The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Tại Sao Việt Nam?
Archimedes Patty
Lê trọng Nghĩa dịch

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-05-29 00:10:04

Tại Sao Việt Nam? Archimedes Patty

Tại Sao Việt Nam?
Archimedes Patty
Lê trọng Nghĩa dịch

lượng với Pháp về vấn đề đặc quyền ngoại giao ở Trung Quốc và quyền lợi
đặc biệt ở Đông Dương.

Một cái vốn có ích khác là những người Việt Nam thân Nhật. Họ đã
được khuyến khích chống lại thực dân Pháp và ủng hộ Khối thịnh vượng
chung Đại Đông Á của Nhật. Nhưng trong năm 1940 và sau đó là 1945, khi
họ mất hết khả năng và miếng mồi đã mất, họ đã bị Nhật bỏ rơi để cho
Pháp khủng bố và Việt Minh trừng trị.

Qua công tác điều tra của cơ quan phản gián, bấy giờ tôi mới rõ tại sao
chỉ có ngôi nhà Ngân hàng Đông Dương mới được gác cẩn thận như thế ở
Hà Nội; tại sao nó lại là một phương tiện duy nhất mà Nhật còn kiểm soát
một cách chặt chẽ cho tới giữa tháng 10 và tại sao người Nhật đã vội vàng
rút những khoản tiền lớn trước khi người Trung Quốc tới, để cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa của ông Hồ một tài khoản phá sản. Vai trò ghê tởm của
số người nhúng tay vào các hoạt động phá hoại này trong Thế chiến thứ hai
đã rất ít trong số họ đã bị trừng trị.

---
(1) các đội ám sát
(2) Một tiểu đoàn của trung đoàn kỵ binh 16, sư đoàn 20 Ấn Độ
(Gurkhas)
(3) Một đại đội của trung đoàn thuộc địa số 5 (5 RIC). Đây là một đơn
vị được phục hồi lại từ các lực lượng cũ của Pháp được tập hợp lại và huấn
luyện ở Bắc Phi trong đội quân ứng chiến để chiếm lại Đông Dương của
tướng Blaizot.
(4) các tù bình Hà Lan, Úc và Anh đang chờ được hồi hương. Tù binh
Mỹ đã được toán Dewey chuyển đi từ trước.
(5) Phạm Văn Đồng nói với tôi ngày 3-9-1945 là Chính phủ mới chỉ
thấy trong ngân khố lúc đó không quá 1,5 triệu đồng
(6) Masumi Yaghiou là con của Giám đốc ngân hàng Đài Loan, được
chính phủ Nhật giao cho nhiệm vụ kiểm soát tất cả các hoạt động tài chính
của tổ hợp công thương nghiệp có liên qan đến các hoạt động bí mật ở
Đông Dương. Ông là nhà chức trách duy nhất giữ liên lạc giữa các tổ chức
dân sự và quân sự, và là một công chức cao cấp của Nhật ở mọi nơi.
(7) Còn gọi là Matusita
(8) Năm 1944, chính phủ Trung Quốc đã ra sắc lệnh xử tử tất cả người
nào có “những số lớn tiền bạc hoặc vải vóc không sản xuất tại Trung
Quốc”. Nhưng qua sự chất vấn các quan chức Dainan Koosi sau chiến

tranh đã cho thấy một sự buôn bán rất lớn tiền tệ và vải vóc đã được xúc
tiến bởi “một số quân phiệt” ở Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông.

(9) J.M. Yokohama đã tổ chức được một trung tâm chiến tranh chính
trị có quy mộ toàn quốc ở Hà Nội. Trung tâm này phụ trách một hệ thống
các trường học Nhật cho các gia đình người Nhật ở Đông Dương và tổ
chức các buổi thuyết trình lý luận chính trị và văn hóa Nhật cho các thanh
niên Việt Nam. Nhưng đó cũng là một trung tâm tuyển mộ những người
Quốc gia chống Pháp và chống Việt Minh. Trung tâm hoạt động phối hợp
với CICEI.

(10) Yokohama là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, từng là Bộ
trưởng ở Tây Ban Nha cho đến khi được chuyển về Đông Dương 1939.
Nhiệm vụ của ông là tổ chức, điều khiển hoạt động tình báo và chính trị,
đồng thời là cố vấn cho triều đình Huế. Mẹ và vợ đều là người Pháp Công
giáo đã giúp nhiều cho ông quan hệ với các giới Pháp ở Sài Gòn, Huế, Hà
Nội. Ông cộng tác với người bạn đồng nghiệp trong giới kỹ nghệ là
Matsushita. Ngày 10-3-1945, chính Yokohama đã vào điện Kiến Trung để
khuuyên Bảo Đại hợp tác với Nhật trong Khối thịnh vượng chung Đại
Đông Á và đã thuyết phục được Bảo Đại chấp nhận kế hoạch phân biệt
chủng tộc bằng cách tuyên bố để “giữ thể diện” là Việt Nam “không lệ
thuộc vào nước ngoài” và sẵn sàng hợp tác với Nhật để củng cố nển “độc
lập” của Việt Nam.

(11) Komaki Omiya, Doichi Yamane, Komatsu và Matsushita
(12) Lãnh tụ phe Quốc gia Ấn Độ
(13) Đến Đông Dương năm 1939 nhờ sự bảo trợ của Doichi Yamane,
cựu đại diện Nhật ở Hội Quốc Liên và là một nhân viên cơ quan tình báo
Nhật. Komaki Omiya được cử vào ban quản trị CIDIM, một chi nhánh của
CICEI. Omiya đã có một thời gian ngắn (1942-1943) cộng tác với Việt
Minh (?) để nhằm lôi kéo người Việt chống lại người da trắng nhưng đạt ít
kết quả vì Việt Minh có tinh thần chống Nhật.
(14) Một cựu thông tín viên của tờ báo quân đội Nhậ Yomiwu, phụ
trách công tác văn hóa quân chúng trong trung tâm văn hóa

Nam vĩ tuyến 16

“MỘT THIẾU TƯỚNG HIỆN ĐẠI ĐIỂN HÌNH”
Thiếu tướng Douglas D. Gracey đến Sài Gòn một ngày sau tiểu đoàn
Gourkhas của ông. Gracey thuộc loại sĩ quan thuộc địa cổ điển Anh. Sư
đoàn Ấn Độ 20 của ông đã tham gia cuộc chiến đấu lâu dài và ác liệt ở
Miến Điện nên việc được chỉ định đến Đông Dương sẽ làm cho họ có được
nơi nghỉ ngơi thích dáng và dễ chịu.
Vị tướng Anh đến Đông Dương hoàn toàn không có sự hiểu biết gì về
những người “bản xứ” nhưng ông lại biết rằng Đông Dương, trước đây là
một thuộc địa của Pháp. Ông cho biết khi rời Rangoon đi Sài Gòn, tổng số
thông tin của ông chỉ vẻn vẹn nằm gọn trong một trang tóm tắt về tình
hình chính trị do người Pháp cung cấp. Ông không nhận được gì từ phía
người Mỹ. Cơ quan tình báo Anh và Mỹ, theo ông, đã không có sự trao đổi
tin tức về Đông Dương, thể theo ý muốn của De Gaulle.
.. Trước khi rời Rangoon, Gracey đảm nhiệm hai nhiệm vụ: Chỉ huy
Ban Thanh tra Bộ Tư lệnh tối cao SEAC; và chỉ huy trưởng lực lượng
Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương phía nam vĩ tuyến 16.
Với tư cách là chỉ huy Ban Thanh tra, ông chịu trách nhiệm trực tiếp
với Mounbatten về việc kiểm tra Tổng hành dinh tập đoàn quân Nam của
Thống chế Terauchi ở Sài Gòn, tiến hành thương lượng về Nhật đầu hàng,
giữ liên lạc với người Pháp, giúp đỡ việc thả và chuyên chở các tù binh
Đồng minh.
Trong vai trò chỉ huy lực lượng Đồng minh, ông chịu trách nhiệm
trước tướng Slim (1), về các hoạt động bí mật, chiếm giữ các bộ chỉ huy
thuộc Hành dinh Tập đoàn quân Nam và vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, giúp đỡ
công tác tù binh và tù thường dân, giải giáp và tập trung quân Nhật, duy trì
pháp luật và trật tự. Ngoài ra, Gracey còn phải đảm nhiệm việc chỉ huy các
quân nhân Pháp cho đến khi tướng Slim thay thế.
Nhưng khi Gracey lên đường đi Sài Gòn, ngày 13-9, tướng Slim đã bổ
sung thêm nhiệm vụ cho ông. Gracey “không có trách nhiệm giữ trật tự
ngoài các khu vực chủ yếu, nếu nhà chức trách Pháp không yêu cầu và phải
được sự đồng ý của Tổng tư lệnh tối cao Đồng minh (Mounbatten); hơn
nữa cho đến khi có sự thỏa thuận giữa Anh và Pháp về vấn đề chính quyền

dân sự ở Đông Dương thì các khu vực chủ yếu sẽ được xác định căn cứ vào
nhu cầu giải giáp và hồi hương quân Nhật”.

Mệnh lệnh bổ sung rõ ràng không giao trách nhiệm giữ trật tự cho
Gracey ở những khu vực không có liên quan đến việc giải giáp và tập
trung quân Nhật để hồi hương. Nhưng chưa đầy 10 ngày sau, mệnh lệnh đã
bị vi phạm và đã đưa đến nhiều hậu quả chính trị nghiêm trọng.

Đại tá Cass và các sĩ quan cao cấp khác dã đến đón Gracey ở phi cảng
Sài Gòn. Sĩ quan và binh lính Nhật cũng kín đáo chờ đợi, tuy ở xa nơi đó
một chút. Trên đường về thành phố, Cass báo cáo cho Gracey biết về tình
hình Nam Kỳ. Nhưng hình như Gracey không nắm được thực chất vấn đề
nêu lên. Viên tướng – quân nhân này hình như quên khuấy mất các biến
động chính trị tại thành phố rối loạn này.

... Ông tướng thực dân nhận định đó là một tình trạng vô chính phủ, đòi
hỏi phải có một hành động nhanh chóng và kiên quyết. Vài giờ sau, Gracey
ra lệnh cho Nhật tước vũ khí người Việt Nam, đuổi Lâm ủy ra khỏi dinh
Toàn quyền ở Sài Gòn, đồng thời cũng tuyên bố hành động đó “không gây
ra phức tạp gì về chính trị”. Người Pháp không để mất thời gian, liền treo
cờ Pháp lên các công sở (2) và cắm cả cờ tam tài lên các xe quân sự (do
Mỹ sản xuất).

Từ khi quân Anh và Pháp đổ bộ ngày 12-9, tin tức thực và tưởng tượng
về tình hình Nam Kỳ đã rộn lên. Các tin lẫn lộn và phóng đại về những sự
bạo ngược của Pháp; tin Anh dùng quân đội Nhật để đàn áp những người
chống đối Việt Nam; sắp tới quân đội của Leclerc sẽ chiếm lại toàn bộ Việt
Nam, và nhiều tin đồn khác đã lan ra Hà Nội, kích động mọi người và gây
căng thẳng trong những nhóm chống đối...

Trong đêm 13, tin truyền đi cấp tốc ở Huế và Hà Nội là Anh và Pháp đã
nắm chính quyền và đánh đổ Chính phủ Việt Nam. Tin nói rằng Bộ chỉ huy
của Gracey đã công bố người Anh sẽ đảm nhận việc duy trì trật tự và pháp
luật “cho đến khi quân đội Pháp tới”, bao hàm ý nghĩ người Pháp sắp quay
trở lại đã gây xúc động mạnh. Toán OSS ở Sài Gòn đã khẳng định tin trên
và nói thêm là Lâm ủy lúc đó đã công khai kêu gọi dân chúng “hãy bình
tĩnh và tránh mọi sự xung đột” nhưng đồng thời cũng ngầm bắt đầu “cho
phụ nữ và trẻ em sơ tán khỏi các thành phố” về nông thôn.

Theo tôi, lệnh sơ tán của Việt Minh là một dấu hiệu tích cực tỏ ra thực
sự muốn hành động. Tôi báo cho đại tá Heppner và tướng Donovan biết ý
kiến của tôi là, nếu như Anh ở miền Nam và Trung Quốc ở miền Bắc dính
líu sâu vào việc Pháp quay trở lại thì tốt hơn hết Mỹ nên tách mình khỏi

những mưu mô này, nếu không Mỹ sẽ bị lôi cuốn đi theo các thế lực thực
dân ở Viễn Đông. Trong một công văn riêng, Dewey ủng hộ quan điểm của
tôi và cho biết thêm anh ta đã bị Gracey khuyên nhủ phải chấm dứt sự
“đồng lõa với bọn phiến loạn”.

CON ĐƯỜNG ĐẪN ĐẾN THIẾT QUÂN LUẬT
Ở Sài Gòn, Dewey dã gặp Cédile và cho ông là “một con người trung
thực, biết lẽ phải, và theo phái De Gaulle” triệt để trung thành với bản
Tuyên bố 24-3 (của Pháp). Dewey và Cédile có nhiều chỗ tương đồng như
xu hướng tự do trong quan điểm chính trị, ca tụng De Gaulle, có cảm tình
với hoài bão độc lập dân tộc của người Việt. Sự khác biệt giũa họ có nguồn
gốc dân tộc. Cédile là quan chức Pháp theo chính sách “độc lập dần từng
bước”, còn Dewey là sĩ quan Mỹ gắn bó với chủ nghĩa chống thực dân của
Roosevelt. Nhưng họ cũng đã có thể giao thiệp với nhau...
Ngoài người Pháp ra, Dewey cũng còn có quan hệ chặt chẽ với các ủy
viên trong Lâm ủy, đặc biệt với Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thạch.
Trong gần 2 tuần lễ, Dewey đã gặp người Pháp và người Việt mà vẫn
không thu xếp được một cuộc điều đình giữa Cédile và Lâm ủy. Mọi cố
gắng theo hướng này đã bị chặn đứng bởi một nhóm thực dân cực hữu
Pháp do Mario Bocquet (3) cầm đầu. Bế tắc ở đây chỉ là do tính chất bè
phái và những quyền lợi bất di bất dịch.
Dewey cũng đã thấy có những phần tử biết điều trong những người
Pháp muốn chấp nhận thương lượng ở một mức độ tự trị cho người Việt
trong phạm vi bản Tuyên bố 24-3. Cédile ở trong số những người đồng ý
thương lượng chỉ nhằm để tránh một cuộc xung đột vũ trang. Nhưng bất
hạnh là ông lại bị cầm tù bởi một khối có thế lực về tài chính ở Nam Kỳ
lúc đó, gồm bọn chủ nhà băng, chủ đồn điền, chủ mỏ, các quan chức, các
nhà chính trị... Họ phần lớn là thực dân người Pháp nhưng cũng có một số
ít người Hoa và Việt giàu có. Số này kiên quyết không chịu thảo luận với
những người Việt và đặc biệt với Lâm ủy với lý do họ là người của Việt
Minh - toàn là Cộng sản – và không đại diện cho “người An nam mít hiền
lành và trung thành”.
Ở phía bên kia, người Việt cũng bị chia rẽ. Việt Minh thì sẵn sàng nói
chuyện, cũng có thể thỏa thuận với những yêu cầu hạn chế của Pháp, cốt để
Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để lấy đó làm một điểm xuất
phát. Nhưng họ cũng bị công kích bởi các nhóm đối lập đang ganh đua
nắm quyền lãnh đạo đất nước và mong đợi cho Việt Minh sụp đổ. Phái đối

lập muốn hủy bỏ cuộc thương lượng với Cédile và cho phát động cuộc
kháng chiến chống Pháp quay trở lại.

…Cédile bị cánh hữu bảo thủ Pháp cũng như những người cánh tả lên
án. Nhưng ông cũng chỉ là một công chức, Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam
Kỳ… Ông không thể vượt quá chỉ thị của Chính phủ.

Bác sĩ Thạch đã kêu gọi sự hiểu biết của Cédile và Gracey. Người Pháp
đã tỏ ra có thiện cảm nhưng người Anh đã cự tuyệt thẳng thừng. Dewey
không có ảnh hưởng gì đối với giới của Gracey, còn Washington thì cũng
chẳng ngó ngàng gì đến các báo cáo của ông. Vì vậy việc Gracey từ chối
không làm việc với người Việt Nam làm cho người Pháp cảm thấy được
khích lệ và họ cho rằng người Anh đã cho phép họ nắm lấy chính quyền.

Cho tới ngày 16-9, ai cũng thấy rõ là cuộc nói chuyện Cédile - Bạch đã
không đi tới đâu. Theo quan điểm của người Việt Nam, cuộc nói chuyện
chỉ phục vụ cho mục tiêu của người Pháp, cho họ thời gian để củng cố vị
trí và chờ quân đội Leclerc tới. Phạm Văn Bạch, nhân nhượng trước áp lực
đảng phái, đã tuyên bố công khai lên án Anh từ chối không chịu công nhận
chính phủ duy nhất hợp pháp ở Nam Kỳ - Lâm ủy Nam Bộ - và đã gạt bỏ
đề nghị thương lượng hợp tác của Lâm ủy trong việc quản lý đất nước.
Không nhận được lời đáp lại, Lâm ủy liền ra lệnh tổ chức một cuộc tổng
bãi công vào ngày hôm sau để phản đối cái mà họ cho là âm mưu Pháp -
Anh nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam.

Sáng hôm sau, 17-9, tuy là Chủ nhật, khu chợ đông nghịt người, tầu
điện đứng chết tại nhiều chỗ trên đường, vắng hẳn xe kéo, những người
“bồi” cũng không thấy đâu, cửa hàng đều đóng khóa... Không đưa thư tín
và cũng không có điện. Điện tín điện thoại lúc có lúc không... Đó cũng chỉ
mới là những điều bất tiện. Nhưng cũng từ đó mà đã nổ ra các việc rắc rối:
các vụ bắt bớ ngược đãi người Pháp và một số vụ bắt cóc người Việt thân
Pháp. Đêm đó thực là một đêm cực khó khăn..

Đến Thứ hai, tình hình cũng không được cải thiện hơn. Cuộc sống ở
thành phố ngừng lại. Lẻ tẻ vẫn nổ ra những cuộc xô xát giữa người Pháp và
người Việt, nhưng phần lớn mang tính chất những vụ đụng độ nhỏ với
những lời hò hét, cãi chửi nhau và đe dọa. Điều khó chịu cho những bà nội
trợ Pháp là thiếu thịt tươi, sữa, hoa quả, nước và điện hiếm… trong khi
những người “bồi” của họ thì biến mất.

Sáng hôm đó, tôi nhận được một bức điện của Phạm Văn Bạch như
sau:

“Gửi Phái đoàn Đồng minh, Hà Nội.

Phái đoàn Anh đã dùng quân đội chiếm đóng các công sở của Chính
phủ Việt Nam ở Nam Kỳ. Mong rằng được chứng minh quyền được Độc lập
của Nhân dân An Nam. Việt Nam đã hoàn toàn độc lập. Người Việt Nam có
quyền được tự định đoạt số phận của mình”.

Báo cáo đêm hôm đó của toán Dewey làm cho người ta bối rối thêm;
họ đã nhận được tin, nếu chính xác, thì có nghĩa là đã xảy ra rối loạn
nghiêm trọng. Các đội tuần tiễu Nhật đã bắt nhiều toán khiêu khích được
xác nhận thuộc bọn cướp Bình Xuyên. Chúng đã đánh bị thương một số
quân nhân Pháp trong một quán cà phê và đốt hai nhà người Pháp, không
cứu được vì không có lính cứu hỏa và nước. Đến đêm các cuộc tấn công
vào người Pháp và Việt tăng thêm và người Pháp bắt đầu sợ. Người Việt
Nam lo thu vén tài sản, nhiều đàn bà và trẻ em chuẩn bị sơ tán khỏi thành
phố.

Cédile, với tư cách là một người phát ngôn cao cấp nhất của Pháp ở
Nam Kỳ lúc đó, đã bị đặt trước một tình hình khó xử. Mệnh lệnh duy nhất
đầu tiên ông nhận được ở Calcutta vào tháng 8, là “lập lại trật tự và khôi
phục chủ quyền của Pháp”. Cuộc đổ máu giữa người Pháp vũ trang và
người Việt là không thể tránh khỏi nên Cédile quyết định hành động. Ông
gặp Gracey và đưa ra việc cấp thiết phải bảo vệ tính mệnh, tài sản người
Pháp và đề nghị phát vũ khí cho các tù binh Pháp. Theo một người của
Dewey được chứng kiến thì trong cuộc gặp không đả động gì đến sinh
mệnh và tài sản người Việt Nam.

