Hồi Ký
DUYÊN và NGHIỆP
Tập II
Đào Hiếu Thảo
Mục Lục
1. “Bạc Màu Áo Trận” dạ tiệc kỷ niệm 59 năm thành lập Biệt Động Quân Việt Nam
Cộng Hòa
2. Chợ Tết Giáo Họ Đức Mẹ La Vang năm 2020
3. Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh họp mặt tại Virginia
4. Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kỳ XII
5. Phật Giáo Hòa Hảo – Ngày khai sáng nền đạo
6. Được Bổ Nhiệm Chức Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Không Quân 1974 và
Những Thăng Trầm Sau Tháng Tư 1975
7. Hành nghề tư ngoài giờ công vụ - Saigon 1971-1975
8. Lễ cầu nguyện nạn nhân Covid 19
9. SỰ ĐỜI -VẾT THƯƠNG CHƯA LÀNH
10. Lễ Thượng Kỳ Đầu Xuân Nhâm Dần 2022
11. Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An năm thứ 165
12. Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa năm thứ 56 tại Virginia
13. Những chuyện không thể quên
14. Những tội ác lớn nhất của Cộng Sản 2018
15. Prelude Chamber Ensemble và buổi trình diễn ca vũ nhạc ngoài trời
16. Sắc Hoa Màu Nhớ
17. Tang lễ ông Bùi Diễm, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ (1967- 1972)
18. Thánh lễ cầu Hồn cho Phu Nhân cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
19. Tưởng niệm Anh Hùng Dân Tộc Nguyễn Trung Trực
20. Tưởng niệm kỹ sư Nguyễn Ngọc Khang
21. Bắt đầu đời tỵ nạn: Bruxelles, Vương Quốc Bỉ
22. Hội Người Việt Cao Niên Hoa Thịnh Đốn tổ chức Bầu cử tân Hội Trưởng
và Hội Đồng Quản Trị
23. Các sinh hoạt Tưởng Niệm 44 năm Quốc Hận tháng tư đen tại
vùng Hoa Thịnh Đốn
24. Văn Bút Miền Đông Bắc Hoa Kỳ Họp mặt Xuân Tha Hương
25. Đêm Cánh Hoa Dù gây quỹ giúp các thương phế binh ở Việt Nam
26. Hội chợ VIETFEST 2019
27. Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Việt-Mỹ khánh thành cơ sở thờ phượng
28. Maryland: Tuyển lựa giọng ca vàng
“Bạc Màu Áo Trận” dạ tiệc kỷ niệm 59 năm thành lập Biệt
Động Quân Việt Nam Cộng Hòa
Đỗ Hiếu/ĐHT phóng viên Đời Nay
Hình: Nhất Hùng
Đêm hội ngộ “Bạc Màu Áo Trận” kỷ niệm 59 năm thành lập Biệt Động Quân Việt Nam
Cộng Hòa được tổ chức bởi Hội Biệt Động Quân Vùng Hoa Thịnh Đốn vào chiều chủ
nhựt 7 tháng 7 năm 2019 tại nhà hàng Harvest Moon, thành phố Falls Church, Virgina với
sự hiện diện của gần ba trăm quan khách.
Buổi lễ bắt đầu với nghi thức chào quốc kỳ và phút mặc niệm do Không Quân Đào Hiếu
Thảo phụ trách. Thưa chuyện với cử tọa, ông nói, Việt Nam Cộng Hòa bây giờ không còn
nữa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa , Biệt Động Quân cũng không còn nữa, nhưng những
người lính năm xưa, những người dân Việt không đội trời chung với Việt Cộng vẫn còn
đây, để cùng góp bàn tay nối kết khắp 5 Châu, tấm lòng sắt son dành trọn vào công cuộc
vận động cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền VN. Niềm tự hào, hãnh diện của chúng ta là
hãy còn nhìn thấy lá Cờ Chánh Nghĩa Quốc Gia VNCH tung bay phất phới suốt 44 năm
qua tại bất cứ Châu Lục, quốc gia, thành phố, địa hạt nào từ Âu, Á, Mỹ, Úc, nơi có người
Việt Quốc gia định cư.
Kế đó, ông Võ Phi Hùng, tân Hội Trưởng Hội Biệt Động Quân vùng Hoa Thịnh Đốn chào
mừng, cảm tạ quan khách và nhắc lại là vào ngày 7 tháng 7 năm 1954, Chí Sĩ Ngô Đình
Diệm nhận lãnh chức vụ Thủ Tướng, soạn thảo Hiến Pháp thành lập nước Việt Nam Cộng
Hòa. Hôm nay, tại Virginia, ngày 7 tháng 7, năm 2019, do một sự trùng hợp ngẫu nhiên,
chúng ta được ngồi chung với nhau, trong thân phận người tỵ nạn, nhưng qua bao thăng
trầm, biến đổi, ngọn Cờ Vàng Chánh Nghĩa Quốc Gia vẫn luôn giương cao khắp thế giới,
bất cứ nơi nào Người Việt tỵ nạn cộng sản định cư. Chúng ta đều có một ước ao, ngày trở
về Đất Mẹ sạch bóng cộng sản, hòa nhập cùng thế giới, xây dựng lại quê hương điêu tàn
đang bị bọn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ tàn phá và bán nước cho Trung Cộng.
Tiếp theo là huấn thị của cựu Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt
Động Quân, Quân Đoàn 2 và Vùng 2 Chiến Thuật, Việt Nam Cộng Hòa nhắn gởi các
chiến hữu của ông và gia đình.
Chuẩn Tướng Tất nhắc lại, binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hòa với phương
châm “Vì Dân Quyết Chiến” được Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập vào năm 1960,
với chiến công lẫy lừng đã được ghi đậm nét vào quân sử và trong lòng người Việt quốc
gia, như một đạo quân tinh nhuệ, cảm tử, hào hùng và bất khuất. Các tiểu đoàn Biệt Động
Quân được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều động đến khắp 4
Vùng Chiến Thuật, trong các cuộc hành quân trực thăng vận, đánh thẳng vào các mật khu,
căn cứ địa của Việt Cộng qua các địa danh Quảng Trị, Khe Sanh, An Lộc, Trị Thiên,
Kontum, Cửu Long, trận chiến Mậu Thận 1968, các chiến trường ngoại biên Hạ Lào,
Campuchia.
Xin hảy trả lại sự thật cho lịch sử, vai trò của người chiến binh QLVNCH vì nước, vì dân,
được công luận quốc tế vinh danh, sự hy sinh của họ và vợ con họ, được nhìn nhận, danh
dự của người lính VNCH được phục hồi. Họ đã làm tròn bổn phận người trai thời loạn, lúc
đất nước lâm nguy theo phương châm “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” chứ không hèn
nhát buông súng, đầu hàng, rã ngũ, như luận điệu của một số báo giới Tây Phương phản
chiến, gán ghép cho QLVNCH, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến VN, ngày 30 tháng 4 Đen
của năm 1975, theo sự xếp đặt của các siêu cường trên bàn cờ quốc tế.
Còn được hội ngộ hôm nay trên Quê Hương Mới, có tự do, dân chủ thật sự, xin đừng quên
những đồng đội, anh em thương phế binh, các cô nhi quả phụ của tử sĩ bất hạnh, còn thiếu
ăn, thiếu mặc, nơi Quê Nhà, sống không có ngày mai.
Kế đó, cô Destiny Nguyễn, Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại giới thiệu quan
khách và đại diện các hội đoàn Quốc Gia, cơ quan truyền thông, báo chí.
