The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Phạm Xuân Ẩn - Tên Người Như Cuộc Đời
Nguyễn Thị Ngọc Hải

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-11-25 21:57:30

Phạm Xuân Ẩn - Tên Người Như Cuộc Đời

Phạm Xuân Ẩn - Tên Người Như Cuộc Đời
Nguyễn Thị Ngọc Hải

Phạm Xuân Ẩn - Ông là ai?

Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Phạm
Xuân Ẩn.sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20-9-2006 tại
TP.Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.

Những ngày này, trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí,
một số hãng thông tấn nước ngoài đều đưa tin nhà tình báo vĩ đại, tầm
cỡ thế giới, nhà báo chuyên nghiệp đã ra đi.

Những nhân vật nổi tiếng thường chinh phục người khác bằng tài
năng của chiến công, nghị lực và sức tỏa sáng từ phẩm chất của họ.
Nhưng với Phạm Xuân Ẩn, hình như là một ngoại lệ. Trông bề ngoài
ông cũng như bao người bình thường khác, thật khó phát hiện điều gì ẩn
chứa bên trong.

Năm 2002, sau gần 10 năm tiếp cận ông Ẩn, nhà báo, nhà văn
Nguyễn Thị Ngọc Hải đã hoàn thành cuốn sách về ông với tựa đề Phạm
Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời. Tác giả đã đi vào chiều sâu tinh tế
rất khó lột tả về tư chất, phong thái, nghề nghiệp ở ông.

Vẻ thầm lặng đôi lúc hài hước của ông có cái gì đó rất đặc biệt. Cuốn
sách đã phác họa chân dung với đầy đủ ý nghĩa cao quý của con người
như lúc sinh thời ông Ẩn thường tâm niệm: Tôi chiến đấu cho độc lập và
công lý xã hội.

Trong sách có đoạn viết: “Vị tướng đã yếu do bệnh và tuổi cao.
Dáng đi của ông hơi còng xuống, do cao gầy, hay là do thân thể ấy đã
mang vác một cuộc đời quá phong phú và gian truân. Chỉ vẻ mặt, đôi
mắt to đen, thông minh và đôi tai to, người trong nghề nhạc gọi là đôi
tai thẩm âm tốt, làm toát lên vẻ linh hoạt trẻ trung của một trí tuệ vẫn
mạnh mẽ”.

Cùng chung một cảm nhận với nhà báo, nhà văn Ngọc Hải, năm
2005, Jean-Claude Pomonti, nhà báo Pháp kỳ cựu của nhật báo Le
Monde, người nhiều năm quen biết, tác nghiệp cùng ông Ẩn đã viết
cuốn sách về ông với tựa đề: Người Việt thầm lặng (Nhà xuất bản
Editions des Equateurs) đánh giá rất cao phẩm chất làm báo của ông Ẩn.
Hơn thế, từ vỏ bọc một nhà báo chuyên nghiệp ở văn phòng tạp chí
Time, ông Ẩn đã làm nên sự bất ngờ, bởi chiến công của nhà tình báo
chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam. “Phạm Xuân Ẩn, người
Việt Nam mà phía Mỹ ưa chuộng nhất đã lừa chính quyền Hoa Kỳ từ
đầu đến cuối”.

Với trên 200 trang sách, Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời,
một cuốn truyện ký văn học của Nguyễn Thị Ngọc Hải lần đầu tiên đã
giới thiệu con người này với công chúng. Sau đó có các nhà văn, nhà
báo trong và ngoài nước đã và sẽ viết về ông. Nhưng với tác phẩm này,
đã gây được dấu ấn đối với bạn đọc, đặc biệt trong giới chính trị, quân
sự, tình báo và với những người viết văn. Cuốn sách đã đoạt giải thưởng
loại A của “Giải thưởng văn học về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình
yên cuộc sống 1995-2005” do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ
chức.

Rất nhiều bạn đọc đã đề nghị chúng tôi cung cấp thêm thông tin về
con người vĩ đại mà bí ẩn này. Được sự cho phép của tác giả, chúng tôi
xin giới thiệu lần lượt từng chương sách. Hy vọng với bút lực của nhà
văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, bạn đọc sẽ được gặp gỡ Thiếu tướng Phạm
Xuân Ẩn trong cuộc đời, như một con người bằng xương bằng thịt.

1
30 năm vẫn còn là bí mật

Peter Ross Range - “burô”, sếp của ông thời kỳ ở Việt Nam khi ông làm
cho tờ Time đã nghĩ ra hẳn tên một cuốn sách để khuyến khích ông viết
lại cuộc đời mình. Nếu không có câu chuyện của anh, một mảnh quan
trọng của lịch sử sẽ bị thiếu - Peter viết - Không ai có một câu chuyện
như anh để kể lại: làm việc trong một cơ quan báo chí Mỹ trong khi
cung cấp tin tức cho miền Bắc. Không ai có một cuộc đời như đời anh,
tham gia Việt Minh ở một lứa tuổi rất trẻ - Một câu chuyện lý thú biết
bao!

Peter thuyết phục một cách đầy hứng khởi. Ông ta còn đề nghị cái
tựa cho quyển sách ấy: A man of honor: The life of Pham Xuan An.

Bây giờ Peter đi dạy học và viết sách: Khi Miền Nam giải phóng,
ông ta về nước, dẫn theo cô bồ người Việt. Trong khoảng thời gian dài
sau này hình như họ đã ly dị. Thì Phạm Xuân Ẩn, năm nay cũng đã
ngoài 70, vẫn tính hài hước đặc sắc: “Thành họ nhà ma rồi còn gì” -
Thời gian đang trôi nhanh. Nói như triết, thì chẳng có gì mất đi hết, mặc
dù chẳng có cái gì tồn tại mãi. “Chuyển từ dạng này sang dạng khác”.
Các yếu tố tinh thần có như vậy không? Nó có chuyển các đặc điểm của

mình vào các thế hệ sau? Hay là nó mang đi theo các người già nằm
xuống? Có người không chịu viết hồi ký, vì dù có khách quan đến mấy
thì cũng viết về mình - Mà con người ta thường nhớ kỹ những điều hay,
quên đi điều dở… Nhưng cuộc đời của vô số trong số họ, đã là tài sản
tinh thần, là những số phận cụ thể không có viện bảo tàng nào giữ được,
nếu họ không ghi lại… Rồi đến con cái cũng chẳng hiểu ngày xưa bố mẹ
mình làm gì. Đó là những lý thuyết đối chọi nhau trong việc viết hồi ký.

Với Phạm Xuân Ẩn, lý do cũng mang đậm màu sắc khó tả: Ông
không viết hồi ký, từ chối tất cả các cuộc gặp gỡ báo chí để viết về ông.
Tuy nhiên ông sẵn sàng gặp với tư cách đồng nghiệp hay tình bạn. Vừa
mang đặc điểm thận trọng của nghề tình báo, vừa là ý thích của một
“ông già” tự thấy cần một cuộc sống thanh thản. Luôn tự trào, nhìn mọi
việc bằng cái nhìn hài hước: “Chẳng có ông già nào không bảo thủ hết.
Thay đổi là khó chịu. Dọn nhà là khổ. Tụi trẻ đang lên, anh này lấy cô
kia, chẳng sợ thay đổi. Nó chưa trải. Hồi nhỏ mình bạt mạng, nay thấy
con cái bạt mạng lại không cho. Thì mày trả giá bằng cuộc đời mày. Học
bài người khác trả tiền hơn là học bài mình trả…”

Ông đã trải đời mình cùng với lịch sử kháng chiến của Việt Nam, là
quân nhân trong ba quân đội khác nhau. Tham gia Vệ quốc đoàn khi 18
tuổi, bị trả về vì thiếu súng đạn, vũ khí lúc đó dành cho thành phần cơ
bản. Ông hòa vào phong trào học sinh sinh viên Trần Văn Ơn tại Sài
Gòn năm 1950.

Trở thành lính trong quân đội Pháp, không phải lính bộ binh, mà là
bí thư cho trưởng phòng lo về chính trị trong quân đội. Khi hòa bình lập
lại ở Đông Dương sau hội nghị Genève, Mỹ can thiệp dựng Ngô Đình
Diệm với chủ trương phá hoại Hiệp định, không chịu tổng tuyển cử
thống nhất Việt Nam sau hai năm như đã ký kết. Mỹ đổ tiền của vào
Việt Nam để giúp họ Ngô đứng vững. Ba cơ quan như cái trụ ba chân
được thành lập: Phòng thông tin Mỹ (USIS), Quân sự (MAAG) và kinh
tế hành chính (USOM). Đến năm 1962 USIS đổi tên là JUSPAO và
MAAG lấy tên là MACV, USOM lấy tên là USAID. Ông Ẩn do có tiếng
Anh và thạo nghề, nên lại trở thành nhân viên dịch thuật tại Bộ Tổng

tham mưu, tham dự vào việc thành lập những sư đoàn đầu tiên do Mỹ
tuyển chọn và đào tạo.

Năm 1957 ông là sinh viên Việt Nam đầu tiên đến học về báo chí ở
quận Cam và sống ở California trong hai năm. Ngày nay trong cuốn niên
giám của trường Đại học Columbia của Mỹ, ở trang 2 in hình và giới
thiệu về chàng sinh viên Việt Nam với tên Pham An, như mọi cuốn kỷ
yếu của các trường học. Nhưng không ai biết được ngoài việc học thực
sự kiến thức, chàng sinh viên ấy đã trở thành Đảng viên Cộng sản từ
năm 1953, được chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tuyển vào Chiến khu D
từ 1952.

Sang Mỹ học, Ẩn còn có nhiệm vụ tìm hiểu về văn hóa Mỹ vì Đảng
đã nhìn thấy sự dính líu sâu sắc của Mỹ đối với Việt Nam. Muốn chiến
thắng kẻ thù này, việc đào tạo những người có điều kiện như Ẩn,
“chuyển qua làm với Mỹ, phải được đào tạo trình độ phù hợp với yêu
cầu của Mỹ”. Sau khi học ở Mỹ về, Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí,
từ Việt Tấn xã dưới thời Ngô Đình Diệm, cho tới làm phóng viên cho
các hãng nước ngoài tại Việt Nam như Reuters, Time… Ông là người
Việt Nam duy nhất vào biên chế của hãng nước ngoài với lương rất cao
thời đó, 750 đô la một tháng. Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí và trở
thành ký giả thực sự có tên tuổi. Chỉ có điều khác lạ là ông còn trở thành
một vị Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang của Quân đội Nhân
dân Việt Nam.

Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là
tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với
ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông? Đó
là một nhân cách, một tài năng. Đời ông là một câu trả lời lớn cho nhiều
câu hỏi vẫn làm đau đầu nhiều người bạn Mỹ của ông. Đến hôm nay họ
quay lại đất nước này vẫn tìm ông để mong có câu giải đáp vì sao Mỹ
thất bại ở Việt Nam. Vì sao một trí thức giỏi và sống có nhân cách theo
“kiểu Mỹ” như ông Ẩn lại có thể là người đứng trong tổ chức chặt chẽ
của Quân đội Nhân dân Việt Nam, của ngành tình báo vốn đầy hiểm
nguy? Có những người Mỹ là bạn cũ trong giới báo chí của ông, nay đã

mất nhưng dặn lại con cái họ sang Việt Nam hãy tìm đến ông Ẩn. Họ
nói sẽ học được nhiều ở con người đó. Quả thật, cuốn sách viết về ông
nên có tên là “Người có cuộc đời bí ẩn như cái tên” - chứ không cần đến
cái tựa đề của Peter Ross Range đề nghị.

Bởi vì, cuộc đời ông không được ông viết ra bao giờ. Năm 1989, 14
năm sau ngày miền Nam giải phóng, Morley Safer chủ biên chương
trình 60 phút nổi tiếng của đài truyền hình CBS đã trở lại Sài Gòn, gặp
ông Phạm Xuân Ẩn như người bạn làm báo cũ trong thời kỳ chiến tranh.
Cuộc gặp gỡ này đã được viết thành hẳn một chương trong cuốn
sách Hồi tưởng: Khi trở lại thăm Việt Nam của Morley Safer do Nhà
xuất bản Random House xuất bản năm 1989.

Hãy xem dưới mắt nhà báo phương Tây, ông Ẩn đã hiện ra như thế
nào:

“Phạm Xuân Ẩn đang đứng nơi cổng sắt đã mở sẵn với một cặp chó
Đức kèm sát bên. Ẩn và những con chó thân yêu của anh ta. Anh ta
thường dắt chó đi khắp nơi, hay uống café buổi sáng ở khách sạn
Continental với con chó Đức thò cái mõm đen ra khỏi gầm bàn. Anh ta
tiến về phía tôi, mở rộng vòng tay choàng ôm hôn, một cung cách ít thấy
ở người Việt”.

Có lẽ Morley Safer đang sống lại những cảm xúc của một thời đã xa,
khi họ còn làm báo ở Sài Gòn và Continental là nơi họ tụ họp mỗi buổi
sáng vừa điểm tâm vừa trao đổi tin tức. Với Safer, lúc đó Ẩn là nhà báo
thực thụ của tuần báo Time, người rất nhạy bén về các vấn đề thời cuộc,
cả chính trị lẫn quân sự. Anh có nhiều mối quen biết quan trọng.

Lại lời Morley Safer: “Ở tòa báo Time anh được coi là người khôn
khéo. Ẩn luôn luôn được giao nhiệm vụ thuyết trình cho nhóm phóng
viên mới tới. Và cũng chính anh ta là người gỡ mối cho những vấn đề
chính trị rối mù của chính giới Việt Nam lúc đó. Anh là người cởi mở,
dấn thân và có óc hài hước, luôn được niềm nở tiếp đón trong các giới
quân sự và ngoại giao Việt - Mỹ và cũng là một trong số rất ít ký giả

Việt được cho phép tham dự các buổi thuyết trình hạn chế của phái bộ
Mỹ”.

Khi Safer đến gặp Phạm Xuân Ẩn muốn có người cùng đi là Patti
Hassler - nhà sản xuất chương trình 60 phút vì Safer không muốn ghi
chép như mọi lần hành nghề khác. Ông muốn có một nhân chứng cho
cuộc gặp này, để mọi chi tiết đều được ghi nhớ. Safer đã bộc bạch cái
cảm giác của người bình thường vẫn có khi bị làm nhân vật cho người
khác phỏng vấn. Đấy là cảm giác rất thật mà dân nhà nghề đã quan sát
được ở các nhân vật của mình. Thật chẳng an tâm chút nào khi đang nói
mà có người ghi chép, hoặc dễ sợ hơn nữa là có người dùng máy ghi âm.
Và Safer đã gặp ông Ẩn trong tư thế những bạn bè cũ cùng nghề, trao
đổi về thời cuộc.

“Ẩn rất ít thay đổi” - Safer viết - “Nay đã 61 nhưng trông anh vẫn ở
cái tuổi cách đây 30 năm. Có thể nói dáng anh vốn lòng khòng nay thêm
gầy đi và khô đét…”

Safer nói ông Ẩn còn là một bí mật. Thật ra điều đó chỉ đúng với
cảm giác của Safer, còn với người Việt Nam thì ông nếu có là một bí
mật thì chỉ là vì ông ít bộc bạch cuộc đời mình. Người Việt Nam đều
biết ông là Anh hùng tình báo, một Thiếu tướng được kính trọng. Không
ai còn hỏi như Safer hỏi hôm đó: “Anh đang còn là một bí mật. Dân
chúng vẫn chưa biết chắc là anh hoạt động cho phe nào. Vậy sự thật ra
sao?”

“Ẩn cười lớn: Sự thật? Sự thật nào mới được chứ? Có một sự thật là
trong 10 năm tôi là phóng viên cho tòa soạn tuần báo Time và trước đó
làm cho hãng Reuters. Một sự thật khác nữa là tôi gia nhập phong trào
cách mạng từ năm 1944 và là thành viên của họ từ đó với các chức vụ
khác nhau. Hai sự thật, hai sự thật… đều thật”.

Trong cái nhìn của Safer, ông Ẩn là một sự bí ẩn, cũng khó giải thích
và có những vấn đề chưa thể hiểu hết như chính cuộc chiến ở Việt Nam
mà Mỹ thất bại. Vậy là đối với các ký giả Mỹ như thế này, nhiệm vụ của

họ là “hai trong một”. Hiểu được những con người như Phạm Xuân Ẩn
cũng có thể tiến gần tới việc hiểu vì sao Mỹ thua cuộc. Và nếu nghề
nghiệp thúc đẩy họ với bản chất nghề báo “A nose for news” thì họ còn
muốn biết hơn thế: Nhìn nhận con đường phát triển hiện tại của nước
Việt Nam thông qua một con người đáng tin cậy. Ý muốn đó thôi thúc
Safer do phẩm chất cá nhân, và cũng do sự khách quan của một ký giả
lỗi lạc. Theo Safer, trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn,
chính ông Ẩn là người đã thuyết phục giới chức Mỹ đem đi di tản một số
bạn hữu của mình rời khỏi Việt Nam. Ông Ẩn cũng thu xếp để vợ và 4
con lên máy bay, còn mình thì ở lại.