Gracey cho đề nghị của Cédile là thiết thực và có lý. Ông rất muốn cấp
vũ khí cho người Pháp, nhưng đã phải chững lại. Lần đầu tiên trong binh
nghiệp của mình, Gracey đã bắt đầu phải suy nghĩ về chính trị. Ông đã
nhận thức được rằng người Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề độc lập và
đó cũng là một việc không thể bàn cãi được. Đông Dương ở trong một bối
cảnh hoàn toàn khác với Ấn Độ. Trong khi Công Đảng Anh ở London còn
đang tranh cãi về quy chế tương lai của Ấn Độ trong Đế quốc Anh thì
Đông Dương đã tuyên bố hoàn thành sự nghiệp độc lập của mình mà
không cần phải có sự thỏa thuận của Pháp. Nhưng điều đã làm viên tướng
thực dân phải cảnh giác hơn cả là việc Ban An ninh quân đội đã báo cáo
trong binh lính Ấn Độ của ông đang âm ỉ lan truyền những lời cằn nhằn
oán trách. Nhiều hạ sĩ quan thuộc Sư đoàn Ấn Độ, được các đảng viên
Đảng Quốc đại khuyến khích, có ý kiến là quân đội thuộc địa Anh không
được tham gia vào việc đàn áp phong trào dân tộc của người Việt Nam.

Trong khi xác định lập trường của mình, viên tư lệnh đã phải tính đến
nhiều yếu tố có lợi cho Pháp. Quân đội Anh lúc đó còn quá yếu, mà lại
không thể dựa vào sự giúp đỡ của Nhật. Mà Nhật thì đã biểu thị không
muốn cộng tác trong việc tước vũ khí người Việt Nam và trấn áp nhiệt tình
của họ đối với nền độc lập. Gracey không tin rằng quân đội của ông lại có
thể một mình đương đầu với một cuộc nổi dậy của “người bản xứ”. Trong
bất kỳ trường hợp nào, Gracey cũng sợ sẽ xảy ra một cuộc tàn sát đẫm
máu mà ông cảm thấy hãnh diện nếu có khả năng tránh được bằng bất cứ
giá nào.

Trong tình hình lúc đó, Gracey kết luận việc thích đáng nhất có thể làm
là giúp cho Pháp tự bảo vệ lấy mình vì theo ông, không những họ cần mà
còn “có quyền” làm như vậy. Trước sau rồi người Pháp cũng sẽ được giúp
đỡ thì sao bây giờ lại không giúp họ? Nhưng Gracey cũng đã nhận được
những mệnh lệnh chính thức trong đó không nói gì đến việc cấp vũ khí cho
người Pháp. Chẳng khác gì Cédile, ông cũng vấp phải một trường hợp khó
xử.

Sáng ngày 18-9, có quyết định tạm thời rút bớt quyền hạn của Gracey.
Mounbatten đã được báo cáo là Gracey đã không triệt để tuân theo chỉ thị
của ông nên ông đã yêu cầu tướng Slim, trên đường về SEAC, dừng lại ở
Sài Gòn, để nhắc cho Gracey biết ông ta chỉ có một nhiệm vụ - giải giáp
quân đội Nhật. Ông không được để bị lôi cuốn vào việc duy trì trật tự công
cộng. Điều đó thuộc trách nhiệm của người Nhật. Sau đó, Gracey lại còn
được nhắc nhở phải tránh xa các mưu toan chính trị của Pháp và Việt.

Lời cảnh cáo đã khiến cho Gracey phải có một đường lối hành động
khác trước, chẳng ăn nhập gì với các mệnh lệnh cũ trước đây của ông. Ông
cho gọi viên chỉ huy Nhật tới và dứt khoát ra lệnh cho Nhật phải có những
biện pháp cấp bách và có hiệu lực để khôi phục lại trật tự công cộng, thậm
chí có thể cho bắn vào người Việt Nam. Ông còn nhấn nạnh thêm là Nhật
phải thực hiện mệnh lệnh ngày 6-9, tước vũ khí của tất cả bộ đội, tự vệ,
cảnh sát, và dân thường người Việt. Gracey nhắc cho viên chỉ huy Nhật
biết việc đầu hàng chưa được ký kết và từ nay đến đó, các nước Đồng
minh trao cho Nhật nhiệm vụ giũ gìn trật tự giữa người Pháp và người
Việt. Tất nhiên đó cũng là một lời đe dọa rằng nếu để xảy ra đổ máu thì sẽ
bị coi như là một tội phạm chiến tranh và điều đó cũng không loại trừ đối
với viên chỉ huy Nhật.

Ngoài mặt thì Sài Gòn và các vùng lân cận còn được coi như là bình
thường. Các cuộc xô xát Pháp - Việt và giữa các phái Việt Nam có tăng

thêm về số lượng nhưng về mức độ dữ dội thì vẫn còn có thể chịu đựng
được. Không thấy có báo cáo về người chết hoặc phá hoại nghiêm trọng về
tài sản hay các vụ rối loạn quy mô lớn. Công khai mang vũ khí thì chỉ có
quân nhân và cảnh sát địa phương. Nhưng thực ra cả vùng là một trại vũ
trang đang chuẩn bị đối phó với một cuộc phong tỏa lâu dài. Cả người
Pháp lẫn người Việt đều tìm kiếm, tích trữ lương thực và vũ khí. Cédile,
Gracey và Phạm Văn Bạch, mỗi người với những lý do riêng của mình,
đều rất lo phiền; tất cả đều biết rằng cơn thịnh nộ đang lên cao và có quá
nhiều người có súng ống.

Trong một hành động vào giờ chót, Cédile yêu cầu Dewey đến gặp các
lãnh tụ Việt Minh để thuyết phục họ bỏ cuộc và giúp khôi phục lại trật tự.
Trong đêm 18-9 Dewey đã bí mật họp với Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch,
Dương Bạch Mai (Cảnh sát trưởng), Bác sĩ Thạch (Ủy viên Ngoại giao), và
Nguyễn Văn Tạo (lãnh tụ Công đoàn). Tất cả đều cho rằng đã quá muộn để
thương lượng và hợp tác. Dân chúng đã bị xúc phạm vì thái độ kiêu căng
của Pháp, bị kích động mạnh và đã ở tư thế sẵn sàng làm mọi việc để giữ
vững được nền độc lập của mình. Sau cuộc gặp gỡ, Dewey đã nói lại cho
Cédile và nhắc lại lời của Giàu: “Hiện nay, việc cực kỳ khó khăn là kiểm
soát được các bè phái chính trị khác nhau, vì không phải tất cả thân Việt
Minh mà tất cả đều chống Pháp”.

Người Việt Nam đã trả lời Cedile một cách mạnh mẽ rõ ràng. Không
thương lượng, không còn hy vọng sáp lại gần nhau và cũng không cần hợp
tác nữa. Nhưng Cédile vẫn lạc quan. Sáng ngày 19-9, Cédile cho họp các
nhà báo địa phương và nước ngoài (4). Trong một bản tuyên bố đã chuẩn
bị sẵn, ông công bố là Việt Minh không đại diện cho nguyện vọng của
những người Đông Dương và không có đủ khả năng duy trì trật tự công
cộng. Ông còn nói các cuộc thương lượng với người Việt Nam đã được
ngừng lại cho đến khi trật tự được lập lại và sẽ chỉ được tiếp tục dựa trên
cơ sở của bản Tuyên bố 24-3.

Mọi quan hệ dứt khoát chấm dứt. Báo chí nước ngoài ở Sài Gòn, trước
đây vẫn lớn tiếng chỉ trích chính sách Anh tại Nam Việt Nam và thái dộ
của Gracey đối với người Việt Nam đã đưa tin sắp nổ ra nổi loạn. Ngày 20-
9, SEAC đã phản kháng lại bằng cách ra lệnh cho Gracey phải “kiểm soát”
đài phát thanh địa phương và tìm cách “bịt” các tin tức và bình luận chống
Anh. Đó là một mệnh lệnh giản đơn, hoàn toàn rõ ràng. Nhưng Gracey đã
hiểu nó theo một cách khác.

Bình thường như thế thì chỉ cần đặt một sĩ quan liên lạc ở bộ máy đầu
não đài phát thanh Sài Gòn của Pháp để kiểm duyệt các tin tức chống Anh.
Nhưng Gracey đã cho thi hành một biện pháp đặc biệt lạ lùng. Không hỏi ý
kiến của SEAC và chỉ dựa trên quyền hạn người cầm đầu Phái đoàn kiểm
soát của Đồng minh, ngay hôm nhận được lệnh của SEAC, Gracey đã cho
phát ra bản Tuyên cáo số 1, tự cho minh có toàn quyền “duy trì pháp luật
và trật tự ở Đông Dương nam vĩ tuyến 16”. Mọi người đều tỏ ra nghi ngờ
sự sáng suốt của Gracey.

Nhưng Gracey, sau khi khẳng định địa vị hợp pháp của mình, đã xông
vào các báo chí Việt Nam, cấm rất cả các loại báo nhưng lại bỏ qua không
đụng gì đến đài Sài Gòn và các báo Pháp. Ông cho thiết lập một biện pháp
kiểm duyệt hạn chế đối với tin tức của các phóng viên ngoại quốc nhưng
thực ra họ vẫn có thể chuyển được tin qua đường Trùng Khánh, Côn
Minh... Một hành dộng khác của Gracey là cho sáp nhập cảnh sát Việt Nam
vào quân đội Anh, coi như một đơn vị phụ thuộc dưới quyền chỉ huy cua
ông.

Tuyên bố của Cédile, hành động độc đoán của Gracey, cũng như sự đứt
đoạn trong quan hệ giữa dân chúng và các nhà chức trách, tất cả những cái
đó mở đầu cho giai đoạn tiếp theo. Chỉ trong 24 giờ sau, các cuộc phá
hoại, cướp bóc, đánh đập, bắt cóc... nổ ra ở một mức độ đáng sợ. Nhưng
tội ác này không phải chỉ xảy ra từ một phía, mà ở cả hai bên, Pháp và
Việt. Gracey không thể không biết đến tình hình và ông quyết định phải
hành động.

Ngày hôm sau, 21-9, Gracey tuyên bố thiết quân luật. Cụ thể là ra lệnh
giới nghiêm, cấm hội họp công khai và biểu tình, hạn chế đi lại của thường
dân trong một số khu vục, cấm mang vũ khí và cả gậy gộc, thiết lập tòa án
binh để xử các vụ vi phạm trật tự công cộng và xử tử hình đối với các tội
cướp bóc và phá hoại. Dewey đã rất thẳng thắn vạch ra rằng tất cả các biện
pháp này đều nhằm vào người Việt, nhưng Gracey lại trơ tráo công khai
tuyên bố “quyết tâm” của ông được thấy việc chiếm đóng sẽ được thực
hiện trong điều kiện hòa bình và “triệt để vô tư”.

ĐÒN TÁO BẠO CỦA CÉDILE
Trong đêm 21 rạng 22-9, nhân viên SLFEO đã báo cho Cédile biết
người Việt Nam đang củng cố lực lượng vũ trang của họ dưới sự chỉ đạo
của Việt Minh. Cédile biết là 18.000 quân Anh - Ấn cũng không thể chống
lại với một cuộc tấn công ồ ạt của du kích Việt Minh, nên một lần nữa ông

lại gặp Gracey và lại đề nghị cấp vũ khí cho 14.000 tù binh Pháp bị giữ từ
cú 9-3 tại trại Trung đoàn 11 RIC ở ngoại ô Sài Gòn. Theo Cédile, số
người này sẽ được đặt dưới quyền các sĩ quan Pháp và nếu cần, sẽ được sử
dụng để hỗ trợ cho quân Anh. Gracey, biết rõ thế yếu về quân sự của mình,
nên đã đánh giá cao đề nghị của Cédile.

Sáng sớm ngày 22, Anh lặng lẽ thay thế quân Nhật tiếp quản Khám lớn
và thả một số lính dù Pháp đã bị bắt giữ trong các cuộc rối loạn tuần lễ
trước. Số này đi thẳng tới trại 11 RIC và tổ vhức 14.000 tù binh Pháp, phần
lớn là lính lê dương, thành đơn vị chiến đấu, rồi đưa về các địa điểm đã
được quy định để chờ lệnh. Nhưng để chứng tỏ giá trị và lòng trung thành
với “nước Pháp mới”, số lính này tản ra khắp trung tâm thành phố và chộp
lấy bất kỳ người Việt Nam vô tội nào mà chúng bắt gặp.

Có lực lượng vũ trang trong tay, Cédile cảm thấy có thể tiếp cứu cho
thành phố, lập lại trật tự, và nối lại các cuộc thương lượng với người Việt
Nam với hy vọng không phải dùng đến bạo lực. Kế hoạch của ông ta là lợi
dụng đêm tối 22 rạng 23, đánh chiếm cơ sở hành chính thành phố. Vì vậy
ngay từ chiều ngày 22, một ngày Thứ bảy, ông bắt đầu cho thay thế người
Nhật chiếm giữ nhiều đồn cảnh sát ở Sài Gòn. Người Pháp vẫn lặng lẽ và
ngoài Nhật ra thì không ai chú ý đến hành động này.

Cũng trong chiều hôm đó, bác sĩ Thạch gặp gỡ với các nhân viên Phái
đoàn OSS. Họ kinh ngạc khi được báo cho biết là, bằng một hành động
cuối cùng và tuyệt vọng, Việt Minh sẽ phát động một cuộc biểu dương lực
lượng quần chúng với nhiều ngàn người Việt vào ngày hôm sau. Họ sẽ diễu
hành qua thành phố, không mang vũ khí, mà chỉ có các biểu ngữ, khẩu
hiệu, huy hiệu của đảng. Người Mỹ nhắc Bác sĩ Thạch rằng những cuộc
biểu tình như thế là hoàn toàn bị cấm theo lệnh thiết quân luật của Gracey
và có nguy cơ lớn gây ra đổ máu. Bác sĩ Thạch đáp lại rằng ý đồ của Việt
Minh là khích cho Anh, Pháp tiến hành đàn áp “gây ra nhiều thương vong,
làm cho thế giới phải quan tâm đến những người hòa bình yêu tự do này”.

Nhưng chỉ vài giờ sau, thế giới đã biết tới cảnh ngộ của nhân dân Sài
Gòn, qua tin tức về những sự say sưa tàn bạo của người Pháp...

Trước lúc rạng đông, quân đội của Cédile, theo kế hoạch đã định, lặng
lẽ chiếm các đồn cảnh sát còn lại, Kho bạc, sở Mật thám, và nhà Bưu điện.
Sau đó vào buổi sáng, đến lượt Tòa thị chính, nơi Lâm ủy Nam Bộ đóng từ
khi bị Gracey đuổi khỏi dinh Toàn quyền. (Hôm đó là ngày Chủ nhật, 23-9,
đúng 3 tuần sau khi xảy ra những vụ lộn xộn đầu tiên trước nhà thờ lớn Sài
Gòn, rõ ràng là một ngày tiếp theo để trả nợ cho những người “An nam

mít” về cuộc tiến công hèn nhát của họ ngày “Chủ nhật đen tối”). Người
lính Việt Minh đứng gác trước Tòa thị chính đã bị người Pháp bắn chết
một cách tàn nhẫn. Số ít người đóng trong cơ quan bị bất ngờ, đã chống cự
một cách không có hiệu quả, và cũng đã bị giết chết hoặc bị bắt. Tất cả các
ủy viên trong Lâm ủy, trừ một người (Hoàng Đôn Văn, phụ trách Lao
công) đã thoát được. Nhưng Cédile đã chiếm lại được thành phố.

Khi hết lệnh giới nghiêm vào 5 giờ 30, dân chúng mới ra khỏi nhà và
đã thấy cờ tam tài bay trên nóc các công sở và lính Pháp đứng gác ở mọi
nơi. Cả người Pháp và người Việt lúc đầu đều tưởng rằng quân đội Leclerc
đã tới, nhưng họ đã nhận được mặt ngay nhiều sĩ quan và binh lính là tù
binh cũ ở trại 11 RIC. Người Việt phản ứng lại một cách giận dữ, chán
ngán và lo sợ.

Người Pháp vô cùng hoan hỉ sau 3 tuần sống trong sự sợ hãi. Nay giờ
chiến thắng đã đến và cũng là dịp để họ trả thù. Họ liền phản ứng lại như
một đám du thủ du thực, phá phách một cách dã man hùng hổ. Từng toán
3, 4, 6, cả đàn ông, đàn bà Pháp xông ra đường phố Sài Gòn để tìm bắt,
đánh đập bất kỳ người Việt nào, đàn ông, đàn bà, trẻ, già và có chỗ đối với
cả trẻ em... Số nạn nhân ít ra cũng tới hàng trăm và có thể tới hàng ngàn...

Mọi sự diễn ra ngay trước một các quân nhân Pháp và Anh, nhưng họ
thờ ơ và còn tỏ ra có vẻ thích thú. Những cảnh tượng đó cũng được các nhà
báo ngoại quốc chứng kiến. Toán OSS chúng tôi cũng thấy dược tận mắt
những sự tàn bạo quá đáng, cảm thấy bị xúc phạm. Dewey, với tư cách là
người Mỹ cao cấp nhất ở Sài Gòn, đã xin gặp tướng Gracey để phản đối
thái độ của người Pháp và sự đồng lõa của người Anh, nhưng tướng
Gracey đã từ chối không tiếp. Bực với phái dộ của Gracey, Dewey đã
không tiếc lời nói thầm với các sĩ quan cao cấp của ông. Dewey lại gặp
Cédile và thiếu tá Buis (5), sĩ quan thân cận của Leclerc, nhưng cũng
không đạt được gì khá hơn. Cédile nói với Dewey một cách mơ hồ rằng đó
không phải là công việc của ông ta và rõ ràng người Mỹ đáng phải chê
trách về tình trạng này. Ngày hôm sau, tướng Gracey tuyên bố Dewey
không còn là người được chấp thuận nữa và ra lệnh cho ông phải rời Sài
Gòn ngay càng sớm càng tốt. Dewey thu xếp đi chuyến bay trở về Candy
vào Thứ tư, 26-9.

Tuy Gracey và Cédile bên ngoài phản ứng với những lời phản đối của
Dewey như vậy, nhưng hai ông cũng đều kinh sợ và tức tối về cách đối xử
của người Pháp. Cédile và Buis thử can thiệp bằng cách dùng loa kêu gọi
trên đường phố giữ trật tự, ôn hòa, kiên nhẫn, và vì “danh dự Pháp”.

Nhưng đám du côn đã chống lại. Lệnh của Cédile bắt ngừng các cuộc bắt
bớ, trừ đối với hành động tội phạm, đã không được ai biết đến. Ông cố
gắng giải thích cho một số người Pháp là ở đây mục đích của họ không
nhằm trả thù mà là muốn nhanh chóng nối lại cuộc điều đình trong khuôn
khổ Bản Tuyên bố 24-3. Ông nghĩ rằng ngón đòn của ông có thể dẫn tới
điều đó. Ông chỉ thị cho Buis thả tất cả những người Việt vừa bị bắt, nhưng
điều này chỉ làm cho dân chúng Pháp bực bội thêm.

Gracey phải chịu đựng một áp lực khác. Các ký giả ngoại quốc nói
nhiều nhất về ông vẫn là nhà báo Anh, và họ đã phê phán chống ông khá
gay gắt. Trong 24 giờ, những bài chỉ trích của họ tới tấp đánh về London,
Paris và Washington. Trước khi màn đêm buông xuống, Gracey đành phải
ra lệnh cho Cédile tước vũ khí của đám tù binh, đưa họ trở về trại và giao
cho người Nhật trách nhiệm khôi phục lại trật tự trong thành phố.

Nhưng vấn đề không còn ở chỗ thả các người bị bắt và rút đám tù binh
ra khỏi các khu phố nữa. Người Anh và người Pháp đã bỏ qua một nhân tố
quan trọng - phản ứng của người Việt đối với cú đánh của Cédlle. Sau khi
được thả khỏi nhà giam, người Việt tập hợp nhau lại dưới sự lãnh đạo của
Việt Minh. Trước đây Việt Minh là một cái đệm giữa những người thực
dân Pháp và các phần tử Việt Nam cực đoan, và Việt Minh chủ trương ôn
hòa, trật tự công cộng, đề kháng thụ động và thương lượng, đến nay họ đã
không còn sụ lựa chọn nào khác ngoài việc tiến hành chiến tranh.