Dịp này, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất đã trao plaque lưu niệm đến ông Đào Hiếu Thảo vì
những đóng góp đối với Hội Biệt Động Quân trong nhiều năm qua.
Nhiều ân nhân, mạnh thường quân đã đóng góp tài chánh dồi dào yểm trợ cho các hoạt
động tương lai của Hội Biệt Động Quân vùng Hoa Thịnh Đốn.
Trong dạ tiệc có chương trình văn nghệ do các hội viên và thân hữu đóng góp.
Lên tiếng với VIETV, cựu Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân/ Quân Đoàn 2- Quân Khu 2 đặt sự tin tưởng vào thế hệ Hậu Duệ là rường cột cho
mai sau.
Ông Nguyễn Văn Hào, thành viên Ban Tổ Chức trình bày những công việc chuẩn bị cho
đêm hội ngộ
Ông Võ Phi Hùng, tân Hội Trưởng Hội Biệt Động Quân vùng Hoa Thịnh Đốn, nhiệm kỳ
2019-2021, sơ lược về kế hoạch hoạt động tương lai và thông báo Đại Hội Biệt Động
Quân Thế Giới sẽ được tổ chức tại Washington DC vào năm 2020.
Bà Đỗ Minh Nguyệt, phu nhân chiến sĩ Biệt Động Quân ưu tư về công tác tu bổ Nghĩa
Trang Quân Đội Biên Hòa mà từ sau tháng tư năm 1975 bị tàn phá, các mộ phần tử sĩ siêu
vẹo, sụp đổ.
Buổi hội ngộ kết thúc vào lúc 11 G đêm chủ nhựt.
Chợ Tết Giáo Họ Đức Mẹ La Vang năm 2020
Đỗ Hiếu/ĐHT phóng viên Đời Nay và Phố Eden TV
Trong truyền thống vui xuân, đón Tết Nguyên Đán của người Việt, hàng năm nhiều Hội
Chợ Tết được tổ chức nhộn nhịp trong vùng thủ đô Washington DC, Maryland và
Virginia. Năm nay Tết ta đến vào ngày 25 tháng Một Dương Lịch 2020 nên ngay từ tuần
lễ đầu của tháng giêng này Chợ Tết Giáo Họ Đức Mẹ La Vang đã được rộn rã khai mạc.
Chợ Tết nhóm họp để tạo điều kiện cho bà con mua sắm, vui chơi, hội họp, giải trí, đón
mừng Tết Nguyên Đán thiêng liêng, cổ truyền, dù sinh sống xa xứ nhưng vẫn luôn nhớ về
Quê Cha, Đất Tổ và duy trì những truyền thống có ý nghĩa từ ngàn xưa của Giòng Giống
Lạc Hồng.
Năm nay, Hội Chợ Tết của Giáo Họ Đức Mẹ La Vang với chủ đề “Xuân Hy Vọng” được
tổ chức vào hai ngày thứ bảy và chủ nhựt 4 và 5 tháng giêng năm 2020 tại Dulles Expo
Center thuộc thành phố Chantilly, gồm các gian hàng thực phẩm đặc sản của ba miền Nam
Trung Bắc, hoa quả, cây kiểng, hàng thủ công nghệ, văn hóa phẩm, bên cạnh đó là chương
trình văn nghệ mừng Xuân có các tiết mục đặc sắc, hấp dẫn, múa lân, biểu diễn thời trang,
các màn vui chơi cho trẻ em. Ngoài ra, có hai giải xổ số trúng độc đắc là chiếc Toyota
Camry LE và Toyota RAV4 LE cùng 20 giải an ủi trị giá mỗi giải 200 đô la.
Chương trình được khai mạc lúc 10 giờ sáng thứ bảy với lễ tiến hương Thiên Chúa, bái
Thiên, bái Tổ, chư Thần Thánh, Tổ Tiên với Ông Cố Trần Quang Phục cùng ban Nghi Lễ
trong quốc phục cổ truyền và ba hồi chiêng trống; nghi thức chào quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt
Nam Cộng Hòa, Phút Mặc Niệm do các cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đảm trách.
Kế đó là tuyên bố khai mạc Hội Chợ của ông Chủ Tịch Ban Thường Vụ Giáo Họ Đức Mẹ
La Vang Lý Anh Dũng, cắt dây băng khai mạc với sự hiện diện của Linh Mục Giuse Đặng
Quốc An, Chánh Xứ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Linh Mục Tôma Phó
Quốc Lân phụ trách Giáo Họ Đức Mẹ La Vang, ông Lý Thanh Phi Bảo, Chủ Tịch Cộng
Đồng Việt Nam Vùng Washington DC, Maryland, Virginia, ông Đào Hiếu Thảo, Đại Diện
Hội Người Việt Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn, ông Đoàn Hữu Định, Chủ Tịch Liên Hội
Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ Cận cùng quý vị đại diện
Ban Tổ Chức, ông Âu Hoài Bắc, ông Lê Đình Khoa, bà Hoàng Thục Trinh, bà Ngô Hoa.
Sau đó là hợp ca “ Ly Rượu Mừng” với hai Ca Đoàn Thánh Linh và La Vang, màn múa
lân mừng Xuân với ý nghĩa lân đến đâu là đem phúc, tài, lộc đến đó do các em thiếu nhi
phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể biểu diễn.
Tiếp theo, ông Lý Thanh Phi Bảo, Chủ Tịch Cộng Đồng vùng Washington DC, Maryland
và Virginia có lời chúc mừng Xuân Canh Tý đến đồng hương.
Phần văn nghệ được mở đầu với các màn trình diễn của trường Việt Ngữ Đức Mẹ La
Vang, Đội Nữ Hướng Đạo 904 thuộc Liên Đoàn Hướng Đạo Thăng Long, các ca sĩ địa
phương hát những ca khúc đón xuân được ưa chuộng.
Hội Chợ Xuân còn có sự đóng góp của ca, nhạc sĩ đến từ hai trung tâm ca nhạc hàng đầu
hải ngoại Asia và Thúy Nga như: Mai Thiên Vân, Trần Thái Hòa, Tuấn Vũ, Cát Lynh,
Khánh Trân, Lâm Nhật Tiến, Cardin, Diễm Liên, Ban nhạc The Red Sun, âm thanh Nhật
Thanh cùng mang đến cho khán thính giả những tiết mục ca nhạc đặc sắc, hào hứng, vui
tươi.
Điều hợp chương trình là ba MC Lý Giao Long, Trần Tường Vi và Việt Thảo
Hội Chợ Xuân Hy Vọng diễn ra trong hai ngày và kết thúc vào tối chủ nhựt 5 tháng giêng
năm 2020.
Th2
Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh họp mặt tại Virginia
Đào Hiếu Thảo/ Đỗ Hiếu
Hình: Nguyễn Quang Dũng
Nhân dịp đồng môn Đốc Sự khóa 17 Nguyễn Thế Viên - cựu Trưởng Cơ Sở Dân Vận &
Chiêu Hồi tỉnh Ninh Thuận và phu nhân từ Seattle đến thăm bằng hữu trong vùng thủ đô
Hoa Thịnh Đốn. Các cựu sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa
tổ chức cuộc hội ngộ vào sáng thứ bảy 24 tháng 7 năm 2021 tại Annandale, Virginia.
Ngoài ông bà Nguyễn Thế Viên có Giáo Sư Cao Thị Lễ, ông Trần Nhựt Thăng, ông
Trương Đình Thăng, ông bà Trần Hồng, ông Lê Văn Quan, ông Nguyễn Kim Hương Hỏa,
ông Phạm Thành Châu, ông bà Tạ Cự Nguyên, ông Vũ Bá Hoan và ông bà Nguyễn Quang
Dũng.
