quan hệ Pháp - Việt là cú đảo chính nổi tiếng ngày 22-23 tháng 9-1945 ở
Sài Gòn và việc ông ký Hiệp định phi pháp ngày 3-6-1946 đặt ra “Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ” với bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thân Pháp làm Thủ
tướng.
Trương Phát Khuê - Thống chế (1896 -)
Tư lệnh quân đội Quốc dân đảng (Trung Quốc) Đệ tứ Chiến khu (gồm
miền tây tỉnh quê ông ở Quảng Đông và toàn bộ tỉnh Quảng Tây) - Quan
hệ đầu tiên của ông với Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Quảng Châu (1924-
1927) là một sự hợp tác ngắn ngủi với một người Cộng sản Việt Nam trong
bộ tham mưu của tướng Vasili Blyukher (gọi là “tướng Galin”) thuộc phái
đoàn Borodin của Liên Xô ở Trung Quốc. Người Việt Nam này hoạt động
như là “một người phiên dịch” cho phái đoàn với tên là Lý Thụy, đồng thời
tham gia vào các hoạt động cách mạng ở Đông Dương và thực tế chính là
Hồ Chí Minh. Hai người lại gặp nhau trong một hoàn cảnh khác vào 1942-
1944. Giữa những năm 1920 trong cuộc hợp tác Quốc - Cộng đầu tiên ở
Trung Quốc, Trương Phát Khuê đã cùng hoạt động với nhiều nhà lãnh đạo
quân sự nổi tiếng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (Diệp Kiếm Anh, Lâm
Bưu, Diệp Lương, Hạ Long v.v...). Tuy được coi là người cánh tả trung tâm
về mặt chính trị nhưng Trương chưa bao giờ đi theo Trung Cộng và đến
năm 1949 thì rút lui về ở Hongkong, vẫn ủng hộ Quốc dân đảng nhưng
tách khỏi chính phủ Đài Loan từ 1968. Trương có viếng thăm Mỹ vào mùa
thu 1960 sau khi họp Hội nghị tái vũ trang tinh thần ở châu Âu. Trong cuộc
nói chuyện ở nhiều nơi trên đất Mỹ, Trương chủ trương người Trung Quốc
phải tiếp tục chiến đấu chống lại Đảng Cộng sản Tnmg Quốc và khôi phục
lại Cộng hòa Trung Hoa.
Phó Đô đốc Jean Decoux (1884-1963)
Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp (tháng 7-1940 – tháng 3-1945).
Tổng Tư lệnh Hạm đội Viễn Đông Pháp 1939, được Đô đốc Darlan đỡ đầu,
theo Vichy, làm Toàn quyền thay Catroux. Một người độc đoán kiêu kỳ, có
quan điểm hữu mạnh mẽ và tính khí giống như De Gaulle. Decoux không
thân thiện được với De Gaulle sau khi ông trở về Pháp tháng 10-1945. Bị
kết án cộng tác với Chính phủ Vichy nhưng đã được xóa án vào 1949.
Nguồn: F. Buttinger.
Trương Bội Công (1900-1945)
Một người Quốc gia Việt Nam trốn sang Trung Quốc trong phong trào
khởi nghĩa Yên Bái 1930 và tham gia chi nhánh Việt Nam Quốc dân đảng
ở Nam Kinh, được sự che chở của một người Quốc dân đảng Việt Nam
khác là Hồ Học Lãm lúc đó là sĩ quan trong quân đội Quốc dân đảng Trung
Quốc. Công được nhận vào học khóa II Học viện Quân sự Bảo Định, Trung
Quốc và sau đó được phong cấp sĩ quan phục vụ trong quân đội Quốc dân
đảng với chức vụ chỉ huy trung đoàn và sĩ quan tham mưu cao cấp Học
viện quân sự Nam Ninh và được Trương Phát Khuê chú ý. Năm 1941,
Trương Phát Khuê giao cho Lãm và Công đứng ra tổ chức và huấn luyện
một số lớn những người di cư Việt Nam lúc đó trốn sang Trung Quốc.
Trương chỉ định Công chỉ huy khóa huấn luyện đặc biệt Việt Nam ở Trình
Tây nhằm thu nạp và đào tạo những người di cư để phục vụ cho các cuộc
hành quân vào Việt Nam sau này. Hồ Chí Minh lúc đó ở Trung Quốc, cử
Võ Nguyên Giáp và một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đến
làm việc với Công để tổ chức các nhóm Quốc gia khác nhau vào một mặt
trận thống nhất gọi là Việt Nam Giải phóng Dân tộc Đồng minh, tiền thân
của Đồng minh Hội vào 1942.
Mặc dù theo chủ nghĩa Quốc gia, Công thân Trung Quốc và chống
Cộng. Ông cộng tác với Hồ Chí Minh trong việc đối phó với Việt Nam
Quốc dân đảng nhưng chưa bao giờ chấp nhận sự lãnh đạo của Việt Minh.
De Gaulle, Charless A.J.M (1890-1970)
Tướng và chính khách đứng đầu Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp
(1945), Tổng thống đầu tiên của nền Đệ ngũ Cộng hòa Pháp (1959-1969).
Một sĩ quan chuyên nghiệp Quân đội Pháp dã công khai phê phán chiến
lược và chiến thuật lỗi thời của Bộ Tổng Tham mưu Pháp, chủ trương hiện
đại hóa và cơ giới hóa quân đội Pháp. Khi chiến tranh với Đức bùng nổ,
đại tá De Gaulle chỉ huy sư đoàn 4 thiết giáp, được thăng thiếu tướng.
Tháng 6-1940 làm Thứ trưởng Quốc phòng trong Nội các Paul Reynaud.
Chống đối kịch liệt cuộc đình chiến Pháp - Đức, De Gaulle trốn sang
London (tháng 6-1940) để tiếp tục cuộc kháng chiến. Nhờ Anh giúp đỡ, De
Gaulle tổ chức ra Quân đội Pháp tự do. Dưới áp lực của Anh, Mỹ ông phải
cộng tác với tướng Giraud trong Ủy ban Giải phóng Quốc gia Pháp ở Alger
cho tới tháng 6-1944 rồi gạt Giraud khỏi ghế đồng chủ tịch Ủy ban và
chuyển Ủy ban thành Chính phủ Lâm thời Pháp do ông lãnh đạo. Ngày 26-
8-1944, ông trở về Paris và dược bầu làm Tổng thống lâm thời tháng 11-
1945. Bị chống đối mạnh mẽ về chính trị, ông buộc phải rút lui tháng 1-
1946. Đến cuộc khủng hoảng 1958 (nổi loạn ở Algerie) ông trở lại làm Thủ
tướng. Theo Hiến pháp mới, ông làm Tổng thống đầu tiên của Đệ ngũ
Cộng hòa Pháp tháng 1-1959, sau ông lại xin từ chức và rút lui hoàn toàn
khỏi đời sống chính trị vào năm 1969.