CUỘC PHẢN CÔNG
Ngày hôm sau, 24-9, người Pháp bắt đầu “biến mất” và một số nhà
máy và kho tàng trong khu vực cảng bị đập phá và đốt cháy. Điện và nước
trước thỉnh thoảng còn có, nay bị cắt hoàn toàn. Các đơn vị tự vệ Việt
Minh và các đội công nhân xung phong tấn công phi cảng Tân Sơn Nhất,
đốt một tàu Pháp ở bến cảng, phá nhà giam và thả hàng ngàn người Việt
Nam mới bị cầm tù.
Một lần nữa, nỗi lo sợ lại bao trùm lên cộng đồng người Pháp. Nhiều
gia đình Pháp đã tìm cách trốn vào khách sạn Continental. Một phần khách
sạn đã có các sĩ quan cao cấp Đồng minh và nhiều đơn vị tình báo Đồng
minh như phái đoàn OSS, cơ quan An ninh dã chiến Anh và SLFEO của
Pháp đóng. Tòa nhà và vùng xung quanh được lính Anh gác, do đó người
Pháp cảm thấy được bảo vệ an toàn.
Ngày hôm đó tiến triển với đầy những sự cố. Giữa trưa, chợ trung tâm
bị đốt cháy. Chướng ngại được dựng lên ở khắp đường và càng có đông

người cố lao tới khách sạn...
Tiếng súng, tiếng nổ... vang lên cho tới tận khuya. Không hiếu tại sao

mà không thấy lấy một vài đội tuần tra Anh và Pháp mà chỉ có mặt người
Nhật khá bàng quan. Sài Gòn ngập trong tình trạng vô chính phủ - chẳng
có ai, ngoại trừ Việt Minh vô hình có vẻ nắm dược tình hình.

Nhiều báo cáo và tin đồn đại trong người Pháp là nhiều toán Việt Minh
vũ trang đang tập trung tại khu vực phía nam và đông thành phố và vùng
cảng. Cũng chẳng ai biết rõ họ là ai, định làm gì và thực tế có ở đó không.
Nhưng một lần nữa người Pháp lại phải xuống thế, còn người Anh thì đã
giao công tác an ninh cho người Nhật, mà người Nhật thì lại tỏ ra trung
lập. Tình trạng rối ren trong ngày kéo dài cho tới giờ giới nghiêm. Nhưng
khi dân chúng trở về nhà thì lại có tin đồn Việt Minh sẽ đánh vào nội thành
còn vùng ngoại ô thì được yên ổn hơn.

... Nhưng đêm đó, ở Tân Định, vùng ngoại ô Sài Gòn, một lực lượng
Bình Xuyên điên cuồng đã tấn công dã man khu Hérault, nơi nhiều người
Pháp lai sinh sống. Chỉ trong vòng hai giờ, chúng đã tiến hành một trong
những cuộc tàn sát xấu xa và kinh khủng nhất trong cuộc đấu tranh cho độc
lập của Việt Nam. Ba trăm thường dân da trắng và Pháp lai đã bị bắt làm
con tin. Khoảng một nửa đã được thả về, sau khi đã bị tra tấn, đánh đập, số
còn lại đã bị giết hại dã man vào sáng 25-/9. Bộ chỉ huy Anh đã không
được tin báo về cuộc tấn công cho đến mãi một giờ sau khi nó đã nổ ra. Vì
vậy, khi họ tới nơi thì phần lớn người Việt đã biến cùng với những con tin
của họ.

Bạo lực tiếp tục giảm. Việt, Nhật không hợp tác làm cho Gracey tức
giận, nhưng ông cũng chẳng có thể làm gì khác hơn đe dọa kết tội viên chỉ
huy Nhật đã từ chối không tuân theo mệnh lệnh của Đồng minh. Cả điều
đó cũng chẳng giải quyết được vấn đề khôi phục lại trật tự và tiêu diệt
được người Việt nổi loạn. Hơn nữa, khi Gracey khiển trách viên chỉ huy
Nhật thì được họ trả lời là quân lính Nhật sợ người Việt Nam trả thù nếu
họ can thiệp. Trước chủ trương phá đám của Nhật và sự bất lực của quân
Anh lúc dó, Gracey một lần nữa phải cam nhận các yêu sách của Cédile,
lại cấp phát vũ khí cho số tù binh Pháp ở 11 RIC. Nhưng tình hình đã quá
muộn.

Cuộc tấn công riêng rẽ của Bình Xuyên vào khu Hérault đã khuấy lên
nhiều cuộc bạo động và phá rối trật tự ở khắp nói, từ vùng Chợ Lớn - Sài
Gòn tới miền đồng bằng phía đông và nam, và Phú Cường, Biên Hòa ở
phía bắc. Tính chất của hoạt động nói trên đã báo động cho Giàu thấy

những người Quốc gia chống Cộng đang láo xược âm mưu giành lấy quyền
lãnh đạo phong trào. Ông tức thời bước tới và ra lệnh tiến hành tổng bãi
công, triệt để sơ tán người Việt, cấm bán lương thực, thực phẩm, tuyên bố
Sài Gòn bị đặt trong tình trạng bị bao vây. Giàu dọa sẽ đốt Sài Gòn thành
tro nếu như người Pháp không chịu bỏ vũ khí, rút lui, và công nhận độc lập
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong những ngày 25 và 26, các đơn vị tự vệ Việt Minh tiếp tục dựng
lên các chướng ngại trên các đường đi vào thành phố, ngăn chặn mọi
người ra vào, chỉ trừ cho người Anh và Mỹ. Chỉ một dấu hiệu quân phục
Pháp ló ra ở đầu phố là đã bị bắn, vì vậy quân nhân Pháp phải tránh mặt.
Trong thành phố, thiếu tá Buis và sở mật thám tìm thấy vũ khí, thuốc nổ và
rõ ràng là Giàu và Việt Minh đáng gờm đã có kế hoạch đánh trả. Còn bên
ngoài khu vực thành phố, trong vùng Nhật kiểm soát, cuộc khởi nghĩa vẫn
tiếp tục.

Cuộc đấu tranh dữ dội giành độc lập dân tộc đã khởi đầu một cách lặng
lẽ trong làng nhỏ Tân Trào, ngày 13-8, nay trong buổi sớm ngày 25-9 đã
trở thành một cuộc chiến tranh, một cuộc chiến tranh lúc đầu thì chỉ ở
miền Nam, nhưng không đầy 6 tháng sau đã lên phía bắc tới Hà Nội và cả
Bắc Kỳ, và đã kéo dài trong 10 năm với chỉ một ít lúc gián đoạn.

Ở Hà Nội, chúng tôi nhận được báo cáo sâu sắc cuối cùng của Dewey
chiều 24-9 (6). Bản báo cáo kết luận: “Nam Kỳ đang bừng cháy, người Anh
và người Pháp sẽ cáo chung ở đây, còn chúng ta (người Mỹ) phải rút lui
khỏi Đông Nam Á”. Lời của Dewey quả thực là tiên tri nhưng đã chẳng
được ai biết đến.

NGƯỜI MỸ THƯƠNG VONG ĐẦU TIÊN
Chuyến bay của Dewey đã được trù định vào 9 giờ 30 sáng ngày 26-9.
Đại úy J. Bluechel (7) đưa Dewey ra sân bay và được biết máy bay không
thể cất cánh trước giữa trưa. Họ liền lái xe về khách sạn Continental để lấy
hành lý. Đường phố vắng vẻ, chỉ thỉnh thoảng mới có một đội tuần tra.
Người Pháp ở trong nhà, còn người Việt thì đã rời thành phố hoặc lẩn kín.
Vào khoảng 11 giờ, Dewey đã nhận được tin đại úy R. Coolidge (8) trong
toán tình báo, bị phục kích và bị thương chiều hôm trước, nên Dewey
quyết định đến thăm Coolidge ở bệnh viện.
Dewey và Bluechel trở lại sân bay vào 12 giờ 15. Phi cơ từ Kandy về
chưa tới nên chuyến bay lại bị chậm lại. Họ quyết định quay trở lại cơ
quan của OSS (9) để ăn cơm vì chỉ cần đi xe 10 phút. Dewey lái xe và họ

nói với nhau về kinh nghiệm không may của R. Coolidge thì tới gần cái
chắn đường cách nhà OSS độ gần 50 mét. Theo Bluechel chính thức kể lại,
lúc đó họ không thấy có gì bất thường khi tiến gần cái chắn đường. Họ rất
quen thuộc với khu vực này vì đã nhiều lần qua lại đây, mà lần cuối cùng
là vào buổi sáng hôm đó, khi họ ra sân bay chuyến đầu.

Cái chắn làm bằng ba cành cây, có thể vượt qua được nhưng chỉ cần
phải đi chậm lại. Dewey giảm tốc độ xuống 8 dặm giờ, bỗng có một khẩu
súng máy nhẹ từ một chỗ kín đáo, bắn thẳng vào họ, mà không hề có dấu
hiệu báo trước. Thiếu tá Dewey bị bắn vào đầu bên trái và chết ngay tức
khắc. Vụ phục kích giết Dewey xảy ra vào lúc 12 giờ 30 ngày 26-9-1945.

Sau đó người Việt tấn công vào cơ quan OSS và kìm chặt những người
ở trong đó (10) dưới một làn lưới lửa dày đặc cho đến tận 3 giờ, khi người
Việt đề nghị ngừng bắn để thu hồi người chết và bị thương của họ. Toán
OSS đồng ý và ấn định với người chỉ huy Việt Nam đổi xác của Dewey với
3 xác người Việt bị bắn ngã trước nhà OSS. Trao đổi sắp xong thì có hai
trung đội thuộc đơn vị Gurkhas tiến dọc phố đến chỗ đàm phàm và bắn vào
người Việt Nam. Những người này liền vớ lấy xác đồng dội và bỏ chạy.
Xác của thiếu tá Dewey cùng với chiếc xe Jeep cũng bị họ mang đi luôn và
không bao giò tìm lại được nữa.

Chỉ trong vòng 6 giờ sau, tin tức về vụ giết hại Dewey đã lan khắp thế
giới và trong nhiều ngày, việc này tỏ ra bao hàm một ý nghĩa chính trị
quốc tế quan trọng.

Cuội buổi chiều hôm đó, tôi được đại úy Imai báo tin về cái chết của
Dewey. Lúc đó, đang có nhiều sĩ quan tham mưu Trung Quốc đến gặp tôi
để bàn về nghi thức đối với Phái đoàn Mỹ trong buổi lễ tiếp nhận đầu hàng
của Nhật (sẽ được tổ chức vào ngày hôm sau). Bernique nhảy xổ vào báo
cho tôi biết Imai cần gặp vì có tin tức “rất quan trọng và khẩn cấp”. Tôi
thấy Imai đang bị xúc động mạnh. Ông tự dịch cho tôi những điều viết
bằng tiếng Nhật trong bức điện của Tổng Hành dinh tập đoàn quân Nam ở
Sài Gòn gửi tướng Tsuchihashi về việc quân Etsumei (Việt Minh) đã tấn
công Phái đoàn Mỹ và giết chết viên sĩ quan chỉ huy. Imai không biết rõ
tên người và các chi tiết khác. Bức điện bằng mật mã và theo Imai, thì
không ai được biết ngoài tướng Tsuchihashi và ông cho rằng cần phải báo
ngay cho tôi biết đầu tiên.

Tôi giao cho Knapp tiếp tục làm việc với người Trung Quốc và đến
ngay gặp thẳng ông Hồ. Ông không được tin gì về vụ này và tỏ ra rất hoài
nghi về tin báo của Nhật mặc dù rõ ràng ông rất xúc động trước khả năng

điều đó có thể trở thành thực sự. Ông đảm bảo với tôi là sẽ trực tiếp xem
xét vấn đề này. Khi tôi trở về cơ quan thì đã gần 6 giờ chiều và nhận được
điện của Helliwell xác định cuộc tấn công và lần đầu tiên tôi biết tin chính
thức Dewey đã bị giết chết. Phản ứng tức khắc của tôi là sự tức giận đối
với Việt Minh. Điều đó đối với tôi thực không còn nghĩa lý gì nữa. Họ đã
giết hại người bạn độc nhất của họ ở Nam Kỳ và chắc chắn rằng những tin
này sẽ chẳng đề cao được lý tưởng của họ trước nhân dân Mỹ. Tôi chưa có
đủ tài liệu nhưng cứ muốn nghĩ rằng không phải người Việt Nam, đã giết
Dewey.

Ở Sài Gòn, sau khi quân Gurkhas xông vào và Việt Minh đã tháo lui thì
toán OSS chuyển vào khách sạn Continental. Chiều hôm đó, Bluechel gặp
Cédile và báo cho ông biết tin. Cédile đã không để mất thời gian và thông
báo ngay cho Graeey, ông này liền “ra lệnh cho tất cả các lực lượng thuộc
quyền của họ (Anh - Pháp) phải xúc tiến tích cực tìm xác của Dewey”.

Ngay sau 6 giờ chiều hôm đó, đại tá J. Caughlin (11) báo cáo về
Washington, tướng Donovan đã khuấy động cả mạng lưới thông tin quân
sự và ngoại giao.

London thúc giục Mountbatten cung cấp thêm tài liệu trong khi các
phóng viên chiến tranh đòi hỏi những chi tiết đặc biệt, nêu ra những vấn đề
hóc búa về những vụ âm mưu và phản âm mưu.

Lúc đó, ai cũng nhằm vào những người đối lập của mình. Người Việt
Nam buộc tội người Pháp với tiền đề là vì người Mỹ chống thực dân.
Người Pháp có lý do vững chắc quy tội Việt Minh. Nhưng cũng có ít nhiều
người Mỹ nghi ngờ cơ quan tình báo SOE của Anh đã âm mưu loại trừ sự
cạnh tranh của OSS với họ ở Đông Nam Á.

Toán OSS tiến hành một cuộc điều tra riêng về hoàn cảnh chung quanh
cái chết của Dewey đã bác bỏ mọi lập luận về “âm mưu đen tối” hoặc vì có
hiềm thù đối với Dewey hay người Mỹ. Sự thực, dựa trên những báo cáo
có giá trị của những người được chứng kiến, thì đây chỉ là một trường hợp
nhầm lẫn gây ra một phần do có thiếu sót trong sự nhận biết về quốc tịch.
Trong báo cáo chính thức có đoạn viết:

“… Thiếu tá Dewey… đã bị phục kích và bị giết vì bị nhận lầm là
người có quốc tịch khác không phải là Mỹ. Nếu chiếc xe của ông ta lúc đó
có cắm cờ Mỹ, thì tôi (Bluechel) chắc rằng người ta đã không bắn. Xe đã
không cắm cờ; theo đúng chỉ thị bằng miệng của tướng Gracey…”.

Gracey đã tỏ ra là một con người gặp đâu làm đấy. Ông đối phó với các
sự kiện đã xảy ra, không phải là lường trước chúng, mà cũng chẳng phải là

đánh giá đúng tác động của sự việc. Phản ứng của ông trong trường hợp
cái chết của Dewey là ra lệnh bắt giữ Thống chế Bá tước Térauchi, không
phải vì người Nhật phải chịu trách nhiệm trong vụ này, mà chỉ là Gracey
phản ứng.

“NAM KỲ BÙNG CHÁY”
Những lời ca thán về thái độ thiên vị của Anh, các báo cáo về các vụ
phá rối trật tự, cũng như tin tức về cái chết của Dewey, đã vượt qua SEAC
và tới London. Mounbatten theo dõi tình hình với một sự quan tâm đặc
biệt vì lúc đó Chính phủ Công đảng Anh đang dự định nới rộng chính sách
về quy chế tương lai của Ấn Độ trong Khối Liên hiệp Anh. Ông cho rằng
thiên hướng của Gracey muốn dính líu vào các công việc Pháp - Việt đã
làm cho ông lúng túng, từ lúc Gracey cho ra bản tuyên bố kém cỏi ngày
20-9.
Mounbatten đã phải khó khăn để giải thích và thanh minh cho những
quyết định và hành động đáng ngờ của Gracey. Trong bản báo cáo gửi Bộ
Tham mưu hỗn hợp, Mounbatten đã giải thích rằng lúc đầu ông cho là tình
hình quân sự ở Sài Gòn nghiêm trọng, song ông vẫn cảm thấy... bản tuyên
bố... đã trái với chính sách của Chính phủ Hoàng gia, và dù cho các bản
tuyên bố kiểu đó có thể hiện do chính sách của Chính phủ khởi xướng, thì
tôi (Mounbatten) cũng đã báo cho thiếu tướng Gracey phải chú ý hạn chế
hoạt động của quân đội Anh - Ấn vào các nhiệm vụ có mức độ đã được đề
ra.
Việc Mounbatten biện minh và che chở cho các hoạt động Gracey còn
được tiếp tục cho đến khi quân Anh rút khỏi Đông Dương vào 20-1-1946.
Cũng có lúc Mounbatten nói với Leclerc là Gracey đã vượt quyền ông ta
và ông đã có ý định thay Gracey bằng một người khác. Nhưng Leclerc đã
nói trước là Gracey đã làm được một việc tốt và nên được giữ lại. Theo
Leclerc thì những vụ rối loạn ngày 23-27 tháng 9 ở Sài Gòn là do những
phần tử tội phạm - bọn cướp Bình Xuyên - gây ra. Nhưng cố vấn chính trị
của Gracey, H.N. Brain, đã không đồng ý với Leclerc và chỉ ra rằng thực
chất vấn đề ở Đông Dương là một nguyện vọng dân tộc chân chính mà
người Pháp đã không chú ý tới.
Sự náo động về ngoại giao do cái chết của Dewey gây ra đã buộc
Mounbatten phải triệu Gracey và Cédile về gặp ở Singapore ngày 28-9.
Với sự hiện diện của Tổng trưởng Chiến tranh J.J. Lawson, Mounbatten đã
nhắc lại chính sách của Anh, nhấn mạnh việc quân đội Anh không được

can thiệp vào công việc nội bộ của Đông Dương, v nhất là không được sử
dụng dể đánh lại người Việt. Cédile tỏ ra lo ngại, vì ngay cả khi có lực
lượng tăng cường tới, một mình Pháp cũng khó mà đối phó được với tình
hình, nhưng Mounbatten đã đề xuất ra vấn đề là nên điều đình lại với các
nhà lãnh tụ Quốc gia.

Song chỉ vài ngày sau, lập trường của Anh đã phải chuyển theo mệnh
lệnh của London. Mounbatten đã nhận được chỉ thị sử dụng quân Anh - Ấn
để hỗ trợ cho người Pháp, nếu cần, và điều đó cũng không hại gì cho
nhiệm vụ của họ ở Sài Gòn. Mounbatten chuyển những chỉ thị trên cho
Gracey và bổ sung thêm là quân đội chỉ được sử dụng trong nhiệm vụ
phòng ngừa chứ không được dùng để tấn công.

Ngày 1-10, Gracey chủ động mở lại những cuộc thương thuyết với
Lâm ủy Nam Bộ và đã được Cédile, Bạch, Thạch, và Tây đồng ý chấp nhận
một cuộc ngừng bắn thực sự vào ngày hôm sau. Ông Brain cũng tham gia
vào cuộc gặp gõ, giải thích cho các đại biểu Việt Nam biết chính sách của
Anh. Ông nhấn mạnh về sự trung lập của Anh, nhưng lại nói thêm rằng
theo sự thỏa thuận giữa các nước Đồng minh, Anh sẽ không công nhận bất
kỳ sự thay đổi chủ quyền trên bất cứ vùng đất đai nào đã phải chiếm lại
được bằng vũ lực trong thời kỳ chiến tranh.

Thoạt nghe thì chính sách nói trên tỏ ra hợp lý và cả hai bên đều có thể
chấp nhận được, nhưng Bạch và Thạch cũng nhận thấy ngay được là chủ
quyền trước chiến tranh - theo người Anh, có nghĩa là của Pháp chứ không
phải là Nhật, do đó Đông Dương vẫn là thuộc Pháp. Bất chấp những lời
tuyên bố của Việt Nam là họ đã đánh Nhật để giành lại độc lập và họ đã
giành lại tự do và độc lập, người Anh vẫn coi Đông Dương là thuộc địa của
Pháp. Như thế không thể có hoà bình.

Vào ngày 2 và 6 tháng 10, còn có hai cuộc họp giữa Cédile, đại tá R.
Préneuf (12) đại diện cho Pháp và người Anh, và người Việt Nam. Người
Pháp yêu cầu trả lại các con tin đã bị bắt trong các vụ lộn xộn trước và xác
của thiếu tá Dewey, làm điều kiện tiên quyết cho các cuộc thương lượng
sau (13). Người Việt Nam giữ lập trường là điều kiện tiên quyết chỉ có thể
là Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do và
độc lập.