Ông Trần Nhựt Thăng (Đốc Sự khóa 10) là nguyên Tổng Thư Ký và ông Trương Đình
Thăng (Đốc Sự khóa 10), nguyên Phó Tổng Thư Ký, Bộ Dân Vận & Chiêu Hồi VNCH.
Các đồng môn, đồng nhiệm đã có dịp chúc mừng sinh nhật Nhà Văn Phạm Thành Châu
(Đốc Sự khóa 14). Ông Đào Hiếu Thảo trao tặng đến ông bà Nguyễn Thế Viên món quà
lưu niệm huy hiệu Quốc Kỳ VNCH và ‘key chain’ có hình White House.
Khách mời, không xuất thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, là ông Đoàn Hữu Định
(Văn Phòng Tổng Trưởng Dân Vận & Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã) cùng phu nhân và ông
Đào Hiếu Thảo (Xướng ngôn viên Hệ Thống Phát Thanh & Truyền Hình Quốc Gia).
Được biết, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là một cơ sở giáo dục của Việt Nam Cộng
Hòa, tiền thân là Trường Quốc Gia Hành Chánh ở Dalat thành lập từ năm 1952, chuyển về
Saigon năm 1955. Học Viện đặt trọng tâm vào công việc đào tạo nhân viên cao cấp cho
chính phủ từ chức vụ Phó Quận Trưởng Hành Chánh, Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh,
Trưởng Ty, Giám Đốc, Tổng Giám Đốc đến hàng Tổng, Bộ Trưởng và Thủ Tướng.
Vì thấy dịch cúm Vũ Hán có phần thuyên giảm và đa phần người cao niên đã chính ngừa,
trong buổi họp mặt này Ban Chấp Hành Hội Cựu Sinh Viên Hành Chánh Miền Đông Hoa
Kỳ cũng ra thông báo và phổ biến Thư Mời “Picnic Mùa Thu 2021” sẽ được tổ chức vào
ngày 04 tháng 9 năm 2021 tại Mason District Park, Annandale, VA từ 11 giờ sáng đến 3
giờ trưa.
Đặc biệt trong buổi picnic lần này sẽ có thêm các sinh hoạt: chúc mừng sinh nhật các
huynh đệ đồng môn “8 bó” trở lên và bầu cử lại Hội Đồng Quản Trị và Ban Chấp Hành
nhiệm kỳ 2021-2023.
Th2
Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kỳ XII
Phóng viên Văn Bút DC, hình ảnh do Bằng hữu cung cấp
Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kỳ XII chính thức khai mạc sáng ngày thứ bảy 16
tháng 10 năm 2021 tại nhà hàng Little Saigon thành phố Falls Church, Virginia.
Các thành viên dự Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kỳ XII
Sau nghi thức khai mạc, Văn Hữu Hồng Thủy, Trưởng Ban Tổ Chức chào mừng các Đại
Biểu. Văn Hữu Lê Hữu Liệu (Texas), Phó Chủ Tịch Ban Chấp Hành, nhiệm kỳ 2018-2020
tổng kết thành quả hoạt động mà nổi bật nhất là đã đưa được Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại
trở thành Tổ Chức Văn Hóa cấp Quốc Tế, xứng đáng với vai trò lịch sử của tổ chức Việt
Nam Cộng Hòa duy nhất trên diễn đàn quốc tế và nhận được sự quý trọng của các Trung
Tâm Văn Bút Âu, Á, Mỹ Châu.
Trao quà lưu niệm và giới thiệu Ban Chấp Hành VBVNHN nhiệm kỳ 2018-2020 & nhiệm
kỳ 2021-2023
Tiếp theo là phần trao đổi, góp ý, thảo luận, tri ân giữa Ban Chấp Hành 2018-2020 với các
Đại Biểu đến từ các tiểu bang xa và thuộc Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Tu chính Điều Lệ và
Nội Quy Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
Văn Hữu Đăng Nguyên, Trưởng Ban Bầu Cử tường trình kết quả bầu cử và giới thiệu các
thành viên Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2021-2023:
Chủ Tịch Cung Thị Lan (MD),
Đệ nhất phó Chủ Tịch Erlinda Thùy Linh Lê (CA), Trưởng Khối Văn Nhân Lục,
Đệ nhị phó Chủ Tịch Nguyễn Tường Cường (Ngọc Cường, OH), vắng mặt vì lý do gia
đình và sức khỏe,
Tổng Thư Ký Lê Thị Nhị (VA),
Thủ Quỹ Lê Thị Ý (VA).
Ban Chấp Hành VBVNHN nhiệm kỳ 2021-2023
Đại Hội Đồng, cơ quan tối cao của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại chỉ định
Văn Hữu Cù Hòa Phong, Chủ Tịch Văn Bút Vùng Nam Hoa Kỳ (Texas) nhận lãnh trách
nhiệm tổ chức Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kỳ XIII. Phiên họp kết thúc lúc 11
giờ 30.
Chương trình liên hoan bắt đầu lúc 12 giờ với lễ chào quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng
Hòa, phút mặc niệm do MC Đào Hiếu Thảo phụ trách, chào mừng quan khách của Văn
hữu Hồng Thủy Trưởng Ban Tổ Chức
Văn Hữu Hồng Thủy, Chủ Tịch VBVNHN/Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Trưởng Ban Tổ Chức
Đại Hội kỳ XII
Luật sư Dương Thành Lợi bút hiệu Vịnh Thanh nguyên Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại nhiệm kỳ 2018-2020 tóm lược những hoạt động trong thời gian qua như: kiến nghị
Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về chương trình kiểm điểm tình trạng nhân quyền tại
Việt Nam, lên án Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt Nam, phản đối dự luật cho thuê 3
đặc khu kinh tế 99 năm của cộng sản Hà Nội, tổ chức thành công Đại Hội kỷ niệm 40 năm
thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tại Virginia vào tháng 3 năm 2018 với sự hiện diện
của gần 500 Hội viên và Quan khách.
Văn Hữu Cung Thị Lan, Chủ Tịch VBVNHN nhiệm kỳ 2021-2023
Mở đầu diễn văn khai mạc Văn Hữu Cung Thị Lan, tân Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại nhiệm kỳ 2021-2023 chào mừng các văn thi hữu về Hoa Thịnh Đốn từ Canada,
California, Florida, Texas, Hawaii, New York và cám ơn sự hiện diện của tất cả các văn
thi hữu, quý khách cũng như thân hữu của Văn Bút Viêt Nam Hải Ngoại đã thể hiện lòng
yêu mến và sự ủng hộ sâu sắc đối với VBVNHN. Cung Thị Lan cũng không quên đề cặp
đến vai trò quan trọng của VBVNHN là tổ chức duy nhất của VNCH còn hiện hữu. Hội
viên của VBVNHN không ngừng sáng tác và đồng hành với Văn Bút Quốc Tế ủng hộ các
quyền căn bản của con người, trong đó có quyền tự do diễn đạt tư tưởng của mình qua
ngòi bút. Cô cũng nhắc lời giáo huấn của người xưa “Loạn Thế Độc Thư” có nghĩa là
trong thời loạn thì đọc sách nhưng trong tình trạng bất an của nạn dịch Covid 19, sáng tác
là để tri ân, tri nghĩa và tri quốc hay hơn cả.
Kể từ tháng Giêng 2021 ban chấp hành VBVNHN nhiệm kỳ 2021-2023 đã cho ra nhiều
tác phẩm và tham dự hẩu hết các cuộc họp trực tuyến do Văn Bút Quốc Tế tổ chức. Sở dĩ
ban chấp hành mới sinh hoạt đều và đúng thể thức là nhờ kế thừa kinh nghiệm và những
thành quả tốt đẹp từ ban chấp hành 2018-2020 do văn hữu Vịnh Thanh Dương Thành Lợi
làm Chủ Tịch.