Donovan, William Joseph (“Wild Bill) Trung tướng (1883-1958)
Giám đốc Nha công tác Chiến lược (OSS) trong Thế chiến thứ hai.
Luật gia, chính trị gia, quân nhân, nhà ngoại giao. Sinh ở Buffalo, New
York. Donovan đỗ Tiến sĩ luật 1907 tại trường đại học Columbia, tham gia
hoạt động chính trị và quân đội ở New York. Năm 1905 được cử vào Ủy
ban Ba Lan cứu trợ nạn nhân chiến tranh ở Ba Lan và vùng Bancan. Năm
1917 sang Pháp, chỉ huy tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 69 cận vệ Quốc gia
New York và ba lần bị thương. Cuối Thế chiến thứ nhất, Donovan được cử
vào trong một phái đoàn sang Sibéria. Năm 1922 trở lại hoạt động trong
ngành luật làm luật sư, rồi hoạt động chính trị phục vụ của cả hai đảng.
Tổng thống Roosevelt phái Donovan sang Ý và Ethiopia (1935) và Tây
Ban Nha (1937) để điều tra về xu hướng phát xít và sự nổi dậy ở châu Âu.
Ông đã báo cáo về việc thay đổi trong kỹ thuật chiến tranh, vấn đề các vũ
khí mới và chiến thuật dùng “đội quân thứ năm” của các nhà độc tài châu
Âu. Năm 1940 được phái sang Anh để xem xét giúp chống lại bọn Quốc xã
và đã góp phần tác động đến Roosevelt trong việc cho Anh mượn các khu
trục hạm Mỹ đã quá thời. Sau chuyến đi thăm vùng Bancan lần thứ hai
(1941) Donavan được cử làm người điều chỉnh các tin tức tình báo (COI)
của Roosevelt. Sau trận Pearl Harbor, COI được tổ chức lại thành OSS và
do Donovan điều khiển. Năm 1946 ông được Nhà Trắng mời làm công tác
chuẩn bị cho tòa án Nuremberg. Đến 1953 Donovan được Tổng thống
Eisenhower lại gọi ra làm Đại sứ Mỹ ở Thái Lan và 1956 tổ chức quỹ cứu
trợ cho người tị nạn Hungari. Bị chảy máu não 1957 và chết 8-2-1958.
Matusita (còn gọi là Matsushita)
Một gián điệp Nhật thuộc quyền chỉ huy của Tổng lãnh sự Minoda.
Năm 1930 chủ yếu hoạt động ở Nam Kỳ và Kampuchia dưới bình phong là
một kỹ nghệ gia (Giám đốc hãng Dainan Koosi). Bị người Pháp trục xuất
khỏi Đông Dương năm 1938 vì hoạt động chống Pháp và phân biệt chủng
tộc trong những người Quốc gia Việt Nam ở miền Nam, Matusita trở lại
Đông Dương với quân đội Nhật năm 1941 và tiếp tục điều khiển Dainan
Koosi. Ông đặt liên lạc cộng tác với trung tâm văn hóa của Yokoyama, với
Yasu Butai và Hiến binh Nhật. Bạn thân và người ủng hộ mạnh mẽ Cường
Để, Matsusita năm 1942 tiếp cận với các lãnh đạo phong trào Quốc gia
thân Nhật, đặc biệt là với trí thức, để khuấy động lại phong trào. Ông đã
trợ cấp cho Phục Quốc ở miền Nam và Đại Việt ở miền Bắc những khoản
tiền không hạn chế lấy từ quĩ của CICEI và Dainan Koosi – năm 1944
Matusita đã thành công trong việc lôi kéo được giáo phái Cao Đài và Hòa
Hảo di theo phong trào quốc gia thân Nhật
Gracey Douglas D., Thiếu tướng (1894-1964)
Người Anh, chỉ huy Lục quân Đồng minh ở Đông Dương, nam vĩ tuyến
16, cầm đầu Phái đoàn kiểm tra Đồng minh của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á
và Đông Á (SEA-SAC); tư lệnh sư đoàn 20 Ấn Độ. Đến Sài Gòn ngày 13-
9-1945; đi ngày 28-1-1946.
Helliwel Paull, Đại tá (1914-1976)
Trưởng phòng điệp báo OSS-Côn Minh, trưởng Nha Tình báo OSS-
Trung Quốc, Luật sư nổi tiếng, nhà ngân hàng và Tổng lãnh sự cho Chính
phủ Thái ở Miami, Flonda,
Heppner, Richard Pinkerton, Đại tá (1908-1958)
Sĩ quan OSS-Trung Quốc, Luật sư và cộng tác viên phòng luật sư của
Donovan; vào quân đội 1940 thuộc cơ quan Ban điều chỉnh tin tức của
Donovan (1941); học Trường tình báo Anh ở Canada của W. Stephenson
và Trung tâm huấn luyện biệt kích ở Scotland; công tác ở OSS-London
(1942), tham gia việc đặt kế hoạch OSS đổ bộ Bắc Phi (TORCH). Cuối
1942 được Đại sứ W. Phillips cho đi theo làm phụ tá sang Ấn Độ. Được cử
làm sĩ quan biệt phái của OSS ở cạnh Bộ tư lệnh Đông Nam Á (SEAC)
1943; chuyển sang chiến trường Trung Quốc 1944 và đảm nhiệm phụ trách
mọi hoạt động OSS dưới quyền tướng Wedemeyer cho đến tháng 10-1945
rồi trở về hoạt động trong ngành luật. Năm 1957, Tổng thống Eisenhower
cử ông làm phó trợ lý quốc phòng về công tác an ninh. Chết 14-5-1958.
Dương Đức Hiền (1916-1963)
Vào khoảng 30 tuổi, năm 1945, lúc đầu Hiền hoạt động tích cực cho
Việt Nam Quốc dân đảng. Khi Đại Việt được thành lập vào năm 1941, Hiền
với Nguyễn Tường Tam và em là Nguyễn Trường Long cùng tham gia lãnh
đạo. Là một trí thức, lãnh tụ sinh viên, Hiền được bầu làm Chỉ tịch Tổng
hội Sinh viên Việt Nam ở Hà Nội. Tháng 6-1944, Hiền lôi kéo một số lớn
sinh viên ra lập Việt Nam Dân chủ đảng và trở thành Tổng Bí thư đầu tiên.