Nhà báo Safer sau gần 15 năm Sài Gòn được giải phóng, vẫn không
hiểu làm thế nào ông Ẩn có thể giữ được bí mật tung tích riêng trong
suốt thời gian đó. Ông Ẩn đã bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng ra
sao? Ông phải làm nhiệm vụ gì trong suốt thời gian làm báo, và ông có
“làm gì” trong báo Time không? Ông có cách nào chuyển tin tức đi?
Ông có sợ mình bị phát hiện không? Điều gì xảy ra sau cái hôm mọi
người di tản? Tại sao cuộc cách mạng lại còn nhiều điều chưa thành
công trong cải cách? Người ta có rình rập ông không? Ông có được
quyền ra đi không? Ông có bao giờ hối tiếc về những điều đã làm và bây
giờ ông đã thấy kết quả?...

Chỉ xem qua những câu Safer hỏi cũng đủ biết người Mỹ còn vất vả,
thậm chí có những điều họ sẽ không sao hiểu hết trong mọi câu trả lời
của Phạm Xuân Ẩn. Dĩ nhiên, ông không trả lời theo công thức hoặc ít
ra cũng là để “giữ mình” một cách cần thiết. “Tại sao cuộc cách mạng
gặp những thất bại?” Safer hỏi về những suy thoái và khó khăn trong
cải cách hiện nay. Ông Ẩn không “sửa gáy” người hỏi để giữ cho mình
“có lập trường”. Ông đã nói thẳng thắn như xưa nay phân tích thực chất
các hiện tượng một cách khách quan. “Có nhiều lý do. Có quá nhiều lỗi
lầm chỉ vì sự dốt. Như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đây là cuộc
cách mạng nhân dân, nhưng dĩ nhiên chính nhân dân là thành phần đầu
tiên chịu khốn khổ”.

Ông cũng không ngại ngần nhận định: “Khi nào mà dân chúng còn
ngủ đầu đường xó chợ thì khi đó cuộc cách mạng còn thất bại. Không
phải do giới lãnh đạo là những người tàn nhẫn, nhưng đó là hậu quả
của chính sách cha chú của nhân dân cũng như các lý thuyết lỗi thời về
kinh tế”. Safer nhận thấy còn nhiều người nằm vỉa hè khi ông tản bộ trên
đường phố Sài Gòn vào ban đêm. “Khi tôi đề cập điều này thì Ẩn có vẻ
bối rối như là chính anh đã tiếp tay cho tấn thảm kịch. Tôi nghĩ, theo
một nghĩa nào đó anh ta đã có sự liêm khiết để biết hổ thẹn”.

Khi nghe ông Ẩn nhận xét về “những thất bại của cách mạng”, nhà
báo Mỹ không khỏi bật ra câu hỏi: “Anh không ngại phải nói thẳng ra
như vậy sao? Có nguy hiểm không?”

Ông Ẩn đã nói rằng mọi người đều biết ông nghĩ gì, vì ông không
giấu giếm những suy nghĩ trung thực của mình. Không phải bây giờ, mà
là từ ngày xưa, từ bản chất. Ông nhắc lại cho Safer nhớ cái thời họ cùng
làm báo ở Sài Gòn trước 1975: “Thời Thiệu, chính quyền ấy biết rõ là
tôi nghĩ gì về bọn trộm cắp ấy. Tôi đã quá già để có thể thay đổi”. Ẩn
cười lớn: “Tôi cũng quá già để mà câm miệng lại”.

Trả lời cho câu hỏi: “Trong những năm hoạt động đó anh có sợ mình
sẽ bị phát hiện không?” Ông Ẩn bộc bạch không lên gân giả dối: ông
nói mình sợ thường xuyên. Bởi luôn có nguy hiểm. “Anh đã biết vào
khoảng những năm 60 có tin đồn tôi làm việc cho CIA. Tôi muốn duy trì
những tin đồn như vậy vì nghĩ rằng điều ấy sẽ che chở tôi phần nào.
Nhưng dĩ nhiên về sau điều này trở thành một đe dọa. Tôi hoạt động
trong phạm vi an ninh rất chặt chẽ, rất ít người biết được hoạt động của
tôi. Vào khoảng những năm 70 khi chính quyền Sài Gòn ngày càng tồi
tệ, tôi sợ rằng kkhi tình hình suy sụp, tôi sẽ chẳng có thì giờ đâu để giải
thích với mấy cậu lính giải phóng trẻ với cây AK.47 trên tay rằng tôi là
đại tá trong quân đội của họ. Tôi thường nói với mọi người: Có lẽ tụi
nhỏ đó sẽ giết tôi đồng thời nướng sống mấy con chó của tôi nữa”.

Những mối lo rất thực tế ấy càng chứng tỏ thêm nhiều hoàn cảnh
phức tạp mà nghề tình báo luôn gặp phải. Vậy mà Safer cho rằng những

giải thích của ông Ẩn không làm sáng sủa gì hơn mà lại càng khiến ông
thêm bí ẩn. “Anh có hối tiếc gì về điều đã làm không? Và bây giờ anh
đã thấy kết quả?” Câu hỏi này được đặt ra sau khi Safer đã hỏi ông Ẩn
về những ngày đầu sau giải phóng “Ẩn ở trong trại… không phải trại
cải tạo nhưng là một trại đặc biệt gần Hà Nội dành cho các “đồng chí”
có thể đã bị nhiễm độc vì quá gần gũi với người Mỹ”.

Ông có phút giây nào hối tiếc không? “Tôi ghét câu hỏi đó, tôi đã tự
hỏi tôi câu hỏi ấy hàng ngàn lần. Nhưng tôi lại càng ghét câu trả lời hơn
nữa. Không, không hối tiếc. Tôi phải làm như vậy. Hòa bình mà chúng
tôi giành được có thể phải trả giá bằng sự khốn khổ của xứ sở này
nhưng chiến tranh cũng đã giết chết bao nhiêu sinh linh. Cho dù tôi yêu
nước Mỹ đến như thế nào, Mỹ không thể có quyền gì ở đây. Bằng cách
này hay cách khác người Mỹ cũng bị đẩy ra khỏi Việt Nam. Chúng tôi
phải tự chọn cách xây dựng xứ sở mình”. Đó là những câu kết trong một
chương sách của Safer.

2
Im lặng là nguyên tắc sống

Tôi muốn tìm ra cái chất “Người Việt trầm lặng”. Tôi muốn mọi người
Việt Nam được đón lấy những gì dịu dàng nhất, can đảm nhất, yêu
thương tươi cười nhất, từ cuộc đời của một con người cao gầy, mỏng
manh như cây sậy...

Ấy là vài nét hé lộ tính cách ông Phạm Xuân Ẩn. Cũng mới chỉ là lời
của Peter Ross Range, của Morley Safer, hay là sau này Henry Kamm
trong cuốn Dragon Ascending xuất bản năm 1996. Có vẻ như giới viết
lách của Mỹ quan tâm đến ông nhiều hơn. Do trước đây họ đã làm việc
với ông? Henry Kamm trong chương Heroes of war and peace đã nói
rằng mình biết Ẩn đã một phần tư thế kỷ. Vậy mà Kamm“không một
phút giây nào tôi ngờ rằng trong suốt cuộc chiến tranh ông là đại tá của

Mặt trận giải phóng dân tộc mà kẻ thù của họ gọi là Việt Cộng. Tôi biết
ông là một đồng nghiệp hào phóng, hiểu biết và hóm hỉnh”. Kamm đã
đánh giá cao hơn nữa: “Tướng Ẩn - một trong những nhân viên tình báo
Cộng sản bí mật gan dạ nhất ở Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh
chống Hoa Kỳ…” .

Trong cuộc nói chuyện với các đồng nghiệp cũ khi họ trở lại Việt
Nam sau này, ông Ẩn quan tâm thăm hỏi tin tức của các đồng nghiệp cũ
như Frank McCulloch, giám đốc văn phòng tuần báo Time tại Sài Gòn,
Richard M. Clurman, trưởng ban phóng viên cho Time - Life có văn
phòng tại New York. Những người Mỹ đã biết ông Ẩn tới một phần tư
thế kỷ mà vẫn còn nhiều bất ngờ về ông. Sau nữa, chắc gì họ đã hiểu
ông Ẩn như họ thường cho là họ hiểu. Như Morley Safer chẳng hạn.
Safer viết: “Tội nghiệp cho Ẩn. Anh đã chọn chỗ đứng giữa vùng đất
không người, tùy thuộc vào sự hình thành của lực lượng thứ ba. Chẳng
có chỗ đứng nào cho một tâm hồn nhạy cảm như anh…”. Mặc dù Safer
cũng nhận ra rằng do ý nghĩa lịch sử, chỉ có một chỗ đứng như ông Ẩn
đã đứng, dành cho những tâm hồn nhạy cảm. Nếu hiểu theo cách người
Việt nghĩ thì do đất nước gặp ngoại xâm, tất cả những tâm hồn yêu
nước, nhạy cảm, chỉ có một chỗ đứng giống nhau như vậy thôi, chỗ
đứng trong đội quân những người cứu nước. Safer còn cho rằng nếu
Graham Greene nhìn Việt Nam theo một cách nào đó, ông có thể viết
cuốn tiểu tuyết Người Việt Nam trầm lặng với Phạm Xuân Ẩn là nhân
vật mẫu.

Rõ ràng Phạm Xuân Ẩn có cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết. Nhưng
các nhà báo Việt Nam cũng như nhà báo nước ngoài mới chỉ được
“những chớp đèn flash” những nét thoảng qua nào đó của cuộc đời ông
theo những sự kiện lịch sử lớn lao. Chưa ai có được tấm chân dung hay
“bản hồ sơ về tâm hồn” với tính cách điển hình Việt Nam. Các thành
tích của ông đã khắc ghi bằng danh hiệu Anh hùng cao quý do nhà nước
tặng. Nhưng điều gì, hoàn cảnh nào đã tạo nên một người Việt đặc sắc
như thế?

Đó là nỗi niềm mong ước của tôi, khi lưỡng lự bấm chuông một ngôi
biệt thự ở vào vị trí rất đẹp nhưng chỉ vào hạng xoàng trên đường Lý
Chính Thắng, Sài Gòn. Tôi không thể đủ điều kiện viết về ông theo cách
chuẩn xác của những điệp vụ. Càng không muốn liệt kê theo các bản
khai lý lịch đơn thuần. Tôi muốn tìm ra cái chất “Người Việt trầm lặng”
mà Safer hình dung, hoặc là chất honor trong cuộc đời ông mà Peter
Ross Range đề nghị. Nhưng sau hết, tôi muốn mọi người Việt Nam được
đón lấy những gì dịu dàng nhất, can đảm nhất, yêu thương tươi cười
nhất, từ cuộc đời của một con người cao gầy, mỏng manh như cây sậy.
Sức mạnh của con người ấy được lấy từ mỏ năng lượng quý báu và thần
diệu nào đã ban cho? Nếu như bạn đọc nào ao ước cùng tôi điều đó thì
hãy đọc cuốn sách này. Nó là một phần chân dung để chúng ta tự hiểu,
hình ảnh người Việt cao quý giống như chúng ta đang vẽ ra bản đồ của
một tâm hồn. Một việc thật khó làm!

Được gặp ông, nếu như có hình ảnh nào có thể liên tưởng từ cuốn
sách của Safer thì đó là cái dáng ông Ẩn lòng khòng nay gầy thêm và
khô đét. Tôi để ý xem có đúng là ông mang cặp kính dày cộp trông
giống trí thức gia thường gặp nơi các quán café quanh khu đại học
Sorbonne không, nhưng tất nhiên là không hình dung ra, bởi tôi chưa hề
đến Pháp. Ông có thói quen gỡ kính ra khi nói và đeo vào khi lắng nghe
không? Tôi cũng cố hình dung ra cái góc bàn nơi Safer ngồi và đã mô tả
từ chiếc máy chữ xách tay cũ kỹ hiệu Oliveti để nơi góc bàn. Ông không
có điếu thuốc Lucky Strike kẹp giữa những ngón tay xương. Trên mặt
bàn thấp giữa sofa và hai ghế ngồi, ông cũng không bày các ly với chai
Whisky White Horse và xô nước đá như khi tiếp Safer.

Nhưng nhận xét của Safer khi nói rằng: “Anh ta nói chuyện duyên
dáng thoải mái với phong cách của một thi nhân” thì vẫn luôn luôn
đúng. Chính ở căn nhà này, ông Ẩn đã cùng hai con chó quấn quýt dưới
chân để đưa tiễn Safer ra xe. Safer cũng nói rằng Ẩn đã sống những cuộc
sống rất đặc biệt, tại sao không viết ra. Đó sẽ là cuốn sách rất hấp dẫn,
và cũng là cuốn sách quan trọng nữa. Ông Ẩn trả lời: “Trong những
năm tôi làm phóng viên, không ai bảo tôi phải làm gì ở hãng thông tấn
Reuters hoặc Time. Tôi đã quá già để học thêm những luật lệ mới rằng

điều gì cho viết điều gì không. Tôi e rằng những ngày làm phóng viên
của tôi đã qua rồi”.

Không biết tới hôm nay, những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này,
liệu lời từ chối ấy của ông có lặp lại, và tôi sẽ thất bại hay không. Điều
này khiến tôi thật sự lo lắng khi đã ngồi ở bộ sofa, chuẩn bị cuộc trao
đổi. Đôi bàn tay xương của ông rót nước trà. Cái bình trà cũng ngộ
nghĩnh: ở gần vòi của bình, có đeo một chiếc rổ nhỏ xíu bằng kim loại,
làm nhiệm vụ giữ lại những sợi bã chè nhỏ theo dòng nước chảy xuống,
không cho chúng rơi vào tách trà mời khách.

Tất nhiên là ông lại từ chối việc viết sách. Đã từ lâu ông ít bộc lộ
mình với giới báo chí. Nhưng ông không nói rằng do cái gì là luật lệ
kiềm chế hay không. Ông nói như giải thích để mong nhận được sự thấu
hiểu:

- Nghề tôi có hai cái kỵ: Nếu bị bắt, không trốn được (nếu trốn được
thì tốt), nhưng nếu không sống được thì phải kể là chết. Cái cần giữ
không phải xác anh. Xác anh kể là chết, nhưng không được tiết lộ nguồn
tin. Không khai báo đã đành, ngay khi những gì địch đã biết, anh có thể
nhận, nhưng tuyệt đối phải bảo vệ người cung cấp tin. Thứ hai là cái gì
lấy được rồi, giấu tuyệt đối.

- Như vậy thì không bao giờ nhân dân, người đọc rộng rãi biết được
cụ thể chiến công của anh là gì và làm thế nào anh có được nguồn tin
tình báo?

- Đúng vậy.

- Ngay cả khi cuộc chiến tranh qua đi đã mấy chục năm, nhiều tư
liệu, nhiều sự thật rắc rối bí ẩn cũng đã được đưa ra ánh sáng, lên báo
chí và phim ảnh?

Ông quay ra than phiền rằng trước đây có một nhà báo được ưu tiên
tiếp xúc tài liệu và ông đã ra sức can thiệp để không đưa lên công khai,

nhưng cuối cùng ngăn không được. Đấy là một sự kiện khiến ông phiền
lòng nhất.

- Tôi hứa gì, giữ đúng. Bao nhiêu năm sau cũng vậy. Có phải điều gì
cũng viết ra hết cả đâu. Cái nghề tình báo nó vậy, đừng ai đụng tới.
Những chuyện thất bại, đổ bể mới kể ra. Thế giới, hoặc Mỹ nó cũng vậy.
Cái nào êm cho êm luôn.

- Nhưng ở Mỹ người ta cũng viết về những trường hợp tình báo
chống Anh. Còn những cuốn Tass được quyền công bố, Hội tam
hoàng hoặc Người từ xứ lạnh đến của John Le Carré và cả Người không
có mặt của tác giả Đức?