Cung Thị Lan mời văn hữu Vịnh Thanh Dương Thành Lợi và ban chấp hành của ông, thi
sĩ Đăng Nguyên, văn thi sĩ Hồng Thủy lên nhận những bó hoa tươi thắm và những tấm
plaque tri ân nhiều ý nghĩa.
Theo truyền thống trong Văn Bút, Erlinda Thùy Linh Lê nói về ý nghĩa của chiếc ghế
trống và năm nay, chiếc ghế ấy dành để nhớ đến nhà văn Phạm Đoan Trang, cô hiện đang
bị giam giữ trong nhà tù ở nơi gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam!”
Tiếp nối, Ban Tổ Chức ghi nhận sự hiện diện của các Đại Diện Tổ chức và Hội Đoàn:
Ông Đoàn Hữu Định, Đại diện Liên Hội cựu Chiến Sĩ VNCH Vùng Hoa Thịnh Đốn &
Phụ cận, bà Ngô Quang Trưởng, ái nữ của nhà văn Thạch Lam Nguyễn Tường Vinh, ông
Hoàng Đức Long, Chủ Tịch Nhà Việt Nam Hoa Thịnh Đốn, bà Phan Nguyễn Lương
Duyên, Hội Trưởng Hội cựu Nữ Sinh Gia Long Miền Đông Hoa Kỳ, bà Dương Tâm Đạt,
Đại Diện Gia Đình Trưng Vương Vùng Hoa Thịnh Đốn, văn hữu Lão Mã Sơn 99 tuổi, Hội
Viên cao niên nhất của VB/ Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, ông Stephen Lee Oliver, nhà văn và
cộng tác với nhiều tờ báo.
Các Đại Biểu Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại từ các tiểu bang xa về dự Đại Hội:
Luật sư Dương Thành Lợi tức Văn Hữu Vịnh Thanh, Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại nhiệm kỳ 2018-2020, từ Toronto, Canada; Văn Hữu Lê Hữu Liệu, Phó Chủ Tịch
Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (2018-2020) từ Houston, Texas; Văn Hữu Nguyễn Thanh
Sơn, Tổng Thư Ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại 2018-2020 từ Florida; Văn Hữu Hoàng
Linh, Đại Diện Văn Bút Vùng Đông Nam Hoa Kỳ (Florida); Văn Hữu Cù Hòa Phong, Chủ
Tịch Văn Bút Vùng Nam Hoa Kỳ (TX); Văn Hữu Lê Hữu Minh Toán, Phó Chủ tịch Văn
Bút Vùng Nam Hoa Kỳ (TX); Văn Hữu Erlinda Thùy Linh, Phó Chủ Tịch Văn Bút Việt
Nam Hải Ngoại (2021-2023) Vùng Tây Nam Hoa Kỳ (California); Văn Hữu Ngô Thy Vân
& Phu quân từ Tây Nam Hoa Kỳ (California); Văn Hữu Hoàng Oanh & Phu quân từ Nam
California, Hội Viên Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ (HV/VĐBHK); Văn Hữu Phạm Phan Lang
từ Hawaii (HV/VĐBHK); Văn Hữu Phương Hoa từ San Jose, California (HV/ ĐBHK);
Văn Hữu Minh Thúy bút hiệu Thành Nội từ SJ California (HV/ ĐBHK); Văn Hữu Thanh
Song Kim Phú từ SJ California (HV/ ĐBHK); Văn Hữu Hoàng Lan từ New York (HV/
ĐBHK).
Sau những giờ hội họp sôi nổi, góp ý, thảo luận về sinh hoạt của Văn Bút trong tương lai,
quan khách và hội viên đã thưởng thức một chương trình văn nghệ chọn lọc do các văn thi
hữu phối hợp thực hiện với tâm nguyện “hát hay không bằng hay hát”
Phụ trách chương trình văn nghệ là Từ Khải, Hoàng Phú, Phạm Dương Hiển và Bảo Huy.
Phần âm thanh do Thái Mộng Trinh & Bảo Huy phụ trách với sự góp mặt của các Văn Thi
Hữu, Ca, Nhạc Sĩ: Thanh Hương, Hoàng Phượng, Xuân Tiên, Thùy Linh, Trần Đại Bản,
Phạm Dương Hiển, Thanh Sơn, Thúy Lan, Mộng Trinh & Bảo Huy.
Ban hợp ca Văn Bút
Nội dung các tiết mục văn nghệ:
Hợp ca “Việt Nam Minh Châu Trời Đông”của Hùng Lân, “Và Tôi Cũng Yêu Em” của
Đức Huy, Thanh Hương, Hoàng Phượng và Hoàng Phú trình bày “Chuyện Thường Tình
Thế Thôi” của Lê Quang, Xuân Tiên đơn ca, “Bambino” nhạc Pháp, Thùy Linh trình bày,
“Xuân Viễn Xứ” thơ Hồng Thủy, nhạc Nguyễn Ánh 9, Trần Đại Bản hát, “Chuyện Người
Dệt Lụa” thơ Hoàng Phượng, nhạc Ngọc Quy, tác giả đơn ca, “Dư Âm” của Nguyễn Văn
Tý, Kevin Phạm độc tấu violon, “Tóc Xưa” của Ngô Thụy Miên, Thanh Sơn hát, “Tình
Nồng Cháy” nhạc ngoại quốc “Over & Over”, lời Việt của Anh Bằng, Thúy Lan trình bày,
“ Casablanca” của Bertie Higgins, Thanh Hương hát, Bài không tên số 8” của Vũ Thành
An, Thái Trinh Môi Tím đơn ca, “Take me Home”, Country Roads của Bill Danoff & John
Denver, Hoàng Phú trình bày, “Sầu Đông” sáng tác Khánh Băng, Bảo Huy đơn ca, “Love
me with all your Heart”, ca khúc này được trình bày bằng tiếng Việt, Anh và Tây Ban Nha
với Hoàng Phú, Từ Khải và nhạc sĩ vĩ cầm Phạm Dương Hiển; bài ca “Hello ! Good Bye”
của The Beatles, Ban Nhạc trình bày để thay cho lời tạm biệt.
Trước khi chia tay quan khách mỗi người nhận một Tuyển Tập 2020-2021 do Văn Bút
Việt Nam Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ chủ trương thực hiện, dày 720 trang với sự
đóng góp của 68 Văn Thi Sĩ. Văn Hữu Ngô Tằng Giao giúp phần layout và cô Quỳnh
Trâm phụ trách in ấn.
Tiệc liên hoan và phụ diễn văn nghệ kết thúc lúc 4 giờ chiều.
Th2
Hôm sau, chủ nhật 17 tháng 10 lúc 11 giờ sáng, là lễ kỷ niệm 21 năm thành lập Nhà Việt
Nam/ Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật/ Hoa Thịnh Đốn có buổi triển lãm, bán và tặng
sách do Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại cùng phối hợp tổ chức trong trung tâm thương mại
Eden thuộc thành phố Falls Church, VA.
Chiều cùng ngày tại tư gia anh chị Cung Lan & Phạm Quang Hiệp (Silverspring, MD) có
buổi họp mặt chia tay với các Văn Thi Hữu từ xa về dự Đại Hội kỳ XII cùng một số Bằng
Hữu Hội Hoa Đô (đồng hương Nha Trang) đến chung vui.