Chịu ảnh hưởng của người bạn thân là Võ Nguyên Giáp, Hiền sát nhập
đảng Dân chủ vào Mặt trận Việt Minh, vừa là chỗ ngụy trang cho các đảng
viên Cộng sản trong những lúc bị khủng bố vừa đóng vai một thiểu số
trung thành trong Mặt trận Việt Minh. Tại Đại hội ở Tân Trào, Hiền được
cử vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc và sau đó làm Bộ trưởng Thanh niên
trong Nội các đầu tiên của ông Hồ - Nguồn: OSS-SI hồ sơ nhân sự 10-1945
Wainwright, J.M, Tướng (1883-1953)
Tướng Mỹ, tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ (1906), phục vụ ở Pháp
(1918), thiếu tướng (1940) đóng ở Philippin và bị Nhật tấn công (tháng 12-
1941), chỉ huy mặt trận bắc cho tới khi được Mac Arthur thay làm tổng chỉ
huy; đã phòng ngự anh dũng Bataan và Corregidor (1942); bị bắt làm tù
binh (1942-1945); được thưởng Huân chương Danh dự và đề bạt Đại tướng
(1945), Tư lệnh Tập đoàn quân 4 (1946), về hưu 1947). Tướng Wainwright
là người tù binh chiến tranh cao cấp nhất trong tay Nhật dã được toán
Mercy OSS (Công tác Cardinal) do thiếu tá R.F. Lamar phụ trách giải
thoát. Ngày 16-8, toán nhảy dù xuống ngoại ô Mukden và đi bộ tới trại tù
binh Hoten mà ở đó hy vọng sẽ tìm thấy Wainwright. Bị một đội tuần tra
Nhật (không biết có đầu hàng) bắt tước vũ khí và đánh đập. Hành dinh
quân Nhật tại Mukden, Lamar được sĩ quan trực ban Nhật cho biết “Vừa
mới kết thúc chiến tranh”. Lamar và cả toán được khôi phục lại danh dự,
được xin lỗi và được biết là Wainwright bị giữ ở một trại nhỏ tại Sian cách
Mukden 110 dặm về phía đông bắc. Người Nhật nói là phải có phép của
Liên Xô thì toán mới hoạt động được vì Sian ở trong khu vực do Cộng sản
kiểm soát. Sau nhiều chậm trễ, người Nga cho phép toán đi và đã đến Sian
(19-8) tìm thấy Wainwright và một nhóm tù binh nổi tiếng, trong đó có
tướng E.M. Percival, cựu tư lệnh Anh ở Malay, ngài Benton Thomas cựu
toàn quyền Malay, ngài Mark Young cựu toàn quyền Hongkong; Tjarda
Van Starkenhorgh Stachouver, cựu toàn quyền Ấn Độ Hà Lan; Smith cựu
toàn quyền Bornéo; thiếu tướng Callaghan, của Úc, và các quan chức cao
cấp khác. Sau đó, đến ngày 24-8, một sĩ quan cao cấp Liên Xô đã đề nghị
cho áp giải các tù binh về Mukden để Wainwrihgt tự tìm lấy phương tiện
chuyên chờ vào sự giúp đỡ của sĩ quan Nhật phụ trách trại. Ba ngày sau, 1
giờ 30 ngày 27, nhóm cao cấp này lên tầu từ Mukden đi 1.200 dặm đến
Hsian. Từ đó họ bay đi Trùng Khánh và sau đó, tại vịnh Tokyo, tướng
Wainwrihgt đã ngồi cạnh tướng Mac Arthur trong buổi lễ tiếp nhận đầu
hàng ngày 2-9 trên tàu chiến Missouri của Mỹ.
Gallagher, Philip E. Thiếu tướng (1897-1976)
Chỉ huy đoàn Cố vấn và Viện trợ quân sự Mỹ (US-MAAG), Thiếu
tướng biệt phái tại Đệ nhất Chiến khu, Bộ tư lệnh chiến dấu Trung Quốc.
Tháng 8-1945 được cử làm cố vấn cho Bộ tư lệnh Quân đội Trung Quốc
chiếm đóng Đông Dương về các vấn đề tước vũ khí và hồi hương quân
Nhật ở bắc vĩ tuyến 16.
Terauchi, Thống chế, Bá tước Hisaichi (Juichi) (1879-1946)
Sinh tại huyện Yamaguchi, Nhật, con của trung tướng Bá tước
Masataki, cựu Bộ trưởng Chiến tranh (1902) và Thủ tướng Nhật (1919),
Hisaichi được phong cấp từ Học viện Quân sự Hoàng gia (1900), Viện
Tham mưu Quân sự Nhật (1909) và sau đó theo học ở Đức. Thiếu tướng
(1924) đã chỉ huy ở Chosen, Mãn Châu Lý và ở Đài Loan (1932), được đề
bạt tướng (1935), làm Bộ trưởng Chiến tranh (lục quân) (1936-1937), tư
lệnh Quân đội Nhật ở Bắc Trung Quốc (1937-1938), được cử làm Ủy viên
Hội đồng Chiến tranh tối cao vào năm 1938; đại diện cho quân dội Hoàng
gia Nhật tại Hiệp định quốc xã Nuremberg (1939); Tổng Tư lệnh quân đội
Nhật Tây Nam Thái Bình Dương (tháng 12-1941 - tháng 8-1945). Trong
Thế chiến thứ hai, ông chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Phương Nam gồm 4
tập đoàn quân gồm 1 triệu người có nhiệm vụ phòng thủ vùng Tây Nam
Thái Bình Dương từ Miến Điện đến New Guine. Bộ Tư lệnh Tập đoàn
quân Phương Nam của Terauchi đóng ở Sài Gòn từ ngày 6-11-1941,
chuyển sang Singapore tháng 5-1942, sang Manila cuối năm 1942, rồi trở
về Sài Gòn ngày 17-11-1944, ở đó cho đến khi người Nhật đầu hàng Anh
ngày 30-11-1945.
Hisaichi Terauchi nổi tiếng là độc đoán, bài ngoại và đầu óc phân biệt
chủng tộc. Tinh thần kỷ luật tàn nhẫn của ông đã góp phần làm suy sụp
tinh thần võ sĩ đạo của Nhật trong những năm chiến tranh. Được sự giúp
đỡ của một tài phiệt Trung Quốc chống Quốc dân đảng nổi tiếng, Bang
Keh-min, Terauchi đã dựng lên một chính phủ “Cộng hòa Trung Hoa Lâm
thời” bù nhìn ở Bắc Kinh tháng 12-1937. Sự chiếm đóng miền Bắc Trung
Quốc của Terauchi đã được ghi bằng những cuộc hành hình dã man hàng
ngàn người thân Quốc dân Đảng và Trung Cộng. Trong Thế chiến thứ hai,
Terauchi công khai khuyến khích và ủng hộ những hoạt động bài ngoại
“không được phép” của tên trung tá tàn ác Masanobu Tsuji, chịu trách
nhiệm một phần về những sự tàn nhẫn đối xử với tù binh chiến tranh Úc và
Ấn độ (ở Singapore), Mỹ và Philippin (ở Bataan). Sau khi Corregidorr
mất, Terauchi mâu thuẫn với người chỉ huy cao cấp của ông ở Philippin,
tướng Nasaharru Homma, và đối với chính sách khoan hồng của Homma
dối với người Mỹ và người Philippin. Từ Sài Gòn, Terauchi gửi một báo
cáo chống lại thái độ của Homma về Tokyo. San đó Homma bị thay thế,
phải trở về Nhật và bị ép phải rút lui gần như bị mất hết chức vị.