Trong cuộc gặp ngày 6, người Pháp đặt vấn dề duy trì cuộc ngừng bắn.
Người Việt Nam chỉ đồng ý kéo dài cuộc ngừng bắn với điều kiện sau đây:
tất cả mọi quyền hành chính ở Sài Gòn phải được phục hồi lại cho Lâm ủy
Nam Bộ, được coi như là chính quyền duy nhất; cảnh sát địa phương phải

được trao lại cho chính phủ Việt Nam là người duy nhất chịu trách nhiệm
duy trì trật tự công cộng; tất cả quân đội Pháp phải được giải giáp và
không được đưa quân mới vào; người Pháp phải tập trung vào những khu
vực nhất định và an ninh và đời sống của họ sẽ được Chính phủ Việt Nam
đảm bảo.

Rõ ràng là người Pháp và người Anh đã không nghiêm chỉnh trong việc
tìm kiếm một cơ sở cho việc thỏa thuận với người Việt. Họ tiến hành
thương lượng chỉ nhằm một mục đích trong đầu: lấy lại sự yên ổn và làm
giảm nhẹ cuộc phong tỏa Sài Gòn, duy trì cuộc ngừng bắn cho đến khi
quân tiếp viện tới. Yêu cầu ban đầu của họ về việc trả lại con tin chỉ là giả
tạo. Lâm ủy chẳng có cách nào để nắm lại được số con tin từ tay bọn Bình
Xuyên và các giáo phái chống Cộng. Hơn thế nữa, cả Pháp và Việt chẳng ai
biết được là có bao nhiêu người và những ai đã bị bắt. Phản đề nghị đòi trở
lại nguyên tình trạng cũ tỏ ra hợp lý đối với người Việt vì họ cũng sẽ
chẳng mất gì, nhưng với người Pháp thì đó chẳng khác gì một cuộc đầu
hàng, vì thế mà không thể nào chấp nhận được. Đây lại là một sự cách biệt
khác.

Mặc dù Anh - Pháp chỉ nhằm trì hoãn để tranh thủ thời gian và cuộc
đối thoại đã tan vỡ vào ngày 6-10, giữa những lời lẽ gay gắt và dọa nạt,
nhưng cuộc ngừng bắn vẫn tiếp tục. Mật vụ SLFEO đã báo cho Cédile biết
là Việt Minh đã triển khai quân đội chung quanh Sài Gòn và tại các vị trí
chiến lược ở phía bắc và nam thành phố, đồng thời cũng cho biết Hoàng
Quốc Việt (14) vẫn liên lạc chặt chẽ với Trung ương đảng tại Hà Nội, đã
chỉ thị cho Giàu và Bạch phải chống lại mọi mưu đồ của Đồng minh nhằm
giúp Pháp nắm quyền kiểm soát Sài Gòn. Và nếu cần, chỉ sau 24 tiếng
đồng hồ, Hà Nội sẽ gửi quân tăng viện tới.

Cédile lo ngại Việt Minh sẽ phát động tấn công nên đã yêu cầu Leclerc,
mới tới Sài Gòn ngày 5-10, đề nghị với Mounbatten can thiệp. Ngày 8, đặc
phái viên của Mounbatten đã gặp Thạch và Bạch, và đòi kéo dài cuộc
ngừng bắn thêm 48 giờ nữa. người Việt hỏi thăm mục đích gì? Vì ở đây
hai bên không có chỗ đứng chung. Người Pháp chỉ sẽ thương lượng với
tiền đề là họ tiếp tục cai trị Đông Dương và định quăng cho người Việt một
cái xương dưới hình thức những lời hứa hẹn về một sự cai trị trong tương
lai.

Thạch nhắc cho phái viên người Anh biết là Việt Nam đã được độc lập
và tất cả những gì còn phải bàn cãi chỉ là quy chế cho nước Việt Nam trong
tương lai. Người Anh trả lời cửa vẫn tiếp tục mở rộng cho tới chừng nào

có thể đạt được sự thỏa thuận trong các cuộc đối thoại tương lai. Người
Việt Nam đã đồng ý kéo dài cuộc ngừng bắn.

Nhưng trong quá trình cuộc đối thoại và ngừng bắn, người Việt Nam đã
không được biết rằng sư đoàn Ấn Độ của Gracey đã được bổ sung đầy đủ
số quân; tàu Triomphant của Pháp chở Trung đoàn 5 RIC của Leclerc đã
lặng lẽ đổ bộ xuống 10.000 quân (ngày 3-10), bản Thỏa hiệp về công dân
sự vụ đã được ký kết ở London (ngày 9-10) xác định Pháp được Anh ủng
hộ hoàn toàn trong việc cai trị toàn miền Đông Dương nam vĩ tuyến 16.

Cuộc ngừng bắn không kéo dài quá chiều ngày 10. Sự có mặt của quân
đội Pháp, với số lượng lớn và trang bị Mỹ mới đã nói lên tất cả. Đêm ngày
10, bộ đội của Giàu tấn công sân bay và quân Anh đóng ỏ đó. Sáng ngày
11, người Việt đụng đầu với lính Pháp và Anh trên khắp các nẻo đường dẫn
vào Sài Gòn. Người Anh liền yêu cầu Nhật hỗ trợ và lần này thì họ làm
thực sự. Leclerc cũng còn phải chịu ơn người Nhật vì họ đã giúp ông phá
vỡ cuộc bao vây thành phố sau 2 tuần chiến đấu liên tục.

Người Việt Nam có ngừng lại một lần cuối cùng ở Sài Gòn vào ngày
16-10, nhưng lực lượng hơn hẳn của Anh, Nhật và Pháp đã buộc họ phải
rút lui về các vùng nông thôn. Không quân Hoàng gia Anh và lực lượng
còn lại của không quân Nhật đã được sử dụng rộng rãi để ném bom và bắn
phá các nơi tập trung quân đội Việt Minh.

Cuối năm đó, tướng Mac Arthur đã phát biểu với nhà báo Edgar Snow
“Nếu có gì đó đã làm máu tôi sôi lên, thì đó là việc tôi được thấy các nước
Đồng minh của chúng ta ở Đông Dương và Java đã sử dụng quân Nhật để
đàn áp các dân tộc bé nhỏ này mà chúng ta đã hứa giải phóng. Đó là một
sự phản bội kinh tởm nhất” (27). Tôi thấy lời tuyên bố của Mac Arthur
hoàn toàn không ăn khớp với điều mà trước đây Leclerc cho rằng Mac
Arthur đã nói với ông: “… Đưa thêm quân, nhiều quân nữa, có thể thêm
bao nhiêu thì cứ thêm”. Nhưng đây cũng có thể chỉ là một vấn đề không
nhuần nhuyễn về tiếng Anh.

---
(1) Trung tướng J. Slim, Tổng chỉ huy Lục quân Đồng minh, Bộ tư
lệnh Đông Nam Á
(2) sau đó chuyển cho người Anh
(3) Một chủ đồn điền có thế lực ở miền Nam, tham gia phong trào
kháng chiến Pháp, cộng tác với nhóm CBT để thu thập tin tình báo về Nhật
cho AGAS, người được nói đến nhiều nhất trong khối chống lại nền độc
lập của Việt Nam và tích cực chống Việt Minh.

(4) Từ 6-9, Bộ tư lệnh Đông Nam Á đã cho phép các phóng viên báo
chí Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan, Ấn Độ hoạt động trong vùng chiếm đóng của
SEAC để đưa tin tức.

(5) Một người thân tín của Leclerc được đưa tới Sài Gòn trước để tiếp
quản sở Mật thám và phụ trách công tác tình báo chính trị Việt Nam dưới
quyền Cédile

(6) Ngày 23-9, tôi đã nắm được tình hình nhờ các báo cáo lẻ tẻ nhận
được ở Hà Nội và Côn Minh do OSS Sài Gòn và OSS Kandy cung cấp, từ
các tin có giá trị của Việt minh ở Hà Nội và các tin tức báo chí ở Trung
Quốc.

(7) Sĩ quan OSS phối thuộc vào SEAC và phụ tá cho Dewey
(8) Đại úy Coolidge từ Đà Lạt trở về cùng với một số sĩ quan Đồng
minh, trong đó có người Pháp và phụ nữ Việt trẻ tuổi. Các Sài Gòn khoảng
10 dặm, đoàn xe đã bị Việt Minh phục kích. Họ đã định giải thích vì đã bị
nghi nhầm là người Pháp. Nhưng súng nổ, Coolidge bị thương và được đưa
về bệnh viện dã chiến 75 của Anh ở Sài Gòn, sau đó được chuyển về Mỹ
và phải nằm 8 tháng trong quân y viện.
(9) ở biệt thự Ferier, phía bắc thành phối, cạnh sân quần vợt
(10) Đại úy M. White, đại úy Wickes (OSS), thiếu tá F. Werger (quân
đội Pháp, thuộc nhóm E, Ủy ban kiểm soát Sài Gòn), 2 nhà báo Mỹ Mc
Clincy và W. Downs
(11) Sĩ quan OSS – SEAC
(12) Phụ trách 2B (phòng Nhì, tình báo) của Leclerc
(13) Ông Hồ đã ra lệnh cho Việt Minh tìm xác của Dewey để trao trả
cho nhà chức trách Mỹ. Ngày 12-10-1945, người Pháp cũng treo giải
thưởng 5.000 đồng. nhưng không nơi nào tìm được xác của Dewey.
(14) đại diện của ông Hồ trong Lâm ủy Nam Bộ
(15) Ed. Snow, “Bờ sông bên kia – Trung Quốc đó ngày nay”.

Những cảnh trái ngược

Ở miền Bắc người Việt Nam đang cho thí nghiệm một cuộc cách mạng
đổi đời dựa trên cơ sở một sự thay đổi về chính quyền, không gì khác hơn
là một sự chuyển biến từ chế dộ thực dân sang chế độ tự quản, và không
thông qua bạo lực. Như ông Hồ thường nhắc mọi người, đây là lúc để điều
chỉnh, cải tổ và xây dựng lại. Cuộc cách mạng kinh tế xã hội sẽ tới sau.

Cuộc chiếm đóng hòa bình của Trung Quốc ở phía bắc vĩ tuyến 16
hoàn toàn trái ngược với việc tiếp quản bằng vũ lực của Anh ở Nam Kỳ.
Khác với người Anh đã trục xuất thẳng tay Lâm ủy Nam Bộ khỏi dinh
Toàn quyền ở Sài Gòn, người Trung Quốc chấp nhận để Chính phủ của ông
Hồ đóng tại Bắc Bộ Phủ và cộng tác với họ suốt trong thời gian chiếm
đóng. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, họ cũng không cần phải yêu cầu người Nhật
đàn áp những người Quốc gia và dọn đường cho Pháp quay trở lại. Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa chịu trách nhiệm về mọi việc. Cảnh trái ngược đập
ngay vào mắt.

Tuy vậy, tình hình Sài Gòn đã gây ra nhiều đợt phản úng ở Hà Nội.
Những tin tức về cuộc tiếp quản trịch thượng của Gracey tới Hà Nội vào
trưa ngày 13-9 và nhiều tin đồn đại được loan truyền: “Quân Anh dẫn đầu
cho quân xâm lược của Leclerc!”, “Trung Quốc đã đồng ý cho người Pháp
ở Trung Quốc kéo về Bắc Kỳ để phối hợp với quân của Leclerc”. Khắp nơi
người ta bàn tán về “kháng chiến”.

Chiều hôm đó, tôi gặp ông Hồ và ông cũng nói với tôi: “Tất cả các
đường thông tin liên lạc từ Trung Quốc tới đã từng bước bị phá hoại, và
như vậy là nếu có xâm lược thì nhất định sẽ có chống cự bằng vũ lực”.

Sáng và chiều nào, đài phát thanh Delhi và Sài Gòn cũng sa sả nói về
việc quân Anh và Gracey tới. Tất nhiên điều đó chỉ khích lệ người Pháp và
làm cho người Việt hoảng sợ. Đài Delhi đã mở dầu bằng câu chuyện về sự
có mặt quân Ấn để “giải giáp quân Nhật”, nhưng lại kết thúc với tin về
Gracey và chỉ trích ông trong việc sử dụng quân Ấn để “dập tắt phong trào
Quốc gia Việt Minh”. Công phẫn trước thái độ của Anh, ông Hồ đã gửi một
bức điện phản đối cho Atlee về “thái độ không dân chủ của Mounbatten ở
Sài Gòn” và đã chỉ thị cho Bộ trưởng tuyên truyền của ông tổ chức một
cuộc biểu tinh chống Anh vào ngày hôm sau.

Sáng sớm hôm đó, trên đường phố Hà Nội đã đầy người xếp hàng
chuẩn bị diễu hành. Họ bắt đầu vào lúc 8 giờ, mang theo cờ Việt Minh và
hô khẩu hiệu chống Anh, vác áp phích vẽ John Bull như một chúa tể ở
Đông Nam Á đang chinh phục Việt Nam. Cờ Anh đã biến khỏi rừng cờ. Có
khoảng 5 hoặc 6 ngàn người từ Nhà hát Thành phố tiến về quảng trường
Ba Đình hô to phản đối “sự tàn bạo” và thái độ “không dân chủ” của Anh.
Tại quảng trường, một số diễn giả lên tiếng nhưng không có gì tỏ ra muốn
kích động sự phẫn nộ lên quá múc. Mọi việc đều được điều phối tốt. Cuộc
biểu tình đạt tới đỉnh cao vào buổi trưa, với một bức điện của ông Hồ gửi
qua đài Hà Nội cho Thủ tướng Anh Atlee. Nhân danh “nhân dân Việt Nam
tự do”, ông Hồ phản đối phái đoàn Anh ở Nam Kỳ đã dùng vũ lực gạt bỏ
“Chính phủ hợp pháp” ra khỏi trụ sở của họ ở dinh Toàn quyền. Ông Hồ
yêu cầu Thủ tướng Anh ra lệnh cho phái đoàn phải “tôn trọng quyền và nền
độc lập của nhân dân Việt Nam”, kèm theo một lời đe dọa úp mở nói “để
tránh xảy ra những điều đáng tiếc trong tương lai”. Trong khi mọi người
còn đang vui mừng với “việc biểu thị hòa bình và dân chủ của sự trưởng
thành về chính trị này”, thì phía người Pháp lại mắc phải một hành động
thiếu suy xét nhỏ. Đám trẻ ngỗ ngược theo De Gaulle trong Thành (Hà
Nội) đã tìm cách trèo lên cắm cờ tam tài (Pháp) trên một bao lơn cao. Do
có sự can thiệp của đại tá Norlingher nên lá cờ đã được hạ xuống một cách
khó nhọc, nhưng không phải là trước khi tin đó đã bay tói “những người
biểu tình địa phương”. Tôi cho sự việc không có gì quan trọng mà nó chỉ
phơi bày một cách ngô nghê món láu cá của Pháp. Nhưng những người
hoạt động Việt Nam thì lại cái đó là “một sự thách thức hết sức khiêu
khích”. Sainteny đã cải chính không biết gì về việc này nhưng lại tỏ ra hài
lòng với “cánh trẻ ở trong Thành”.

Tôi đã định cho qua vấn đề, nhưng đột nhiên có tin phản ứng của địa
phương trở nên gây gắt, và trên đường phố người ta bàn tán việc “đánh vào
Thành và cho Pháp một bài học”. Nhưng sau đó đã không có gì xảy ra, chủ
yếu có thể vì tôi đã khẩn khoản với ông Hồ rằng tôi sẽ không thể ngăn
chặn được các biện pháp phòng vệ của Trung Quốc và Nhật, thậm chí ngay
cả khi người Việt Nam bị đổ máu. Đó cũng là lần đầu tiên và độc nhất, tôi
đã ngăn ông Hồ và chống lại những biện pháp chống Pháp mà Việt Minh
đã dự định. Sau này, ông Hồ đã cảm ơn tôi về lời khuyên nhưng đã hỏi
khéo léo tôi không biết ông còn phải chịu đựng “sự kiêu căng của Pháp”
cho đến mức nào nữa.

BÓP MÉO SỰTHẬT
Tình trạng hỗn loạn do công tác tuyên truyền của Pháp gây ra ở Hà
Nội, sau khi Gracey tới Sài Gòn, thể hiện rõ qua các luận điệu và thủ đoạn
tuyên truyền của họ.
Ngày 13-9, tôi nhận được tin từ Côn Minh là hành dinh của OSS sẽ
chuyển về Thượng Hải. Chỉ vài giờ sau, người của Saniteny đã tung tin
OSS đang rút khỏi Trung Quốc và cá nhân tôi cũng sẽ bị gọi về
Washington vì tội không phục tùng và có khuyết điểm trong việc không
giúp đỡ cho Pháp ở Đông Dương “theo đúng mệnh lệnh của Đồng minh”.
Ngày hôm sau, Sainteny đến hỏi tôi để biết khi nào thì OSS chuyển về
Washington. Tôi đáp không có kế hoạch, thì ông nói, theo nguồn tin của
ông, chỉ trong vòng từ 30 đến 60 ngày nữa.
Việc khác là việc cảnh sát địa phương đã bắt được hai tù binh Pháp,
trốn ở Thành ra, mặc quân phục Mỹ và đi phá một hiệu kim hoàn người
Việt... Quân cảnh Trung Quốc lại bắt được hai hạ sĩ người Việt thuộc quân
đội thực dân Pháp, cũng từ Thành ra, ăn mặc quần áo Trung Quốc và vào
kho ăn cắp xe ô tô của Trung Quốc để nhằm gây mâu thuẫn giữa người
Trung Quốc và Việt Nam.
… Họ còn tung tin Mỹ đã phản bội Đồng minh; tư bản Mỹ để mua
được Hồ Chí Minh bằng máu của người Pháp... Tin đồn nguy hại nhất là
Côn Minh đã ra lệnh cho người Trung Quốc thả các tù binh Pháp trong
Thành và cấp vũ khí cho chúng để làm nhiệm vụ cảnh sát... Tin này đã tác
động đến một số người Việt và được những người Quốc gia chống Cộng
nắm lấy sử dụng để chia rẽ quan hệ Việt - Mỹ.
... Tướng Tiêu Văn cũng yêu cầu tôi xác nhận tin Trùng Khánh đã cho
phép Alessandri ra lệnh cho người Nhật chỉ huy nhà tù Hà Nội tổ chức các
tù binh thành đơn vị chiến đấu để giúp Trung Quốc giữ gìn trật tự.
Đại tá Stephens trong Bộ chỉ huy Chiến trường Trung Quốc (CCC) lại
muốn biết có cơ sở gì để xác định Trung Quốc đã bố trí cho Sainteny đến ở
nhà Ngân hàng Đông Dương là một bộ phận trong “mưu đồ” Pháp – Hoa.
Bộ trưởng Tuyên truyền Liệu thì hỏi tôi tin tức tình hình Sài Gòn xung
quanh việc Hoa kiều ở Chợ Lớn ủng hộ người Pháp đánh chiếng lại miền
Nam. Ông cũng rất quan tâm đến vai trò của OSS đối với Phái đoàn
Sainteny và cái gọi là kế hoạch của Mỹ rút lui khỏi Đông Dương.
Bộ máy tuyên truyền của Pháp còn hoạt động mạnh mẽ ở các nước
khác, từ Pháp, châu Phi và Ấn Độ. Điển hình là việc có một bản tin nói là
phát đi từ San Francisco nghe được ở Hà Nội ngày 17-9. Bản tin bằng

tiếng Việt báo “quân đội Trung Quốc và Anh có mặt ở Đông Dương là để
duy trì luật pháp và trật tự trong khi chờ cho quân đội Pháp và các quan
chức hành chính tới”. Tôi hỏi Côn Minh và được trả lời: bản tin phát đi từ
một đài bí mật của Pháp (đài Brazzaville 2 ở châu Phi) và đó là một tin
hoàn toàn bịa…

Các tin đồn đại này tác động không chỉ đến người Việt mà tới cả một
số người Pháp trước đây rất thân thiện với tôi và các người Mỹ khác ở Hà
Nội. Trong bầu không khí đã thay đổi đó, tôi điện về Côn Minh: “từ khi
chúng tôi tới đây, người Pháp đã thay đổi thái độ đối với Mỹ... từ rất thân
thiện đến lãnh đạm. Đặc biệt đối với tôi, rất lạnh nhạt”.

Mỗi việc rất nhỏ nhặt cũng được sử dụng để chống lại người Mỹ. Sáng
ngày 18-9, Sainteny lại đến gặp tôi về việc “mất sữa khô”. Và đến chiều lại
có tin đồn là lương thực của người Pháp gửi để cứu đói cho người Việt
Nam bằng máy bay Mỹ đã được Mỹ trao cho người Trung Quốc để bán ra
chợ đen ở Hà Nội.