- Thì nói tượng trưng thế thôi. Hoặc như Graham Greene (tác
giả Người Mỹ trầm lặng) ông ta là tình báo Anh Thế chiến thứ hai.
Daniel Defoe viết Robinson cũng là một tay tình báo giỏi… Thông
thường thì ít ai đụng tới viết về những gì tình báo làm. Lâu lâu lòi ra một
trường hợp bị đổ bể, người ta mới viết…

Có vẻ như lý lẽ này của ông không được vững cho lắm, dù trong
nghề của ông, người ta hành xử như vậy. “Lấy làm nhân vật tiểu thuyết
thì nhiều hơn”. Ông Nguyễn Khải có viết hai cuốn tiểu thuyết lấy mẫu từ
Phạm Xuân Ẩn, thì ông không lo lắng gì. Tiểu thuyết hư cấu mà. Còn
với tay nhà báo mà ông phiền lòng kia, lại viết hết ra những “đồ” mà
ông lấy được, kể tỉ mỉ cả những nguồn cung cấp tin…

Nó tai hại ở chỗ nào?

- Thường người viết cứ cho rằng viết ra những tài liệu lịch sử. Nhưng
người ta tốt với mình, dù là họ vô tình không biết mà mang lỗi với công
việc của họ, tổ chức của họ. Người ta giúp mình những việc nguy hiểm.
Sao lại đưa người ta ra?

Thì ra là vậy - Ở đây có nguyên tắc sống, thái độ ứng xử, sự trung
thành với con người chứ không đơn thuần là vấn đề kỹ thuật. Ông giữ

nguyên tắc sống này cho vĩnh viễn. Bảo vệ nguồn tin mãn đời. Đến hôm
nay, sau cuộc chiến tranh đã lâu, có cả lứa sinh viên trẻ nghiên cứu khoa
học Mỹ sang Việt Nam, ngay đó là con trai một thống đốc bang sang
liên hệ tài liệu để làm luận án, ông cũng từ chối ngay.

“Mình xài đồ. Nếu nay dù họ có chết đi rồi, cũng không nên nói họ
ra. Mình viết ra, con người ta lại trách con mình sao? Lối cư xử Á Đông,
ông bà mình dạy, không thể xong việc mình rồi thì mặc kệ việc người”.
Rõ ràng ông giữ một nguyên tắc sống, nguyên tắc cư xử của con người
được giáo dục về nhân văn rất kỹ. “Có được một người bạn là khó khăn
lắm, công phu lắm. Một người quan hệ bao lâu mới thân, bao lâu mới đủ
tới mức họ giúp đưa đồ, đâu phải dễ. Có cả những người bạn tốt, tin cậy
tới mức đưa máy bay rước tôi lên Buôn Mê Thuột đọc tài liệu. Nay dù
chiến tranh đã qua rồi nhưng các thế hệ lãnh đạo của nước Mỹ đều ít
nhiều dính vô chiến tranh Việt Nam. Đám đẻ sau Thế chiến thứ hai là
dính vô Việt Nam đủ các lĩnh vực. Hội chứng này nặng lắm. Cho nên
những mối quan hệ sâu sắc giúp mình làm nhiệm vụ, mình không thể nói
người ta ra. Lúc giúp mình, người ta tin rằng đã giúp tài liệu cho một
nhà báo để xài tài liệu phân tích hiểu biết thời cuộc. Mình không thể làm
hại đến họ bất kể kiểu gì”.

Ông đã nghĩ tới nguyên tắc của nghề, và nguyên tắc sống. Chỉ có
hiểu ông điểm này mới biết vì sao ông oán tay nhà báo nọ. Mình kể
nguồn tin ra, Mỹ nó sẽ truy người ta liền, dù là chuyện qua đi đã lâu.
“Ổng đòi đăng, tôi không chịu mà không can thiệp được. Lệnh trên là
phải cung cấp tài liệu cho nhà báo đặc biệt đó để phục vụ công tác
chung. Nhưng đăng lên thì không được. Tôi có can thiệp nhờ ông Mười
Hương lúc đó, nhưng ông Mười Hương đứt mạch máu não là ông này
chơi liền. Thế mới đau…”. Không phải chỉ đau về nguyên tắc sống giữ
gìn sự trong sạch của nghề, một lý do ông không muốn nói hết công việc
đã làm là: Ông tự nhận “có tật” luôn luôn nhìn tới chứ không nhìn lui.
Tương lai của mình là do mình quyết định hiện tại. Cái gì xảy ra đã xảy
ra rồi, ngoái lại sau lưng để làm gì. Mình không thể làm thay đổi quá
khứ được.

Ông thường nói: “Bệnh người già là hay nói chuyện cũ. Cuộc sống
bây giờ lại găng lắm. Ngày xưa cá nhận xuồng, nhắc vô kho. Vài con
trùn, nhái rê rê là có cá ăn. Nay đấu kinh tế thị trường dữ lắm. Người già
sống buồn thất nghiệp, tụi trẻ ưa nói cái mới. Kể chuyện mình cũ xì tụi
trẻ nó không thích đọc đâu”.

Ông đùa hay ông nói nghiêm chỉnh? Tôi tự hỏi: Có thể nào tụi trẻ nó
không thích nghe những chuyện như cuộc đời ông Ẩn?

3
Những con vật dẫn đường

Theo ông, trong nhà phải nuôi ba con vật: Con chó trung thành, “con có
thể chê cha mẹ khó chứ chó không bao giờ chê chủ nghèo”. Con chim
thì nhảy hoài. Nó tiêu biểu cho sự bận rộn làm việc suốt ngày, không
làm biếng. Còn con cá thì dạy sự khôn ngoan, im lặng, không nói nhiều
mà suy tư...

Trong bản thành tích tóm tắt in ra công khai, ở trang “Anh hùng Trần
Văn Trung” (tên ông Ẩn) chỉ khoảng 20 dòng: Sinh năm 1927, quê Biên
Hòa - Đồng Nai, nhập ngũ tháng 12-1952. Khi được tuyên dương Anh
hùng, đồng chí là trung tá, cán bộ tình báo thuộc Bộ tham mưu Miền,
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1952 đến tháng 4-1975 do yêu cầu của nhiệm vụ tình báo,
suốt 23 năm cùng ăn, ở, làm việc với địch, Trần Văn Trung vẫn luôn giữ
vững lòng trung thành với Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của Cách mạng.
Trong công tác, Trần Văn Trung đã khôn khéo, dũng cảm, mưu trí, sáng
tạo bám chắc địa bàn, lập nhiều thành tích xuất sắc. Đồng chí đã cung
cấp kịp thời nhiều tài liệu nguyên bản có giá trị lớn. Trần Văn Trung
luôn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, có ý thức tổ chức, kỷ luật cao.
Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng

Nhất, 2 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương
chiến công giải phóng hạng Ba, 6 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua.

Năm 1976 ông Ẩn, tức Trần Văn Trung được Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.

Nhưng cuộc đời và cuộc chiến đấu mấy chục năm của ông chắc chắn
phong phú, đầy sự kiện, đã không được công bố cho báo giới hoặc in ra
trên các phương tiện in ấn khác.

Những thư báo cáo tin tức về việc Mỹ đang thay dần quân Pháp ở
Việt Nam là thời kỳ trước năm 1961. Sau đó là những tài liệu có tính
chiến lược để chúng ta có thể nắm vững các kỹ thuật và chiến thuật mới
của Mỹ - ngụy. Có những tài liệu mang giá trị cực lớn nêu rõ chiến lược
quân sự, bình định theo cách chống nổi dậy được các chuyên gia Mỹ đúc
kết kinh nghiệm từ các nước để áp dụng vào Miền Nam. Tài liệu về tổ
chức, trang bị, các kế hoạch hành quân và các dự định hoạt động của
địch, vừa mang ý nghĩa chiến lược, vừa tổng kết kinh nghiệm hoạt động
quân sự và bình định. Đó là những nét khái quát lớn nhất về sự đóng góp
của điệp viên Phạm Xuân Ẩn. Những tài liệu cực kỳ quan trọng này
được chuyển ra rất sớm, giúp cho quân dân ta tìm được các biện pháp
chiến lược chiến thuật đối phó đánh giặc, lập được nhiều chiến công
xuất sắc.

Những kế hoạch lập ấp chiến lược, bình định nông thôn, chiến tranh
đặc biệt, chiến tranh cục bộ… được kịp thời chuyển tới Trung ương, là
kết quả của một cuộc phấn đấu, một đời hoạt động khá độc lập của ông
tại các cơ quan cao nhất của kẻ địch. Ông đã làm việc, quen thân, ra vào
dễ dàng, được lòng tin cậy từ những cơ quan lớn của chính quyền Sài
Gòn như cơ quan Trung ương tình báo ngụy, Tổng nha Cảnh sát, An
ninh Quân đội, được Phủ Tổng thống mời với tư cách chuyên viên tham
gia đánh giá, đọc các tài liệu tối mật, tham gia ý kiến vào việc hoạch
định chiến lược quan trọng của chế độ.

Ông đã làm việc cùng với nhân viên của đại tá Edward G. Lansdale,
chỉ huy trưởng Phái bộ quân sự Sài Gòn (Saigon Military Mission - phái
bộ này hoạt động cả quân sự, tình báo CIA và chính trị), người tổ chức
hàng loạt chiến dịch phá hoại chống Việt Cộng. Ông Ẩn là một trong số
ít phóng viên Việt Nam được mời dự giao ban quân sự. Đã có thời kỳ
ông tư vấn đề cử các sĩ quan tham gia các khóa học huấn luyện ở các
trường đào tạo quân sự tại Mỹ. Chính ông là người đã làm thủ tục cho
Nguyễn Văn Thiệu đến Hoa Kỳ lần đầu tiên tham gia khóa học chỉ huy
và tham mưu tại Leavenworth. Đám chỉ huy hành quân Mỹ còn cho
phép ông lên trực thăng HU.1A đi theo hành quân sát trận địa, chiến
trường, đến các phòng thuyết trình tình hình xem những bản đồ chiến sự
mới nhất.

Nhưng có phải tất cả những thành công trên đây là do ông Ẩn là
phóng viên chiến tranh của tờ báo Time lớn nhất nước Mỹ? Ở vị trí đó
nên ông được sự thân thiết của giới cầm quyền cao nhất như Ngô Đình
Cẩn ở Huế, Trần Kim Tuyến, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, Tôn Thất Đính, Đỗ Cao Trí và rất nhiều dân biểu, bộ
trưởng Phạm Kim Ngọc, giám đốc chiến tranh tâm lý Nguyễn Hữu Có,
Cao Văn Viên, Lam Sơn?... Có phải tất cả các nhà báo đều có thể dễ
dàng tạo dựng những mối quan hệ như vậy? - Mối quan hệ thân tới mức
“lại nhà chơi cũng được”…

Có lần Trần Kim Tuyến yêu cầu ông đứng ra làm chủ bút một tờ báo,
lời ăn, lỗ thì bác sĩ Tuyến chịu. Nhưng ông Ẩn đâu có tham vọng làm
chủ báo, đâu có mục đích làm giàu. Đã có lần Ẩn phỏng vấn Ngô Đình
Cẩn sau vụ đảo chính hụt về việc chính Cẩn đã phát hiện âm mưu đảo
chính. Đã có báo cáo lên nhưng bị vứt vào sọt rác. “Thưa ôn nếu ôn
chịu, con viết chi tiết đó cho Reuters”. - Ẩn thăm dò. Ngô Đình Cẩn phải
bảo thôi đừng đăng: “Mi phỏng vấn tao thiếu nước lạy. Mồm ác lắm!”
Ông Ẩn có một người anh họ làm giám đốc Cảnh sát Công an Trung
phần. Biết Cẩn thích chơi chim, ông anh thấy Ẩn có con chim loan liền
bảo: “Mi cho tao để biếu ôn”. Ẩn có cái ống nhòm, anh cũng xin “Cho
anh biếu ông Cậu để ổng đi câu cá”. “Câu cá, hay là để dòm các cô?”
“Cái miệng mi ra Huế chết tao”.

Sinh hoạt thời kỳ ấy có những chuyện vui bên lề. Phủ Tổng thống
thấy Ngô Đình Diệm thích có người Nam mà biết Huế, biết Bắc, nói
chuyện thẳng thắn và vui, họ muốn chọn Ẩn vì Ẩn đủ “tiêu chuẩn”.
Diệm thích trò chuyện với những tay thẳng thắn, lại thích cây cối. Một
lần Diệm xuống Vĩnh Long thăm ông anh là Ngô Đình Thục làm đức
cha ở dưới miền Tây. Ngô Đình Diệm thích cây cối. Đi dọc đường, ông
ta ưa thích nhìn mạ xanh bên ruộng hai bên đường thẳng cánh cò bay.
Ông luôn mồm rủa những kẻ đang tâm chặt cây cối về làm cây Noel.
Đang nhìn chiếc cổng làng phía xa có cây cổ thụ, dưới gốc cây nhiều
nông dân đang nghỉ ăn trưa, Diệm thính lắm bèn hỏi: “Cây chi rứa mi?”
Người lái xe cự lại: “Cây chi cụ nhìn cụ biết chứ, con đang chạy xe
100km/giờ sao dám nhìn cây! Tính mạng cụ nằm trong tay con đây nè”.
Sau lần đi ấy, Diệm thường than mắng các cấp dưới chỉ biết a dua nịnh
bợ ông mà chẳng ai thật lòng. Có người bộ trưởng vào tiếp kiến vâng, dạ
lễ độ, lúc đi ra không dám quay lưng đi tử tế, lại đi giật lùi, chẳng may
đụng phải đôn chậu cây vấp ngã, Diệm khoái trá cười: “Chỉ quen a dua
nịnh bợ, các ông không thương tôi bằng người Sốp - phơ”.

Có lần ở sát biên giới Miên có tranh chấp. Thiếu tướng Becna Trần
Tử Oai làm Tư lệnh vùng 4 sát biên giới, Ngô Trọng Hiếu lúc đó làm đại
sứ, bị Xihanúc phiền trách. Diệm kiếm chuyên gia về Campuchia để hỏi
ý kiến tìm cách giải quyết tình hình căng thẳng, liền xuống Cần Thơ tìm
Tư lệnh vùng 3. “Cụ kêu lên” - viên tướng cấp tốc lên gặp, chào kiểu
nhà binh cái rốp. “Tư lệnh vùng phải không?” “Dạ phải.” “Ở biên giới
có tranh chấp, cho ý kiến giải quyết thế nào?” “Mật lắm Cụ ạ”. “Nói đi.
Mật hoài.” “Phải rồi, cái này mật. Cụ cho con một ngày đi, một ngày về,
tổng cộng khoảng 5 ngày con giải quyết xong”. “Năm ngày là sao?”,
“Con hành quân đến Phnom Penh đánh một ngày”. “Đâu có được.
Tưởng có mưu gì ngoại giao”. “Con quân sự chỉ có hành quân thôi.
Quân sự là thế. Con nói Cụ rồi, mật lắm!”. Diệm khoái những người như
“Oai” và nói thẳng như thế, có khi dám phản ứng theo cách của mình. Vì
vậy người ta nhắm “chắc thằng Ẩn” đủ tiêu chuẩn để trò chuyện với Cụ.
Nhưng cũng có người phát hiện “Nó ẩu lắm. Nó dám dắt ông Cụ đi
dancing thì lộ hết mặt đám quan chức ăn chơi đi dancing tối ngày”. Ai

chứ Ẩn thì dám dắt ông Diệm đi chơi đêm bất tử, lòi ra các bộ trưởng
nhảy đầm!

Một dịp Tết, Ẩn lại chơi nhà Trần Kim Tuyến. Có mấy vị bộ trưởng
mới tới chào Tuyến, Ẩn liền lại nói chuyện với bà vợ Tuyến. Thấy nhà
họ được biếu quá nhiều hoa thủy tiên, Ẩn miệng nói, tay bốc: “Xài
không hết. Tôi không có”. Vị bộ trưởng lấy làm lạ hỏi “Thằng nào hỗn
vậy?” “À, anh Ẩn nhà báo thân đó mà” - bà Tuyến cười giải thích.

Ông Ẩn được nhiều quyền đặc biệt không chỉ do nghề nghiệp mà là
do quan hệ rộng. Ông đi lại có cả giấy của an ninh Phủ Tổng thống, có
súng. Ông lái xe đi Buôn Mê Thuột khi cần. Cùng với các nhà báo nước
ngoài, Ẩn đi cả vĩ tuyến 17. Đi tham quan khu trù mật thì bằng xe của
Phủ Tổng thống. Ẩn có chiếc xe riêng, xe taxi nhỏ hiệu Renault dùng
suốt từ năm 1960 tới khi miền Nam giải phóng.