Nguyễn Hải Thần (1879-1955)
Con quan lại, sinh tại Hà Đông, gần Hà Nội, theo Phan Bội Châu, tham
gia phong trào Quốc gia Bắc Kỳ (1907-1909), tản cư sang Trung Quốc
(1912) và ở đó cho đến 1945. Được bầu vào Ủy ban chấp hành và bí thư
của Đồng minh Hội trong hội nghị thành lập (tháng 8-1942). Thần đã bất
lực trong việc thống nhất các đảng phái chính trị khác nhau và không xứng
đáng là một lãnh tụ. Sau khi biển thủ quĩ của đảng, ông rời Liễu Châu,
trung tâm hoạt động của Đồng minh Hội và chỉ quay trở lại khi Đồng minh
Hội họp lần thứ hai vào tháng 3-1944. Lúc đó, ông được bầu àm Ủy vn
Kiểm tra trong Đồng minh Hội mới được cải tổ lại. Năm 1945, Thần đi
theo quân đội của Tiêu Văn trở về Việt Nam, hy vọng sẽ nắm được Chính
phủ nhưng lại xung đột với Hồ Chí Minh và Việt Minh. Sau một loạt các
cuộc thương lượng với Hồ, Thần “được bầu” làm Phó Chủ tịch Chính phủ
Liên hiệp Lâm thời (tháng 1-1946). Không bằng lòng với chức vụ “vinh
dự” đó, Thần từ chức và rời Hà Nội đi Quảng Châu. Đến tháng 3-1947, ông
lại xuất hiện ở Hongkong để thành lập một liên minh mới chống Việt Minh
và chống Pháp, đó là Mặt trận Thống nhất Quốc gia, chủ trương đưa Bảo
Đại trở lại Việt Nam. Không được dân chúng ủng hộ và thiếu sự giúp đỡ về
quân sự của Trương Phát Khuê, người đỡ đầu cũ của ông, phong trào của
Thần sụp đổ. Trở lại Quảng Châu cuối mùa thu 1947, Thần rút lui khỏi mọi
hoạt động chính trị.
Tsuchihashi, Yuitsu -Trung tướng (1885-)
Tư lệnh Tập đoàn quân 38 quân đội Hoàng gia Nhật. Tsuchihashi đảm
nhiệm chỉ huy tập đoàn quân chiếm đóng mới được tổ chức lại thay cho
Trung tướng Kajumoto Machijiri ngày 4-12-1944. Tsuchihashi tốt nghiệp
trường Tham mưu Quân sự Nhật (1920), nói thạo tiếng Pháp và làm tùy
viên quân sự ở Pháp và Bỉ (1937-1940). Đầu 1939, Tsuchihashi đến Hà Nội
để thảo luận với Toàn quyền Jules Brévié về khả năng ngăn chặn đường
tiếp tế của Mỹ cho quân đội Tưởng Giới Thạch theo đường qua Đông
Dương. Người Pháp từ chối. Tháng 3-1945, Tsuchihashi cho tiến hành cú
đảo chính người Pháp và cầm giữ toàn bộ quân đội Pháp ở Đông Dương.
Ông cho quân của ông từ bắc vĩ tuyến 16 đầu hàng người Trung Quốc ngày
28-9-1945 ở Hà Nội.
Wedemeyer A.C., Trung tướng (1897-)
Tư lệnh Quân đội Mỹ trên Chiến trường Trung Quốc, đồng thời là
tham mưu trưởng của Thống chế Tưởng Giới Thạch (tháng 10-1944 -
tháng 4-1946). Tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ (1919), phục vụ ở Trung
Quốc, Philippin và châu Âu (1920-1935), tốt nghiệp trường Chỉ huy và
trường tham mưu Leavenworth (1936), học trường chiến tranh Đức (1936-
1938), tham mưu phó (SEAC) cho huân tước Mounbatten (1943-1944).
Phái đoàn thanh tra của Tổng thống ở Trung Quốc và Triều Tiên (1947-
1948); Tư lệnh tập đoàn quân 6 (1949-1951). Về hưu năm 1951.
Nguyễn Tường Tam (1910-1963)
Nhà văn - nhà báo ở Hà Nội, Tam là một đảng viên Việt Nam Quốc dân
đảng. Đảng này dựa vào Trung Quốc như một đồng minh để giành độc lập
dân tộc, chống lại sự kiểm soát quốc gia của Trung Quốc. Khi thế lực của
Nhật bắt đầu thống trị Đông Dương (1940), Tam chuyển sang nhờ sự viện
trợ của Nhật để chống Pháp và lập ra đảng Đại Việt Dân chính (tắt là Đại
Việt). Pháp đàn áp và bắt giam các lãnh tụ của đảng này. Tam trốn thoát
sang Trung Quốc năm 1942 và đi theo Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ
Hồng Khanh ở Côn Minh. Đây là Việt Nam Quốc dân đảng thứ hai. Mặc dù
Tam không lộ rõ mặt ở Trung Quốc nhưng Tam và đảng Đại Việt đã được
xác định là những người Quốc gia thân Nhật. Trương Phát Khê quyết định
bắt giam Tam một thời gian vào năm 1944 để “dạy cho ông một bài học”.