Nhưng không phải chỉ có người Pháp tuyên truyền chống Mỹ. Còn có
người Nhật, và Matsushita vẫn sử dụng được bộ máy tuyên truyền của
Trung tâm Văn hóa Hà Nội, Huế và Sài Gòn và cũng đạt được ít nhiều kết
quả trong một bộ phận dân chúng chống Việt Minh...

Chiến dịch tuyên truyền của Nhật, kết hợp với của Pháp đã gặm nhấm
dần hình ảnh Mỹ, gây ra một bầu không khí không lành mạnh đến mức tôi
đã phải yêu cầu OSS Côn Minh cho tiến hành những biện pháp chống trả
lại. Nhưng tôi đã bị đánh bại bởi những phần tử thân Pháp khá mạnh trong
ngành Điều tra và Nghiên cứu (R&A) của chúng ta. Họ cho là tôi quá khắt
khe đối với lập trường của Pháp. Ở R&A, người ta cho rằng Pháp đã bị
tước bỏ quyền chính đáng đòi lại Đông Dương một cánh bất công và người
Mỹ chúng ta phải tỏ ra thông cảm với Pháp hơn nữa về vấn đề này. Cả
Heppner và Helliwell đều không đồng ý và đã chuyển thẳng các báo cáo
của tôi về OSS Washington và tướng Wedemeyer mà không thêm bớt gì.

“GIỐNG NHƯ CON BỌ CHÉT TRÊN MÌNH CHÓ”
Trong khi tình trạng rối loạn ở Sài Gòn trầm trọng hơn và chiến dịch
phao tin đồn đạt tới những đỉnh cao mới thì những người Việt lưu vong ở
Trung Quốc kéo về nước. Họ mang theo cao vọng là sẽ nắm trọn quyền
lãnh đạo đất nước nhưng lại quá kém về tổ chức và không có được một
chương trình hành động ra hồn. Họ đã sống tập trung nhiều năm ở Quảng
Tây dưới sự che chở của Trương Phát Khuê và ngẫu nhiên trở nên chống

Pháp. Họ hy vọng dựng lên một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ của
Trung Quốc. Khi chiến tranh kết thúc, ai cũng đinh ninh là việc chiếm
đóng Đông Dương sẽ được trao cho Trương, nên việc chuyển nhiệm vụ đó
vào phút chót cho Lư Hán, đã làm cho người lưu vong vô cùng bối rối.
Liên minh Đồng minh Hội đầy tham vọng và rạn nứt, đã bị lạc lõng. Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt cũng tách khỏi liên minh và tìm cách
giành cho mình quyền lãnh đạo.

Sự tan vỡ đã làm cho những người lưu vong được Trung Quốc nâng đỡ
mất hết hiệu lực, và họ phải chia làm hai phe. Việt Nam Quốc dân Đảng và
Đại Việt đi theo viên tướng Vân Nam Lư Hán, những người còn lại của
Đồng minh Hội thì ở lại dưới quyền lãnh đạo của Tiêu Văn, phục vu cho
Trương Phát Khuê và Quốc dân Đảng (Trung Quốc). Sự chia rẽ đã làm lợi
cho Việt Nam suốt trong 6 tháng sau và những người Quốc gia thân Trung
Quốc đã tự mình cô lập khỏi đông đảo quần chúng, đúng như ông Hồ đã dự
đoán.

Vào cuối tháng 8, quân đội Trung Quốc đã vượt qua biên giới theo hai
cánh. Các tập đoàn quân 62 và 53 của Trương Phát Khuê, dưới quyền chỉ
huy của tướng Tiêu Văn, tiến từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng
Sơn và các cứ điểm chủ chốt dọc bờ biển Đông Bắc đến Hải Phòng. Còn
các tập đoàn quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam tiến vào Lào Cai và đi
dọc theo thung lũng sông Hồng tới Hả Nội - Vinh - Đà Nẵng.

Dưới sự lãnh đạo nhu nhược của Nguyễn Hải Thần, Đồng minh Hội đi
theo quân Quảng Tây vào Cao Bằng và Móng Cái. Vì muốn giành cho
mình một địa vị lãnh đạo trong chính phủ mà ông cho rằng Trung Quốc có
thể dựng lên ở Hà Nội, nên ông đã lao đi trước quân đội để về thủ đô gặp
người đỡ đầu là tướng Tiêu Văn. Khi Thần đang trên đường về Hà Nội thì
Vũ Kim Thành, một phụ tá tin cậy của ông đã từng tập hợp được một đội
quân vài trăm người cho Đồng minh Hội, đã thành lập một “Chính phủ
Quốc gia Việt Nam Lâm thời” ở Móng Cái và “bầu” Thần làm thủ tướng.
Trong khi Thần vắng mặt thì Thành nắm quyền thay.

Ngày 13-9, Thần tới Lạng Sơn với một số quân do Nông Quốc Long
dẫn đầu (1). Quân Đồng minh Hội hạ cờ Việt Minh và kéo cờ của họ thay
vào đó. Thần cho họp mít tinh quần chúng có khoảng 3 hay 4 trăm người
và nói với quần chúng “rằng họ phải theo sự lãnh đạo và chính sách của
Trung Quốc ngay cả khi phải trả giá bằng nền độc lập của mình”. Nghe
thấy thế, “quần chúng” liền bỏ đi, kéo cờ Đồng minh Hội xuống và trương
cờ Việt Minh lên. Chắc chắn là đã có cán bộ Việt Minh lãnh đạo quần

chúng trong cuộc loạn đả sau đó. Quần chúng được đội tự vệ hỗ trợ, đã tấn
công vào đám bộ hạ của Thần cho tới khi quân Trung Quốc đến lập lại trật
tự. Thần và bọn tay sai liền rút khỏi Lạng Sơn về Kỳ Lừa và ra lệnh cho
“quân đội” của Vũ Kim Thành xúc tiến một cuộc hành quân trừng phạt
trong vùng từ Lạng Sơn tới Chữ, ở phía bắc Kép.

Cùng ngày đó, tôi lại được tin là tất cả dân chúng Việt Nam dọc đường
xe lửa từ Lạng Sơn tới Kép đã phải bỏ nhà cửa, ruộng đất ra đi sau những
ngày bị binh lính Tập đoàn quân 62 và bọn “thổ phỉ” tay chân Trung Quốc
cướp phá. Bọn thổ phỉ này chính là quân của Vũ Kim Thành. Đây không
phải là một bước đầu đã làm được cho “quần chúng nhân dân” “quý
chuộng” các lãnh tụ đã xuất ngoại và cái chính phủ ma ở Móng Cái chỉ tồn
tại được tới cuối tháng 10, khi Tiêu Văn ép được Nguyễn Hải Thần hợp tác
với chính phủ ông Hồ trong một mặt trận thống nhất chống Pháp.

Trong lúc Đồng minh Hội gây ra sự tàn phá suốt dọc miền đông bắc
Bắc Kỳ, thì lực lượng của Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân Đảng) và
của Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) đi theo tập đoàn quân 93 Vân Nam,
cũng tiến hành những bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành làng tây
bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú Thọ.

Giữa lúc ông Hồ đang tính toán đối với những người Quốc gia lưu
vong từ Trung Quốc về thì tôi nhận được công văn phản đối của Bạch từ
Sài Gòn gửi tới và đã mang ra thảo luận với ông Hồ. Ông đồng ý với nội
dung công văn của Bạch và với một vẻ đau khổ và nhịn nhục, ông nhận xét
thêm là những nỗi lo sợ xấu nhất của ông nay đã thành hiện thực. Ông
ngẫm nghĩ “Giá mà có được một cách nào để chặn được cuộc tấn công dữ
dội không thể tránh khỏi”. Ông nói riêng với tôi là đã có nhiều người của
Giàu, đêm trước đã tới gặp, mang theo nhưng tin tức làm nản lòng. Sự việc
ông đưa ra, về căn bản không khác gì mấy đối với các báo cáo của Dewey,
nhưng tôi nghĩ các quan điểm và sự sáng suốt của ông thì thực đáng chú ý
đặc biệt.

Ông Hồ đã chỉ trích mạnh mẽ quyết định của Gracey về việc thả tù
binh Pháp lúc ban đầu. Ông Hồ nghĩ rằng các tù binh Pháp đó ngoài việc
tức tối đối với người Nhật đã cầm tù họ, họ còn khinh miệt người Việt
Nam trước đây đã coi họ như những ông chủ và chúa tể. Ông Hồ thấy
những người Pháp này, cũng như các đồng hương của họ ở Đông Dương,
đang phải chịu đựng một tình trạng gây cấn về tâm lý. Trong 4 năm, họ đã
phục vụ cho Nhật và Vichy, rồi lại trở thành tù nhân của ngay những ông
chủ mới này, trong khi đồng bào của họ ở miền Bắc đã chiến đấu (ít nhất

thì cũng trong dư luận của tù binh) oanh liệt cho nước Pháp của De Gaulle.
Vì vậy, theo ông Hồ phân tích, chỉ có một cách duy nhất dể làm cho lương
tâm họ được thanh thản là phải làm được một cái gì gây xúc động cực kỳ
mạnh mẽ, như cuộc đảo chính ở Nam Kỳ. Đó sẽ là một điều rất dáng tiếc,
ông Hồ nói thêm. Người Pháp sẽ không bao giờ trở lại được Việt Nam,
trước khi “nhân dân sẽ tiêu hủy đất nước này và hy sinh cho đến người đàn
ông, đàn bà và trẻ con cuối cùng”.

Ông Hồ nhận định việc Mounbatten giao cho Gracey đảm nhiệm công
việc ở miền Nam là một sự lựa chọn kém cỏi. Gracey là một sĩ quan thực
dân thâm căn cố đế, chỉ biết phục vụ cho sự tồn tại của nền trật tự cũ. Có
nổi loạn, ông Hồ nói, và chỉ có người Pháp và “những người bạn thực dân”
của họ đã không chịu chấp nhân một sự thực là Việt Nam đã là một nước
độc lập, người Pháp là những người ngoại quốc; và từ năm 1940, người
Việt Nam đã sống qua được một cách đàng hoàng không có họ.

Với một thái độ trầm ngâm, ông Hồ nhận xét, “Tôi mong rằng Đồng
minh sẽ giải thích cho những người mới tới (chỉ những người theo De
Gaulle) mục đích của Hiến chương Đại Tây Dương”... Điều mà ông muốn
nói đúng là “… tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc được sự lựa chọn
hình thức chính quyền mà họ muốn…” Đó là điều… mà ông chắc chắn Mỹ
đã nắm được nhưng còn Anh?... Nhưng rồi với một vẻ thất vọng, ông nói
thêm chỉ có đấu tranh vũ trang của nhân dân Việt Nam chống kẻ thù của họ
mới có thể giải quyết được số phận tương lai của đất nước ông.

Suốt trong tuần lễ trước, mỗi một lần gặp ông Hồ, tôi lại mất đi cái
cảm giác ông không còn kiểm soát được trọn vẹn tình hình nữa. Ông đã để
lại cho tôi một ấn tượng là nắm rất chắc các sự kiện đang bao vây lấy ông:
trước hết là người Pháp ở miền Nam, rồi người Trung Quốc ở phía Bắc, sự
ly khai về chính trị và chia rẽ nội bộ, và thường xuyên là tình hình kinh tế
nguy ngập. Mọi sự đều không phải là tốt đẹp cho Việt Minh cũng như cho
Việt Nam. Vì vậy, trong “ông già” là cả một mớ các cuộc đấu tranh. Mắt
ông lóe sáng vì thích thú và vì giận dữ. Nhưng bao giờ ông cũng giữ được
chủ động một cách thích đáng.

Tình hình miền Nam xấu đi đã kéo theo một sự xói mòn về cơ sỏ chính
trị của ông Hồ ở miền Bắc. Một tuần sau khi Tam và Thần về tới Hà Nội,
một số các báo chí tiếng Việt đại diện các người quốc gia thân Trung Quốc
đã đưa ra những bài với tít lớn - “NGƯỜI PHÁP CHIẾM LẠI NAM KỲ”.
Các bài tường thuật của họ, còn xa mới đúng sự thực, nhưng cũng đạt được
mục đích mô tả Việt Minh là bất lực và có khi là phản bội. Cũng ngày hôm

đó, 20-9, tờ nhật báo tiếng Hoa, lần đầu tiên đăng tin Tam và Thần về tới
Hà Nội, cùng với một lời khẩn cầu Quốc dân Đảng (Trung Quốc) ra tay
“cứu vãn” nền độc lập của Việt Nam.

Tôi không ngạc nhiên về việc những tin tức trên lại không làm cho ông
Hồ mất vẻ bình thản gần như thụ động trước cuộc tuyên chiến công khai
của người Quốc gia thân Trung Quốc. Ông đã có lần nói với tôi về “một kế
hoạch đối phó với bọn tay sai này”, nhưng tôi không rõ ông đã cho tiến
hành chưa? Tại sao ông lại dung thứ cho các hoạt động phá hoại của họ
trong khi ông có đủ quyền hành và lực lượng để tiêu diệt họ? Ngoài cái lợi
thế được Trung Quốc đỡ đầu, điều gì đã làm cho những người thân Trung
Quốc tỏ ra liều lĩnh như vậy? Tôi đề ra các thắc mắc này với ông Hồ.

Ông Hồ trả lời: chúng chỉ là một sự quấy rầy chứ không phải là một
mối đe dọa, giống như “con bọ chét bám vào lưng chó” mà người ta phải
chịu đựng nếu không phải vì lý do nào khác hơn là vì phải coi họ như
những miếng mồi để đút lót các viên tướng Trung Hoa. Ông Hồ cho rằng
mục tiêu trước mắt cao nnất của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) là nhằm giữ
người Pháp đứng ngoài Đông Dương, và ủng hộ cho phong trào quốc gia
cho đến khi Trung Quốc giành được thắng lợi trong cuộc điều đình với
Paris. Ông đã cuộc rằng khi nào mà Việt Nam hoặc một chế độ thân Trung
Quốc còn nắm được chính quyền thì Pháp không thể mưu tính một cuộc lật
đổ ở miền Bắc.

Từ những ngày mới tới Trung Quốc, tôi đã dược biết những người Việt
lưu vong là một nhóm người xuất dương đi tìm đường giải phóng dân tộc.
Nhưng ngoài Việt Minh ra thì họ thiếu sự liên kết về chính trị và thiếu lãnh
đạo. Họ chống Cộng quyết liệt, dựa hẳn vào sự ủng hộ của Trung Quốc
hoặc Nhật và sự đồng tình của Mỹ. Trong số hội viên Đồng minh Hội và
Quốc dân Đảng mà tôi đã tiếp chuyện, tôi thấy họ hoàn toàn không có các
chương trình kinh tế xã hội để giải quyết các nhu cầu của quần chúng. Họ
nói đến “nắm chính quyền”, nhưng thực tế không ai biết chắc là sẽ để làm
gì. Họ đã mất phương hướng một cách đáng thương hại trong lĩnh vực
chính trị, vì nhiều người được coi là lãnh tụ, như Nguyễn Hải Thần, người
đã sống xa đất nước quá lâu ngày ở Trung Quốc... Tôi đã phải kết luận
rằng… họ chỉ có động cơ vì quyền hành và lợi ích cá nhân. Đã nhiều lần,
tôi nghe họ nói: “Chúng tôi sẽ nắm chính quyền vì chúng tôi có nhân dân
và chúng tôi sẽ phục vụ nhân dân”. Nhưng không phải chỉ có họ đã quên,
mà cả người Pháp, cũng như người Mỹ sau này, đã thất bại trong việc tranh
thủ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân.

Ông Hồ vững vàng hơn, ông đã nhắc cho tôi biết nhiều lần là chỉ có
Việt Minh mới có một chương trình hành động có thể thực hiện được và
được nhân dân Việt Nam ủng hộ. Theo nhận xét của riêng tôi, tôi đồng tình
với niềm kiêu hãnh đó. Tuy vậy, ông vẫn coi như còn có vấn đề, vì trong
một số giới, đặc biệt là trong tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta vẫn
gán cho ông và đảng ông cái chiêu bài “Cộng sản”. Những người Quốc gia
thân Trung Quốc lại không bị như vậy, do đó ông đã phải làm mọi cách có
thể được để gạt bỏ tất nhiên không phải là triết lý mà là cái nhãn hiệu nói
trên.

Trong tháng 8 trước đây ở Tân Trào, mọi người đã thống nhất ý kiến là
phải bằng mọi giá tránh cho được, không để nổ ra xung đột vũ trang với
quân Tưởng hoặc những người Quốc gia lưu vong. Để đạt được mục đích
đó, Việt Minh muốn nhấn mạnh vào nhiệm vụ của người Trung Quốc chỉ là
giải giáp quân Nhật, và nếu cần thì Việt Minh sẽ phát động quần chúng để
tiến hành một cuộc phản đối không vũ trang để vẫn duy trì được quyền
kiểm soát của Chính phủ trong khi hợp tác với người Trung Quốc để giúp
họ làm nhiệm vụ trên.

Kế hoạch của ông Hồ đã đặc biệt nhằm cô lập Việt Nam Quốc dân
Đảng và Đồng minh Hội, và dùng áp lực của quần chúng để chống lại họ.
Tiến hành đấu tranh vũ trang với họ chỉ là phương sách cuối cùng. Nếu
như các viên tướng Trung Hoa lại ra mặt ủng hộ phe đối lập, thì ông Hồ
sẵn sàng thỏa hiệp để bảo toàn được các mục tiêu của cách mạng.

Cơ hội đã đến gần. Tôi biết đã có một cuộc họp bí mật vào đêm 19-9
giữa ông Hồ và Nguyễn Tường Tam và ông này đã đề nghị hợp nhất Đại
Việt của ông với Việt Minh. Một ngày trước đó, Nguyễn Hải Thần cũng có
một đề nghị tương tự cho Đồng minh Hội. Họ đã bất ngờ chuyển quyết tâm
sang cộng tác với Việt Minh chỉ vì họ thấy ông Hồ đã nắm được chính
quyền, còn họ đã bị gạt ra ngoài. Ông Hồ có được một bộ máy chính trị tổ
chức hoàn hảo, một chính phủ đang còn tồn tại và được sự ủng hộ mạnh
mẽ của nhân dân, kể cả những người không phải là Cộng sản. Con đường
duy nhất mở ra trước mắt họ là hợp tác cho tới khi ông Hồ và Việt Minh bị
mất uy tín và họ nắm được chính quyền nhờ vào sự giúp đỡ của Trung
Quốc. Họ đề nghị đánh đổi cho ông Hồ sự ủng hộ về tài chính cùng với sụ
hỗ trợ của Trung Quốc để nắm lấy tổ chức của ông và sự đồng tình của
quần chúng.

Khi tôi đưa những đề nghị đó ra thảo luận với Giáp, ông dứt khoát
không đồng ý. Theo ông, những đề nghị đó không có giá trị và không thật

thà. Nó chẳng khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị
của Trung Quốc. Về mặt tài chính, nhân dân sẽ tiêu dùng với cái mà họ có
và sẽ tiêu dùng ít đi nếu như điều đó là cần thiết để giữ gìn nền độc lập của
họ. Nhân dân sẽ “chẳng bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính nghĩa của họ
để đổi lấy đollar Trung Quốc”.

Hoàng Minh Giám, một nhà ngoại giao xã hội thực dụng, lại có một
quan điểm thực tế hơn. Ông nghĩ rằng những đề nghị đó cũng có thể được
coi như là một phương sách nhất thời. Một sự hợp nhất của tất cả các
nhóm Quốc gia có thể sẽ làm giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực
cho Việt Minh, làm yên tâm người Trung Quốc, còn người Pháp sẽ phải lo
nghĩ. Nhưng điều quan trọng hơn cả, sẽ là việc Việt Nam ra mặt được với
Đồng minh, và đặc biệt là đối với Mỹ, dưới hình ảnh của một chính phủ
thực sự “dân chủ”.

Bản thân tôi cho rằng, ở đây, ông Hồ sẽ sử dụng đến cái chiến thuật
thắng lợi thường dùng nhằm điều đình, trì hoãn, tranh thủ thời gian, chờ
thời cơ thuận lợi sẽ đánh trả, để giành lại những mục tiêu cơ bản của ông.