Người ta đã quen chiếc xe nhỏ của tay ký giả chuyên viết chiến sự, đi
khắp nơi, tự lái và luôn chở con chó đi cùng. Ông nuôi bécgiê giống
quý. Con bécgiê mua từ Đức cũng nổi tiếng vào hàng số một Sài Gòn
lúc đó với giá 30 cây vàng. Những đêm ông làm báo cáo bí mật con chó
nằm dưới chân. Nếu có động tĩnh gì, con chó thính lắm. Cảnh sát đi
khám sổ gia đình (hộ khẩu) ban đêm giờ giới nghiêm ngoài đường cách
gần cây số nó nằm yên nghe, lấy chân khều khều báo cho chủ. Ban đêm
khi ông chụp lại các tài liệu, bản đồ dưới ánh đèn 500 watt che kín, nếu
có tiếng chó sủa tức là có ai đó đi bên ngoài.

Sau này ông bán con chó đó để mua con khác từ Mỹ đem qua. Nó
cũng tinh tường một cách đặc biệt. Những đêm Mỹ đem máy bay B.52
rải bom ở xa tận ngoài chiến khu, đất rền rung rất nhẹ nó đã sủa khi chưa
ai cảm thấy. Mãi sau khi nghe nó sủa rồi, cố để ý mới thấy cửa rung.
Con chó thường ngồi sau xe. “Có lần tôi trao đồ cho người liên lạc, bà
khựng lại sợ quá vì thấy con chó”. Khi ông vào nhà hàng (ông thường
vào các nhà hàng Brô-đa, Givral, Continental… nơi tập trung giới báo
chí, các quan chức, dân biểu) con chó được lệnh ngồi chờ ở ngoài xe. Nó

có thể tuân lệnh ngồi yên như thế chờ đến một, hai tiếng tới khi ông chủ
ra. Nếu được vào nhà hàng, nó chui nằm yên dưới bàn.

Hẳn là nó quá ấn tượng với đám bạn làm báo hồi đó. Đến nỗi nhiều
năm sau này khi Sài Gòn giải phóng, họ trở lại thăm ông Ẩn, làm các
cuộc phỏng vấn, như ta đã thấy trong miêu tả của họ, bao giờ bên ông
Ẩn cũng có hình ảnh con vật thân thiết của ông. Safer đã tả lại kỷ niệm
cũ khi tiếp xúc với Ẩn ngày xưa ở nhà hàng, cái mõm đen của con chó
thò ra khỏi gầm bàn im lặng khi chủ của nó đang nói cười. Và hình ảnh
gặp lại ông Ẩn ở Sài Gòn sau hàng chục năm cũng có “Ẩn và những con
chó thân yêu của anh ta”. Kết thúc bài viết, cũng là “Ẩn giơ cánh tay
xương dài vẫy vẫy từ biệt cùng với tiếng chó sủa theo chúng tôi ra ngoài
con lộ”.

Ngày Tết, đám bạn bè và quan chức thường mừng rỡ nếu thấy chàng
ký giả vốn “rất Mỹ” này lại khăn đóng áo dài dẫn bécgiê đến chúc Tết.
“Ông nội này láo” - đám bạn bè trêu chọc bình luận. Nhưng Ẩn bảo:
“Không đi với vợ mà đem chó bécgiê theo là hên”. Con chó cũng giúp
Ẩn mở quan hệ thân thiết. Ông thân với Đỗ Cao Trí (tướng nắm Vùng 3
chiến thuật, vùng Sài Gòn và Đông Nam Bộ), cũng qua con chó. “Chả
khoái bécgiê, đi chợ chó luôn. Cố vấn Mỹ mua cho chả 3 con: hai đực,
một cái, nhưng đẻ con ra không đẹp. Ổng xin giống từ con chó của tôi.
Nó nhảy, đẻ con rất đẹp. Ông nào thích thì cho giống với giá 100 đô một
lần nhảy. Có khi tôi đem chó con đến biếu những người giúp đỡ mình.
Họ mừng lắm”.

Lansdale phụ trách Phái bộ quân sự Sài Gòn, trong đó có hoạt động
của CIA, cũng nuôi một con chó. Ông ta nhìn phản ứng của chó để dò
xét người khác. Lansdale cho rằng người không có tà tâm thì chó của y
nằm yên lặng. Người nào con chó nó dòm chừng thì có vấn đề gian dối
tà tâm gì đó. Theo ông ta: “Con chó nó đánh giá được”. Có lần ông Ẩn
bảo: “Mỗi lần tiếp tôi, anh để chó ớn lắm”. “Anh nuôi chó mà lại ớn chó
sao? Nó giúp canh chừng, nó dòm cảm tình thì tâm địa tốt.” Lansdale lại
giải thích. Ông Ẩn bảo: Đâu có nhất nhất như vậy. Có con nhạy có con
không, sủa tầm bậy vu vơ. Chẳng có sách nào dạy cái “đồ” này.

Bây giờ ông Ẩn vẫn nhận xét thế. Nhưng theo ông, trong nhà phải
nuôi ba con vật: con chó trung thành, “con có thể chê cha mẹ khó chứ
chó không bao giờ chê chủ nghèo”. Con chim thì nhảy hoài. Nó tiêu biểu
cho sự bận rộn làm việc suốt ngày, không làm biếng. Còn con cá thì dạy
sự khôn ngoan, im lặng, không nói nhiều mà suy tư. Ông còn đùa: không
nên làm nghề xuất nhập khẩu. Bệnh do khẩu nhập họa do khẩu xuất mà!

“Bệnh ăn bệnh nói dễ vô tù”.

4
Những "đồng chủ nhân" trong vườn

Cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến,
sóc… Ông Ẩn, chờ đón, xem xét, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho
chúng đến ăn rồi lại đi. Chúng là những "đồng chủ nhân" trong mảnh
vườn nhỏ với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết
gia, suốt đời cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong
cả nghĩa đen của sự sống...

Chiếc cổng sắt lúc nào cũng đóng kín, có một cái chuông cũng đặc
biệt: không nhấn nút cho reo, mà giật vào sợi dây dài. Một cái chuông
nhỏ ở đâu đó kêu leng keng lạ tai. Có lẽ vì vậy mà thỉnh thoảng đám con
nít đi qua cổng “ngứa tay” lại giật chơi. Chúng tưởng rằng chỉ có bầy
chó sẽ xô ra sủa mà không biết rằng mỗi lần như thế, có rất nhiều “nhân
vật” kinh động. Không phải chỉ có chủ nhà...

Thông thường, ở Sài Gòn thời mở cửa, bắt đầu cuộc làm ăn thị
trường sôi động, nhà mặt tiền trên phố thế này chẳng ai không nghĩ cách
tận dụng, xoay ra tiền bạc. Ngôi nhà của ông là một biệt thự hạng
thường mà theo miêu tả của Henry Kamm thì “tướng của quân đội Việt
Nam cũ không bao giờ cư ngụ trong căn nhà khiêm nhường đến thế”.
Nếu ông bán đi như người ta thường làm, để lấy số tiền lớn mua một căn

nhà nhỏ hơn, dôi ra được ít tiền. Hoặc nếu ông xây cất thêm chi chít, cho
thuê, mở cửa hàng, hoặc làm quán ăn, café vườn… thì đó cũng là
phương án thông thường của người Sài Gòn ngày nay. Nhưng ngôi nhà
của ông giữ nguyên một mảnh vườn nhỏ phía trước. Tôi cảm nhận nó
giống như một lời thầm nói lên tính cách của chủ nhân.

Một người từng trải qua mọi sang, hèn, đã là một ký giả như một
chính khách thời thượng nhất, giờ đây “ông Ẩn còn yếu đuối hơn những
ngày ông làm phóng viên” - lại lời của Henry - “Một người yếu đuối
cong xuống nhưng không dễ dàng bị đánh gục giống như cái cây trong
giông bão”.

Tôi cũng giật vào cái chuông đặc biệt trước nhà. Ông ra mở cổng sau
khi đã chải đầu thật gọn gàng. Không rõ là kiểu tóc luôn được chải vậy
hay là vừa mới gội đầu. Có khi ông vẫn mặc áo ba lỗ, ra mở cổng ngay
sợ khách chờ lâu bên ngoài. Nếu mà nghe kể tên những thứ ở khoảnh
vườn nhỏ thì rất dễ bị hình dung ra bài trí của biệt thự sang mà ta hay
gặp. Nhưng khu vườn lại rất bình thường với vài ba khóm cây cao, còn
lại là các loại hoa cây nhỏ và thấp xuống bên dưới khiến người ta khó
mà nói ngay rằng đó là mảnh vườn trồng rau hay là vườn êm ả của các
bụi cây cho bóng mát và sự yên tĩnh. Một con chó đá đen trùi trũi ở gần
bậc cửa, nơi có một chiếc bàn đá nhỏ có thể ngồi chơi uống nước hóng
mát các buổi chiều. Cái bàn này chỉ cách đường phố ầm ĩ gầm gào xe cộ
suốt ngày đêm bởi vài bụi cây nhỏ. Vậy mà vị trí của nó đã đem lại ngay
sự thanh bình rồi.

Mỗi tiếng chuông giật không chỉ là bầy chó sủa, mà làm kinh động
nhiều “nhân vật” nào vậy? Khách không nhận ra ngay bởi họ đang bước
vào khoảnh vườn vắng trước cửa. Chỉ đến khi quan sát các công việc tỉ
mỉ, rất nhẹ nhõm của ông, mới thấy ở đây được khá nhiều vị khách lạ
nhòm ngó lui tới. Không chỉ mình ta là vị khách bước vào.

Ông Ẩn bắt ổ chim, đỏ lói mới nở và cho chúng ăn bằng trứng kiến.
Ông lấy ra thứ trứng kiến trắng như gạo, mềm, nhỏ li ti. Đó là trứng mới
đẻ. “Kiến vàng đít chua lắm. Nấu canh chua thì bắt nguyên ổ, vớt kiến

bỏ đi, còn lại nước chua lắm”. Ông giải thích như chia sẻ với một người
cùng sở thích. Lời nói đó nhẹ nhàng “như thi nhân” bởi nó giống lời thì
thào say sưa của đứa trẻ lúc đang chơi. Một thói chơi hồn nhiên như trẻ.
Không có gì to lớn hoặc cầu kỳ theo kiểu dân chơi nhà nghề sành điệu
đưa lên thành nghệ thuật. Thú chơi của ông khác lắm. Chiều theo thiên
nhiên, lặng lẽ và có vẻ gì đó hưởng thụ như một cậu bé con tò mò, tinh
quái.

Chẳng có nhiều điều kiện để cầu kỳ, nhưng lại khá “oái ăm” bất ngờ.
Ai mà có thể nghĩ ra cái tác dụng nấu canh bằng cái đít chua của bầy
kiến! Chắc chắn vợ ông đi chợ chỉ vài ngàn đồng là có đủ rau, thơm, bạc
hà, lá giang cho nồi canh chua. Nhưng ông biết hết “tính năng” của các
loài vật. Còn oái ăm hơn cả các món ăn: “Viết thơ tình bằng nước xanh
chua chua bóp ra từ kiến. Viết bằng bút học sinh. Ông bồ hơ lửa thấy
chữ. Cái này đi học được. Khổ vậy kia, cái gì cũng học!” Ông nói như
than thở, mà mắt lại ánh vui.

“Chú bé Ẩn” chơi các con vật từ lúc 5 tuổi, chứ không phải kiểu chơi
chim chơi thú của những ông già về hưu nhàn rỗi đỡ buồn. Ông có con
khướu đã sống 15 năm ở khu vườn nhỏ này. “Sáo, họa mi, năm con sóc
còn hai. Nó ở đâu đó đến! Tôi treo thức ăn lên vỏ trái dừa, ngày ngày nó
đến ăn rồi lại đi. Đất lành chim đậu là vậy. Sẻ rất nhiều. Súng hơi người
ta bắn riết nay không còn. Hai con chích chòe lửa, tôi bắt được ở đây”.
“Chị ngồi chờ, để tôi chỉ cách bẫy sẻ này”.

Ông lấy ra hai cục gạch, đặt trên cái bàn uống nước: “Lấy ba cái que
lớn lớn tí thôi. Bỏ lúa trong rải vài hột thôi”. Ông say sưa: “Cây trúc
cương trực. Sẻ là tiểu nhân láu lia láu lịa, không bao giờ được người ta
vẽ đậu trên cành trúc. Sẻ xấu, đa nghi. Gạch đè xuống là ra bắt liền,
không nó chết”. Ông hướng dẫn cứ như là tôi cũng hiểu hết, đang muốn
học chơi theo. Hình như ông muốn tôi cũng nên biết chơi, vì theo ông
“con nít giờ không biết, giảng không hiểu, không biết chơi”. Ông dặn
tôi: “Rải một ít ở bên ngoài kẻo nó ăn no không vào ăn phía trong hòn
gạch nữa”. Ngày trước thì ông bẫy chích chòe. Bẫy đâu có như bây giờ!
Cây tre có cành buộc như cần câu, một đầu cắm xuống đất. Có một cái

vòng bằng tre, có cái cò để vô cột con dế. Có thòng lọng, có chỉ rút.
Chim vào mổ cào cào, dế. Cái cần cò bật lên siết lấy con chim. Ông lại
dặn: “Đừng treo cao quá siết cổ nó chết”. Còn bắt chim én, nó thường
bay thấp, ăn ruồi rác. Nó bay sớt qua sớt lại không đậu. Phải để cái vòng
có con ruồi ở giữa, chim chui đầu vô, bị giật.

Thì đó, có cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng,
chim, kiến, sóc… đủ cả. Nhiều khi chúng sống đâu đó, trên phố xá ta
nào thấy được. Chỉ ở nơi đâu, có những người như ông Ẩn, chờ đón,
xem xét nó, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho nó đến ăn rồi lại đi. Chỉ
có kẻ nào hào phóng, không định sở hữu, bắt nhốt chúng, chúng mới tới
“sống cùng” trong chốc lát, rồi lại là “người của tự do”. Chúng là những
nhân vật đông đúc ở khu vườn nhỏ, khách vào nào có ai biết là chính họ
đang làm kinh động nhiều vị “đồng chủ nhân” cùng với người đàn ông
cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời sống cận kề với
hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự
sống.

Những ký giả phương Tây luôn ngạc nhiên không chỉ vì ông Ẩn là
một ký giả xuất sắc, săn tin giỏi, mà còn vì óc hài hước, sự thành thạo
nhiều mặt trong đời sống. Trong mảnh sân vườn nhỏ này, có lẽ tôi là
nhân vật xa lạ nhất xâm nhập vào đây, mong mỏi được quan sát tìm hiểu
về một con người đặc biệt. Đôi khi tôi có cảm giác hình như con chó đá
nó đang cười tôi phía sau lưng, mỗi khi ông Ẩn tiễn tôi ra cổng. Dường
như cả con kiến ở trong vườn này nó cũng biết rằng tôi không hiểu ông
Ẩn bằng nó.

Cũng công bằng thôi, một khi mà với con chim huýt cô sầu ông nuôi
nó 8 năm, đi chơi Vũng Tàu cũng mang nó theo. Có cả lồng tắm riêng
cho nó. Ông nhìn cái lồng và bảo: “Lồng không sạch vầy ở Úc nó đuổi
đó, không cho nuôi chim đâu. Còn nếu khi nào thấy cá lội tung tăng quá
thì đừng có tưởng là vui tươi khỏe mạnh. Đó là lúc nước bẩn".

Những con chim ấy biết sắp được ăn “bít tết” như Tây khi ông cầm
sâu tươi và những con rắn liu điu nhỏ xíu ra. Dường như con huýt cô sầu

biết ông Ẩn đã hiểu ra lai lịch vì sao nó có cái tên buồn rầu đó: Có đứa
con gái nhỏ mồ côi được cô nuôi. Khi cô chết, nó ra mả khóc không ăn
uống đến chết biến thành con chim huýt cô sầu. Cái sự tích chuyện đời
con hoàng anh cũng được ông Ẩn kể: Cô nương kia chờ chồng chinh
chiến. Chờ đến kiệt sức thì chim bay về báo tin cô ráng sống vì chồng
sắp về. Cô ráng sống, được gặp chồng là nhờ chim hoàng anh.

Ông còn bình luận vui: Nhà nào mà có con gái, lại trồng cây liễu rủ
buồn, thêm con chim huýt cô sầu nữa thì con gái đến là tự tử thôi. Phải
cấm con gái trồng liễu và nuôi chim huýt cô. Thêm ông nội này kêu thì
chết con nhà người ta.

5
"Có ba nền văn hoá trong tôi"

Ông Ẩn thường nói với nhà báo nước ngoài, đồng nghiệp của mình rằng
“có ba nền văn hóa trong tôi”. Còn các ký giả phương Tây lại cứ muốn
tin rằng ông là sản phẩm của văn minh Mỹ. Vì sao vậy? Có phải vậy
không?...