Ngay trước khi họp Đại hội lần thứ hai Đồng minh Hội (tháng 3-1944),
Trương thả Tam và mời làm đại biểu dự Đại hội ở Liễu Châu và ở đó Tam
gặp Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng. Mùa thu 1945, Hồ
tranh thủ sự ủng hộ của Tam và sau đó trao cho ông giữ chức Bộ trưởng
Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Lâm thời tháng 1-1946. Với tư cách
là Bộ trưởng Ngoại giao, Tam cầm đầu đoàn tham gia Hội nghị Đà Lạt tai
hại (tháng 4-1946). Khi được mời để cầm đầu đoàn dự Hội nghị
Fontainebleau, Tam đã cáo ốm và với Vũ Hồng Khanh, đã bay sang Trung
Quốc rồi sau đó sang Hongkong. Tháng 2-1947, Tam, Khanh và một số
lãnh tụ Đồng minh Hội khác đã tham gia các hội nghị ở Nam Kinh và
Quảng Châu để lập ra Mặt trận Dân tộc Thống nhất nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của Chính phủ ông Hồ và thuyết phục Bảo Đại làm người phát ngôn cho
họ. Nhưng họ đã thất vọng với người Pháp và Bảo Đại đã từ chối đứng
giữa hai bên - Việt Minh và Pháp. Tháng 10-1947, Tam rút lui khỏi phong
trào ủng hộ Bảo Đại và mọi hoạt động chính trị tích cực nhưng vẫn tiếp tục
viết bài từ nước ngoài chống lại sự can thiệp của Pháp và Mỹ vào Việt
Nam. Trong cuộc nổi dậy của Phật giáo 1963, Tam đã tự vẫn (tháng 7-
1963) để phản đối chế độ đàn áp của Ngô Đình Diệm.
Hurley R.J., Thiếu tướng (1883-1963)
Sinh tại Choctaw Indian Territory, làm luật ở Tulsa (1912-1917); Đại tá
trong Thế chiến thứ nhất, Thứ trưởng chiến tranh (1929), Tổng trưởng
chiến tranh (1929-1933). Đã phục vụ trong nhiều phái đoàn ngoại giao.
Năm 1942, được Tổng thống Roosevelt cử làm Bộ trưởng Mỹ tại New
Zealand rồi sau đó (1942-1943) làm đại diện Tổng thống ở Trung Đông.
Thăng thiếu tướng và được Roosevelt cử làm Phái viên của Tổng thống tại
Trung Quốc (tháng 8-1944 – tháng 2-1945) rồi thành Đại sứ Mỹ tại Trung
Quốc (tháng 1 – tháng 11-1945).
“Leclercs” Jacques Phillppe, Thống chế (1902-1947)
Bá tước De Hautecloque, dùng tên “Leclerc” trong Thế chiến thứ hai
để bảo vệ cho gia đình trong thời gian Đức quốc xã chiếm đóng Pháp. Chỉ
huy Quân đội Pháp tự do ở Phi Châu xích đạo (1942-1943). Tư lệnh sư
đoàn 2 Thiết giáp tham gia chiến dịch Tunisie (1943) với tập đoàn quân 8
của Anh. Tướng Bradley trao cho sư đoàn ông vinh dự dẫn đầu vào Paris
(tháng 8-1944) để hoàn thành việc chiếm lại Thủ đô. Được De Gaulle cử
làm Tư lệnh Quân dội Pháp ở Viễn Đông (tháng 8-1945), Leclerc đại diện
cho người Pháp trong lễ tiếp nhận đầu hàng Nhật tại vịnh Tokyo. Tháng
10-1945, ông chỉ huy quân Pháp đầu tiên chống lại những chiến sĩ Việt
Nam đấu tranh giành độc lập, với mưu toan chiếm lại Đông Dương. Được
cử làm Tổng Thanh tra lục quân Pháp ở Bắc Phi (1946). Leclerc chết trong
một tai nạn phi cơ (1947) và được truy phong Thống chế Pháp năm 1952.
Lee, Duncan - Trung tá (1915-).
Trưởng ban Nhật - Trung Quốc, Phòng Viễn Đông, Nha Tình báo OSS-
Washington (1944-1945), sau đó làm trợ lý cố vấn OSS. Đẻ ở Trung Quốc.
Học ở Oxford; cộng tác luật của Donovan. Sau Thế chiến thứ hai, Lee làm
Phó Chủ tịch Nhóm Bảo hiểm C.V. Starr.
Lư Hán - Trung tướng (1891-)
Người gốc Vân Nam, miền giáp Tây Tạng, thường được gọi là “tên
Lolo mọi rợ” vì Lư Hán là dân bộ tộc Lolo độc lập chống Trung Quốc ở
Bắc Vân Nam. Được “người cậu”, là Thống đốc (tướng) Long Vân che
chở, Lư Hán được phong cấp từ Học viện quân sự Vân Nam và giữ nhiều
chức vụ quan trọng. Năm 1932 làm Trưởng Ủy hội quân sự Chính phủ
quốc gia Nam Kinh. Lư Hán giúp tổ chức và làm cho Quốc dân đảng
(Trung Quốc) ủng hộ các nhà cách mạng Việt Nam (Việt Nam Quốc dân
Đảng) ở Nam Kinh. Đầu năm 1940, Lư Hán chỉ huy Phương diện quân 1 ở
chiến khu 9. Tháng 8-1945, Tưởng Giới Thạnh chỉ định ông và quân đội
của ông làm lực lượng chiếm đóng Đông Dương và Lư Hán là người đại
diện cho Tưởng để chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở bắc vĩ
tuyến 16. Ngày 15-10-1945, Tưởng cử ông làm Thống đốc tỉnh Vân Nam
thay cho Long Vân. Sau đó (tháng 12-1949), Lư Hán bỏ theo Trung Cộng
và được giao nhiều chức vụ danh dự như Phó chủ tịch Ủy ban Quốc gia
Thể dục và Thể thao. Tháng 4-1959, ông lại được cử vào một chức vụ
không có quyền hành trong Hội đồng Quốc phòng ở Bắc Kinh.
Long Vân (1888-1962)
Người gốc miền Bắc Vân Nam, thuộc dân tộc Lolo, Long Vân thuộc
dòng dõi quân phiệt làm nên nhờ việc trồng thuốc phiện và cướp bóc dọc
theo con đường giao thông phong phú Tây Tạng – Miến Điện - Trung
Quốc. Năm 1928 được cử làm Thống đốc tỉnh Vân Nam và cai trị ở đó một
cách gần nhu độc lập đối với Chính phủ trung ương Tưởng Giới Thạch.
Trong những năm 1940, Long Vân chỉ huy 3 trong số 5 tập đoàn quân của
quân đội Vân Nam thuộc Chính phủ trung ương, về danh nghĩa là dưới
quyền của Tưởng. Trong thời gian 1940-1945, việc Long Vân kiểm soát
hoàn toàn quãng đường đi Miến Điện thuộc địa phận Trung Quốc đã mang
lại cho ông nhiều của cải cướp đoạt từ đồ viện trợ Vay - Mượn Mỹ gửi cho
quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc. Những đòi hỏi để cưỡng đoạt các đồ
tiếp tế của viện trợ Vay - Mượn vào giữa năm 1945 và việc bất chấp trắng
trợn đối với quyền lực của Chính phủ Trung ương đã buộc Tưởng phải gạt
bỏ Long Vân. Ngày 5-10-1945, trong cái gọi là sự kiện Côn Minh, Tưởng
đã dùng võ lực để đoạt lại quyền thống đốc và chỉ huy quân sự của Long
Vân. Bằng một mưu mẹo nhằm để giữ thể diện; Long Vân được triệu về
Trùng Khánh và sau đó về Nam Kinh và được giao cho giữ chức Giám đốc
Viện Cố vấn Quân sự không có quyền hành gì. Người cháu của ông, Lư
Hán được cử thay làm thống đốc tỉnh và chỉ huy quân đội ở Vân Nam.