Tạ Quang Bửu, người thanh niên thông thạo tiếng Anh của Giáp, thỉnh
thoảng cũng góp thêm sự hiểu biết về các sắc thái của cuộc rối rắm ở
Trung Quốc. Bửu có ý kiến là mặc dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập,
nhưng ở Trung Quốc vẫn có hai lực lượng đấu tranh với nhau và cả hai đều
mong muốn làm chậm lại việc người Pháp quay trở lại Việt Nam càng lâu
càng tốt. Quốc dân Đảng Trung Quốc cho việc chiếm đóng là một cơ hội
để ép Paris phải nhân nhượng. Các tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán,
lại coi việc chiếm đóng là một dịp cổ truyền để cướp đoạt, gây dựng một
nguồn và thị trường lâu dài để buôn lậu, và mở rộng quyền sở hữu của họ
ra vùng ngoài biên giới Trung Quốc.

Ngay sau khi vào Việt Nam, cả hai lực lượng Trung Quốc nói trên đã
xung đột với người Pháp cũng như người Việt. Người Pháp đã cộng tác với
Trùng Khánh từ đầu tháng 8, nhưng lại thấy Lư Hán ngoan cố và thực tế
chống đối lại họ. Còn ông Hồ, ông cũng đương đầu lại với mối đe dọa có
thể bị đánh đổ bởi các đối thủ chính trị do Trung Quốc nuôi dưỡng, nhưng
cũng may mà phe đối lập của ông lại đang bị ở trong một tình trạng chia rẽ
nghiêm trọng.

Theo Bửu, tình trạng chia rẽ đó sẽ tác động đến những nhà chính trị
quốc gia Việt Nam vì các viên tướng Trung Hoa ở Việt Nam cũng xung đột
nhau về chính sách chiếm đóng. Tiêu Văn, đại diện Quốc dân Đảng, ủng hộ
chính sách 14 điểm về chiếm đóng. Nhưng trong 14 điểm đó thì ít nhất

cũng có tới 4 điểm là nguồn thường xuyên gây bực bội cả cho tướng Lư
Hán và cho Pháp: 1- mời một đại diện Pháp tham gia buổi lễ tiếp nhận đầu
hàng, 2- duy trì cơ cấu công nghiệp và việc điều hành công tác chính phủ
cho tới khi thực hiện xong việc thương lượng giữa nhà chức trách chiếm
đóng và người Pháp; 3- đòi hỏi người Pháp ở Hà Nội phải yêu cầu “người
Việt Nam” cung cấp lương thực và vận chuyển cho các lực lượng chiếm
đóng (Bộ Ngoại giao Trung Quốc sẽ điều đình về các hiệp định thanh
toán); và 4- giữ một thái độ trung lập đối với các mối qua hệ Pháp - Việt.

Các điểm này, Bửu nói, không có gì phù hợp với lời tuyên bố cao
thượng gán cho Tưởng rằng “người Việt Nam sẽ dần dần đạt tới độc lập
phù hợp với những nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương”. Tôi nói
với Bửu rằng không có gì chứng thực là Tưởng đã phát ra bản tuyên bố đó.
Theo tôi hiểu thì đó là việc của Tiêu Văn chỉ nhằm để tuyên truyền, không
được Trung Khánh thông qua. Tôi nói cho Bửu hay là chúng tôi có được tờ
thông báo của Đồng minh Hội phân phát rộng rãi ngày 10-9, bốn ngày
trước khi Lư Hán tới Hà Nội. Nội dung nói đại diện cho chính sách của
Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và từ dó có thể hiểu là của Tưởng. Bửu đọc
tờ thông báo và cũng cho rằng đó mới là chính sách của Trung Quốc, trong
dó có đoạn viết:

“… Người Trung Quốc ủng hộ Hiến chương Đại Tây Dương,... và các
cường quốc Đồng minh không hề có tham vọng đất đai (ở Đông Dương)...
Các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương sẽ là cơ sở cho một chế
độ quản lý tự trị trong lúc này, để rồi có thể đưa đến một nền độc lập của
dân tộc, và các nguyên tắc đó của Hiến chương Đại Tây Dương sẽ là
phương châm chỉ đạo (sic) cho người Trung Quốc ở Đông Dương”.

Đại sứ quán chúng ta ở Trùng Khánh cũng bị tuyên truyền của Đồng
minh Hội làm cho mê muội và đã bắt tôi phải xác định một lời tuyên bố
trong báo chí ở Côn Minh, nói là của tướng Lư Hán, mà người ta cho rằng:
“ông đã tuyên bố trong một cuộc họp báo chính thức ở Hà Nội ngày 5-9 là
ông có thiện cảm với phong trào độc lập dân tộc của người An Nam và với
cuộc biểu tình của họ chống lại hành động của người Anh trong việc “xúi
giục người Pháp đã kéo cờ Pháp lên và dùng vũ lực chiếm các cơ quan của
người An Nam (2).

Cũng trong buổi họp đó, tướng Lư Hán đã tuyên bố là Trung Quốc
không tham vọng đất đai ở Đông Dương và mệnh lệnh của Tổng thống
Tưởng Giới Thạch chỉ nhằm mục đích giúp đỡ cho các dân tộc nhỏ yếu
thực hiện được nền độc lập và tự trị của nước mình”.

Trả lời của tôi cho Trùng Khánh đã vạch ra sự thật. Không thể có cuộc
họp báo nào của Lư Hán vào ngày 5-9 ở Hà Nội được vì lúc đó ông ta đang
ở Trung Quốc và cho tới ngày 14-9 vẫn chưa tới Hà Nội. Nhưng Tiêu Văn
thì ở Hà Nội lúc đó và đã có gặp nhiều đại diện báo chí. Và nếu như Tiêu
Văn đã đưa ra bản tuyên bố nói là của Lư Hán, thì cũng có thể hiểu là Tiêu
Văn có ý định muốn tranh thủ sự bảo đảm của Lư Hán đối với kế hoạch
của Trùng Khánh nhằm nhanh chóng kết thúc thắng lợi cuộc thương lượng
Pháp - Hoa và nhanh chóng chuyển quân đội Lư Hán trở về nội địa Trung
Quốc.

Khi đi sâu vào lập trường 14 điểm của Tưởng, rõ ràng ông ta không có
ý định để cho mình bị dính líu vào cuộc đấu tranh giữa Pháp - Việt. Tưởng
vẫn coi Pháp là một cường quốc thế giới có thế lực trong các nước Đồng
minh và không muốn cho vai trò Pháp ở Đông Dương bị thử thách. Từ khi
Roosevelt chết, chủ nghĩa chống thực dân Mỹ đã phải chuyển theo ý kiến
của Anh và Pháp là muốn cho Đông Nam Á trở lại nguyên trạng cũ và
Tưởng thấy đứng về phía những người cách mạng Việt Nam chống lại liên
minh thực dân phương Tây là một điều vô chính trị.

Lư Hán đã mạnh mẽ gạt bỏ 14 điểm của Quốc dân Đảng và quở trách
Tiêu Văn, ông quan niệm chính sách Quốc dân Đảng là thiển cận và chủ
trương hủy bỏ lập trường lâu năm của Trung Quốc đi theo các nguyên tắc
Hiến chương Đại Tây Dương. Cố gắng của Tiêu Văn để lừa khéo Lư Hán
vào lập trường của Quốc dân Đảng trong thực tế đã mang lại những kết
quả ngược lại. Lư Hán chủ trương chiếm đóng lâu dài Đông Dương, đặt
Việt Nam dưới quyền bảo trợ của Trung Quốc, và phải lâu dài Việt Nam
mới được độc lập mà không cần đến sự giúp đỡ của người Pháp. Sự ác
cảm của ông ta đối với người Pháp mà ông cho không phải vì họ là người
da trắng mà còn là chống Trung Quốc, là một nguyên nhân thường xuyên
làm cho Quốc dân Đảng bực bội. Suốt trong thời gian Trung Quốc chiếm
đóng, cá nhân Lư Hán với tất cả khả năng của mình, đã làm thất bại mọi kế
hoạch của Pháp nhằm giành lại quyền kiểm soát ở miền bắc Đông Dương.
Vào đầu tháng 8, tướng Alessandri đã được Hà Ứng Khâm cho phép đi
cùng với người Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng sau đó Lư Hán đã chặn
ông lại cho tới tận ngày 19-9.

Sự chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn đã phản ánh trực tiếp tới những
người Quốc gia Việt Nam đi theo họ: Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt
bám lấy quan điểm của Lư Hán về chiếm đóng lâu dài và đặt quan hệ hữu
nghị với các tướng quân phiệt Vân Nam; Đồng minh Hội lại đi theo chiến

thuật của Tiêu Văn, muốn cho Nhật nhanh chóng rút lui và quân Lư Hán
cũng thoái triệt về Trung Quốc để Nguyễn Hải Thần lãnh đạo toàn quốc
với sự bảo trợ của Quốc dân Đảng (Trung Quốc). Người ta sớm thấy cả hai
phái đã phải đấu tranh vối Hồ Chí Minh và Việt Minh, bất chấp cả đường
lối chính trị chung và sách lược.

QUỸ MUA VŨ KHÍ
Ông Hồ không phải chỉ có những vấn đề chính trị phải giải quyết.
Trước hết là người Nhật, sau đó là người Trung Quốc, đã đòi hỏi phải nộp
những món tiền lớn để “chi tiêu cho việc duy trì trật tự và pháp luật cùng
các công việc chính khác”. Từ ngày 1-9, mọi thuế khóa đã dược bãi bỏ, và
thực tế không còn một khoản thu nào cho ngân sách Nhà nước. Trong khi
dó thì Ngân hàng Đông Dương đã đóng các tài khoản của Chính phủ và
tuyên bố Chính phủ “phá sản”. Các khoản chi tiêu hàng ngày thì còn có thể
giải quyết được từ nguồn này nguồn kia. Nhưng trong tình hình đó thì
không sao có thể đề xuất ra được những chương trình dài hạn. Thực tế
phần lớn các cơ quan hành chính sự vụ đều do các người lao động của
Đảng phục vụ dựa trên nguồn sinh sống nhỏ nhặt của mình và dựa vào sự
ủng hộ của một số người Việt có cảm tình. Đó chủ yếu là một Chính phủ
của những người tình nguyện không ăn lương.
Nhưng có một chương trình quan trọng bậc nhất đối với Chính phủ ông
Hồ lúc đó là việc kiếm vũ khí và đạn dược. Nguồn cung cấp chủ yếu trước
đây vẫn là các kho tàng của Pháp và Nhật. Nhưng quân đội Trung Quốc đã
tịch thu những kho này, và người Trung Quốc đã nhanh chóng báo cho Việt
Minh biết là họ có thể có đủ vũ khí Nhật, Pháp và cả Mỹ (3) thông qua
những người Trung Quốc, nếu như họ đồng ý các “điều kiện”: giá cả phải
chăng, trả tiền ngay, và có thái độ cộng tác với người Quốc gia thân Trung
Quốc.
Đứng trước 2 mối đe dọa: của người Pháp ở miền Nam và những người
Quốc gia thân Trung Quốc ở miền Bắc, ông Hồ cảm thấy việc cung cấp
cho nhu cầu quốc phòng phải là việc ưu tiên bậc nhất. Sau khi để hết tâm
trí suy nghĩ và dựa theo ý kiến của những người trợ thủ gần gũi của ông,
Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, ông Hồ đồng ý cho thi hành một biện
pháp dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân. Ngày 4-9, Chính phủ
cho đặt ra quỹ Độc lập do Bộ trưởng tài chính Phạm Văn Đồng chủ trì.
Tuần lễ 16 đến 22 tháng 9 được mệnh danh là Tuần lễ Vàng, để cho tất cả
những người công dân yêu nước, kể cả những người không phải gốc Việt

Nam, cũng sẽ quyên góp cho quỹ chi tiêu về quốc phòng. Hai tuần lễ sau
khi quốc gia mới ra đời, Chính phủ đã kêu gọi quyên góp lập lại quỹ để
giúp cho đất nước có thể tồn tại.

Phạm Văn Đồng đã mở đầu Tuần lễ Vàng bằng một lời kêu gọi về một
sự đóng góp cá nhân... Buổi quyên tiền đã được tổ chức chu đáo trước tòa
nhà Chính phủ... Với nhiều bàn phủ trắng... micro.. âm nhạc... và thỉnh
thoảng có người lên kêu gọi... Nhiều người Việt Nam khá giả, một số mặc
áo dài quan chức, tiến lên các bàn và đặc đồ quyên góp lên trên... Nhưng
ngày đầu thực không đáng phấn khởi. Số đông quần chúng chỉ đến xem mà
không có quyên góp gì. Cả ngày chỉ thu được một khoản nhỏ mọn 100 ký
vàng và khoảng 5 vạn đồng bạc.

Ông Hồ vốn không hào hứng với ý kiến bắt nhân dân phải đóng góp
phần của cải nghèo nàn của họ, đặc biệt là đối với những người nghèo, để
mua vũ khí; nhưng đây là vì đất nước đang ở trong một tình trạng tuyệt
vọng, và các cố vấn của ông đã đảm bảo rằng đó là biện pháp duy nhất. Sau
buổi lễ nghèo nàn đó, Đồng và Giáp đã thuyết phục được ông Hồ là chỉ có
lời kêu gọi của ông mới phát động được quần chúng nhân dân. Ông Hồ
đồng ý, nhưng với điều kiện là ông sẽ không trực tiếp ra mắt, và cử Đồng
thay mặt đọc lời kêu gọi.

Thứ hai, 17-9, Đồng đọc lời kêu gọi của ông Hồ, bắt dầu bằng câu “Vì
mắc bận không thể tới được, nên tôi gửi lời kêu gọi đồng bào toàn
quốc…”. Giải thích việc quyên góp là cần thiết “để chống lại những mưu
mô xâm lược của đế quốc Pháp”, ông Hồ nhấn mạnh ông kêu gọi chủ yếu...
các gia đình khá giả. Về ý nghĩa của Tuần lễ Vàng, ông nói “đây không
phải chỉ có nghĩa của một cuộc quyên góp để phục vụ cho việc bảo vệ đất
nước, mà còn mang theo một ý nghĩa chính trị quan trọng (4). Có thể ông
cũng ngầm muốn nói rằng một khoản lớn của quỹ này sẽ được dùng để
thỏa mãn lòng tham của Trung Quốc.

Bức thông điệp của ông Hồ thế mà ăn tiền. Suốt trong 6 ngày tiếp theo,
hàng đoàn những người khá giả và nông dân bình thường đã lũ lượt đến
đặt lên trên bàn các đồ quý giá gia truyền của gia đình họ: dây chuyền,
đồng hồ, vòng, nhẫn, hoa tai bằng vàng bạc và đá quý... Một tuần lễ sau,
báo chí địa phương công bố đã quyên góp được 129 ký vàng và 1,5 triệu
đồng. Báo chí đánh giá đó là kết quả của một cuộc quyên góp “hết sức hào
hiệp”, nhưng tôi cho là còn khiêm tốn nếu so với tiền của những nhà giàu
Việt Nam. Tôi không có điều kiện để xác định số tiền quyên góp được là
bao nhiêu và cũng chẳng biết được Trung Quốc đã “lấy” bao nhiêu.

Về sau ông Hồ nói với tôi, “Tôi cảm thấy như là một kẻ phản bội”
trong khi cho phép “diễn cái trò này”, khi thấy “mỗi đồng xu” chạy vào túi
người Tnmg Quốc, và mặc dù ông kêu gọi những gia đình “khá giả”,
nhưng thực tế đồ vàng bạc, của tế nhuyễn... đều do những người nghèo khó
mang đến, còn các thương gia, địa chủ giàu người Việt và Hoa lại chẳng
góp được bao nhiêu.

Sau khi rời Việt Nam, tôi được toán của chúng tôi báo cho biết là
khoản tiền thu được lớn hơn rất nhiều so với khoản tiền đã được công bố,
và ít nhất cũng có tới 2/3 số đó đã chạy vào túi người Trung Quốc qua con
đường mua bán súng ống và chạy chọt về chính trị. Điều đó đã được Võ
Nguyên Giáp xác nhận vào năm 1975, khi ông viết số tiền quyên được là
“20 triệu đồng và 370 ký vàng” (5).

Vấn đề tài chính của ông Hồ còn bị những tình hình khó khăn làm cho
phức tạp thêm. Quân Trung Quốc tới, đầu tiên đã làm nảy nở nạn chợ đen
về thuốc lá Mỹ, bánh kẹo, quân trang, vũ khí ngày càng bành trướng, đặc
biệt trong cộng đồng người Hoa. Một bao thuốc lá Mỹ giá 16 đồng... Giá
hối đoái 1 dollar Mỹ ăn 14 kim viên nhưng giá chợ đen phải là 20 kim
viên. Người Trung Quốc mua 1 dollar bằng 200 kim viên. Giá chính thức ở
Trùng Khánh là 100 kim viên, ở Côn Minh là 150 đến 175 kim viên.

Điều nổi bật ở thị trường tài chính tháng 9 ở Hà Nội là tìm đổi tiền kim
viên Trung Quốc để lấy dollar Mỹ và đồng bạc Đông Dương. Tuy rằng
hành dinh của tướng Lư Hán tỏ ra như không quan tâm gì làm đến việc đổi
chác tiền Trung Quốc này nhưng Trùng Khánh thì rất lo lắng. Đã có lệnh
cấm các nhân viên người Mỹ không được đổi tiền kim viên, trừ trường
hợp được cơ quan tài chính Trung ương cho phép, và tất cả người Mỹ
trước khi rời Trung Quốc bắt buộc phải kê khai và gửi lại tiền dollar ở
Trung Quốc. Điều hạn chế này, cùng với tin đồn đại là Trung Quốc sẽ quy
định lại giá hối đoái đã làm cho những người buôn tiền cảnh giác và làm
cho thị trường tiền tệ phải chững lại, ít hoạt động trong một thời gian.

Tuần lễ Vàng cũng đã ảnh hưởng đến việc kinh doanh tiền tệ, nhất là
giá vàng đã hạ từ 1.900 xuống 1.500 một lạng. Người ta cho rằng vàng mất
giá là do người Trung Quốc tung ra tin đồn Chính phủ Việt Nam sẽ tịch thu
vàng, hoặc để Chính phủ chi tiêu, hoặc mệnh lệnh của Lư Hán để cung
phụng cho Thống đốc Long Vân.

Những đòi hỏi về tiền của người Trung Quốc và Nhật, việc buôn bạc,
và sự biến động trong giá cả tiền tệ; tất cả những cái đó đã tác động tai hại
đến nền kinh tế và tài chính Việt Nam. Nhưng Chính phủ của ông Hồ chỉ

loạng choạng mà không sụp đổ, chủ yếu nhờ cái quyết tâm của nhiều
người đã phục vụ sự nghiệp công cộng mà không đòi hỏi tiền lương.

TẠI SAO NGƯỜI PHÁP LẠI BỊ LOẠI TRỪ?
Vào ngày 13-9, Sainteny lại đến kêu ca với tôi. Ông không bằng lòng
về “mối quan hệ hữu nghị không cần thiết giữa người Nhật và người Trung
Quốc”. Điều làm ông không chịu là việc Pháp bị gạt ra ngoài cuộc thương
lượng Trung - Nhật về vấn đề đầu hàng. Cũng khá lạ là cuối ngày hôm đó,
tôi cũng nhận được một yêu sách tương tự của ông Hồ. Một cảm giác nghi
ngờ đã nảy sinh một sách vô tình trong các mối giao tiếp bình thường giữa
người đại diện các nước Đồng minh và Nhật.
Đúng là Sainteny đã không thể chấp nhận sự việc là trong các điều
khoản của Hội nghị Postdam đã không ghi nhận có Pháp trong cuộc thương
lượng đầu hàng. Còn về phía ông Hồ, ông có ý kiến là “Chính phủ thực tế”
của ông cũng cần phải biết tương lai của Việt Nam sẽ ra sao và người
Trung Quốc sẽ bày vẽ ra cái gì.
Theo ông Hồ, người Trung Quốc không những gian lận mà còn phạm
tội ác trong việc nẫng tay trên các tài sản của Nhật, mà ở đây tôi hiểu là vũ
khí và các đồ quân dụng, và đồng thời đã cho chở một số lớn các kho
lương thục và vật phẩm về Trung Quốc.
Hai ngày sau, Salnteny đến gặp tôi lần nữa để thảo luận việc tướng Lư
Hán đến trong ngày hôm trước và lại nêu vấn đề Pháp tham gia vào việc
đầu hàng của Nhật. Tôi đã nói thẳng ra rằng tôi biết không có kế hoạch cho
người Pháp tham gia vào việc giải giáp cũng như hồi hương Nhật và cũng
nhắc lại cho Sainteny hay là trước khi chúng tôi rồi Côn Minh, tôi đã được
báo cho biết rõ là nhiệm vụ nói trên đã chỉ được giao cho người Anh ở
miền Nam và người Trung Quốc ở miền Bắc.
Sainteny tiếp tục nêu vấn đề và chất vấn là người Pháp có còn được coi
như là một nước thành viên trong Đồng minh nữa không. Tôi khẳng định
là còn, nhưng nhận xét là rõ ràng vì lý do tiếp tế hậu cần mà Pháp đã
không tham gia vào chiến tranh Thái Bình Dương và tức là cũng đã không
tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh chống Nhật. Hơn nữa, theo hiệp
định Postdam, mà tướng De Gaulle và Bộ Tổng tham mưu Pháp đã biết, thì
nhiệm vụ giải quyết với Nhật ở Bắc Đông Dương đã được đặc cách giao
riêng cho Tưởng. Đúng là người Pháp đã bị gạt ra ngoài, nhưng cả người
Mỹ, Anh và Hà Lan cũng thế.