Th2
Phật Giáo Hòa Hảo – Ngày khai sáng nền đạo
Đào Hiếu Thảo
Đại Lễ kỷ niệm năm thứ 82 Đức Huỳnh Giáo Chủ Khai Sáng Nền Đạo Phật Giáo Hoà Hảo
được Ban Trị Sự Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn tổ chức vào trưa Chủ nhựt 27 tháng 6 năm
2021 cũng đúng vào ngày 18 tháng 5 năm Tân Sửu tại An Hòa Tự, thành phố Silver
Spring, Maryland.
Chánh điện An Hòa Tự với Đạo Kỳ, chân dung Đức Huỳnh Giáo Chủ và Quan Thượng
Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực
Hàng năm Lễ Khai Sáng Nền Đạo được tổ chức trong nước cũng như ở hải ngoại vào ngày
18 tháng 5 âm lịch trong tinh thần Tứ Ân: Ân với Đất Nước, với Phật-Pháp-Tăng, với
Đồng Bào, Tổ Tiên và Cha Mẹ. Hòa Hảo có ý nghĩa là “Hiếu Hòa”, “Giao Hảo” lấy pháp
môn “Học Phật, Tu Nhân” làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Tôn giáo này lấy
Nền Tảng của Phật Giáo kết hợp với những bài sấm kệ do Đức Huynh Giáo Chủ truyền
giảng.
Năm nay là Ngày Đản Sinh năm thứ 101 của Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (Ngài sinh
ngày 15 tháng giêng năm 1920- vắng mặt ngày 16 tháng 4 năm 1947).
Chương trình khai mạc với nghi thức chào Quốc Kỳ Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng Hoà và phút
Mặc Niệm đồng bào, chiến sĩ, tín hữu đã hy sinh trong chiến cuộc, trên đường tìm tự do,
nơi hỏa ngục cộng sản và trong công cuộc bảo vệ chánh pháp chơn truyền do MC Duy
Linh phụ trách.
Tiếp nối là phần giới thiệu quan khách, đại diện tôn giáo, hội đoàn quốc gia, đảng phái
chính trị, cơ quan truyền thông báo chí.
Ông Hà Nhân Sinh, Hội Trưởng Ban Trị Sự Phât Giáo Hòa Hảo Vùng Thủ Đô
Washington DC, Trưởng Ban Tổ Chức chào mừng quan khách và tuyên bố khai mạc. Đại
Lễ được long trọng cử hành vào đúng ngày này khắp năm châu, bất cứ nơi nào có các
Đồng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo sinh sống.
Kế đó là nghi thức hành lễ theo truyền thống Phật Giáo Hoà Hảo do ông Phan Ngọc Hân
cùng các Đồng Đạo trong phẩm phục màu đà cử hành.
Tiếp theo, ông Hà Bảo Linh tuyên đọc bài “Sứ Mạng Cứu Đời” do Đức Huỳnh Giáo Chủ
truyền giảng.
“Ai Ai Cũng Ở Trong Đời,
Chốn Nào Không Đạo Là Đời Vô Liêm”
Chương trình đại lễ được tiếp nối với bài “Lời Khuyên Bổn Đạo” tức là “Tám Điều Răn
Cấm” do ông Võ Thanh Nhã tuyên đọc.
“Đạo Pháp Thường Hay Dung Với Hòa,
Xét Người Cho Tột Xét Thân Ta,
Nếu Người Rõ Phận Vui Lòng Thứ,
Ta Thứ Được Người, Người Thứ Ta.”
Ông Phan Nhất Lĩnh trình bày “ Lược Sử Phật Giáo Hòa Hảo” và “Ý Nghĩa Ngày Đức
Thầy khai sáng Nền Đạo” năm Kỷ Mão 1939 tại làng Hoà Hảo, Tân Châu, Châu Đốc.
“Tháng Năm Mười Tám Rõ Ràng,
Cùng Xóm Cuối Làng Ai Cũng Cười Reo”
Chương trình đại lễ được tiếp nối với phần Diễn Ngâm “Thi Văn Giáo Lý” qua giọng của
ông Phan Văn Bề.
“Càng Đi Càng Biết Nhiều Nơi,
Cùng Đem Chân Lý Tuyệt Vời Phổ Thông”
Quan khách được Ban Tổ Chức mời phát biểu cảm tưởng là Hiền Tài Phan Văn Ba, Hội
Trưởng Cao Đài Foundation Vùng Washington DC và ông Đào Hiếu Thảo, cựu phóng
viên Đài Á Châu Tự Do.
Giới truyền thông, báo chí cho biết, ngày nay hàng triệu tín đồ Phật Giáo Hoà Hoả nơi quê
nhà vẫn kiên trì tu thân, tích đức, hy sinh vì đạo giáo cho dù bị nhà cầm quyền cộng sản
triệt để cấm đoán, mạnh tay đàn áp và giải tán mọi sinh hoạt từ năm 1975 đến giờ. Nhiều
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thường xuyên bị bạo quyền cộng sản bắt bớ, tra khảo, sát hại,
cầm tù dài hạn chỉ vì quyết tâm bảo vệ Đạo Pháp chân chính trong ôn hòa.
Sau 82 năm sinh hoạt, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vẫn luôn tin tưởng rằng Phật Giáo
Hòa Hảo sẽ trường tồn, bất diệt vì bạo lực không thể nào xóa bỏ được lẽ phải, chân lý và
niềm tin mãnh liệt vào tôn giáo.
Buổi Đại Lễ kỷ niệm năm thứ 82 Đức Huỳnh Giáo Chủ Khai Sáng Nền Đạo Phật Giáo
Hoà Hảo này được trực tiếp truyền hình qua Facebook & YouTube và phổ biến rộng rãi
bởi các cơ quan truyền thông báo chí: Truyền Hình Việt Nam Hoa Thịnh Đốn, SBTN,
VATV, VOA, Thương Mãi Miền Đông VA, Đời Nay và chương trình phát thanh của Hội
Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại Việt Nam.
Buổi lễ kết thúc lúc 2 giờ trưa cùng ngày sau lời cảm tạ của Đại Diện Ban Tổ Chức và
dùng cơm chay thân mật.
Ghi chú: Dòng chữ in đậm là Thơ của Đức Huỳnh Giáo Chủ (trong Sấm Giảng Thi Văn
Giáo Lý Toàn Bộ) Th2
Được Bổ Nhiệm Chức Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng
Không Quân 1974 và Những Thăng Trầm Sau Tháng Tư 1975
Đào Hiếu Thảo
Khi tôi được thuyên chuyển khỏi ngành Chiến Tranh Chính Trị để đi làm Chánh Văn
Phòng cho Tướng Võ Dinh Tham Mưu Trưởng, Bộ Tư Lệnh Không Quân, là một tin vui
trong cuộc đời binh nghiệp chưa đầy bảy năm của tôi từ 1968 đến 1975, thật là một bất
ngờ có mơ cũng không dám!
Đã hơn 48 năm qua mà mỗi khi chợt nhớ lại tôi vẫn ngỡ ngàng và phân vân, không hiểu vì
sao tôi được tuyển chọn vào vị trí ấy, một công việc quan trọng đòi hòi nhiều kinh nghiệm
chuyên môn về hành chánh, tham mưu, thông thạo về tổ chức, hoạt động nhân sự, chiến
cụ, trang bị, phối trí lực lượng của quân chủng Không Quân trên toàn quốc. Tôi thì chưa
được 27 tuổi đời, mới gia nhập Không Quân chừng non 6 năm, vừa thăng cấp Đại uý,
được đào tạo trong ngành nghề thuộc về Thông Tin Báo Chí & Chiến Tranh Chính Trị chứ
không có khả năng gì về hành chánh, tham mưu, quản trị hay lãnh đạo chỉ huy
(Leadership).
Căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt
Ngược giòng thời gian, vào giữa năm 1974, hôm ấy khoảng 11 giờ sáng tôi vừa rời nhiệm
sở phòng Tâm Lý Chiến đi cùng mấy bạn từ đơn vị xa về thăm Saigon, kéo nhau qua câu
lạc bộ “Mây Bốn Phương” bên Sư Đoàn 5 Không Quân uống cà phê thì có lệnh từ Văn
Phòng Tham Mưu Trưởng Không Quân gọi tôi trình diện gấp. Thượng sĩ nhất Quý và
Trung sĩ Cảnh đi tìm tôi, ai cũng cho rằng khi ông Tướng Tham Mưu Trưởng gọi bất chợt
như vậy có nghĩa là tin chẳng lành đâu!
Trở về đến văn phòng, tôi nhờ các anh em đánh bóng giùm đôi giày, gấp rút cạo râu nhẵn
nhụi, thay quân phục vừa mới được giặt ủi, mang lon vàng trước ngực, thay vì lon thêu
màu đen kiểu nguỵ trang.
Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, vị tướng lãnh số 3
của Không Quân thời đó, chỉ đứng sau Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Quân
và Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó. Tướng Võ Dinh xuất thân khoá 3 Trường Võ
Bị Quốc Gia Dalat năm 1950, thuyên chuyển về Không Quân khi mới được thành lập, ông
tốt nghiệp khoá học bay vận tải cơ C 47 tại Pháp, từng phục vụ nhiều đơn vị tác chiến
trước khi về làm công tác tham mưu và ngành Chiến Tranh Chính Trị Không Quân. Ông
nổi tiếng là nghiêm khắc, nếu không muốn nói là một người khó tính, cứng rắn, ít cười,
làm việc theo đúng nguyên tắc nhà binh. Quân nhân Không Quân các cấp ít khi dám đến
gần tướng Dinh, sợ ông “ốp” về quân phong, quân kỷ, tốt hơn là “nên tránh xa mặt trời cho
đỡ nóng.”
Khi quân phục đã chỉnh tề, lấy quyển sổ và bút đem theo để ghi lại chỉ thị của tướng Tham
Mưu Trưởng, tôi lên trình diện ông. Bước qua cửa, tôi gặp Thiếu uý Hưng Trưởng Ban
Văn Thư, anh mời tôi ngồi rồi trình báo tướng Dinh là tôi chờ được gặp ông. Thời gian
như ngừng lại, với bao nhiêu thắc mắc trong đầu, hồi họp, âu lo, tôi cố lắm mới giữ được
bình tĩnh.
Ít phút sau, Thiếu uý Hưng đưa tôi vào gặp Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham Mưu
Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, rồi anh lui ra nhanh chóng.
Thứ đầu tiên đập vào mắt tôi là cái bảng gỗ kẻ giòng chữ “Be brief, thank you”, nhắc nhở
sự vắn tắt khi trao đổi với ông. Tướng Dinh vào đề ngay và cho biết ông đã chọn tôi về
làm Chánh Văn Phòng thay thế cho Trung tá Cát Văn Khôi thuyên chuyển qua Sư Đoàn 5
Không Quân và đã lên đường đến nhiệm sở mới.
Quá sức ngỡ ngàng, tôi như bị trời trồng chưa biết phải nói năng ra sao, Chuẩn tướng Võ
Dinh tiếp rằng trong trách nhiệm này tôi phải hết sức kín đáo, phải tuyệt đối trung thành và
trong tương lai tôi sẽ được ông cất nhắc xứng đáng.
Lời nói đầu tiên của tôi là xin cám ơn ông đã tín nhiệm tôi, đây là một vinh dự trong đời
binh nghiệp, nhưng tôi lo là sẽ không đủ khả năng để cáng đáng trọng trách này. Tôi cũng
nói thêm với ông là cho phép tôi theo học một lớp hành chánh cấp tốc, trong khi làm việc
hoặc nhận tài liệu về học hàm thụ.
Ông Tướng Dinh đáp không cần thiết phải học khoá hành chánh, cứ ngồi vào làm việc, tự
học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rồi sẽ thành thạo, có thắc mắc thì hỏi Trung tá Khôi nhờ giải
đáp. Ông cho tôi nghỉ 3 ngày phép và bắt đầu công việc mới vào ngày thứ hai đầu tuần.
Ông đảm nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân từ năm 1968 khi
còn mang cấp bậc Đại tá, trước khi được đề cử làm Tham Mưu Trưởng ông từng là Tham
Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị. Chuẩn tướng Võ Dinh đã có hai Chánh Văn Phòng,
người đầu tiên là Thiếu Tá Ngô Tứ Bửu, chuyên viên hành chánh từ thời Không Quân
Pháp, xin hưu trí khi ông được 55 tuổi vào năm 1972.
Chánh Văn Phòng thứ 2 là Thiếu tá Cát Văn Khôi, gốc sĩ quan phi hành từ các phi đoàn
quan sát chuyển qua ngành Chiến Tranh Chính Trị. Thiếu tá Khôi là một khoá sinh xuất
sắc thường đỗ đầu khi được gởi thụ huấn các khoá chuyên môn trong và ngoài Không
Quân. Sau gần hai năm làm Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không
Quân, ông được thăng cấp Trung tá khi mới trên 30 tuổi và ông xin ra Sư Đoàn để có cơ
hội thăng tiến xa hơn.
Tôi là Chánh Văn Phòng thứ 3 và cũng là người cuối cùng, tôi mang cấp bậc Đại uý, còn
hai vị tiền nhiệm đều là sĩ quan cấp tá.
Trụ sở mới của tôi được gọi là “Tư Lệnh Bộ” hay “Lầu Tứ Giác”, văn phòng của Tư Lệnh
Không Quân, Tư Lệnh phó và Tham Mưu Trưởng. Toà nhà này do nhà thầu Mỹ và ngành
Kiến Tạo Không Quân (Công Binh) xây dựng, mái nhà là sân đáp trực thăng, dưới mặt đất
có hầm trú bom kiên cố với đầy đủ phương tiện sinh tồn và làm việc. Ngoài ra còn có
Phòng Hành Quân Chiến Cuộc do Đại tá Phùng Ngọc Ẩn chỉ huy, có trách nhiệm thường
xuyên theo dõi tình hình chiến sự toàn quốc 24/24 G, để thuyết trình cho các vị tướng lãnh
cùng Bộ Tham Mưu Không Quân khi được yêu cầu.
Mỗi vị tướng lãnh đều có văn phòng làm việc riêng, còn 3 Chánh Văn Phòng được xếp
ngồi làm việc với nhau trong một căn phòng rộng rãi và cũng được sử dụng như nơi đón
tiếp các thượng khách.
Ngồi đối diện với tôi là Trung tá Chu Trọng Đễ, Chánh Văn Phòng Thiếu tướng Võ Xuân
Lành, Tư Lệnh phó. Ngồi bên trái tôi là Đại tá Đỗ Văn Ry, Chánh Văn Phòng Trung tướng
Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân.
Đại tá Ry làm Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Không Quân từ lúc đầu cho đến những ngày
cuối tháng 4 năm 1975. Ông là chuyên viên về hành chánh, tham mưu, tôi biết ông từ khi
mang cấp Đại uý đến khi thăng cấp Đại tá. Ông Ry có tài giao thiệp khéo léo, con
người vui tính, bặt thiệp, quen lớn tới Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu cũng như các
quân binh chủng khác. Đại tá Ry đương nhiên là cấp chỉ huy số 1 trong số 3 Chánh Văn
Phòng, mặc dù ông Ry xuất thân từ một khoá đàn em trường sĩ quan Thủ Đức, tốt nghiệp
sau ông Đễ.