Năm 1948, Long Vân bay đi Hongkong và 1949 lại trở về Bắc Kinh và
đi theo Trung Cộng. Nhờ sự đào ngũ của ông, Long Vân được giũ chức
không có nghĩa lý gì là Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc Phòng, và Phó chủ
tịch Ủy ban quân quản Tây Nam cho đến năm 1957, thì bị thanh trừng
trong thời kỳ “trăm hoa đua nở”.
Whitaker J.Th., Đại tá (1906-1946)
Trưởng Nha Điệp báo (SI-OSS) ở Trùng Khánh. Tác giả, nhà báo và
phóng viên chiến tranh cho nhiều báo Mỹ. Đã dự các phiên họp quan trọng
của Hội Quốc Liên ở Genève (1931-1932) ở Vienne và Berlin, trong cuộc
nổi loạn và thanh trùng của Hitler (1933-1934), tham gia các trận ở
Ethiopia (1935), cuộc nổi loạn Tây Ban Nha (1936-1937), suýt bị thiệt
mạng khi Đức chiếm Tiệp (1938). Bài báo chống phát xít của Whitaker
năm 1940 đã làm phật lòng Mussolini và đã bị Mussolini trục xuất khỏi Ý
(1941). Qua sách đã viết, thể hiện tình cảm sâu sắc, say mê chống chủ
nghĩa phát xít của Hitler và Mussolini. Năm 1942, Donovan mời Whitaker
gia nhập OSS và ông đã phục vụ như một sĩ quan tình báo dân sự ở tiền
tuyến chiến dịch Bắc Phi và Sicile. Phong hàm Trung tá 1943, Whitaker
được giao làm Trưởng ban Tâm lí chiến (OSS-MO). Chuyển đến chiến
trường Trung Quốc, Whitaker phụ trách Nha Điệp báo OSS (1944), trực
tiếp hoạt động tình báo ở Trung Quốc, Nhật và Triều Tiên. Năm 1945 bị
ốm phải về Mỹ và chết ngày 11-9-1946.
Tiêu Văn, Trung tướng (1890-)
Sĩ quan chính trị Đệ tứ chiến khu của Trương Phát Khuê. Quê tỉnh
Quảng Đông, Tiêu Văn được coi như là một chuyên gia về vấn đề Việt
Nam. Khi làm phó cho Trương, phụ trách Ban Ngoại vụ (1943), Tiêu gặp
ông Hồ, lúc đó là một tù chính trị ở Đệ tứ chiến khu và trở thành người
quân sư Trung Quốc cho ông Hồ. Tháng 1-1944, Trương giao cho Tiêu
việc theo dõi các hoạt động của Đồng minh Hội và gây dụng tinh thần thân
Quốc dân đảng trong người Việt Nam. Khi chiến tranh kết thúc, Tiêu được
chuyển sang Hành dinh của Lư Hán (tháng 9-1945) ở Hà Nội; được Quốc
dân Đảng (Trung Quốc) trao cho trông coi quyền lợi của Trung Quốc ở
Đông Dương. Lúc đó, được cử phụ trách Ban Hoa kiều hải ngoại, Tiêu đã
trở thành chống đối với chính sách của ông Hồ và của Lư Hán về vấn đề
vai trò của những người Quốc gia chống Việt Minh trong Chính phủ của
ông Hồ. Những năm sau, Tiêu có bắt mối với Trung Cộng, trong dó có
Diệp Kiếm Anh, bạn của ông Hồ từ khi ở Diên An, và tỏ ra có xu hướng tả
- trung tâm. Do đó, năm 1950, Tiêu được Trương khích lệ và được giao
cho giữ chức cố vấn ở mức thấp trong tỉnh Quảng Đông, thuộc quyền của
tỉnh trưởng (tướng) Diệp Kiếm Anh (Yet Chien Ying)
Messmer, Pierre (1916-)
Một trong số các quan chức cai trị được Bộ Pháp quốc Hải ngoại chọn
để tham gia Phái đoàn thuộc địa Pháp của Raymond và đưa đến Calcutta
để chuẩn bị chiếm lại Đông Dương, Messmer được De Gaulle cử làm Ủy
viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ. Được SLFEO thả dù đêm 22-23 tháng 8-
1945 xuống gần Phúc Yên (độ 15 dặm tây bắc Hà Nội), Messmer bị du
kích Việt Minh tóm được, giam giữ mấy ngày và được thả ra ở gần biên
giới Trung Quốc, Messmer không thực hiện được nhiệm vụ, đã trở về Sài
Gòn rồi sau đó trở về Pháp. Thiếu tá Sainteny đã thay nhiệm ở Bắc Kỳ.
Messmer có tham dự vào các cuộc đàm phán Pháp - Việt ở Đà Lạt và
Fontainebleau năm 1946. Một người theo De Gaulle cứng rắn, Messmer đã
làm chánh văn phòng cho Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại và cố vấn cho
Toàn quyền Emile Bollaert ở Đông Dương (1947-1948); Bộ trưởng quốc
phòng (1960-1969) cho đến khi De Gaulle từ chức; Bộ trưởng các công tác
hải ngoại (1971-1972). Năm 1972, được Tổng thống Pompidou cử làm Thủ
tướng và giữ chức này cho đến năm 1974 rồi được Jacques Chirac thay.
Mordant Eugène, tướng (1885-)
Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương (1940-1944). Mordant chuyển
từ chỗ theo Pétain sang đi với De Gaulle năm 1943 và bí mật phục vụ cho
người Pháp tự do ở Alger. De Gaulle thu nạp và trao cho ông nhiệm vụ tổ
chức cuộc kháng chiến của Pháp tự do ở Đông Dương. Ông được cử làm
tổng đại diện của Chính phủ Pháp ở Đông Dương và được trao chức Phó
Chủ tịch Hội đồng Đông Dương bí mật. Hoạt động sơ hở của ông năm
1944-1945 đã báo động cho người Nhật và họ đã làm cú đảo chính 9-3-
1945 và bắt cầm tù Mordant ở Hà Nội. Mordant đã được người Trung
Quốc thả ra vào cuối 1945.