Lời đáp thẳng thắn và trung thực này đối với một câu hỏi đầy tính
khiêu khích của Sainteny đã bị nhiều nhà văn xuyên tạc đi cho là người
Mỹ đã “nhẫn tâm” và “chống đối” và cũng đã có những hậu quả lâu dài
trong mối quan hệ Mỹ - Pháp (6).

Tôi biết rằng Sainteny chẳng thích thú gì câu trả lời của tôi, và ông đã
gây cho tôi cái cảm giác là ông cho rằng việc Pháp bị gạt ra ngoài là do lỗi
tại người Mỹ, và đặc biệt là do tôi. Tôi đã không thể nào làm khác được
trong khi cả Paris, Calcutta và Trùng Khánh cũng không tán thành vai trò
tự đặt cho mình là đại diện của nước Pháp ở Đông Dương của ông ta. Đã
nhiều lần ông ta thú nhận với tôi, điều mà sau này ông đã viết trong hồi ký
(7) - rằng ông hoàn toàn không nhận được nhiệm vụ chính thức hoặc chỉ
thị về Đông Dương, và mặc dù ông đã nhiều lần kêu gọi Trùng Khánh,
Calcutta và Paris xác định quy chế chính thức của ông ở Hà Nội, nhưng
ông đã chẳng bao giờ nhận được trả lời và chức quyền mà ông mong
muốn.

Rõ ràng là Sainteny và bộ tham mưu của ông đã nuôi dưỡng những tình
cảm đối lập mạnh mẽ đối với OSS và nước Mỹ, những tình cảm mà từ
1945 đến 1954, qua những ẩn ý và những lời nói cạnh, được truyền tới các
giới quan chức Paris (De Gaulle, Messmer, Massu, Hoppenot...) như là
một sự “phản bội của Mỹ” đối với một “đồng minh trung thành” (8).
Trong một số nhận xét của cơ quan tham mưu của ông gửi cho người Pháp
ở Hà Nội, nhóm tình báo DGER đã gán tất cả những sự rối ren của người
Pháp ở Đông Dương cho một âm mưu của Đồng minh nhằm gạt Pháp ra
khỏi Đông Dương. Những lời giải thích ngược lại của tôi đều không có giá
trị.

Nhân việc có mặt Lư Hán ở Hà Nội, Sainteny hỏi tôi Mỹ sẽ có phản
ứng gì trước cuộc điều đình Pháp - Hoa để cho quân đội của Alessandri trở
lại Bắc Kỳ. Tôi bảo ông rằng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không có gì phản đối.
Đó là một vấn đề của Trung Quốc. Tưởng có toàn quyền hành động, còn
người Mỹ, theo quy định, thuộc quyền chỉ huy quân sự của ông. Tôi đảm
bảo với Sainteny rằng nếu Tưởng cho phép Wedemeyer dùng máy bay Mỹ
chở quân Pháp sang Bắc Kỳ, thì Bộ chỉ huy Mỹ sẽ thi hành. Nhưng tôi
nhấn mạnh đây phải là một sự thỏa thuận Pháp - Hoa giữa những người
cầm đầu các nước ở Paris, Washington và Trùng Khánh. Theo ý tôi, những
cuộc dàn xếp ở địa phương chỉ đầy cạm bẫy và trắc trở. Sainteny không
phải không đồng ý với sự phân tích của tôi, nhưng vẫn hy vọng cứu vãn

được sự rút lui nhanh chóng một mình của Pháp ở miền Bắc, một công tác
không có khả năng thực hiện được.

Như là một thủ thuật của ông gần đây, Sainteny kết thúc cuộc viếng
thăm bằng cách nêu thêm một khó khăn. Ông ta nói nhỏ cho biết, ông lo
ngại người Trung Quốc, nhất là người của Lư Hán, xúi người Việt “bắt
cóc” ông. Lý do nêu ra là vì ông đã hoạt động chống Trung Quốc. Tôi cho
ông đã quá cường điệu, nhưng chúng tôi cũng sẽ để ý giúp ông.

Đi sâu vào vấn đề nhận xét của Sainteny chung quanh cuộc thỏa hiệp
Pháp - Hoa, thì ý kiến của Sainteny về vấn đề bắt cóc tỏ ra là phi lý. Tôi
xem nó chỉ như là một mưu mô nhằm làm áp lực đối với chúng tôi để đưa
thêm quân Pháp tới, nhưng tôi cũng báo cáo nỗi lo ngại của Sainteny với
Côn Minh và gợi ý cũng không nên coi trọng vấn đề này cho đến khi có
được chứng cứ mới.

CUỘC ĐẤU ĐÁ - LƯ HÁN CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG
TRUNG QUỐC

Nhiều vấn đề nổi lên san khi Lư Hán tới đã làm cho tôi gặp rất nhiều
khó khăn trong vị trí một sĩ quan chính trị cao cấp nhất ở đây. Người
Trung Quốc đến để giải giáp quân Nhật, nhưng cho đến ngày 16-9 tôi vẫn
chưa moi được ở Lư Hán hay bộ tham mưu của ông kế hoạch và thời hạn
đế xúc tiến việc đó. Trong khi người Nhật tiếp tục giữ thái độ “bàng quan”
của những khán giả đã bị chinh phục, chờ đợi hảo tâm của Đồng minh, thì
ba hoặc bốn ngàn trong số họ đã biến đi theo phong trào bí mật Liên Á.
Những tin tức từ Sài Gòn đã kích động mạnh tinh thần chiến đấu của người
Pháp, nhưng Lư Hán vẫn từ chối đến cả việc nói chuyện với họ. Người Việt
Nam đang đấu tranh đã đưa tất cả những sự tranh chấp của họ lên sân khấu
chính trị địa phương. Mọi vấn đề càng trở thành phức tạp ở Hà Nội.

Tôi nhẹ người khi được tin tướng Gallegher đã lên đường sang Hà Nội.
Không phải vì ông ta có thẩm quyền về các vấn dề chính trị, nhưng vì ít ra
thì ông cũng có cấp bậc để công tác thuận lợi hơn với người Trung Quốc
và người Nhật. Nhiệm vụ của ông ta thuần túy chỉ là giúp cho tướng Lư
Hán trong việc chấp nhận sự đầu hàng và hồi hương quân Nhật đã bị tước
vũ khí.

Chiều 16-9, tôi đón ông ở sân bay, nhưng ông đã làm tôi ngạc nhiên khi
ông cho hay là Trùng Khánh hỏi về việc tổ chức buổi lễ tiếp nhận đầu hàng
chính thức ở Hà Nội. Vấn đề rắc rối là ở chỗ vai trò của người Pháp và sự
có mặt của người đại diện ngoại giao cấp cao nhất của Nhật, Thống chế bá

tước Terauchi lại ở Sài Gòn. Quốc dân Đảng (Trung Quốc) rất nhạy cảm
với địa vị của Pháp trong khối các nước Đồng minh và sự có mặt của họ ở
châu Á là việc Trung Quốc hoàn toàn không thể không đếm xỉa tới. Tổ
chức ngày lễ đầu hàng chính thức ở Hà Nội mà không có mặt người Pháp
tham dự có thể bị Paris coi như là một sự xúc phạm và Tưởng rất không
muốn hứng chịu lấy điều nguy hiểm đó.

Cũng còn có vấn đề Tổng hành dinh Tập đoàn quân phương Nam của
Nhật ở Sài Gòn. Tưởng còn đang bị nhức nhối về vấn đề người Anh ở
Hongkong nên không muốn bị lôi kéo vào một cuộc tranh chấp khác về
pháp lý với người Anh. Đúng ra, việc đầu hàng của quân Nhật ở Đông
Dương sẽ phải được Térauchi, với tư cách Tư lệnh tối cao của Nhật tiến
hành, nhưng ông lại ở trong chiến trường thuộc Mounbatten. Đã có gợi ý
là Téranchi đầu hàng với người Anh theo đúng như quy định trong bản
Mệnh lệnh chung số 1 và cho phép Tsuchihashi ở miền Bắc giao nộp vũ
khí cho người Trung Quốc và người Trung Quốc sẽ phụ trách cả việc hồi
hương quân Nhật thuộc quyền Tsuchihashi ở phía bắc vĩ tuyến 16. Về
nguyên tắc thì việc thu xếp như thế cũng có thể chấp nhận được đối với
Trùng Khánh; Tưởng cũng có thể phải thỏa mãn với một cuộc đầu hàng về
mặt “hành chính” và để cho Mounbatten tiến hành buổi lễ chính thức của
ông ta ở Sài Gòn, mà ở đó thì người Pháp chắc chắn sẽ được tham dự. Nếu
như thế, bản bị vong lục của Trung Quốc gửi cho phái đoàn Nhật ở Khai
Viễn ngày 2-9 cũng đủ làm cơ sở để cho xúc tiến công việc.

Nhưng Lư Hán bất mãn. Ông cảm thấy mình bị xếp xuống vai trò của
một người “quản lý hành chính” so với Trương Phát Khuê, vốn được giao
nhiệm vụ quân sự tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật một cách ầm ĩ ở Quảng
Đông. Lư Hán bị mất mặt. Ông phản đối với tướng Hà Ứng Khâm và khẩn
khoản yêu cầu phải tổ chức một buổi lễ chính thức ở Hà Nội. Tướng Hà
đồng ý nhận sẽ xem xét đề nghị của Lư Hán nhằm để tránh không phải xáo
trộn kế hoạch nhằm gạt bỏ Thống đốc Long Vân khỏi căn cứ địa của ông ta
ở Vân Nam. Nhưng cho đến ngày 17-9, Hà Nội vẫn không nhận được quyết
định gì về vấn đề này.

Thêm một vấn đề gay cấn khác. Tướng Gallagher nhận được chỉ thị
của Hành dinh Chiến trường, yêu cầu Lư Hán cho máy bay chở tướng
Alessandri tới Hà Nội. Lư Hán lại cực lực phản đối để cho Trùng Khánh
thấy rằng Alessandri chỉ có thể tới Hà Nội nếu như buổi lễ tiếp nhận đầu
hàng được tổ chức tại đó. Lư Hán chưa nhận được chỉ thị tổ chức buổi lễ

nên ông cho rằng không có lý do chính đáng để Alessandri có mặt tại Hà
Nội, nếu không thì việc đó chỉ kích động rối loạn.

Gallagher báo cho Lư Hán biết là mệnh lệnh của Trùng Khánh là dứt
khoát phải tôn trọng. Lư Hán vẫn không lay chuyển. Nhưng về sau,
Gallagher đã cho tôi hay là cũng đã thu xếp được cho Alessandri và một
người Pháp khác được đi tới Hà Nội vào ngày 19-9.

Gallagher và tôi đã thảo luận về việc Alessandri có mặt ở Hà Nội và tôi
đồng ý với Lư Hán là việc đó gây ra nhiều vấn đề, nhưng không phải như
Lư Hán quan niệm. Tôi nêu ra mối thâm thù đã có từ lâu giữa Lư Hán và
Alessandri, và lý do để nghĩ rằng người Trung Quốc muốn ở lại lâu dài
chẳng qua cũng chỉ nhằm để cướp đoạt đất nước này một cách triệt để và
có lợi nhất cho Long Vân. Nếu Alessandri về trong lúc này, ông ta có thể
kéo theo số quân Pháp ở Trung Quốc đi cùng hoặc từ Sài Gòn ra, nhưng
ông ta cũng có thể có ý đồ xin giải thoát cho số tù binh hiện còn ở trong
Thành. Là một thủ lĩnh theo phái De Gaulle, chắc chắn Alessandri sẽ có
mưu đồ cho xúc tiến nhanh việc Pháp chiếm đóng lại Việt Nam và người
Trung Quốc phải rút sớm về nước, và như vậy là trực tiếp chống đối lại
với kế hoạch của Lư Hán. Gallagher cảm ơn về những nhận xét của tôi và
nói ông sẽ cảnh giác đối với các cuộc vận động của Pháp.

Gallagher có hỏi về vai trò của Sainteny, và tôi dã kể lại các hoạt động
của nhóm tình báo Pháp từ khi chúng tôi tới Hà Nội. Sainteny cũng đã yêu
cầu được gặp Gallagher và tôi đã khuyên Gallagher không nên nhận lời
trong lúc này, tốt nhất nên chờ cho đến khi Alessandri tới, tuy ông ta cũng
chẳng có chức vụ chính thức hoặc một chỉ thị chính trị cơ bản nào của
Paris. Gallagher đã đồng ý.

MỘT CUỘC TRAO ĐỔI VÔ VỊ
Tôi báo cho Sainteny biết tin Alessandri sẽ đáp máy bay tới Hà Nội, và
cơ quan DGER có được 2 ngày để chuẩn bị bố trí đón. Đoàn thể cộng đồng
người Pháp trong một trạng thái hết sức phấn chấn vì họ biết là tướng
Alessandri sẽ đến để “nắm lại tình hình”. Alessandri và Leon Pignon (9)
tới sân bay Gia Lâm, đúng vào giữa lúc cuộc thương lượng ở miền Nam
tan vỡ, và Cédile đã có một cuộc họp báo với một đường lối cứng rắn. Họ
đã được đưa nhanh chóng về hành dinh của Sainteny mà không ai hay.
Nhờ có việc Alessandri và Pignon tới nên hoạt động của nhóm
Sainteny trước đây ở mức thấp nay đã có một quy mô mới. Thái độ ngoan
cố của Cédile và Gracey ở Sài Gòn đã gợi cho Sainteny biết đây là lúc

thuận lợi để mở cuộc nói chuyện với Hồ Chí Minh. Ông ta báo cho ông Hồ
biết Pháp hoan nghênh một cuộc hội nghị giữa ông Hồ và một đại diện
Pháp ở Ấn Độ. Ông Hồ đã từ chối: ông không muốn gặp một người trung
gian mà phải là De Gaulle. Alessandri đành phải gác vấn đề đó lại sau.
Ông thuyết phục Đô đốc Thierry D'Argenlieu (10), Cao ủy Pháp đã được
chỉ định cho Đông Dương, lúc đó ở Calcutta, nên gặp một đại diện của ông
Hồ. Nhưng ông Hồ không được hỏi ý kiến trước! Nên khi Alessandri báo
cho ông Hồ biết một lần nữa là D'Argenlieu muốn gặp ông, ông Hồ vẫn
cho rằng đó chỉ là một cuộc hội nghị giữa Pháp và đại diện của ông nên đã
yêu cầu Cựu hoàng Bảo Đại thay mặt cho ông.

Ngày 22-9, tôi cùng với tướng Gallagher đến gặp ông Hồ vì ông muốn
hỏi ý kiến chúng tôi về đề nghị gặp gỡ của Pháp. Chúng tôi phát biểu, tốt
hơn hết là hai bên nên có một cuộc nói chuyện trực tiếp với nhau, nếu ông
không đồng ý với những gì mà người Pháp đề nghị thì ông có quyền không
chấp nhận. Ông Hồ cho biết ông cũng đã có trao đổi vấn đề này với tướng
Lư Hán, vì cuộc gặp có liên quan đến việc đi lại bằng máy bay mà chỉ
Trung Quốc mới có khả năng giải quyết vấn đề. Lư Hán tránh mặt trong
lúc này, nhưng cho biết ông ta có thể thu xếp cho một máy bay trong vòng
10 hay 12 ngày. Gallagher và tôi cho rằng cuộc gặp gỡ cũng chẳng có hại
gì và chắc ông Hồ sẽ chấp nhận. Tôi nói thêm, nếu Pháp thực hiện được lời
mời đã được đưa ra thì điều đó cũng có thể coi như là một dấu hiệu tỏ ra
Pháp có ý định công nhận chính phủ độc lập của Việt Nam. Ông Hồ nắm
lấy ý này và quyết định thôi không cử người thay mặt mà tự mình sẽ đến
hội nghị. Nhưng ông sẽ chỉ tới gặp nếu như người Pháp đồng ý hội họp ở
Trung Quốc và có một quan chức Mỹ tham gia như quan sát viên.

Sau này, khi có những tin tức dữ dội về vụ giết hại Dewey, tôi đến gặp
ông Hồ, và Hoàng Minh Giám đã kéo tôi ra một nói để nói cho biết về câu
chuyện Pháp mời và cuộc gặp gỡ đã xảy ra. Giám, với danh nghĩa Bộ
trưởng Ngoại giao, đã nhận dược một giác thư của Alessandri nói về một
cuộc gặp gỡ giữa “Pháp và dân An Nam do đảng Quốc gia Cách mạng đại
diện”. Bản giác thư đã chẳng nói gì đến cuộc gặp gỡ giữa ông Hồ và
D'Argenlieu, mà chỉ có hàm ý nói đến việc ông Hồ được mời.

Giám rất lo lắng trước sự mê muội không thể tưởng được này của
người Pháp. Ông cho rằng người Pháp nếu không phải là láo xược thì cũng
là đần độn, nên trong các tầng lớp nhân dân, mới chọn một phần tử Việt
Nam Quốc dân Đảng đã chết rồi làm người đại diện cho nhân dân Việt
Nam. Nhưng dù sao đi nữa thì điều đó chỉ biểu thị sự ngoan cố của Pháp

trong việc từ chối không chịu công nhận nền độc lập của Việt Nam, khi họ
đã không mời ông Hồ với tư cách là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Cộng
hòa Việt Nam tới dự họp.

Cuộc trao đổi vô vị này đã làm cho ông Hồ, hơn bao giờ hết, hoài nghi
về sự thành thật và các ý đồ của Pháp. Nó cho ông thấy Pháp chỉ muốn lợi
dụng ông, chứ không quan tâm điều đình một cách có thiện chí. Ông Hồ đã
coi như không biết đến bản giác thư, và mọi kiểu điều đình của Alessandri
đã không mang lại kết quả.

NHỮNG BỨC THƯ ỦY NHIỆM KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN
ĐUỢC

Những tin tức về bản tuyên bố số 1 của Gracey lan tới Hà Nội một cách
hết sức nhanh chóng và đã khuấy động tình cảm dân chúng Pháp đến cao
độ. Chỉ có lời kêu gọi mạnh mẽ của Alessandri với cộng đồng người Pháp
và tù binh ở trong Thành mới có thể duy trì được tình hình không để cho
bùng nổ. Tướng Lư Hán bực dọc và đã báo cho người Pháp, tuy chưa được
chính thức công nhận là ông ta sẽ không cho phép người Pháp biểu dương
sự đồng tình với các đồng bào của họ ở miền Nam. Người Việt Nam, Cộng
sản cũng như chống Cộng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh đáng khen, nhưng
cũng rất cảnh giác. Riêng chỉ có người Nhật tỏ vẻ trung lập một cách trơ
tráo.

Tối hôm đó, tôi gặp cán bộ của ông Hồ, và cùng nhau kiểm lại tình
hình trong ngày. Qua câu chuyện, tôi được biết ngày hôm trước ông Hồ có
nhận được một thông báo của hành dinh tướng Mounbatten yêu cầu báo
cáo về quân số và vũ khí của quân đội Việt Nam. Đối với yêu cầu phi lý và
xấc xược này, ông Hồ đã chỉ thị cho Chu Văn Tấn (11) từ chối không báo
cáo và chỉ thị cho Giám gửi một bản phản đối chính thức với danh nghĩa
của Chính phủ Việt Nam cho Mounbatten. Đêm đó, 21 - 22 tháng 9, cũng
là một đêm vô cùng khó khăn. Trong ngày, Gracey đã tuyên bố thiết quân
luật ở miền Nam, và suốt đêm đã diễn ra những hoạt động không bình
thường ở Hà Nội. Không xảy ra bạo lực, nhưng đã có một loạt các hoạt
động khẩn trương chuẩn bị, hội họp và, ánh đèn thâu đêm ở Bắc Bộ Phủ.
Người Âu thì đi lại giữa các nhà thủ lĩnh Pháp. Cảnh sát Việt Nam được
báo động, đã chặn hỏi một số người Âu và người Việt, nhưng cũng không
có ai bị bắt giữ.

