạo 1964)
http://motsach.info/story.php?story=khuon_mat__thanh_tam_tuyen&chapter=002
A ha, Thanh Tâm Tuyền, cái ngần ngừ _ luôn ngần ngừ, cái dằn vặt _ luôn dằn vặt, được viết ra một cách sắc xảo quyết liệt, cái sắc quyết ấy như tiếng sấm làm ù tai, như
làn sét làm lóa mắt, tôi đọc, và dù không hiểu hết vẫn cảm được cái bồng bột nhiệt huyết của tuổi trẻ như lửa bùng như nắm cát bỏng của sa mạc ném vào mặt mình. Mang
vết bỏng đó ở tuổi vào đời chắc tôi cũng sẽ như bậc đàn anh chỉ nhớ hoài một cái tên và cũng sẽ gọi hoài cái tên ấy cho đỡ nhớ!!! Tôi hiểu vì sao nơi rừng văn học ấy
Thanh Tâm Tuyền được nhắc hoài và Nguyễn đình Toàn được quên hoài dù người ta vẫn đọc, vẫn tìm mua sách vẫn mang lòng quí mến cho đến tận bây giờ. Bên cạnh lò
lửa Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn đình Toàn như sương, phủ sương mờ lên cuộc sống. Nguyễn đình Toàn mang hết chữ, tràng giang đại hải, viết xuống chỉ để không nói.
Mang vết bỏng Thanh Tâm Tuyền thì dễ nhắc, nhưng mang cái sương mờ của Nguyễn Đình Toàn thì chỉ thấy ớn nặng tâm hồn chứ biết nhắc cái gì? Tôi nhớ cái ngu của
mình khi đọc Một Phút Một Đời, hình như của Pearl Buck, ba mươi năm trước.
Một phút một đời
Một Phút Một Đời nói chuyện một anh họa sĩ về miền đồng quê vẽ. Khi chiều xuống, từ giã đồng hoang rạ vàng trong nắng anh đến gõ cửa nhà một nông dân, và người con
gái ra mở cửa. Trong ánh hoàng hôn thôn dã, cô đứng đó hoàn tất bức họa đồng quê và anh yêu cô ngay phút ấy. Rồi anh cưới cô, mang cô về thành thị. Những ngày ray rứt
rã rời vì thương nhớ làng quê, những ngày khó ở vì mang đứa con đầu, anh yêu từng giây phút đổi thay của cô. Đưa cô trở về quê cũ, anh yêu từng hình ảnh của cô, người
mẹ trẻ, phút giận dữ phút dã dượi mệt mỏi đồng áng phút lấm tấm mồ hôi lau chùi quét dọn, phút lo lắng cho con phút nổi giận với chồng. Anh yêu, mải yêu đến một lúc
nào đó đã thấy răng long đầu bạc. Bây giờ, bà cụ leo qua ngọn đồi, tới ngồi dưới gốc cây trong nắng tưởng nhớ đến người chồng một đời của mình đã khuất.
Mười mấy tuổi tôi đọc thấy lãng xẹt. Ba mươi tuổi tôi đọc, cũng vẫn thấy nhàn nhạt buồn buồn. Bây giờ đọc Nguyễn Đình Toàn mấy ngàn trang mấy mươi ngàn chữ tôi hốt
hoảng nhận ra NĐT viết để không nói cái điều mà Thanh Tâm Tuyền vẫn gầm gừ: sống. Nguyễn Đình Toàn đã sống mỗi một phút bằng cả một đời, sống không biết bao
nhiêu kiếp rồi trong mỗi trang viết về một phút. Hiện sinh, Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Đình Toàn như nước với lửa như âm với dương như âm bản và dương bản của bức
hình sự sống. Nguyễn Đình Toàn không dạy, nhưng tôi vỡ ra thế nào là Một Phút Một Đời. Tác giả ấy đã viết, người nào đó đã dịch, đã đem nó đến với văn học, với tôi, với
chúng ta, và tôi đã lớn lên như cỏ cây hoang dại trong rối ren chữ nghĩa ấy, mang một nỗi băn khoăn thắc mắc 30 năm dài. Văn học, không phải nhiệm vụ của nó là đánh
thức lương tri trí thức cảm xúc sâu thẳm của mỗi con người? Văn học, không phải chính nó cầy xới gieo mầm cho hiểu biết cảm xúc của mình lớn mạnh để tìm chính mình,
thấy mình thấy người và thấy được tha nhân?
Thấy Tha Nhân
Thấy mình, thấy bậc đàn anh, thấy người, tôi cũng thấy ra tha nhân. Tha nhân của tôi là người miền Nam. Tôi buồn lòng và xấu hổ thú nhận như vậy. Nhưng chính là nhờ
những học giả nhà văn của miền Nam cũ, những người đã mang công sức dịch những truyện nhàn nhạt buồn buồn, dịch những tác phẩm văn học mà bên Mỹ này học sinh
trung học phải đọc, đưa những ý niệm văn triết của phương Tây đến giới thiệu với xã hội miền Nam, sáng tác những tác phẩm văn chương nhiều màu sắc dạng hình đánh
thức lòng yêu thương cuộc sống, mà miền Nam đã có những thành quả văn hóa, những sinh hoạt văn hóa nhiều sắc màu, mà tôi biết thích những vần thơ Giang Nam những
năm đầu ở với Cộng Sản. Bài thơ ấy thì chỉ giản dị thôi, thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường, yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ, nhưng nó nói với tôi người miền
Bắc cũng là người, cũng yêu quê hương như mình, và nhất là, họ cũng đau khổ như mình:
Từ độ xa nhau thư không bao giờ gửi nữa
Anh vui đời sương gió
Nhọc nhằn gian khổ đã mười năm
Khăn em trao từ độ lên đường
Trải bao dãi nắng dầm sương vẫn còn
…
Nay công đồn Ninh Bắc,
Mai Hạ Lào Sầm Giả
Điện Biên Phủ anh gian khổ từng giờ
Mong ngày dựng lại màu cờ
Anh về quê cũ em chờ đợi anh
Nhưng anh nào có đâu ngờ
Lịnh Đảng về Giải Phóng
Gia đình em bị qui phản động
Chỉ vì năm mẫu ruộng ngày xưa
Cưới em không được nữa
Bây giờ ai đợi ai chờ ai đây
Sầu dưng lệ đổ bàn tay
Thư không gửi nữa từ ngày xa nhau *
Tác giả là ai tôi không còn nhớ, nhưng tuổi mười sáu đơn sơ dẫu oán hận người cộng sản tôi vẫn thấy cảm xúc dâng đầy với bài thơ mộc mạc ấy. Máu ai không đỏ, lòng ai
không mềm. Đáng ra Nam và Bắc đã có thể lại gần nhau hơn, vì rõ ràng có con đường nào có nhịp cầu nào nối được lòng người với nhau hơn nhịp cầu văn học? Đáng ra
văn học Việt Nam đã có thể có nhiều những sinh hoạt văn học gắn kết người trong ngoài xưa nay với nhau hơn, có nhiều những thành quả đồng bộ hơn là những giải văn
chương cá nhân và cá biệt.
Tôi nghĩ rằng chúng ta không có được một sinh hoạt văn học như phải có: người sáng tác sáng tác cho mình nhưng phải với tới tha nhân làm giàu tha nhân, người làm công
việc biên soạn khảo cứu làm vì lẽ thật vì điều hay để xã hội được cùng tiến, và chúng ta đến với nhau để chấp nhận nhau để cùng nhau hướng về một điều gì cao cả hơn
chúng ta bây giờ, đẹp đẽ hơn những gì đang có bây giờ.
Khi tôi đọc lại người cũ, những gì đã viết và bây giờ được viết, tôi sung sướng ghi nhận cái riêng tư của mỗi người. Như Phan Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp. Họ là anh em
lớn lên trong cùng một gia đình, cùng trong quân đội Cộng Hòa, cùng trong cuộc chiến, cùng phục vụ một chính thể, nhưng họ tiếp cận cùng một vấn đề theo tính cách
riêng, theo suy nghĩ riêng của mỗi người. Phan Lạc Phúc thấy cái giải đất chữ S của Việt Nam giúp mình nhiều cơ hội tiếp cận nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhưng vì
ề ể ếấ ấ ể ề ếề
nhiều văn hóa quá nên thành bánh da lợn (Tuyển Tập Tạp Ghi). Phan Lạc Tiếp thấy mảnh đất chữ S giáp biển giúp mình nhiều cơ hội học hỏi nhưng chiến tranh triền miên
nên cái học không thấm sâu nên nhân tài cho đất nước còn thiếu. Nói chung không chỉ có anh em nhà họ Phan khác nhau, mà là cả thiên hạ miền Nam nói và nghĩ theo ý
của riêng mình.
Nguyễn Văn Trung viết Ngôn Ngữ Và Thân Xác thì Võ Phiến cười cợt Chửi (Võ Phiến, Tùy Bút 1); người ta nói Nguyễn đình Toàn Thanh Tâm Tuyền Hùynh Phan Anh là
hiện sinh thì Nguyễn Hiến Lê nói văn học miền Nam không có hiện sinh (Nguyễn Hiến Lê. Hồi Ký, tập II. Nhà xuất bản Văn Nghệ, California, USA. 1990); người ta nói
thuyết Việt Học gì đó thì có người hỏi khẽ đâu là bằng chứng.
Bây giờ trong và ngoài nước hình như đồng loạt mang tứ khoái vào văn chương, nói là hiện sinh thì đó là bước thụt lùi, nói là thực hóa thì cũng vẫn là lui lại. Bây giờ hình
như chúng ta bình văn thơ bằng kiến thức hơn là bằng tâm hồn đồng cảm đồng điệu. Tôi không thấy ai bình thơ như Bùi Giáng bình Tuệ Sỹ, Võ Phiến bình Tô Thùy Yên,
Huỳnh Phan Anh viết về Áo Mơ Phai. Nói đề tài hay nói hình thức, tôi đều cho đó là sự giật lùi khi nghĩ đến điều Mai Thảo đã khêu gợi năm xưa: Chế lấy mây và gây lấy
nắng, Chế lấy đừng vay mượn đất trời.
Hãy cho rằng tôi là một người lỗi thời không theo kịp ngôn ngữ thời đại nên đọc người thời nay, trong cũng như ngoài nước, mà không cảm được như đã từng ghi nhận hai
năm trước trong Giữa Đọc Và Viết:
Có cần không một cái nền liên kết người đọc và người viết? Cái chung cần có không nhất thiết là mảnh đất địa lý dù đó là nơi mà chúng ta cùng đứng để cùng yêu mến;
một tổ quốc chung cũng vẫn là điều khả thể khi bị ngăn cách không gian.
…Nền văn học cũ toát ra cái ý chung: bảo tồn một bản sắc đã có _dân tộc, đất nước, con người_ và mong làm giầu nó. Người ta muốn khác nhau chứ không chống nhau.
Những tiếng kêu những trăn trở dù mơ hồ nhưng có nét thực của tâm hồn, gắn bó người viết với người đọc. Văn học bây giờ, bên ngoài là hoài niệm cái đã mất, là đi tìm lối
thoát cho cái đã có và đưa nó đi xa hơn, là hội nhập và nói với thế giới bên ngoài về mình. Nhưng chúng ta có thực biết mình muốn viết cái gì, sẽ viết ra sao? Hình như
chúng ta nhận định phê bình rất nhiều trước khi có tác phẩm thực để phê bình, trước khi biết rõ thế nào là phê bình. Số người am hiểu và viết đứng đắn không đủ để tạo ra
một cái nền. Tôi đọc mãi đọc hoài, vẫn thấy không gắn kết được những trang chữ hải ngoại lại cho thành một nền văn học văn chương. Văn học bên trong dường như là đi
tìm chính mình, khẳng định bản sắc. Tại sao mình phải đi tìm bản sắc khi mình đã có bản sắc từ lịch sử bao nhiêu năm? Chung chung những tác phẩm bài viết trong nước
mà tôi đọc được đầy rẫy ẩn dụ và những tình tiết éo le kinh khủng, những tiếng kêu thống khổ; rõ là thực mà lại không mang cho tôi được ý niệm người viết là ai, và có
điều gì nơi tâm hồn người ấy. Những hàng chữ vẫn như chưa ra khỏi tính cách “hiện thực xã hội.” Tôi vẫn thấy mình thất lạc với cái viết của hôm nay, bây giờ.
Nơi cái thất lạc nêu trên, tôi càng tiếc là văn học miền Nam đã không được bảo tồn. Trên cái căn bản văn học miền Nam mà tôi đã lớn lên, tôi đã có thể cảm thương với
những mất mát của người anh em phía Bắc, tôi chấp nhận những khác biệt của văn hóa của con người, và tôi biết đợi chờ biết thành thực để trả lời cho mình những thắc
mắc. Giả mà chúng ta kẻ Nam người Bắc đã có thể cùng đọc những gì đã được viết ra trong 20 năm văn học miền Nam, nếu không tiếp nhận được cái nhân bản trong nền
văn học ấy, tối thiểu chúng ta vẫn có thể có cùng niềm yêu mến Quốc Văn Giáo Khoa Thư như người xưa, hoặc nếu có bất đồng, chúng ta đã có chung một ngôn ngữ để
bàn trên một tác phẩm. Nghĩ thêm, tôi tin rằng ngôn ngữ, của thời đã qua, chính là điều nối chúng ta lại, giúp chúng ta hiểu nhau hơn. Thời đại đổi thay ngôn ngữ đổi thay,
chúng ta đã có thể cùng nhau đổi thay, không như bây giờ cùng nói tiếng Việt mà mỗi nơi mỗi khác, chúng ta không hiểu nhau và cũng chẳng chấp nhận nhau.
Đâu là kẻ khác
Khi trong với ngoài cùng lúc nêu vấn đề 20 năm Văn Học Miền Nam, phải chăng chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy nhau? Đã đủ dài chưa những tháng ngày vùi dập lấp che,
mắt liếc mắt nhìn mà chẳng dám nhận nhau? Trong khi đất nước đối mặt cùng hiểm họa xâm lăng thì một hố chia rẽ dù nhỏ cũng mang lại tổn thất bội phần, làm vấy một
nền văn học sau khi nó đã từng bị dập vùi e không còn lối quay lui.
Văn Học Miền Nam, trước hết, là văn học của Việt Nam Cộng Hòa, một thực thể toàn vẹn, không có tạm chiếm hay đô thị núi rừng gì cả, và nó đã qua, đã chấm dứt sau
cuộc chiến 20 năm. Nền văn học đó đã có dẫu công nhận hay không, với những thành tựu và giới hạn của riêng nó. Nhắc lại quá khứ là để thấy ta thấy người, để có thể cảm
hòa. Nếu ngoài này nêu vấn đề 20 năm Văn Học Miền Nam chỉ để quanh quẩn tung hô người muôn năm cũ, hay làm sống lại một thời đã qua, thì chỉ là mở đường cho
chuyện chối bỏ nhau thêm. Nếu bên trong cho là cứu vớt, đó có thể là ném bùn vào mặt người anh em mà mình mong bắt tay nối nhịp cảm thông.
Nói là hội luận tìm hiểu, nói là bảo tồn phát triển, nói là gì đi nữa, chúng ta nên chính danh và thành thực hỏi lòng, mình làm điều đó cho ai và mong muốn điều gì.
Lưu Na
Tháng 9-12-2014
* Lá thư không gửi của Nhất Tuấn:
lá thư không gửi
Tác giả: Nhất Tuấn
Từ độ xa em thư không bao giờ gửi nữa
Anh vui đời sương gió
Nuốt hận thù trong lòng súng hờn căm
Đêm ngày say máu giặc
Nhọc nhằn gian khổ đã mười năm
Khăn em trao từ độ lên đường
Trải bao dãi nắng dầm sương vẫn còn
Hết Ninh Bắc công đồn
Qua thượng Lào Sầm Nứa
Từng vùng bom rơi đạn nổ
Điện Biên Phủ anh gian khổ từng giờ
Mơ ngày chiến thắng dựng cờ
Anh về quê cũ em chờ đợi anh
Đôi lúc hành quân qua đèo
Nhìn mây đầu núi , lòng tương tư về
Sầu dưng vời vợi
Không biết quê người em gái
Có gì đổi thay
Những đêm mưa bay bay
Nằm nghe gió về rung lá chết
Nhớ thương sao mà da diết
Sầu núp mặt bàn tay
Anh về mong gặp người em gái
Biết nói làm sao khỏi nghẹn lời
Từng chiều xôn xao nhớ
Từng chiều nao nao buồn
Những mộng đêm đêm đầu gối súng
Những vần thơ yêu nóng bỏng
Viết trong chiến dịch mùa Đông
Bao nhiêu là nhớ là mong
Bao nhiêu là đợi là trông là chờ
Nhưng anh nào có đâu ngờ
Lệnh Đảng về giải phóng (**)
Gia đình em bị qui phản động !
Vì năm mẫu ruộng ngày xưa
Cưới em không được nữa
Bây giờ ai đợi ai chờ ai đây ?
Sầu dưng lệ đẫm bàn tay
Thư không gửi nữa từ ngày xa nhau ...
nguồn: http://poem.tkaraoke.com/11159/La_Thu_Khong_Gui.html
LƯU NA
http://hopluu.net/a2447/van-hoc-mien-nam-dieu-sot-lai
Những kỷ-niệm của tôi về văn-học miền Nam
* 17/04/2012 - 07:46: trong THỂ TÀI PHÊ BÌNH ; phebinhvanhoc
Nguyễn Đức Tùng
Khi tôi sinh ra, đất nước đã chia đôi. Lớn lên, tôi yêu mến miền Nam nhưng cũng nhớ thương miền Bắc. Lạ. Người ta có thể nào nhớ một điều mà mình không biết?
Có thể lắm. Năm chín tuổi, trưa hè, đuổi theo một con chim chào mào mũ đỏ, tôi lạc vào kho lúa nhà bà ngoại tôi. Đó là kho lúa lớn, cao như cái tháp, làm để tránh mưa lụt
hay xảy ra ở miền Trung, có lẽ chứa lúa giống vì gia đình bên ngoại tôi có vài mẫu ruộng. Ngồi im nín thở, chân tôi chạm vào một cuốn sách giữa những hạt lúa hăng hắc
nồng nồng. Cuốn sách có nhan đề Anh phải sống, bìa trắng, đề tên tác giả: Khái Hưng và Nhất Linh, trong Tự Lực Văn Đoàn, nhà xuất bản Phượng Giang. Sách cũ, giấy
vàng, đầy kín chữ, nhiều truyện ngắn. Tò mò, tôi lật qua vài trang đọc thử. Thời đó, tôi còn mê truyện tranh và các thú vui trẻ con như bắt chim, đá banh, cởi truồng tắm
sông, bắn ná cao su, kéo bím tóc con gái. Cuốn sách tôi cầm trên tay chẳng có hình ảnh nào cả, hiền từ, nghiêm nghị. Tôi đọc thử vài trang. Đọc thêm. Rồi không buông ra
được nữa, quên cả con chim chào mào đã bay mất.
Câu chuyện kể về hai vợ chồng bên sông mùa lũ, vớt củi giữa dòng. Thuyền lật úp, họ bơi vào bờ, giữa chừng đuối sức. Họ nương vào nhau, chìm dần. Người vợ buông tay
chồng, vì nghĩ đến những đứa con nhỏ ở nhà. Đêm đêm người đàn ông dẫn đàn con bơ vơ ra đứng trên bờ sông nhớ người đã mất. Sông Nhị Hà mùa lũ nước chảy xiết ra
sao? Mà nó đọng lại trên má tôi vài giọt nước mắt. Truyện mở rộng cái nhìn của tôi đối với cuộc đời khổ lụy, hy sinh, nâng tôi lên bằng đôi cánh của tình mẫu tử, tình vợ
chồng, xé rách trong tôi những kinh nghiệm còn nguyên vẹn thơ ấu. Tôi đọc nhiều truyện khác nữa trong tập, đều hay, nhưng truyện đầu tiên tôi nhớ nhất. Lúc đó, tôi muốn
bắt chước kể chuyện như tác giả, muốn được viết như ông, tôi muốn làm cho người ta khóc.
Sau mùa hè ấy, tôi tìm đọc nhiều sách khác nữa, Gió đầu mùa của Thạch Lam,Vàng và máu của Thế Lữ, Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Gửi hương cho gió của Xuân
Diệu, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Sau này nhìn lại, tôi thấy sự giữ gìn và kế tục văn chương tiền chiến trong thời buổi chiến tranh, không thay thế nó bằng một
nền văn học nào khác, ví dụ một nền văn học thực dụng, phục vụ chế độ đương thời, thật là điều đáng trân trọng. Tôi đọc loạn xạ. Hình như văn chương miềnNam đối với
tôi lúc đó có vẻ cũng lộn xộn. Đi đâu tôi cũng mang theo một cuốn sách trong túi áo, khi tôi buồn rầu, chúng an ủi tôi, khi sung sướng, chúng làm tôi giật mình, khi lạc
đường chúng khuyên tôi đứng lại, nhìn xuống.
Ngày nay nhìn lại toàn cảnh, tôi tin rằng văn học miềnNambắt nguồn từ văn học tiền chiến, văn học miền Bắc bắt nguồn từ văn học kháng chiến (chống Pháp). Văn học
tiền chiến lớn hơn văn học kháng chiến, nhưng văn học kháng chiến mới hơn văn học tiền chiến.
Vài năm sau lên trung học, chương trình quốc văn trong nhà trường, tôi bắt đầu được đọc và bình luận về các tác phẩm tiền chiến. Những cuốn như Nửa chừng Xuân của
Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo, Gió đầu mùa của Thạch Lam, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố,Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, và thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Nguyễn Nhược Pháp, Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính, Bích Khê, Vũ Đình Liên, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… được giới thiệu khá kĩ bởi
những người thầy tâm huyết. Chúng làm cho tuổi thơ của tôi trở nên lãng mạn, diễm ảo.
Tôi nghĩ bầu khí quyển lãng mạn ấy cần thiết cho tâm hồn mới lớn. Và cho một nền văn học mới lớn.
Quả thật đó là những năm đầu tiên của miềnNam, sau chín năm kháng chiến, như một cõi riêng biệt. Phải chờ thêm vài năm nữa, khoảng lớp chín, tôi mới bắt đầu nhận ra
rằng bên cạnh những tác phẩm tiền chiến in lại, đã nung nấu hình thành một nền văn học khác: một nền văn học mới, trẻ trung, hào hứng vừa ra đời. Xét lại thì cũng phải.
Mặc dù Nhất Linh, người lãnh đạo Tự Lực Văn Đoàn đã vào Nam, và những người nối bước ông như Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Nhật Tiến đang viết sung sức,
nhất là Nhật Tiến, người làm tôi say mê với “Chim hót trong lồng”, thì tiểu thuyết tiền chiến không còn phù hợp với thời đại mới nữa. Chín năm kháng chiến đã làm đảo
lộn nhiều thứ. Thêm vào đó, cuộc chia đôi đất nước là một lưỡi dao sắc cắt qua các tầng văn hóa, nhiều lớp tâm thức, cắt qua lục phủ ngũ tạng, bất chấp tất cả, không tha
thứ điều gì trên đường đi của nó, cho đến khi người ta xa lìa nhau vạn dặm.
Siêu quay mặt đi vì không muốn cho Mùi ngượng và chàng cũng ngượng; chàng biết là Mùi sắp ứa nước mắt nên với khăn chứ không phải đi rửa mặt và chàng đợi cho Mùi
đủ thì giờ lau thật khô nước mắt như không từng có khóc bao giờ. Chàng thổi sáo miệng, cố bắt chước tiếng một con chim hót gần đấy. Một sự vui mừng nở ra trong lòng
chàng, tràn ngập cả người chàng lúc đó và đọng lại yên tĩnh mênh mang cũng như nước lụt ngoài kia tràn vào và đọng lại ngập đầy vườn. Chàng thầm nhủ:
– Cho đến lúc hai tay buông xuôi, anh cũng thế.(1)
Sau tiền chiến, so với thời kỳ “Đoạn tuyệt”, nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh đã vươn lên rất xa, nhiều đoạn đạt đến mức tâm lý tuyệt diệu, trong “Xóm cầu mới” mà
ông khởi thảo năm 1949 và đăng từng kì trên báo Văn Hóa ngày nay, một tờ báo bìa vẽ lan, tôi đọc ngày còn nhỏ, đọc lén trong nhà ông anh họ. Nhưng nó không cứu được
văn chương tiền chiến trước một nền nghệ thuật mới hơn nữa. Những câu văn ấy êm đềm quá, cách dựng chuyện ấy cổ điển quá, những nhân vật ấy dù ngày càng được mô
tả phức tạp trông vẫn hiền lành quá so với thời đại vừa đi qua cơn bão táp đang cập bờ vào thế giới mới, hứa hẹn giấc mơ tự do, nhưng cũng cùng lúc cơn bão chiến tranh
đang chờ nó. Thơ và truyện phải viết khác đi, vì đó là nhu cầu sáng tạo nội tại của các nhà văn bất kỳ thời nào. Phải viết khác đi, vì người đọc đã khác. Người ta không còn
giản dị hồn nhiên như trước, người ta sâu sắc, cay đắng hơn, người ta buồn bã, nghi ngờ hơn, giận dữ và lam lũ hơn. Vì vậy đã có một ý thức làm mới văn chương, cùng với
ý thức tự do trong văn học, hiển lộ rõ ràng và phổ biến, trở thành tinh thần chủ đạo, trong mười năm đầu tiên của sinh hoạt văn học miềnNam.
Lớp chín, gặp đứa bạn gái cùng lớp trên đường một mình còn ngượng, thấy người ta hôn nhau từ xa còn đỏ cả mặt, tôi đã đọc truyện tình Mai Thảo. Ông từ miền Bắc vào,
sau Nhất Linh một thế hệ. Tôi không biết Mai Thảo bắt đầu viết từ bao giờ, nhưng đọc ông, tôi biết là mới, nhận ra không phải là thứ văn chương tiền chiến được học trong
nhà trường. Tôi mê Chuyến tàu trên sông Hồng, và Đêm giã từ Hà Nội; tôi trốn vào trong gầm bàn thờ, liu riu ngọn đèn dầu Hoa Kỳ, đọc Cũng đủ lãng quên đời.
Hình dung thấy con tàu đó trên con sông đó. Con sông Hồng-Hà. Như dòng máu đỏ tươi chảy băng băng khắp vùng trí nhớ bâng khuâng. Con sông như một đời sống vĩ
đại. Bên này bãi lở. Bên kia bãi bồi. Tiếng sóng giữa dòng trùng trùng ca hát. Tiếng sóng đập cái tiếng đập mênh mông đầu ghềnh nơi tả ngạn bị hút xoáy mải miết, nước
xôn xao róc rách đẩy lùi mãi những bãi dâu và những nương khoai vào những chân tre cù. Nơi tả ngạn, ngọn sóng hiền lành lăn tăn êm ả trên những bãi ngầm nổi hình mùa
lũ này qua mùa lũ khác. Đứa nhỏ trôi theo con tàu trên dòng trường giang hùng vĩ chợt nhớ tới những con sông làng thon mềm dải lụa có trâu đầm từng đàn dưới bóng đa
nghiêng, có những chiếc cầu đá dẫn tới một phiên chợ sớm đầu đình, có những cầu gạch mở vào những cái ngõ lang thang mất hút, có cỏ gà trên gò đống, cỏ ống trên mồ
mả, có những cầu tre tay vịn chòng chành, đêm đêm có ánh đom đóm lập lòe, có ánh trăng xanh mướt chở tới những khoảng sân gạch bát tràng nồng ấm hương lúa đầu
mùa. Tiếng quạt thóc, tiếng đập thóc rào rào.(2)
Mặc dù Mai Thảo được xem là nhà tiểu thuyết, tài năng của ông tập trung nhiều hơn vào các truyện ngắn, tiểu luận, tùy bút. Đọc Mai Thảo, tôi chú ý đến câu văn. Ông đi
vào vùng trời văn học miền Nam bằng lối viết hơn là bằng tư tưởng, bằng phong cách hơn là bằng tác phẩm, mặc dù tầm tư tưởng, tác phẩm của ông lớn hơn nhiều người
khác. Đoạn văn trên chưa phải là đoạn Mai Thảo đảo lộn câu chữ nhiều nhất, nhưng tiêu biểu cho một lối viết, nó đặc biệt mới vào đầu những năm sáu mươi. Tôi nhớ
khung cảnh đọc truyện đó: một buổi trưa nắng vàng, được ru trong tiếng sóng vỗ sông Hồng, nhớ lại cuốn sách đầu đời của tôi trong kho lúa nhà bà ngoại. Một dòng sông,
hai cách chảy đi.
Một câu văn đẹp bất chấp nội dung sẽ tồn tại như một câu văn đẹp, làm ta muốn đọc lại nhiều lần. Có hai phương pháp mà Mai Thảo đã dùng. Một là ngôn ngữ thơ, một
ngôn ngữ vi phạm các chuẩn tắc thông thường của văn xuôi, cắt xén, nén nó lại, kéo dài nó ra, làm chùng xuống, khi buông lỏng, khi căng thẳng: ngôn ngữ tự phục vụ cho
chính nó. Khác với những câu văn đẹp nhất tiền chiến, như của Nguyễn Tuân. Đọc Nguyễn Tuân, tôi thấy ông dùng chữ chính xác, tự nhiên, để chuyên chở những khám
phá thẩm mỹ, nhưng ông không chơi với chữ: ngôn ngữ của ông vẫn là một phương tiện, mặc dù là phương tiện sang trọng. Trước đó, không ai viết như Mai Thảo. Hình
như ngoài Bắc, cùng thời, cũng chưa ai viết như thế. Sau này thì tôi không rõ.
Và như thế, tiểu thuyết tự truyện sau này nổi bật trong một số tác giả miền Nam, có thể xem là đã được mở đầu bởi Mai Thảo. Tiền chiến, chúng ta có Nguyên Hồng với
Những ngày thơ ấu mà tôi được học năm lớp bảy, chương trình phụ giảng. Một cuốn tự truyện tôi đọc cùng thời gian, ghi dấu ấn sâu đậm về nông thôn miền Nam, Thằng
thuộc con nhà nông của Hồ Hữu Tường, theo tôi là một tác phẩm hết sức thành công. Nhưng đối với các tác giả trên đây, tự truyện được hiểu theo nghĩa cổ điển, mô tả một
ố ểổ ếầ ểế ểể
đời sống hay một giai đoạn được khoanh vùng cụ thể, thường là tuổi thơ, nghĩa là khi tác giả đó đã viết một lần là xong, không có gì để viết lại nữa. Để hiểu sự khác nhau
giữa tự truyện mới và tự truyện cũ, cần sử dụng đến quan niệm về điểm nhìn (point of view): những sự kiện có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, một câu chuyện có
thể được kể lại bởi nhiều người khác nhau. Quyết định về điểm nhìn là quyết định quan trọng bậc nhất của nhà tiểu thuyết, trong khi đối với những người viết không có tài
năng, điểm nhìn của họ thường thay đổi trong cùng một tác phẩm, làm sự tiếp cận của người đọc trở nên không nhất quán. Tiểu thuyết tự truyện mới không phải chỉ là
những hồi ức theo kiểu kể lại các sự việc xảy ra trong quá khứ, mà là sự thể hiện thế giới thông qua nhân vật – tác giả, điều này làm cho nó gần gũi với khuynh hướng tiểu
thuyết dòng ký ức. Quả nhiên những tác giả sau này ở miền Nam đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của khuynh hướng dòng ý thức. Một nhà viết tiểu thuyết tự truyện sẽ rơi vào
ngõ cụt vì thiếu đề tài; anh ta chỉ có thể thoát ra khỏi tình trạng này trên niềm tin rằng không có một sự thật nào là sự thật cuối cùng, và tìm cách trở lại một lần nữa, nhiều
lần nữa, căn nhà của chính mình, khám phá ra ở đó những tầng sâu mới. Hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của Mai Thảo đều viết về mình, dựa trên những hồi ức chính
mình. Dĩ nhiên hồi ức cá nhân và đời sống thực tế là chất liệu sáng tạo của các nhà văn từ xưa đến nay, không có gì mới. Vấn đề là ở những nhà văn khác, hồi ức và kinh
nghiệm chỉ là nơi cung cấp các dữ kiện, các nhân vật và nguồn gốc của những rung cảm, nhưng khi thể hiện thành tác phẩm, chúng đã được chuyển thể, giọng của nhà văn
là giọng của các nhân vật, của các mặt nạ. Đó là khái niệm cổ điển của truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong truyện mới, nhân vật tác giả là trung tâm, vũ trụ được nhìn qua nó,
mọi trang viết là viết về nó, viết cho nó. Đây cũng đồng thời là phương pháp trữ tình. Mai Thảo là một trong những người đầu tiên đi theo phương pháp tiểu thuyết-tự
truyện (memoirist fiction).
Các nhà viết ký và tiểu thuyết ở miền Bắc cùng thời kì, như Nguyễn Huy Tưởng,Sống mãi với Thủ Đô, Nguyễn Đình Thi, Vỡ bờ, Nguyên Hồng, Cửa biển, Chu Văn …
vẫn giữ phong cách văn xuôi và tiểu thuyết theo kiểu cổ điển, câu văn chừng mực, chính xác của văn chương tiền chiến, mặc dù có thể không mượt mà như Thạch Lam,
hay kiêu sa như Nguyễn Tuân. Dĩ nhiên, chúng ta đang nói về nghệ thuật biểu hiện, chứ không phải về nội dung. Tôi muốn nói là nội dung trong toàn bộ cấu trúc tác phẩm,
chứ không phải là nội dung của từng câu chữ. Thật ra, câu văn, dù được đảo lộn cách nào, dù được tái tổ chức ra sao, chỉ đạt được vẻ đẹp của nó khi tác giả có khả năng nén
chặt vào chúng số lượng tối đa các thông tin có thể giải mã. Tôi cho rằng đặc điểm quan trọng nhất của nhà văn là sự quan sát, đặc điểm quan trọng nhất của nhà thơ là sự
rút ra. Viết như Mai Thảo, có sự quan sát dày đặc, dồn dập, khả năng ghi nhận kín kẽ, bao quát, lại vừa có sự chiêm nghiệm, lùi lại, rút ra, chưng cất. Đó là đặc tính của một
người vừa có thể viết tiểu thuyết, vừa có thể làm thơ, mà một số nhà văn Canada hiện nay gọi là khả năngswing.
Đặc điểm của lối viết mới là câu văn, dài hơn bình thường, hoặc ngắn hơn bình thường, hoặc khi dài khi ngắn, nhưng ý tưởng bao giờ cũng trong sáng, không lẫn lộn. Mạch
tư duy của tác giả hợp lý, độc giả có thể hiểu được và theo dõi được, khác với lối văn hủ nút, rối rắm, làm độc giả lạc đường như trong một số nhà văn không có tài năng.
Một người viết câu ngắn tài hoa sau này là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, hơi văn của ông mạnh nhưng ngắn, buông lửng mà dồn dập, đối thoại của ông tinh khiết. Câu dài
của Mai Thảo và một số nhà văn khác, tuy thế lại ít có chữ thừa, thậm chí vẫn tiết kiệm, gồm các mệnh đề chính và mệnh đề phụ chồng lên nhau. Trừ ra trong một số tiểu
thuyết quá dễ dãi có tính thương mại, ít có giá trị văn học, hầu hết các câu văn của Mai Thảo đều đạt được như thế hoặc gần như thế, dù là tiểu luận hay tùy bút hay truyện
ngắn. Ông cũng làm mới câu bằng cách táo bạo dùng những câu không hoàn chỉnh văn phạm. Tôi nhớ năm học lớp chín đã từng bắt chước ông khi viết chữ nhưng, chữ mà
ở đầu câu, sau dấu chấm, trong một bài luận văn và suýt bị giáo sư đánh rớt vì sai lỗi chính tả. Tôi nhận thấy một số nhà văn sau này, và ngay cả hiện nay, cũng học cách
viết như thế nhưng ít thuyết phục hơn, vì họ không sử dụng các động từ một cách tài hoa như Mai Thảo đã làm.
Có một hiện tượng thương mãi trong văn học cần chú ý. Ví dụ, sau những truyện có giá trị văn học, Mai Thảo viết các truyện dài diễm lệ hình như không có nhiều dụng
tâm nghệ thuật. Cuối những năm sáu mươi ở miềnNammột số nhà văn cũng viết tiểu thuyết định kỳ trên các nhật báo gọi là feuilleton. Đây là áp lực đời sống mà các nhà
văn thời nào cũng cần phải suy nghĩ trước ngòi bút của mình.
Văn học miền Nam thời khởi đầu có hai dấu ấn lớn, một là tác động của các nhà văn từ miền Bắc di cư vào và hai là phong cách của các nhà văn Nam Bộ. Tôi nhớ đã từng
say mê đọc giọng kể chuyện mộc mạc mà thi vị của Thằng Thuộc con nhà nông của Hồ Hữu Tường, và những truyện khác của ông. Hàng tháng tôi hồi hộp theo dõi tạp chí
Hương Quê, đăng đều đặn mỗi kỳ một truyện ngắn, mới đầu của Bình Nguyên Lộc, sau đó của Sơn Nam. Tiếp nối truyền thống tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, các nhà văn
này tiếp tục nâng nghệ thuật của mình lên trong lối kể chuyện tài tình riêng biệt của họ. Tôi nhận thấy có sự dịch chuyển từ khuynh hướng tiểu thuyết bình dân có tính giải
trí đến khuynh hướng tiểu thuyết văn học. Miền Nam khác miền Bắc ở chỗ trong cùng một thời kỳ đã cho phép phổ biến nhiều loại sách giải trí bình dân, kiểu sách thám tử,
kiếm hiệp, đường rừng, xã hội tình cảm bi lụy kiểu người lớn, có người cho là rẻ tiền. Như thế nào là tiểu thuyết giải trí và tiểu thuyết văn học? Người đọc truyện ngắn, tiểu
thuyết và các hình thức văn học khác thường đi tìm ba điều: sự vui thú, sự hiểu biết và sự thay đổi. Đi tìm niềm vui vốn là một nguyên lý của người Hy Lạp cổ đại và là
một nguyên tắc của phân tâm học Freud, thật ra không cần cắt nghĩa. Chuyện gì vui thì người ta làm. Thích thì làm, không thích thì bỏ đi. Chẳng lẽ cần giải thích hay sao?
Vì vậy văn học cần phải mang đến sự vui thú. Nên hiểu rằng vui đây không nhất thiết phải là cái cười hời hợt, không phải chỉ là niềm vui của người sung sướng vì nhặt
được tiền, mà có thể là nỗi thú vị của một cuộc chia tay buồn bã, một tiếng khóc nén lại trong văn chương. Nỗi vui thú ấy khi mạnh mẽ quá thì cũng có thể thành sự hài
hước. Chất hài hước là một đặc điểm của văn chương miền Nam và văn chương Nam Bộ. Nhưng người đọc tiểu thuyết không phải chỉ đi tìm sự vui thú mà còn đi tìm sự
hiểu biết và sự lý giải đối với cuộc đời. Nếu không có sự hiểu biết đằng sau sự vui thú thì văn học hóa ra cũng giống như một trận bóng đá, một ván bài, hay một cuộc dạo
chơi mà thôi. Sự hiểu biết mà văn học mang lại thông qua những kinh nghiệm hay thể nghiệm của các nhân vật. Sự khác biệt quan trọng nhất của truyện giải trí và truyện
văn học là ở chỗ: truyện giải trí mang người đọc ra khỏi cuộc đời, mang anh ta ra khỏi những khổ đau thường nhật, khóc cười với các nhân vật trong một vài giờ và mơ
những giấc mơ ban ngày, trong khi truyện văn học đem người đọc trở lại với cuộc đời, chiếu lên những hy vọng và khổ đau của anh ta một ánh sáng mới. Người đọc tình
nguyện đối diện với những vấn đề hiện thực, với hiểu biết mới: anh ta mong ước điều cao cả, mong ước tự thay đổi mình và thay đổi thế giới bên ngoài. Chính sự hiểu biết
ấy, và mong ước thay đổi ấy, lại làm cho sự vui thú tăng lên.
Những phân biệt trên đây chưa chắc được áp dụng dễ dàng cho một số dòng văn chương. Truyện kiếm hiệp Kim Dung chẳng hạn. Mặc dù có một xu hướng di chuyển từ
Hồ Biểu Chánh đến Hồ Hữu Tường đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Thị Thụy Vũ, ranh giới giữa truyện giải trí và truyện văn học không rõ ràng. Theo tôi có thể
giải thích rằng người Việt ở miền Namkhông có tính nghiêm nghị, dao to búa lớn, khó đăm đăm. Trên con đường di dân từ Bắc vào Nam, tổ tiên chúng ta có lẽ do phải đối
phó với quá nhiều gian khổ trong quá trình khai hoang mở nước, rừng thiêng nước độc, riết rồi người ta lột bỏ gần hết những lớp vỏ ngoài, ném đi những áo mão cần thiết
trong một xã hội đã định hình và chuẩn hóa cao độ như ở miền Bắc, và con người sống gần với thiên nhiên hơn, hồn hậu, không tin vào ba cái chuyện nghiêm trang vặt
vãnh trên đời. Văn chương Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển, Lê Xuyên thể hiện rõ nhất tính chất vừa văn học vừa giải trí khơi khơi, nhưng đọc rồi thì không quên
được. Tôi nhớ những đoạn văn rất hay của Bình Nguyên Lộc trong Mưa Thu Nhớ Tằm, hay hồi hộp đọc Chú Tư Cầu của Lê Xuyên trên nhật báo mỗi ngày.
Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ làm cho nó quên thằng Chài ngay. Là vì đầu cò chởm chở những cọng lông bông, nhắc nhở nó
những kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mê, cách đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.(3)
Lối đối thoại của các nhân vật trong truyện của SơnNam, Bình Nguyên Lộc, hay Hồ Trường An, Kiệt Tấn sau này, thật là linh hoạt, phóng khoáng, chộn rộn, vui vẻ.
Tui lạy chị, đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa, tui thèm muốn chết đi. Năm năm nay, tui không có biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối trồng sau nhà cũng chết queo vì đất
còn mặn quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc tôi được ăn ngọt đây. Úi chà! Trưa rồi, chắc tới bữa cơm, thôi tui về nha, anh, chị?(4)
Điểm thu hút trung tâm là các nhân vật tiểu thuyết. So với truyền thống cổ điển như trường hợp Tự Lực Văn Đoàn, trong đó cốt truyện có thể xem là quan trọng bậc nhất,
hoặc quan trọng ngang với nhân vật, thì văn chương mới hình như chỉ xem cốt truyện là cái cớ. Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, người ta muốn biết số phận của chị Dậu sẽ ra
sao. Đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh, người ta hồi hộp xem cô Loan có được trắng án không, Loan và Dũng có gặp lại nhau không? Nhưng đến Xóm cầu mới thì Nhất Linh
không gây cho ta cảm giác đó nữa, ông cố tình nhẩn nha kể chuyện, ngày này qua ngày khác, gió cứ thổi, nước lụt cứ dâng lên mấp mé bên thềm nhà. Mặc, tôi chỉ muốn
biết cô Mùi có cảm giác ra sao khi nằm ngủ trên chiếc giường của Siêu ở ngoài hiên tối, đắp tấm chăn mỏng, dưới trời mưa thưa, bên ngọn lửa nấu cháo khuya của hai
người hãy còn liu riu đỏ? Người đọc của Nguyễn Đình Toàn, Nhã Ca, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Viên Linh, Hoàng Ngọc Tuấn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lê
Tất Điều, Lệ Hằng không để ý lắm đến việc các nhân vật nam và nữ sau khi quen nhau thì sẽ làm gì, cuối cùng họ có lấy nhau không vân vân… mà chỉ quan tâm đến tâm
trạng của nhân vật tức là diễn tiến bên trong của đời sống cá nhân. Có một điều quan trọng là chiến tranh càng khốc liệt, chết chóc ngày càng nhiều, đau khổ dân tộc ngày
càng lớn, thì các nhà văn miền Nam ngày càng đi sâu vào thế giới nội tâm, như thể chỉ quan tâm đến chính họ. Các nhân vật đâm ra lãnh đạm với thời cuộc, có vẻ như
không yêu người mà cũng chẳng yêu mình, chẳng tin tưởng vào điều gì, chẳng tha thiết đến điều gì. Có người cho rằng đó là ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và một
phần của tiểu thuyết mới. Có người lên án rằng các nhà văn thời kỳ này có khuynh hướng quay lưng lại với số phận dân tộc, chui vào cái tháp ngà, ích kỷ, thoái hóa. Tôi
cho rằng khuynh hướng tự truyện làm cho người đọc thường có cảm giác nhân vật và tác giả là một. Tôi cũng cho rằng các nhà văn miền Nam thời ấy sống thật với bản
thân mình và đời sống xung quanh, mặc dù không phải là không có hiện tượng làm dáng, phấn son lòe loẹt trong văn chương hay thể hiện các tư tưởng triết học một cách
hời hợt thời thượng, không phải là không có một khuynh hướng suy đồi. Chẳng qua đó là hiện tượng thường gặp trên đường tìm kiếm tiếng nói của riêng mình, của thời đại
mình. Francoise Sagan sinh năm 1935. Cuốn Bonjour Tristesseđược viết 1954. Dương Nghiễm Mậu sinh năm 1936, Túy Hồng sinh năm 1937, Nguyễn Thị Thụy Vũ sinh
năm 1937… vậy thời đó họ là những thanh niên cùng lứa tuổi. Khi không thể lý giải được cuộc xung đột, khi thấy mình bất lực trước lịch sử, khi nhà văn bất mãn với xã
hội mà mình đang sống, nhưng anh ta cũng không có cách nào vượt ra khỏi xã hội đó, thì anh ta trở nên lãnh đạm, bất cần, xa lánh các thứ lý tưởng vốn đã phản bội niềm
tin của mình, nổi loạn, phá phách, chống lại xã hội về tư tưởng và chống lại chính tâm hồn mình.
Như thế, đó là một khía cạnh của quá trình đi xuống, một tâm trạng chán nản, bi quan, bất lực, nhưng mặt khác nó cũng bộc lộ sự phản kháng của người viết, tiếng kêu của
lương tâm và ý thức, sự phản ánh các xung đột trên các bậc thang giá trị. Tôi nghĩ điều này cũng có tính lập lại đối với thanh niên và trí thức ViệtNam.
*****
ố ế ắểế ổể ằ
Đối với người viết truyện ngắn và tiểu thuyết, giới thiệu nhân vật là việc quan trọng. Các truyện cổ điển mô tả nhân vật bằng các hình thức bên ngoài như vẻ mặt, dáng đi,
quần áo, và tiểu sử, thân thế, hoàn cảnh. Các truyện mới hơn nhấn mạnh đến cốt cách, hành động, hành vi của nhân vật. Các truyện mới hơn nữa thậm chí bỏ qua cả những
hành động bên ngoài, đọc họ thì biết là họ ăn nhưng không biết ăn gì, biết họ làm tình nhưng không biết làm tình như thế nào, biết một nhân vật chết nhưng không biết
người ấy chết ra sao. Như thế, tiểu thuyết ngày càng đi sâu vào nội tâm hay ngày càng đi xa ra khỏi đời sống? Thành công hay thất bại?
Mặc dù phong trào giải phóng phụ nữ và chủ nghĩa nữ quyền có vẻ không phát triển ồn ào vào thời ấy, sự xuất hiện đồng loạt các cây bút nữ như Nguyễn Thị Hoàng, Nhã
Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Lệ Hằng, Trần Thị Ngh. khoảng từ giữa những năm 1960 có một ý nghĩa đặc biệt. Tác phẩm của các nhà văn này vừa
là tiếng nói phản ứng với những hoàn cảnh cá nhân, vừa là sự lên tiếng về các vấn đề xã hội và chiến tranh. Với tài năng tinh tế, bằng ngôn ngữ giàu có riêng của phụ nữ,
họ cực tả trong những trang tiểu thuyết nóng hổi các khúc quanh tâm lý của cá nhân trong thời binh lửa. Chiến tranh là sự mất mát lớn nhất: người mẹ mất con, người vợ
mất chồng tìm thấy khuôn mặt của họ dưới ngòi bút của các nhà văn nữ.
Những người vừa kể thuộc một thế hệ xuất hiện trễ hơn những nhà văn như Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan lớp trước, có thể gọi là thế hệ thứ hai, mang tâm trạng bất
an của thời đại chiến tranh rõ rệt.
Năm đọa đầy những đêm giới nghiêm
Năm đằng đẵng những ngày tuyệt thực
Năm máu chảy và năm ruột mềm
Năm bom đạn và năm bão lụt
(Trần Dạ Từ)(5)
Dương Nghiễm Mậu đã từng làm tôi mê mẩn với truyện “Từ Hải Và Cuộc Phiêu Lưu Của Đời Chàng” đăng hai kỳ trên nguyệt san Văn. Tôi thuộc một phầnTruyện Kiều,
nhờ giọng ngâm rất hay của ba tôi, trước khi được học chính thức trong nhà trường, năm lớp chín. Nhưng trước Dương Nghiễm Mậu không ai chỉ cho tôi biết rằng Từ Hải
chưa bao giờ chết cả, rằng bi kịch Từ Hải có thể được viết lại, rằng giấc mơ hồi hương của Thúy Kiều là giấc mơ đời này qua đời khác, và câu thơ ngọn cờ ngơ ngác trống
canh trễ tràng có thể có ý nghĩa hình ảnh như thế nào.
Sau đó tìm đọc thêm tác giả này, tôi lại nhận ra nỗi bi phẫn đen tối, cùng đường bế tắc:
Những ngày tháng thốt vây lấy tôi trong trống không vô nghĩa. Tôi lang thang ở ngoài đường nhiều hơn thời gian ở trong nhà, sách vở không còn làm tôi say mê, tôi không
có vui chơi để khuây khỏa, tất cả mọi điều thành dửng dưng buồn tẻ… Một ngày xuống Trương, chúng tôi đi ăn thịt chó, tôi uống rượu say, sức rượu của tôi không bao
nhiêu, trong đêm khi trở về nhà tôi thấy tay chân tôi biến mất, trước mắt thì vô vàn những ánh sao đủ màu nhảy múa, thân thể tôi có lúc bay nhảy trong khoảng không.(6)
Đó là sự cùng đường của đời sống cá nhân hay sự cùng đường của xã hội miền Namđứng trên bờ vực thẳm? Đọc Dương Nghiễm Mậu, cũng như đọc Duyên Anh,Viên
Linh, Túy Hồng, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thụy Long, tôi có phần bâng khuâng giữa khuynh hướng lý tưởng và khuynh hướng đen tối. Cho đến
khi bắt gặp một đoạn văn trong Đêm tóc rối, đăng từng kỳ trên báo Văn mà tôi còn nhớ mãi những chi tiết chính.
– Vậy cậu biết con vợ tôi nó mèo mỡ với ai không?…
– Tao tha chết cho, tao giao con đĩ rạc lại cho mày, về mà sống với nhau. Mai tao đi rồi…(7)
Tôi chưa từng đọc một truyện nào như thế cả: một nhân vật xưng tôi tự mổ xẻ chính mình như người võ sĩ Nhật tự cầm dao mổ bụng, một nhân vật tôi vừa đáng khinh bỉ
vừa đáng thương hại, vừa đáng cảm thông vừa đáng phàn nàn, ngủ với vợ của người quen, một kẻ trí thức sa đọa tự ý thức về sự sa đọa của mình. Một ý thức sáng chói,
rướm máu của trí thức ViệtNam. Thời đó đối với tôi, những nhà văn như Dương Nghiễm Mậu là những kẻ dũng cảm, tấm gương của người trẻ tuổi, bất an, nhầm lẫn,
nhưng từ bên trong là trong sạch, mặc dù những điều ông viết ra thường buồn bã, tối tăm, đáng ghét, đáng căm phẫn.
Tôi cho rằng những ai muốn hiểu lịch sử tinh thần của miền Nam, sự cùng khổ của nó, giữa các cuộc đảo chánh và các tin tức chiến sự, sự khốn cùng của trí thức như một
khuôn mẫu có tính phổ biến cho sự khốn cùng của trí thức Việt Nam, không thể không đọc các tác giả như Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Xuân Hoàng,
Phan Nhật Nam, cũng như trước đó đã đọc Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mạnh Côn. Đó là một nền văn học của nạn nhân. Tôi gọi văn học miền Nam là một nền văn học nạn
nhân, vì ở đó tôi tìm thấy những cuộc đời không làm chủ được số phận mình, tiểu sử của những người tài hoa, trung thực, đầy lòng hi sinh và đã từng hi sinh cho đất nước,
trở thành những kẻ thất bại, bỗng nhiên thấy mình là kẻ có lỗi trước lịch sử. Tôi gọi đó là nền văn học nạn nhân vì bản chất trí thức của cuộc chiến đấu của họ, trong đó,
những nhân vật văn học bị đẩy tới cuộc chiến đấu không ngang sức và sự chiến thắng của ngòi bút với lưỡi gươm là huyền thoại.
Cũng nên nói thêm rằng, xa lạ với tính chất trong sáng, cô đọng, thường có ở các nhà văn lớp trước, một số nhà văn sau này lại viết câu dài, rậm rạp, phức hợp, ví dụ trường
hợp Nguyễn Thị Hoàng. Cuốn Vòng Tay Học Trò của bà được viết bằng một nghệ thuật thành công, mặc dù sự nổi tiếng của nó thời ấy có thể do những yếu tố ngoài nghệ
thuật và mặc dù trong các câu văn đầy rẫy các tĩnh từ và trạng từ, những cái bẫy nguy hiểm. Sở dĩ truyện thành công được như thế là vì câu văn Nguyễn Thị Hoàng thể hiện
trung thành lề lối cảm xúc và suy tư của người viết, của nhân vật, rậm rạp dài dòng, nhưng không rối.
Ngược lại với trường hợp Doãn Quốc Sỹ, Mặc Đỗ, Võ Hồng… tôi đọc Võ Phiến rất trễ, đầu năm 1975, ở nhà người anh rể của tôi, một sĩ quan Đà Lạt vừa bị thương ở mặt
trận về, thời kỳ hoang mang nhất. Tủ sách của anh có Mưa Đêm Cuối Năm, Chữ Tình, Đêm Xuân Trăng Sáng, Thương Hoài Ngàn Năm…Thời ấy có lẽ Võ Phiến không có
nhiều độc giả, nên tôi ngạc nhiên là anh tôi đọc sách của nhà văn này nhiều đến thế. Sách của ông không dành cho trẻ con, thời nhỏ hơn tôi chưa đọc ông, nếu đọc chắc đã
sớm bạc đầu.
Không phải vì Võ Phiến viết văn trịnh trọng, nghiêm nghị, khó khăn. Ngược lại mới đúng. Ông viết khơi khơi, nhẹ nhõm, dễ dàng, vừa kể chuyện vừa tủm tỉm cười, tưởng
như đang giữa chừng câu chuyện ông bỗng vỗ đùi đánh đét. Người mê viết văn đọc ông sẽ mê như điếu đổ, nhưng bắt chước không được. Khác vì cái tạng. Văn Mai Thảo
hay Nguyễn Khải thì người ta có thể “bắt chước” được. Nếu nhiều người viết làm mới ồn ào, người thì đảo câu đảo chữ trong tiểu thuyết, người thì siêu thực trong thơ, Võ
Phiến lại lặng lẽ một mình đi suốt con đường của ông bắt đầu từ Chữ Tình (1956) đến Chúng ta, qua cách viết (1973). Nếu Mai Thảo là người khai phá dòng tiểu thuyết tự
truyện thì Võ Phiến là người mở đường cho cái mà ta có thể gọi là phi tiểu thuyết (non fiction), gồm tùy bút, tạp bút, tiểu luận, truyện ngắn, tạp luận của ông.
Đặc điểm của tiểu thuyết là kể chuyện, đặc điểm của thơ là liên tưởng, đặc điểm của tùy bút và phi tiểu thuyết là phát hiện. Văn chương Võ Phiến là văn chương phát hiện.
Đó là nói về nghệ thuật, còn về nội dung và đề tài? Ông viết rất nhiều đề tài nhưng tôi cho rằng xuyên suốt các tác phẩm nung nấu một tâm sự về đất nước và chiến tranh,
cái ưu thời mẫn thế, nỗi tiếc thương bàng hoàng.
Ờ! Chiếc phản lực cơ tối tân ấy của Hoa Kỳ, nó đã gầm thét dữ dằn, rồi nó đã rơi xuống chỗ nào vậy? Nó rơi xuống cái bờ ao, nơi chị vợ bé của anh Bốn Thôi đêm khuya
về chợ gặp người câu ếch nham nhở đó chăng? Xuống cái bìa rừng nơi Năm Cán Vá vẫn lén lút hẹn hò đó chăng? Xuống gốc cây mù u, nơi chị Bốn Chìa Vôi đã bắt trọn ổ
bốn con sáo sậu năm nào đó chăng? Nó rơi xuống chỗ cây bồ kết sau nhà Bái Công, nơi chiều chiều ông lão gầy đét như que canh giữ ngọn lửa chập chờn nấu nồi cháo
nuôi mấy con heo đó chăng? Ai mà nghĩ được rằng những chỗ như thế lại có dịp đón một chiếc phản lực đến từ nước Hoa Kỳ!(8)
Mỗi khi nghĩ về nạn binh đao, về nỗi mất mát của gia đình mình, của quê cũ thân yêu, bao giờ tôi cũng nhớ những đoạn văn Võ Phiến. Nghĩ đến chúng, tôi thấy lòng bình
tĩnh lại, bớt đau khổ, bớt giận dữ, ấm lại, như đứng trước một người tri âm. Tôi nghĩ, văn học là sự an ủi.
Trời! Én nó thức làm gì mà đêm hôm khuya khoắt, và gió mưa dầm dề nó vẫn không ngừng kêu, mà tiếng chim luôn luôn lẽo đẽo quanh quẩn bên mối ưu tư của khách
vậy? Mà nó thành ra một thứ bạn tâm tình cố thiết không rời nhau suốt năm canh dằng dặc của những khách lữ thứ bồn chồn thấp thỏm vậy? Việc kiếm sống của nó khó
khăn đến thế sao? Một tinh thần nại khổ như vậy đáng được tưởng thưởng, ít ra bằng cái chất nhựa trầm hương thơm tho hiếm hoi của ông giáo sĩ Đắc Lộ mới được.(9)
Trong các tác phẩm cổ điển, câu chuyện được mô tả theo một chiều của thời gian. Thật ra, nhiều tác giả cũng sử dụng phong cách hồi tưởng thường gặp trong các trường ca
Hy Lạp, nghĩa là bắt đầu câu chuyện ở giữa, đi ngược về quá khứ, đi xuôi về tương lai, nhưng nhìn chung mũi tên thời gian vẫn chỉ một chiều. Chúng ta thấy một sự thay
đổi rất lớn trên hệ quy chiếu trong tiểu thuyết miền Nam, nhất là ở thế hệ những người viết sau này. Có một ảnh hưởng lớn từ văn học Pháp. Các nhà văn miền Nam thời đó
hầu hết đều đọc được tiếng Pháp, hoặc tiếng Anh, một số thuộc thế hệ trước còn tắm mình trong nền văn hóa châu Âu, mặt khác nhiều tác phẩm của André Gide, André
Maurois, Jean-Paul Sartre, Albert Camus … được dịch ra tiếng Việt. Sự đảo lộn thời gian không phải là một phong trào thời thượng mà là một phương pháp nghệ thuật.
Nhờ thủ pháp dịch chuyển thời gian, người đọc tiếp cận nhân vật từ các góc độ khác nhau, các sự kiện xảy ra không theo kiểu hàng lớp như xếp cá vào hộp, mà chúng
tương tác với nhau trong quan hệ nhân quả. Kỹ thuật này được sử dụng trong các tác giả tiểu thuyết dòng ý thức và các tác giả phi tiểu thuyết như Võ Phiến. Nếu được sử
dụng hiệu quả, chúng cũng gây ra hiệu ứng phim ảnh.
Nói về ảnh hưởng, tôi cho rằng văn học miền Namchịu ảnh hưởng của bảy thứ sau đây: văn học tiền chiến, chủ nghĩa hiện sinh, phong trào tiểu thuyết mới, chủ nghĩa siêu
thực, phân tâm học, thiền và triết học Đông phương. Các khuynh hướng ấy có khi bộc lộ rõ ràng, có khi kín đáo, các tác giả có khi ý thức, có khi không ý thức về chúng.
Nhiều người xem ảnh hưởng của văn học tiền chiến lãng mạn như Thơ Mới hay Tự Lực Văn Đoàn lên các thế hệ sau là quá trình tự nhiên. Nhưng thật ra ở ngoài Bắc trong
cùng thời gian đó, các tác phẩm này không được lưu hành trong xã hội và không được giảng dạy trong nhà trường, vì vậy khó có thể nói là hầu hết các nhà văn miền Bắc
sau này, mà người ta gọi là thế hệ chống Mỹ, đã chịu tác động mạnh mẽ của chúng. Những tác giả này chịu ảnh hưởng của dòng văn học cách mạng và kháng chiến, như tôi
có đề cập ở trên. Xin nêu một ví dụ. Về hình thức thơ ca, miền Bắc sử dụng rất nhiều và rất tài hoa thể thơ tự do, trong khi cùng thời gian, bất chấp những thành tựu lớn, và
trừ một vài ngoại lệ, miền Nam chủ yếu vẫn đứng lại ở các thể thơ truyền thống. Điều này cần được xem xét dưới góc độ tác động của các nền thơ đi trước nó. Miền Nam
chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ văn lãng mạn tiền chiến, đặc biệt là Thơ mới, trong khi miền Bắc chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ văn kháng chiến chống Pháp và dòng
văn học cách mạng. Sự giới thiệu và phát triển của các khuynh hướng vừa nói trên đều do công lao to lớn của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, hay dịch giả, ví dụ Nguyễn
Hiến Lê, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Văn Trung, Tam Ích, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Nhất Hạnh, Kim Định, Trần Văn Toàn, Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, Lê Tuyên,
Đỗ Long Vân, Nguyễn Tấn Long, Lê Huy Oanh, Đặng Tiến, Cao Huy Khanh, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Hữu Ủy, Trần Thiện Đạo, Huỳnh Phan Anh và nhiều người khác.
Đặc biệt những cuốn như Thơ Đường của Trần Trọng Kim, Đại Cương Văn Học Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, Thiền Luận của Suzuki, Tuệ Sỹ và Trúc Thiên dịch,
Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Họccủa Phạm Công Thiện… thời ấy đã ảnh hưởng đến một đứa học sinh trung học là tôi rất
nhiều. Báo chí văn học cũng đóng vai trò lớn trong việc phổ biến các tác phẩm mới và các trường phái, quan điểm nghệ thuật. Những tập san tôi đã đọc, hoặc mới, hoặc cũ
của các ông anh họ tôi để lại, mà đến nay tôi còn nhớ: Văn Hóa Ngày Nay, Văn, Sáng Tạo, Phổ Thông, Bách Khoa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Hương Quê, Văn Học, Khởi Hành,
Đối Diện, Trình Bày, Thái Độ, Thời Tập, Tư Tưởng, Tuổi Ngọc. Và những tờ báo của địa phương như Lập Trường ở Huế. Còn gì nữa không? Chắc là còn, nhưng tôi không
thể nào nhớ hết. Văn, Bách Khoa, Văn Học, Khởi Hành, Tuổi Ngọc là những món ăn tinh thần hàng ngày. Tôi biết đến những bài thơ thời kỳ kháng chiến nhờ tạp chí Văn
Học:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trời ơi, mười bốn tuổi, nhờ đọc Quang Dũng mà tôi yêu cuộc kháng chiến trường kỳ biết bao, yêu Hà Nội biết bao. Tôi nhớ dễ dàng thơ Phùng Quán trích trong một truyện
dài đăng báo của Trùng Dương.
Sét đánh trên đầu không xô tôi ngã
Tôi thần tượng André Maurois, Thomas Mann, Albert Camus, Lâm Ngữ Đường trên Văn, mến Cao Huy Khanh bay bổng trên Khởi Hành, thích Những Luống Hoa Cải
Vàng của Cung Tích Biền trên Đời, khoái tiểu luận văn học của Đặng Tiến trênVăn, yêu tình tự dân tộc của Nhất Hạnh nhờ Giữ Thơm Quê Mẹ, mê thơ Xuân Diệu nhờ đọc
Duyên Anh của Tuổi Ngọc, bàng hoàng với Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng đi dọc tờ Văn trang nhã từ tháng giêng đến tháng chạp mỗi số một bài.
Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng
lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng…(10)
Vũ Bằng đã làm cho bao nhiêu thanh niên phải thầm thương trộm nhớ miền Bắc, như một người phụ nữ dịu dàng không quen biết, người chị, người mẹ, người yêu, những
món ăn chỉ nghe tên mà không biết là món gì, ngọn đèn dầu, hoa xoan, mưa bụi liêu riêu mà chẳng bao giờ thấy chúng ra sao. Như vậy có một khuynh hướng văn chương
hoài niệm tiêu biểu là Vũ Bằng trong văn học miền Nam, và những người khác nữa như Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh, Võ Hồng. Khuynh hướng này tiếp tục được nuôi giữ
sau này trong văn học hải ngoại. Cũng phải thôi. Xa quê, dù là từ Bắc vàoNam hay từ bên này qua bên kia biển Đông, người ta cũng thương nhớ khôn nguôi.
Nguyễn Đình Toàn viết trong Áo Mơ Phai (1972, Giải thưởng văn học nghệ thuật của Tổng thống 1973) :
Hà Nội 1954, tháng sáu chưa hết, nhưng mùa Thu đã đầy hơi lạnh. Buổi chiều im trong văn phòng bước ra tới cửa Tòa Đô Chánh, Quang đã có thể trông thấy sương mù
trên mặt hồ Gươm.(11)
Tuy nhiên, hoài niệm không phải là dòng chủ lưu. Tôi nhận thấy một số tác giả trước đây viết về văn học miềnNamhoặc hiện nay viết về văn học hải ngoại nhấn mạnh có
phần quá đáng đến tính chất hoài hương, thậm chí cho đó là nội dung duy nhất đáng được khen ngợi hoặc nhắc tới. Cuộc sống bao giờ cũng mới, mỗi ngày, nên ngoài
những tình cảm hoài niệm, vốn hết sức đáng trân trọng, người xa quê hương, xa nước, kẻ lưu vong, kẻ di dân, người xuất khẩu lao động, còn biết bao tình cảm và suy tư
khác trong cuộc sống mới, dằn vặt, sâu sắc, phong phú, bâng khuâng. Và chưa chắc đã vui ít buồn nhiều.
Như Vũ Bằng, nhớ mà không chịu về, không chịu về mà vẫn nhớ, là tại sao ?
Tôi vào Sài Gòn lúc đầu
Thật là bỡ ngỡ mối sầu Thừa Thiên
Rồi sau đó thật tuy nhiên
Quen vui với chị thuộc phiền với em.
(Bùi Giáng)
Thật ra, thơ đến với tôi chậm hơn. Mùa hè cuối năm lớp tám tôi mới biết mê thơ.Hết niên khóa, thi cử xong, chuẩn bị viết lưu bút ngày xanh, mỗi năm đến hè lòng mang
mác buồn, chín mươi ngày qua …thì giáo sư dạy văn của tôi, thầy Hồ Thế Vĩnh, nổi hứng mang vào lớp một máy ghi âm cát-sét mở cho cả lớp nghe nhiều giờ đồng hồ
những bài thơ của Đinh Hùng, giọng ngâm Hồ Điệp, tiếng sáo Tô Kiều Ngân. Các nhóc tì lặng im thổn thức. Thơ Đinh Hùng không có trong chương trình học, và hồi đó
máy quay đĩa hay băng cát-sét hãy còn hiếm lắm, nhất là ở những thị trấn nghèo như quê tôi.
Cùng lúc, Hoàng Cầm và Trần Dần ở miền Bắc, có khuynh hướng tượng trưng, vẫn đang viết nhưng dĩ nhiên không mấy ai có dịp đọc. Sau năm 1940, chủ nghĩa tượng
trưng ở nước ta mới khởi đầu thì phôi pha vì ngọn lửa chiến tranh. Đinh Hùng là một trường hợp khác, ông vẫn còn tiếp tục sáng tác ở miềnNamsau khi hòa bình lập lại.
Đối với tôi, thơ ông vừa xa lạ vừa gần gũi, kêu gọi con người trở về với thiên nhiên nguyên thuỷ.
Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi
Ám ảnh về cái chết, cõi âm, nhưng ông yêu sự sống. Không yêu cuộc đời, không thể yêu những người đã qua, đã mất, đã chết. Tài năng ngôn ngữ của Đinh Hùng làm cho
các thế giới gần lại với nhau, người ở cùng ma, quỷ ở với người, nhưng ma quỷ của ông hiền lành, có cảm xúc và suy nghĩ, đầy rẫy một sự sống khác. Một thứ vật chất tối
(dark matter).
Đinh Hùng thường làm thơ lục bát và bảy chữ. Một số bài thơ bảy chữ hay nhất của ông có âm điệu lạ(12):
Đọc thử Xuân Diệu:
Mau với chứ / vội vàng lên với chứ
Trong khi Đinh Hùng viết:
Nước cũ rưng rưng / màu ngọc trắng,
Mây ngày xưa tỏ, / nguyệt xưa trong.
Hay
Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu
So sánh với các nhà thơ tượng trưng khác: Hàn Mặc Tử táo bạo, cuồng điên, sáng tạo vô thức, Chế Lan Viên nổi loạn, kinh dị, Bích Khê huyền hoặc, cực kì phân huỷ, thì ở
Đinh Hùng, ý thức phương Đông, ý thức trở về rất rõ rệt.
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Đinh Hùng là người mở cánh cửa cuối cùng của Thơ Mới, giai đoạn phát triển sau và phần nào chuẩn bị không khí cho chủ nghĩa siêu thực bắt đầu. Nhưng có khi ông cũng
gần gũi với chúng tôi:
Ta ném bút, dẫm lên sầu một buổi,
Xa vở bài, mở rộng Sách Ham Mê.
Đã từng phen trèo cổng bỏ trường về,
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn.
Đời đổi mới từ ngày ta dấy loạn,
Sớm như chiều hư thực bóng hoa hương.
Ta ra đi, tìm lớp học thiên đường,
Và khi đó mẹ yêu ngồi khóc…
Mặc dù thuộc lòng những câu thơ này, ngâm ư ử trong hành lang lớp học giờ ra chơi, tôi nhớ không đứa nào trong đám bạn tôi dám bỏ học như tác giả vì thầy dạy văn
mang kính trắng, tuy mê Đinh Hùng nhưng sẵn sàng phạt nặng học sinh bắt chước thi sĩ! Tôi yêu Đinh Hùng hơn nữa khi đọc Bùi Giáng chất ngất trong Đi Vào Cõi Thơ:
Nhưng thằng thi sỹ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẽ lại một màu tuyết lạnh ngát, một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho
con người được rồ dại chịu chơi giữa phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thuỷ vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng
hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn, Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra toà một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết
nhau mất công đào huyệt.(13)
Có hai cuốn sách dẫn tôi vào thơ ca, Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Đi Vào Cõi Thơ, hai tập, của Bùi Giáng. Cuốn thứ nhất phê bình, cuốn thứ hai không ra phê
bình, không ra tiểu luận, chẳng biết xếp vào loại gì. Có khi tôi đọc vài trang rồi chán, bực mình nhét vào đáy tủ, có khi đọc miên man cả ngày. Nhưng hình như con nít lớn
lên, ai không từng đọc Đi Vào Cõi Thơ coi bộ không xong.
Tôi nghiệm thấy trong đời có những người không cần làm gì cà mà sự hiện hữu của họ lại cần thiết. Một trong những người đó là Bùi Giáng. Ông là tâm hồn Đông Phương
lớn lao, là ý thức ViệtNamvượt thoát phân ly và chiến tranh, là cội nguồn. Nhưng nói ông không làm gì cả thì oan: Bùi Giáng có sức làm việc kinh người, ai cũng biết, như
được ghi lại trong các hồi ký bởi nhiều nhà văn. Thời chiến tranh chưa lan rộng, không khí thanh bình còn bao phủ một phần lớn thôn quê miền Nam, nghỉ hè, nằm trên
cánh võng mắc giữa hai cành ổi la đà, tôi lai rai đọc ông.
Một buổi trưa nắng vàng in trên tóc
Lùa chân mây về ở dưới chân trời
Ba chữ ‘về’, chữ ‘ở’, chữ ‘dưới’ đi bên nhau có vẻ thừa thãi. Tôi cố sửa thơ ông mà không sửa được. Thơ Bùi Giáng có nhiều câu như thế, thừa mà lại không thừa, nhẩn
nha, líu ríu, nói nhiều mà không nói gì cả, câu này xiêu đổ vào câu kia. Ông khai phá một dòng thơ lạ lùng, dòng thơ ngôn ngữ đầu tiên ở ViệtNam, loại thơ không thể dịch
được ra tiếng nước ngoài vì tính chất của nó là ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ sâu thẳm Việt tính.
Bí ẩn của Bùi Giáng cũng nằm ở giọng điệu. Biểu hiện dễ thấy của nó là lối xưng hô ít gặp, có tính tâm sự.
Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ
Và yêu thương như lá ở bên hoa
Hay:
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi. Cho ta nắm tay em.
Trong thơ Việt Nam, có hai người thường sử dụng lối xưng hô này. Một là Bùi Giáng ở trongNam, hai là Tố Hữu ở ngoài Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
(Tố Hữu)
Nhưng giọng điệu không phải chỉ ở lối xưng hô, nó là một hiện tượng lớn hơn.
Giọng của Thơ Mới là buồn man mác, giọng của thơ ca cách mạng miền Bắc là hào hùng, thắm thiết, giọng của thơ tượng trưng là u sầu, mê hoặc. Bùi Giáng có chất giọng
khác: giọng tâm tình, có nét thanh đạm. Giọng tâm tình của ông được giản lược xuống mức chất phác, pha hài hước, không phải tiếng cười mà mỉm cười.
Nhìn bề ngoài, Bùi Giáng không đóng góp nhiều trong việc cách tân ngôn ngữ, ông dùng hầu hết các thể thơ lục bát, bảy chữ, năm chữ. Tôi để ý những người có thói quen
làm thơ nhẩm trong đầu như Bùi Giáng hay sau này Thanh Tâm Tuyền giai đoạn học tập cải tạo, do điều kiện lúc đó, có khuynh hướng làm thơ có vần hơn những người
làm thơ trực tiếp trên giấy. Cũng dễ hiểu, vì đó là các thể thơ dễ nhớ. Cái mà Bùi Giáng mang lại cho thơ Việt Nam là không phải là sự cách tân các thể thơ, mà trước hết là
phong cách ngôn ngữ (style) của ông, sự tiếp cận từ ngoại biên, sự đảo lộn tính đối xứng và các trật tự của giá trị thẩm mỹ, không phải bằng các bài nghiên cứu lý luận dịch
thuật, mặc dù ông làm việc rất nhiều trong lĩnh vực này, mà bằng sự kết hợp tài tình trong thơ giữa một tâm hồn Á Đông nguyên thủy, lão thực và một trí tuệ triết học sáng
láng thể hiện thành dòng chảy riêng biệt, bao gồm nhiều gỗ trầm hương và củi mục. Đọc thơ ông phải đọc cả những bài hay và những câu dở viết thừa ra trong những cơn
hưng cảm ngất trời. Đọc ông là uống nước suối đầu nguồn, không phải là uống nước chưng cất. Ôi, bàn về Bùi Giáng biết bao giờ cho hết.
Trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, hình như không có một bài thơ tự do nào. Thanh Tâm Tuyền là người khởi đầu dòng thơ tự do ở miền Nam. Cùng với nhóm
Sáng Tạo, ông kêu gọi ý thức sáng tạo và nỗ lực đổi mới trong văn chương. Thực ra ở ViệtNam, Thanh Tâm Tuyền không phải là người làm thơ tự do đầu tiên. Ông tiếp
theo truyền thống thơ tự do của các nhà thơ kháng chiến, như Hữu Loan với Đèo Cả, Màu Tím Hoa Sim, Hoàng Cầm với Bên Kia Sông Đuống.
Chủ nghĩa hiện đại vẫn còn ảnh hưởng lớn ở châu Mỹ, chủ nghĩa hiện sinh về mặt triết học, và chủ nghĩa siêu thực trong văn chương, vẫn đang còn đà phát triển ở Pháp và
châu Âu, vì vậy ảnh hưởng của chúng đối với Thanh Tâm Tuyền và các nhà thơ miền Nam là điều rõ ràng và dễ hiểu. Nhưng Thanh Tâm Tuyền mặc dù Tây học cũng cắm
rất sâu nguồn cội thơ ông xuống mảnh đất ViệtNam. Chủ nghĩa siêu thực được thành lập bởi một nhóm các nhà thơ, nghệ sĩ ở Pháp những năm 1920, mà ảnh hưởng của nó
vẫn tiếp tục, chống lại sự thuần lý, sử dụng các giấc mơ và tiềm thức như nguồn sáng tạo. Thơ họ có những hình ảnh huyền ảo, sự nối kết lỏng lẻo, gồm nhiều bước nhảy
(leaps), khó cắt nghĩa và diễn dịch. Thơ siêu thực không chỉ chống lại khuynh hướng thẩm mĩ cổ điển, mà còn tìm cách giải phóng tinh thần khỏi các ràng buộc lý tính. Chủ
nghĩa siêu thực như vậy xét về lịch sử và về lý thuyết là bắt nguồn từ chủ nghĩa tượng trưng. Đọc kĩ thơ Thanh Tâm Tuyền, ta sẽ thấy ông không phải hoàn toàn là nhà thơ
siêu thực, và chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa này mà thôi.
Tôi cũng chỉ được đọc tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc của ông nhưng thuở ấy còn nhỏ quá, chưa có ấn tượng rõ ràng. Sau này ông không làm thơ nữa mà viết tiểu thuyết
và văn xuôi. Tôi đọc Bếp Lửa, và say mê Ung Thư đăng từng kì trên Vănviết về Hà Nội, một Hà Nội thời chiến tranh u uất, buồn rầu mà vẫn đẹp, say đắm lòng người. Tiểu
thuyết của ông mới, nhưng thơ ông còn mới hơn. Nó lạ quá vào thời đó, nhiều người không chịu nổi. Thơ Thanh Tâm Tuyền là sự kết hợp của ba thứ: tài hoa ngôn ngữ,
tinh thần triết học trong bối cảnh của chủ nghĩa hiện đại và chất suy tư chính trị xã hội.
Ông kêu gọi:
Phải làm mới tình yêu
Coi chúng ta là những người thứ nhất
Trên trái đất này biết yêu nhau
Lời kêu gọi ấy tôi nghiệm ra bao giờ cũng đúng.
Ông làm mới trước hết bằng cách tân ngôn ngữ. Thơ tự do Thanh Tâm Tuyền dùng nhiều chữ lạ, ít nhất là vào thời ấy:
Mùa này gió biển thổi điên liên lục địa
Những hình ảnh và liên tưởng mới:
Tiếng máy nổ bỗng thành tiếng cười dài
Thanh Tâm Tuyền chú ý rất nhiều đến âm nhạc trong thơ, gây hiệu quả nhạc tính mạnh:
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát
sớm mai khua thức nhiều nhớ thương
Mặc dù ông sử dụng nhiều câu có tính văn xuôi:
Tôi bám chặt cửa xe
Xin một chân đứng
Nhớ đến chúng bạn
Một người bên xóm Cỏ
Một người ngoài Phú Thọ
Đọc lướt qua, như văn xuôi. Nhưng thật ra, tác giả sắp xếp chữ rất có ý thức, xâu chuỗi chúng vào nhau, ba chữ một đi liền trong một đoạn thơ ngắn gây cảm giác cô đơn
lạc lõng, chữ xe đi với chữ xin, chữ đứng đi với chữ chúng, chữ Cỏ đi với chữThọ, tạo ra một thứ âm nhạc rất riêng. Thơ ông là thơ của thời chiến tranh, thất tán, mất niềm
tin, con người bay đi mịt mù như chiếc lá.
*
NẾU cần tìm những điểm giống nhau giữa văn học miền Nam và văn học miền Bắc thời kỳ 1954-1975, vốn là hai nền văn học khác biệt vì những lý do lịch sử, tôi cho rằng
có thể tìm thấy chúng trước hết ở tình cảm yêu quê hương và ở thơ tình.Thơ tình miền Nam khởi đầu từ Đinh Hùng, phát triển ở Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Tuệ Mai, Nguyễn
Thị Hoàng, Nhã Ca, Phạm Thiên Thư, và nhiều người khác, kết thúc ở Nguyễn Tất Nhiên. Du Tử Lê là một trường hợp đặc biệt khác, vì sau này khi ở hải ngoại anh đã đi
thêm rất xa con đường của mình khởi từ những năm sáu mươi, lúc anh viết:
Không bao giờ đâu Donna
Dù anh có yêu em
Hơn bất cứ thứ gì trên đất Mỹ
Thì anh cũng vẫn trở về
(Indiana, 1969)
Đó là những câu thơ có tính báo hiệu.
Nếu Đinh Hùng có thể xem là nhà thơ tình khởi đầu của miền Nam, thì Nguyên Sa là một trường hợp đặc biệt. Lớp chín, cuối trung học đệ nhất cấp, giáo sư dạy văn của
tôi, thầy Đỗ Tư Nhơn về từ Đà Lạt, vừa giảng Truyện Kiều vừa giới thiệu nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn và những bài thơ tình Nguyên Sa cho chúng tôi. Là người của
nhóm Sáng Tạo, mang tinh thần đổi mới, vượt qua văn chương tiền chiến, Nguyên Sa ý thức rất rõ về khung cảnh của một xã hội đang đối diện với chiến tranh và sự tan rã
của các giá trị. Trong những bài lý luận và tùy bút về văn học, ông chia sẻ quan điểm của Sáng Tạo, ít nhất là thời kì khởi đầu, nhưng khi sáng tác, chàng thi sĩ từParis mới
về, hoàn toàn buông mình theo cảm hứng tự nhiên: ông làm thơ tình bằng các thể thơ cổ điển. Giữa miềnNam nắng ấm vút lên giọng thơ ngọt ngào trong trẻo:
Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Rồi sau này Nguyên Sa sẽ trở lại với tâm trạng u buồn, bất an của thế hệ ông, thơ ngày càng tự do, phá thể, thơ ngày càng cay đắng, nhưng vào lúc này khi trò chuyện với
người yêu, ông không nhìn ra cái chết và chiến tranh, ông không muốn nhìn nhận chúng, và vẫn trunh thành với những tâm hồn độc giả lãng mạn. Thơ ông được yêu mến
là đúng. Nhưng sau ông, sẽ có những dòng thơ tình khác.