Pechkov Zinovi, đại tá (còn tên là Pechkoff) (1895-)
Pechkov được De Gaulle cử làm trưởng phái đoàn quân sự Pháp ở
Trung Quốc (1943). Tưởng Giói Thạch đã tiếp và coi ông như một đại sú
và gọi ông là “Đại sứ” nhưng những người theo phe Giraud ở Côn Minh
thường chế diễu nói “tướng Pechkov, Đại sứ Pháp ở Trung Quốc không
phải là tướng, không phài Pechkov, không phải Đại sứ, mà cũng chẳng phải
là người Pháp”. Thực ra Pechkov chỉ là một đại tá trong quân đội lê dương
và được De Gaulle gọi là tướng trong thời gian Pechkov ở Trung Quốc.
Ông là con nuôi của Maxim Gorki và dùng tên gia đình là Pechkov. Chức
Đại sứ là do Tưởng đặt ra cho ông, không phải do Chính phủ Pháp trao.
Ông không vào dân Pháp, mà chỉ là phục vụ trong lính lê dương Pháp.
Con nuôi của Gorki, nhưng đời ông thật khó khăn, vật vò nhưng không
phải cay đắng. Pechkov đã theo Gorki sang ltaha, nhưng cuộc sống dễ dàng
ở Capri không thích hợp với ông. Khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, ông vào
đội Lê dương Pháp, bị thương mất cánh tay phải, lại bị thương trong chiến
tranh Riff ở Maroco. Rất khôn ngoan và kín đáo, Pechkov hình như được
sinh ra để cho các cuộc âm mưu, đã được Chính phủ Pháp trao làm nhiều
nhiệm vụ tin cậy trước Thế chiến thú hai.
Pechkov theo De Gaulle sau khi Pháp mất và một thời gian đã ở Mỹ và
có nhiều bạn bè ở đây. Đặc biệt rất thân với Donovan và đi lại nhiều lần
với tướng này. Trước khi đi Trùng Khánh, Pechkov làm đại diện cho De
Gaulle cạnh Thống chế Smuts ở Nam Phi.
Ở Trung Quốc, Pechkov đã tranh thủ được cảm tình và sự công nhận
của Tưởng với danh nghĩa là đại sứ, đã gián tiếp nâng cao được uy tín của
De Gaulle. Do đó đã được De Gaulle tin cậy. Nhờ có ảnh hưởng và mối
quan hệ tốt giữa Pechkov với Tưởng nên rõ ràng là đã có được một sự hòa
hoãn giữa Tưởng và De Gaulle mà việc phái đoàn Maynier bất chợt tới đã
không đạt được và khơi lại những tranh chấp của người Pháp và đẩy tới sự
phản đối của Taili.
Pignon, Léon (1908-)
Là một viên chức cựu trào của cơ quan thuộc địa Pháp trong nhũng
năm 1930 ở Đông Dương. Tháng 7-1945, Pignon được Bộ Pháp quốc Hải
ngoại chọn làm phụ tá cho Trưởng Phái đoàn thuộc địa Pháp ở Calcutta
(Jean De Raymond) về các hoạt động chính trị ở Đông Dương. Tiếp theo
cuộc đầu hàng đột ngột của Nhật và việc Đông Dương bị chia cắt ở vĩ
tuyến 16, De Raymond phái Pignon sang Trung Quốc để giúp cho tướng
Alessandri chỉ đạo các vấn đề chính trị. Ngày 19-9-1945, Pignon đi cùng
Alessandri sang Hà Nội và mở cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh ngày 28-9.
Được cử làm Giám đốc chính trị và hành chính sự vụ ở Đông Dương; cố
vấn chính trị cho đô đốc D'Argenlieu từ ngày 6-10, Pignon đi theo “bè lũ
Sài Gòn”, ra sức tái lập chế độ cai trị Pháp và tiêu diệt Hồ Chí Minh và
Chính phủ của ông. Bất chấp thiện chí của Sainteny và Leclerc muốn đi
đến một sự thỏa hiệp với ông Hồ và Chính phủ của ông, D’Argenlieu theo
ý kiến của Pignon, đại diện cho phe thực dân, đã đi theo một đường lối
cứng rắn đối với ông Hồ và ngăn cản mọi nỗ lực nhằm đi tới một cuộc hòa
giải. Khi cuộc thương lượng sụp đổ ngày 19-20 tháng 12-1946, ông Hồ lên
rừng chiến đấu, và D'Argenlieu bị gọi về Pháp (tháng 2-1947), Pignon ở lại
Sài Gòn làm cố vấn chính trị cho Emile Bollaert, Cao ủy mới. Trong
nhiệm kỳ của Bollaert (tháng 3-1947 – tháng 10-1948), Pignon đã vận
động Bảo Đại làm việc cho Pháp và kéo dài cuộc chiến tranh với Việt
Minh, phục vụ lợi ích của Cộng hòa Bình dân (MRP) và bọn đầu cơ chiến
tranh. Pignon thay Bollaert làm Cao ủy tháng 10-1948. Dưới thời Pignon,
không những nhiều chức vụ quan trọng đã được trao lại cho những phần tử
xấu xa nhất của thời đại Decoux, mà nạn tham nhũng, cướp đoạt đã phát
triển đến mức chưa từng có trong lịch sử của Đông Dương. Pignon đã bị
cách chức tháng 12-1950 vì có dính vào vụ bê bối Peyres còn gọi là “vụ án
các tướng lĩnh”.
Sabattier, Gabriel, Trung tướng (1892-)
Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Bộ (1945). Sau cú đảo chính của Nhật,
Sabattier trốn được cùng với khoảng 2.000 quân sang Trung Quốc, ở đó
ông trở thành người đại diện quân sự cao cấp nhất của Chính phủ Lâm thời
Cộng hòa Pháp trong 3 tháng.