Quả thật ông không bao giờ giấu giếm ý nghĩ rằng đã học được rất
nhiều điều ở Mỹ và có thể coi thời gian đi học ở trường báo chí Orange
Coast tại quận Cam, California là những năm quyết định quan trọng đối
với ông. Người dân Mỹ trung thực, công bằng, cởi mở và tử tế. Họ cho
thấy phần nào khái niệm về tự do và lòng tôn trọng quyền của con
người. “Họ chỉ cho tôi cách nhìn mọi sự theo con mắt của người khác,
phê phán bản thân mình trước hết. Họ dạy các thế hệ biết lao động, biết
trở về thực tế. Tôi mong muốn con cái tôi được giáo dục ở Mỹ”. Ký giả
nước ngoài vẫn thường trích dẫn ý kiến này.

Phạm Xuân Ẩn
tại Mỹ (1957-

1959)

Nhưng họ không biết rằng việc Ẩn sang Mỹ du học vào cái năm
1957 trên danh nghĩa tự túc bằng tiền hưu trí thôi việc lúc mới 30 tuổi,
có 7 năm làm việc, có đủ tiền máy bay lúc đó giá 600 đô - cuộc đi đó do
Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định. Nếu không quá khó khăn, Đảng
muốn Ẩn học từ 4 đến 6 năm để có bằng tiến sĩ. Mục đích của Đảng
giao cho Ẩn phải học thật giỏi, và tìm hiểu nước Mỹ. Chính vì thế Ẩn
đăng ký học lịch sử - địa lý - kinh tế Mỹ, báo chí, quân sự… Không
những thế, Ẩn có ý thức tích lũy những kỹ thuật, nghiệp vụ, các bài học
rút ra từ các tài liệu của Mỹ, Liên Xô, Nhật. Ông đã kể lại những ngày đi
học ở Mỹ, với bạn ông, nhà báo Hồng Liên như sau:

… “Chính người Mỹ dạy tôi nhiều bài học bổ ích. Tôi còn nhớ, trước
khi đi, bên nhà dặn tôi phải ráng học cho xuất sắc. Tôi vâng lời. Một
hôm, bà giáo dạy môn Anh văn hỏi: Tôi thấy môn này anh đã giỏi rồi,
đâu cần học nữa. Tôi nghi anh qua đây không phải để học mà làm
chuyện khác. Giật mình, tôi ráng trả lời một cách bình thản: nước tôi
nghèo, nên tôi phải ráng học, học bất cứ cái gì có thể để về phụng sự
quê hương tôi. Bà đáp: Ừ, bây giờ thì tôi tin anh. Tôi nghi ngờ anh là vì
hồi Đệ nhị thế chiến, tôi huấn luyện sĩ quan tình báo, nên có bệnh nghề
nghiệp (!). Anh bạn học chung lớp cũng thắc mắc tại sao tôi phải cố học
cho giỏi. Hắn nói: Mày học xong sẽ về hay ở lại? Nếu ở lại, tao khuyên

mày nên đi chơi nhiều hơn. Người Mỹ không thích học quá giỏi, vì học
giỏi khó kiếm được việc làm hơn người học trung bình. Người thuê lao
động nếu mướn người có học lực khá, họ yêu cầu phải làm việc gấp rưỡi
hoặc gấp hai người thường. Và họ cũng không thích mướn những người
học giỏi làm chung với người học bình thường.

Từ dạo ấy, tôi bắt đầu mê chơi. Một bài học khác: Khi học môn nói
chuyện trước công chúng, tôi không hiểu sao bài của mình luôn bị điểm
C dù đã gắng hết sức. Tức quá, tôi hỏi chị bạn ngồi kế bên. Chị nói: Vị
giáo sư là người không ưa Cộng sản. Mà tôi thì thấy anh ưa dùng từ
kiểu Cộng sản. Anh không được điểm cao là phải. Hóa ra là khi tôi ở
Việt Nam, tôi hay đọc sách báo cách mạng viết bằng tiếng Anh. Tôi quen
vốn từ vựng cách mạng và sử dụng nó trong bài kiểm tra mà không biết.
Về sau, mỗi lần làm bài, tôi lại nhờ chị sửa giúp từ vựng. Và bài đạt
được điểm B. Mặt khác, khi về nước tôi không dám giao hảo với nhiều
người Việt. Tôi làm báo nhưng làng báo Việt Nam tôi hầu như không
quen ai, trừ một vài chủ bút. Ngay cả trong tình cảm riêng cũng phải đè
nén lại. Hồi ở Mỹ tôi có yêu một cô gái và định cưới cô ấy. Nhưng tôi
cưới vợ Mỹ thì công việc của tôi sẽ càng rắc rối thêm. Vậy là chúng tôi
chia tay nhau.”

Sau khi học ở Mỹ về, ông làm việc ở Việt Tấn xã, cơ quan thông tấn
chính thức của chính quyền Sài Gòn. Một năm sau chuyển sang viết cho
Reuters. Bốn năm sau, ông chuyển về tờ New York Herald Tribune. Từ
năm 1965 - 1976 ông là phóng viên Việt Nam duy nhất viết cho Time.

Ngày nay, khi mà loài người tự nhận thấy sự biến đổi của thế giới
một cách rõ ràng hơn, giao lưu với bên ngoài nhiều hơn, thì lối sống
cũng thay đổi. Người ta biết rõ có nhiều lối sống khác với bao nhiêu là
thách thức: Thông qua Internet, người ta có thể thấy những luồng thông
tin như thác đổ. Nhân loại biết tự phê phán và mổ xẻ những nghịch lý
của thời đại mình và họ đã viết ra trên Internet: “Chúng ta có nhiều tòa
nhà cao hơn nhưng tính cách lại nhỏ hơn, đường cao tốc rộng hơn nhưng
quan điểm hẹp hòi hơn, chúng ta chi xài nhiều hơn nhưng gia đình lại

nhỏ hơn. Nhiều tiện nghi hơn nhưng ít thời gian hơn. Nhiều bằng cấp
hơn nhưng lại kém ý thức hơn. Thời của thức ăn nhanh mà tiêu hóa
chậm, lợi nhuận quá cao nhưng quan hệ hời hợt. Thời của hòa bình thế
giới nhưng nội chiến và thiên tai nhiều hơn”…

Nhân loại tự nhận thấy mình uống quá nhiều, chi quá lố, giận quá
mau, thức quá muộn, dậy quá mệt, tăng số của cải nhưng lại giảm giá trị
của mình… Một thời kỳ mà nhân loại nhìn lại mình tiến những bước dài
để sang một thiên niên kỷ mới - Trong đó vệ tinh đầu tiên con người đầu
tiên đi lên vũ trụ, bệnh AIDS được phát hiện, có cuộc cách mạng
Internet và có công ty Microsof, và nhân bản được cả con người…

Trong thế giới ấy, ở khắp nơi có đủ các kiểu sống. Chẳng phải chỉ ở
phương Tây xa lạ mà ngay ở phương Đông, ở nước Nhật, người ta cũng
đã thấy được một lối sống không phải của ít người, có tới 10 triệu “con
ký sinh sống độc thân” . Công thức và hình ảnh tiêu biểu thường là: một
cô gái ngủ 9 giờ mới dậy, mẹ đã làm thức ăn sáng. Lao vào đi làm tới 9,
10 giờ đêm mới về. Đi chơi, cưỡi ngựa, đánh golf, mỗi năm nghỉ nước
ngoài tiêu hết 9.000 đô. Thời đại của những ký sinh sống độc thân, dựa
vào cha mẹ, rút vào vỏ ốc, xa rời xã hội. Người ta nói rằng có cả thế hệ
người - chứ không phải số ít - đã lẫn lộn giữa hai chữ hạnh phúc và tiện
nghi vật chất. Rồi người ta lại hy vọng như một vị giáo sư ở Nhật nhận
định: Một xã hội sau thời kỳ nhộn nhịp sẽ đạt đến thời kỳ trầm lắng và
chỉ đến lúc tụt xuống quá mức thì những nhu cầu bức bách sẽ giục nó
dậy lên…

Nếu như vào thời hiện đại, thì suy nghĩ của ông Ẩn về con đường rèn
luyện cho một niên thiếu thành người theo cách ông thấy được ở Mỹ sẽ
chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng nếu ta đứng lùi lại nửa thế kỷ khi
đất nước Việt Nam còn biệt lập trong nỗi đau bị xâm lược, thì những
mong muốn của ông Ẩn, cách suy nghĩ của ông cho con cái mình yêu
lao động và thực tế “dễ lòi ra mình là Việt Cộng vì lúc đó ở Miền Nam
giới công chức không ai nghĩ và làm như vậy”. Ông Ẩn nhớ lại cái thời
mà ông là phóng viên của tờ Time, muốn con mình gần đời sống bình
dân, thấy cảnh cơ cực để mà thành người. Ông nói: “Ngày đó tôi còn

muốn con đi theo các chuyến xuống nông thôn cho nó thấy cảnh cực.
Cho nó biết lội bùn, thấy con nít nhà quê ăn cơm bằng chén làm từ
muỗng dừa đen bóng”. Ông muốn thằng con trai mình phải tập làm việc,
biết giao tiếp, và định xin cho nó tập làm bồi ở nhà hàng Givral.

“Tôi muốn cho nó làm trong dịp nghỉ hè, biết làm bồi làm bếp, giao
dịch, chạy bàn, lấy menu. Để sát với dân”. Ông sợ con mình giống như
con cái của gia đình khá giả xa cách với cuộc sống - lúc đó Ân, con trai
ông mới 12 tuổi.

“Mình làm vậy là bị nghi Việt Cộng. Nhưng tôi là vậy. Con nhà Mỹ
nó làm việc nhiều. Mỹ nó dạy như vậy. Tôi thấy vậy là khôn”. Người ta
ngạc nhiên và cũng ngại không dám nhân cho Ân tập làm bồi. “Các ông
sợ nó lóng ngóng không biết làm? Hễ nó đập bể cái gì, tôi
thường”. Nhưng ý định này chưa kịp thực hiện thì miền Nam giải
phóng, cuộc đời đã thay đổi. Ông nói: “Cái cách nghĩ như vậy, giới
thượng lưu miền Nam lúc đó cho chỉ có Việt Cộng mới dạy con lao động
cực khổ. Tôi thì nghĩ điểm này nói là của Việt Cộng cũng được, mà nói
Mỹ hóa cũng được”. Con của tụi Mỹ như ông đã thấy, “người ta nuôi
con, đảm bảo cho con ăn học, có bệnh tật thì chạy chữa, đảm bảo những
nhu cầu cơ bản. Nếu muốn xài hơn, thì đi làm việc kiếm tiền. Rửa xe, cắt
cỏ… Dạy nó biết tiền từ lao động mà ra. Dù gia đình có là tỷ phú cũng
vậy. Tôi thấy vậy là khôn”.

Phải lao động tay chân - lao động bao giờ cũng phát triển nhanh tư
duy. Từ lao động chân tay mới vô trí óc. Phải lao động mới ra sáng kiến.
Nhà trường Mỹ dạy kỹ lắm. Nhỏ xíu đã phải học cả những giờ học về
cây cối. Ông thầy chỉ cách, trò tự trồng đậu, bắp, mía, biết cái cây nó lớn
thế nào. Lớn chút ít học thêm nghề mộc, được dạy cách cầm bào, cưa,
tập đóng bàn đóng ghế.

Ông thường dẫn con trai lên Thủ Đức vào những ngày nghỉ, vạch cả
hàm răng trâu cho con xem để biết con trâu chỉ có một hàm răng. Chẳng
gì làm cho nó nhớ liền bằng cái cách nhìn thấy tận mắt như vậy. Về
quan niệm lao động để phát triển con người thì ông Mác đã dạy - Việt

Cộng càng coi là lối sống căn bản. Vậy mà nếu anh sống theo cách đó,
có thể là Mỹ hóa.

“Có ba nền văn hóa trong tôi” - lời ông Ẩn tự nhận, nó bao trùm lên
toàn bộ tính cách và cuộc đời hoạt động của ông. Có lẽ phải hiểu lời ấy
trên cách cảm nhận về thời cuộc, sự lựa chọn con đường dấn thân. Như
ông đã từng trả lời phỏng vấn Safer khi được hỏi là làm thế nào để
không bị lộ tung tích trong suốt bấy nhiêu năm. Ông nói: “Cái đó không
khó bằng sự trung kiên”, sự trung kiên mới thực sự là vấn đề. Một số ký
giả Mỹ cho rằng ông học được ý niệm về sự trung thành này từ các đại
học Mỹ. Cũng có thể ông Ẩn đã được thấy và sống cùng với những
người bạn Mỹ trung thực. Do đó theo ông, ở một mức nào đó, sự trung
thành hoàn toàn là một ý niệm Mỹ.

Những lời như thế, không rõ thực hư là ông Ẩn có nói như vậy và
các ký giả Mỹ có phần vội vã chăng khi họ có thể thừa nhận sự thấu hiểu
triết lý thâm sâu của văn hóa Việt Nam. Trong ngôi nhà giản dị nhưng
không quá nghèo khổ, cả gia đình ông sống theo tinh thần “xã hội chủ
nghĩa” - chữ dùng của ông, khi tâm sự chút ít về chi tiêu trong
nhà: “Phải có ngân sách, phải biết rõ kiếm từ đâu ra để chi. Các con
nhỏ còn đi học, chi tiêu theo mức của ngân sách cho phép. Phải tiết
kiệm”. Ăn thứ gì đủ dinh dưỡng, không cần xài đồ mắc tiền. Xưa người
ta mặc đủ ấm, nay đẹp, tùy con mắt, nhưng phải coi ngân sách mà tính.
Đi làm cũng vậy. Phải đọc sách, phải học. Con trai cũng phải biết chăm
con…”

Đó là khái niệm “Việt Cộng” hay khái niệm Mỹ, ai muốn nói gì thì
nói, điều chủ yếu không phải chỉ là lối sống vụn vặt bình thường hàng
ngày. Nếu muốn nói đến nguồn cội văn hóa nào đã làm nên tính cách
một người Việt Nam như ông Ẩn, thì phải bắt nguồn từ nhiều điều sâu
xa hơn. Nó được chứng minh bằng sự lựa chọn của cá nhân đối với vận
mạng gieo neo của đất nước mình. Nó còn là sự khôn ngoan của con
người trước mọi biến đổi của pháp tướng vô thường.

6
Bình phong không phải là vỏ...

Ông là một nhà tình báo vĩ đại, lại cũng là một phóng viên xuất sắc. Với
ông, làm báo không phải là đội lốt. "Bình phong để hoạt động không
phải là cái vỏ, không phải là sự đội lốt trá hình, đó không phải sự ngụy
trang bên ngoài. Phải thực sự sống bằng nghề đó một cách trong sạch -
Sống mãn đời nghề đó mới mong tiếp cận được mọi điều. Đó là cả một
nghệ thuật sống"...

Một mối hoài nghi, một câu hỏi tò mò nhất mà giới báo chí phương
Tây vẫn còn hỏi ông Ẩn. Đó là câu hỏi của Morley Safer: “Họ có yêu
cầu anh bịa đặt tin trên báo Time không? Chữ mà người ta thường dùng
là “đưa tin thất thiệt”. Ông Ẩn trả lời: “Không. Họ đủ khôn ngoan để
thấy rằng loại tin ấy dễ bị phát giác. Họ dặn đi dặn lại tôi là không làm
bất cứ điều gì có thể phương hại tới công tác”. Họ đây là phía Cách
mạng. “Công việc khởi đầu một cách thực sự vào năm 1960 khi ông Ẩn
làm việc cho hãng Reuters. Lúc đó ông đã mang quân hàm trung đoàn
trưởng, nhưng thực ra chưa bao giờ ông mặc quân phục, chưa bao giờ
mang súng. Có lẽ cây súng của ông là cây viết và một cái đầu cùng con
tim của người chiến sĩ. Trong những năm làm việc cho báo Time, ông đã
thăng quân hàm đại tá” - Nhà báo nước ngoài viết vậy.

Trong căn phòng có vẻ hỗn độn nhưng sạch sẽ và đầy sách vở, không
có “mùi bùn tỏa ra từ chồng sách báo đang từ từ mục trong cái khí hậu
ẩm thấp của Á châu” như lời của nhà báo phương Tây miêu tả. Ông Ẩn
vẫn sống trong phong cách của một người nghiên cứu và biết dung hòa
với tuổi tác ngày càng cao của mình. Công việc bận rộn suốt ngày, chỉ
ngồi ở căn phòng khách, ta có thể tưởng tượng ra khối lượng công việc
của ông. Bể cá phải thay nước thường xuyên. Những lồng chim treo đầy
cửa, đặt trên kệ. “Con này 10 năm rồi đó” - ông chỉ về phía con chim
quý và dẩu môi ra huýt sáo chẳng ngần ngại, như ông và chú chim kia
vẫn thường nói chuyện cùng nhau. Dưới mắt tôi, con chim nhỏ xíu chỉ

bằng quả chuối ngự kia, thật “đáng sợ”: Để cho nó được sạch sẽ và no
nê cất tiếng hót, chủ nhân phải hầu hạ nó nhiều công lắm!