Trung tá Chu Trọng Đễ là phi công vận tải, về sau chuyển sang ngành Huấn Luyện rồi qua
ngành Chiến Tranh Chính Trị. Có một thời gian Trung tá Đễ là thượng cấp của tôi, ông có
vẻ như một nhà mô phạm hơn là một quân nhân hay một phi công vận tải nhà nghề.
Được ngồi cạnh hai đàn anh cũng là bậc thầy trong nghề, tìm ra chỗ dựa, tôi thấy yên tâm
hơn, bớt lo lắng và cố gắng tập trung vào công việc hoàn toàn xa lạ nên hàng ngày đến
phần sở rất sớm, buổi chiều ngồi thêm giờ để nghiên cứu và tìm hiểu.
Trách nhiệm của một Chánh Văn Phòng là điều hành tổng quát công việc hành chánh,
tham mưu của một tướng lãnh, xem xét kỹ lưỡng toàn bộ công văn đến, công văn đi. Thi
hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh, khẩu lệnh của ông Tướng, báo cáo kết quả cũng như trở ngại
nếu có.
Công văn đủ loại được gởi đến dồn dập, tập trung nơi Văn Phòng Ông Tướng xếp tôi,
Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, để lấy ý kiến sơ khởi, sau đó chuyển lên Tư
Lệnh phó và Tư Lệnh cho quyết định tối hậu, trước khi được thi hành.
Những ngày đầu tiên nhận việc, mỗi khi nhìn thấy chồng hồ sơ cao ngất thì phát sợ, nào là
phiếu trình khán, trình duyệt, trình ký, sự vụ văn thư, bưu điệp, tư văn, lệnh phạt, thuyên
chuyển, bổ nhiệm, thăng thưởng... Công văn cũng có nhiều thứ khác nhau như Khẩn,
Thượng Khẩn, Hoả Tốc , Mật, Kín, Tối Mật...Cần được phân biệt, giải quyết, phân phối
tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Khi chưa quen, đọc những xấp hồ sơ kèm theo tài liệu tham chiếu, tham khảo thì muốn
chóng mặt, mớ hồ sơ để trước mặt tôi ước chừng cao cả thước, cứ giải quyết hết đợt này
lại có chồng tài liệu khác đổ dồn đến, đầu làm việc không ngừng, tay mắt không ngớt ghi
chép, nhìn kỹ từng giòng chữ.
Hầu như 75% văn thư từ tất cả các phần hành thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân tập trung về
văn phòng Tham Mưu Trưởng đều do Chuẩn tướng Võ Dinh, trực tiếp giải quyết mà
không nhất thiết phải được chuyển trình cấp trên là Tư Lệnh Phó và Tư Lệnh Không Quân.
Điều đó, có nghĩa là 3 phần 4 công việc về hành chánh, tham mưu toàn Không Quân đi
qua bàn giấy tôi trước khi được trình lên và đích thân Tham Mưu Trưởng quyết định,
duyệt ký và giao lại cho các ngành tham mưu thi hành.
Lúc ấy quân số cơ hữu thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân vào khoảng 2500 sĩ quan, hạ sĩ
quan, binh sĩ. Những phần hành, ngành nghề chuyên môn, đầu não gồm có: các văn phòng
tham mưu phó và phụ tá về hành quân, tiếp vận, tài chánh, thống kê, nhân viên, huấn
luyện, chiến tranh chính trị, truyền tin điện tử, quân pháp, quân y, phòng không, an phi,
tổng hành dinh, bộ chỉ huy hành quân Không Quân, trường chỉ huy & tham mưu Không
Quân...
Mỗi ngày tôi có mặt tại văn phòng từ 5 giờ sáng chuẩn bị tất cả công việc cần thiết, sẵn
sàng báo cáo đến Tham Mưu Trưởng và ông cũng đã thức giấc và bắt tay vào công việc
lúc sáng sớm. Có những hôm chúng tôi làm việc đến 10 giờ khuya, tính ra ngồi liên tục tại
bàn giấy 14 hay 15 tiếng đồng hồ, vào thời điểm cuối năm 1974 nước nhà đang vùng vẫy,
chống đỡ với những tin tức dồn dập từ khắp các chiến trường cũng như biến
chuyển thời sự của thế giới cho thấy rõ hiểm hoạ cộng sản lâm le nuốt trọn Miền Nam Việt
Nam.
Chuẩn tướng Võ Dinh đảm nhận trách vụ Tham Mưu Trưởng Không Quân trên 5 năm
trước khi tôi làm Chánh Văn Phòng cho ông.
Là một trong những sĩ quan kỳ cựu, thâm niên của Không Quân Việt Nam từ lúc quân
chủng này mới thành lập vào năm 1955, Chuẩn tướng Võ Dinh luôn được các thượng cấp
và thuộc cấp kính nể, tuổi đời cũng như tuổi lính của ông vượt qua Trung tướng Trần Văn
Minh, Tư Lệnh và Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó.
Văn phòng Tham Mưu Trưởng đã được tổ chức quy củ, nền nếp và lề lối điều hành thông
suốt, nên công việc hàng ngày của tôi tương đối thuận lợi và trôi chảy, chỉ cần sự chăm
chỉ, cố gắng, chuyên cần là mọi chuyện khá êm xuôi.
Văn phòng và nhân sự do tôi phụ trách gồm có: Trưởng Ban Văn Thư Tổng Quát là Thiếu
uý Huỳnh Văn Hưng, Tiểu Ban Văn Thư Đến có Thượng sĩ Nhất Phú, Tiểu Ban Văn Thư
Đi với Trung sĩ Nhất Cảnh, nhân sự thì có Thiếu uý Tùng - sĩ quan tuỳ viên, anh Tùng là
trưởng nam của Hải Quân Đại tá Đỗ Kiểm, Tham Mưu Phó Hành Quân, Hải Quân VNCH,
Thiếu uý Lâm Hal (võ sĩ)- trưởng toán cận vệ, Trung sĩ Anh và Trung sĩ Đông là 2 tài xế,
bốn nhân viên Quân cảnh chuyên hộ tống VIP và bốn phục dịch viên cho Tướng Dinh
Tham Mưu Trưởng Không Quân.
Công việc chính hàng ngày của tôi là đọc tỉ mỉ tất cả các công văn tập trung trên bàn giấy
của mình, bên phải của mỗi xấp hồ sơ đệ nạp là sự vụ văn thư, phiếu trình, bên trái là bản
sao đính kèm với những tài liệu tham chiếu, tham khảo, chứng minh cho sự việc được
trình bày. Có những văn kiện được ban hành dưới thời Pháp thuộc, từ triều đình của Đức
Quốc Trưởng Bảo Đại, thời đệ nhất cộng hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm...Tôi phải
kiểm soát lại toàn bộ những hồ sơ, tài liệu dẫn chứng, nếu thấy thiếu sót thì liên lạc với
phần sở liên hệ để yêu cầu bổ túc trước khi chuyển trình hồ sơ đến tay Tướng Tham Mưu
Trưởng.
Đối với những tập hồ sơ dày cộm, để khỏi làm mất thời giờ của ông Tướng, tôi cần phải
tóm tắt sự việc, ghi chú ngắn gọn nội dung chính trên mảnh giấy rời, với lời đề nghị kèm
theo.