Sainteny, Jean R., thiếu tá (1907-1978)
Trưởng đoàn tình báo Pháp M.5 ở Côn Minh, Trung Quốc, một đơn vị
thuộc quyền của SLFEO Calcutta, và là một phần tử của cơ quan tình báo
chiến lược DGER, Paris (tháng 4 – tháng 10-l945). Con rể của Albert
Sarraut, hai lần làm Toàn quyền Đông Dương, có công ty với tư bản ngân
hàng ở Đông Dương (1929-1931) và ở Paris (1932-1939). Đặt chân tói Hà
Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng
hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, thay cho Messmer (1945-1947) và
làm Tổng đại diện Cộng hòa Pháp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1954)
Sarraut, Albert (1872-1962)
Nhà lãnh đạo Pháp, đảng viên đảng Xã hội cấp tiến. Nghị viên Hạ viện
từ 1902, hai lần làm Toàn quyền Đông Dương (1911-1914 và 1916-1919),
từ 1920 đến 1940 gần như liên tục là thành viên Nội các Pháp. Thủ tướng
năm 1933 và 1936. Sarraut ủng hộ hành động quân sự chống lại sự chiếm
đóng của Đức ở vùng sông Rhin (1936) nhưng không có khả năng thực
hiện được chủ trương này. Trong Thế chiến thứ hai, bị bắt (1944) và bị đày
sang Đức nhưng được Đồng minh giải thoát năm 1945. Sau chiến tranh,
làm nhà xuất bản cho tờ báo của người Anh “La Dépêche de Toulouse” và
chủ tịch Liên hiệp Pháp (1959-1960). Sự cai trị của Saraut ở Đông Dương
đã được các nhà viết sách người Pháp và người Việt đánh giá là “những
năm sáng sủa và có cách tân lớn”. Ngay Hồ Chí Minh năm 1945 cũng đã
nói với tôi “Sarraut là người Pháp duy nhất thông cảm với số phận của
người An Nam và có ý định làm gì dó về điều này”. Sự thật về truyền
thuyết một nền cai trị tự do và khoan hồng của Sarraut chỉ là những lời
hứa hẹn không được thực hiện và những nhượng bộ nhỏ nhặt. A. Sarraut là
bố vợ của Sainteny.
Taili, tướng (1895-1946)
Cầm đầu cơ quan công an và tình báo bí mật Trung Quốc. Một nhân
vật được truyền tụng, nghe nói quê Chiangshan, tỉnh Triết Giang. Học
quân sự với các cố vấn quân sự Đức ở Trung Quốc đầu những năm 1920.
Taili được Tưởng chú ý trong cuộc biểu tình của học sinh tháng 5-1925 ở
Thương Hải, lúc đó là một sĩ quan sơ cấp trong đội cảnh sát quân sự Quân
đội Trung Quốc và cũng là hội viên trong hội bí mật của Tưởng, tổ chức
Ching Hong Pang; được thăng đại úy và thuộc quyền Trần Lập Phu, bí thư
riêng của Tưởng (1925-1929). Taili có nhiệm vụ phát triển Ban điều tra và
Thống kê Trung ương (CIBIS) thành một tổ chức có hiệu lực và cực mạng,
có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu về quân sự của Tưởng. Năm 1937, Taili
cho lập Ban điều tra và Thống kê Quân sự (MBIS) và đề nghị với Tưởng
cho đặt cơ quan này dưới quyền bảo trợ của Quân ủy hội Quốc dân Đảng,
do đó Giám đốc (Taili) có toàn quyền hành động với danh nghĩa của Quốc
dân Đảng. Đến đầu những năm 1940, MBIS được chấn chỉnh lại và trở
thành một cơ quan độc lập trực tiếp chịu trách nhiệm với Tưởng Giới
Thạch và mang tên là Ban Trung ương điều tra và thống kê (CISB). Taili
có nhiều quyền hành với chức Đại tướng và lãnh đạo cơ quan này cho đến
khi chết năm 1946.
Thế lực rất mạnh của Taili dựa vào sự ủng hộ cá nhân Tưởng và tài tổ
chức và kiểm soát hàng loạt các hội bí mật Tnmg Quốc. Trong số tổ chức
có thế lực nhất phải kể đến “Hội tam điểm” (Triad Society), bắt đầu từ thế
kỷ XIX chỉ là một tổ chức tương tế ở miền Nam và Trung Trung Quốc, sau
lan ra nước ngoài vào các người Hoa ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, và
Đông Nam Á. Đặc điểm của tổ chức này là một thứ hỗn hợp của Hội Tam
điểm chống Thiên Chúa giáo và bọn cướp Mafia ở Sicilue. Luật lệ bất khả
xâm phạm về giữ gìn bí mật và những ký hiệu và nghi lễ bí mật làm cho
hội viên trở thành những mạng lưới tình báo khép kín chủ yếu là để “bảo
vệ cho gia đình”. Đến giữa những năm 1920, các tổ chức này biến thành
những ổ tội phạm, như trường hợp của hội “Vòng xám” ở đám hạ lưu
Thượng Hải. Cuối những năm 1930, Vòng xám do Tu Yu Sung cầm đầu,
tên này có nhà ở và bản doanh trong vùng tô giới Pháp, ngoài vòng truy nã
của cảnh sát Trung Quốc - Taili đã tuyển mộ số này để tổ chức hệ thống
tình báo chống Cộng và thân Quốc dân Đảng.
Một tổ chức khác do Taili sử dụng là nhóm Nam Hoa, còn gọi là “Vòng
đỏ”, do Ming The cầm đầu, hoạt động trong vùng Quảng Đông –
Hongkong - Quế Lâm. Hoạt động chủ yếu của họ là cướp đoạt, Taili sử
dụng họ như là một nguồn cung cấp tài chính và hoạt động du kích chống
Nhật.
Nhóm thú ba mà Tưởng Giới Thạch có danh nghĩa là người đứng đầu,
thường được gọi là “Ko Lao Hội” dưới quyền trực tiếp của Feng Yu-
hsiang, bí danh “tướng Công giáo” - Taili dùng nhóm này để do thám
Trung Cộng và người Nga. Tính chất của Ko Lao Hội là phát xít.
Nhóm thú tư các tổ chức bí mật trong bộ máy của Taili là hội “Lam Y”,
một tổ chức theo kiểu phát xít châu Âu, gồm khoảng 10.000 cốt cán, phần
lớn là các sĩ quan trường Hoàng Phố, theo kiểu tổ chúc “Sơmi nâu” của
Hitler. Số này được Taili sử dụng để tra khảo theo kiểu Gestapo, ám sát
chống Cộng và hoạt động phá hoạt vừa chống Trung Cộng vừa chống Nhật.
Với mạng lưới tay chân rộng rãi đó, Taili đã có quyền lực và khả năng
linh hoạt vô bờ bến để quyết định sống chết đối với kẻ thù của Tưởng.
Thoạt đầu đó chỉ là một tổ chức tình báo có mục đích, chống lại kẻ thù
chung thời cuối Thế chiến thứ hai, nhưng sau đã trở thành một ngành cảnh
sát quốc gia bí mật kiểm soát nhân dân Trung Quốc. Có lúc, vào năm
1944-1945, theo chỉ thị của Tưởng, Taili đã đặt quan hệ bí mật với các tư
lệnh Nhật ở Trung Quốc, Miến Điện và Đông Nam Á và đã bảo vệ cho cá
nhân Koruda, người cầm đầu tổ chức tình báo mật của Nhật ở Trùng
Khánh. Taili chết đột xuất ngày 17-3-1946 trong chuyến bay từ Thanh Đảo
đến Thượng Hải khi máy bay “'bị nổ” trên không gần Nam Kinh.
Nguồn : Nhà xuất bản Đà Nẵng
http://www.vuontaodan.net/