Vì sao ông chọn nghề báo, và giữa nghề báo thực sự với công việc
của một sĩ quan tình báo, hai việc đó liên quan nhau thế nào? Làm thế
nào để đúng như ông nói - Chỉ huy của ông luôn dặn đi dặn lại là đừng
làm gì phương hại tới công tác của một nhà báo.

“Bình phong để hoạt động không phải là cái vỏ, không phải là sự đội
lốt trá hình, đó không phải sự ngụy trang bên ngoài. Phải thực sự sống
bằng nghề đó một cách trong sạch - Sống mãn đời nghề đó mới mong
tiếp cận được mọi điều. Đó là cả một nghệ thuật sống. Nội cái đó không
thôi cũng đã là cả một cái luận án.”

Ông lấy thí dụ Graham Greene (tác giả cuốn The Quiet
American - Người Mỹ trầm lặng) hết làm tình báo trở thành nhà tiểu
thuyết. Nếu không là một người trong giới trong nghề, nếu chỉ là sự
ngụy trang bên ngoài, sao ông có thể trở thành một tiểu thuyết gia.

“Người muốn tạo ra phải ở trong giới đó - Sống mãn đời với nghề.”

Theo ông, có ba nghề quan hệ rộng nhất, có lợi cho công việc của
tình báo, đó là luật sư, bác sĩ, giáo sư. “Thật ra, báo chí rất dễ bị nghi.
Cách cả cây số có mùi nó rồi. Cứ nghi là chắc. Nó chuyên phủ định,
Negative, moi móc cái tiêu cực. Xã hội lúc đó giàu và quyền thế là thiểu
số. Còn đông số nghèo khổ ,uất ức sẵn. Nghề này cần đổ cái tiêu cực
của đám quyền thế đó ra. Và người làm việc đó là anh nhà báo”.

Ông như người phân tích kinh tế, lấy hình ảnh chia cái bánh: “Sản
xuất ra ít, nhu cầu nhiều, thì bánh chia thế nào. Dân nghèo đa số chỉ
được miếng bánh nhỏ. Ức hoài. Ký giả viết thường bám vào những quan
tâm của đa số đó. Tờ báo nhiều người đọc mới có quảng cáo. Một trang
một kỳ mấy chục ngàn đô. Hình bìa báo tuần là 50 ngàn đô. Đó là giá
ngày xưa. Nay mắc hơn nhiều”. Ông giải thích: Đó là lý do vì sao an
ninh “theo” ký giả trước. Bởi dù nếu không làm tình báo, chỉ làm một

phóng viên chuyên nghiệp cũng moi móc tin. Nhưng nghề nào cũng phải
đạt tới mức chuyên nghiệp và phải có lương tâm nghề nghiệp.

Nghề dễ chọn làm nghề để hoạt động là luật sư, bác sĩ, nhà giáo, “kể
như tính mạng bệnh nhân giao cho bác sĩ”; giáo sư không bao giờ dạy
con mình làm bậy, do đó được phụ huynh tin cậy. Còn luật sư, nhất là
cãi án hình sự thường bênh vực được người yếu thế, oan ức. Về cái nghề
luật sư này, ông Ẩn có câu chuyện tiêu biểu của người em ông, sau này
là một vị đại biểu Quốc hội khóa VIII của tỉnh Cần Thơ. “Thời kỳ tòa án
xử bà Huỳnh Tấn Phát, tòa chỉ định em tôi, luật sư mới ra trường lúc đó
đứng ra bênh vực. Nó theo vụ án tới cùng. Còn nếu là tiền bao nhiêu đi
nữa, nếu biết án giết người là nó từ chối. Lương tâm nghề nghiệp nó dạy
vậy.”

Nếu coi bình phong chỉ là thứ nghề giả tạo mà không giỏi thật sự,
không làm nghề thật sự thì “chết như không”. Ông Ẩn vẫn còn nhớ
chuyện của một điệp viên đóng vai cố vấn cho Nguyễn Chánh Thi lúc đó
là tư lệnh quân đoàn. Một sĩ quan cao cấp bên an ninh đối phương có
quan hệ khá thân, một hôm bảo Ẩn: “Toa làm cho báo Mỹ phải cẩn thận
nhá. Ông Sáu Già là Việt Cộng đó (Sáu Già là một điệp viên từ Bắc vào
làm cố vấn cho tướng Thi). Phải cẩn thận đó nghe. Toa có tính tốt, moa
nói cho toa kiểm tra coi chừng”.

Vì sao sĩ quan an ninh này biết ông Sáu đó là Việt Cộng? Viên sĩ
quan này vẫn không hề biết Ẩn cũng là một điệp báo Cộng sản. Ông ta
vẫn nghĩ Ẩn chỉ là một phóng viên giỏi của báo Mỹ. Còn Ẩn, cũng
không có cách nào để giúp vì nguyên tắc bí mật hoàn toàn. Ẩn chỉ rút ra
bài học nghề nghiệp từ ông Sáu Già đó. “Moa biết là vì để ý thấy hễ ai
quan trọng nói chuyện với ông Thi, ông Sáu thế nào cũng ngồi ở giường
phía trong bức bình phong”. Viên sĩ quan nhận xét vậy, rồi xui ông Ẩn
“Toa cứ thử vào phỏng vấn tướng Thi mà coi. Nó ngồi nghe đó. Có ký
giả ngoại quốc là nó cho có chuyện quan trọng, thế nào cũng ngồi nghe”.
Ông Ẩn thử làm, y như vậy. Ẩn dẫn ký giả nước ngoài vào phỏng vấn
tướng Thi và thấy cảnh đó diễn ra thật. Sau đó, Mỹ giao cho tình báo

kiểm tra ông Sáu. Ông Ẩn biết được cách kiểm tra của họ là do “đàn
em” thân tín của ông, chính là người được phân công kiểm tra.

Cách kiểm tra ra sao? “Tôi sẽ dẫn thằng học trò lại vì ổng nói ổng là
giáo sư trung học dạy toán ở bên Campuchia về. Mang thằng học trò lại,
nói ngày mai thi rồi có bài toán bí quá nhờ giảng hộ”. Hắn đã làm như
thế thật, và ông Sáu đã không giải được bài toán lớp bảy. “Sau này ông
Sáu đã bị giặc bắt và ông Thi bị đưa đi Mỹ lưu vong”.

“Bình phong phải là một cái nghệ thuật, phải sống thật với nghề,
phải giỏi, không thể ghép vô đóng giả được. Bác sĩ giỏi cứu được người
bệnh, mới có quan hệ thân được”.

Trở lại sự nhìn nhận thời cuộc lúc đó, ông Ẩn cho rằng tình báo của
các nước đều đi theo kiểu “ăn sâu trèo cao” nhưng thực tế cho thấy lên
cao chừng nào thì lại có sự hạn chế chừng đó. Lên không phải dễ, nước
nào cũng vậy. Phải có một nghề phù hợp với mục tiêu đối phương.

Đời ông đã từng biết câu chuyện thực tế về việc “đánh vô” không hề
dễ dàng. Khi ký Hiệp định Genève, đất nước tạm chia đôi. Âm mưu của
Mỹ là không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định
đã ghi. Trong số những người di cư vào Nam, có hai thanh niên trẻ được
cách mạng đào tạo. Con đường của họ là phải học hành thành sĩ quan
chuyên nghiệp thực sự. Bao giờ thành tài, họ sẽ được giao nhiệm vụ sau.
Hai thanh niên ráng học giỏi, được sang Mỹ đào tạo quân sự. Trong khi
đó, có một cán bộ ngoài Bắc vào nắm tình hình và bị bắt khi chưa ổn
định. Bị tra tấn dã man, ông đã khai ra kế hoạch đào tạo hai chàng trai
nọ. Người tình báo bị bắt lẽ ra phải tự tử nếu chịu không nổi, vì nguyên
tắc của địch là đánh cho tới khi khai. Khai ít đánh cho khai nhiều, khai
nhiều rồi đánh nữa cho khai hết. Ai còn sống được là mừng. Có người bị
giặc chích thuốc cho lên cơn thần kinh, bị ám ảnh ma quỷ bóp cổ để khai
những gì còn nằm trong tiềm thức. Có thể nói đó là sự thử thách quá giới
hạn của sức người. Sống thì thân tàn ma dại. Chính quyền ngụy không
đủ phương tiện tra khảo thì chỉ dùng đòn đánh dữ. Ông cán bộ này chưa

được huấn luyện kỹ. Một thử thách nữa là tình báo đảng viên lại có quy
định giữ trọn khí tiết, không được tự tử, thế mới khổ thân.

Là một người được coi như một chuyên gia, ông Ẩn được phép quan
hệ với nhân viên Quân ủy Trung ương ngụy, mặc dù lúc đó ông là
chuyên viên ăn lương Phủ Tổng thống. Ông được tin cậy tới mức Điều
lệ của Đảng Cần lao cũng đưa ông sửa và góp ý. Ông Đỗ Mậu (mà
người ta gọi chệch là ông Đổ Máu - ông ta là đại tá giám đốc An ninh
Quân đội) hỏi ông Ẩn: “Hai thằng này tính sao?”. “Khổ quá. Việt Cộng
nó ghê gớm. Bây giờ kêu hai thằng đi học đó về, bắt xác nhận có việc
đó. Chứ tụi nó mới đi học, đã hoạt động gì đâu. Cho đối chất chúng cũng
biết ai đâu mà nhận mặt. Ra tòa cũng không kết tội được vì chúng chỉ đi
học thôi, chưa hoạt động, đâu có tội gì”. “Thế hai thằng đó nó phải làm
gì?” “Bắt xác nhận”. “Xác nhận xong làm gì?” “Đuổi nó ra khỏi quân
đội. Bởi khi nhận việc, chúng nó tuổi vị thành niên”.

Việc diễn ra y như rằng, hai thanh niên kia bị gọi về nước tạm để
kiểm tra thẩm vấn và sau cho ra khỏi quân đội. Câu chuyện cho thấy cài
người khó như thế nào. Tạo bình phong từ nguồn đến vậy rồi mà còn
hỏng. Ông Ẩn nhận xét và nhớ lại như đang bình luận một câu chuyện
cũ. Trong buổi chiều thanh bình ở một thành phố mà mối quan tâm của
tất cả dân chúng là hối hả làm ăn, thì câu chuyện xa xưa này nghe khó
cảm nhận được hết.

Theo câu chuyện của ông, thời cuộc lúc đó hiện ra trong lời vắn tắt
mà rất khốc liệt. Sau những năm 1957-1958, các lưới tình báo của ta bị
bắt hết. Dương Văn Hiếu cảnh sát đặc biệt Miền Trung dưới thời Ngô
Đình Cẩn rất có kinh nghiệm nắm rõ hoạt động của ta. Chính ông Mười
Hương, chỉ huy của ông Ẩn, cũng bị bắt trong thời gian đó. “Tôi đang
học ở Mỹ - ông Mười Hương giữ được khí tiết, không khai ra nên tôi an
toàn”. Ông Ẩn nói rất kỹ về nỗi khó khăn của việc tạo vỏ bọc, của bình
phong. Chính Mỹ dạy về nghề tình báo này kỹ lắm. Phải bí mật tuyệt
đối. Họ dạy rằng khi nói chỉ một chuyện mật với một người khác thì
phải coi là 11 người biết, còn nói với 3 người là 111 người biết.

Việc giữ bí mật quan trọng tới mức nếu một điệp viên được quá 3
người chỉ đạo là phải đổi sang bình phong khác. Tạo bình phong hoạt
động cho một điệp viên rất khó và đòi hỏi nhiều thời gian, công phu và
nghệ thuật.

Cách rất tốt là điệp viên đó phải đạt được tới mức trở thành chính
khách, các giới đều tìm đến tham khảo ý kiến. “Giới quân sự cũng chạy
tới. Bên kinh tế cũng qua hỏi. Nhưng không phải dễ đưa ra lời nhận
định. Khi đã được coi như chính khách rồi thì phải hết sức khách quan
khi phân tích tình hình, đóng góp được những ý kiến có giá trị”. Có
người được thăm dò để chuẩn bị vào chức bộ trưởng, cũng tới hỏi, nhờ
phân tích xem có nên nhận không, sẽ gặp khó khăn thuận lợi nào. Thậm
chí có người sắp tiếp giới báo chí cũng tới hỏi ông Ẩn xem “Có nên tiếp
thằng này không. Nó sẽ hỏi gì. Trả lời thế có được không”.

Ông Ẩn còn nhớ có một người là tiến sĩ toán học, tốt nghiệp bên Tây
về, bạn của bộ trưởng giáo dục nên được chỉ định làm giám đốc Trung
học. Vị tiến sĩ này về nhận việc thấy nội bộ nơi mình làm lại đang có
chuyện không hay với Phủ Tổng thống. Hai bên mâu thuẫn, và tất nhiên
là cơ quan đó bị Phủ Tổng thống “đánh”. Hoảng quá, vị tiến sĩ cũng tìm
đến Ẩn, “tay nhà báo chuyện gì cũng biết”. “Nó đánh nhau, moa ở giữa
sợ bị đạn. Có cách nào giúp không”. Vốn rất quen biết Phủ Tổng thống,
ông tìm đến người phụ trách. Câu chuyện thân mật đã giải quyết vấn đề
thật nhẹ nhàng: “Nè, tôi có người bạn mới về làm giám đốc đó, ông nội!
Nhắn biểu đàn em cho nó yên được không?”. “Không dính dáng chính
trị phải không?” “Ừ. Nếu được thì ra lệnh đàn em đừng động đến bạn
tôi, tội nghiệp nó!”

Ở đời phải giúp đỡ người khác, giúp rất nhiều. Ông Ẩn còn có cả núi
kinh nghiệm giúp cả mấy cô gái “ăn sương” thường bị nhân viên bảo vệ
thuần phong mỹ tục (tiếng Pháp gọi là agents - de - moeurs) hỏi thăm.
Từ việc to đến việc nhỏ, chẳng có việc gì lường trước được. Đôi khi tình
thế xoay chuyển đạt kết quả bất ngờ, dựa vào những ứng xử mang đạo lý
chứ chẳng phải bùa phép gì đặc biệt. Ngày đó, luật sư Nguyễn Hữu Thọ
có cô con gái yêu một người Mỹ. Vốn thù luật sư theo kháng chiến nên

chính quyền Sài Gòn lúc đó định làm lớn việc này ra bôi nhọ thanh danh
ông. Viên trung tá cảnh sát nói dự định sẽ bắt người con gái đó ra xử tội.
Lý do là “vi phạm thuần phong mỹ tục” vì chứa người Mỹ trong nhà khi
chưa kết hôn và không khai báo với cảnh sát. Nghe được dự định này,
ông Ẩn cản: “Đừng làm vậy. Hạ sách. Con ổng tự do. Bôi nhọ không
được đâu. Người ta hy sinh cả gia đình đi vô chiến khu, đâu có mang
con theo đâu mà quy trách nhiệm ổng. Ổng là trí thức lớn có uy tín, bôi
nhọ kiểu đó không được đâu, lại lòi ra nhà nước quốc gia hành động bần
tiện. Mà làm như vậy thì cũng là bôi nhọ luôn cả thằng Mỹ nữa”.

Những lời hợp lý và tỏ rõ ứng xử khôn ngoan ấy đã ngăn không cho
việc xấu xảy ra. Hơn thế nữa, qua cách ứng xử ấy, những kẻ đang tính
mưu mô bẩn thỉu còn thấy ở ông Ẩn một nhân cách trí thức biết tự trọng.
Lời khuyên ấy giúp họ tránh được những cư xử sơ hở, ngu ngốc, nếu
không, họ đã trở thành người bị chê trách. Những lợi ích như thế, qua
nhiều thử thách lớn nhỏ của cuộc sống, khiến Ẩn được yêu kính và tin
cậy. Ở đời phải giúp rất nhiều mới mong có quan hệ tốt, sự tin cậy và
giúp đỡ lại. Không phải là trả nợ ngang giá, mà nhiều khi ông được giúp
hoàn thành những nhiệm vụ to lón liên quan đến vận nước…

Đang nói chuyện về cái bình phong, cái vỏ bọc nghề nghiệp, ông Ẩn
phải ngừng câu chuyện để nghe điện thoại. Không rõ câu chuyện của
ông với ai đó, liên tưởng tới câu chuyện bỏ dở, ông buông máy điện
thoại để tiếp tục cái ý nghĩ liên quan tới lối ứng xử mà ông suốt đời tuân
theo.