Tôi háo hức đọc những bức thư Pariscủa Minh Đức Hoài Trinh trên tờ Phổ Thôngcủa Nguyễn Vỹ, người sau này có những câu thơ đẹp:
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Ở miền Bắc những nhà thơ tình phái nữ nổi tiếng cùng thời như Lý Phương Liên, Xuân Quỳnh… làm thơ cũng buồn, nhưng man mác, không có giọng đau đớn, tuyệt vọng
như Minh Đức Hoài Trinh.
Lẽ nào em buộc cánh anh
Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu
(Lý Phương Liên)
Suốt hai mươi năm, thơ tình miền Nam có số phận long đong, lận đận. Chiến tranh càng lan rộng, xã hội càng băng rã, người làm thơ tình càng ít, nhưng khi họ cất tiếng thì
đó là những tiếng nói lạ lùng, gây bất ngờ ở người đọc. Ngang tàng như Nguyễn Đức Sơn, dịu dàng như Phạm Thiên Thư.
Phạm Thiên Thư đưa tình yêu vào cõi thiền, hay nói như Thích Minh Châu, viện trưởng viện Đại học Vạn Hạnh, đã “cả gan thi hóa Kim Cương kinh”, trong một lời giới
thiệu. Những thế hệ thanh niên học sinh ở miền Nam, và hình như sau này ở cả miền Bắc và trong cả nước, đã từng nức nở với Phạm Thiên Thư và Phạm Duy:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Qua tiếng hát Thái Thanh nhẹ như tơ trời, rền vang như mưa. Thơ ông dịu dàng mà cũng cay đắng, nhưng không phải lỗi ở ông, đó là lỗi ở cuộc đời. Đọc thơ Phạm Thiên
Thư thấy tình yêu vẫn còn. Nhưng đến Nguyễn Tất Nhiên, nổi tiếng trong những ca khúc do Phạm Duy phổ thơ, thì tình yêu theo nghĩa thông thường hầu như biến mất, nó
trở thành một thứ tình cảm có có không không, thứ tình yêu của một tuổi trẻ mất niềm tin ở cuộc đời, sắp lao vào lửa. Nỗi buồn của người lính miễn cưỡng đi vào chiến
tranh, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.
Thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
ấ ổể
Ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư và Nguyễn Tất Nhiên không mới mà lại mới, mới mà lại không mới. Nhưng rõ ràng nó khác cách nói của các nhà thơ cổ điển và các nhà
thơ ngoài Bắc cùng thời.
Viết về chiến tranh, như những người lính, Nguyễn Bắc Sơn, Thế Uyên, Du Tử Lê, Y Uyên, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Vũ Hữu Định… và nhiều người khác đã ghi lại
trong thơ họ một thời binh lửa. Chúng ta cùng đọc thử Tô Thùy Yên.
Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hơi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ
Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò
(Qua Sông)
Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ đứng ở cánh cửa cuối cùng của con đường thơ miền Nam, con đường khởi đi từ Vũ Hoàng Chương, mặc dù Tô Thùy Yên làm thơ
từ sớm. Những bài thơ đầu để lộ ý thức làm mới ngôn ngữ, chúng được viết ở thể tự do; càng về sau ông càng làm thơ có vần nhiều hơn. Trong mảnh đất hẹp của thể thơ cổ
điển, Tô Thùy Yên đã nâng nghệ thuật ngôn ngữ Việt lên đến mức tinh vi. Tôi chưa thấy một nhà thơ nào có cách dùng chữ đầy dụng công như ông.
Tôi nghĩ: một nhà thơ khi đứng trước những bi tráng lịch sử, những sự kiện khốc liệt, khi đối diện với nỗi xúc động bàng hoàng, thường trở về với thể thơ cổ điển, chọn lựa
cách nói giản dị và thuận tiện, bỏ qua những bận tâm vốn có của anh ta về ngôn ngữ. Điều đó đúng với Tô Thùy Yên mà cũng đúng với nhiều nhà thơ khác.
Khoảng từ năm 1970, xuất hiện nhiều tác giả trẻ, một số mặc áo lính, trên các báo, nhất là ở các địa phương. Một số chưa có thời gian để in tác phẩm của mình. Tôi nhớ
những tên tuổi như Y Uyên, Ngô Minh, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Chu Vương Miện…Bắt đầu thành một dòng chảy khác, mà người chinh phục tôi nhất là
Phan Nhật Nam.
Nhắc đến văn chương viết về chiến tranh, không thể nào không nói đến Phan Nhật Nam. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, miền Namthực sự ra khỏi cơn huyễn mộng sâu, cơn
mê đắm ảo tưởng hoà bình dằng dặc. Mặc dù bao gồm nhiều thể loại, nhiều đề tài, nhiều nội dung, văn học miền Namchưa bao giờ cảm nhận được sức nóng của ngọn lửa
chiến tranh trên trang viết trực tiếp đến như thế. Tôi bắt đầu đọc Phan Nhật Nam từ năm mười bốn tuổi, còn quá nhỏ để hiểu tường tận và nhớ đầy đủ chi tiết, nhưng ấn
tượng ngời ngời của Dấu Binh Lửa, Dựa lưng nỗi chết, Dọc đường số Một…là không thể nào phai được. Đọc anh, tôi hiểu ra rằng chỉ vài năm nữa, nếu không có gì thay
đổi, tôi sẽ là một trong những người lính mang ba lô, súng đạn trên vai lội qua sình lầy, rừng thẳm, muỗi mòng, lội qua bom đạn như bao nhiêu người lính vô danh khác,
chứng kiến những xóm làng lửa cháy, mẹ con dắt díu nhau chạy loạn, đụng trận với những kẻ địch mà mình không hề căm thù, nhưng vẫn phải nổ súng vào họ. Tôi sẽ giết
người hay tôi sẽ bị giết, hay là cả hai. Đọc Phan Nhật Nam là đọc bi kịch của chiến tranh, những cái chết oanh liệt, một hậu phương ích kỉ và tan rã, những suy nghĩ về đời
sống dân sự, về những xung đột dân tộc mà người trí thức không thể không đối diện. Lạ lùng thay, đọc anh, tôi cảm yêu đất nước mình hơn cũng như khi tôi đọc Khái
Hưng, Nhất Linh, Vũ Bằng, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nhật Tiến, Nhã Ca, Lê Tất Điều, Viên Linh, nhưng bằng một tình yêu cay đắng, tỉnh táo, khốc liệt, nghẹn ngào.
Và giận dữ. Tôi từng có dịp được gặp, trong những giờ ngắn ngủi, Phan Nhật Nam, khi anh đến Canada và Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi tôi về Việt Nam, ngồi trước các
anh, hai nhà văn viết bút ký tài hoa nhất nước, cả hai đều cùng quê Quảng Trị với tôi, một chiến trường máu lửa, nơi thư hùng của các đại đơn vị Nam, Bắc, tôi nhận ra rằng
bi kịch của cuộc chiến tranh sẽ còn đeo đẳng dân tộc chúng ta. Cho đến khi nào chúng ta chưa tìm được cách để trò chuyện với nó, giải thích nó. Muốn thế cần có thời gian,
cần có sự tha thứ và can đảm. Rất nhiều tha thứ. Rất nhiều can đảm. Hai người đã chọn lựa hai con đường hoàn toàn khác nhau: họ chính là biểu tượng của chiến tranh vừa
qua.
Tôi thiển nghĩ nghiên cứu văn học một giai đoạn không thể giới hạn vào một dòng văn học nhất định. Văn học thời kỳ 1945-1954, mặc dù kháng chiến là nội dung chủ đạo,
vẫn còn những tác phẩm ở thành thị. Nhiều tác phẩm trong thời kì này, như tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, không có nội dung kháng chiến. Tương tự như thế sau 1954 không
phải chỉ có văn học miền Bắc mà còn có văn học miền Nam, và ngược lại, không phải chỉ có văn học miền Nam mà còn có văn học miền Bắc. Về một phía, dòng văn học
miền Nam bị gọi là “văn học Mỹ Ngụy”, “văn học Sài Gòn”, “văn học đô thị” hay “văn học vùng tạm chiếm”. Những cách gọi như thế phản ảnh những thái độ phiến diện
nhất thời, sẽ không đóng góp gì nhiều đối với việc nghiên cứu văn học sử và phát triển một nền lý luận văn học của cả nước. Đối lập với các từ văn học vùng tạm chiếm,
văn học Mỹ Ngụy, là những từ như “văn học tuyên truyền”, “tác phẩm của các văn nô miền Bắc”. Chúng cũng có những tính chất phiến diện nhất thời như vừa nói. Quá
trình hình thành văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỉ hai mươi là tập hợp của các dòng văn học, nhưng đó không phải là một số cộng đơn thuần. Sự tồn tại song song
của nhiều hơn một dòng văn học không phải là một hiện tượng mới lạ trên thế giới hay ở nước ta. Trong lịch sử đã có những dòng văn học riêng rẽ vừa đối kháng vừa bổ
sung. Như văn học Đông Đức và Tây Đức thời chiến tranh lạnh, văn học của các tác giả Xô viết như Evtuchenko và các tác giả phi Xô viết như Brodsky. Trong giai đoạn
Trịnh Nguyễn phân tranh, có những tác giả phía Bắc và những tác giả phía Nam, nhưng ngày nay chúng ta không còn tìm cách phân biệt họ trên các quan điểm chính trị,
trừ khi nhằm mục đích nghiên cứu cụ thể. Tôi tin rằng chỉ vài thế hệ nữa thôi, con cháu chúng ta cũng sẽ nhìn cuộc chiến tranh vừa qua như vậy. Nếu văn học miền Bắc là
một nền văn học cách mạng, văn học xã hội chủ nghĩa, phục vụ thiết thực cho những đường lối của Đảng, “trước hết đó là văn học phục vụ chính trị”, “ghi chép những
thành tích, những chiến công”, như cách nói của Lê Ngọc Trà(14), thì nó vẫn có khả năng, trong những tác phẩm văn học đích thực, thể hiện đúng tâm hồn của người Việt
Nam, hay ít nhất là một bộ phận của nó, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là tình cảm yêu nước, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Đối với người đọc
tinh tường, không bị chi phối bởi các định kiến cá nhân, các tác phẩm quan trọng của dòng văn học này, các tiểu thuyết, các bài thơ, các ca khúc đã thành công trong việc
kêu gọi xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng dân tộc, gạt bỏ bi lụy cá nhân, tình cảm hi sinh cho chiến trường. Mặc dù cuộc chiến tranh đã để lại biết bao hậu quả đau
buồn và các giá trị cổ điển của chủ nghĩa xã hội đã bị thách thức nặng nề hoặc bị phủ nhận, tôi vẫn tin rằng trong các tác phẩm miền Bắc thời kì ấy vẫn còn chiếu sáng một
niềm tin trong sáng, cao cả, chân thành, có tính dân tộc, đã từng dẫn dắt hàng triệu người đi trên con đường mà họ tin là chân lý. Nhưng đời sống phức tạp hơn những bộ óc
thông minh nhất và hiện thực luôn tạo ra những khúc quanh thử thách bất ngờ cho các giá trị tưởng là vĩnh cửu. Trong khi đó, văn học miền Nam cùng thời gian này, 1954-
1975, đã truyền đi những giá trị khác, có tính phổ biến, cùng với ngôn ngữ của nó, một ngôn ngữ cũng có tính phổ biến, nhưng cả hai cùng chịu đựng một số phận cay đắng
hơn. Ngày nay đọc lại một số các tác phẩm ấy tôi vẫn còn hình dung được bầu khí quyển vừa hồn nhiên thơ mộng, vừa sâu sắc buồn rầu, vừa tự do phóng dật, vừa đậm chất
nhân văn.
Từ 1975 đến nay, lý luận và sáng tác văn học trên truyền thông chính thức đã có cái nhìn cởi mở hơn, đặc biệt vào thời kỳ đổi mới khoảng 1988-1993. Đáng tiếc, tôi nghĩ,
nó hãy còn thất bại trong việc soi sáng đời sống xã hội miền Nam, các thành thị và nông thôn thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, thời kỳ chiến tranh. Trong các tác
phẩm văn học công khai trong nước ba mươi năm trở lại đây, có nhắc ít nhiều đến miền Nam dưới chế độ VNCH, tôi chưa từng may mắn đọc được một tác phẩm nào mô tả
đúng thật hoàn cảnh mà tôi đã sinh ra, đã cắp sách đi học, đã vui chơi, đã hạnh phúc, đã đau khổ giữa cha mẹ, láng giềng, thầy cô, bè bạn, kẻ bên này, người bên kia, đã
khóc trước xác chết của người thân, đúng như những con người mà tôi vẫn biết, những nhân vật cho đến nay vẫn chờ một ngày cuốn tiểu thuyết của họ được kể lại bởi các
nhà văn am hiểu tường tận thời kỳ đó.
Mùa xuân năm 1972, một đơn vị nhảy dù VNCH dừng quân ở làng tôi. Những người lính tạm nghỉ dưới mái hiên, gần như không ai bước chân vào nhà. Tôi nhận thấy đó là
những người lính chuyên nghiệp, kỉ luật, không làm phiền ai, nhưng có phần xa cách. Họ làm tôi hơi sợ hãi. Vậy mà có một người sĩ quan trẻ đứng bên cửa sổ rất lâu nhìn
tôi học bài rồi tươi cười hỏi chuyện, hỏi mượn tôi một cuốn sách để đọc. Anh kể rằng anh quê ở Gò Công, có người yêu là sinh viên trường Dược khoa, khi anh tình nguyện
vào nhảy dù, cô hỏi anh là “anh muốn chọn em hay là chọn cái mũ đỏ”. Anh đã chọn cái mũ đỏ và như thế, đành để mất cô. Đó là một chàng thanh niên da ngăm đen, gầy,
cao, đẹp như tài tử. Không hiểu sao anh lại tâm sự với một chú bé nhỏ hơn anh nhiều tuổi, có lẽ lúc ấy anh nhớ người yêu quá. Sau này, tôi nghe nói rằng trong một trận
đánh gần biên giới, anh đã trúng mìn cụt hai chân. Có người gặp anh ngồi trên xe lăn ở Tổng y viện Cộng hòa. Vài tháng sau đó, trong mùa hè đỏ lửa, một đơn vị bộ đội
miền Bắc cũng đi ngang qua làng tôi. Đó là những ngày hỗn loạn, nhưng tôi cũng kịp nhận xét rằng so với những người lính miền Namtrước đó, những người bộ đội miền
Bắc này trông ít tuổi hơn, nhưng có vẻ dạn dĩ, thân mật với dân chúng hơn. Có một người lính trẻ măng, mặt bầu bĩnh, nước da trắng hồng như con gái, quê ở Hà Nội, trò
chuyện với tôi khá lâu. Anh kể rằng anh phải khai tăng thêm một tuổi để được đi chiến đấu ở miền Nam. Anh kể rằng mẹ anh là một nhà nghiên cứu, và khi đi anh còn thấy
trên bàn làm việc của bà một cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp, mà anh không đọc được nhưng nhớ cách đánh vần. Tôi nhận ra đó là cuốn Bonjour Tristesse, của Francoise
Sagan, đã dược dịch sang tiếng Việt. Anh hỏi xin tôi một cuốn sách “để làm kỉ niệm”. Trước khi di tản, tôi cũng kịp tặng anh hai cuốn mỏng, Buồn ơi chào mi và Thơ
Nguyên Sa. Không biết rằng anh có đủ sức mang chúng theo trong chiếc ba lô nặng trĩu của mình hay không. Sau 1975, tôi nghe tin anh đã mất tích trên chiến trường. Mỗi
khi nghĩ về văn học và chiến tranh, tôi đều nghĩ đến hai người lính, ở hai bên chiến tuyến, có số phận bi thảm, yêu tiếng mẹ đẻ, yêu quê hương của mình, và chắc chắn là họ
đã rất sung sướng nếu được dịp biết nhau, làm quen với nhau, trong những hoàn cảnh khác.
Gần đây trong nước, việc khôi phục văn chương tiền chiến, Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn, đã tạo ra những nhận thức mới, góp phần vào việc làm phong phú hoá đời sống
văn học và đời sống tinh thần của người Việt, giúp thế hệ trẻ hiểu đúng đắn hơn lịch sử. Đã có một vài cố gắng nhìn lại văn học miền Nam trong những bài viết rải rác đó
đây của các tác giả tôi mà nhớ tên, tất nhiên là không đầy đủ, như Lê Ngọc Trà, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Lai Thúy,
Nguyễn Phan Cảnh, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Bửu Nam, Trần Hoài Anh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Hồ Thế Hà, Bửu Nam.
Báo Văn Nghệ, trang web của Hội Nhà Văn và một vài trang web trong nước khác cũng đăng lại một số tác phẩm miền Nam. Tôi nghĩ đó là nỗ lực, khởi đi từ những cá
nhân tâm huyết, rất đáng trân trọng. Nhưng một nền văn học cần được nghiên cứu một cách hệ thống, với những tiếp cận đặc trưng cho nền văn học ấy.
Nếu có một thời điểm nào thích hợp để mỗi chúng ta ngồi xuống lắng nghe bài giảng của lịch sử, như những người học trò nhỏ, thì đó là thời điểm hiện nay. Tôi lớn lên ở
làng quê nghèo, thuở bé lẽo đẽo theo mẹ đi giữa những luống cà chua, khoai lang, những cánh đồng bên bờ sông, trồng bắp, trồng đậu, trồng lúa, những buổi trưa lang
thang bắt tổ chim, bắn súng cao su, tắm sông. Tôi đã sống qua chiến tranh, chứng kiến cái chết, sự đau khổ của bao nhiêu người, trong đó có gia đình tôi. Có điều lạ lùng là
sau tất cả những năm tháng ấy, mỗi buổi sáng thức dậy, tôi đều có một cảm giác giống nhau, cảm giác êm dịu. Tôi tin rằng cảm giác ấy chỉ có được khi người ta sinh ra và
lớn lên trong khung cảnh thanh bình thơ mộng, dù chỉ là tạm thời, được đọc những cuốn sách lãng mạn đầu đời, những cuốn sách mà về sau có người ném đi vì cho rằng
chúng chẳng có giá trị phản ảnh hiện thực gì cả, nếu người ta được đọc những cuốn sách như thế, được úp khuôn mặt bé bỏng của mình lúc lên chín tuổi giữa hai trang sách
còn thơm mùi giấy mới, nếu người ta thức dậy một đêm khi lên sáu tuổi, ánh trăng chiếu sáng trên giường không ngủ được, bước ra hiên nhà, lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh
một chú bé khác, lớn hơn hai tuổi, và chú bé ấy cũng ngồi im lặng ngước nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên trời, và hai anh em chẳng nói năng gì, thì người ta sẽ có được
cái cảm giác mà tôi có mỗi ngày trong buổi sáng mờ hơi sương thức dậy một mình, đó là cảm giác tri ân êm dịu đối với cuộc đời.
Cái đáng sợ nhất đối với một số người, một số nhà văn là sự thật. Ai cũng biết rằng một người đọc sách sống cuộc đời phong phú hơn người khác. Sở dĩ như thế là vì anh ta
hay chị ta được trải nghiệm thêm những cuộc đời khác nữa, tức là những sự thật khác nữa. Văn học cho phép chúng ta cảm xúc cùng nhân vật, sống cùng họ, đau buồn,
giận dữ, sung sướng, say mê với những người ở các lục địa xa xôi, ở những thời tiết nắng mưa nay đã không còn. Chúng ta cảm thương những số phận bất hạnh, đôi khi tự
đồng hóa mình với anh hùng hào kiệt, mơ ước sống cuộc đời như họ. Một độc giả Việt Nam hiện nay có điều kiện dễ dàng để biết thêm về văn học nước ngoài, như văn học
Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Úc, Ba Lan, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc…và vì thế tự làm cho đời sống tâm hồn họ phong phú hơn. Nhưng văn học miềnNamkhông phải là một nền
văn học nước ngoài, nó được viết bằng tiếng Việt, được đọc bằng tiếng Việt, bởi những tác giả đã khuất bóng hay còn đi đi lại lại trước mặt chúng ta. Nói cho cùng, một
người sinh ra ở miền Nam không bao giờ biết đến văn học miền Bắc, và giống hệt như thế, một người sinh ra ở miền Bắc không bao giờ biết đến văn học miền Nam, theo
tôi không phải là một người may mắn lắm: anh ta là nạn nhân của thời đại mình, tự nguyện hay không tự nguyện.
Người ta đã nói nhiều về chuyện văn học cần thiết như thế nào. Có lẽ đúng là một cuốn sách không thay thế được cái bánh mì trước đứa trẻ đang đói. Hiện thực mà chúng
ta sống trong đó đầy dẫy những ngẫu nhiên, diễn ra không thứ tự, không có tính tổ chức. Đối với nhiều người, mặc dù không phải là tất cả, cái chết là phi lý, chiến tranh là
phi lý, sự đau khổ của từng cá nhân, sự bất hạnh của dân tộc là phi lý. Mặt khác, khía cạnh hào hùng của lịch sử trong khi thừa khả năng để giải thích tính bi kịch, thì lại
không đủ khả năng giải thích sự tầm thường hèn mọn của nó. Bất cứ một sự thật giản dị nào, nếu không được hiểu thấu, cũng đủ sức làm một nhà văn sợ hãi: anh ta không
biết phải làm gì với nó. Các thí dụ thì chúng ta có nhiều. Tuy nhiên tác phẩm văn học, ở trạng thái thành công nhất, có khả năng tổ chức lại cuộc đời, làm cho các sự kiện
rời rạc, hỗn độn, mê loạn, hoàn toàn không hiểu được, được sắp xếp lại bên nhau trong những liên hệ nhân quả, làm cho số phận mỗi cá nhân, số phận một dân tộc có thể
được giải thích rõ ràng, trở nên có ý nghĩa hơn. Và do đó, lịch sử trở nên chịu đựng được. Nó bắt đầu tha thứ cho chúng ta.
Khi chúng ta bắt đầu biết dụng tâm tìm hiểu lẫn nhau, tức là biết nhìn sự vật từ góc nhìn của người khác. Mà các nhà văn không làm điều đó thì không ai làm trước họ
được.
(Viết xong ngày 29.04.2009)
A. Các trích dẫn
*Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ,Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháu Diệu Linh, và những người bạn khác, lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
(1) Nhất Linh, Xóm cầu mới, trang 465, NXB Văn Mới, 2002
(2) Hợp Lưu, số đặc biệt về Mai Thảo, 100, tháng 5&6, 2008, trang 196, Hoa Kỳ
(3) Bình Nguyên Lộc, Rừng mắm, bản điện tử dactrung.net
(4) Sơn Nam, Hương rừng, bản điện tử dactrung.net
(5) Trần Dạ Từ, “Giã từ năm Thìn”, Bốn mươi năm thơ Việt Nam, Thi Vũ, NXB Quê Mẹ
(6) “Tuổi nước độc”, trích theo Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay của Tạ Tỵ, bản điện tử do Talawas thực hiện
(7) Trích lại trong cuốn sách kể trên của Tạ Tỵ
(8) “Nhớ làng”, Tuyển tập Võ Phiến, NXB Văn Mới, 2001
(9) “Mùa xuân con én”, Tuyển tập Võ Phiến, NXB Văn Mới, 2001
(10) “Tháng giêng, mơ về trăng non rét ngọt”, Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng, NXB Văn Học in lại, 1989
(11) Trích theo Nguyễn Vy Khanh, “Thế kỷ tiểu thuyết”, Hợp Lưu số 73, tháng 10&11, 2003, trang 29
(12) Theo một nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Cảnh, không nhớ đã đăng ở đâu.
(13) Bùi Giáng, Đi vào cõi thơ, cuốn 2, NXB An Tiêm, tái bản 1998
(14) Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, Thách thức của văn hóa, trang 12, 13, NXB Thanh Niên, 2002
B. Các sách tham khảo
(1) Sông Hương, Tuyển chọn Phê bình và đối thoại, NXB Văn hóa thông tin, 1983-2003
(2) Nguyễn Hưng Quốc, Nghĩ về thơ, NXB Văn Nghệ, 1989
(3) Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt Nam, 1945-1985, NXB Quê Mẹ, 1993
(4) Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, 2000
(5) Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ I, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2000
(6) Tạp chí Hợp Lưu, Hoa Kỳ, các số 73 năm 2003 (Tiểu thuyết ViệtNam), 78 năm 2004 (Dương Nghiễm Mậu, Chekhov), 79 năm 2004 (Đệ thập tứ chu niên)
(7) Phương Lựu, Lý luận phê bình văn học, NXB Đà Nẵng, 2004
(8) Hà Minh Đức, Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2004
(9) Thơ Việt Nam thế kỉ XX, Thơ trữ tình, NXB Giáo dục, 2005
(10) Thụy Khuê, bài về Vũ Khắc Khoan, Tạp chí Hợp Lưu số 102, 2008, trang 46-70
(11) 700 năm thơ Huế, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, NXB Thuận Hóa, 2008
http://phebinhvanhoc.com.vn/nhung-ky-niem-cua-toi-ve-van-hoc-mien-nam/
Thứ hai, 01/12/2014
Blog / Nguyễn Hưng Quốc
Số-phận của văn-học miền nam sau 1975
Tin liên hệ
Đánh giá một nhà phê bình
Văn học, trước hết, là văn bản
Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?
Những ý nghĩ rời (Lời nói đầu)
Sống và viết giữa các nền văn hóa
Nguyễn Hưng Quốc
28.11.2014
Lời tác giả: Nhân dịp một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 sắp được tổ chức tại hai toà soạn hai nhật báo Người Việt và Việt Báo tại California trong hai ngày
6 và 7 tháng 12, 2014, tôi xin đăng lại một đoạn trong cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1945-1990 để quý bạn đọc thấy được số phận bi thảm của văn học
miền Nam sau năm 1975.
***
Tháng 4.1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Đảng Cộng sản nắm chính quyền trong cả nước.
Chính sách có tính chất “chuyên chính vô sản” đầu tiên được áp dụng tại miền Nam là nhắm vào văn hoá, văn học miền Nam trước 1975.
Trước khi chủ trương bắt các sĩ quan và các công chức trung, cao cấp thuộc chính quyền cũ đi học tập cải tạo, trước khi tung ra chiến dịch đánh tư sản mại bản tại các thành
phố lớn miền Nam, cộng sản, ngay từ tháng 3 và tháng 4.1975, chiếm được địa phương nào, đã tức khắc ra lệnh đóng cửa toàn bộ các cơ sở sinh hoạt văn học nghệ thuật, từ
báo chí đến nhà xuất bản, nhà phát hành và các hiệu sách, đã ra lệnh cho dân chúng phải tiêu huỷ toàn bộ dấu vết của nền văn học nghệ thuật miền Nam. Trong lúc vẫn tiếp
tục duy trì nền kinh tế năm thành phần thì cộng sản chỉ chấp nhận một thành phần văn học duy nhất: thành phần văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, chịu sự thống trị tuyệt
đối của đảng.
Mà thật ra, không phải đợi đến tháng 4.1975, ngay trước đó nữa, từ những năm đầu tiên của thập niên 1960, ở miền Bắc, cộng sản đã có ý đồ huỷ diệt văn học miền Nam
bằng hai biện pháp: một là chụp mũ nền văn học miền Nam là “văn học thực dân mới” để qua đó, xoá bỏ vị trí uy nghi của nó trong tiến trình văn học dân tộc, hai là, ngụy
tạo ra cái gọi là “văn học giải phóng miền Nam Việt Nam” với những người cầm bút ở miền Bắc được lén lút đưa dần vào miền Nam, ẩn náu trong rừng núi, bưng biền, tự
xưng là nói lên những tiếng nói tâm huyết nhất của đồng bào miền Nam.
Phụ hoạ với hai biện pháp trên, báo chí miền Bắc không ngớt vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong quyển Nhà văn Việt nam,
tập 1, từ năm 1954 đến 1975, không kể các bài phát trên sóng của đài Tiếng nói Việt Nam, chỉ tính riêng trên các tạp chí và tuần báo lớn tại Hà Nội như Học Tập, Thống
Nhất, Nghiên cứu nghệ thuật, Văn Nghệ, Tạp Chí Văn Học... đã có tới 286 bài viết thực hiện âm mưu này (tr. 305).
Sau năm 1975, chiếm được miền Nam, mức độ chống phá văn học miền Nam của đảng Cộng sản ngày càng gia tăng với một quy mô rộng khắp và với một mức độ vô cùng
dữ dội. Không có cuộc Đại hội đảng nào, cộng sản lại không nêu việc xoá bỏ văn học nghệ thuật miền Nam lên thành một nhiệm vụ chính trị khẩn cấp. Báo cáo tại kỳ họp
Quốc hội khoá 5, Lê Duẩn chỉ thị: “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần
được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để”.
Để chống lại ảnh hưởng của nền văn học miền Nam trước đây, cộng sản sử dụng cùng lúc hai biện pháp chính: tuyên truyền và khủng bố.
Chưa có ai thống kê thử số lượng những bài báo nhằm bôi nhọ văn học miền Nam từ năm 1975 đến nay là bao nhiêu. Chắc chắn là không ít hơn con số 286 bài viết mà
Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức đã nêu ra trong thời kỳ 1954-1975. Có những tờ báo và những tạp chí dành hẳn một số đặc biệt về chủ đề phê phán văn học miền Nam như
Đại Đoàn Kết số ra ngày 21.7.1977, Nghiên cứu Nghệ thuật số 3.1977, tạp chí Văn Học số 4.1977… Rồi còn sách nữa. Sách của một người và sách của nhiều người. Sách
chửi bới một cách không khống hồ đồ và sách giả vờ nghiên cứu một cách khệnh khạng, trịch thượng. Thuộc loại này, đến nay (1990), có cả thảy mười một “tác phẩm” đã
được xuất bản: một, Văn hoá văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy (hai tập) của các tác giả: Phong Hiền, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Hoa Lục Bình (1977); hai,
Tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá mới của Hà Xuân Trường (1979); ba, Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của các tác
giả: Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng (1980); bốn, Cuộc xâm lăng về văn hoá và
tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Namcủa Lữ Phương (1981); năm, Nọc độc văn học thực dân mới của Trần Trọng Đăng Đàn (1983); sáu, Nọc độc văn hoá nô
dịch của Chính Nghĩa (?); bảy, Những tên biệt kích cầm bút của nhà xuất bản Công an Hà Nội (1986); tám, Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Ngụy của Lê Đình Kỵ
(1987); chín, Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ của Trần Trọng Đăng Đàn (1987); mười, Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (tập 1)
của Trần Trọng Đăng Đàn (1988); và mười một, Văn hoá văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam cũng của Trần Trọng Đăng Đàn (1990).
Trong hầu hết những bài báo và những quyển sách kể trên, cộng sản đều sử dụng một thủ đoạn bất lương quen thuộc: vu khống. Vu khống những tác giả chống cộng là
CIA. Vu khống những người chuyên viết về các chuyện tình cảm nhẹ nhàng là “trụy lạc”. Vu khống cả những người chỉ biết mải mê làm văn chương thuần tuý là “tâm lý
chiến”. Với cộng sản, tất cả những gì nằm ngoài quỹ đạo thống trị của cộng sản đều là “phản động” và đáng bị lên án. Luận điệu sau đây rất tiêu biểu: “…các loại sách
truyền bá chủ thuyết hiện sinh, hư vô chủ nghĩa, kích động dục tình, tuy bề ngoài không phát ngôn quan điểm chính thức của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhưng thực chất
thuộc hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới, phục vụ cho âm mưu của chính trị và tư tưởng phản động của Mỹ và tay sai”. (Sài Gòn Giải phóng ngày 15-2-1987).
Song song với các hoạt động tuyên truyền mà bản chất là vu khống và xuyên tạc, cộng sản còn huy động công an và thanh niên xung phong đi lùng sục tịch thu sách báo
cũ, bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Ngày 20 tháng 8.1975, Bộ Thông tin Văn hoá của cộng sản miền Nam Việt Nam ra thông tri số 218/CT.75 về việc cấm lưu
hành cách “loại sách phản động về chính trị và loại sách dâm ô”. Ngày 8.3.1976, cũng cái Bộ Thông tin Văn hoá ấy lại tiếp tục ra tiếp thông tri số 15 nhắc lại lệnh cấm trên.
Riêng tại Sài Gòn, tháng 5.1977, Sở Văn hoá Thông tin ra thông tri số 1230/STTVH/XB yêu cầu dân chúng hoặc phải tiêu huỷ hoặc phải giao nộp toàn bộ các ấn phẩm văn
hoá của chế độ cũ. Mỗi bản thông tri trên đều được đính kèm một danh sách dài ngoằng những tác phẩm bị kết tội là “phản động” và “dâm ô”. Cả bản thông tri lẫn bản
danh mục đều được đăng tải rộng rãi trên báo chí trong nước. Riêng bản danh mục thì sau này được bổ sung và tập họp thành một quyển sách khổ lớn, dày cộm, nhan đề
làDanh mục những sách cấm lưu hành được bày bán khắp các hiệu sách trong nước.
Sau mỗi bản thông tri, hầu như là một quy luật, cộng sản lại mở chiến dịch truy quét văn hoá phẩm một cách rầm rộ. Công an bủa giăng đầy các đường phố để chận bắt
những người lén lút mua bán sách báo cũ. Công an xông vào tận nhà dân chúng, lục lọi khắp nơi để tìm kiếm và tịch thu sách báo cũ. Cho đến nay, cộng sản đã mở ít nhất
năm chiến dịch truy quét lớn như thế vào các thời điểm: cuối năm 1975, đầu năm 1976, giữa năm 1977, giữa năm 1981 và giữa năm 1985.
Việc tàng trữ và lưu hành các sách báo cũ bị xem là một “trọng tội” trước pháp luật nhà nước. Trong bộ Luật hình sự do cộng sản công bố, đăng trên báo Nhân dân từ ngày
12 đến ngày 17.7.1985, điều 82 dưới danh xưng“Tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa”, thuộc mục A, chương I, phần “Các tội phạm” ghi rõ:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống chính quyền nhân dân thì bị phạt từ 3 năm đến 12 năm:
a/ Tuyên truyền xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa.
b/ Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân.
c/ Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Cũng trong phần Các tội phạm, điều 99 dưới danh xưng “Tội truyền bá văn hoá đồi trụy”, mục B, chương I, ghi rõ:
1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, tàng trữ, nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những phẩm vật khác có tính chất đồi trụy cũng như có hành vi
khác truyền bá văn hoá đồi trụy thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm:
a/ Có tổ chức.
b/ Vật phạm pháp có số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
c/ Tái phạm nguy hiểm.
Không phải chỉ đe dọa suông. Trong những năm 1980, 1981 cộng sản đã truy tố trước toà án nhiều người buôn bán sách báo cũ, trong đó, gây xôn xao trong dư luận nhất là
vụ án Vinh Sử và Bùi Đình Hà bị kết tội 20 năm tù giam tại Sài Gòn.
Tịch thu sách báo cũ. Bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Chưa hết. Từ năm 1975 đến nay, cộng sản còn tung ra nhiều chiến dịch khủng bố tàn khốc nhắm vào
những văn nghệ sĩ cũ của miền Nam. Cơ man những người bị bắt, bị đày ải trong các nhà tù, các trại cải tạo. Năm 1978, sau nhiều năm tháng điều tra, tạp chí Quê Mẹ tại
Paris đã công bố bản danh sách 163 văn nghệ sĩ miền Nam bị cộng sản giam giữ trong các trại cải tạo. Báo Express số ra ngày 12.8.1978, đã đăng tải đầy đủ tên tuổi 130
văn nghệ sĩ trong số 163 văn nghệ sĩ nạn nhân của chính sách trả thù của cộng sản. Ngày 30.4.1980, trong một cuộc họp báo tại Paris, tạp chí Quê Mẹ lại cung cấp thêm
danh sách 40 văn nghệ sĩ mới bị bắt hoặc bị bắt lại trong năm 1980.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường
của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/so-phan-cua-van-hoc-mien-nam-sau-bay-muoi-lam/2532570.html
trăm năm văn-học tự-do : văn-học miền nam hay “văn-học đô-thị miền nam 1954-1975” ?
Nguyễn Tà Cúc♦ 1.08.2014
Hình bìa tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta, bao gồm các nhà văn tiêu biểu của Việt Nam Cộng Hòa (nxb Sóng: 1973)
Hình bìa quyển Lý Luận – Phê Bình Văn Học ở Đô Thị Miền Nam 1954-1975 (nxb Hội Nhà Văn: 2009)
Sau 1975, những nhóm chữ như "Văn học Đô thị Miền Nam 1954-1975" –thay cho Văn học Miền Nam– và "vùng giải phóng Miền Nam" , "vùng tạm chiếm" –thay cho
Việt Nam Cộng hòa (tức là Miền Nam, nơi có nền Văn học Miền Nam)– bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam trong các công trình khảo cứu của những học giả hay trong lãnh
vực giáo dục bởi những người có trách nhiệm huấn luyện và đào tạo những học giả tương lai. Đây là vài thí dụ tiêu biểu:
“[...]Còn nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng thì cho rằng: Không nên phân biệt văn học nông thôn, thành thị hay công nhân mà gọi chung là văn học Việt Nam[...]Khi nói
về “văn học đô thị” nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng nói thêm: “Văn học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài Gòn tồn
tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam trước đây”….” (Ngân Hà, "Văn học đô thị- Mảnh đất bị bỏ hoang," Ngày 7.5.2009, Nguồn: Văn học quê
nhà http://www.thotre.com/luutru/index.php?menu=detail&mid=3&nid=2313
(Giáo sư Bùi Việt Thắng từng giữ chức Phó trưởng bộ môn Văn học Việt Nam Hiện đại, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội)
“Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Và văn học cũng bị phân chia: một nền văn học cách mạng ở miền Bắc và ở các vùng giải phóng của miền Nam, và một
nền văn học ở vùng tạm bị chiếm miền Nam. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ là tương đối, trên thực tế ta có thể nói tới một “dòng văn học tiến bộ” trong vùng bị chiếm ở
miền Nam…." (Nguyễn Văn Dân, "Dấu ấn phương tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận xét tổng quan,” Nguồn: Tạp chí Văn Học 2-1997, http://www.viet-
studies.info/NguyenVanDan_DauAnPhuongTay.htm)
“Đầu năm 2013, đúng 80 năm thành lập tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và công bố bài Tình già của Phan Khôi mở ra Phong trào thơ mới (1932), NXB Thanh niên cho ra
mắt tập nghiên cứu phê bình Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Sách do PGS. Trần Hữu Tá, PGS Nguyễn Thành Thi, PGS Đoàn Lê Giang chủ biên. Đây là
công trình hợp tác giữa giữa Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, Trường Đại học sư phạm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ (Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM),
tạp chí Thế giới Mới…." (http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/)
(Trích Mục lục)
45. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đến tiểu thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954 – Nguyễn Thị Phương Thuý
46. Tự lực văn đoàn với lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 – Trần Hoài Anh…
Chương 4: THƠ MỚI VÀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN TRONG NHÀ TRƯỜNG
47. Văn chương Tự lực văn đoàn trong đời sống văn học và giáo dục đô thị miền Nam 1954-1975 – Lê Ngọc Thuý
2. Giai đoạn 1954-1975: đất nước chia đôi, văn học tồn tại hợp thức dưới hai chính thể nhà nước thuộc hai khối đối địch nhau. Văn học miền Bắc (và vùng giải phóng miền
Nam) vừa kế thừa lớp người cầm bút trong kháng chiến chống Pháp vừa có thêm nhiều lực lượng trẻ góp mặt, mục tiêu quán xuyến làxây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu
tranh chống Mỹ ngụy. Văn học miền Nam không chỉ là lực lượng tại chỗ về sau ngày càng đông đảo, mà còn được bổ sung từ Hà Nội và các vùng kháng chiến hồi cư,
không chủ trương định hướng sáng tác, thả lỏng cho mọi sự sáng tạo tự do, vì thế nhiều khuynh hướng đối lập cùng song song tồn tại, có chống cộng và hòa giải, tâm lý
chiến và phản chiến, lại có cả văn chương đứng ngoài chính trị…
3. Giai đoạn từ sau 1975: đất nước thu về một mối tạo điều kiện cho nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mở rộng thành văn học cả nước, cất tiếng ca tưng bừng "Việt
Nam – Hồ Chí Minh" của người chiến thắng, đưa lên "tượng đài" hình ảnh người anh hùng đánh Mỹ, và từng bước dõi theo tư thế của con người ấy trong cuộc sống hòa
bình. Trong khi đó, ở nhiều nước có cộng đồng người Việt di tản, một dòng văn học hải ngoại ra đời, buổi đầu cũng do lực lượng văn nghệ sĩ cũ ở miền Nam đóng vai trò
chính, vừa bàng hoàng phẫn hận trước bi kịch đổ vỡ của những con người ở phía bên kia cuộc chiến, vừa dày vò trong nghịch cảnh lưu vong : phải trải qua muôn nghìn khổ
ải để tìm đất hứa, bơ vơ nơi xứ lạ, nỗ lực hội nhập để sống còn nhưng vẫn không quên khẳng định "căn cước" của chính mình… Cách phân chia này tưởng cũng dễ được
nhiều người thừa nhận…."(Nguyễn Huệ Chi, Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử văn học nhìn từ điểm đầu thế kỷ XXI, Phần II-Có hay không một thời kỳ Văn học Cận đại,
http://chimviet.free.fr/dantochoc/chung/nhcl052.htm)
Văn học các đô thị Miền Nam 1954-1975 (Một môn học được dậy tại Đại học Đà Lạt-2 tín chỉ) Dành cho Sinh viên năm 3&4-Tiến sĩ Nguyễn Đình Hảo biên soạn
"Trường Đại học Đà Lạt là một trường công lập được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở Viện Đại học Đà Lạt, một trường tư thục thành lập trước 1975 và bắt đầu đào tạo đại học từ niên khóa 1958 – 1959. Tính từ thời điểm 1958
đến nay, Trường Đại học Đà Lạt đã trải qua chặng đường 55 năm hình thành…" (http://www.dlu.edu.vn/introduce.aspx?orgId=1&aboutid=12)
“[...]Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 phát triển trong bối cảnh chiến tranh và chia cách ấy. Tiếng nói và sự hoài niệm của những nhà văn gốc Bắc xa quê,
dĩ nhiên góp phần đáng kể trong việc thể hiện hình ảnh Hà Nội; nhưng quan trọng hơn, đó còn là sự đồng vọng của cả dân tộc, đất nước hướng về cội nguồn[...]Như vậy,
Hà Nội là một địa chỉ có thực đồng thời là một không gian – bối cảnh nghệ thuật được nhiều tác phẩm văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 quan tâm đến. Hình
ảnh chung nhất của Hà Nội qua các truyện ngắn, truyện dài và tùy bút là:Hà Nội đẹp vì Hà Nội là thủ đô, là thành phố lớn, là nơi hội tụ thu hút nhiều người, là nơi tỏa sáng
vì sự sang trọng, giàu có của nó[...]Ngoài cảnh đẹp và những đặc tính của một thành phố lớn, một thủ đô lâu đời; Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước
1975 được nhấn mạnh ở chiều sâu văn hóa[...]Viết và kể chân thực về Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 vừa là tình cảm chủ quan của con người
đối với quê hương, bản quán; vừa như qui luật khách quan của đời sống văn học: xu hướng bù trừ, cân bằng với cái đã mất. Hà Nội không mất, nhưng sự cách biệt với Hà
Nội có thể khiến cho việc ngóng trông, đồng vọng trở nên tha thiết hơn. Đây cũng là điểm giống nhau hay là sự tiếp nối giữa giai đoạn văn học trước 1975 với tình hình
sáng tác của người Việt ở hải ngoại sau 1975. [...]Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những dòng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét
ở phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, hình ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 –
1975 ngoài giá trị văn chương, còn là một giá trị văn hóa…." (Nguyễn Thị Thu Trang, "Hình ảnh Thăng Long-Hà nội trong văn xuôi đô thị Miền Nam Giai đoạn 1945-
1975,” Ngày 24 .9. 2010, http://vanhoanghean.com.vn/
Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang hiện là "giảng viên chính, Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Phú Yên" và " vừa bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ chuyên
ngành Lý thuyết và Lịch sử văn học … với đề tài “Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” … tại Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn -Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh." (19/10/2008, http://www.baophuyen.com.vn/79/30220/nha-giao-nguyen-thi-thu-trang-bao-ve-xuat-sac-
luan-an-tien-si-ngu-van.html)
Đọc những thí dụ dẫn chứng, nhất là thí dụ của Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang thì người đọc đương nhiên nhận ra cái vói tay hơi dài từ Hà nội ra Sài gòn, nay còn muốn
vói qua đại dương với cái kiểu viết lách “Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những dòng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét ở
phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, hình ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 –
1975 ngoài giá trị văn chương, còn là một giá trị văn hóa."