Sáng hôm sau, tướng Alessandri đến gặp tướng Lư Hán để yêu cầu
được công nhận là đại diện của Ge Gaulle ở Hà Nội. Lư Nán tiếp ông ta ở

nơi trước đây là dinh của vị Toàn quyền Pháp, nhưng gần như chỉ một phút
sau, ông đã rút lui, để cho Tham mưu trưởng của ông, tướng Mã, làm việc
với Alessandri. Tướng Mã giải thích là người đại diện duy nhất được ủy
nhiệm đối với Chính phủ Trung Quốc và người duy nhất được tướng Lư
Hán công nhận là người phát ngôn của Chính phủ Pháp và viên Đại sứ
Pháp ở Trùng Khánh. Để xoa dịu Alessandri, Mã báo cho ông biết nhiệm
vụ của Lư Hán là giải giáp quân Nhật và các công tác có liên quan. Ông sẽ
không dính líu gì tới các vấn đề chính trị cũng như các cuộc xung đột Pháp
- Việt. Còn đối với người Pháp ở Việt Nam, trong thời gian chiếm đóng, họ
sẽ được đối xử như những người ngoại quốc khác.

Sự từ chối này là một điều thất vọng cay đắng nhất cho Alessandri, vì
ông vẫn bám lấy ý nghĩ rằng người Pháp phải được coi như là Đồng minh,
chứ không phải là người nước ngoài. Ngón trả thù của Lư Hán thực sự là
ngọt đậm.

Trong hoàn cảnh nhục nhằn như vậy, Alessandri lại phải chịu đựng một
sự hạ mình hơn nữa. Một sĩ quan của Sainteny đã tìm gặp một sĩ quan
tham mưu Trung Quốc để yêu cầu cung cấp nhà ở, nơi làm việc, máy chữ...
Yêu cầu đã bị khước từ vì “không được phép”. Alessandri phản đối. Người
Trung Quốc trả lời là tướng Lư Hán coi những yêu cầu đó là “không cần
thiết cho người Pháp ở Việt Nam”.

Sau việc người Trung Quốc ở Hà Nội từ chối, không công nhận
Alessandri và Sainteny là quan chức đại diện của Pháp; cả hai đã tìm gặp
Gallagher. Ông này rất có thiện cảm nhưng cũng chẳng giúp đỡ được gì.
Một lần nữa, Alessandri lại thất vọng vì ông vẫn mong đợi một sự ủng hộ
nào đó của Mỹ. Sau cùng, Sainteny lại tìm đến tôi để nhờ giúp đỡ về các
mặt quản trị hành chính. Nhưng tôi cũng chịu thua vì không có chỉ thị nói
phải giúp cho Pháp thiết lập một hành dinh của Pháp ở Việt Nam.

Sau này, Gallagher cho biết Sainteny yêu cầu cho một chuyến bay để
ông ta về Côn Minh và Gallagher đã hứa giải quyết. Ông hỏi ý kiến tôi. Tôi
nói rằng, mặc dù chiến dịch chống Mỹ của Sainteny đã gây ra tai hại cho
chúng ta, tôi vẫn muốn khuyên ông ta ở Hà Nội hơn là ở Trùng Khánh hay
Calcutta; vì ở đó nhất định ông ta sẽ tiếp tục báo cáo láo về tình hình Hà
Nội và phá hoại uy tín của Mỹ. Nhưng nếu như Gallagher tán thành đề
nghị của ông ta và để ông ta đi, thì ông ta cũng sẽ không đặt ra vấn đề gì
phản đối với OSS Côn Minh.

MỘT SỰ THỎA THUẬN NGẦM

Ngày nhục nhã cho Alessandri và Sainteny cũng là một ngày đầy rẫy lo
phiền cho người Việt Nam: điện báo từ Sài Gòn đưa ra tin Gracey đã cho
chiếm Khám Lớn và thả bọn lính dù của Cedile; sau đó lại có tin số tù binh
được thả ra tấn công bừa bãi vào người Việt Nam, trên các đường phố Sài
Gòn.

Ông Hồ sợ rằng người Trung Quốc có thể theo gương của Gracey ở Sài
Gòn, nên ngay chiều hôm đó ông đã gặp tướng Lư Hán. Cuộc gặp gỡ tỏ ra
hết sức hữu nghị. Lư Hán nói với ông Hồ về cuộc viếng thăm trước đó của
Alessandri và lời từ chối của cá nhân ông không công nhận những người
Pháp ở Việt Nam làm đại diện chính thức cho nước Pháp và đã không ấn
định quy chế chính thức cho họ.

Ông Hồ nêu vấn đề bản Tuyên bố số 1 của Gracey và trình bày mong
muốn của ông thấy không cần thiết phải áp dụng những biện pháp tương tự
ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Lư Hán đảm bảo với ông không có gì phải lo ngại
đối với việc người Trung Quốc can thiệp vào việc điều hành công tác
chính quyền, nhưng chỉ với một điều kiện: Trung Quốc sẽ phải can thiệp
nếu như chính quyền của ông Hồ tỏ ra có dấu hiệu yếu đuối hoặc bất lực,
không đối phó được với việc duy trì trật tự trên mọi lĩnh vực. Ông Hồ đảm
bảo với Lư Hán là ông có thể nắm chắc được tình hình, dù cho có thể có
những trở ngại nhỏ của một số ít người Việt “Quốc gia quá hăng hái”. Tất
nhiên ở đây, có thể mỗi người hiểu theo một phách. Lư Hán đồng ý sẽ cho
xúc tiến sự ủng hộ “nhiều hơn nữa”.

Tối hôm đó, ông Hồ khẳng định với tôi là ông đã yên tâm nhiều qua lời
đảm bảo không can thiệp của Lư Hán. Tuy vậy, ông vẫn còn rất lo ngại đối
với tình hình Nam Kỳ. Ông được biết Leclerc đang trên đường sang Việt
Nam cùng với tàu bè và vũ khí của Đồng minh. Ông hỏi tôi tin tức đó có
xác thực không. Tôi nói tôi không rõ. Nhưng có một việc theo quan điểm
của tôi thì hành động của người Anh và thái độ tự tin của người Pháp ở Sài
Gòn cho thấy có khả năng có lực lượng viễn chinh Pháp đang đổ bộ vào
vùng đồng bằng (Nam Bộ). Rõ ràng trong khi chúng tôi nói chuyện với
nhau, chẳng một ai đã hình dung dược việc Cédile cho làm cú đảo chính và
chỉ ngày hôm sau đã thấy Chính phủ Việt Nam bị bật ra khỏi Sài Gòn, dân
chúng bị tấn công ác liệt trên đường phố và nhiều nạn nhân bị bắt bớ hàng
loạt.

Trong tình trạng báo động về những sụ việc đang tiến triển đó, Côn
Minh cũng chẳng báo cho tôi biết chút tiến bộ gì trong kế hoạch chuẩn bị
cho việc đầu hàng, nên tôi lại phải đến bàn với Gallagher. Ông cũng chẳng

được tin gì của Trùng Khánh, nhưng cho rằng cuộc điều đình Pháp - Hoa
còn đang tiếp diễn và Trùng Khánh chưa muốn cho xúc tiến ngay việc
chiếm đóng của Trung Quốc cho đến khi lừa được người Pháp phải chấp
nhận các vấn đề đã được đặt ra.

Lư Hán thì lại không hài lòng về việc Trùng Khanh cứ tiếp tục im lặng
và đã báo cho Gallagher biết: nếu đến ngày 25-9 mà ông không nhận được
chỉ thị gì thì ông ta sẽ tự hành động theo ý kiến riêng của mình. Ông không
quên việc tướng Tsuchihashi cùng với các điều khoản về đầu hàng đã được
ấn định ở Khai Viễn, người Nhật đã ký vào đó trước sự hiện diện của
người Mỹ, cho nên chỉ còn có việc cho xúc tiến thi hành các điều khoản
nói trên.

Nhưng cuối cùng, ngày 24, tôi đã được Gallagher cho biết Lư Hán đã
được tướng Hà Ứng Khâm cho chính thức tổ chức buổi lễ đầu hàng. Cùng
ngày, tôi cũng nhận được một thiếp bằng chữ Trung Quốc mời tới dự buổi
lễ, với tư cách là một “vị khách đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc”.

KẾ HOẠCH ĐỀ PHÒNG BẤT TRẮC CỦA ÔNG HỒ
Cú của Cédile ở Sài Gòn đã làm bật ra một tinh thần đoàn kết dân tộc
mới giữa những người Việt Nam. Mọi phe phái đã nhất loạt gạt các bất
đồng sang một bên để đi theo Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống lại
người Pháp. Những người Thiên Chúa giáo ở Hà Nội có kế hoạch tổ chức
một cuộc mít ting để ủng hộ chương trình giành độc lập dân tộc của Việt
Minh vào ngày 23-9, nhưng tình cờ cũng đúng vào ngày hôm đó, tin tức về
cú của Cédile lan tới Hà Nội. Cuộc mít ting tự nhiên đã chuyển thành cuộc
biểu tình của người Công giáo phản đối sự ngoan cố của Anh - Pháp và
ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Giám mục người Việt J.B. Tòng (12)
thay mặt những người Công giáo Việt Nam gửi một bức thủ cho Giáo
hoàng yêu cầu ban phúc lành và đọc kinh cầu nguyện cho nền độc lập dân
tộc của Việt Nam.
Tôi thực không thể xác định được cuộc biểu tình của Công giáo ủng hộ
những người Cộng sản đó là chân thật hay chỉ là một sụ bày đặt. Nhưng rõ
ràng là tôi không thể tìm thấy một dấu hiệu gì là họ chống lại ông Hồ. Tôi
xúc động sâu sắc trước thái độ biểu thị sự ủng hộ của họ đối với sự nghiệp
độc lập dân tộc, và đặc biệt là sự trung thành tuyệt đối của họ đối với ông
Hồ. Trong những người Công giáo đang xuống đường, không có vấn đề
bàn cãi về chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Xã hội, hay một “chủ nghĩa” nào
khác. Vấn đề là độc lập dân tộc và tự do thoát khỏi ách thống trị nước

ngoài. Qua việc ủng hộ phong trào Việt Minh, lãnh đạo Giáo hội Thiên
Chúa giáo Việt Nam muốn tách mình và giáo hội ra khỏi một thực tế lịch
sử là họ đã làm công cụ cho việc thiết lập và nuôi dưỡng chế độ thuộc địa
Pháp ở Đông Dương.

Việt Minh đã hoan nghênh sự ủng hộ đó, tất nhiên không phải vì triết lý
tôn giáo, mà vì 2 triệu giáo dân cùng với 1.500 cha cố của họ, trong lúc
này ít ra thì cũng không phải là một lực lượng đối lập. Ông Hồ đã hết sức
thận trọng tránh không để xảy ra có bè phái về chính trị và bao giờ cũng
nhấn mạnh vào tính chất mặt trận dân tộc rộng rãi của Chính phủ. Ông đã
đặt một người Công giáo, Nguyễn Mạnh Hà, làm Bộ trưởng Kinh tế trong
chính phủ đầu tiên của ông, và ông đã hoan nghênh sự ủng hộ cá nhân của
những người Công giáo nổi tiếng như Ngô Tử Hạ, một chủ nhà in lớn giàu
có, và Giám mục Ngô Đình Thục, anh của Ngô Đình Diệm.

Khi tin tức về những sự việc tồi tệ ở Sài Gòn lan đến Hà Nội, người ta
đã vây kín cả phái đoàn OSS chúng tôi; nào là các phóng viên báo chí địa
phương và ngoại quốc, nào là các viên chức của chính phủ ông Hồ, của cơ
quan tham mưu Lư Hán và người của nhóm Alessandri, Sainteny. Ai cũng
muốn biết tin tức về những gì đã xảy ra hoặc xác định các tin tức do đài
phát thanh đưa ra.

Knapp nghe được một tin đồn là ông Hồ đã có ý định nghiêm chỉnh
đưa những người Quốc gia thân Trung Quốc vào Chính phủ. Chúng tôi đã
phỏng đoán nhiều về điều đó và được báo cáo là các đảng phái thân Trung
Quốc đã thu được nhiều thắng lợi ở các địa phương khác ở miền Bắc, nhờ
vào sự giúp đỡ mạnh mẽ của Trung Quốc như ở Lạng Sơn, Lào Cai, Cao
Bằng và Hải Phòng. Tin đồn quan trọng nhất là ông Hồ đã chịu xuống nước
để nhường chỗ cho Nguyễn Hải Thần, người được Tiêu Văn đỡ đầu. Các
nguồn tin thân cận với ông Hồ lại cho rằng Việt Minh sẽ không phản đối
Thần, và chỉ giữ lại những Bộ quan trọng trong nội các và ông Hồ sẽ đồng
ý làm Phó chủ tịch. Tôi đã đoán rằng Việt Minh cũng có thể chấp nhận một
sự hợp nhất như vậy cốt để tên lãnh tụ bù nhìn Trung Quốc có thể cứu trợ
về tài chính cho Chính phủ đang bị phá sản và Nguyễn Hải Thần bất lúc
cũng có thể là một kẻ kém nhất trong số bọn đang quấy nhiễu ông Hồ. Hơn
nữa, một sự thỏa hiệp như vậy, chắc chắn sẽ làm thỏa mãn được những yêu
sách của các viên tướng Trung Quốc đối với số tay chân Việt Nam của họ.
Nhưng, lập luận của tôi đã hoàn toàn sai.

Chiều hôm đó, ông Hồ báo cho tôi biết ông muốn mời tôi đến dùng
cơm tối, khá trễ, khoảng 9 giờ. Tôi biết ông bận rộn suốt ngày nên cái giờ

muộn mằn không bình thường này làm tôi ngạc nhiên, Và tôi đoán trước
rằng ông có vấn đề quan trọng gì muốn nói. Tôi đến ngay và thấy ở đấy đã
có nhiều người trong ban tham mưu thân tín của ông, có cả viên giám đốc
cảnh sát. Họ cũng đến ăn cơm cùng chúng tôi.

Tất nhiên, câu chuyện chính vẫn là tình hình Nam Bộ và ảnh hưởng của
nó. Lần đầu tiên người Việt Nam tiết lộ cho tôi biết mối quan tâm của họ
đối với các cuộc hành quân xâm lược của Anh - Pháp vào đất Lào, ở
Vientiane và Savanakhet. Qua hoạt động của OSS chúng tôi (13), tôi biết
đó là hoạt động của lực lượng hỗn hợp Anh - Pháp 136 thuộc cơ quan tình
báo Anh SOE. Ông Hồ rất quan tâm và nêu ra ý kiến là quân đội Pháp của
Leclerc có ý đồ muốn xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam thông qua vùng
cạnh sườn này. Ông đã ra lệnh cho tướng Chu Văn Tấn tăng thêm lực
lượng cho khu vực phía nam dọc theo sông Mekong và xử tử tất cả những
người Việt nào ăn tiền để làm tay sai cho Pháp. Có lúc, ông Hồ đã đến mức
phải nói là một “cuộc chiến tranh không tuyên bố” đã bắt đầu giữa Pháp và
Việt Nam, và “cuộc xung đột công khai cũng không còn xa xôi nữa”.

Dần dần trong bữa ăn, tôi mới biết được những tin tức khá sửng sốt.
Với một giọng kín đáo, ông Hồ tiết lộ cho biết nhân dân ông đang “triển
khai kế hoạch hoạt động chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh lâu dài chống
người Pháp”. Một cách bình thường, ông nêu ra ý kiến là một “chính phủ
bù nhìn Trung Quốc tạm quyền” cũng có thể chấp nhận được. Điều đó sẽ
cho phép ông và Các trợ thủ chủ yếu của ông “rút lui vào bưng biền để
lãnh đạo cuộc đấu tranh”, trong khi đó thì một người, như Thần chẳng hạn,
cùng một số ít Việt Minh tiêu biểu sẽ ở lại trong một chính phủ do Trung
Quốc đỡ đầu ở Hà Nội.

Kế hoạch của ông một tên trúng hai đích. Nó vừa có thể duy trì được
sự ủng hộ của người Trung Quốc và tức là của Đồng minh; vừa lại cho
phép ông Hồ và Việt Minh được tự do hành động để đánh Pháp mà không
gây thiệt hại cho công cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Minh. Tôi
mạnh dạn hỏi xem việc ông vắng mặt ở Hà Nội có lànm cho dân chúng
mất tinh thần và làm suy yếu phong trào quần chúng theo ông không? Lần
đầu tiên trong tối hôm đó ông mỉm cười, trả lời không có gì phải sợ. Ông
đảm bảo với tôi rằng ông được nhân dân tín nhiệm tuyệt đối, bất kỳ họ có
xu hướng chính trị nào, và ông chắc rằng họ sẽ hoàn toàn đi theo ông vì
nguyện vọng độc lập dân tộc. Bất chợt, với một chút hài hước, ông thêm
“ngay cả người Công giáo”; lúc đó tôi cũng phải cười. Phải chăng điều đó
có nghĩa là Chính phủ mới đã từ bỏ chương trình cải tạo xã hội chủ nghĩa

của họ, cũng như về mặt hình thức của Chính phủ? Ông Hồ cho rằng mọi
người sẽ vui lòng chờ đợi cho đến khi người Nhật, Trung Quốc và người
Pháp rời khỏi đất nước.

Câu chuyện lại chuyển sang về vấn đề người Pháp, và ông đưa ra ý
kiến muốn kiểm soát chặt chẽ hơn nữa số dân chúng Pháp ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Ông hỏi ý kiến tôi về biện pháp cho tập trung người Pháp lại
trong những khu vục xa các điểm dân cư đông đúc. Tôi không ngờ ông đã
có ý nghĩ này và cho rằng ông muốn dùng người Pháp làm con tin nếu như
Leclerc tiến quân ra Bắc. Tôi nói đó sẽ là một biện pháp quyết liệt, không
phải chỉ về mặt chính trị, mà còn cả về mặt tổ chức hậu cần. Sẽ đẻ ra vấn
đề tập trung người, vận chuyển, lán trại, tiếp tế và canh gác. Mà điều này
lại phải giải quyết cho không những chỉ đàn ông mà còn đàn bà, trẻ em, trẻ
và già. “Đúng như vậy”, ông nói, “người Pháp đã làm những cái đó cho
người Việt trong nhiều năm rồi, và chúng tôi cũng học tập được họ”. Tôi
đưa ra lý do là người Pháp sẽ không chấp nhận bất kỳ một hình thức tập
trung nào một cách tự nguyện và do đó sẽ phải cần đến lực lượng quân sự.
Ông đồng ý, nhưng nói thêm một cách gượng gạo: “chúng tôi cũng có đủ
nhân lực cần thiết cho việc bảo vệ họ”.

Điều làm cho tôi lo ngại là hình như ông Hồ nói về kế hoạch tập trung
của ông một cách hoàn toàn nghiêm chỉnh. Tôi gợi ý ông nên xem lại kế
hoạch đó và có thể cần phải trao đổi với tướng Lư Hán và tướng Gallagher
để tranh thủ ý kiến của Trùng Khánh. Tôi nói tôi không đồng ý vấn đề này
vì tôi chắc chắn rằng nó sẽ chỉ mang lại sự chống đối về chính trị và ngoại
giao có hại cho sự nghiệp của Việt Nam. Ông Hồ hứa sẽ xem xét lại.

Những lời đảm bảo cá nhân của Lư Hán cũng như sự thống nhất đoàn
kết về chính trị mới đạt được đã cổ vũ rất nhiều cho ông Hồ, nhưng ông
vẫn trao đổi với tôi điều làm ông lo lắng rất nhiều là việc thiếu giao thông
liên lạc giữa Tổng hành dinh của ông và Lâm ủy Nam Bộ, Giàu, Bạch và
Việt (14), đại diện của Trung ương, hoặc đã không nhận đọc chỉ thị của
ông.

Dù sao đi nữa, ông Hồ cảm thấy mình bất lực trong việc tác động đến
tình hình của miền Nam. Cả ngày hôm đó, ông Hồ và Ban thường vụ bị
mắc vào các cuộc hội nghị với người Trung Quốc và với các lãnh tụ Quốc
gia thân Trung Quốc. Các chỉ thị về kháng chiến, quan trọng hơn nữa là
các chỉ thị cá nhân của Trung ương gửi cho Lâm ủy Nam Bộ chỉ được gửi
tới chỗ Giàu và Bạch kèm theo những chỉ dẫn riêng của ông Hồ.


Click to View FlipBook Version