“Ông bạn này người Hoa, 70 tuổi, bạn tốt. Cuộc sống ở đời có hai
cái: thứ nhất là quan tâm đến người khác. Thứ hai là phải tranh thủ chơi
với người bạn tốt, dù cho người xấu có nhiều, càng ngày càng xấu. Phải
làm bạn thật tình cho hết cuộc đời. Đời thành công cũng nhờ hai cái đó”.

7
Chàng ký giả "nhiều tít"

Tuổi thanh xuân của ông vật lộn với những cam go, với sống còn, với
lòng can đảm hy sinh, sự lựa chọn con đường. Gay go khủng khiếp, cần
sự quật cường...

Những năm 60, khi ông Phạm Xuân Ẩn bắt đầu trở thành phóng viên
của Việt Nam Press Reuters; 1964-1965 là phóng viên của the New
York Herald Tribune, rồi tuần báo Time từ 1965-1976; xã hội miền Nam
đầy những biến cố. Hàng chục vạn lính Mỹ và chư hầu đổ vào. Nạn đĩ
điếm “bùng phát” đến nỗi thượng nghị sĩ Mỹ J. William Fulbright,
trưởng ban đối ngoại Thượng viện Quốc hội Hoa Kỳ đi Nam Việt Nam
năm 1966 về nước đã nói rằng: Mỹ đã biến Sài Gòn thành một nhà chứa
khổng lồ.

Trên tờ Le Monde của Pháp có bài viết về một Sài Gòn ngập ngụa
trong ba làn sóng: bán dâm, tham ô và nạn chợ đen. Người ta nói rằng
chính phủ thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập một công ty kinh doanh
nghề mại dâm. Còn tổng trưởng Bộ Xã hội thì khoe: Nghề gái điếm phát
triển tới mức trở thành một trong những nghề có tổ chức tốt nhất.

Sài Gòn, nơi lương tâm và lòng yêu nước không bao giờ lắng, đã có
cả một phong trào đấu tranh chống văn hóa đồi trụy và nô dịch của Mỹ,
bảo vệ thuần phong mỹ tục Việt Nam.

Trong tình hình ấy, riêng chỉ là một nhà báo, ông Ẩn phải “lặn sâu”
vào mọi giới trong xã hội. Ông không chỉ quen với đám xì ke ma túy tới
độ qua xem họ chích trên đường Lê Lai, chơi với cả ông trùm. Ông tận
mắt quan sát họ trong tình trạng ngà ngà hoặc thiếu thuốc, vật vã. Lâu
lâu ông cũng viết những bài điều tra xã hội, mặc dù công việc chính của
ông là một chuyên gia về phân tích chính trị, quân sự và chuyên viết
chiến tranh.

“Tôi có nhiều tên lắm. Họ gọi tôi là chuyên viên đảo chính vì luôn
viết về quân sự, về biến cố chính trị và các cuộc đảo chính. Là “tiến sĩ
Cách mạng” cũng vì chuyên viết về các đổi thay thời cuộc”. Ông cũng

có cái tên giảng viên sinh lý cho các cô “tứ thời” thường đến ngồi bàn
với ông Ẩn tại “đại học Continental” (nhà hàng) chờ khách. Tên là “bác
sĩ chó” vì Ẩn biết chữa bệnh cho chó của các bà bạn đầm. “Tôi nhiều tít
lắm” - Ông Ẩn còn kể ra thêm một cái tên lạ người ta đặt cho là “giáo sư
Sexology”: Lúc chiến sự tạm yên, để đổi đề tài, ông hay viết về các cô
gái điếm, vũ nữ. Thời đó, nhân viên bảo vệ thuần phong mỹ tục hay bắt
các cô vũ nữ lố lăng và họ thường biết ơn vô cùng “ông nhà báo” hào
hiệp, có uy đã quen cò mà xin tha cho các cô. Không chỉ dân xì ke ma
túy có thể nói dóc với ông ngay bên bàn đèn, khi ông ngồi coi người ta
tiêm thuốc, Ẩn còn được các cô vũ nữ giúp kể nhiều chuyện về cuộc
sống đưa đón khách để làm tài liệu viết bài. Ông có thể kể cho bạn đọc
cuộc sống các cô ra sao khi lấy Mỹ, nếu rủi có con không nuôi được thì
cho ở đâu. Cũng có khi ông đi cùng ký giả Mỹ làm các cuộc phỏng vấn
tận Quy Nhơn.

“Những ký giả kiểu đó, an ninh bám theo ngay”, ông Ẩn nhớ lại
chuyến đi cùng một nữ ký giả Mỹ vào đúng thời gian quân Mỹ bị tấn
công lẻ ở bất cứ chỗ nào. Phong trào diệt Mỹ của quân dân ta đang lên
cao. Những ổ gái điếm cũng có lúc gặp khó khăn, ế hàng vì lính Mỹ
được lệnh cấm vào những chỗ đó nguy hiểm. Việt Cộng thường tận
dụng diệt Mỹ trong các sào huyệt ăn chơi, lơ là mất cảnh giác. Trong
chuyến công tác đó, ký giả Ẩn ở tại nhà tỉnh trưởng còn nữ ký giả Mỹ ở
nhà một tướng Mỹ. Khi thâm nhập thực tế, họ đi dọc theo các Snack-bar,
tiệm nước dọc bờ biển, hỏi chuyện các cô nàng đang ế khách. Ngồi
trong tiệm, lâu lâu thấy bóng lính Mỹ, một cô mời gọi: “Come on, boy,
no vi-xi, no vi-đi (V.C - Việt Cộng; V.D - Venereal Diseases). V.D là
tên của bệnh giang mai khó chữa. Lúc đó thuờng được gọi là bệnh
Okinawa do lính Mỹ bên đó mắc phải và đã nhờn với kháng sinh thường
dùng. Kháng sinh chữa không ăn thua. Vì sao ký giả đi kiểu đó bị an
ninh “bám?”

“An ninh rất sợ ký giả phản ánh thực trạng tồi bại của xã hội. Họ đi
theo giải thích cho ký giả hiểu là đừng có viết những mặt trái đó”. Chẳng
qua là chuyện xã hội bình thường, đừng viết nhá! Đời sống khó khăn.
Nông thôn ra. Bị gạt. Nhưng đâu phải vậy. Làm sao lừa được người ký

giả đã biết rõ mọi điều. Ăn chơi của đám có tiền đã lên đến đỉnh cao: họ
phải hoán đổi cả gái nhảy từ Hồng Kông, đổi món. Ở Sài Gòn, trong các
nhà hàng Mỹ Cảnh, Tự Do, Chợ Lớn… dân chơi không còn thích nhảy
với vũ nữ quen. Chuyện này một ông bạn của Ẩn đã gặp trong một
chuyến đi Hồng Kông. Người bạn đó không biết nhảy đầm nhưng được
mời vào phòng khiêu vũ. Đụng một cô vũ nữ không nhớ là ai, vậy mà cô
ta reo lên “Hà, anh Hải ở Xây Cung (tức Sài Gòn) mới qua hả?” Hỏi cô
ta làm gì ở đây, cô nói “Đổi qua. Mai mốt chuyển về Xây Cung lớ”.

Ông Ẩn hay kể chuyện trào phúng về cái nghề làm báo của mình.
Câu chuyện vui ông nói là của Mỹ hẳn hoi khỏi ai chê trách. Con của ký
giả nọ một hôm đi học, cô giáo hỏi ba làm nghề gì? Nhà báo. Báo nào
con không biết. Con về hỏi ba, cô hỏi ba bạn, bạn nào trả lời cô cũng
hiểu. Bác sĩ, biết khám bệnh. Luật sư, giáo sư, lái xe cô đều hiểu cả, chỉ
có nhà báo là con cũng không biết giải thích thế nào. Mẹ nói: giải thích
dễ lắm. Con mẹ nào đó, thằng cha nào đó không làm được nghề gì hết vì
không có bằng cấp. Luật sư, bác sĩ, lái xe phải có bằng. Thằng này
không có bằng cấp nào nên nó không làm được gì hết đành đi làm báo.
Viết sao cho người ta đọc được thì viết. Nó làm mấy nghề khác không
được.

Những chuyện kiểu “tiếu lâm” ấy ông Ẩn nói về nghề mình vừa có
chất tinh nghịch lại như có một chút gì đó giải thích cho những gì “kỳ
cục” mà ông đã sống qua. Nói như chế giễu vậy nhưng ông yêu nghề
báo lắm, hết lòng với nghề. Rồi như nó “vận” vào ông thật, đứa con gái
của ông đi học lớp hai, cũng được hỏi rằng ba làm gì. Nó giải thích nghề
ký giả của ba như sau: Thấy ba toàn ra tiệm ngồi ăn, tán dóc, tới tháng
mấy ông Mỹ trả lương cho ba đem về cho má đi chợ!

Ông giải thích thêm: đã là ký giả hồi đó thì thấy biểu tình, có chém
chết nó cũng chụp ảnh viết bài. Thượng vàng hạ cám cái gì đám báo chí
cũng tìm biết. Vì thế an ninh nó theo là phải: ký giả tụi tôi có “mùi hôi
tanh” ngửi thấy từ xa. Phải chăng ông đang nhớ lại những tháng năm lăn
lộn với nghề, vừa làm một nhà báo giỏi thực sự cho tòa báo của mình,
vừa có thể từ vị trí nhà báo được tin cậy mà có nhiều nguồn trung gian

quan trọng lấy được tin tức cho cuộc chiến đấu của dân tộc mau thắng
lợi.

Ngày nay, chúng ta sống ở một thời đại mà thông tin, báo chí phát
triển đến mức con người lại phải đối mặt với sự loạn tin tức, chắc hẳn có
người sẽ mỉm cười khi nhìn về thời gian làm báo của quá khứ. Nó có vẻ
đơn giản? Hay là mọi sự đã tiến lên nhanh quá? Khi các nhà báo phương
Tây đã từng hành nghề ở Sài Gòn nay trở lại chốn xưa, họ cũng đã phải
kinh ngạc miêu tả sự biến đổi của đất nước này. Chi tiết cỏn con về
người con trai một chủ tiệm café chìa cuốn bài tập Oxford nhờ chỉ cách
dùng điều kiện cách, một thanh niên dọn cây đổ cũng biết đài VOA đêm
qua giảng đến bài số mấy - chi tiết cỏn con đó khác xa với hình ảnh đất
nước này khi xưa họ biết.

Tác giả Edith Lederer lái xe từ Sài Gòn ra Đà Nẵng cố tìm các đài kỷ
niệm chiến tranh xưa và ông đã nhận ra rằng căn cứ quân sự Đà Nẵng
của thủy quân lục chiến năm 1965 đã biến mất trước vẻ nhộn nhịp của
một trung tâm thương mại lớn của thành phố đang mọc lên. “Căn cứ Mỹ
tại Biên Hòa nay trở thành một đống xà bần to quá xá và The Brinks,
căn cứ Mỹ cuối cùng tại Sài Gòn, nay sắp bị san bằng”.

Họ có thể trở lại đất nước này, ngửi lại không khí sặc mùi xăng
không phải của chiến trận, mà là cái bệnh ô nhiễm của xứ sở phát triển
biến đổi nhanh. Họ có thể thấy sân thượng của Continental, nơi ngày
xưa những phóng viên nước ngoài viết chiến tranh lui tới, nay ở đó có
bán Pizza. Khách sạn Hoàng Gia chốn tiêu hoang của dân nhà báo xưa,
nay là nơi bán kem Ý. Khá nhiều người Mỹ và phương Tây giờ đây lái
xe, du khảo, chạy vì hòa bình trên con đường quốc lộ, mà “adrenalin
trong cơ thể không còn phải lên từng cơn qua mỗi khúc quẹo như thời
chiến tranh không có Việt Cộng phục kích thì cũng có Mỹ ném bom”.
Thậm chí Peter Arnett còn nhận xét rằng để kinh doanh du lịch, người
Việt Nam không thờ ơ với cảm giác của du khách và đã “thương mại
hóa cả các chiến trường” - đó là các tour đi Khe Sanh…

Thì nói làm gì, khi thời đại đã thay đổi lớn lao con người cũng gặp cả
những thảm họa mới. Từ trước đến nay các chuyên gia nghĩ rằng các
bệnh mới, gay cấn, thách đố nhân loại, do virus gây ra, đều bắt nguồn từ
đột biến gen. Nhưng bây giờ điều đó không đáng sợ bằng ảnh hưởng của
việc xã hội loài người biến đổi. Người ta lấy thí dụ một con HIV đã có
từ lâu ở Châu Phi. Nó không lộng hành như những năm 70, 80, mà hàng
thế kỷ nó không vượt biên giới để đi đâu cả. Những năm 60 được gọi là
những năm “không vượt qua lũy tre làng”. Chỉ đến khi giao thông vận
tải và du lịch phát triển, nó đã đưa mọi thứ đến.

Trước đó thì chiến tranh, sau này là mậu dịch và du lịch khiến con
người từ lũy tre làng đi đến tận cùng cuối đất, nhìn thấy mọi nền văn
hóa. Chỉ không đầy một thế kỷ, nhiều thứ đã thay đổi, và tốc độ của đô
thị hóa, của lối sống con người, của khai thác đất đai, của du hành bằng
máy bay đã thu nhanh bước của virus. Bao nhiêu là vấn nạn, bao nhiêu
là lãng quên!

Thì chàng ký giả trẻ ngày ấy, nay đã ngoài 70 tuổi rồi còn gì. Tuổi
thanh xuân của ông vật lộn với những cam go, với sống còn, với lòng
can đảm hy sinh, sự lựa chọn con đường. Nó cũng gay go khủng khiếp,
cần sự quật cường. Có thể nhìn thấy cái bối cảnh mà thế hệ ông đã sống,
qua vài con số. Bức tranh còn lại là 15 triệu tấn bom đã ném xuống nay
vẫn còn 300 ngàn tấn chưa nổ. 3 triệu người chết, 4 triệu người bị
thương, 2 triệu người nhiễm chất độc hóa học, 170 ngàn người già mất
người thân phải sống nhờ xã hội…

Nếu đứng lùi để nhìn lại bức tranh ấy, với hình ảnh một con người
không mang súng đạn phải đương đầu. Ông đã như mọi người khác ở
Việt Nam phải nếm trải. Nhưng cũng có thể nhìn từ một vị trí khác, góc
độ khác sẽ thấy một hình ảnh của cuộc đời lạ lùng.

8
Sống với vỏ bọc

Không, ngày đó không đơn giản. Ngay từ những ngày cạnh tranh tin tức
của các hãng phương Tây. Người ký giả đứng được trong cái nghề vỏ
bọc ấy của mình đâu phải không có gian nan.

Trong nghề báo, anh chẳng lường trước được điều gì. Có một câu
chuyện hoàn toàn là nghiệp vụ báo chí, từ thời kỳ đầu thập kỷ 60, khi
ông Ẩn đang viết cho hãng Reuters. “Lúc đó báo chí đã cạnh tranh kinh
hồn rồi. Với AP, UPI, AFP, chưa kể các hãng của Đài Loan, Triều Tiên
và các hãng thông tấn nhỏ, các báo hàng ngày”. Một lần ông phải đưa tin
việc đại sứ Mỹ lúc đó là Frederick E. Nolting khánh thành đường băng
sân bay Tân Sơn Nhất. Ông Nolting sẽ đọc diễn văn tại sân bay. Bản
photo bài diễn văn, ông Ẩn đã có trong tay rồi. Đó còn là bản do chính
Nolting sửa bằng tay đưa đánh máy lại. “Tôi có photo bản sửa rồi,
nhưng vẫn phải cho cậu phóng viên trẻ lên canh trên sân bay, khi nào
ông Nolting đọc xong, phôn về cho tôi biết, là tôi sẽ chạy bài đó lên máy
telex sang Singapore rồi mới chuyển đi khắp thế giới. Có bản diễn văn
trong tay, vẫn phải chờ. Nhỡ nó té xe sao? Kinh nghiệm các báo ngày đó
đã có rồi: Ông Dag H.A.C. Hammarskjold người Thụy Điển, Tổng thư
ký Liên hiệp quốc (1953 - 1961) rớt máy bay chết ở Âu châu. Ký giả
không hay, đưa tin ngày giờ ông ta đến sân bay, tiếp đón linh đình. Trật
tuốt luốt. Lý do vì ký giả ngồi ở nhà viết tin dựa trên bản chương trình di
chuyển của ông Hammarskjold phát trước”.