Nguyễn Thị Thu Trang khi viết những dòng này hẳn chưa bao giờ được biết tới "slogan" Chúng ta đi mang theo quê hương của đợt di cư lần thứ nhất 1954 rồi di tản lần thứ
hai 1975. Bà hẳn cũng chưa được đọc bài viết phũ phàng về Hà Nội của Mai Thảo, một người Bắc di cư vào Nam, (và lời tôn vinh Sài gòn là thủ đô văn hóa của ông trong
một bài khác):
-" [...] Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần mỗi chúng ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn đề. Đi
không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người Hà Nội hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới chính là Hà nội,
cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta đi mang theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính là trong lối sống mà chúng
ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là những người Hà nội. " (Mai Thảo, “Quê hương trong trí nhớ," Sáng Tạo, tháng 10.1958, trang 19-24-Tài liệu của Viên
Linh)
Hay lời xác quyết của Tam Lang, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan và Đinh Hùng, những người chủ trương nhật báo Tự Do (1954-1955) , rằng Hà Nội là "một chế độ mà điều kiện
tồn tại là sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người”:
-"[...]Giờ này, liễu ven hồ Hoàn Kiếm đang đợi gió Đông để lên tơ. Nhưng mành tơ liễu quá lơ thơ chưa buông kín nổi tâm tư của người đất Bắc trăm mối vò nhầu.
Xuân có sang mà hoa không tươi…
Hoa ngoài trời không tươi mà hoa trong lòng người thật đã héo đi từ khi còn là nụ. Nỗi uất hận của người miền Bắc hiện quằn quại dưới một chế độ mà điều kiện tồn tại là
sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người–nỗi uất hận đó làm chén rượu mừng xuân của người Việt Miền Nam có nâng lên cũng không cạn nổi[...] Nỗi băn khoăn của
người ngày nay cũng tương tự nỗi băn khoăn của thế hệ trước, khác một điều là những hiện tại phải được đặt trên một bình diện rộng lớn hơn nhiều, bởi phức tạp hơn, bởi
vô cùng hiểm nghèo. Thế hệ trước thu gọn băn khoăn của mình trong hai chữ Độc Lập. Thế hệ ngày nay còn phải chiếu rọi băn khoăn lên thêm một chiều nữa: Tự Do. Thế
hệ trước chỉ cần nhắm vào người dân Việt. Thế hệ của lũ chúng ta còn nhắm tới ý nghĩa của Con Người. Xuân năm Mùi vì thế được mệnh danh là XUÂN TỰ DO." (Mặc
Đỗ-đại diện Nhóm chủ trương Tự Do, "XUÂN TỰ DO", trang 1, Nhật báo Tự Do, Năm 1955, Sài gòn. Tranh bìa của Phạm Tăng)
Trong mắt nhiều nhà cầm bút Việt Nam, Hà nội chỉ còn là một phần đất không có tự do (nhóm Quan Điểm) một xác chết trên đất hương hỏa (Mai Thảo), hay những vụ
hành hạ chôn sống địa chủ (Quách Thoại). Cái "hoài niệm về quê hương, xứ sở" mà Nguyễn Thị Thu Trang nói đến là cái hoài niệm của một hay nhiều thành phố tự do đã
mất, không phải cái -bây-giờ, cái Hà Nội không còn giọng Hà Nội, cái thủ đô của cả nước mà cho đến nay chưa có một nhà xuất bản tư nhân chính thức nào được phép hoạt
động, cái phần đất "Mấy lần đất nước đứng lên/Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm" (Xuân Sách, "Nguyên Ngọc", Chân dung các nhà văn) mà mãi tới bây giờ những
"anh hùng văn nghệ" như (Đại tá) nhà văn Nguyên Ngọc mới lóp ngóp đứng lên lo lập Văn đoàn độc lập sau bao năm im lặng hoàn toàn khi văn nghệ sĩ Miền Nam như
Văn Quang, Tạ Tỵ, Tô Thùy Yên vv… bị giam trong tù. Rồi giải nghĩa làm sao về việc các nhà văn Miền Nam kỳ cựu như Bình-nguyên Lộc cũng ra đi nốt?! Đó, đó mới là
những cái mà nhà giáo dục và đồng nghiệp của bà Thu Trang cùng các học giả và lý luận phê bình xuất thân từ Miền Bắc cần nên biết tới. Vì nghiên cứu là gì nếu không đủ
kiến thức và bản lãnh đến nỗi lại bỏ sức ra góp công cho một lịch sử nhân tạo?
Trong hai mươi năm mà Việt Nam Cộng hòa tồn tại, nó có duy nhất một nền Văn học Miền Nam với Sài gòn là thủ đô nơi sinh hoạt báo chí và các tạp chí văn học lừng
danh của nó mà các tác giả xuất hiện chính thức trên Sáng tạo, Tư tưởng, Giữ thơm quê mẹ, Nghệ thuật, Văn, Khởi Hành, Bách khoa, Trình Bầy, Thời Tậpv.v. mà bất kể là
các tác giả xuất hiện trên những tạp chí đó sống ở đâu hay hành nghề gì. Có thể đặt vấn đề ngược lại rằng, tại Miền Bắc, không ai lại đặt vấn đề là các nhà văn như Nguyễn
Đình Thi, Tô Hoài, các nhà phê bình như Lại Nguyên Ân hay Vương Trí Nhàn hoặc các sử gia như Dương Trung Quốc sống ở đâu, hành nghề gì, bài gửi đến đóng dấu bưu
điện ở "đô thị" nào. Người đọc chỉ cần biết đó là những tay viết có nghề có uy tín mà bài viết nay xuất hiện trên những tạp chí số một ở (thủ đô) Hà Nội. Cũng không ai bắt
độc giả của các ông xòe giấy chứng minh họ cư ngụ tại nông thôn hay thành thị.
Như thế, nếu đặt dấu hỏi rằng một tác giả Miền Nam — miễn có xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ hay/và có xuất bản– sống ở đâu, hành nghề nào, ka-ki hay không ka-ki,
mặc mini hay midi, tại sao sáng tác hay dịch thuật, nhịp sáng tác mạnh hay chậm, sáng tác được bao nhiêu bài trong năm, sáng tác về đề tài chiến trường hay phòng trà gái
nhẩy, sáng tác xong có gửi lên báo đặng "khoe" với mỹ nhân (như trường hợp họa sĩ CHÓE) hay làm biếng dúi vào một góc tủ, có biết uống rượu đế hay chỉ biết nhậu Coca
Cola, sành thuốc lá Ba con năm hay mê Bastos. Hoặc đặt vấn đề cho độc giả của các tác giả Miền Nam là sống ở đâu thành thị hay nông thôn, hành nghề nào, ka-ki hay
không ka-ki, mặc mini hay midi, ưa đọc bà Tùng Long ở hậu phương hay mê thơ Tô Thùy Yên nơi tiền tuyến, tại sao thích sáng tác thay vì dịch thuật vv. và vv. với Văn
học Miền Nam 1954-1975 thì quả có phải là phi văn …học và đầy tính chính trị không? "
"Đầy tính chính trị" vì như thế, thêm vấn đề là một số nhà văn "giải phóng Miền Nam" mà hồi đó không có độc giả ở các đô thị Miền Nam, lại chỉ có độc giả là cây cối
trong …rừng Xà-Nu thì các bạn Miền Bắc tính sao cho ổn thỏa?! Lấy thí dụ điển hình là nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977). Ông sinh quán Biên Hòa, tập kết ra Bắc
năm 1953, từng giữ chức Tư lệnh Khu bộ VII (1948 – 1953), và trở về Miền Nam năm 1965 tham dự cuộc đánh chiếm Miền Nam. Ông là người nổi tiếng với hai câu thơ:
"Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng long" và qua đời với chức "Hàm thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp". Nhưng ông không thuộc Văn học Miền
Nam vì cái quy luật rất đơn giản này: tác phẩm của ông khi đó và độc giả của ông không xuất hiện tại Miền Nam 1954-1975. Cho nên, nếu áp dụng quy luật đơn giản mà rõ
ràng ấy–tác giả thì phải có độc giả cho đàng hoàng và lập văn nghiệp bằng tác phẩm ít nhất cũng đã được xuất bản công khai hay sáng tác xuất hiện trên các tạp chí xuất
bản chính thức tại một nơi nào đó– thì những vấn đề đưa ra như tác giả ở đâu, độc giả ở đâu vv …lập tức bị triệt tiêu ngay.
Ở trường hợp các "tác giả" lạ hoắc mà sau 1975 người ta mới được có dịp biết đến thì rất khó thuyết phục rằng họ thuộc Văn học Miền Nam dù là trong "rừng". Đó chỉ là
cái vỏ đem các tác giả vô danh này lên ngang hàng với một loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư ký tòa soạn lẫy lừng của Miền Nam bằng cách phát minh ra một vùng
văn học là vùng "Văn học đô thị Miền Nam 1954-1975". Người Cộng sản rất muốn đẩy hàng loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư ký tòa soạn lẫy lừng này vào một
khu vực rất nhỏ hẹp đó, nhất là các tác giả di cư đã đóng góp rất lớn vào sự đa dạng của Văn học Miền Nam ngay khi nó khởi hành, để ăn khớp với lịch sử do họ viết, rằng
họ mới là người kiểm soát được hầu như 90 phần trăm của Việt Nam Cộng hòa. Nhóm tác giả di cư này còn là cái nhắm đặc biệt của người Cộng sản Việt Nam: họ đã di
cư, nghĩa là họ chứng tỏ sự chống Cộng bằng hành động rất cụ thể. Hơn thế nữa, họ còn giúp làm vững Văn học Miền Nam bằng cách sáng lập, điều hành hay giữ trách
nhiệm chủ nhiệm, chủ bút hoặc thư ký tòa soạn nhiều tạp chí văn học để giúp một phần trong việc cộng thêm điều kiện cho các thế hệ nhà văn trẻ tiến lên, lập thành một
nền văn học phong phú và khởi sắc đến nỗi nay, sau khi Việt nam Cộng hòa và Văn học Miền Nam đã mất, chính người Cộng sản đã phải nghiên cứu về nó. Những nhà văn
di cư này đã làm để chống Cộng sản, để tạ ơn phần đất đã cho họ một chỗ dung thân và để tạ lòng tri kỷ mà không bao giờ có thể ngờ được rằng–60 năm sau khi người
Cộng sản chiếm Miền Bắc rồi tiến chiếm Miền Nam 20 năm sau–những Tự do (thời Mặc Đỗ), những Sáng Tạo, những Thế kỷ 20, những Nghệ Thuật, những Văn, những
Khởi Hành (Bộ cũ) vv nay tồn tại như những vì sao tỏa sáng mãi mãi trong một bầu trời Văn học Miền Nam tự do lấp lánh.
Cho nên, nhóm chữ "văn học đô thị Miền Nam 1954-1975" trong văn sử của người Cộng sản luôn luôn phải đi đôi với "vùng bị tạm chiếm" trong lịch sử của người Cộng
ểề ế ầ
sản để dựng lại tử thi Mặt trận Giải phóng Miền Nam mà chính người Cộng sản đã an táng cái chết không ma chay của nó ngay sau 1975. Cho tới nay, khỏi cần dẫn chứng,
ai cũng biết Mặt trận Giải phóng chỉ là một bức bình phong hữu danh vô thực để binh sĩ Miền Bắc có lý do có mặt ở Miền Nam. Chưa bao giờ người Cộng sản chiếm được
vùng nào của Việt Nam Cộng hòa, chưa bao giờ họ trương được lá cờ của họ tại bất cứ nơi đâu. Khi người nằm vùng của họ bị bắt thì chính Văn bút Việt Nam, một tổ chức
hợp pháp thuộc Việt Nam Cộng hòa, xin cho ra khỏi tù. Những nhóm như Trình Bầy vẫn được cho xuất bản, không phải vì chính phủ Việt Nam Cộng hòa không đủ sức
bắt-họ-bỏ-bót, mà vì họ được tự do, được chính phủ Việt Nam Cộng hòa cho phép có những hành động thiên tả.
Đó là điều rất quan trọng cần được lưu ý khi so sánh giữa chế độ tự do trong Nam và độc tài ngoài Bắc. Chính vì thế, chính vì sự tự do đó mà nay rất nhiều nhà nghiên cứu
hay nhà văn sinh trưởng hoàn toàn trong chế độ độc tài Cộng sản không cách nào hiểu được các nhà văn theo cộng sản "yêu nước cách mạng" trong chiến tranh 1954-1975
lại được sống và chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa ngay tại Sài gòn mà hầu như không hề hấn gì, nghĩa là không riêng Trình Bầy mà bất cứ tác giả nào cũng không cần
tốn một viên đạn mà vẫn có thể đứng giữa thủ đô Sài gòn đăng bài của tác giả ngoại quốc chống chính phủ Hoa Kỳ và bất đồng ý kiến với chính phủ Việt Nam cộng hòa,
một chính phủ của một quốc gia tự do. Cho nên, không bao giờ có một nền Văn học Đô thị Miền Nam1954-1975 nào hết mà chỉ có Văn học Miền Nam của Việt Nam Cộng
hòa.
Riêng trong vấn đề này, người viết nghĩ không có gì hay hơn là phỏng vấn các nhà văn Miền Nam–đối tượng nghiên cứu– xem ý kiến của họ ra sao. Để mở đầu, người viết
sẽ phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh. Xin xem phần Phụ lục dưới bài viết.
****************************************************************************
Phụ lục
Nguyễn Tà Cúc phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh–hai người cầm bút trong Văn học Miền Nam 1954-1975– về nhóm chữ "Văn học đô thị Miền Nam"
xuất hiện trong sách giáo khoa và tiều luận nghiên cứu sau 1975 tại Việt Nam
***
Phụ lục 1-Phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến
Nguyễn Tà Cúc : Ra đi sau 1975, anh là một trong những nhà văn kỳ cựu, từng hoạt đông mạnh mẽ trong ngành báo chí ấn loát, lại từng là Phó chủ tịch của Văn Bút Việt
Nam. Vậy xin anh chia sẻ suy nghĩ của anh về mấy chữ "văn học đô thị Miền Nam"?
Nhật Tiến : Tôi đã trả lời về mấy chữ này trong 2 lá thư gửi Nhà Thơ Hoàng Hưng , là người đã mời tôi tham dự đề án thực hiện mục “ Văn Học Đô Thị Miền Nam ”. Vì
nội dung có tính cách hệ trọng có thể sẽ lôi cuốn sự quan tâm của rất nhiều người, nên thay vì nói vắn tắt để trả lời Tà Cúc, tôi xin công bố rộng rãi quan điểm của tôi về
vấn đề này qua những đoạn quan trọng trong hai lá thư mà tôi đã phúc đáp lời mời kể trên. Trong lá thư thứ nhất, tôi khẳng định chỉ có "Văn học Miền Nam" của quốc gia
Việt Nam Cộng hòa chứ không bao giờ có thứ "văn học đô thị" nào hết. Lá thư thứ nhất (1) có đoạn như sau :
" -T/g Anh Hoàng Hưng,
Tôi đã nhận được email của anh gửi, mà nội dung là thư mời đóng góp ý kiến và bài vở cho một mục có tên là “VH Đô Thị Miền Nam 1954-1975” sẽ được thực hiện trên
trang blog vandoanviet.blogspot.com thuộc website vanviet.info của Văn đoàn Độc lập VN mà trong đó anh là một thành viên chính.
Thưa anh, Thế nào là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ” ?
Cái từ ngữ này khiến tôi không khỏi nhớ đến guồng máy tuyên truyền của miền Bắc ở vào thời kỳ cuộc chiến VN chưa chấm dứt. Họ đã gọi các sinh hoạt trên lãnh thổ Việt
Nam Cộng Hòa là “ trên các tỉnh và Đô thị Miền Nam”, với ý nghĩa là "bọn Mỹ Ngụy chỉ co cụm trong các thành phố và không thể lui tới các các Nông thôn ở miền Nam,
vì tất cả đã đồng loạt nổi dậy và đã đứng dưới ngọn cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam". Về mặt sách lược tuyên truyền trong cuộc chiến, luận điệu gian dối, hàm hồ
ấy có thể hiểu được.
Nhưng nay chiến tranh đã chấm dứt gần 40 năm rồi, cái từ ngữ “Đô thị Miền Nam” tưởng đã bị chôn vùi theo các thứ rác rưởi lùm loạp của một giai đoạn trong lịch sử, ai
ngờ bây giờ nó lại được lôi ra dùng lại, không phải do từ các bàn tay phù thủy tuyên truyền thực hiện, mà là do chính các nhà văn đã từng mạnh mẽ lên tiếng : ‘mong muốn
góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như
nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.’ (trích bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam) [...]
Dĩ nhiên là bao giờ tôi cũng hết lòng mong mỏi quý anh luôn có được toàn quyền tự do trong các sinh hoạt văn hóa, nhất là trong lãnh vực sáng tác. Tuy nhiên điều đó cũng
không thể buộc lòng chúng tôi cứ phải chạy theo mọi lời kêu gọi nhân danh tự do văn hóa. Qua cái từ ngữ được quý anh sử dụng ‘Văn Học Đô thị Miền Nam’, chúng tôi
như đã bị đánh thức dậy bởi cái mùi vị khinh bỉ, miệt thị, kể cả những hận thù do chính rất nhiều thành phần có tính cách văn hóa đến từ miền Bắc mang lại. Và trên danh
nghĩa của ‘những tên tội đồ mang cái án tay sai của Mỹ Ngụy’, chúng tôi đã bị phân biệt đối xử trong ròng rã bao nhiêu năm trời, ngay sau cuộc chiến. Nhắc lại chuyện này
không phải tôi cố khơi lại những hận thù.
Nhưng tôi phải khẳng định rằng không bao giờ chúng tôi thuộc vào hàng ngũ của cái gọi là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ”. Trong suốt chiều dài của hơn 20 năm lịch sử
VN (1954-1975), nước VN bị chia cắt thành 2 quốc gia hoàn toàn khác biệt : Ở miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và ở miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa,
bao gồm mọi đất đai kể cả nông thôn lẫn thành thị, trải dài từ Sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu và các vùng núi non lẫn hải đảo. Trong suốt thời gian ấy, chúng tôi, các học
giả, các vị trí thức, các Thầy Cô Giáo và các văn nghệ sĩ….đã góp công tạo dựng một nền văn hóa của miền Nam trong đó có bộ phận văn học vẫn thường được gọi là ‘Văn
Học Miền Nam 1954-1975′. Không bao giờ tồn tại cái gọi là ‘Văn Học Đô Thị Miền Nam’, (mà) chỉ có ‘toàn bộ ngành sáng tác văn học nghệ thuật của Việt Nam Cộng
Hòa trên khắp lãnh thổ, từ nông thôn tới đô thị’ mà thôi. Vậy xin minh xác để mọi người cùng rõ." (Nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng nhân được mời tham
dự "Mục Văn Học Đô Thị Miền Nam", Thư thứ nhất, Tháng 7, 2014).
Nguyễn Tà Cúc : Như vậy còn những tác giả thuộc …Mặt trận giải phóng mà sau này mới thấy xuất đầu lộ diện, trớ trêu thay, lại xuất đầu lộ diện ngay khi Hà nội tước vũ
khí và cho Mặt trận Giài phóng Miền Nam về vườn ?
Nhật Tiến : Trong thư phúc đáp thứ hai (2), tôi có nhắc đến "cái bộ phận ở rừng" này đấy chứ. Ai bây giờ cũng biết chủ trương chiếu cố miền Nam đã được Đảng CS đề ra
trong Đại Hội III, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960. Trên website của Đảng, có ghi rõ rằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã
họp ở Thủ đô Hà Nội để quyết định " đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, thiết thực
góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam Á và thế giới…" Thế nên, đây cũng là một phần câu trả lời của tôi:
-"[...] Trong cuộc chiến, cả một guồng máy tuyên truyền của CS ở miền Bắc đã được vận dụng tối đa, kể cả những tác phẩm văn nghệ bao gồm truyện ngắn, truyện dài,
phóng sự, hồi ký …viết về cuộc “nổi dậy của nhân dân miền Nam” để chống Mỹ cứu Nước, nhưng nội dung đầy dẫy những sự kiện bịa đặt, dối trá….nhằm kích động căm
thù để xô đẩy thanh niên nam nữ miền Bắc nhắm mắt lao vào cuộc chiến. Thật quá thảm và cũng quá đau thương cho cả một giai đoạn lịch sử đất nước do chính sách ngu
dân của Đảng CSVN mà chứa đầy rẫy những điều dối trá, xuyên tạc. Nhiệm vụ duy trì VHMN tất nhiên ai đứng ra đảm trách cũng đều đáng trân quý, nhưng với điều kiện
là phải trung thực, không còn vấn vương những lập trường, tư tưởng vốn chỉ là sản phẩm tuyên truyền nhất thời do nhu cầu chiếu cố miền Nam của chế độ miền Bắc. Và
như thế, cái nhu cầu “phải nhắc đến văn hóa ở rừng” –như nhà văn Hoàng Hưng đã viết trong thư trao đổi ngày 9 tháng 7-2014: “Vậy chắc chắn phải bàn lại về cái tên, tuy
sẽ phải nghĩ kỹ, vì nếu để tên VHMN thì sẽ nói sao về cái bộ phận "ở rừng"? “– thì theo sự suy nghĩ của tôi, đã không thích hợp mà còn tạo cơ hội gây ra nhiều cuộc tranh
cãi gây tổn thương đến nhiều người như lòng tự trọng bị chà đạp, dĩ vãng đau thương vừa nguôi ngoai phần nào đã lại bị đem ra xỉ nhục khiến cho những nỗi đau trong quá
khứ bật trỗi dậy, tất cả sẽ trở thành một trở ngại lớn đối với mục tiêu cao quý mà quý vị đã trưng ra trong Bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt
Nam…." (Nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng nhân được mời tham dự "Mục Văn Học Đô Thị Miền Nam", Thư thứ hai, Tháng 7, 2014)
Nguyễn Tà Cúc: Như thế, Hoàng Hưng cũng là …biết điều đấy. Chúng ta nên ghi nhận thiện chí của họ. Theo Tà Cúc thì họ nên cẩn thận là phải. Một điều vẫn ám ảnh Tà
Cúc từ ngay khi viết về Văn học Miền Nam là: liệu tài liệu hay/và nhân chứng mình có đủ hay đáng để mình tin cậy? Sau nữa, Tà Cúc vẫn bị ràng buộc bởi một suy nghĩ
khác và suy nghĩ này thì hoàn toàn có tính tình cảm, không có tính khoa học mà Tà Cúc sẽ là người đầu tiên thú nhận: làm cách nào mà một người không sống ở thời đó, lại
có thể lột tả được hết ý tình nghĩa là những rung động, những nhịp tơ cảm xúc của một thời một nơi mà mình không thể trải nghiệm được? Hầu như chỉ có người đã sống
trong thời đó qua tình cảnh đó mới có thể chuyển hóa được những nhịp tơ ấy. Làm sao Tà Cúc lại có thể có được cái cảm xúc uất nghẹn của những nhà văn Miền Bắc phải
đi bán máu để sống? Làm sao Tà Cúc có thể có cùng cái tần số quyết liệt khi nhà văn Miền Nam Đỗ Phương Khanh đứng bật dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên mà phản ứng
khi hắn chê Miền Nam không có văn học hay văn hóa? Những bằng cớ trên giấy , bằng chữ nghĩa vv không cách nào có sức sống đặc biệt ấy. Cho nên, không riêng gì
Hoàng Hưng và văn đoàn này, sự nghiên cứu văn học của một thời đã qua mà nhân chứng lại không còn nhiều là một thách đố lớn. Làm sao đương đầu với sự thách đố đó:
cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng.
Nhật Tiến : Tà Cúc vừa nói “ Hầu như chỉ có người đã sống trong thời đó qua tình cảnh đó mới có thể chuyển hóa được những nhịp tơ ấy.”. Tôi thấy nhận xét này rất đúng
và chỉ những người rất thấu hiểu và biết cảm thông sâu xa nỗi niềm của người trong cuộc thì mới đặt ra vấn đề “ cẩn trọng…cẩn trọng…cẩn trọng”. Trong vụ này, tôi cũng
nghĩ là ban đầu, nhóm chủ trương thực hiện mục “Văn Học Đô Thị Miền nam” chỉ thiếu cẩn trọng mà thôi, bởi họ chưa bao giờ kinh qua những đớn đau, tủi nhục, mất mát
cả tài sản lẫn sinh mạng mà “phe thắng cuộc” đã trút lên đầu chúng ta trong nhiều năm ròng rã. Nếu biết cẩn trọng hơn thì cái từ “Văn học Đô thị” đã chẳng bao giờ có thể
được đưa lên bản văn mời gọi văn nghệ sĩ Miền Nam tham gia. Cho đến nay, cái mục ấy đã xuất hiện trên trang web Văn Việt.inform rồi, và cái tên đã được sửa lại là :
“Văn Học Miền Nam” kèm lời giải thích ở phía dưới bài giới thiệu là : Văn học miền Nam 1954-1975 (tức nền văn học trong lãnh thổ thuộc Cộng hoà Việt Nam), hẳn với
ngụ ý là Miền Nam, ngoài lãnh thổ VNCH (không phải "Cộng Hòa Việt Nam" như họ viết) hẳn còn có một phần đất khác, tức bộ phận “Rừng” chứ còn cái gì vào đây nữa.
Nhưng thôi, vấn đề từ ngữ sử dụng ta cũng đã bàn kỹ rồi. Bây giờ chỉ còn chờ xem nội dung của cái mục này ngoài các tác giả miền Nam ra, có còn bài vở nào xuất hiện
mà lại mang nội dung chống Mỹ cứu Nước, và miệt thị toàn bộ dân chúng miền Nam là bọn Ngụy bán Nước hay không. Chừng đó ta hãy bàn tiếp !
Nguyễn Tà Cúc : Đúng thế. Thời gian sẽ phơi bày mọi sự. Xin mượn lời của William Carlos Williams để cảm ơn anh đã trả lời Tà Cúc: "Thời gian là cơn lốc mà tất cả
chúng ta đều lạc lối trong đó. Chỉ có ngay trong những nếp cuộn xoáy của chính cơn lốc đó, chúng ta mới tìm nổi phương hướng (thoát ra) cho chúng ta."
* Chú thích của người phỏng vấn :
A) Để độc giả tiện theo dõi những phát biểu của nhà văn Nhật Tiến liên quan đến Văn đoàn độc lập và Văn Việt, chúng tôi xin trích lại một vài đoạn trong hai lá thư email
mà nhà thơ Hoàng Hưng trao đổi với nhà văn Nhật Tiến về những vấn đề này cho rộng đường dư luận.
1) Đoạn dưới đây trích trong email thứ nhất của Hoàng Hưng gửi Nhật Tiến, đề ngày 9.7. 2014. mời tham dự mục V(ăn) H(ọc) Đô thị Miền Nam:
- “[...] Đầu tháng 3, em đã cùng với 1 số bạn văn trong, ngoài nước lập ra Văn đoàn Độc lập VN và mời anh Nguyên Ngọc làm trưởng ban (mới chỉ gọi là Ban Vận động)
và lập websitevanviet.info, mới lập thêm blogvandoanviet.blogspot.com….Văn Việt quyết định mở mục VH Đô thị Miền Nam 1954-1975, sưu tầm những bài nghiên cứu
và tác phẩm quan trọng nhất để giới thiệu tương đối hệ thống cho bạn đọc (tất nhiên chủ yếu là trong nước…" (Hoàng Hưng)
Kèm với email này, nhà thơ Hoàng Hưng cũng gửi theo bản văn kêu gọi thực hiện: “Văn Việt mở mục :Văn học đô thị miền Nam 1954-1975” lúc ấy chưa công khai phổ
biến rộng rãi.
2) Sau khi nhận "Thư thứ nhất" của Nhật Tiến–tỏ sự bất đồng ý kiến– vào ngày 9.7.2014, Hoàng Hưng đã đáp lại trong email thứ hai, gửi đi cùng ngày, trong thư có đoạn :
- “[...]Vậy chắc chắn phải bàn lại về cái tên, tuy sẽ phải nghĩ kỹ, vì nếu để tên VHMN thì sẽ nói sao về cái bộ phận "ở rừng"? ..v.v… Tuy nhiên, em tin là sẽ tìm ra tên thích
hợp để phục vụ đúng mục tiêu của tủ sách là giới thiệu những tinh hoa của nền văn học của VN Cộng hoà (nói chính xác chắc phải là thế), khẳng định giá trị và những đóng
góp của nó cho VH VN hiện đại…” (Hoàng Hưng)
Đoạn văn trên chính là lý do để Nhật Tiến viết thêm “Thư thứ hai” mà ông có nhắc đến trong bài phỏng vấn.
Độc giả nào muốn đọc nguyên văn hai lá thư của nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng và bản "Văn Việt quyết định mở mục VH Đô thị Miền Nam 1954-1975"
có thể vào xem tại: "Có Hay Không Có Một Nền Văn Học Đô Thị Miền Nam???" (Nhật Tiến, http://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2014/07/14/co-hay-khong-mot-nen-van-
hoc-do-thi-mien-nam-nhat-tien/)
B- Người viết cần nói rõ, rằng nay Văn Việt đã hủy bỏ nhóm chữ "đô thị miền Nam 1954-1975" (trong "Văn học đô thị miền Nam 1954-1975") và thay vào bằng "Văn học
Miền Nam". Dù vậy, sự thay đổi này không đơn giản (và tốt đẹp?) như vậy. Văn đoàn độc lập Việt Nam -Văn Việt đã thay nhóm chữ "Văn học đô thị miền Nam 1954-
1975" bằng một tên mới nhưng KÈM thêm một định nghĩa xem ra không cần thiết lại có thể gây hiểu lầm:
-"Văn học miền Nam 1954-1975 (tức nền văn học trong lãnh thổ thuộc Cộng hoà Việt Nam)…" (http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-viet-mo-muc-van-hoc-mien-
nam-1954-1975/)
Trước hết, không có "Cộng hòa Việt Nam" mà chỉ có "Việt Nam Cộng hòa" (tức Miền Nam). Sau nữa, ba chữ "trong lãnh thổ" này hình như thừa đấy. Người viết thành
thực hy vọng những nhà văn đầy thiện chí của Văn đoàn độc lập KHÔNG dùng cái chữ "lãnh thổ" ở cái nghĩa của Bùi Việt Thắng mà người viết đã có dịp trích dẫn trong
bài: "Văn học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài Gòn tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền
Nam trước đây…" (Bùi Việt Thắng, sđd) ./. [NTC]
***************
Phụ lục 2-Phỏng vấn Nhà thơ Viên Linh
Nguyễn Tà Cúc: Là một nhà văn Miền Nam, không những thế còn nên được coi là một nhà văn duy nhất có kinh nghiệm và kiến thức bao quát cả về khía cạnh văn chương
lẫn khía cạnh mỹ thuật trong trình bày in ấn –vì từng là Thư ký Tòa soạn, Chủ nhiệm&Chủ bút của những tạp chí văn học danh tiếng nhất của Miền Nam, đảm nhiệm luôn
phần trình bày cho các tạp chí đó, lại sinh hoạt trong nhà in riêng–, anh nghĩ sao về mấy chữ "văn học đô thị miền Nam 1954-1975" này?
Viên Linh: Trước năm 1975, thời còn chiến tranh quốc cộng, cũng là thịnh thời của chiến tranh lạnh, cộng sản và những kẻ ăn theo tả phái gọi chính quyền miền Nam là
chính quyền Sài Gòn, tên một thành phố, thay cho tên một quốc gia – vốn được hình thành theo một tiến trình dân chủ mẫu mực thế giới – là có thăm dò dân ý, để thành lập
quốc hội lập hiến, soạn ra Hiến pháp, sau khi có Hiến pháp mới tiến tới bàu cử các cơ chế Quốc Gia, Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, và tuyệt diệu thay, có Đệ tứ quyền:
miền Nam có tới vài chục tờ nhật báo, cả trăm tờ tạp chí và các loại báo định kỳ khác, và được khoảng 100 quốc gia trên thế giới công nhận, trao đổi đại sứ. Nhưng cộng
sản chỉ gọi đó là chính quyền của một thành phố: “chính quyền Sài Gòn.”
Viết văn làm báo từ những ngày dựng nước Cộng Hòa 1954, tôi đã may mắn được sống và được tiếp tay xây dựng nền Cộng Hòa ấy, mặc dầu sau này thăng trầm xen kẽ,
nhưng khi nền hành chánh quân sự hay cơ quan quản trị của nó đổ vỡ, tinh thần của nó, tinh hoa của nó, văn hóa của nó, văn học nghệ thuật của nó, thần thức của nó nói
chung, tồn tại, và vượt cả không gian vượt các quốc độ, nó tồn tại cho tới bây giờ trong lòng người Việt ở khắp nơi, và hiện diện tới cả lớp trẻ tuổi sinh ra sau chiến tranh,
sau 1975 nữa.
Không những tồn tại, những thứ đó còn thăng hoa, đã khiến kẻ thù của nó phải tâm phục, là phục nhưng không nói ra, và khẩu phục, là phục tới lúc không nói ra thì không
chịu nổi, cho nên “nhạc vàng” ngày xưa nay cũng là nhạc của những kẻ đỏ lòng, “văn chương đồi trụy Sài Gòn” dạo trước từ nhiều năm qua là “sách miền Nam, truyện
miền Nam, thơ văn miền Nam.” Rõ ràng là “mảng văn học miền Nam,” trước thì người ta đi thuê về đọc lén, xem lén, cho đến bây giờ nó được in ấn lan tràn, có tên nhà
xuất bản vào loại quan nha ở ngoài bìa, và dù chữ nghĩa thô sơ, vụng về, thế nào người ta cũng phải viết cho được một lời tựa in ở đầu sách, ké vào đó cho nó có văn hóa
một tí.
Khi cộng sản gọi tên một nước là tên một thành phố, thì các thứ liên hệ của nó chỉ được phép dùng trong biện chứng của họ, trong ý nghĩa như văn học của toàn miền Nam
trở thành văn học đô thị, như nhà văn Sài Gòn trở thành nhà văn thành phố. Họ còn hàm ý rằng chính quyền Sài Gòn là chỉ quanh quẩn trong đô thị đó thôi, còn ở bên
ngoài, ở nông thôn, là do họ kiểm soát. Cộng sản vốn từng đánh lừa khắp nơi bằng những danh từ được dùng theo tính chiến lược giai đoạn, trong khi người dân bản xứ biết
rõ họ kiểm soát nông thôn như thế nào, bằng cái gì.
Có ai tự hỏi nông thôn họ kiểm soát có bao nhiêu trường đại học, có bao nhiêu cơ quan ngôn luận, có bao nhiêu cơ chế phục vụ người dân như bệnh viện, thư viện, có bao
nhiêu tiện ích công cộng phục vụ dân chúng? Không có gì hết, số không. Nói kiểm soát được nông thôn, trong đối nghĩa với đô thị, là ra cái điều họ có đa số, thực tế là láo
khoét. Kiểm soát ấy chỉ là thủ tiêu và ám sát và tống tiền, và thu thuế không có biên nhận. Văn học đô thị mà sao các tạp chí chuyên biệt như Sáng Tạo, Văn, Nghệ Thuật,
Khởi Hành, và các tạp chí ở giữa đô thị như Thời Nay, Phổ Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn, … hàng tuần hay hàng tháng in ra cả chục ngàn số. Về tiểu thuyết, sách của Bình
Nguyên Lộc, Linh Bảo, Lê Xuyên, Duyên Anh, Mai Thảo, Nguyễn Thị Thụy Vũ, … in tới bốn hay sáu ngàn số, các tác giả khác thông thường cũng in hai ba ngàn cuốn,
trong khi sách báo hiện nay, dù in ở Hà Nội đi nữa, nhiều khi cũng chỉ in 500 cuốn? Không lẽ nước của chính quyền Sài Gòn và văn chương đô thị Sài Gòn lớn hơn nước
Cộng hòa Xã hội Việt Nam? Trong khi dân số trước 1975 chỉ khoảng vài chục triệu, và dân số bây giờ là gần một trăm triệu?
Rành rành là trên thực tế không bao giờ có văn chương đô thị, cũng như không bao giờ có chính quyền Sài Gòn, đó chỉ là hai trong rất nhiều nhóm chữ, rất nhiều mệnh đề
đẻ ra từ chiến tranh lạnh, tức là những chữ có tính giả trá, đánh lừa đám đông vốn có thứ hiệu ứng lười biếng của loài cừu, có thói quen bắt chước và ăn theo, thực tế chỉ có
nền văn học dân tộc không đứt đoạn từ những Tản Đà, Ngô Tất Tố, Nguyễn Văn Vĩnh qua Tự Lực Văn Đoàn, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng và cũng truyền thống ấy
vào miền Nam với Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân, Tam Lang, Nguyễn Vỹ, hợp với Đông Hồ, Tam Ích, Bình Nguyên Lộc, Tùng Long, hình thành Văn Học Miền Nam
… và về mặt nhà nước, hợp pháp chỉ có chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Ở trong nước cũng thế, có một lớp những con tu hú đẻ nhờ, hay là được cho đẻ nhờ, được ở miễn phí hay được khen đẹp mã miễn phí – lại có bài đăng trên những tờ báo
mới ra, báo giai đoạn, hay báo dùng lại tên của một hai tờ báo vốn là của sinh viên học sinh Miền Nam trước 75 — đóng vai người xưa bạn cũ cùng làng cùng ngõ: nhìn
cho kỹ và nghĩ cho sâu, đang có một vận động hỏa mù khác, lần này là do những con tu hú kia, những nhà văn nhà thơ tài tử kia nhiếp vai đóng tuồng. Họ đang khôi phục
lại sự phân ly, đang len lỏi để chia rẽ. Những gì đang xảy ra ở đây, bây giờ, vốn đã xảy ra thời 54, 75, trong giai đoạn giao thời và chuyển tiếp. Cộng sản chỉ có một mục
đích, dù đổi màu như con tắc kè, là phải nắm được chính quyền, dù phải đổi tên chính quyền ấy, từ Lao động tới Xã hội chủ nghĩa, họ sắp phải bỏ mấy chữ Xã hội đi, họ sẽ
có một tên khác, cuộc vận động thay màu đổi sắc đã bắt đầu.
Vốn có tập quán ghi nhận để tìm hiểu, tôi luôn luôn đọc cho mình nghe một câu thơ của tác giả đã sinh ra con hổ trong vườn bách thú, để quan sát, tự hỏi, và định vị trong
cuộc sống, đặng khỏi sa vào cạm bẫy của con người: “Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?” Nếu không biết rõ mình, và nếu không biết cái gì đang thay đổi xung quanh, thì vào
trong chuồng làm con cọp nhớ rừng là phải thôi. Hay từ đó suy ra, trong các giống chim, có loài chim tu hú tuy đẹp mã, văn vẻ, nhưng phải cái giống đi đẻ nhờ, vốn lười
biếng đã không chịu xây tổ như các giống chim khác, không tự mình xây dựng mà cứ mượn danh, cuối cùng thì sẽ được gì nhỉ? Chắc chắn là các tổ trưởng sẽ ăn trứng của
chúng, và đuổi chúng đi như đuổi hủi.
Nguyễn Tà Cúc: Cảm ơn anh đã cho ý kiến như một nhân chứng của Việt Nam Cộng Hòa và Văn học Miền Nam 1954-1975.
http://damau.org/archives/32753
Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975
21 Tháng Bảy 2014 06:00
Nguyễn Thị Thu Trang
Hai mươi năm (1954-1975) là một đoạn đường dài đối với lịch sử đương đại cũng như với văn chương Việt Nam. Trên một nửa đất nước tính từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà
Mau, một giai đoạn văn học với nhiều đặc điểm khác biệt so với trước và sau đó đã tồn tại và phát triển. Xét về khía cạnh lịch sử là một phần không thể tách rời của văn
học dân tộc. Việc tìm hiểu, đánh giá thành tựu và khuynh hướng vận động của văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 không chỉ là nhiệm vụ của văn học sử, mà
còn là công việc quan trọng đầu tiên để tiến hành mọi cuộc khảo sát, nghiên cứu, nhận định về các vấn đề có liên quan trong phạm vi bao quát của nó.
Tác giả bài viết mong muốn thông qua việc giới thiệu vài nét về đội ngũ tác giả, tác phẩm văn xuôi và đời sống văn chương đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (qua
khảo sát từ những tư liệu đã có), sẽ nhận được sự chia sẻ, quan tâm từ người trong giới nghiên cứu văn học.
I. Về tác giả
Năm 1973, trong cuốn Văn học và tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ, có bản thống kê gọi là “Đồ biểu văn xuôi Việt Nam” (1), tác giả ghi tên khoảng 50 tác giả văn xuôi ở
miền Nam giai đoạn từ 1954 đến 1973 cùng với các tác phẩm tiêu biểu của họ (bao gồm tác phẩm thuộc thể “truyện” và cả các công trình khảo cứu văn hóa, lịch sử).
Năm 1987, trong cuốn Hai mươi năm văn học miền Nam, 1954-1975 (Phần tổng quan) của Võ Phiến, ở phần thống kê cuối sách, người đọc tính được 267 tác giả trong đó
hơn hai phần ba là tác giả văn xuôi (2).
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá trong tác phẩm Nhìn lại một chặng đường văn học đã qua, riêng trong phần tuyển chọn tác phẩm của các cây bút có xu hướng “tiến bộ, yêu
nước” ở vùng đô thị miền Nam, đã đưa ra đến 60 tác giả văn xuôi (3).
Những con số nói trên dù không hoàn toàn chính xác nhưng cũng là một cơ sở để người đọc hình dung về lực lượng đông đảo những người viết văn, làm báo ở miền Nam
giai đoạn trước 1975. So sánh với đội ngũ nhà văn thời tiền chiến từ 1913 đến 1945 trong cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh cũng
cho rằng số lượng các tác giả văn xuôi giai đoạn sau 1954 ở miền Nam rất lớn, lên tới 200 người (4). Ngoài đặc điểm về số lượng, đội ngũ cầm bút còn đa dạng về thành
phần, nghề nghiệp và khác nhau trong quan niệm sáng tác. Nhiều nhất trong số họ là làm báo và dạy học.
Từ 1954, trong số những người từ miền Bắc di cư vào Nam, có nhiều nhà văn, nhà thơ. Một số tác giả đã viết trước đó và tiếp tục sáng tác như Nhất Linh, Vũ Bằng, Vi
Huyền Đắc… trong khi nhiều người bắt đầu sự nghiệp văn chương tại miền Nam như Thanh Tâm Tuyền, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Dân… Hoạt
động của họ trên văn đàn ở giai đoạn đầu có tác dụng kích thích, gây hào hứng cho bầu không khí sáng tác chung; làm cho đội ngũ viết văn, làm báo của miền Nam đông
đúc hơn, đa dạng hơn, nhiều thành phần và phức tạp hơn.
Thế hệ những nhà văn miền Nam sau thời của Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức… hồi đầu thế kỷ; và sau thời kháng chiến chín năm của Mai
Văn Bộ, Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà… là Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Hà Huy
Hà, Vân Trang… Còn có sự tham gia của nhiều tên tuổi khác từ miền Trung như Vũ Hạnh, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Minh Quân, Nguyễn Mộng Giác… Họ
là những người đã từng tham gia kháng chiến, những người có cảm tình với kháng chiến hoặc chỉ có tình yêu văn chương và tinh thần dân tộc…
Bên cạnh lực lượng sáng tác là những nhà lý luận, nghiên cứu, phê bình, khảo cứu văn hóa mà hoạt động của họ có tác động đến sự phát triển văn học như Nguyễn Hiến
Lê, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Lữ Phương, Đặng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Nhật Duật, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh… Bên cạnh những cây bút có
quá trình hoạt động văn chương xuyên suốt nhiều thời kỳ là lớp nhà văn trẻ xuất hiện từ sau 1964 như Hồ Minh Dũng, Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Lê Văn Thiện,
Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn, Nguyễn Mai, Dương Uẩn, Cung Tích Biền, Đinh Tiến Luyện, Du Tử Lê,
Thế Vũ… Họ đã trẻ hóa và làm linh hoạt, nhộn nhịp các diễn đàn văn xuôi.
Một hiện tượng văn học cũng được dư luận quan tâm là sự xuất hiện của một số nhà văn nữ như Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy
Vũ, Trần Thị NgH… So với những nhà văn cùng phái với họ như Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Minh Quân, Mộng Trung…, sáng tác
của các cây bút nữ nói trên thực sự mới mẻ về giọng điệu, ngôn từ; đặc biệt là việc khai thác và thể hiện các yếu tố tình dục, bản năng, lối sống hiện sinh. Võ Phiến tính
rằng số lượng nữ văn, thi sĩ mới chỉ chiếm “17 phần trăm” và “Nam phái chỉ kịp trông thấy một viễn tượng thua sút, chứ kỳ thực chưa nếm mùi thua sút”(5), nhưng cũng
chính tỷ lệ này cho thấy sự thay đổi, phá cách trong văn chương của các nhà văn nữ được chú ý nhiều hơn so với nam văn sĩ.
Trước đây, văn chương, báo chí cũng chỉ phát triển ở các đô thị lớn, nay hoàn cảnh chiến tranh càng khiến Sài Gòn thành nơi qui tụ các nhà văn, nhà thơ. Chỉ có một số ít
tác giả vì việc làm, vì hoàn cảnh gia đình… mới sống ở các thành phố nhỏ hoặc một số nơi khác. Gần gũi nhau và cùng một môi trường sáng tác nên các nhà văn thuận lợi
trong việc giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhưng cũng dễ dẫn đến một hệ quả là trùng lặp về đề tài, giống nhau về giọng điệu, câu chữ…
Điểm khác biệt của đội ngũ tác giả văn xuôi miền Nam giai đoạn trước 1975 không phải là ở “thế giá” thấp, là nỗi “cô đơn” vì thiếu chỗ dựa mà có thể là do ý thức hệ hoặc
do môi trường hoạt động văn hóa nghệ thuật thay đổi. So với trước, sự phân hóa về tư tưởng chính trị, về nhận thức xã hội trong các nhà văn diễn ra quyết liệt hơn, thậm
chí dẫn đến nhiều quan điểm cực đoan. So với trước, hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật đa dạng, sôi động hơn và sự “cạnh tranh” nhau ngang bằng, tự do, không xếp
hạng khiến cho nhà văn khó có ngôi thứ và sự trọng vọng trong lòng công chúng.
Dù muốn dù không, người viết cũng phải đối diện với nhu cầu cơm áo, vòng quay cơ chế thị trường, những xáo trộn về chính trị và hoàn cảnh không bình thường thời chiến
tranh. Tác phẩm chính là biểu hiện cụ thể nhất tư tưởng, tài năng hay quan niệm về văn chương của họ.
II. Về tác phẩm
Văn xuôi giai đoạn 1954-1975 ở các vùng đô thị miền Nam vượt trội hơn so với thơ cả về số lượng lẫn chất lượng nhất là ở các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tạp
bút… Tạ Tỵ viết hai tậpMười khuôn mặt văn nghệ hôm nay giới thiệu sự nghiệp văn nghệ và tác phẩm của 20 nghệ sĩ mà ông cho là thành đạt nhất ở miền Nam, trong đó
có tới 13 tác giả văn xuôi, chiếm gần hai phần ba (6). Cho tới nay chưa có một công trình nào thống kê đầy đủ các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này, nhưng cũng có thể hình
dung sơ bộ qua một vài ước tính. Tạp chí Bách Khoa là một tạp chí nửa tháng một kỳ, nội dung là phổ biến kiến thức chung về văn hóa nghệ thuật, kinh tế, chính trị…, là
tạp chí sống “thọ” nhất ở miền Nam – tới 18 năm! Cũng như những tờ báo và tạp chí khác, Bách Khoa có dành một số trang cho văn học trong đó có văn xuôi. Từ số đầu
tiên ra ngày 15/01/1957 đến số cuối cùng là số 426 ra ngày 19/4/1975, ước tính có hơn 600 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận… của nhiều tác giả, đã
được in trên Bách Khoa. Trên tập san Văn do ông Nguyễn Đình Vượng chủ trương, con số trên còn tăng gấp đôi, gấp ba vì mục đích tập san này chỉ là in tuyển, giới thiệu
tác phẩm văn, thơ. Một tạp chí khác hoạt động ngắn ngủi, chỉ trong vòng hơn hai năm từ 1970 đến 1972 như tờ Trình Bầy (Tạp chí Văn hóa – Chính trị – Xã hội) trong 42
số đã đăng khoảng gần 80 truyện ngắn, trung bình gần 2 truyện trên một số. Có thể dẫn chứng thêm, như nhà văn Bình Nguyên Lộc có khoảng 1000 truyện ngắn và nhiều
tiểu thuyết, truyện dài khác (7); như học giả Nguyễn Hiến Lê tính đến năm 1975, có đúng 100 đầu sách các loại đã được xuất bản (8)…
Tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954-1975 phát triển dồi dào về số lượng, nguyên nhân chính là do tác động của báo chí và hoạt động của các nhà xuất bản. Vũ Bằng trong
Bốn mươi năm nói láo tính rằng riêng tại Sài Gòn vào thời điểm tháng chạp năm 1963 có đến 44 tờ nhật báo (9). Đến tháng 4 năm 1975, con số này chắc chắn còn tăng lên.
Đó là chưa kể các loại báo tuần, báo tháng, tạp chí, tập san và đủ các loại in tuyển khác. Võ Phiến cũng cho rằng Sài Gòn trước 1975 “… đã có cả nghìn nhà in, 150 nhà
xuất bản. Những nhà xuất bản như Sống Mới, Khai Trí, Trường Thi, Nguyễn Đình Vượng, Trí Đăng…, những nhà phát hành như Thống Nhất, Nam Cường, Đồng Nai, Á
Châu…, mức hoạt động của họ chắc chắn các đồng nghiệp thời tiền chiến không thể nào sánh nổi…” (10).
Phần lớn tác phẩm trước khi in thành sách đều đã đăng trên báo, tạp chí; và hầu hết các loại báo và tạp chí đều có phần dành cho văn chương. Được nhiều người đọc nhất là
loại tiểu thuyết nhiều kỳ đăng thường xuyên trên nhật báo (còn gọi là feuilleton), thứ nữa là truyện ngắn, rồi tới tùy bút, đoản văn… Trong một lần trả lời phỏng vấn của
Nguyễn Nam Anh, nhà văn Bình Nguyên Lộc cho biết: “Vào năm 1957 thì tôi viết mỗi ngày 11 feuilletons. Nhưng sau đó chính An Khê và Lê Xuyên dẫn đầu. An Khê có
năm viết tới 12 feuilletons mỗi ngày, nhưng tôi chưa hề thấy ai vượt qua con số 12 nổi. Sự viết nhiều, viết ít, không do ta, cũng không do chủ báo. Đó là may mắn (hay rủi
ro) ngẫu nhiên…” (11). Thị trường báo chí sôi động, lôi cuốn các nhà văn chuyên nghiệp và cả những người không chuyên vào cuộc. Kết quả là năng suất tăng nhanh, một
người có thể cộng tác với nhiều báo, và một ngày có thể viết xong nhiều bài, thậm chí một truyện ngắn; nhưng chất lượng nghệ thuật của tác phẩm lại có thể tỷ lệ nghịch
với số lượng vì nhiều nhà văn phải “chạy” cho kịp báo.
Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới hiện thực cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá linh hoạt nhu cầu của người đọc tại
các vùng đô thị. Ở làng quê và các vùng nông thôn xa xôi, sách và báo chí chưa có điều kiện đến gần, nhưng nhiều người nông dân vì chiến tranh, vì mưu sinh phải từ giã
ruộng đồng đến sống ở thành phố, hình thành nên một lớp độc giả mới của đô thị…
Nếu Ngọc Linh, Ngọc Sơn trên Nhân Loại, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới và nhiều nhật báo khác trung thành với loại tiểu thuyết dài tình cảm hay chuyện gay cấn, ly kỳ; thì
Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ là trụ cột của tờ Sáng Tạo. Mai Thảo, Viên Linh, Võ Phiến, Vũ Bằng và một số người khác thường xuyên viết cho mục tùy
bút, đoản văn trên tuần báo Khởi Hành, Văn, Thời Tập và các báo khác. Cũng như vậy, những bài nghị luận chính trị – xã hội của Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan,
Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Trọng Văn… luôn là phần quan trọng trên các tạp chí Đối Diện, Tự Quyết, Đất nước, Tin Văn, Trình Bầy… Hình
thức dài ngắn của văn xuôi hầu như được thể hiện khá linh hoạt để tính chữ, tính trang. Trong các bài viết và công trình nghiên cứu, phê bình về văn xuôi, ông Cao Huy
Khanh và nhiều người khác đều gọi chung các thể loại truyện ngắn, truyện dài cho tới tùy bút, đoản văn… bằng cái tên là “tiểu thuyết”(12). Loại tiểu thuyết dài (nhiều
trang) có số lượng rất lớn, như Ngọc Linh có hơn 20 tiểu thuyết (13). Một số tác giả khác cũng có xấp xỉ con số này. Nhưng chất lượng nghệ thuật tác phẩm hầu như đều
nghiêng về thể truyện ngắn, kể cả với những người viết nhiều thể loại như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng… Trong vòng một năm (từ 15/11/1958 đến
15/11/1959), trên tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Ngu Í phụ trách mục “Phỏng vấn văn nghệ sĩ về truyện ngắn Việt và ngoại quốc được yêu thích nhất”, sau khi lấy ý kiến từ
42/72 nhà văn, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu được hỏi, đã tổng kết được rằng truyện ngắn Ba con cáo và Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc chiếm tỷ lệ bầu chọn cao nhất. Thứ tự
còn lại là của các tác giả khác, trong đó có Khái Hưng, Phạm Duy Tốn… của giai đoạn trước (14). Tuy nhiên bản thân Bình Nguyên Lộc lại “không đồng ý” với những
người bầu chọn tác phẩm của ông. Nhà văn cho rằng: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (tạp bút), Cuống rún chưa lìa (truyện ngắn), Tỳ vết tâm
linh(truyện dài) mới là các tác phẩm hay của ông (15). Cũng xét riêng ở mảng truyện ngắn, ngoài thế hệ đi trước như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng, Vũ
Hạnh…, các thế hệ nối tiếp như Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Tuấn… được đánh giá là những nhà văn xác lập được phong cách riêng và không bị
trùng lặp với người khác.
Trong hơn hai thập niên phát triển, sự thay đổi về số lượng và nội dung tác phẩm thấy rõ hơn những thay đổi về hình thức nghệ thuật. So với văn xuôi giai đoạn trước, giai
đoạn này còn thiếu những đỉnh cao có sức tỏa sáng lâu dài như Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao…, nhưng bù lại bề rộng cuộc sống lại được các nhà văn
khai thác đa dạng hơn, tác phẩm đến được với nhiều loại công chúng hơn.
Giới trí thức, học sinh, sinh viên có thể tìm đến các loại sách học làm người của Nguyễn Hiến Lê, sách truyện của Phan Du, Võ Hồng, Võ Phiến, Vũ Hạnh… Người bình
dân miền Nam thích đọc nhật báo và các loại truyện của Ngọc Linh, Ngọc Sơn, An Khê, bà Tùng Long… Sách cho thiếu nhi từ đầu thập niên 60 phát triển rất nhanh về số
lượng lẫn đề tài và hình thức thể hiện. Ngoài những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, giá trị đạo đức con người của Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Minh Quân… còn có hàng loạt tác
phẩm của tủ sách Tuổi Hoa gồm các loại Hoa xanh, Hoa đỏ, Hoa tím… in giấy khổ nhỏ, phổ biến cho đủ mọi lứa tuổi và các loại truyện tranh. Duyên Anh thành lập nhà
xuất bản Tuổi Ngọc chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi và ông cũng là tác giả của nhiều truyện dành cho độc giả tuổi từ 13, 14 trở lên, lứa tuổi bắt đầu thích khẳng định cá
tính, sự tự do, hứng thú phiêu lưu và cả những kiểu yêng hùng mới lạ… Sách khảo cứu không chỉ dừng lại ở các đề tài tìm hiểu văn học, văn hóa cổ, các nhân vật lịch sử
nổi tiếng… mà còn tập trung giới thiệu địa lý, lịch sử, văn hóa các địa phương. Được chú ý như các quyển Xứ trầm hương của Quách Tấn, Non nước Bình Định, Non nước
Phú Yên của Nguyễn Đình Tư, Hương nước hồn quê của Toan Ánh…
Như vậy, tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954 không chỉ giới hạn trong những đề tài “cổ điển” như nói về cuộc sống của người thành thị, trí thức, tình cảm lãng mạn,
phiêu lưu hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất cả mọi vấn đề từ cao cả đến thấp hèn, hướng đến mọi đối tượng từ người lớn đến trẻ
em, từ giới trí thức đến người lao động, nhưng tập trung nhất vẫn là đề tài tình yêu với đủ mọi cung bậc, biến thái khác nhau. Nhiều khi vì mục đích thương mại, một số báo
chí cổ động, khuyến khích cho những truyện, bài viết nói về tình dục hoặc các chuyện ghen tuông vớ vẩn, chủ yếu gợi sự tò mò của độc giả. Vũ Bằng là nhà văn có tên
tuổi, nhưng bên cạnh những tác phẩm hay như Thương nhớ mười hai và một số tác phẩm khác, ông cũng có nhiều bài báo, truyện ngắn viết chủ yếu để đăng báo, ít có giá
trị văn học. Mai Thảo và một số nhà văn khác cũng tương tự như vậy.
Tóm lại, tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954 – 1975 ở vùng đô thị miền Nam là những sản phẩm hàng hóa, được làm ra trong một điều kiện lịch sử, môi trường văn hóa đặc
biệt. Giá trị của nó tùy thuộc vào mục đích của người tiếp nhận nhưng sự vận động, biến đổi lại bị chi phối hết sức nghiệt ngã từ những yếu tố kinh tế, chính trị…
III. Về các khuynh hướng và sự phát triển
Xuất phát từ lập trường chính trị và tư tưởng, các nhà nghiên cứu như Phạm Văn Sĩ (16), Trần Trọng Đăng Đàn (17), Trần Hữu Tá (18) và một số người khác chia văn học
đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (trong đó có văn xuôi) thành hai khuynh hướng: một là yêu nước, cách mạng; hai là phản động, suy đồi. Phạm Văn Sĩ cho rằng chính
sách văn hóa thực dân mới đã tác động và làm cho văn chương đô thị miền Nam có những xu hướng biểu hiện như “văn chương chống Cộng, văn chương nhân vị, văn
chương hiện sinh” (19). Cũng như tác giả Trần Trọng Đăng Đàn coi bộ phận văn học yêu nước, cách mạng là “một dòng trong giữa những dòng đục” (20), nhà nghiên cứu
Trần Hữu Tá phân tích đặc điểm của khuynh hướng văn học tích cực này là “gắn bó chặt chẽ với phong trào đấu tranh đô thị, với công cuộc giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước”, “xác lập được khuynh hướng tư tưởng – nghệ thuật nhất quán và sáng tạo nhiều phương thức hoạt động độc đáo, đa dạng”, “tập họp được nhiều lực lượng
viết khác nhau và hình thành nên những trung tâm đấu tranh lớn”. Tác giả kết luận: “Nó là sự tiếp nối của truyền thống; nó khẳng định tư tưởng yêu nước, tinh thần tự
cường dân tộc luôn là nguồn mạch chính của văn học Việt Nam…” (21).
Khác với quan điểm trên, Võ Phiến cho rằng văn xuôi miền Nam vận động theo hai hướng: một là đi theo con đường truyền thống, hai là có xu hướng phản kháng lại. Dòng
truyền thống bao gồm những tác giả không khác trước mấy về tư tưởng nghệ thuật lẫn quan điểm xã hội, nghĩa là vẫn phản ánh các vấn đề đạo đức, tình cảm, tâm lý… con
người như các nhà văn của giai đoạn trước 1945. Ví dụ Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… xếp vào khuynh hướng phong tục; Phan Du, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hạnh… có
khuynh hướng xã hội; Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nhất Hạnh, Nguyễn Mộng Giác… thuộc khuynh hướng luận đề; Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Võ Hồng, Doãn Quốc
Sỹ… có khuynh hướng luân lý. Các khuynh hướng phản ứng lại truyền thống gồm có: “phản ứng trong suy tưởng: Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu…; phản ứng
trong nếp sống: Nguyễn Thị Hoàng, Chu Tử, Nguyễn Đình Toàn, Trần Thị NgH, Lệ Hằng…; phản ứng trong bút pháp: Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Đông
Ngạc…”. Võ Phiến còn nhấn mạnh thêm rằng những phản ứng, chống đối nêu trên “… vượt ra ngoài phạm vi tiểu thuyết, phạm vi văn nghệ; sự chống đối ấy bao trùm cả
nếp sống trong xã hội, cả nếp tư tưởng, cả phong cách con người, cả bút pháp các nhà văn như chúng ta đã thấy…” (22).
Cách phân loại của Võ Phiến về đại thể vẫn dựa vào sự phân chia cũ của Vũ Ngọc Phan năm 1941 (Doãn Quốc Sỹ năm 1973 cũng phân tiểu thuyết thành 10 loại: phiêu lưu,
phong tục, lịch sử, tâm lý, tả chân, hoạt kê… (23)), nhưng mặt khác lại chú trọng đề cao các hiện tượng mới và trào lưu văn học.
Những biểu hiện phức tạp của đời sống văn hóa bao gồm cả sự thay đổi nhiều chiều trong “nếp sống”, “nếp tư tưởng”, của nhà văn, thái độ chống đối lại văn hóa “truyền
thống” quả thực gây trở ngại cho việc hệ thống nên mô hình phát triển của văn xuôi giống như Vũ Ngọc Phan đã làm cho giai đoạn trước.
Nhìn thẳng vào thực tiễn tồn tại của tác phẩm, tức là qua thị trường báo chí và sự tiếp nhận phổ biến của độc giả, còn có thể thấy văn xuôi miền Nam thể hiện qua các nhóm
viết khác nhau, do các nhà văn cộng tác chung trong một tờ báo, tạp chí nào đó hay do gần gũi nhau về tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng chính trị – xã hội…
Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh là người đầu tiên chia văn xuôi đô thị miền Nam ra thành những nhóm bút như: Nhóm Người Việt (và sau là Sáng Tạo) gồm Mai Thảo,
Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền…; nhóm Quan Điểm có Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ…; nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam,
Nhật Tiến…; nhóm Nhân Loại gồm Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy…; nhóm Bách Khoa có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du… Thập niên
60 trở đi còn có thêm một số nhóm mới như Văn Nghệ, Khởi Hành, Thời Tập có Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Cung Tích Biền…; nhóm Văn có Nguyễn Xuân Hoàng,
Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Ngụy Ngữ…; nhóm Trình Bầy, Đất Nước, Đối Diện… gồm Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Thế Vũ, Võ Trường Chinh, Trần Duy
Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn…; nhóm Tuổi Ngọc có Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện…(24).
Mỗi nhóm văn lại có những khuynh hướng biểu hiện khác biệt về tư tưởng hay về nghệ thuật. Các thành viên của nhóm Sáng Tạo chủ trương đổi mới văn học theo hướng
hiện đại hóa – đổi mới về tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và nhất là cách thể hiện nhân vật. Trong khi đó, nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh vẫn tiếp tục kiểu viết của
Phong Hóa ngày xưa, nhưng khuynh hướng miêu tả tâm lý xã hội cổ điển ấy không gây được ấn tượng cho người đọc nữa. Nhóm Bách Khoa gồm các thành viên khác biệt
nhau hoàn toàn về quan điểm chính trị – xã hội và phong cách viết, trong khi nhóm Nhân Loại (bao gồm cả tờ Vui Sống và nhà xuất bản Phù Sa) lại rất thống nhất trong
đường lối quảng bá về con người và đặc điểm văn hóa miền Nam. Nhóm Sáng Tạo qui tụ phần lớn các nhà văn chống đối Cộng sản, công kích chế độ xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc; còn những thành viên của nhóm Việt (cũng như các tờ Trình Bầy, Đất Nước, Đối Diện) luôn tỏ rõ thái độ kiên quyết chống Mỹ, chống lại chính quyền Sài Gòn.
Có nhóm, có nhà xuất bản mang tính tôn giáo, như Tạp chí Vạn Hạnh của viện Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Phật giáo), Tạp
chí Đối Diện của Linh mục Chân Tín và Linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Công giáo)… Các nhóm như Văn Nghệ, Khởi Hành, Tuổi Ngọc… có nhiều nhà văn trẻ và tác phẩm
của họ cũng chủ yếu nói về lớp trẻ, xoay quanh những đề tài như tình yêu, tâm trạng cô đơn, thất vọng…
Trong Hồi ký của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê nhận xét khái quát: “Trong hai chục năm sau Hiệp đinh Genève, văn học miền Nam phát triển khá mạnh. Về
lượng, chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là kém, nhưng có điểm đặc biệt này là không một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh hưởng khá lớn trong dân chúng
như nhóm Nam Phong những năm hai mươi (1920-1929) và nhóm Tự Lực những năm ba mươi (1932-1939)…” (25).
Khác với ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, trong Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969), tác giả Cao Huy Khanh nhận xét: “Tiểu thuyết miền Nam trong 15 năm qua
đã thực sự vượt qua bên kia ranh giới của một thời văn chương đã từng huy hoàng trong quá khứ, thời văn chương gọi là văn chương Tiền Chiến…” (26).
Vai trò của báo chí, của các nhóm bút đối với đời sống văn học miền Nam thập niên 50, 60 rất lớn và không chỉ dừng lại ở chỗ tạo nên sự phong phú “nhiều hình, nhiều
vẻ”. So với thời kỳ “huy hoàng” (1932-1945) trước đó, sự cách tân, đổi mới trong văn học không tập trung tạo thành những cuộc Cách mạng rầm rộ hay những dòng chảy
mạnh lôi kéo nhiều người tham gia; nhưng sự thay đổi trong ngôn ngữ văn chương, giọng điệu, nhân vật… theo chiều hướng hiện đại, tiến bộ hơn là điều không thể phủ
ố ềốề ểầ
nhận. Tuy nhiên, dường như cái mốc 1954 đã đưa văn chương miền Nam vốn nặng về “tải đạo” từ thời “Lục Vân Tiên”, chuyển dần sang văn chương mang tính “thực
dụng” theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực của từ này.
Diễn trình văn xuôi đô thị miền Nam trong hai mươi năm không thẳng một đường, hướng tới một đích như văn học Cách mạng mà quanh co, biến hóa khác thường…
Trong thời kỳ đầu từ 1954 đến 1963, còn gọi là thời “Đệ nhất Cộng hòa” hay thời Ngô Đình Diệm, văn học mới hình thành có vẻ rất hào hứng, tràn trề hy vọng nhưng rồi
nhanh chóng thất vọng. Mai Thảo và một số nhà văn từ miền Bắc vào từng rất tin vào khí thế “lên đường” của văn học mới và tưởng rằng họ sẽ gặt hái toàn những mùa
“sáng tạo” bội thu: “… Ta từng đi chật đất. Ta từng có, lớp lớp. Ta từng đến, hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học; từng phát động nghệ thuật nói chung
của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp” (27). Nhưng hiện thực xã hội bi đát và hiện thực sáng tạo của Mai Thảo đã không chạy theo kịp với ý tưởng “tuyệt đẹp, tuyệt đúng” của Mai
Thảo và “… Hai chữ “sáng tạo”… nghe như đượm một mùi tiếc thương dĩ vãng” (28). Không chỉ Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền mà cả Võ Phiến, Đỗ Tấn,
Vũ Khắc Khoan… đều có tâm trạng chua chát ấy. Họ vẫn hoạt động, vẫn đi trên con đường văn chương nhưng đã làm rơi mất niềm tin tích cực về nó ngay sau khi khởi
hành. Vấn đề còn lại là viết để mưu sinh và theo quan niệm cá nhân của mỗi người…
Từ 1963 trở đi, nhất là khi Mỹ đổ quân vào miền Nam thì cả đời sống chính trị và đời sống văn chương đều biến đổi dữ dội. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh nhận xét:
“Sau 1963, văn chương miền Nam biến thái cùng với một mối ám ảnh thường xuyên, khốc liệt: ám ảnh chiến tranh và tất cả những gì xung quanh chiến tranh” (29). Một số
nhà văn quay về quá khứ, hoài niệm cảnh sống bình yên của nông thôn ngày trước hoặc quay lưng lẩn tránh thực tại. Một số nhà văn khác lại phản ứng với hiện thực bằng
cách thể hiện nhân vật trong tác phẩm có thái độ thách thức, hành động ngược lại với những qui ước đạo đức vốn sẵn có. Hàng loạt tác phẩm viết về chiến tranh ra đời.
Nhưng vẫn chưa thấy có tác phẩm nào đủ tầm, đủ sức khái quát toàn bộ cuộc chiến, nhất là nói cho đúng nguyên nhân sâu xa và tác động của nó đối với người dân Việt hai
miền.
Giai đoạn 1968 đến 1975 là thời kỳ bi quan, khủng hoảng. Trên văn đàn hầu như chỉ thể hiện rõ hai khuynh hướng tư tưởng: một là chán nản, tuyệt vọng, phá phách; hai là
chống Mỹ, đề cao dân tộc. Các báo và tạp chí thay nhau giải thể, tan rã, rồi thành lập mới, nhiều nhà văn ngừng viết, nhiều người mới nhập cuộc… Diện mạo văn xuôi nhìn
chung không thay đổi nhưng đã có sự hoán vị âm thầm về đề tài, thể loại và vị trí nhà văn. Bình Nguyên Lộc từ tiểu thuyết, truyện ngắn chuyển sang biên khảo. Sơn Nam
cũng vậy. Võ Phiến từ truyện đi qua tùy bút, tạp bút. Vũ Hạnh lấn hẳn sang lý luận, phê bình. Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Trần Hoài Thư… vào “quân ngũ”
và chủ yếu viết về đề tài chiến tranh. Nhã Ca từ thơ chuyển sang nổi tiếng ở lãnh địa văn xuôi với những tác phẩm như Đêm nghe tiếng đại bác, Dải khăn sô cho Huế, Tình
ca cho Huế đổ nát… Lê Xuyên, Chu Tử… thu hút độc giả trẻ bằng những tiểu thuyết trộn lẫn tình yêu bản năng, trụy lạc với lối sống hiện sinh…
Văn xuôi đã biến đổi, đã đi qua các đoạn đường thăng trầm của thời cuộc, thay đổi từ đội ngũ tác giả đến những tác phẩm truyện, ký sự, tiểu luận… Võ Phiến cho rằng sự
thay đổi này “… không phải là sự thay thế những cái tên suông, mà là sự thay thế cả một chiều hướng tinh thần…” (30). Lữ Phương gọi đó là hệ quả tất yếu từ “cuộc xâm
lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam” (31).
Căn cứ vào mục đích sáng tác và thực tiễn tiếp nhận tác phẩm của người đọc, có thể phân biệt văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 ra làm ba thành phần: Thứ
nhất – loại tác phẩm giải trí đơn giản (thường dành cho độc giả bình dân); thứ hai – loại tác phẩm hướng đến các giá trị tư tưởng hay đạo lý truyền thống; thứ ba là những
tác phẩm mang tính trào lưu hướng đến những cách tân, đổi mới về nghệ thuật. Sự phân chia này dĩ nhiên không phải là những nhát cắt rạch ròi, xác định bởi văn chương
nghệ thuật vốn phức tạp và một tác phẩm vẫn có thể đi theo nhiều mục tiêu khác nhau. Bản thân đời sống văn chương phong phú cũng đã phản ảnh nhu cầu thưởng thức và
cảm thụ văn chương rất đa dạng của người đọc.
Tuy nhiên nếu đặt tác phẩm văn học trong dòng chảy lịch sử có kế thừa và đổi mới; chúng ta cũng có thể nhận ra sự thay đổi của văn xuôi theo các xuất xứ văn hóa: Nhóm
các nhà văn di cư, vào Nam vẫn mang theo cách viết truyền thống trước đó (văn xuôi giai đoạn 1932-1945) gồm có Nhất Linh, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Doãn Quốc Sĩ,
Lê Tất Điều, Phan Văn Tạo, Tạ Tỵ… Nhóm các nhà văn di cư chủ trương đổi mới văn nghệ cả nội dung tư tưởng lẫn thủ pháp nghệ thuật như Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh… Hai nhóm nhà văn mang đặc điểm văn hóa xứ Bắc, dù có chung ngôn ngữ giọng Bắc và bối cảnh quê nhà nhưng quan niệm về
con người và những đặc trưng thi pháp rất khác biệt nhau. Đối với các nhà văn Nam Bộ như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Trang Thế Hy… việc đi theo đường
hướng miêu tả chân thực phong tục, cuộc sống con người miền Nam từ thế hệ Hồ Biểu Chánh trước đó là khá rõ ràng. Một số nhà văn khác, tuy không chủ trương viết về
đất và người ở một vùng không gian xác định nhưng vẫn thể hiện đặc điểm và sắc thái văn hóa địa phương trong mỗi tác phẩm như một thói quen của hành động ghi nhận
và phản ảnh hiện thực.
*
Nhìn nhận về “một chặng đường văn học” đã qua (32), có thể mỗi người có một ý kiến đánh giá khác nhau. Từ góc độ lý luận, có thể phân chia văn xuôi ra thành khuynh
hướng này, khuynh hướng khác, nhưng từ thực tiễn đời sống của tác phẩm qua tiếp nhận của công chúng, còn thấy rằng thời gian mới là thước đo khách quan nhất. Tác
phẩm nào thực sự có giá trị sẽ còn ở lại lâu dài với người đọc, truyện nào dở tất nhiên cũng bị đào thải nhanh.
Đi qua những thành kiến cực đoan cá nhân, những xung đột về chính trị, những cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề truyền thống và hiện đại, những biến hóa nhiều chiều của
văn chương đương thời…, tác phẩm của nhiều nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân… viết ở thập niên 50,
60 trong lòng đô thị miền Nam vẫn còn được nhiều người yêu thích. Điểm chung nhất và là chỗ dựa vững bền của nó là hướng đến những giá trị văn hóa dân tộc, là bản sắc
văn hóa mỗi vùng miền và tình yêu quê hương chân thành, tha thiết. Họ làm thành một dòng chảy riêng, không tách biệt nhưng cũng không nhập cuộc vào những trào lưu
khác vẫn thường được coi là thịnh hành đương thời như “hiện sinh”, “phân tâm”, “ý thức”… Từ tác phẩm của những nhà văn có kiểu viết rất “truyền thống” và “cổ điển”
này, người đọc có thể nhìn thấy bức tranh đa dạng của văn hóa miền Nam những năm trước 1975, những sự kiện làm đổi thay đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tinh
thần của người dân.
_______
(1), (23) Doãn Quốc Sỹ : Văn học và Tiểu thuyết; Sáng Tạo xuất bản; Sài Gòn, 1973; tr.348.
(2), (5), (10), (22), (30) Võ Phiến : Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 (Phần Tổng quan); Nxb. Văn nghệ; USA, 1986, tr.89, 47, 266, 267, 89.
(3), (18), (21), (32) Trần Hữu Tá : Nhìn lại một chặng đường văn học; Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.125.
(4) Cao Huy Khanh : Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973; Tập san Thời Tập, số IV, ra ngày 14-4-1974.
(6) Tạ Tỵ : Mười khuôn mặt văn nghệ, Tập 1. Kim Lai xuất bản, Sài Gòn, 1970;
- Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Tập 2. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1971.
(7), (8) Từ điển văn học bộ mới (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên); Nxb. Thế giới, 2004; tr.133 phần viết về nhà văn Bình Nguyên
Lộc; tr.1143, phần viết về Nguyễn Hiến Lê.
(9) Vũ Bằng : Tuyển tập Vũ Bằng (Triệu Xuân giới thiệu sưu tầm và tuyển chọn), Tập III; Nxb. Văn học, H, 2000; tr.537.
(11), (15) Nguyễn Nam Anh : Nhà văn Bình Nguyên Lộc (Phỏng vấn); Tập san Văn, số 199, ra ngày 1-4-1972.
(12) Cao Huy Khanh : Các thế hệ tiểu thuyết gia miền Nam thời hiện đại; Tập san Thời Tập, số III, ra ngày 14-3-1974.
(13) Cao Huy Khanh : Ngọc Linh, tình cảm miền Nam; Tập san Thời Tập, số XIV, ra ngày 10-11-1974.
(14) Nguyễn Ngu Í : Tổng kết cuộc phỏng vấn văn nghệ sĩ về truyện ngắn Việt và ngoại quốc được yêu thích nhất. Tạp chí Bách Khoa, số 73, năm 1960.
(16), (19) Phạm Văn Sĩ : Văn học giải phóng miền Nam, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1976, 377.
(17), (20) Trần Trọng Đăng Đàn : Văn hóa Văn nghệ… Nam Việt Nam 1954-1975; Tái bản. Nxb. Văn hóa Thông tin, H, 2000.
(24) Cao Huy Khanh : Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973; Tập san Thời Tập, số IV, ra ngày 14-4-1974.
(25) Nguyễn Hiến Lê : Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn học, H, 1993, tr.428.
(26), (29) Cao Huy Khanh : Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969); Tuần báo Khởi Hành, số 74, năm 1970.
(27) Nguyễn Mộng Giác : Nhìn lại 15 năm văn nghệ miền Nam; Tạp chí Bách Khoa, số 361-362, ra ngày 15-01-1972.
(28) Nguyễn : “Chờ sáng của Nguyễn Sỹ Tế” (phê bình tập đoản tác của Nguyễn Sỹ Tế, Sáng Tạo xuất bản); Tạp chí Tin sách, số 1-1963.
(31) Lữ Phương : Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam; Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1981.
Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/2007- vienvanhoc.org.vn
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7635
http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/vai-net-ve-van-xuoi-do-thi-mien-nam-giai-doan-1954-1975/
Hiện-trạng văn-học miền Nam sau 1975
Posted on April 9, 2015 by editor
Nguyễn Văn Lục
Sau 1975, ta mất miền Nam. Ta đã mất tất cả. Mất đất, mất người, mất sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất cả di sản tinh
thần vốn là cái hồn tính miền Nam.
Cái gì mất vào tay cộng sản thường là không đòi lại được như mất nhà cửa, cơ sở làm ăn, tiền bạc, ngân hàng, đất đai, ruộng vườn với chính sách con bò sữa bị vắt. Con bò
sữa đã bị vắt đến kiệt kệ.
Nhưng cái duy nhất mà chúng ta còn có nhiều cơ may có thể lấy lại được là văn học miền Nam. Cái nền văn học bất hạnh ấy nhiều người tưởng rằng đã bị phôi pha đi. Nay
dần dà từng bước một, nó được khơi dựng lại trên đống tro tàn đã mục nát của quá khứ.
Trong tương lai, cần những cơ quan truyền thông, cơ sở báo chí có phương tiện, có tiền bạc đứng ra làm việc này để cứu lấy Văn Học Miền Nam.
Hành trình chữ nghĩa của chúng lưu lạc từ trong nước ra đến hải ngoại không khỏi gặp nhiều trắc trở gian nan. Chữ đã đi theo người, chia sẻ số phận con người và số phận
chữ nghĩa.
Tạp chí Bách Khoa. Nguồn: Sachxua.net
Tôi có một người bạn có thú chơi sách; anh Lít ở San Diego đã mang sang được toàn bộ Bách Khoa, toàn bộ tập san Quê Hương. Trong khi đó, một số Quê Hương được
rao bán 200 đô la ở Việt Nam. Ngoài ra anh Lít còn rất nhiều bản đồ cổ, sách cổ… Nhưng anh không có ý định phổ biến cho mọi người cùng đọc. Ít nữa, tuổi già chết đi
rồi, con cái sẽ không biết dùng làm gì, vứt vào thùng rác mất thôi.