Vì thế ông Ẩn cẩn thận. Có bản diễn văn trong tay rồi, vẫn phải cử
một nhà báo lên ngồi nghe. Hễ khi nào Nolting đọc xong thì nhiệm vụ
của anh ta là điện thoại về báo để đưa bài chạy telex sang Sing. Mọi việc
diễn ra suôn sẻ như đã định. Vậy mà tai họa lại đến một cách bất ngờ
nhất: ”Vô phúc ngày sau - tối ở Mỹ, ngày bên ta nên tối đó Tiếng nói
Hoa Kỳ đưa. Đài VOA tỏ vẻ khách quan không tự bênh Mỹ nên thường
hay dùng tin của Reuters (Anh). Nó trích Reuters trên VOA. Nolting
sáng sớm vừa cạo râu vừa nghe đài VOA. Người trong Tòa Đại sứ kể
lại: Ổng ném cái dao cạo râu, giận dữ bảo thằng Reuters nó có nội gián
trong Tòa Đại sứ Mỹ”.

Vì sao ông Nolting giận? Đài phát bản diễn văn của chính ông đọc
hôm khai trương đường băng Tân Sơn Nhất mà? Thì ra là có bản diễn
văn rồi, có cả sự sửa chữa của chính Nolting rồi, nhưng ngay khi đang
đọc ông ta tự bỏ lướt qua một số câu chữ mà ông ta cho là không chỉnh,
vậy mà khi phát lên lại vẫn còn y nguyên. Như thế chứng tỏ bản đó
không phải bản ông đọc, mà đã được chuyển đi trước, còn nguyên tất cả.

Ông Ẩn có bị phiền toái gì vụ này không? “Sao lại không! Nó nhờ an
ninh chính quyền Sài Gòn hỏi tôi. Vì là chỗ quen biết nên câu chuyện
không có vẻ gì “hỏi cung”. Ẩn ơi, mày chết rồi dám ăn cắp tài liệu tòa
đại sứ Mỹ. Gì đâu mà nói tầm bậy tầm bạ, ai ăn cắp đâu! Tùy viên báo
chí Mỹ mời tôi đi uống nước. Mày ăn cắp gì nói coi. Bài ông ấy đọc, có
lấy trước không. Vốn là chỗ quen biết, có lẽ anh ta hỏi theo ý nghĩa khai
thác cách lấy tin của đám ký giả mà thôi. Ông Ẩn: Có người quen đưa
đọc vậy thôi, chẳng có gì quan trọng”. Câu trả lời tưng tửng đó không
đáp ứng được yêu cầu. Nolting chỉ muốn kiểm tra những người trong
Tòa đại sứ, nhưng muốn vậy phải hỏi để ông ký giả cho biết ai đã cung
cấp. Tùy viên báo chí George Philip được cử làm việc này vì anh ta chơi
rất thân với ký giả Ẩn. Họ thân nhau tới mức trước khi về nước, Philip
còn tặng lại ông Ẩn con chó quý. Câu chuyện cũng chỉ trong phạm vi
của sự chân tình.

“Ẩn, tao nói thiệt, chắc có đọc?” “Đúng”. “Ai đưa?” “Mày biết
người Mỹ dạy tao làm báo rất kỹ: thà mất việc chứ không nói ra nguồn
tin”. George Philip đành nằn nỉ: “Không nói ra cũng được. Trong Tòa
Đại sứ có ba loại nhân viên: Mỹ - Hoa - Việt - Ẩn đừng lo họ bị trả thù.
Tòa Đại sứ sẽ giải quyết nhẹ nhàng thôi: tập hợp họ lại khuyên nhủ
chung là không nên làm như vậy. Sẽ không truy ai cả, vì nếu truy, ai
cũng sợ mất việc làm, ai cũng chối. Nếu họp chung hết, sẽ không có lợi
vì người nào cũng thấy nhột nhạt. Tụi da trắng ít mặc cảm. Nếu họp
chung cũng sẽ nói: Reuters không có lỗi. Lỗi nó nghề - còn nghề của các
nhân viên Tòa Đại sứ là không đưa trước cho báo chí”.

Ông Ẩn giải thích rằng cũng muốn giúp bạn nhưng nguyên tắc nghề
nghiệp phải giữ nguồn tin, tên cụ thể không cho được. “Ẩn chỉ cần nói

Mỹ da trắng, da màu, da vàng, người Việt hay Hoa? Chúng tôi không
truy họ mà muốn biết để họp nhóm riêng cho họ đỡ tự ái. Đây chỉ là bài
học khuyên nhủ họ tính cẩn thận thôi”. Dù Philip có nói hạ mức xuống
như vậy Ẩn vẫn “Tôi không nói được. Nguyên tắc nghề nghiệp chính
Mỹ dạy xin anh thông cảm”. Anh đúng là nghề nghiệp cứng đầu. Philip
nhận xét thế. Hơn nữa họ đều biết Ẩn là một nhà báo có tên tuổi và thân
quen lớn, có gây rắc rối thì Ẩn cũng chỉ cần “nói một tiếng là huề”. Nhờ
Ẩn cương quyết vậy nên các”nguồn tin” được bảo vệ, họ càng tin cậy
một nhà báo trung thực.

Nếu giở lại cuốn sử về cuộc kháng chiến giành độc lập chống Pháp,
chống Mỹ của Việt Nam, có cả một kho sử sáng chói của lòng can đảm
và cũng có cả những năm đen tối nặng nề dưới chế độ Ngô Đình Diệm.
Nguyễn Văn Tâm làm thủ tướng ngày 6-6-1952 đến đầu tháng 1-1954.
Khi Hiệp định Genève ký kết, Pháp hết vai trò, phải giao Miền Nam cho
Mỹ. Sụp đổ theo Pháp là chế độ bù nhìn. Thủ tướng bù nhìn cuối cùng
thời Pháp là Bửu Lộc. Hoàng thân Bửu Lộc làm thủ tướng ngày 11-1-
1954, Ngô Đình Diệm làm thủ tướng ngày 6-7-1954, Bảo Đại cũng thôi
cầm quyền. Chính phủ mới phải nhường chỗ cho thủ tướng bù nhìn của
Mỹ lúc đó là Ngô Đình Diệm - Diệm đã lên như thế nào và đã chết như
thế nào, có thể viết thành cuốn sử riêng.

Ban đầu Diệm chưa có thực lực ở Miền Nam, chỗ dựa chính trị chính
y muốn là lực lượng công giáo Miền Bắc di cư vào Miền Nam. Đã xảy
ra cuộc chiến với tham mưu trưởng quân đội Nguyễn Văn Hinh thân
Pháp. Bảo Đại triệu tập Hinh sang Pháp vừa yên thì Diệm lại gặp xung
đột dữ dội với Tam Liên (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) mà sự thật là
Tứ Liên (Cao, Thiên, Hòa, Bình): Cao Đài, Thiên chúa giáo Miền Nam
thân Pháp, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Ở đường Miche (Sài Gòn) có một trụ
sở của quân J. Lerry là U.M.D.C. (Unités Mobiles de Défense des
Chrétiennes) do quân đội của Col. Jean Leroy (người Pháp lai Việt) đa
số là Thiên chúa giáo Bến Tre.

Họ đã đánh lẫn nhau ngay trên đường Catinat, Petrus Ký, lửa cháy
rực trời giữa Sài Gòn - Chợ Lớn, thiêu rụi hai vạn nóc nhà dân. Cơn hỏa

hoạn khủng khiếp còn ghi dấu trong ký ức những người lớn tuổi. Pháp
huy động cả xe tăng, máy bay để ủng hộ Bình Xuyên, đến nỗi Tổng
thống Mỹ lúc đó là Eisenhower phải cấp tốc trợ lực cho Diệm - lãnh tụ
Bình Xuyên được đưa sang Pháp. Người Sài Gòn ngày đó nhớ những
biển lửa từ Tân Thuận đến Xóm Củi, và kể cho nhau nghe cái chết của
tướng Cao Đài Trịnh Minh Thế. Thế ở trong Tứ Liên rồi quay ra đi với
Diệm. Chính Diệm - Nhu cho người giết Thế ngay chỗ cầu Tân Thuận.
Diệt được thủ lĩnh Cao Đài, đuổi được Bảy Viễn Bình Xuyên và
U.M.D.C. lúc đó Diệm mới yên bề độc chiếm Sài Gòn.

Thật ra, đối thủ chính của Diệm không phải là Hinh, Bảy Viễn, mà
chính là lòng dân. Những phong trào rộng lớn của dân gắn liền với
những tên tuổi như kỹ sư Lưu Văn Lang, luật sư Trịnh Đình Thảo,
Nguyễn Hữu Thọ, bà Nguyễn Thị Lựu, Hòa thượng Thích Huệ Quang…
Chính họ đã nổi lên trong phong trảo bảo vệ hòa bình Sài Gòn - Chợ
Lớn… Có thể nói suốt từ năm 1954 cho đến đảo chính 1963 - trong gần
10 năm ấy, chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm đã gặp biết bao sự
chống đối của nhân dân.

Chống trưng cầu dân ý và bầu cử Quốc hội của Diệm, đòi hiệp
thương, tổng tuyển cử, đấu tranh cho dân sinh dân chủ. Diệm ra luật 10-
59 từ việc kéo lê máy chém đi khắp Miền Nam giết hại người yêu nước,
cho tới đỉnh điểm là đàn áp Phật giáo năm 1963. Ngày nay người dân đi
qua ngã tư Nguyễn Đình Chiểu và Cách mạng Tháng Tám vẫn thấy am
thờ Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào tháng 6-1963. Gần 40
năm đã qua, nhiều người trẻ tuổi không được chứng kiến giây phút của
ngàn sư sãi tăng ni phật tử lặng lẽ đi sau chiếc xe hơi. Tì kheo Thích
Quảng Đức từ xe bước ra ngồi xuống đường cho các vị sư tăng tưới
xăng vào mình và chính tự tay Hòa thượng đánh lửa và bình tĩnh tay lần
tràng hạt trong tiếng tụng kinh. Sau đó là biển người, sinh viên, học sinh,
nhân dân kéo về chùa Xá Lợi, nơi di hài Hòa thượng được đưa về. Dù
giới trẻ ngày nay, hoặc nhiều dân cư mới của Sài Gòn, không được nhìn
cảnh ấy, nhưng am thờ Hòa thượng ngày nào cũng vẫn có hoa và hương
khói…

Diệm tấn công các chùa, tiến công các trường học… Các vùng xung
quanh thì chiến tranh du kích nổ ra mạnh mẽ khắp Nam Bộ. Các chiến
thắng Đầm Dơi, Cái Nước, Lộc Ninh, Ấp Bắc vang dội. Trong tình cảnh
Diệm không làm tốt nhiệm vụ biến Miền Nam thành “Tiền đồn thế giới
tự do” của Mỹ như vậy, Mỹ phải thay ngựa giữa dòng, xui phe quân
nhân đối lập với Diệm làm đảo chính. Tướng Dương Văn Minh cầm đầu
phe đảo chính, sau đó lên thay Diệm. Người ta đều biết việc Diệm - Nhu
đã chạy trốn trong nhà thờ Cha Tam (Chợ Lớn) và bị phe đảo chính bắt,
giết trên đường về Sài Gòn như thế nào.

Trong bối cảnh đó, làm báo như ông Phạm Xuân Ẩn, theo dõi việc
thay đổi chính quyền, thay đổi đường lối, là rất quan trọng. Đó không
chỉ là các yêu cầu của nghề báo, mà cũng là yêu cầu của người điệp
viên. Sau này, khi nhà báo Safer hỏi câu “Họ đã trông cậy ở anh điều
gì”, ý muốn hỏi cấp trên đã cần Ẩn hoạt động đem lại điều gì. Ông Ẩn:
“Cũng là những điều mà tòa báo Time muốn tôi viết. Cấp trên của tôi
muốn được biết về các căn cứ, tiềm năng của các đơn vị, các cấp chỉ
huy, để biết ai tham nhũng và những ai có thể tranh thủ được. Họ muốn
biết mọi chuyện về chính trị, cũng những thứ mà các anh làm báo trước
đây muốn được biết”.

Nhưng ông đã biết những điều đó theo cách nào? “Chức năng đầu
tiên là tin tức”. Ông Ẩn với tính hóm hỉnh rất đặc biệt, phát triển câu
chuyện của mình: “Mà cái gì lại không cần tin tức chứ? Cưới vợ cũng
cần biết tin tức, ông nội, bà cố sao… Nhưng phải làm theo hình thức
research (điều tra) thì mới cao hơn”. Thời của ông vào nghề, ở Việt Nam
chưa có trường dạy báo chí. Nước ngoài mới dạy. Nhưng thời đó của
ông, cũng bắt đầu có nhiều ký giả. Họ có hai loại thẻ hành nghề: một do
Bộ thông tin cấp, còn loại khác do Mỹ cấp. Loại này chỉ cấp cho những
người được tin tưởng và được Mỹ điều tra an ninh (Security Clearance)
xong.

Họp báo, đi theo các cuộc hành quân, đi trong giờ giới nghiêm, viết
các cuộc biểu tình. Khi các tòa báo nước ngoài tại Sài Gòn tuyển người,
họ chú trọng việc không chỉ thật sự giỏi tiếng Anh, mà còn là người

quan tâm đến thời cuộc, đến đất nước, chính trị, xã hội. Chuyên môn kỹ
năng nó bảo sẽ học được. “Lúc đó tôi viết quân sự, chính trị, viết về các
âm mưu, lật đổ, biểu tình, cháy lớn. Mỗi ngày phải cho tin chạy liền liền.
Hàng ngày xách điện thoại kêu các nơi: Công an, cảnh sát, chiến tranh
tâm lý, bộ kinh tế… Mỗi nơi đó có một viên sĩ quan báo chí hướng dẫn.
Mình đã làm thân, quan hệ tốt. Cũng có khi người ta cần mình, giúp cho
họ cách tiếp giới báo chí. Có cháy lớn, kêu cứu hỏa hỏi. Tôi luôn có bản
đồ hành quân, kinh tế, chính trị, có diễn biến gì chấm ngay vào. Tất cả
các bản đồ diễn biến chiến tranh đăng trên báo Time đều do tôi vẽ”.

Nhưng hãy quay trở lại thời kỳ Miền Nam còn đang dưới chế độ
Diệm hà khắc. Diệm đã bị đảo chính hụt không thành vào tháng 11 năm
1960. Theo hãng thông tấn UPI chỉ trong 3 ngày sau đảo chính, số người
bị Diệm bắt lên tới 30.000. Trong cái xã hội sôi sục như núi lửa phun bất
kỳ lúc nào đó, nhiệm vụ của ký giả Ẩn đồng thời của điệp viên Ẩn phải
là biết được khi nào thì Mỹ có ý định thay đổi đường lối, thay “nhân sự”.
Điều ông phải để ý là khi nào thì Mỹ thay đại sứ ở Miền Nam như tin
tức đồn đại. Bao giờ thì Cabot Lodge sang thay Nolting. Ngô Đình Diệm
giấu tin này ghê lắm. Bởi đại sứ mới sang, nghĩa là đảo chính có thể diễn
ra, là Mỹ đổi đường lối, là ngày tàn của chế độ độc tài cá nhân gia đình
trị họ Ngô.

“Tôi viết một tin độc đáo: Một tuần nữa Nolting về nước”. Ông Ẩn
đã “mạo hiểm” đưa tin này dựa vào những thẩm định chính xác, tinh
nhanh của óc quan sát cá nhân, kết hợp nguồn tin dựa vào những chi tiết
nhiều người bỏ qua. Thường buổi tối các ký giả hay tụ tập ở tiệm ăn
Pháp có sàn nhảy và dàn nhạc có tên là La Cigale (con ve sầu). Nhân thể
vừa ăn tối, uống rượu nhảy đầm, họ vừa trao đổi tin tức. Lúc đó tại Sài
Gòn đã có các ký giả Nhật, Pháp, Đức, Ý, Na Uy, Thụy Điển. Có 4 hãng
lớn của Pháp, Mỹ, Anh. Đã cạnh tranh kinh hồn. Trong tình hình đó Tòa
Đại sứ Mỹ cũng trở nên khôn ranh: Họ lợi dụng chỗ nghe ngóng trao đổi
tin tức nhanh chóng hiệu quả ở cái tiệm ăn có khiêu vũ La Cigale này.
Khi cần tung một tin gì đó lên báo, nhân viên Tòa Đại sứ lại tới làm như
chỉ là nói chuyện bên ly rượu.


Click to View FlipBook Version