Trăn trở với những sách vở cũ mà với tư cách người cầm bút, tôi muốn đóng góp vào việc khôi phục lại văn học miền Nam trong khả năng của mình.
Phần ở trong nước, tôi nhận ra có một giáo sư tên Huỳnh Như Phương vốn là một sinh viên miền Nam trước 1975. Thầy dạy học ông ở dưới Trung Học là Nguyễn Trọng
Văn, Nguyễn Xuân Hoàng tại tư thục Trường Sơn, đường Lê Văn Duyệt cũ. Trên đại học văn khoa, ông học với các giáo sư Triết thời đó(1).
Vốn là một người gốc gác miền Nam, trước 1975, ông dễ mặn lòng với Văn Học miền Nam và tôi khá tâm đắc với bài tham luận của ông nhan đề: Chủ nghĩa hiện sinh ở
miền Nam 1954-1975(trên bình diện lý thuyết)(2).
Hy vọng vào ông sau này nằm trong số những ngưới có điều kiện có thể phục hoạt văn học miền Nam trong môi trường giảng dạy ở đại học của ông.
Riêng cái kinh nghiệm đi tìm diện mạo văn học miền Nam có nhiều kỳ tích đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại câu chuyện của ông trong
Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư điều hành. Trong đó, anh kể lại câu chuyện cười ra nước mắt như sau:
Sau năm 1975, mình vài Sàigòn đi kiếm tiền ở khu nhà ga xe lửa cũ đường Lê Lai. Mình vào nhà vệ sinh công cộng ở bên hông nhà ga và thật mủi lòng khi thấy một nửa
trang báo Khởi Hành rách bẩn có thơ của mình. Tâm trạng của mình lúc đó không thể nói được bằng lời. Chắc lúc đó Sài gòn cũng buồn thê lương như mình. Mình khóc
thầm lặng một mình và vuốt thẳng thớm mảnh báo rồi cất cẩn thận vào chiếc bóp cũ… (Thư Từ Huế).(3)
Thân phận mảnh giấy báo trong một cầu tiêu công cộng ở nhà gare xe lửa Sàigon cũng là thân phận nhà văn miền Nam sau 1975.
Hiện nay, các nhà văn lớp đầu của miền Nam không còn mấy người, các nhà văn thế hệ thứ hai tính từ năm 1963 tụ họp lại có mất mát ít nhiều, nhưng nói chung còn khá
đông đủ.
Người thì còn mà sách, tác phẩm thì không còn. Phải chăng đó là điều mà tôi có bài văn này.
Kinh nghiệm bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên- một cuốn chuyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó đã gây một cú sốc
trong tôi vì nội dung câu truyện, tôi đã vô vọng viết rao trên báo Tân Văn và trong bài: Sách cũ miền Nam trước 1975 để tìm lại nó.
Nguồn: tranhoaithux.wordpress.com
Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được món quà quý hóa đó một cách bất ngờ từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(4)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc mà nay tìm lại được. Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện
mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng.
Ngay đối với những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyên truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi
chiều xin cũng rộng tay đón tiếp họ.
Chúng ta không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên. Đi tìm lại sách cũ cũng là đi tìm lại những người có lòng với sách cũ miền Nam. Tất cả chúng ta gặp
nhau ở một điểm hội tụ Oméga. Ở nơi đó, chúng ta sống lại cả một dĩ vãng tươi đẹp mà chúng ta dù mất tất cả cũng vẫn cảm thấy hãnh diện.
Nếu người dân miền Nam trước 1975 có điều gì cần được hãnh diện- ngoài một hệ thống tổ chức giáo dục-hành chánh-quân đội- điều còn lại chính là diện mạo văn học
miền Nam. Cho nên sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng Winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình. Cái bệnh vĩ cuồng của kẻ thắng trận chỉ nên dành cho những kẻ có chức quyền.
Chúng vơ hết về cho mình và chẳng nghĩ tới những đồng đội, những người lính, những thanh niên xung phong, những thương binh cả nửa triệu người, những bà vợ, bà mẹ
chiến sĩ mất con hoặc góa chồng, những thiếu nữ thanh niên xung phong.(5)
Còn những nhà văn miền Bắc mà tôi được biết như Lê Đạt, Nguyên Ngọc, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Chí Thiện. Và nhiều người khác thì họ
được gì sau cái chiến thắng đó.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải
chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(6)
Ý nghĩa cao đẹp nhằm sửa chữa những cái nhìn thiên lệch, miệt thị văn học miền Nam nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại. Biết nhìn lại
đâu là những lỗi lầm quá khứ cần vượt qua là bước tiến triển đáng khích lệ.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle nằm trong ý nghĩa này: Mỗi một cuốn sách là một con người.
Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình, bạn bè mình, các nhà văn lớn nhỏ.
Chân dung Trần Hoài Thư
phác thảo bút dạ đen và màu cà phê. Nguồn:
Đinh Cường 3- 2014
Phía Hải ngoại, tôi phải trân trọng nhà văn Trần Hoài Thư nằm trong số ít ỏi muốn vực dạy các nhà văn, nhà thơ gốc lính đã bị bỏ quên. Người viết sẽ có một bài viết riêng
về diện mạo văn học chiến tranh kể từ sau 1954 thường bị bỏ quên từ hai phía.
Phần một: Hiện tình sách báo miền Nam sau 1975 ở trong nước
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã
hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới -một thứ văn hóa đồi trụy- một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy
cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn(7).
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 40 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới,
đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng gần 40 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Ở đây, nơi chúng tôi đang sinh sống có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là
kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có xá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ Exil. Và một lúc nào rảnh rỗi
phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Nhiều người ngồi nghĩ lại mình có lúc thầm nghĩ rằng cuộc lưu đầy nay trở thành cuộc sống ở miền đất hứa. Trong nỗi bất hạnh tìm được cửa ngõ vào vườn địa đàng.
Trở lại trong việc xóa bỏ văn học miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
- Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời.
Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại được đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, tạp chí Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng
dựa sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt.
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị: ‘Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn
hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(8)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan “Hồi giáo” mà thực chất cả hai
thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy gần 200 triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie – hình như ở vùng Basse-Normandie,
ở vùng này, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2,3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ một cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu
đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một
câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(9) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, ba tôi, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois-
Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “‘Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã thấy lại tất cả… Và tôi có
cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6- 1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn ở y nguyên chỗ cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ
bị Saint-Cyr cũng vẫn còn đó. De Gaulle xúc động đến sững sờ.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle.
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng: ‘Nếu các ông phá hủy một
trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn’(10).
Xem người để nghĩ đến ta.
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa, nói chung là khu tư, khu năm còn nhớ Hồ Chí Minh đã hô hào dân chúng áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt
sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Trừ Bùi Chu, Phát Diệm, nơi giám mục Lê Hữu Từ phản đối lệnh đó nên nhà cửa ở đây vẫn còn nguyên vẹn, các vùng Thanh Hóa trở vào như Vinh nhiều nơi chỉ còn là
những hoang địa.
Để thực hiện công tác xóa bỏ Văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Đình Kỵ, Vũ
Hạnh ngay cả giáo sư Trần Văn Giàu (giáo sư Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài
trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Một vốn là một người sinh ra và lớn lên, được đào tạo
từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam. Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980)(11).
Chiến dịch đốt sách, “bài trừ văn hóa đồi trụy” và Lữ Phương. Nguồn: DCVOnlie tổng hợp
Người thứ hai là sản phẩm đặc trưng của miền Bắc- giáo sư Trần Trọng Đăng Đàn, Tổng biên tập Tạp chí Khoa Học Xã hội với nhiều tác phẩm trong nhiều
thời kỳ liên tục như: Nọc độc văn học thực dân mới, tập I, 1983, tập II, 1987…
Văn hóa, Văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam. Nguồn: OntheNet
…Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975, tập I, 1988, tập II, 1991. Và cuốn sách chủ yếu của ông là cuốn Văn Hóa, Văn Nghệ, phục vụ chủ nghĩa
thực dân mới Mỹ tại miền Nam 1954-1975 (1990). Sách này còn được in lại năm 2000.
Cho đến hiện nay, cho đến năm 2000, chính sách khủng bố mang tính nhà nước vẫn còn được chính thức lưu truyền trong nhà trường và nơi giới truyền thông. Cho nên,
chúng ta cần phân biệt rõ rệt giữa chính sách của nhà nước cộng sản và thái độ của các nhà văn miền Bắc về chính sách ấy.
Có những chuyển biến rõ ràng về phía các nhà văn miền Bắc, nhưng ngược lại nó lại tỏ ra trì trệ và quá cứng nhắc về phía chính quyền cộng sản ở mặt cơ chế. Vì thế cho
đến nay, năm 2015, tôi đã nhìn thấy một số chuyển biến tích cực ở bình diện cá nhân hơn là ở bình diện chính sách nhà nước.
Sự chuyển biến nơi các nhà văn từng hùa theo chính sách của nhà nước cộng sản diễn biến như sau:
* Thứ nhất là sự phủ nhận chính những tác phẩm của chính mình.
Sự phủ nhận chính mình là điều không dễ. Người ta thường cố bảo vệ những điều đã viết ra, dù sau này biết rằng những nhận thức của mình có thể đã lỗi thời hoặc đã bị
vượt qua. Có những cái chỉ đúng cho một thời kỳ mà trở thành tai hại ở thời kỳ khác.
Vì thế, sự thay đổi, sự chuyển biến tư tưởng thường mang tính biện chứng trong tri thức luận cũng như trong nhận thức của đời thường. Chuyển biến nơi các nhà văn này
có chiều hướng vượt rào, tiến bộ. Và đôi khi cần được hiểu rằng không ai trung thành với chính mình ở chính lúc mà người ta thay đổi.
Vì thế, thay đổi là biểu hiện của sự trung thành hơn là một phản bội.
Và nay nhiều nhà văn đã có thái độ chuyển biến tư tưởng mà không do bất cứ một thúc ép bắt nguồn từ quyền bính chính trị nào. Nhưng là do một thúc bách đòi hỏi của sự
thật, của lương tri và lẽ phải.
Tôi cũng xác tín rằng không chỉ có vài nhà văn nêu tên sau đây đã xoay chuyển cách nhìn và đánh giá văn học miền Nam mà còn nhiều ngươi khác không nói ra thôi.
Lữ Phương đã kín đáo, thầm lặng loại bỏ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của Đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam ra khỏi danh sách các sách của ông. Đỗ Đức
Hiếu cũng một cách nào đó không muốn nhắc đến cuốn Phê Phán Văn học hiện sinh chủ nghĩa. Lê Đình Ky cũng đã dứt khoát không đưa cuốn Nhìn lại tư tưởng Văn nghệ
thời Mỹ Ngụy vào danh sách các tác phẩm đã in của ông.
Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh và trong cuốn Hà Nội lúc không giờ, trong đó có chuyện ngắn Rửa tay gác kiếm đã miệt thị các nhà văn miền Nam khi cho rằng,
các tác phẩm của họ chỉ dùng làm giấy đi cầu như trường hợp Chu Tử, Xuân Vũ v.v.(12). Nhưng sau này theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn kể lại trong bài phỏng vấn của
Thụy Khuê, ông có đưa cuốn Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam cho Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đọc. Cả hai đều nhìn nhận rất trân trọng, kính nể Phan Nhật
Nam. Riêng Bảo Ninh sau khi đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam xong thì tiếc rằng:
“Nếu tôi có cơ hội được đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Và những cuốn sách viết về Chiến tranh như Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam mà bọn tôi đọc thì
không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết về sự đóng góp của văn học miền Nam của một thời.”(13)
Nhưng điều đó cũng cho thấy rằng những việc họ bắt buộc phải lên gân chửi văn học miền Nam trước đây có thể chỉ là hùa theo chính sách, không nói không được. Nó
giống như cái cảnh tượng một người cán bộ đi dự một buổi mít tinh mà nhà nước đưa mấy phi công Mỹ ra đi diễn hành để cho dân chúng tha hồ chửi, đánh cũng có. Anh
cán bộ nhà văn bắt buộc làm theo đám đông, anh cũng giả vờ dơ tay đánh dứ người phi công Mỹ đi qua… để che mắt người khác.
Nghĩa là giả vờ chửi. Hay nói cho cùng, các nhà văn miền Bắc đôi khi bất đắc dĩ phải chửi Nhân Văn Giai Phẩm, chửi văn học miền Nam là đồi trụy Mỹ-Ngụy – một cách
thức như chửi thuê vì miếng cơm manh áo.
Đây là một điều chúng ta cần chia sẻ với một số nhà văn miền Bắc.
Hiểu hoàn cảnh các nhà văn miền Bắc như thế nên khi tôi đọc Trần Văn Giàu viết trong cuốnNhận Định về cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, tôi không tức giận, vì
tôi có cảm tưởng ông chỉ giả vờ chửi Nguyễn Văn Trung mà điều chính yếu chính là ông Trần Văn Giàu muốn gián tiếp trình bày toàn bộ triết học hiện sinh theo cách của
Nguyễn Văn Trung.(14)
Người ta cũng sẽ có một cảm tưởng tương tự khi đọc Lê Đình Ky. Ông cũng đã dành phần lớn bài viết của mình viết về triết lý hiện sinh ở miền Nam do Nguyễn Văn
Trung chủ trương.
Nói tắt một lời chửi mà thực sự không phải là chửi. Nhưng dùng cơ hội chửi đó để triển khai một đề tài triết học mà các ông tâm đắc.
Ngoài những người trực tiếp phê phán văn học Mỹ Ngụy ở trên, còn có một số nhà văn ở miền Bắc, bằng cách kín đáo, họ bày tỏ một sự trân trọng và quý mến các nhà văn
miền Nam. Theo ý kiến của Vương Trí Nhàn thì sau 1954, các nhà văn miền Bắc ít có cơ hội đọc sách vở của miền Nam. Tuy nhiên những nhà văn như Nguyễn Tuân,
Nguyễn Thanh Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hay lớp trẻ hơn như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt hay Trúc Thông đã lặng lẽ tìm kiếm các sách,
tài liệu miền Nam để đọc.(15)
Bên cạnh đó, các nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc cũng có cái nhìn chia xẻ về văn học miền Nam như vậy.
Phần chúng tôi, những người miền Nam được may mắn sống trong một chế độ cởi mở hơn, chúng tôi có nhiều cơ hội được tự do tìm đọc thơ Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, đọc các chuyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, v.v.
Riêng trường hợp Nam Cao, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dùng truyện Chí Phèo làm đề tài nghiên cứu văn học ở Đại Học văn khoa Sài gòn. Trần văn Toàn (vừa quá
vãng) đã khệ nệ bê nguyên con triết học Karl Marx-Hegel công khai vào giảng đường Văn Khoa Sài Gòn cho thấy sự tự trị đại học ở miền Nam như thế nào.
Sự phân biệt giữa chính trị và văn hóa đem lại cái lợi thế và cái may mắn cho những người sống ở miền Nam hơn ở miền Bắc.
Đó là điều phải nhìn nhận sự khác biệt về thể chế chính trị đã đem đến hai dạng thức văn học: Văn Học miền Nam mang tính tự do, nhân bản, cái tình con người. Văn học
miền Bắc mục đích cổ xúy cho một ý thức hệ, tuyên truyền nên vì thiếu sự trung thực của người cầm bút. Có thể có những tác phẩm ở miền Bắc kín đáo phá rào, muốn
ề ếể
thâm kín bày tỏ một điều gì. Nhưng thật là hiếm hoi để được nhìn nhận.
* Thứ hai, việc cho xuất bản lại các tác giả trước 1975 là một dấu hiệu tốt bắt đầu.
Trong cái tinh thần muốn tìm về quá khứ, muốn vượt qua những hàng rào cản vướng mắc ngăn chặn của một quá khứ cay nghiệt, tôi đã tìm và mua được một số sách triết
học trước 1975 được in lại sau 1975 như các cuốn: Martin Heidegger, Tư tưởng và hiện đại của Bùi Giáng, các bộ Lịch sử Triết Học Tây Phương của Lê Tôn Nghiêm, nhất
là cuốn Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh.
Về sách Văn Học, cuốn 13 năm tranh luận văn học, gồm 3 tập của Thanh Lãng đã được in lại (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997 gồm bốn tập). Tạp chí Tri Tân, 1941-
1945, Phê Bình Văn Học cũng đã được Nhà xuất bản Nội Nhà Văn cho in lại.
Mặc dầu không thuộc di sản tinh thần của 20 năm Văn học miền Nam, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế đã cho in lại 4 tập Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du
vieux Hue, 1914-1944, một công trình biên khảo kéo dài trong suốt 30 năm trời do học giả L. Cadière làm chủ bút. Cũng nhà xuất bản này đã cho in lại bộ Đại Nam liệt
truyện thuộc Quốc Sử Giám triều Nguyễn.
Chúng tôi cũng ghi nhận sự cố gắng của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã cho in bốn tập, dày hàng mấy ngàn trang, 296 Tinh Tuyển Văn học Việt Nam, cũng dày khỏang
hơn 4000 trang, in giấy mỏng, bìa cứng.
Và mới đây, cuốn Lục Châu Học của Nguyễn Văn Trung đã được xuất bản vào cuối năm 2014. Cuốn sách Lục Châu Học nhằm trả lại vị trí xứng tầm của một mảnh văn
học miền Nam thường bị bỏ quên và bỏ qua trong suốt cả một thế kỷ dưới thời Pháp thuộc.
Tôi cũng ghi nhận một cách ngạc nhiên việc tái xuất bản các sách của Phạm Quỳnh như 10 ngày ở Huế - Luận giải văn học và triết học – Thượng chi văn tập, v.v. Và cũng
một cách thức như vậy, các tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng cũng tùy theo cuốn đã được tái xuất bản v.v…
Mặc dầu chỉ là thơ, Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng cũng như Mặc Khách Saigòn của Tô Kiều Ngân đã có dịp xuất hiện trên các kệ sách ở Sài Gòn.
Ngoài ra họ đã cho tái bản sách Nguyễn Hiến Lê, đặc biệt cuốn Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê do nxb TP. Hồ Chí Minh tái bản. Một điều ghi nhận là cuốn sách được tái bản
trong nước và cũng được in lại hải ngoại thì một bên để nguyên, một bên đã được cắt xén.
Chúng ta đọc lại Lời Nhà Xuất Bản để thấy rõ một chút tâm địa của họ:
‘Không phải là người cách mạng, là nhà văn cách mạng, nhưng Nguyễn Hiến Lê cũng không phải là nhà văn của chế độ cũ, mặc dầu ông sống giữa lòng xã hội ấy mấy
chục năm. Một lần nữa Nguyễn Hiến Lê lại ở giữa lằn ranh của nhân cách và phi nhân cách. Có người cho rằng ông đi giữa hai lằn đạn. Và một lần nữa ông đã tỏ ra bản
lĩnh vững vàng trước sau ông vẩn giữ được nhân cách của mình’.(16)
Chả nhẽ, tôi lại đi đôi co về vấn đề nhà văn miền Nam và nhà văn miền Bắc, ai là loại người phi nhân cách. Khi còn sống, thời VNCH Nguyễn Hiến Lê tỏ ra bực tức vì
sách bị kiểm duyệt. Nhưng khi ông chết, sách được tái bản, nhưng với lời nhà xuất bản như sau:
“Vì tác giả đã mất. Nhà xuất bản không nỡ cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập, chúng tôi chỉ luợc bớt phần rườm rà và cắt những chỗ không thể nào để lại được.
Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.”(17)
Ai cho họ cái quyền được cắt và không cắt?
Ngoài ra, sách của Sơn Nam vốn là người có cảm tình với phía bên kia nên hầu như hầu hết các tác phẩm của ông trước 1975 đều được cho tái bản. (18). Riêng cuốn Hồi
Ký Sơn Nam gồm ba tập là: Từ U Minh đến Cần Thơ. Ở chiến khu 9. 20 năm giữa lòng đô thị. Bình An. Giọng điệu xem ra sắt máu rẻ tiền, báng bổ, ngôn ngữ tuyên truyền
không có vẻ gì là Sơn Nam- Nhà văn miệt vườn- của một thời. Với cuốn Hồi ký Sơn Nam này, năm 2005, ai còn trân quý Sơn Nam sẽ thất vọng về ông không ít.
Vương Hồng Sển với Sách Hơn nửa đời hư cũng được trân trọng tái bản.
Cái đặc biệt trong những cái đặc biệt là một vài cuốn sách sử của Tạ Trí Đại Trường như: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1871-1802 hay: Người lính thuộc địa Nam Kỳ
cũng được tái xuất bản.
Nhà văn thì có thể mới có Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác mà khi sách của Dương Nghiễm Mậu được in ra đã gây một vài tiếng ồn ào, bất bình. Đặc biệt từ phía
nhà văn nằm vùng ở miền Nam, ông Vũ Hạnh.
Tuy nhiên có một vài trường hợp ngoại lệ là tác giả phải về Việt Nam và có mặt trong dịp ra mắt sách như trường hợp Du Tử Lê khi ra mắt tập thơ của ông… Nhiều người
đã lên tiếng phê phán, miệt thị ông nặng nề.
Ngoài ra, cũng như trước 1975, hiện nay có hiện tượng sách dịch chiếm hai phần ba thị trường sách của Việt Nam. Tuy nhiên, phẩm chất cũng như việc chọn lựa các sách
dịch này trước 1975 phải nói tương đối khá. Khá vì trình độ sinh ngữ cao dịch khá theo nguyên bản, khá vì chọn lựa các đầu sách có giá trị.(19) Hiện nay sách dịch ở Việt
Nam số lượng rất nhiều, nhưng rất xô bồ, nhằm mục đích thương mại hơn là giá trị nghệ thuật. Người dịch thường thiếu trình độ ngôn ngữ và thiếu cả trình độ kiến thức.
Có nhiều cuốn sách dịch trước 1975 cũng được tái xuất bản. Nhưng có những cuốn có giá trị được phiên dịch công phu như các cuốn L’etranger của Camus và cuốn Le
petit prince của ST. Exupery, dịch trước 1975 nay lại mất công dịch lại. Dịch lại để lảm gì, có gì bảo đảm dịch hay hơn, chuẩn xác hơn hay là chỉ nhằm ăn cắp bản dịch cũ.
Tuy nhiên, trong những cuốn sách được tái xuất bản mà tôi tâm đắc và thích thú hơn cả là cuốnViệt Nam Văn học sử, giản ước tân biên, gồm ba tập của giáo sư Phạm Thế
Ngũ.
Nếu về Sử học, tôi xin chọn cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim như tiêu biểu thì về văn học, xin chọn sách Việt Nam Văn Học Sử của Phạm Thế Ngũ.
Việc tìm kiếm số sách miền Nam được in lại, tái xuất bản người viết bài này không có điều kiện để cập nhật cho đủ, xin ghi lại trong chừng mực có thể mà không dám nói
là đầy đủ.
* Thứ ba, việc bảo tồn sách cũ miền Nam do một thiểu số những người có lòng với sách, phần lớn còn lại là những người buôn sách
Nhà sách Khai Trí Saigon. Nguồn: OntheNet
Có lẽ người có lòng nhất với sách vở miền Nam là ông Khai Trí. Từ người bán sách lẻ lề dường, ông xây dựng nên cơ nghiệp là nhà sách Khai Trí, số 60- 62 đường Lê Lợi.
Tôi đã đứng bên kia đường Lê Lợi sau 1975 để chứng kiến cảnh hôi sách, đốt sách của nhà Khai Trí. Cảnh tưởng ấy còn như in vào đầu tôi. Sách của nhà Khai Trí vứt tung
tóe, bừa bãi trên mặt đường phố Lê Lợi trong nỗi bất lực của nhiểu người miền Nam… cách đây gần 40 năm.
Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu… Nhưng cái cảnh ấy nó bộc lộ hết cái bản chất bạo tàn của những kẻ chiến thắng.
Khi cơ sở nhà sách Khai Trí bị tịch thâu. Theo nhà văn Nhật Tiến, một lần nữa, ông Khai Trí lại ra ngồi lề đường, trải một tấm nhựa ni lông bán vài cuốn sách thiếu nhi còn
sót lại.
Đây lại là một hoạt cảnh đau lòng và ngược đời bầy ra trước mắt. Từ một chủ nhân bề thế, uy tín mà trong kho chứa hàng triệu cuốn sách, nay ông trở thành người bán sách
dạo đầu đường.
Cảnh tượng này giúp ta nhớ lại như hoạt cảnh đấu tố trong Cải cách ruộng đất.
Sau đó ông bị bắt, đi tù, rồi sau cùng ra hải ngoại. Cũng vì có lòng với sách vở miền Nam, năm 1995, ông trở về Việt Nam với mộng ước lớn. xây dựng lại sự nghiệp.
Nhưng ước mơ của ông đã không thành. Vậy mà khi ông mất, nhà nước không quên vinh danh ông và ngay cả đặt cả một tên đường mang tên ông tại một phố nhỏ.
Ông “Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương với kho sách của ông, ở những năm cuối đời. Nguồn: Nguyên Ngọc Chính.
Những điều nghịch cảnh như thế chỉ có thể xảy ra trong một nước XHCN.
Sau này, nhà văn Nhật Tiến đã dành cả nửa cuốn sách để viết về ông Khai Trí.(20)
Trong đám ma ông Khai Trí, cụ Toan Ánh lúc đó 91 tuổi đã than thở: Tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới 80 tuổi.
Cuộc đời của ông Khai Trí mang ý nghĩa tiêu biểu nhất về thân phận con người gắn liền với thân phận sách vở báo chí văn học miền Nam cũng như thân phận một người có
lòng với chữ nghĩa là ông Khai Trí.(21)
Mặc dầu như chúng ta biết có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở miền Nam nằm trong vùng định chế sách bị tiêu hủy, vẫn có một số không nhỏ số sách trên thoát
nạn do sự cất dấu của một số người có lòng với văn học và do cả óc trục lợi của một số người.
Dù cho có trục lợi đi nữa thì cũng vẫn là một điều đáng làm vì gián tiếp giúp cho sinh mệnh chữ nghĩa miền Nam vẫn có cơ hội sống lại.
Chính trong cái khung cảnh sinh hoạt sách báo miền Nam bị vây khốn khó khăn như thế đã làm nảy ra một nghề mới: Nghề bán sách dạo, sách bán ở vỉa hè.
Nghề này từ nay thay thế công việc của ông Khai Trí cũng như cho khoảng 2500 nhà sách trên toàn miền Nam đã phải tự động đóng cửa sau 1975.
Nó tiêu biểu cho nghề buôn bán chui dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội tạo ra một lớp người làm ăn bất hợp pháp. Cái gì cũng thành chui cả. Sách chui, gạo chui, thuốc
tây chui, đi chui và ngay cả việc đi tu cũng trở thành tu chui.
Sách càng bị cấm, càng nhiều người tìm đọc.
Đường đến với sách vở văn học miền Nam thật đầy gian nan, nhưng cũng có những người may mắn tìm được những kẽ hở của chế độ để trở thành đại gia.
Tôi xin nêu ra trường hợp tiêu biểu là ông Võ Thành Tân, hiện nay là Tổng Giám Đốc nhà sách Thành Nghĩa. Ông vốn chỉ là một sinh viên văn khoa Sài gòn trước 1975.
Sau 1975, không có việc gì làm, ông xoay ra mở một kiosque bán sách cũ ở đường An Dương Vương. Thời thế đã tạo cho ông từ một người bán sách cũ, với sự hiểu biết về
giá trị của mỗi cuốn sách. Ông hẳn biết mua rẻ bán đắt và sau này, ông trở thành một đại gia với doanh nghiệp in sách và bán sách.
Nhá sách Thành Nghĩa. Nguồn: http://sachthanhnghia.com/
Thoạt đầu, ông kể cho tôi, ông chỉ xuất bản vài đầu sách, in 1000 cuốn một năm. Bán hết, thu đủ vốn lại in cuốn khác. Ông biết được thị hiếu người đọc, ông nắm được thị
trường sách vở và cứ thế ông làm ăn mỗi ngày mỗi phát đạt.
Cho đến năm 2005 thì cơ sở của ông đã có thể cho in 3500 đầu sách một năm… một điều không thể xảy ra ngay cả dưới thời thịnh hành của ông Khai Trí.
Thị trường sách vở nay không chỉ dành cho 20 triệu người mà là 85 triệu người.
Tôi đã có dịp trò chuyện với ông và người phụ tá của ông là Vũ Quang Việt, hầu hết lớp người như hai ông nắm các vị trí các tờ báo đều gốc gác dân Quảng Nam. Ông cho
biết hiện nay các ông có 18 cửa hàng bán sách với khoảng 2000 nhân viên. Có những tiệm sách lớn, số lượng sách trong cửa hàng lên đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại
được bầy bán.
Dĩ nhiên, để có thể yên thân làm ăn và thành công thì mỗi khi các cơ quan nhà nước tổ chức các buổi Hội Thảo hay phát giải thưởng, ông là người đứng ra ‘bao’ hết trọn
gói. Tiền vé máy bay, tiền Hotel cho các quan chức từ Hà Nội vào Sài Gòn dự, tiền túi cho mỗi vị. Một buổi tổ chức như thế, ông mang khoảng 30 các cô gái bán hàng, ăn
mặc đồng phục, tiếp đón các quan khách xếp hàng từ ngoài cửa trên dưới khoảng 100 quan khách.
Ban tổ chức sau đó sẽ đãi một bữa ăn trưa, rồi có văn nghệ giúp vui. Khi ra về mỗi vị khách mời nhận được một túi quà, trong đó có sách biếu. Tôi cũng là một khách mời,
ngạc nhiên khi về nhà, mở túi sách ra thì có một phong bì với 50 chục ngàn đồng. Hỏi ra các buổi chiêu đãi đều có trả tiền như thế cả.
Một buổi tổ chức như thế, có khi ông phải chỉ cả trăm triệu đồng. Chưa kể, ông còn phải gánh trả các chi phí cho văn phòng đại diện một tờ báo mà địa chỉ nằm ở Hà Nội.
Thay vì trả thuế, chính quyền và người dân được lợi. Chi trả như trên thì quan chức được lợi hết. Đó là một cách hối lộ đẹp nhất mà tôi nhận thấy ở Việt Nam.
Trong dịp này, 2006, tôi đã mua được một cuốn sách Quốc Triều Hương Khoa Lục của cụ Cao Xuân Dục với giá 30 đô la. Tưởng đã là đắt lắm.
Nhưng hiện nay, sách cũ miền Nam nhiều cuốn trở thành ‘vô giá’. Có trường hợp ông Trần Văn Thiện, nguyên là một giáo viên thời VNCH nay trở thành người bán sách
cũ. Ông có sự hiểu biết về giá trị từng cuốn sách và sự định giá một cuốn sách. Ông là một nhà thẩm định giá trị các tác phẩm văn học miền Nam dựa trên giá cả giữa nhu
cầu người đọc và giá trị cuốn sách.. Tôi xin đưa ra giá một vài nguyệt san và sách được ông Trần Văn Thiện đề bán như sau:
- Cuốn Hình sự tố tụng, đề giá 200 Mỹ kim
– Việt Nam Văn học của cụ Dương Quảng Hàm, 150 mỹ kim
– Tập san Quê Hương, chủ bút giáo sư Nguyễn Cao Hách, 200 mỹ kim mỗi số
– Lược khảo văn học, Nguyễn Văn Trung, 100 mỹ kim
– Một số báo Văn, 100 Mỹ Kim
– Các số báo Đứng Dậy, 70 mỹ kim mỗi số.
Các sách cũ trước 1975 thường có giá từ 70 Mỹ Kim đến 300-400 mỹ kim… Sách của miền Bắc trung bình từ 20-50 mỹ kim.
Theo Viên Linh, trong bài viết Một nền văn học của những kẻ vắng mặt thì vào năm 1998, trong 10 cuốn sách bán chạy ở miền Nam, có 9 cuốn là sách cũ miền Nam trước
1975 (Số liệu do công ty phát hành sách báo Fahasa của Việt Nam, đăng trên tờ Thể Thao Văn Hóa số tháng 12-1997, trang 26-28).
Đó là hiện tượng đi tìm sách cũ để tìm đọc mà chính tác giả của chúng lại là những người vắng mặt.
* Thứ tư, công việc khôi phục lại Văn Học miền Nam còn là một đoạn đường dài, phải mất nhiều năm tháng và khổ công
Cứ theo Trần Trọng Đăng Đàn thì có vào khoảng 2721 tác giả nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà biên khảo, giáo sư, trí thức ở miền Nam Việt Nam có các tác phẩm để lại.
Mặc dầu đã có chỉ thị phân loại các sách, nhưng trên thực tế chẳng ai có trách nhiệm thi hành. Họ đã dùng trẻ con đi đến các nhà, dùng xe ba gác, đánh trống để tịch thu.
Trong số 2721 tác giả này thì họ đều có sách xuất bản. Có sách xuất bản trước 1975 trở thành mục tiêu truy lùng sách báo cũ. Tiêu chuẩn này vô tình đã để lọt một sổ
khoảng 600 các nhà thơ nhà văn trẻ, thường là gốc lính, chỉ có thơ văn đăng trên các tạp chí như Văn, Bách Khoa hoặc trên các tờ Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày, Thái
Độ và nhất là trên tờ Khởi Hành.
Thôi thì họ bỏ quên như thế thì cũng tốt thôi. Có thể nhờ đó tránh khỏi đi học tập về cái tội là nhà văn. Nhưng người ta sẽ không hiểu được tại sao nhà văn Võ Phiến trong
Tổng Quan Văn Học, xuất bản ở Hải Ngoại đã cố tình bỏ quên bọn họ. Chắc là chúng ta sẽ có dịp làm rõ điều này trong một bài viết khác để trả lại công đạo cho các nhà
văn , nhà thơ gốc lính mà nay có người đã không còn nữa.
Tôi đã có dịp đọc tập Thơ miền Nam trong thời chiến, quy tụ những nhà thơ gốc lính miền Nam đã bị bỏ quên do Trần Hoài Thư sưu tập. Xin hãy đọc một hai trích đoạn:
Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
Cũng đem chiếc áo lành ra mặc
Cũng ăn một bữa cơm cho no
Cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
Khổ đau lúc này mẹ gói trong mo.
Hồ Minh Dũng
Một trích đoạn khác:
Rừng Dậy men Mùa. Nguồn: Đói Diện.
Xin đặt đồng tiền lên bài vị mới
Cùng với lòng anh vừa chớm trong xuân
Địa ngục thiên đàng cho anh gửi tới
Mừng tuổi các em chết được một năm
Xin đặt áo quần vào vali giấy
cùng với sách vở thơm tuổi học trò
Các em ở đâu hãy về nhận lấy
Nhìn mẹ bây giờ như chim ngọn khô
Trích Đông Trình, Mừng tuổi em gái (Cho linh hồn Loan và Quế)
Phần người cộng sản, nói chung hễ cứ sách là tiêu hủy tất cả.
Cứ giả dụ trung bình mỗi tác giả có năm đầu sách suất bản. Như vậy có trên 10 ngàn đầu sách xuất bản trong một năm. Và trung bình mỗi sách ở miền Nam thời đó in tối
thiểu 3000 đến 10.000 cuốn, và tái bản nhiều lần. Nếu kể thêm các đầu sách giáo khoa kỹ thuật khoảng chừng 2000 tác giả. Mỗi tác giả có năm đầu sách sẽ có thêm 10
ngàn đầu sách, cũng in 3000 nghìn cuốn. Phần tái bản sách giáo khoa là thường xuyên.(22) Nếu kể thêm các đầu sách dịch mà có cuốn được in đi in lại đến 10 lần. Và cuối
cùng là sách ngoại quốc nhập cảng vào miền Nam.
Trong bài “phỏng vấn 6 nhà văn nữ” của Lê Phương Chi đăng trên tạp chí Bách Khoa vào năm 1968, nhà văn Nhã Ca nói về những số tiền tác quyền nhuận bút của bà như
sau:
“- Cơ sở xuất bản Thư Tư đặt ba trăm ngàn để lấy 6 cuốn sách, trong số ấy có một cuốn tái bản, đó là năm 1967. Nhà sách Khai Trí đặt hai trăm ngàn mua năm cuốn, có ba
cuốn tái bản, năm 1968. Còn năm 1969, chúng tôi không bán nữa. Nếu dự định của chúng tôi được thực hiện, thì chúng tôi sẽ có một nhà xuất bản lấy tên là Thương Yêu,
để in sách của chúng tôi Và các bạn thân”(23)
Và nếu cộng thêm các tập san đủ loại. Đã có khoảng hơn 300 tập san như thế. Các tập san này có thể ra hàng tuần và thường là hàng tháng, kéo dài trong nhiều năm như
Tập san Văn Hóa Á Châu và tạp chí Bách Khoa.
Theo tờ Tin Sáng(24), thì từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách
giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian.
Tôi chỉ kể một vài tập san tiêu biểu như tập san Đại Học Huế mà tôi vừa thực hiện việc điện toán toàn bộ gồm khoảng hơn 10.000 trang tài liệu.
10.000 trang tài liệu của trên dưới hơn 100 nhà biên khảo, trí thức, giáo sư đại học – những thành phần ưu tú nhất của miền Nam – về các lãnh vực triết học, sử học, ngôn
ngữ học, văn học bỗng chốc tan biến hết.
Còn có nỗi mất mát nào lớn hơn nữa không?
Sau đây xin đưa ra một chứng từ của một người trẻ tuổi, lúc đó còn đang ở tuổi đi học nói về việc đốt sách trong gia đình của mình.
Thưở nhỏ ở Việt nam tôi lớn lên trong một gia đình yêu văn chương,nghệ thuật. Từ ba má đến anh chị em trong nhà người nào cũng mê đọc sách.
Theo năm tháng tủ sách gia đình ngày càng được tích đầy 306 đến mức phải dành cả gian nhà rộng để chứa sách.
Sách được đóng bìa, đánh số cẩn thận và phân chia thành nhiều loại: khoa học, văn học, thơ, tạp chí v.v… có trên 5000 quyển.
Do người lớn trong nhà kiểm soát nghiêm nhặt việc đọc sách nên ở khoảng tuổi thiếu nhi tôi chỉ được phép đọc những sách dành cho thiếu nhi. Thưở ấy có những buổi trưa
ể ếể ế
khi người lớn bận việc tôi dạo lướt qua những kệ sách, lục tung từ những quyển sách to lớn cho đến những quyển sách nhỏ.Và mơ màng nghĩ đến một ngày nào đó tôi sẽ
đọc hết tất cả những gì chứa trong đó. Bởi thế tôi thật sự kinh hoàng khi sau năm 1975 nhìn cảnh cả nhà phải đem sách ra đốt.
Đốt dấu diếm âm thầm trong nhà bếp vì không muốn bị kết tội phản động, tàng trử “văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy”.
Cả kho sách phải đốt ròng rã hàng tháng trời mới tiêu hủy hết. Sau khoảng thời gian đó tôi ngẩn ngơ khá lâu như kẻ đang phải thấy một phần đời trongtương lai của mình bị
thiêu hủy.
Tôi trưởng thành với một khoảng đen tăm tối trong tâm hồn, một khoảng trống với cảm giác như không có gì lấp được.
Những năm sau đó khi vào Thư viện quốc gia lục bao nhiêu thư mục tôi vẫn chỉ thấy một số sách vở văn chương ít oi còn sót lại sau khi bị kiểm duyệt. Hầu hết sách văn
học chỉ là những quyển truyện của các nhà văn được gọi là có “ý thức cách mạng”.
Qua sách báo và các buổi học trong nhà trường giảng dạy Lục Vân Tiên cũng có ý thức cách mạng và Thúy Kiều là nạn nhân bị áp bức của chế độ phong kiến. Tất cả văn
chương nghệ thuật đều dẫn đến con đường văn học nghệ thuật “Chống Mỹ cứu nước”.
Văn học nghệ thuật nước ngoài của cả thế giới như chỉ là những quyển sách dịch từ tiếng Nga.
Tôi bắt đầu yêu mến Puskin, Sekhov, Tourghenhev, tưởng như thế giới bên ngoài chỉ là những miền thảo nguyên bao la, xa vắng. Thưở ấy như con ngựa chạy quanh quẩn
trong thảo nguyên bát ngát, hoang vắng tôi có cảm giác mình đang bị bó buộc.
Có lẽ cảm giác này đến từ những hồn ma của những quyển sách đã bị đốt luôn ám ảnh tôi. Những trang sách chứa chất nhiều điều bí ẩn đã bị thành tro bụi biến mất từ lâu
nhưng oan hồn chúng như còn bảng lảng xa vời trong tâm thức mù mờ.
Chúng như tiếng nói từ tiềm thức sâu thẩm cho biết “Thế giới văn chương trước 1975 vẫn còn,chưa chết”.
Với “Tủ sách Tiếng Quê Hương” tôi như đã thấy những gì bị thiêu hủy, chôn vùi, dấu kín tại quê hương từ lâu nay đang từ từ bước ra ánh sáng.
Một vầng sáng dịu dàng nhưng sâu thẩm được thắp lên bởi những nhân chứng sống trong lịch sử.
Đấy là những tiếng nói của bao người đã bị chôn kín hàng năm dài đằng đẳng trong ngục tù cộng sản và may mắn sống sót ra được xứ người. Những tiếng nói của những
người con xứ Việt đang lưu lạc bốn phương trời: Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Úc, Canada. Những tiếng nói đang bị cấm đoán đè nén ở Việt nam cũng được lên tiếng trong những
trang sách của “Tủ sách Tiếng Quê Hương”.
Cùng sống lại với những trang sách là tiếng nói của “Chính thể Việt Nam cộng hòa” một chính thể đã bị bóp chết tức tưởi, oan khiên như số phận dân tộc Việt sau 1954,
đang được lấy lại danh dự và được trả lại sự thật.
“Tiếng Quê hương” đặc biệt được in thật trân trọng trên những trang sách trình bày tao nhã do nhà văn Uyên Thao cẩn thận chăm sóc từ nội dung đến hình thức .Thật cảm
động biết bao khi cầm những quyển sách như thế trên tay, cứ như được nhận tâm tình người nghệ sĩ chắt chiu đốt lửa cho đời một ánh sáng,giúp dân tộc Việt thoát ra chốn
tối tăm,tù ngục.
“Ở đâu người ta đốt sách ở đó cuối cùng người ta đốt cả con người”
Copyright University of South Florida
„Dort wo man Bücher verbrennt, verbrennt man am Ende auch Menschen.“ Heinrich Heine
Hiện nay rất nhiều người anh dũng, kiên cường đấu tranh cho dân chủ, công bình, lẽ phải đang chịu chết dần mòn trong chốn lao tù ở Việt nam,giống như những trang sách
thật đẹp đã bị đốt cháy âm thầm trong xó bếp thưở xưa.
Nhưng với Tủ sách Tiếng Quê Hương tất cả như được khôi phục lại từ những bàn tay các văn nghệ sĩ không phân biệt Bắc, Nam, hải ngoại hay trong nước, chúa hay phật
hay màu cờ.
Một buổi chiều cùng nhà văn Vũ Thư Hiên đi ngắm cảnh thành phố Munich, giữa cảnh những chiếc xe tàu điện ngầm, xe điện, xe bus chạy không ngừng, giữa dòng người
ngược xuôi trong một thành phố Âu châu, tôi nhìn ông và như được thấy điều kỳ diệu.
Những ai đã đọc tác phẩm “Đêm giữa ban ngày” biết được cảnh sống khắc nghiệt của những nơi lao tù ông đã trải qua sẽ thấy việc ông còn sống sót và đang đi dạo phố nơi
chân trời Âu châu là một sự diệu kỳ.
Tất cả những gì gọi là “Sức sống mảnh liệt” đều có thể đưa đến những điều kỳ diệu. Tủ sách Tiếng quê Hương biểu tượng “Sức sống mảnh liệt” của một dân tộc bị đày đọa,
chịu nhiều nỗi oan khiên đã mang tính diệu kỳ ấy: Tính diệu kỳ của những ánh lửa không bao giờ bị dập tắt. Tính diệu kỳ của những trang sách đã bị hóa thành tro bụi vẫn
có thể tái tạo lại được.(25)
Tính chung, một cách dè dặt nhất thì cũng có khoảng 180 triệu cuốn sách, tập san bị tịch thu và phá hủy. Chỉ trong một gia đình của người Miền Nam có ăn học phải tự tiêu
hủy 5000 đầu sách thì đó chẳng khác gì một cuộc tự sát tập thể của sách vở.
Nhưng theo con số của ông Vũ Hạnh đưa ra trong bài Mấy ý nghĩa về Văn Nghệ thực dân mớithì từ: 1954-1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam với số bán là
800 triệu bản.(26)
Nhưng chỉ nghĩ đến điều đo thôi đã thấy rùng mình.
Nhưng nếu chúng ta căn cứ số liệu của bộ Thông Tin VNCH tính cho đến tháng 9-1972 thì trung bình họ đã cấp cho 3000 đầu sách được phép xuất bản trong một năm.
Cộng chung từ năm 1954-1975, có từ 50.000-60.000 đầu sách được xuất bản. Thêm vào đó có 20.000 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Con số mà tôi ước lượng là trên
dưới từ 180-200 triệu cuốn sách được in ra là tương đối dễ được chấp nhận.(27)
Số liệu trên so với số sách đươc in ra bên Pháp dĩ nhiên thật khiêm tốn. Vào năm 2013, ở Pháp hơn 500 triệu cuốn sách đã được in ra. Nhưng hơn 100 triệu cuốn phải hủy
bỏ vì không bán được để dành chỗ cho sách mói ra đời.
Có một điều sách càng bị cấm thì càng nhiều người tìm đọc. Có người liên tưởng việc đốt sách này đến việc Phần Thư Khanh Nho (焚書坑儒, đốt sách chôn nho) của bạo
chúa Tần Thủy Hoàng. Lấy việc xưa mà nói việc ngày nay thì cũng có nhiều điều khiên cưỡng. Việc đốt sách đời Tần là đốt sách của ngoại lai. Người đề xướng ra việc đốt
sách thật ra là Lý Tư chứ không phải Tần Thủy Hoàng.
Còn việc tịch thu, đốt sách thời Lê Duẩn là do ai chủ xướng, ai đề ra? Chắc chắn là không có câu trả lời. Đó cũng là một nhận xét lý thú trong thời đại chúng ta. Vì hạch tội
một cá nhân nào đó thường không tìm ra thủ phạm.
10 tháng 5, 1933, Bá Linh | Trong số 20.000 cuốn xách bị ném vào ngọn lửa là các tác phẩm của Henri Barbusse, Franz Boas, John Dos Passos, Albert Einstein, Lion
Feuchtwanger, Friedrich Förster, Sigmund Freud, John Galsworthy, André Gide, Ernst Glaeser, Maxim Gorki, Werner Hegemann, Ernest Hemingway, Erich Kästner, Helen
Keller, Alfred Kerr, Jack London, Emil Ludwig, Heinrich Mann, Thomas Mann, Karl Marx, Hugo Preuss, Marcel Proust, Erich Maria Remarque, Walther Rathenau,
Margaret Sanger, Arthur Schnitzler, Upton Sinclair, Kurt Tucholsky, Jakob Wassermann, HG Wells, Theodor Wolff, Emile Zola, Arnold Zweig, và Stefan Zweig. Nguồn:
historyplace.com
Để kết thúc về phần này, tôi chỉ có thể nói cho dù sau này có chính sách cởi mở hơn đối với sách vở miền Nam. Cùng lắm chỉ khoảng 20% có cơ may được tái xuất hiện.
Còn lại 80% chịu số phận chôn vùi tập thể như những nấm mồ hoang của hàng triệu người đã chết trong chiến tranh.
Chỉ còn cần hai nén hương cho hai cái chết đó. Một cái chết của người vắng mặt và một cái chết của sách đi theo chủ nó.
Sách đi theo người. Vì vậy, sách đã theo người Việt Hải ngoại ra bên ngoài bằng mọi cách. Nhờ đó công việc khôi phục lại cũng đạt được một số kết quả
tích cực, nhưng vẫn giới hạn. Công việc ấy vẫn cần được hà hơi tiếp sức tiếp.
Phần hai: Hiện tình sách báo miền Nam sau 1975 ở hải ngoại
Ngày nay, người ta có nhiều số liệu nói về sự thành công của người Việt nơi xứ người. Theo ông Léon Vandermeersch, cựu giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ, trong bài
tựa cuốn sách Việt Nam: Văn Hóa và môi trường Viet Nam: Culture & Environment cho hay: con số năm 1995, người Việt Nam ở hải ngoại nay có 2037 bác sĩ, 16099 trình
độ cao học, tiến sĩ và 57862 trinh độ cử nhân(28).
Con số nay có thể tăng thêm ít lắm là một phần ba nữa. Kết quả của quá trình thích ứng và hội nhập thật khả quan và đáng khích lệ.
Tuy nhiên việc duy trì bản sắc văn học miền Nam thì theo một quá trình thụt lùi, càng ngày càng giảm sút, giảm về lượng cũng như phẩm.
Việc khôi phục lại gia tài văn học miền Nam chưa xứng tầm. Còn là những chuyện có tính cách cá nhân, chưa kể đến tính phân lẻ, tính bè phái.
Việc cho tái bản cũng tùy tiện nhằm lợi ích thực tiễn hay lợi nhuận là chính.
Theo Viên Linh, nhiều sách cũ miền Nam nay được in lại ở hải ngoại. Tuy nhiên tác giả của những cuốn sách phần đông vắng mặt. Và ông gọi đó là một nền văn học của
những người vắng mặt.
Viên Linh và tạp chí Thời Tập do ông chủ trương trước 1975. Nguồn: http://camvan98.blogspot.ca/
Có những người vắng mặt tạm thời như Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Duyên Anh, Thế Uyên, Tạ Tỵ, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Mộng Giác, Bình Nguyên Lộc, Thảo
Trường. (Thảo Trường bị 17 năm tù và khi ở trại cải tạo, ông được chỉ định chăn nuôi một đàn bò. Ông kể lại cảm thấy thích thú với cái nghề mới nảy, vì ít ra ông không
phải tiếp xúc với con người. Ra hải ngoại, sau cùng ông chết vì ung thư gan.)
Tuy nhiên, theo Viên Linh có những người vắng mặt vĩnh viễn vì họ đã ra đi trong lao tù cộng sản mà ông gọi là Chiêu Niệm Văn Chương…
Đó là những người như Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Huy Vân, Lê Bá Lăng, Minh Kỳ, Nguyễn Mạnh
Côn, tiến sĩ công pháp Quốc tế Nguyễn Ngọc Trụ (bị xử bắn trong trại), Phan Huy Quát, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Thục Vũ, Minh Kỳ Trần Việt Sơn, Trần Khánh
Vân, Vũ Ngọc Các.
Hay chết ngoài biển như Chu Tử, Bùi Kim Đĩnh, Trần Đại. Chết trên đường vượt biên bằng đường bộ như nữ sĩ Hồ Điệp, kịch sĩ Khả Năng, bà Phùng Thăng cùng với con
gái.
Và hẳn còn những người đã tuẫn tiết khi cộng sản vào xâm chiếm miền Nam như Cụ Trần Chánh Thành, giáo sư Thạch Trung Giả, thi sĩ Trần Việt Hoài, nhà thơ Mạc Ly
Châu, ca sĩ Vân Sơn…
Những người này bị lưu đầy và chết vì nhiều lý do, chỉ vì một cái tội duy nhất, tội cầm bút.
Và hẳn còn nhiều người khác mà chúng ta không thể nhớ và biết hết được.
Cho dù tái bản hay in lại thì cũng có một nguyên tắc: phải là một chọn lọc có tính chất kế thừa có tính biện chứng, chỉ giữ lại cái tinh hoa mà thôi. Bởi vì, trước 1975, nhiều
tác giả, tác phẩm cũng bị người đọc phủ nhận và không đọc.
Cụ thể, một số truyện dài đăng trên các báo trước 1975 thiếu giá trị nghệ thuật. (Xin trừ trường hợp Lê Xuyên).
Chính vì thế đáng lẽ việc khôi phục lại nền văn học miền Nam ở Hải ngoại tương đối dễ dàng ở thuở ban đầu khi người di dân cần có một món ăn tinh thần. Nhưng cái cũ
dù có giá trị – dù đã một thời – dần cũng mất giá trị thời thượng trong môi trường sinh sống mới.
Tham vọng của một số người muốn khôi phục lại toàn vẹn văn học miền Nam là một mơ tưởng. Tham vọng của một vài nhà văn hàng đầu như trường hợp nhà văn Võ
Phiến trong Tổng Quan Văn Học của ông chỉ muốn nói tới văn học sáng tác như Truyện ngắn, truyện dài, Tùy Bút, Tạp Bút,Thơ văn, Kịch Nghệ là một tham vọng chệch
hướng và phân mảnh.
Gia tài văn học miền Nam là Văn Học nghệ thuật trong đó bao gồm chung các lãnh vực như dịch thuật, biên khảo, trào lưu tư tưởng, lịch sử, triết học, ngôn ngữ học đã bị
loại bỏ trong cuốn sách của ông.
Tính phân mảnh trong phê bình văn học là một tội tổ tông. Điều mà Mai Thảo gọi là bọn Vua Lê, Chúa Trịnh. Bọn vua Lê Chúa Trịnh là ai(*). Xin hỏi Mai Thảo. Nhiều
người cũng biết như thế, nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ, coi như không có vấn đề gì.
Trong 20 năm văn học miền Nam, do những biến động chính trị nên cũng có hai thời kỳ văn học: thời kỳ 54-63 yên hàn nên tạm gọi là tính chất văn học thời bình. Từ 1963
trở đi với nhiều biến động chính trị và chiến tranh vào đến cửa ngõ Sài gòn, đó là thời kỳ văn học chiến tranh hay còn gọi là văn học dấn thân, nhập cuộc.
Võ Phiến cũng như nhiều nhà văn lớp trước như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền ở trong một tình thế lưỡng nan, đôi lúc như thể những người ngoài cuộc, nói đúng hơn là bất
lực, không đáp ứng được tình thế.
Thế nhưng, một lần nữa, Võ Phiến lại thẳng tay gạt bỏ những ai không đống quan điểm với ông ra khỏi dòng sinh hoạt văn học miền Nam – khỏi dòng chính – không phủ
nhận, nhưng cũng không nhắc đến tên tuổi họ mặc dầu chính họ là những nhân chứng thời đại, chính họ là tiếng nói trung thực cho giai đoạn máu lửa đó. Dưới mắt Trần
Vũ, khi trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê trong số Hơp Luu 100, số đặc biệt về Mai Thảo. Trần Vũ nhận xét thật đúng: Võ Phiến quá xa cách, quá nghiêm trang, quá đạo
mạo, còn Nguyễn Mộng Giác quá lành, cả hai văn tài đều không uống rượu…
Bọn vua Lê, Chúa Trịnh có thể là để chỉ Võ Phiến đấy.
Đó là những người lính trẻ, thế hệ thứ hai, giáp mặt với cái chết, từng ngày, từng giờ. Họ từ những nơi vùng hỏa tuyến gửi thơ văn về thành phố.
Trong số họ có những người may mắn như Phan Nhật Nam, Thảo Trường có tác phẩm in về chiến tranh vì các ông có dịp về thành phố. Còn lại phần đông những người
người lính ngoài mặt trận -tính văn nghệ nghiệp dư thời chiến- số phận con người và tác phẩm của họ ra sao. Họ không có tác phẩm được xuất bản nên không được chính
thức nhìn nhận, bị bỏ qua, bỏ quên như số phận đời lính sau chiến tranh của họ.
Đến có thể nói đã có một thời có sự quên lảng về mảng Văn học vườn trước đây và nay laị một lần nữa mảng văn học dấn thân thời chiến sau 1963 bị bỏ quên.
Người đại diện cho đám nhà văn gốc kaki này là nhà văn Trần Hoài Thư đang có những nỗ lực tái tạo về cái mảng văn học chiến tranh bi bỏ quên này.
Phần các nhà văn lớp đầu di dân sang Mỹ, khả năng hội nhập gặp nhiều khó khăn, trở ngại về tuổi tác và nhất là hành lý mang theo khà kềnh càng về nếp sống, nếp nghĩ
nên rất khó hội nhập như tâm trạng tiêu biểu của các nhà văn như Thanh Nam, Lê Tất Điều.
Họ hội nhập cũng không dễ mà đưa ra một cái gì mới cũng không xong. Hầu như có một sự ngưng trệ, tắc nghẽn, bất động để động não.
Sách bây giờ. Nguồn: OntheNet
Đó là hiện trạng bế tắc sáng tạo hiểu được cũng như sự bế tắc sáng tạo vì những lý do cá nhân như nghiện ngập, suy thoái tinh thần và nhiều nguyên do nội tại khác.
Mai Thảo là người trong cuộc nhìn nhận có sự bế tắc này khi trả lời phỏng vấn Thụy Khuê. Trong số Hợp Lưu 100, ông nhận xét: Hầu như hầu hết mọi người đã chậm, đã
ngưng lại.
Câu nói vắn gọi đó chứa đựng tất cả hoàn cảnh nhà văn hải ngoại, trong đó có Mai Thảo.
Trong khi đó trong văn học, người ta thường chỉ đưa ra những nhận xét hoặc đánh giá về vấn đề trì trệ hay phát triển, vấn đề suy thoái hay hưng thịnh của một thời kỳ văn
học mà ít chú trọng đến môi trường hay hoàn cảnh địa-chính trị. Nghĩa là thường người ta có thói quen đánh giá thuần túy về bản chất văn học.
Ngày nay người ta hiểu được tại sao lịch sử văn học có những cắm mốc của mỗi thời kỳ văn học.
Khi nói văn học đời Lý, đời Trần là nói đến cái mốc chính trị ảnh hưởng trực tiếp tới văn học. Thịnh suy của chính trị tác động trực tiếp đến thịnh suy văn học.
Không lạ gì những cắm mốc thay đổi về chính trị hay môi trường định hình cho một thời kỳ văn học. Nghĩa là một biến cố đất nước thường kéo theo một biến cố văn học.
Chẳng hạn không có cuộc di cư 1954-1955 khó có có thể nói tới thời kỳ văn học miền Bắc ở trong Nam qua nhóm Sáng tạo với Mai Thảo-Thanh Tâm Tuyền.
Những biến động chính trị hay sự thay đổi một môi trường địa lý, xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến việc sáng tác văn học.
Chẳng hạn sự di chuyển từ ngoài Bắc vào Nam, sự thay đổi khung cảnh chính trị giữa miền Bắc trước 1954 và miền Nam sau 1954, sự thay đổi nếp sống xã hội, phong tục
giữa Nam vào Bắc là những lý do khách quan của quy luật xã hội đủ làm ngưng trệ một dòng văn học biến nó trở thành lạc lõng và làm đứt mạch dòng văn học ấy.
Đó là sự phủ nhận của phủ nhận đòi hỏi môt cái gì mới. Mặc dầu cái Mới chưa chắc đã hay hơn cái cũ. Vấn đề chính là phải khác cái cũ. Sự phủ nhận ấy xem ra bội bạc,
nhưng nó lại là quy luật của sự phát triển.
Khi có cuộc di cư thì một cách gián tiếp do nhu cầu tiếp cận trực tiếp với các nhà văn miền Bắc, độc giả miền Nam nói chung đã vô tình dẩy lui vào bóng tối một số nhà
văn từng nổi tiếng một thời như Thẩm Thệ Hà, Đông Hồ, Quách Tấn, Vi Huyền Đắc ngay cả Vũ Bằng, Tam Lang.
Nếu hiểu như thế, người ta cũng sẽ hiểu được trường hợp Tự Lự Văn Đoàn (TLVĐ) của Nhất Linh. Số đầu tái xuất hiện của Văn hóa Ngày Nay ra ngày 27-6-1958 bán
được cả 10.000 số, sau đó lụi tàn dần phải đóng cửa.
Thực tế đã xác định thời cũ chỉ còn là dĩ vãng. Nếp sống, nếp nghĩ đã thay đổi.
Nhưng vấn đề là chỉ cần nhìn nhận Nhất Linh và TLVĐ đã làm trọn nhiệm vụ của họ ở giai đoạn tiền chiến, trước những năm 1946.
Sau 1946, với cường độ chiến tranh như thế, nhóm TLVĐ đã bị lôi cuốn vào những vòng xoáy chính trị và các thành viên của nhóm đã bị tan rã. Đang là những người bạn
nay có thể coi nhau như những kẻ thù vì ở hai chiến tuyến khác nhau: Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu ở một phía bên kia. Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng ở phía bên này.
Và Khái Hưng là nạn nhân đầu tiên của vòng xoáy chính trị trên.
Theo nhận xét của tôi thì về mặt văn học cũng như chính trị. TLVĐ thật sự đã bị bức tử khi cuộc chiến tranh Quốc-Cộng bắt đầu. Nhưng tôi vẫn trân trọng nhìn nhận nó đã
có thời của nó trong dòng sinh mệnh văn học Việt Nam nói chung. Văn chương mà nói thì gọi đó là thời vang bóng…
Thật vậy nhóm TLVĐ đã một thời sáng chói ở miền Bắc, đóng góp lớn lao vào văn học chữ viết vượt xa một đoạn đường giai đoạn thời kỳ văn học báo chí Phạm Quỳnh-
Nguyễn Văn Vĩnh và tưởng chừng như không gì thay thế được TLVĐ.
Vậy mà khi vào đến miền Nam, Nhất Linh – một mình một chợ- dù có các thế hệ trẻ nối tiếp, tưởng rằng có thể nối tiếp dòng văn học của nhóm TLVĐ như thuở nào. Nó đã
mau chóng trở thành một thất vọng đối với người đọc và một nỗi thất bại cho cá nhân Nhất Linh và của chung nhóm TLVĐ. Và miền Nam cuối cùng trở thành mảnh đất tá
túc tạm dung cho Nhất Linh những ngày còn lại.
Rõ ràng miến Nam là mảnh đất tự do cho bất cứ ai muốn thi thố tài năng của mình. Nhưng cái giá phải trả của Nhất Linh là khơi lại một dòng văn học cũ trong khi Người
đọc đòi hỏi ở ông một cái gì mới.
Nói đúng ra nó đòi hỏi sự sáng tạo, cái Mới. Bản chất của văn học là sáng tạo. Cái cũ là kẻ thù của văn học.
Nhất Linh đã không đáp ứng được điều đó và vì thế không có gì là ngạc nhiên khi người ta đổ xô đi tìm đọc tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. Nói như
thế, không có nghĩa tôi tán tụng nhóm Sáng Tạo và Mai Thảo.
Câu chuyện của TLVĐ cũng là câu chuyện của người Việt hải ngoại hôm nay. Nhưng dòng văn học miền Nam chuyên chở sang Bắc Mỹ ở trong trong một bối cảnh phức
tạp bội phần về mặt chính trị, xã hội, địa lý.
Các nhà văn may mắn sang được Mỹ ngay từ những năm 1975 như Võ Phiến, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Lê Tất Điều, Nguyễn Hoàng Đoan đều là những người có lòng
với văn học miền Nam. Họ đã nghĩ ngay đến việc viết lách và cùng nhau lập ra tờ Hồn Việt như bước khởi đầu. Và từ đó báo chí được phát triển khắp nơi, bất cứ nơi nào có
người Việt trú ngụ.
Mảnh đất tạm dung lúc đầu xem ra có đủ các yếu tố khách quan để giúp một nhà văn sáng tác, viết truyện. Khung cảnh chính trị tự do, tiền bạc xem ra thong thả hơn là thời
kỳ trong nước. Trước đây phải chật vật viết mỗi ngày hai ba truyện dài trên các báo để kiếm sống.
Đề tài viết cũng không thiếu, nhất là những đề tài về miền Nam cũ, về nỗi nhớ và về những kỷ niệm khó quên về con người và những vùng đất nước thân yêu, về sự thù
ghét chế độ chính cộng sản. Điều kiện có thể có tất cả, nhưng cái thiếu là sự sáng tạo trong môi trường mới.
Nghẽn mạch. Tranh: Campbell
Tất cả những tình trạng trên có thể đi đến một tóm tắt: Đó là sự bế tắc của nhà văn (writer’s block) Một sự bế tắc mà đôi khi chính nhà văn cũng không hiểu lý do tại sao
mình không viết được nữa như một sự nghẽn mạch. Và đôi khi đó là nỗi khốn khổ lớn nhất của một người cầm bút.
Nguyên do của sự bế tắc có thể từ bên ngoài như chúng ta vừa trình bày ở trên mà còn có thể do những động lực bên trong về tâm sinh lý, về thần kinh, về não bộ, về chứng
trầm cảm, tình trạng suy tinh thần và chứng nghiện ngập như nghiện á phiện, nghiện rượu.
Khi đặt ra những vấn đề này để nói về sự ‘bế tắc’ của một nhà văn thì có nhiều người có thói quen nhiễm tính là không cho phép bất cứ ai được đụng đến các ‘đỉnh cao văn
học’. Đụng đến thần tượng là đụng đến họ. Họ sẽ không tha thứ và đáp trả một cách thấp kém.
Như trường hợp Mai Thảo, Nhất Linh, tôi đều xếp vào trường hợp có vấn đề vì nghiện rượu.
Phải để chính Trần Vũ nhận xét một cách sắc bén và trung thực về Mai Thảo, trong đó không thiếu phần trân trọng của một nhà văn trẻ. Ông viết:
“Nhưng khi đi uống rượu với Mai Thảo, tôi có cảm giác đi uống rượu với phu huyệt, sau xẻng đất, sau cốc rượu, bảo những hồn ma cũ Huyệt đã chôn rồi lấp đất xong. Thơ
Mai Thảo rờn rợn, những giấc ngủ đen, những hồn ma thức giấc gây thành dông bão, của thần chết đã trở thành bạn, ngồi trên giường.(…) Mùa thu 96, tôi gặp ông lần
chót. Ông nằm im trong căn phòng không bật đèn. Đôi mắt nhìn trừng trừng lên trần. Ông không động đậy. Ông giống một xác chết. Tôi nhận ra tức khắc, tôi đang nhìn ra
một di vật. Thời đại ông đã đi qua. Thời đại ông biến mất… Sách ông bị tiêu hủy. Bạn bè ông quá vãng. Ông tồn tại di vật. Phải mất mấy phút, tôi mới cất được tiếng chào
ông: ‘Cháu đến thăm bác’. Ông gật đầu. Căn phòng trống, chỉ còn một cái tủ lạnh còn sự sống, còn nước đá, còn tiếng máy chạy rù rì. (…) Có lần ông nói đùa: “Em phải để
cái ly nó nghỉ.”
Cuối năm 96, ông bất động: nhìn trừng trừng lên trần vào một chỗ duy nhất. Ngõ hẻm Song Long xế chiều tắt nắng, chúng tôi trò chuyện trong bóng âm.
Điều gì khiến tôi nhớ nhất? Nét buồn bã là điều tôi nhớ nhất. Gương mặt ông buồn. Chỉ cần Mai Thảo xuất hiện, sự cô đơn vây lấy mọi người, lấm tràn sang mọi người.
Ông ngồi đó, im lặng, rồi ra về.
Tôi hỏi về Nhất Linh, Mai Thảo nói: Tôi xem cái chết ấy là uổng phí. Vì sao phải chết như vậy. Ông ta có cả một sự nghiệp và còn cả một sự nghiệp chưa hoàn thành.”
Đọc xong đoạn trích dẫn trên, không thể không buồn. Và nếu ta chỉ cần đổi tên Mai Thảo ra tên Nhất Linh thì câu chuyện cũng chỉ là câu chuyện của một người.
Tác dụng của rượu đã ảnh hưởng tới tình trạng tinh thần của Mai Thảo cũng như Nhất Linh. Rất tiếc, tôi không có tài nhận xét sắc sảo như Trần Vũ nên bị vài người đả
kích khi viết về tình trạng tâm thần của Nhất Linh.
Nhận xét như thế sẽ trở thành thông thường nếu ta nêu ra những trường hợp các nhà văn ngoại quốc như ở Mỹ và chẳng một ai thấy thế là một xúc phạm ngay cả đến
những nhà văn đã từng được giải thưởng Nobel như Hemingway.
Khi nói Hemingway say rượu rồi mắc chứng trầm cảm rồi tự kết liễu cuộc sống của mình bằng chính viên đạn súng săn của ông. Không ai trách những nhận xét có thực về
Hemingway cả.
Vài trong nhiều nhà văn, nhà thơ nghiện rượu tiêu biểu. Nguồn: DCVOnline tổng hợp.
Và còn bao nhiêu tên tuổi khác như Truman Capote, William Faulkner, John Steinbeck, John O’Hara, Carson, McCullers, F. Scott Fitzgerald, v.v.
Nhưng nhà văn Nhất Linh cũng ở trong trường hợp bệnh lý trầm trọng như các nhà văn nổi tiếng thế giới trên thì hầu như có sự cấm kỵ, không được phép nói đến.
Nói cho cùng thì Nhất Linh là nạn nhân không phải từ những nhận xét về tình trạng bệnh lý mà tôi đã viết về ông mà từ những kẻ tôn sùng ông. Tôi gọi đó là tình trạng cực
đoan trong văn học.
Nếu ngưới ta không nên ‘đùa giỡn’ ‘với niềm tin tôn giáo khác thì cũng một lẽ ấy, kính nhi viễn chi với những chệch hướng trong văn học.
Có lẽ lý do chính yếu là ở Việt Nam thiếu một không khí phê bình văn học, hay chỉ có một thứ phê bình văn học được chấp nhận là ‘áo thụng vái nhau’. Duy Lam trước đây
đã diễu Sáng Tạo về cái cảnh tượng soi gương chỉ thấy mình. Cái cảnh ấy có thể áp dụng cho nhiều nhà văn khác.
Và nếu chịu đọc, nếu chịu tìm hiểu sinh hoạt nghệ thuật thế giới, người ta có thể tìm ra hàng trăm nhà văn vì lý do này, lý do khác đã ngưng sáng tác, bị bế tắc.
Ngày nay chỉ vào Google bấm tên những nhà văn tôi vừa kể trên, người đọc sẽ biết sự thật nó nằm ở chỗ nào. Và khi đó sẽ dễ dàng thông thoáng chấp nhận những phê phán
và bớt được tính nóng giận hẹp hòi khi có ai nói khác, suy nghĩ khác mình.
Trong số bảy nhà văn Hoa Kỳ được giải thưởng Nobel văn chương thì có đến 5 người nghiện rượu và đôi khi cuối cùng đã kết thúc cuộc đời của họ một cách bi kịch.
Uống rượu làm cho người ta rơi vào tình trạng buồn, càng buồn càng uống. Lấy cái say, cái tỉnh để viết văn có thể là một tai hại cho văn học. Người nghiện rượu làm nhà
văn đôi khi chệch hướng, tai hại chả kém gì người say rượu lái xe trên xa lộ.
Xin trở lại tiếp tục những nhận xét của chúng ta về sinh hoạt văn học hải ngoại.
Văn học hải ngoại nên có một kệ riêng của mình hay không? Nguồn: themigrantbookclub.com
Ngoại trừ mặt báo chí, các tập san và tiểu thuyết thì phải nhận là không mấy sáng sủa. Nó nằm trong tình trạng bị lão hóa như trường hợp các nhà văn như Mai Thảo, Phan
Nhật Nam sau này và nhiều người khác.
Tôi có một nhận thức khá rõ ràng là sinh
hoạt văn học miền Nam trước 1975 và sau 1975 ở hải ngoại, phần sinh động nhất của nó vẫn là các tập san hơn là các tác phẩm.
Tập san như thể các món ăn hàng ngày. Tác phẩm như thể các món ăn lâu lâu ăn một lần.
Các tạp chí ở hải ngoại như mở đường và tiếp nối sinh hoạt văn học của miền Nam trước
1975, Nó như chiếc cầu nối giữ quá khứ trước 1975 và sau 1975, giữa trong nước
và ngoài nước trước 1975.
Báo chí ra đời sớm nhất là
tờ Người Việt Tự do, rồi tờ Lửa Việt, tờ Việt Nam Hải Ngoại, tờ Bút Lửa, tờ Hồn Việt Nam, v.v.(29)
Vì thế, các tạp chí như Văn Học hay sau này Hợp Lưu, Khởi Hành rồi Tân Văn thì phải nhìn nhận là có những cố gắng vượt bự
c.
Chẳng hạn tờ Hợp Lưu ở thời kỳ Khánh Trường và rồi Trần Vũ trong vai trò chủ bút là tiêu biểu sáng giá cho văn học hải ngoại. S
au này nhờ Trần Vũ mà nhiều nhà văn,
nhà thơ trẻ được giới thiệu có đất dụng võ. Tôi phải nhìn nhận Trần Vũ là người trẻ có tài. Truyện ngắn của Trần Vũ đôi khi là tuyệt như các truyện: Mưa mùa gai sắc hay
Pháo thuyền trên sông Yangtze. Anh có một khả năng tưởng tượng, hư cấu rất phong phú đến ngạc nhiên.
Hợp Lưu bề ngoài có vẽ vững chãi hơn. Lúc nào độ dày tờ báo cũng như nhau, 320 trang hoặc nhỉnh sút đ
i 12 trang. Hình thức lúc nào cũng trang nhã vì có họa sĩ Khánh
Trường – sau này cứ thế mà tiếp nối. Vóc dáng Hợp Lưu như một cuốn sách quý, cùng khuôn khổ kích thước, bày trong kệ sách trông cũng đẹp mắt rồi. Nay thì Hợp Lưu là
đất dụng võ của một số tài năng trẻ ở trong nước mà chính nơi đó họ chưa có tên tuổi. Đó là trường hợp xảy ra cho Đỗ Hoàng Diệu – một tài năng được nhìn nhận và có tên
tuổi dưới sự trợ giúp của Trần Vũ trên tờ Hợp Lưu. Nhưng nay thì vẫn chưa có tài năng trẻ nào theo gót được Đỗ Hoàng Diệu.
Mặt mạnh của Hợp Lưu là có đủ sức tập hợp được càc nhà biên khảo để ra được các số chủ đề như chủ đề về Hoàng Xuân Hãn
, về Tạ Trọng Hiệp, về Mai Thảo, về Khái
Hưng, về Nhân Văn Giai Phẩm, về Thảo Trường, về Văn Cao và nhiều nhà văn, nhạc sĩ tên tuổi khác, v.v. Cạnh đó là những chủ đề về văn học, về lý luận văn học, về sử
học, về phê bình văn học.
Mặt mạnh thứ hai của Hợ
p Lưu là mảnh đất dụng võ cho những nhà văn trẻ từ cỡ 45 đến 60 tuổi.
Cái bề ngoài khang trang, bề thế của Hợp Lưu không diễn tả đúng tình trạng chạy gạo từng bữa c
ủa Hợp Lưu. Bên trong tòa soạn đôi lúc Khánh Trường cũng rơi vào tình
trạng có nguy cơ ‘phá sản’ khánh kiệt. Cũng đã không ít lần Khánh Trường kêu cứu về tình trạng bết bát tài chánh. Nay thì không biết bằng cánh nào – một tay chủ bút như
Đặng Hiền có thể thong dong tiếp nối Khánh Trường cho đến hiện nay.
Nhưng căn cứ vào độ dày và sự có mặt đều đều hai tháng báo ra một lần
. Chúng ta hãy cứ biết như thế. Như thế như thế và an tâm.
Nghĩ tiếp đến trưởng hợp tờ Văn Học mà thương hại, sống dở chết dở, thay hết chủ bút này đến chủ bút khác, cố gắng cầm cự một
cách trôi nổi. Cao Xuân Huy đã ba lần
gánh vác tờ Văn học. Và trong lý lịch ghi trích ngang, ngoài văn học thì ghi: “Đang không cộng tác với báo nào khác”. Có nghĩa là anh chỉ viết cho Văn Học… Sau này tôi
thấy anh đi làm cho tờ Sài Gòn Nhỏ hay tờ Người Việt chỉ là với tư cách chuyên viên kỹ thuật. Và mỗi lần Văn Học trở bệnh thì y như rằng có Trương Hồng Sơn ở Hoa
Thạnh Đốn cho tiền thuốc men chạy chữa. Có những số báo mỏng dính có 136 trang như các số 103 rồi 104. Cạnh đó có những số thật dày như số 228 với 288 trang, số
234 đến 312 trang, số 223 dày hơn nữa đến 342 trang.
Biết bao nhiêu đoạn trường và công khó ở trong đó. T
ôi chợt nghĩ đến công khó của Trần Hoài Thư hiện nay.
Tờ Thế Kỷ 21 của Người Việt, đàng sau có chỗ tựa lưng vững chãi về tài chánh là công ty Người Việt. Làm ă
n khấm khá như vậy, bề thế như vậy. Tưởng là tờ báo văn học
sẽ vững vàng quá đi. Tưởng sẽ trở thành trùm Văn học ở Thủ đô tỵ nạn. Vậy mà cũng chẳng hiểu sao loay hoay hết chủ bút này đến chủ bút khác, bài vở cũng làng nhàng,
nội dung làm sao mà đến một lúc nào đó cũng gõ lên hồi chuông báo tử. Sự mất mát của Thế Kỷ 21 cũng là một thiệt thòi cho văn học Hải ngoại giống như trường hợp tờ
Văn, Văn Học sau này. Nhưng biết đâu với số tiền lời, từ trời rơi xuống 4 triệu rưởi đô la sẽ giúp công ty Người Việt làm trùm Văn học. và tờ Thế Kỷ 21 lại có cơ sống lại.
Tờ Văn của Mai Thảo èo ọp lắm về mọi mặt, xem ra sự điều hành có phần lơ là. Nó chỉ quý ở cái phần Sổ Tay của Mai Thảo rồi sau đó Nguyễn Xuân Hoàng kế thừa.
ể ốể ế
Mai Thảo là tiêu biểu cho một ngòi bút đã cạn dòng. Những bài thơ làm lúc cuối đời không đủ để bào chữa cho những năm tháng viết trước đây của ông.
Ông đã tốn bao nhiêu chai rượu để viết những bài văn đó.
Đôi khi tôi nghĩ rằng, chúng ta phải biết chấp nhận cái tầm thường của nhà văn để cho đời có dủ lý do đáng sống. Tầm thường chính là con người chứ không phải là cái cao
cả.
Nguyễn Xuân Hoàng ôm lấy tờ Văn chẳng khác ôm một người tình nhân già, bỏ thì thương vương thì tội. Vừa ôm, vừa xót xa, chẳng sướng gì. Và theo lời Nguyễn Xuân
Hoàng viết trong Sổ Tay, bạn Văn nào gặp cũng hỏi thăm Văn đội này ra sao. Văn chết chưa.
Nguyễn Xuân Hoàng quả thực là người ôm sự nghiệp Mai Thảo và không lối thoát. Nhưng dù thế nào thì Nguyễn Xuân Hoàng cũng thâm cảm rằng tờ Văn cũng chính là
một phần đời của ông vậy. Tờ Văn đã ra đi trước ông. Ông phải đi theo thôi.
Khởi Hành của Viên Linh mới thật sự là cố gắng một mình một chợ, theo nghĩa sống ‘dai’ trước 1975 và sống ‘mòn’ sau 1975 ở hải ngoại. Chắc hẳn có sự tiếp tay của bà
Nguyễn Tà Cúc. Viên Linh quả là người ôm đồm, ôm trách nhiệm cả văn học miền Nam trong một căn phòng nhỏ. Chưa bao giờ có dịp để được ông chia sẻ tại sao ông lại
còm cõi suốt ngày trong căn phòng nhỏ làm việc quên mệt. Ông đã thay đổi đủ kiểu báo, lúc khổ lớn như báo nhật trình, rồi cứ thun lại dần, thun nữa, mỏng nữa. Chỗ làm
việc cũng là chỗ ăn ngủ, bên cạnh sách báo bừa bộn đến không chừa một lối đi theo -cái kiểu-tòa soạn-một người- chỉ có ở dân Việt Nam và nay thì Khởi Hành, nó mỏng
như thể không thể mỏng hơn được như người mắc bệnh trầm trọng, chỉ còn thoi thóp sống còn.
Nhưng đúng như kiểu nói của nhà văn Thảo Trường, Viên Linh dùng kích thước nhỏ (vài chục trang), khổ nhỏ để nói về những chủ đề thật lớn.
Hầu như số báo nào của Khởi Hành cũng là số chủ đề, hay ít lắm cũng hé lộ cho người đọc một số thông tin văn học trước 1975 mà hầu như chỉ mình Viên Linh biết được.
Nhưng ông kỹ lắm, không bao giờ tiết lộ hết, cứ từng số một nhả ra chút ít như con tầm nhả tơ, một thứ câu khách mà tôi là người bị cắn câu.
Các chủ đề như số đặc biệt về Phụ nữ, chủ đề Dịch thuật, Văn nghệ 54-63 đi về đâu, v.v. Nội cá nhân tôi mua đều đặn Khởi Hành từ nhiều năm nay cho thấy hẳn Khởi
Hành phải có cái gì chứ. Cái gì đó chỉ mình Viên Linh biết.
Tân Văn xuất hiện sau cùng, từ 2007 đến nay vẫn từng ấy số trang, vẫn từng ấy trang bìa láng trang nhã theo cách thức Hợp Lưu.
Ra sau nhưng tiềm năng có thể sống còn, tuổi thọ cao vì Tân Văn có những lợi thế ít ai có. Sài Gòn nhỏ có nhà in riêng nên bất chấp mọi khó khăn tài chánh. Còn Sài Gòn
Nhỏ tức còn Tân Văn.
Tờ Tân Văn lúc đầu in 1500 số, tháng sau giữ ở mức 1200/tháng. Và số xuất bản cứ giữ mãi ở mức độ đó.
Sài gòn Nhỏ có một số độc giả mua năm khắp các tiểu bang. Tiểu bang nào có chi nhánh tờ Sài Gòn Nhỏ thì ở đó hẳn có Tân Văn. Và nay gần đạt đến số báo 100. Dĩ nhiên
tuổi thọ của Tân Văn còn thua xa Văn Học đến hơn 100 số với hơn 20 năm. Và nay bà Hoàng Dược Thảo gặp nạn, chẳng biết số phận Tân Văn ra sao. Nếu Tân Văn có chết
thì có nhiều người luyến tiếc, trừ tờ Người Việt.
Các nhà xuất bản ở Hải ngoại
Nhiều nhà xuất bản có tên tuổi trước 1975 thì sau này tái xuất ở hải ngoại. Họ tiếp tục công việc xuất bản như trước đây ở trong nước.
Bên cạnh những cố gắng mang tính văn học thì có một số nhà Xuất bản làm những công việc còn lại như lấp đầy các khoảng trống Văn Học vốn có của miền Nam.
Thay vào khoảng trống văn học đó, có một số nhà xuất bản như Xuân Thu cho xuất bản liên tiếp nhiều tác phẩm trước 1975. Đăc biệt các tác phẩm của Xuân Vũ như
Đường đi không đến (Hồi ký vượt Trường Sơn, gồm 5 tập). Như Đồng bằng gai góc, Mạng người lá rụng, Đến mà không đến, Xương trắng Trường Sơn. Tôi nghĩ những
tác phẩm của Xuân Vũ được đón nhận nồng nhiệt khi việc di tản còn đang xôi bỏng trong lòng người.
Tiếp nối là lá cuốn Dọc Đường số 1 của Phan Nhật Nam, Vượt Trường Sơn của Phan Nghị.
Sách truyện có cho tái bản cuốn Chú Tư Cầu của Lê Xuyên, một cuốn truyện rất hay và ăn khách ở miền Nam trước 1975. Nhà Đại Nam cũng cho in những tác phẩm cùng
loại như Về R của Kim Nhật, Bóng tối đi qua. Nhà xuất bản thì đâu chỉ in một hai cuốn sách; họ đã tái bản nhiều sách của các tác giả như Duyên Anh, Phan Nhật Nam,
Nguyễn Thị Hoàng, Tô Ngọc, Vũ Bằng, Doãn Quốc Sĩ, Hoảng Hải Thủy, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, v.v. (30)
Còn có một nhu cầu nữa là nhu cầu học hỏi để giao tiếp. Vì thế, sách Tự điển đủ loại đã được in lại cho nhu cầu hội nhập với xã hội bên Mỹ mà không có phép của tác giả.
Nạn nhân là những người như ông Khai Trí.
Những bộ tự điển do nhà sách Khai Trí đã mua đứt bản quyền nay được in lại công khai, cướp bản quyền của người chủ các bộ tự điển đó.
Sau đây, xin trích Thông báo sau đây của ông Khai Trí:
Ông Khai Trí
‘Tôi là Nguyễn Hùng Trương, nguyên là chủ nhà sách và nhà xuất bản Khai Trí 60-62 Lê lợi, Sàigòn cũ, có soạn và in một bộ tự điển lời hay ý đẹp, dày 1898 trang, các
trang trong in hai mầu có nhiều phụ bản đẹp, đóng làm hai quyển, chưa gởi bán ở nước ngoài. Nay được biết có người in lại bộ sách trên tại Mỹ, ruột một mầu và không
phụ bản bày bán ở Mỹ và nhiều nhà sách ở hải ngoại. Tôi thông báo để quý vị độc giả khỏi mua lầm bộ sách in lậu.’(31).
Nhiều tác phẩm khác của các nhà văn thường còn bị kẹt ở lại trong nước, sách của họ đã được tái bản mà không được đền bù một đồng xu teng nào.
Nói chung, do nhu cầu mà một số sách vở ở miền Nam trước 1975 đã được in lại.
Tình trạng lão hóa của văn học Hải Ngoại
Trong cái tình hình èo uột trên của văn học hải ngoại như vừa trình bày trên, một số người cho rằng không thể có hay không nên có một dòng văn hải ngoại.
Trên thế giới, người Tàu có mặt ở nhiều quốc gia trên dưới 200 năm và dân số của họ rất đông. Vậy mà họ chưa bao giờ có cơ hội thiết lập được một dòng văn học Trung
Quốc ở Mỹ hay ở nơi nào khác. Người Ý mà một nửa dân số lập nghiệp ở ngoài nước Ý, đã có ai nghe nói đến Văn học Ý ngoài nước Ý.
Người Việt ở hải ngoại có những nhân tố nào để có thể lần đầu tiên trên thế giới xây dựng được một mảng Văn học độc lập với Việt Nam trong nước.
Trả lời cho nan đề trên, trong số Văn Học, tháng 8,1995, Nguyễn Văn Trung trong Văn Học hải ngoại xác định rõ ràng Văn học Việt Nam hải ngoại là một hiện thượng bất
thường mà chính những người làm ra nó không mong gì hơn là càng chấm dứt nó mau chóng bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.
Do lòng yêu mến văn học và những ước mơ của người cầm bút mà nhà văn như Mai Kim Ngọc, Nguyễn Mộng Giác phản bác lại lập luận của Nguyễn văn Trung. Ông Mai
Kim Ngọc viết:
‘Tôi nghĩ văn học hải ngoại sẽ trường tồn và sẽ cùng văn học quốc nội, và rộng hơn văn học thế giới đóng góp cho đất nước và con người nói chung những tac phẩm có giá
trị.(32)
Những điều dự đoán của Nguyễn Văn Trung năm 1995 nay càng ngày càng trở nên hiện thực.
Phần Nguyễn Mộng Giác, ngay từ số 103, tháng 11 năm 1994 trong một bài viết nhan đề Triển vọng của Văn học hải ngoại, theo ông, chất liệu sáng tạo của Văn học hải
ngoại là quá khứ thì 10 năm nữa chất liệu ấy vẫn là quá khứ. Văn học di dân hải ngoại dần dần yếu đi, không còn biệt lập, khiêm nhường đóng vai trò đại lý y như những
người Thụy Sĩ gốc Đức, gốc Pháp hoặc những người Mỹ gốc Hoa ở Nữu Ước, ở San Fransisco.
Nếu sau này Việt Nam có những nhà văn nổi tiếng thì đó là những Linda Le hay Kim Lefebre. Họ viết văn bằng tiếng nước người mà không bằng tiếng Việt. Bà Kim
Lefevre trong dịp trả lời phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh đưa ra nhận xét: Hãy viết bằng thứ tiếng mình giỏi và có tài.(33)
Riêng cá nhân người viết bài này, ngoài vấn đề người đọc mỗi ngày mỗi thưa thớt, chính bản thân nhà văn cũng không còn có động cơ thúc đẩy để viết mà tôi gọi đó là hiện
tượng lão hóa nơi chính các nhà văn.
Nếu trước đây trên dưới 20 năm, có ai dám cả gan tiên đoán về có hay không một văn học của người di tản, hay sự lão hoá trong giới nhà văn thì điều đó được hiểu là một
xúc phạm tinh thần, một bôi nhọ Cộng Đồng người Việt. Với gần 3 triệu người Việt, với hằng trăm tờ báo đủ loại, với một số nhà văn uy tín hàng đầu trong nước di tản ra
nước ngoài, với sự tiếp nối của một số cây viết trẻ, nhiều người nghĩ đến một mảng văn học lưu vong so ngang tầm với mảng văn học trong nước.
Niềm tự hào và ước vọng đó nay mỗi ngày mỗi suy giảm đến độ, sau 40 năm, người ta tự hỏi còn có hay chăng một mảng văn học người nước ngoài? Và nếu có thì có như
thế nào? Có trong bao lâu nữa?
Nói về sự lão hóa, người viết bài nhằm đưa ra những chứng liệu sát thực, những quy luật xã hội về sự hội nhập để thấy rằng hiện trạng lão hóa là điều tất yếu dẫn đưa đến
sự suy tàn. Sự lão hoá không phải chi nhắm vào tuổi tác mà còn nhắm vào hoàn cảnh sáng tác, vào đề tài sáng tác của các nhà văn nữa.
Bệnh già là một sự lão hóa trong quá trình sinh hóa. Đó là một điều bình thường. Nếu nó đã là bình thường thì sự lão hóa nơi một số đông nhà văn cũng là chuyện bình
ểấ ấ ốế ế
thường. Già thì trí nhớ suy kém, óc sáng tạo soi mòn, thể chất mất linh động nhậy bén. Muốn viết cũng không viết được nữa.
Về thể chất thì mắt mỏi, mắt kém hay nhức mỏi, rồi nhức đầu chóng mặt khi ngồi lâu. Về tinh thần thì nhớ nhớ quên quên, chuyện nọ lẫn ra chuyện kia, chuyện quá khứ thì
như mặt lõm của một ngọn đồi. Chuyện hiện tại thì như mặt phẳng của ngọn đồi, vừa nói xong đã quên. Tệ nhất là trí tưởng tượng đã sói mòn, khô cạn.
Nhưng xem ra khi viết sự lão hóa nơi các nhà văn thì tự nhiên có một số người dị ứng, không chịu nhìn nhận một sự thật.
Nhưng giả dụ nếu có một thế hệ nhà văn trẻ kế thừa, tiếp tục thì tình trạng lão hóa đã không được nói đến ở đây. Có kế thừa như sự sống, như dòng sinh mệnh văn học, hết
cây nến này vừa kịp tắt thì có cây nến khác thắp sáng lên.
Chính vì không có người trẻ kế thừa mà tình trạng lão hóa nơi nhà văn và người đọc sẽ đưa đến tình trạng tuyệt nòi.
Trong vòng 20 năm nữa, khó có thể nói đến một dòng văn học ngoài Việt Nam.
1. Lão hoá về đề tài hay nguồn cảm hứng
Lão hóa. Photo credits: Juangiahui
used with Creative Commons license
Stanley Karnow, một nhà báo kỳ cựu ở Việt Nam khi đến Little Sàigòn đã nhận xét về cuộc sống người di tản, và Karnow đã đưa ra một biểu tượng cây cầu:
Tôi không bao giờ kỳ vọng được trở lại trông thấy Sài Gòn một lần nữa. Nhưng nay bây giờ tôi đã thấy trở lại, ít lắm là về mặt tinh thần.
Vietnamese try to bridge two worlds in Orange County’s Little Saigon
(Trích Stanley Karnow 1992: 29).
Cây cầu đó nối liền hai thế giới Việt Nam và Mỹ, nối liền quá khứ với hiện tại. Mỗi người Việt Nam bỏ nước ra đi đều mang theo một quá khứ, phần lớn là đau thương, tủi
nhục và mất mát. Họ chả quên được. Như nhà báo trẻ Andrew Lam viết trong một bài tựa đề Viet Nam after normalisation: Vietnamese in America Bid Farewell to Exile
Identity (trích trong Jinn Home page). Ông cho biết, cha ông là một cựu tướng lãnh trong quân đội miền Nam. Trong lúc ăn, các câu chuyện quá khứ thường bao trùm toàn
thể bữa ăn. Sau một vài ly rượu, cha của ông bắt đầu kể lại những hồi ức về những trận chiến mà ông tham dự và đã thắng trận. Kể riết rồi cậu bé Andrew Lam có thể nhìn
thấy những trận mưa bom Napalm thắp sáng trên bầu trời đen tối.
Chính những hoài niệm quá khứ này là cái căn cước của người Mỹ gốc Việt.
Cái đã làm nên vinh quang của họ. Không có nó, họ còn là gì nữa? Theo Nguyễn Mộng Giác, vứt bỏ quá khứ ấy đi, nhiều người sẽ phát điên lên. Ký ức về chiến tranh đã
đưa con người Việt lưu vong vào một thế giới không còn nữa.
Nó bầy tỏ một cảm thức sâu xa về một cái gì đó đã mất, rồi được huyễn hoặc về quá khứ cũng như cội nguồn của mình nhằm xoa dịu những nỗi đớn đau ấy.
Đó là một hội chứng sau 1975. Hội chứng thua cuộc.
Người việt lưu vong thế hệ đầu tiên 1975-1978, sau khi đã hội nhập vào đất nước “tạm dung” thường tìm cho mình một thẻ căn cước Việt tính (origin identity) như một lẽ
sống còn, một chỗ trú ẩn. Hồi tưởng lại cuộc chiến là một cái trục xoáy (pivotal place) để từ đó người Việt lưu vong nhìn nhận ra gốc gác (racial identity) của mình.
Những buổi lễ, những câu chuyện bên chén trà, ly rượu, những buổi diễn binh như ở Boston với những người lính VNCH đồng phục đủ loại, với cờ quạt nghi lễ, những
buổi ca nhạc kịch, v.v. Tất cả như muốn vực dậy cái quá khứ mà nay dần chỉ còn là những huyền thoại như Jean Baudrillard viết:
When the real is no longer what it used to be, nostalgia assumes its full meaning. There is a proliferation of myths of origin and signs of reality; of second-hand truth,
objectivity and authenticity. There is an escalation of the true, of the lived experience; a resurrection of the figurative where the object and substance have disappeared. And
there is a panic-stricken production of the real and the referential, above and parallel to the panic of material production.(34)
Nhưng thường thì người ta không dừng lại ở đó. Người ta thường chuyển hoá những kỷ niệm, những hoài niệm quá khứ thành một lý tưởng, một chủ trương, một đường
lối, một chỉ hướng soi đường để hành xử và phê phán.
Người Mỹ hơn ai hết hiểu rõ tâm trạng đó nên ngay từ 1975 đã có chủ trương phân tán người Việt di tản đi khắp nơi trên toàn nước Mỹ như lời bà Ellen
ếố ể ắ ềế
Mathews đã viết trong cuốn Culture Clash. Chính phủ Mỹ đã tìm cách phân tán mỏng những người Việt di tản để tránh cái tình trạng: một sự nhắc nhở quá lộ liễu về chiến
tranh.
Lê Tất Điều
Cho nên cũng chẳng lạ gì, những nhà văn di tản lớp đầu đương nhiên lấy nguồn cảm hứng hay đề tài về cuộc chiến đã qua. Lê tất Điều với bút ký Ngưng bắn ngày thứ 492
(1978). Bài thơ Cảm Khái sau đây với những hoài niệm bi phẫn về cuộc chiến đã qua
Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ
Ôi trong ví mỗi người dân mất nướ
c
Còn một oan hồn mặt mũi vu vơ.
Ôi trong trí mỗi anh hùng thủa trước
Còn dậy trời lên những buổi tung cờ.
(1977).
Ông còn viết chung với Võ Phiến trong tùy bút Ly Hương (1977). Võ Phiến bắt đầu viết Thư gửi bạn (1976), Đất nước quê hương, Lại thư gửi bạn (1979).
Thanh Nam với bài thơ Xuân đất Khách:
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Tập làm con trẻ nói ngu ngơ
Muốn rơi nước mắt khi tàn m
ộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do.(35)
Giai đoạn di tản đợt hai từ đầu thập niên 80 tới đầu 90 với những người đã có kinh nghiệm từng sống dưới chế độ Cộng sản, từng đã đi tù, từng đi cải tạo, từng nếm mùi bo
bo, từng phải liều mạng trên biển mà thế giới gọi họ là những thuyền nhân (boat people).
Nay thì đề tài chống Cộng là sức sống, là cái lý lẽ ở đời, làm cho cuộc đời này có một ý n
ghĩa để tiếp tục sống.
Các nhà văn lớp di tản thứ hai lên án trực tiếp chế độ Cộng Sản bằng chính kinh nghiệm xương máu của họ qua
các truyện dài, nhất là những bút ký, hồi ký đủ loại.
Nguyễn Chí Thiện với tập thơ Tiếng vọng từ đáy vực gây chấn động một thời. Trần Huỳnh Châu với Những năm cải tạo ở Bắc Việt (1981). Hà thúc Sinh với Đại họ
c máu
(1985). Tạ chí đại Trường với cuốn hồi ký Một nửa Việt Nam Cộng hoà kéo dào, theo tôi, đây là một cuốn hồi ký đắt giá. Cao xuân Huy với Tháng Ba gẫy súng (1986), rất
trung thực, lên án các cấp chỉ huy của mình hèn nhát bỏ lại đồng đội. Cuốn sách đã gây được sự chú ý của nhiều người đọc. Phạm Quang Giai với Trại cải tạo, Nguyễn
Thanh Ty với Trong lao tù cộng sản, Trại Đá Bàn & A.30.
Tiếp theo đó là các nhà văn như Nguyển Mộng Giác, Duyê
n Anh, Nhật Tiến, Hoàng khởi Phong, Nguyễn Khắc Ngữ, Lê Văn Phúc, Nguyễn Đức Lập, Tưởng Năng Tiến,
Võ Hoàng, Nguyễn Bá Trạc, Xuân Vũ, Phan Nhật Nam, Nguyễn ngọc Ngạn, Võ kỳ Điền.
Tuy vậy, cái hội chứng 75 cứ được nhắc đi nhắc lại đến không còn gì để nói nữa.
Theo tôi, hội chứng sau 1975 có thể chỉ là một.
Nhưng vấn đề là nhà văn phải làm thế nào viết,
cách thức trình bày, cách thức diễn giải sao cho người đọc cảm thấy như thể lần đầu, cảm thấy là mình, đụng chạm vào
những nỗi đau như mũi chích vào chính da thịt mình, trong mình, không phải ngoài mình.
Cái đau bằng cảm nhận của nhà văn phải chuyển tải được bằng một thông điệp mang tính
chất bi kịch con người trong lòng chế độ cộng sản. Cộng sản là một điều tồi tệ,
một điều xấu trên mọi điều xấu, vấn đề là chuyển tải được nó như một lời mời gọi cùng nhau ngồi vào bàn tiệc, chia xẻ bữa tiệc dạ quỷ, trong đó món ăn, gia vị đắng cay
rút ra từ chế độ ấy.
Điều đó cũng đánh
dấu sự biện biệt giữa nhà văn có tài và ít tài.
Còn nếu cứ viết cùng một cung điệu, nó sẽ rơi vào trình trạng nó
i rồi, cứ nói mãi. Lúc đó bắt buộc tạm gọi đó là thứ văn chương H.O. Viết như thể một điệp khúc nháy đi
nháy lại năm này qua năm khác thành cháy cả đám. Các nhà văn ấy trở thành những người tuyên truyền hơn là vai trò nhà văn.
Nhưng khi mà tình hình chính trị ở Việt Nam cũng như thế giới đã có nhiều biến động, nhất là từ khi có sự sụp đổ các nước Cộ
ng Sản Đông Âu, cộng thêm đường lối cởi
trói và mở cửa ở trong nước từ năm 1986.
Dần dần có một số nhà văn, qua trải nghiệ
m thực tế, có xu hướng đặt lại những quan điểm phê phán chế độ Cộng Sản.
Bắt đầu với Nguyễn Mộng Giác, Nhật Tiến và Duyên Anh.. Những nhà văn này xét lại những ý thức hệ Cộng Sản, tư b
ản, thực chất cuộc chiến tranh bị coi là phi nhân, phi
nghĩa như một cuộc nội chiến. Đi xa hơn nữa họ nói tới tình nhân loại, con người Việt Nam không phân biệt Nam Bắc, tới quê hương dân tộc.
Nhật Tiên 2012 (Nguồn: NV/NT)
Nhật Tiến với Một thời đang qua (
1985) Mồ Hôi của Đá (1988). Duyên Anh với cuốn Đồi Fanta, Nhìn lại những bên bờ. Nguyễn Mộng Giác với Ngựa nản chân bon.
Sự nhìn lại mình, duyệt xét lại một quan điểm chính trị thức thời là một thái độ chân thật và can đảm của nhà văn dễ bị chụp mũ và bị bôi bẩn.
Phần tôi, tin tưởng và không dễ dãi ngộ nhận những nhà văn trên.
Theo tôi, những nhà văn trên không có ý hướng ngả theo cộng sản
. Phần Nhật Tiến đã trả lời dư luận khi ông viết cuốn Sự thật không thể bị chôn vùi (2012) để biện hộ cho
các tác giả trong cuốn Trăm hoa vẫn nở trên Quê Hương. Đồng thời trích lại bài phê bình cuốn Mồ Hôi của đá của Thụy Khuê.
Trong cuốn Mồ Hôi của đá, Nhật Tiến mong muốn nhiều thứ lắm.
ểồ ềề
Chúng ta chỉ có thể không đồng ý với ông về những đề nghị ông đưa ra thuộc loại ảo tưởng.
Nhưng kết án ông lại là một chuyện khác.
Hoặc như Nguyễn ngọc Ngạn thay vì tiếp tục viết với xu hướng chống Cộng như trong truyện đầu tay của ông The will of Heaven (1982),nhưng chẳng bao lâu sau, do nhu
cầu cơm áo, ông đã chuyển hướng viết về những truyện tình vô thưởng vô phạt, nhằm đáp ứng thị hiếu một số độc giả trên các báo chợ. Và quả thực, ông trở thành một tác
giả khá ăn khách cho một giới người đọc nào đó. Một giới độc giả mà thời nào cũng có. Thật ra chính những người như Nguyễn Ngọc Ngạn mới là người đáng trách, bởi vì
ông dễ dàng bỏ quên đi những đau thương bi kịch vượt biển mà hiếm hoi trong dòng người táp vô Mã Lai hay Nam Dương gặp phải.
Kể từ đầu thập niên 90, vẫn còn một số nhà văn tương đối trẻ -trừ Nguyễn Thị Hoàng Bắc không trẻ nữa- khai thác lại những chủ đề quen thuộc về chiến tranh, cuộc sống
người tỵ nạn, kiếp lưu vong, pha trộn những khắc khoải băn khoăn của tiến trình hội nhập vào xã hội mới.
Thêm vào đó là các nhà văn như Trần Diệu Hằng, Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Hồ Trường An, Hồ Đình Nghiêm, Phạm Quốc Bảo, v.v. Nhưng trước
một cuộc sống đã quá nhiều thay đổi với một đa số là giới trẻ mới lớn, thuộc thế hệ thứ hai của người di tản. Những đề tài của các nhà văn trong các tiểu thuyết của họ hầu
như không còn đáp ứng kịp, hoặc đã trở thành cũ mòn. Viết mãi một đề tài, nó dễ trở thành cliché, chuyện hay mấy cũng là chuyện nói rồi. Phải chăng đó là tình trạng già
nua, cũ mòn, lão hoá, thiếu sáng tạo của một số nhà văn di tản?
Ngoài một vài tác giả như Nguyễn Mộng Giác (Thật sự, ông viết cuốn truyện dài Sông Côn mùa lũ ngay từ khi còn ở trong nước, phải đợi đến khi đoàn tụ gia đình, người
vợ đảm đang mới đem ra khỏi nước được) Cao Xuân Huy, Tạ Chí Đại Trường, Xuân Vũ hay một Hồ Trường An. Những nhà văn lớp trước như Duyên Anh, Phan Nhật
Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến kể như sức viết đã kiệt.
Phải chăng, vì thế Võ Phiến quay ra viết phê bình Văn Học, một nghề không phải sở trường của ông.
Võ Phiên trên bìa tạp chí Văn 1974. Ảnh Trần Cao Lĩnh
Sức viết không còn được như trước nữa. Đó là một thực tế phải nhìn nhận.
Ấy là chưa kể đến sự mất mát không thay thế đến những người như Nguyên Sa, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ. Hai người trước đã không còn nữa, người còn ở lại cũng ngưng
viết chờ ngày lên đường.
Mất mát một nhà văn hải ngoại là mất mát luôn
Những nhà văn với những đề tài đã được nhiều người viết nên mất hẳn sức căng, sức quyến rũ. Nó như những lối mòn không khéo một chút dễ đi đến chỗ nhàm chán. Xa
tý nữa, đi vào chỗ khép lại như những ghetto văn nghệ, bất chấp thực tế xã hội, bất chấp cuộc sống sinh động hiện tại, tự xếp mình vào hàng ngũ những nhà văn lưu vong,
ẩn dật.
Những truyện viết như thế dần mất chỗ đứng, không có người đọc.
Vì thế, mấy ai còn chịu khó đọc những tác phẩm xuất bản ở ngoài nước như Một người Nga ở Sàigòn, Bầy sư tử lãng mạn, Nhà tù, Nhìn lại những bến bờ. Họa chăng với
cuốn Một người tên là Trần văn Bá của Duyên Anh? Còn đâu những Hoa Thiên Lý, Thằng Vũ, Dấu chân sỏi đá, Vết hằn trên lưng con ngựa hoang?
Mấy ai đã đọc và biết đến Mồ hôi của đá, Gặp gỡ cuối năm, Tiếng kèn của Nhật Tiến? Những truyện của Nhật Tiến vừa kể lấy chi để so đo với chính Nhật Tiến trước 1975
như Những Thềm Hoang, Những người áo trắng, Truyện Bé Phượng.
Có cái gì của Phan Nhật Nam viết hiện nay có thể so sánh được với Mùa hè đỏ lửa, Dọc đường số 1, Ải trần gian, Dựa lưng nỗi chết, Tù binh và Hoà Bình và đặc sắc nhất,
Dấu binh lửa?
Nhưng cũng trong thời gian này, người ta thấy những đóng góp đáng kể và khởi sắc của một số nhà văn trẻ viết truyện ngắn như Lê Thị Huệ, Vũ Quỳnh Hương, Trần Vũ,
Kiệt Tấn, Trân Sa, Mai Ninh, v.v. và một số nhà văn mới như Phùng Khánh Minh, Đỗ Lễ Anh Đào, v.v.
2. Tình trạng lão hoá nơi các nhà văn
Lão hóa nơi những lớp nhà văn từ 70 tuổi trở lên
Đây là dấu hiệu đáng lo ngại nhất, vì những nhà văn này đã thành danh, đã có chỗ đứng trong văn học và hiện nay không ai thế vào chỗ của họ được. Mỗi một người trong
số họ mất đi, thêm một chỗ trống. Giống như các ghế ngồi trong một phòng họp đã đánh số, mất đi một người tạo một khoảng trống ghế ngồi. Có lần Nguyễn Xuân Hoàng,
nghe tin bạn bè nhà văn ra đi, ông cảm thấy như thêm một cái ghế trống. Nay đến lượt chính ông để một cái ghế trống không người thay thế.
Không ai thay thế được ai. Mỗi nhà văn đã có tên tuổi ra đi là một khoảng trống để lại; nghĩ mà buồn.
Mai Thảo (1927-1998). Nguồn OntheNet
Ai có thể thay thế cho Mai Thảo, Nguyên Sa, Duyên Anh? Mặc dầu Mai Thảo của thập niên 1954-1960 cũng giống Mai Thảo của thập niên 1963-1975 và cũng không khác
bao nhiêu với 1979 về sau. Ông vẫn thế, bất kể những biến thiên, xáo trộn của thời cuộc đang rúng động, trụt lở dưới chân ông.Tôi vẫn muốn bầy tó ý riêng của mình là
những nhân vật truyện của Mai Thảo có vẻ dửng dưng quá, như những kẻ ngoài cuộc bất kể những biến động lớn nhỏ đang xảy ra chung quanh ông.
Đối với tôi, những nhà văn không dấn thân là những nhà văn thuộc loại văn chương trú ẩn như tên gọi mà Nguyên Sa đã dùng để chỉ chỉ thị những nhà văn không dấn thân,
nhập cuộc khi chiến sự xôi bỏng.
Họ như vẫn ở ngoài tầm bắn của tên đạn và đêm đêm không nghe thấy tiếng đại bác vọng về, hay tiếng ì ầm của bom nổ. Họ cũng không nhìn thấy xác người trôi sông hay
vắt vẻo trên hàng rào kẽm gai thuở nào.
Cái cảm giác buổi sáng thức dậy: Khi nghe tin em gục ngã nơi chiến trường là có thật, là sống động. Tôi đã từng xem một cuốn video khi người ta chôn những người lính
trẻ gục ngã ở một chiến trường nào đó, với những tiếng khóc kêu gào đến không xem tiếp nữa.
Tôi cũng đã từng đọc những thơ văn của lớp người trẻ làm do Trần Hoài Thư sưu tập, quy tụ 263 tác giả trong cuốn Thơ miền Nam trong thời chiến(36)
Những nhà văn còn sót lại của lớp tuổi trên 70 có thể đếm chưa hết 10 đầu ngón tay. Chẳng hạn thế hệ nhà văn sau 1954 như Doãn quốc Sĩ, 1923, với một văn nghiệp như
Sợ lửa, Gìn vàng giữ ngọc, Hồ thùy Dương, Cánh tay nối dài, Dòng sông định mệnh, Trái cây đau khổ và trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau được kể là đồ sộ.
Sau 1975, ở hải ngoại, ông cho xuất bản Mình lại soi mình (1981), Người vái tứ phương (1982),Dấu chân cát xóa, Cỏ đùm (1997).(37)
So ra văn nghiệp thời kỳ sau 75 của ông kể là sút giảm. Nhưng người ta vẫn tìm thấy ở Doãn Quốc Sĩ một tấm lòng đôn hậu, lạc quan tin vào người, tin vào đời. Phải
chăng, đó là nét đẹp nhất của một nhà văn, một nhà giáo?
Bình Nguyên Lộc, 1914-1987, với các tác phẩm Ký thác, Tâm trạng Hồng,Tình đất, Cuống rún chưa lià, Tâm trạng hồng, Quán tai heo, nhất là cuốn Đò Dọc. Ông sang
Hoa Kỳ, ở Sacramento và mất ở đó năm 1985. Ông là nhà văn tiêu biểu của văn chương miền Nam, đồng thời vừa là nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà biên khảo. Bình
Nguyên Lộc là một trong những nhà văn sáng giá của văn học miền Nam.
Ông viết với tình tự dân tộc, với tình đất, với Cuống rốn chia lìa thì hỏi rằng xa khỏi đất nước, làm sao ông còn có thể sáng tác được gì. Ông là nhà văn để lại gần 1000
truyện ngắn đủ loại, sang Mỹ ông đành khoanh tay ngồi chờ lúc về bên kia thế giới với một cuốn sách được tái bản là Ký Thác.
Tôi vẫn tiếc ngậm ngùi khi nghĩ đến sự ra đi của ông. Sự ra đi của ông cũng như sự ra đi của Mai Thảo, Nguyên Sa, Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền là những ghế trống
văn học không ai thay thế được họ.
Duy Lam, 1932 với Chồng con tôi, Gia đình tôi, Cái lưới, Lột xác, Nỗi chết không rời. Sau 1975 cho xuất bản Tuyển tập Truyện mới (1995). Em phải sống (1996) Ai đã có
dịp đọc Duy Lam trong các tác phẩm đầu tay của ông như Gia đình tôi sẽ nhận thấy ông viết rất dí dỏm, rất vui tươi lành mạnh.
Đặc biệt chỉ có Võ Phiến, sinh 1925, đã xuất bản nhiều tác phẩm ở trong nước cũng như khi ở ngoài nước. Trong nước như Mưa đêm cuối năm, Đêm trăng sáng, Giã Từ,
Tạp luận, Tạp bút. Sau 1975 với Văn học miền Nam Tổng Quan, Thư gửi Bạn rồi Lại Thư gửi Bạn…
Giai đọan sau 75 ở Hải ngoại, ông thiên về khảo luận nhiều hơn là sáng tác. Điều đó cho thấy một nỗi bất lực kín đáo của một nhà văn đã không còn thời nữa. Nếu tôi có
phản biện ông một điều gì thì đấy là một thứ phản biện sinh lời và tích cực, không nhằm suy giảm thế giá của ông trên văn đàn.
Thanh Nam, 1931-1985, với Người Nữ danh ca, Buồn Ga nhỏ, Còn một đêm nay, Bầy ngựa Hoang, Những phố không đèn, Mấy mùa Thương đau, Trăng đất khách.
Kể như ông đã không sáng tác được gì từ khi ra Hải Ngoại, ngoại trừ một số bài thơ cảm khái về số phận của một người di tản.
Xuân Vũ là nhà văn viết khỏe nhất với Đường đi không đến, gồm 5 tập, rồi 2000 ngày đêm trấn thủ Cử Chi, Văn nghệ sĩ miền Bắc như tôi đã biết, đã in được 3 tập, Cách
Mạng tháng 8, cha đẻ còng số 8, Sông nước Hậu Giang, Bùn đỏ, Kẻ sống sót, Con người vốn quý nhất, Thiên đàng treo. Một số hồi ký như Tấm lụa đào, Quê Hương Yều
dấu, Trăng kia chưa xế, Vàng mơ bông lúa, Những độ gà nòi, Xóm Cái Bần, Buồng cau trổ ngược. Ngoài ra, còn có một số truyện viết liên quan đến Cộng đồng người Việt
Hải ngoại như Ngọc Vùi, Hột Xoàn là của Trời cho, và cuối cùng là The survivor (Kẻ sống sót).(38)
Những tác phẩm xuất bản thời VNCH của ông, tôi đã mua được đủ. Nhưng những cuốn sau này không hiểu tại sao biến dạng. Tôi cũng đành bất lực, trói tay. Có lẽ ít có nhà
văn hồi chánh nào viết một cách đầy đủ muôn mặt từ bên trong chế độ ấy như Xuân Vũ, với một trí nhớ kỳ diệu và một cái nhìn nhân bản soi dõi vào cái chế độ thiếu con
người ấy. Ngậm ngùi và đau xót với phong cách của một người miền Nam đã từng đi theo kháng chiến, từng là kẻ ở trong cuộc. Những tác phẩm của Xuân Vũ trước 75
trình bầy những mảnh đời, những câu truyện bên trong của xã hội Cộng sản và được độc giả trong Nam đón nhận một cách nồng nhiệt.
Hoàng Hải Thủy, 1930, có khoảng 30 chục tác phẩm như Bạn và vợ, Môi thắm nửa đời, đi tù Cộng Sản ngay từ tháng 5, 1975, sau đó ra Hải Ngoại. Ông vẫn viết báo cho
các báo chợ và mới cho xuất bản cuốn Những tên Biệt kích cầm bút (2000).
Chuyện không có gì đặc biệt, chẳng nhắn gửi được gì, cũng chẳng nói lên được gì, hoặc gây một ấn tượng đặc biệt nào. Cuốn sách Những tên Biệt kích cầm bút có thể nói
là thường, điển hình cho một loại sách viết đã hết chất, hết lửa. Người đọc ông lấy làm thất vọng.
Võ Đình, 1933 với Xứ Sấm sét (1987), Đóa sen và nụ cười (1990), Sao có tiếng sóng (1991) được kể là một trong số những nhà văn viết muộn ở Hải Ngoại, nhưng viết có
chất lượng, khá hay với một văn phong dàn trải cách riêng, trải chuốt và đặc sắc. Một chút tinh tế Võ Phiến, một chút mầu mè Mai Thảo và một chút phong cách Huế, một
chút Paris.. Bấy nhiêu thứ cộng lại với một cuộc sống nặng phong cách Á Đông, Thiền đã là những gì làm nên Võ Đình.
Phải chăng ông viết được như thế vì ông không mang số phận người di tản.
Nói chung trong số tất cả những nhà văn vừa nêu trên, sức sáng tác vừa có sự sa sút rõ nét về phẩm cũng như về lượng. Bình Nguyên Lộc, Minh Đức Hoài Trinh, Thanh
Nam kể như tắt tiếng. Hoàng Hải Thủy sa sút đến chẳng còn gì để nói. Trừ Võ Phiến và Võ Đình có những tác phẩm được kể là còn có giá trị. Dù vậy, nó cũng klhông đủ
gây nên một làn sóng đặc biệt nào trong Văn học Hải ngoại. Âm vang của nó không đi xa. Nó vẫn chưa có được tầm vóc như độc giả mong đợi, nhất là trong trường hợp
Võ Phiến. Một mặt khác, nó báo hiệu một thời kỳ suy tàn khó tránh khỏi.
Những lớp nhà văn từ 60 đến 70
Đây là lớp tuổi nhà văn chiếm số lượng đông đảo nhất ở Hải ngoại. Họ là những Nguyễn Mộng Giác, 1940, với Nỗi băn khoăn của Kim Dung, Bóng thuyền say (1974)…
Tỵ nạn sang Hoa kỳ có các tác phẩm Ngựa nản chân Bon, Xuôi Dòng, nhất là Trường thiên Mùa biển động (1989) vàSông Côn mùa lũ (viết ở Việt Nam, mang sang Mỹ
1990-1991).
Ông là nhà văn gốc gác nhà giáo có nhiều phần giống phong cách của Doãn Quốc Sĩ. Nhưng ông viết sắc sảo hơn, nhiều nét tinh tế và còn dàn trải một ý thức sáng tạo cho
những tác phẩm của mình. Nếu cần đánh giá ông thì phải nhìn nhận không mấy người vượt được ông khi cầm bút ở Hải ngoại.
Duyên Anh (Vũ Mộng Long 1937-1997)
Duyên Anh, 1935 với 50 tác phẩm xuất bản hồi trước 75. Có lẽ số lượng đầu sách xuất bản đó chỉ thua có một Bình Nguyên Lộc mà thôi. Đó là các truyện Hoa thiên lý,
Thằng Vũ, Dũng Dakao., Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoan., Tuổi mười ba, Ao tiểu thư, Em đã yêu anh. Ngựa chứng trong sân trường. Ong là nhà văn của tuổi thơ với
những thằng Côn, thằng Khoa, thằng Vũ, con Thúy đến Dzũng Dakao, Chương Còm, Bồn, Hưng mập.
Đó là thứ tuổi trẻ bụi đời và du đãng. Thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam mang ơn ông rất nhiều về những cuốn truyện của ông viết về họ.
Ông gặp nhiều bất hạnh lúc cuối đời va dập cả từ ngoài xã hội đến nội bộ gia đình. Tôi thu tập khá đầy đủ tài liệu về ông.
Nhưng về lúc cuối đời, như một số tên tuổi khác, ông đã tìm được con đường đạo phải đi trong suốt hành trình dương thế mà cả đời ông đã không gặp. Có nhiều phần, ông
gặp được thánh Phê rô, người giữ cửa nước Trời.
Thế Uyên, 1935 với các tác phẩm Hạt cát, Mười ngày phép của một người lính, Những ý nghĩ của bọt biển, Nỗi chết không rời, Bản tình ca. Nghĩ trong một xã hội tan rã.
Ông là một người cầm bút với ý thức, với suy tư triết lý, với những ý nghĩ vụn vặt trong mỗi đầu sách. Sách nào cũng ngắn, trải dài chỉ hơn trăm trang.. Trước khi ngã bệnh
nếu tôi nhớ không lầm, ông hy vọng tôi sẽ viết được đôi điều về ông nên đã gửi các truyện của ông xuất bản tại Việt Nam. Trong cuốn Hạt cát, ông gửi tặng tôi ghi, Sách
đầu tiên, tặng anh Nguyễn Văn Lục.
Ông cũng như Duy Lam là hai người tâm sự vụn với tôi rất nhiều điều. Như một số nhà văn gặp hoạn nạn chính trị bị cộng đồng người Việt lên án, ông còn gặp sự đố kỵ
của gia đình bên ngoại. Cũng như Duyên Anh, có thể ông có vài ý nghĩ khác người, nhưng nếu nhìn toàn diện tác phẩm của ông, tôi nghĩ rằng, ông vẫn là một người quốc
gia chân chính và một nhà văn chân thật. Phải chăng nhận xét này đủ để tôi chuộc lỗi với ông không viết đầy đủ như lòng mong đợi của ông.
Kiệt Tấn. Nguồn: thethaovanhoa.vn
Kiệt Tấn, 1940, tên thật là Lê Tấn Kiệt với Nụ cười tre trúc(1987), Lớp lớp phù sa (1988), Nghề múa (1989), Em ơi biết đâu tìm (1994).
Tôi có viết một bài về ông, Ba điều về Kiệt Tấn, đăng trên bào Văn của Nguyễn Xuân Hoàng. Ông là một trong số những người viết trẻ sau này có thể theo gót những nhà
văn Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc. Nụ cười tre trúc được đánh giá cao xét về măt Văn học. Rất tiếc, tinh thần ông không được vững ảnh hưởng tới công việc sáng tác của
ông.
Phan nhật Nam, với tác phẩm Dấu binh lửa, Ai trần gian, Dựa lưng nỗi chết, Tù binh và Hoà Bình, Dọc đường số 1 và nhất làMùa hè đỏ lửa (1972) Sau 1975 với Những
chuyện cần được kể lại, Mùa đông giữ lửa. Đường trường xa. Phải công nhận nhà văn Phan Nhật Nam là ngòi bút có lửa. Lửa rừng rực cháy trongDấu binh lửa, trong Mùa
hè đỏ lửa.
Theo tôi nhận xét, Phan Nhật Nam giống môt phần nào Phan Lạc Tiếp, ngòi bút chiến tranh không hừng hực hận thù. Ngay cả khi hừng hực sôi máu trước cái chết của
đồng đội nếu có đi nữa, người ta vẫn tìm thấy cái tình con người trong những câu chuyện chiến tranh của ông.
Tôi chỉ thực sự xúc động khi đọc ở ông những góc cạnh, những câu chuyện kể bên lề cuộc chiến, nhưng vẫn nhắn gửi một cái tình con người trong những câu chuyện ấy.
Còn truyện chiến tranh cũng là những chuyện cũng đành cả. Nhưng lửa ấy nơi Phan Nhật Nam cũng rừng rực khi ngồi ăn nhậu trên bàn tiệc rượu với bạn bè. Nói chung,
ông là người dễ thương, bạn bè trêu chọc đủ thứ ông không giận.
Nhật Tiến, 1936. với Những người áo trắng, Những vì sao lạc, Tay Ngọc, Chuyện bé Phượng, Người kéo màn, Chim hót trong lồng, Quê nhà yêu dấu, Lá chúc thư, Theo
gió ngàn bay.
Ông được nhìn nhận như một nhà văn viết cho tuổi thơ bất hạnh, viết về những mảnh đời của trẻ em mồ côi với những tên Phựơng, Dung, Cúc, Alice, Hạnh. Tôi nghĩ đó
cũng đủ làm nên văn nghiệp của ông.
Sau 75 có Mồ hôi của đá, Tiếng kèn, Gặp gỡ cuối năm, Một thời đang qua.
Ông là người có khả năng tài chánh để in ấn… Tôi cũng có đũ những sách của ông Nhật Tiến sau này ở Hải Ngoại. So với chính ông thì tự nó ông cũng thấy có sự sút kém
nhiều.
Ngô thế Vinh 1941 với Mây Bão, Vòng đai xanh, Mặt trận Văn Nghệ ở Sàigòn, Gió mùa. Sau 1975, ông viết Cửu Long cạn dòng, biển Đông dạy sóng.
Những tác phẩm của Ngô Thế Vinh sau này ở Hải ngoại chuyên chở một lo ngại về môi trường. Tôi có được đọc và chia sẻ.
Nhưng có thể vấn đề môi trường còn quá sớm sủa đối với tâm thức người Việt Nam nên ít ai lưu tâm cho đủ.