Ngoài công việc duyệt xét toàn bộ hồ sơ đệ nạp, tôi cũng được giao công tác thường xuyên
liên lạc với các đại đơn vị Không Quân trên toàn quốc mỗi khi Tham Mưu Trưởng cần gặp
các đơn vị trưởng. Đường giây viễn liên đặc biệt này do Không Lực Hoa Kỳ thiết lập gọi
là “Hot Line”, hoạt động 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày trong tuần, khi sử dụng không cần quay
số như các điện thoại thông thường mà chỉ cần nhấc máy lên, tự xưng danh tánh và cho
biết muốn gặp giới chức nào, ngay lập tức nhân viên trực sẽ nối đường giây với đầu bên
kia.
Ngoài ra, Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ cũng trang bị cho Không Quân Việt Nam hệ thống
liên lạc nội bộ để các tướng lãnh Không Quân có thể trao đổi với Chánh Văn Phòng, trong
khi các ông tướng đang bay trên vùng trời khắp bốn quân khu. Một số cấp chỉ huy Không
Quân Việt Nam cũng được Không Lực Hoa Kỳ cung cấp các walkie-talkie để tiện việc liên
lạc với nhau nhanh chóng và tránh bị địch dò bắt được làn sóng truyền tin.
Trong một số trường hợp cấp bách, tuỳ theo tính chất của vấn đề, Đại tá Ry, Chánh Văn
Phòng Tư Lệnh Không Quân, Trung tá Đễ, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Phó Không Quân
và tôi, chia nhau đi công tác qua Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
Việt Nam và các quân binh chủng khác.
Ngoài ra, mỗi ngày chúng tôi cũng tham dự những buổi thuyết trình về tình hình chiến sự
và hoạt động của Không Quân Việt Nam trên toàn quốc, do Phòng Hành Quân Chiến Cuộc
còn được gọi là War Room, phụ trách, cơ sở này đặt trong Tư Lệnh Bộ, tức là nơi làm
việc của ba tướng đầu não của Không Quân Việt Nam.
Nói tóm lại, theo lời các bậc đàn anh Không Quân thì nghề hay nghiệp làm Chánh Văn
Phòng có nghĩa là “ngồi đồng”.
Ít khi có thời giờ rảnh rỗi, luôn có mặt tại nhiệm sở, lúc nào Tướng cần đến mình là phải
sẵn sàng đáp ứng, sẵn sàng hành động.
Đối với cá nhân tôi, mặc dù từng là thuộc cấp của Chuẩn tướng Võ Dinh từ lúc ông còn
giữ chức vụ Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị/Bộ Tư Lệnh Không Quân, nhưng tôi
rất “khớp” mỗi khi đối diện với ông. Thời gian đầu lúc mới về làm Chánh Văn Phòng cho
tướng Võ Dinh, vạn bất đắc dĩ tôi mới xin vào gặp ông, thông thường mỗi khi có việc gì
cần trình bày, tôi viết trên một mảnh giấy nhỏ, nhờ các thuộc cấp như Thiếu uý Hưng,
Thượng sĩ nhất Phú, Trung sĩ Cảnh mang đến trình ông khán, tướng Dinh phê ý kiến của
ông vào đó và trao lại cho tôi. Chỉ khi nào ông muốn gặp tôi trực tiếp thì ông gọi
interphone: “Đại uý Thảo, gặp tôi”, lúc ấy tôi mới cầm bút và sổ tay vào trình diện nhận
lệnh.
Một hôm, có người em ruột tướng Dinh là Đại tá Võ Quế, Không Đoàn Trưởng Yểm Cứ,
Sư đoàn 6 Không Quân, bất chợt đi công tác từ Pleiku về Saigon, nhân tiện đến thăm ông
anh mình. Vì không kịp báo trước, Đại tá Quế phải ngồi chờ cả buổi mà chưa được phép
gặp tướng Dinh, lúc ấy ông Dinh phải giải quyết nhiều việc cấp bách. Nghe anh mình dặn
phải ngồi chờ, Đại tá Quế cứ ngồi yên đó và không dám đi đâu.
Tôi vẫn luôn thắc mắc và tự hỏi: không hiểu vì sao Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham Mưu
Trưởng Không Quân lại chọn tôi về làm Chánh Văn Phòng cho ông ?
Tướng Võ Dinh, sinh trưởng tại cố đô Huế, xuất thân từ một gia đình quyền quý, có cha,
ông đều là Thượng Thơ triều đình nhà Nguyễn. Gia đình ông bà Dinh theo Thiên Chúa
Giáo, tướng Dinh xuất thân khoá 3, từ trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, lúc đất nước chia đôi
sau hiệp định Geneve, ông đã mang cấp Thiếu tá, từng chỉ huy các phi đoàn vận tải cơ do
quân đội Pháp giao lại. Về tuổi đời ông sinh năm Kỷ Tỵ, 1929, tôi sinh năm Đinh Hợi,
1947. Theo tử vi tướng số thì “dần, thân, tỵ, hợi” tứ hành xung!
Phần tôi thì chào đời tại Saigon, ông bà gốc Bắc nhưng cha mẹ đều sinh trong Nam, nên
đương nhiên tôi là người Nam kỳ, gia đình tôi theo đạo Phật từ nhiều đời. Tôi là sĩ quan
không phi hành, trong khi hai vị Chánh Văn Phòng tiền nhiệm là Thiếu tá Bửu và Trung tá
Khôi đều có chỉ số chuyên môn ngành hành chánh & tham mưu và phi hành.
Đại tá Đỗ Văn Ry Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Không Quân, Trung tá Chu Trọng Đễ,
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Phó Không Quân đều sinh trưởng từ Miền Bắc, là hai nhà
ngoại giao lịch lãm, khéo léo. Cả hai ông gia nhập Không Quân Việt Nam từ những ngày
đầu thành lập, nhiều bạn đồng khoá đã được vinh thăng cấp Tướng. Còn tôi thì tuổi đời
chưa được 27, thâm niên quân vụ chưa đầy 6 năm, thăng cấp Đại uý hiện dịch nhiệm chức
mới vài tháng, nhất định là còn non nớt, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm.
Quyết định bổ nhiệm tôi làm Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Không Quân cũng
không thông qua những thủ tục căn bản, có nghĩa là khi thuyên chuyển một sĩ quan Chiến
Tranh Chính Trị, cấp Đại Uý trở lên, ra khỏi ngành này thì cần phải có sự chấp
thuận của Bộ Tổng Tham Mưu/Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, trong trường hợp của
tôi, Bộ Tư Lệnh Không Quân bổ nhiệm chức vụ trước, sau đó mới trình báo lên Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị.
Nhân viên có nhiệm vụ đánh máy lệnh bổ nhiệm tôi là hạ sĩ nhất Chí, thuộc Văn Phòng
Tham Phó Nhân Viên, một người có họ hàng xa với tôi đã kể lại rằng, anh hoa mắt khi đọc
thấy tên tôi, đánh máy mà tay run rẩy, toát mồ hôi lạnh nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật
quyết định này, cho đến lúc được chính thức công bố và phổ biến toàn quân chủng Không
Quân.
Theo lời kể của các bạn thân là Đức Hà và Hải Chu thì tin tôi được bổ nhiệm đã làm Trung
tá Đ. T. Dưỡng, Trưởng Phòng Thông Tin Báo Chí/ Bộ Tư Lệnh Không Quân có vẻ như
bồn chồn, đứng ngồi không yên, có lẽ vì ông chưa quên đã đối xử không đẹp trong thời
gian tôi làm việc dưới quyền ông từ 1970 đến 1972. Không xứng đáng là bậc đàn anh, ông
Dưỡng đã cố ý gài tôi vào chuyện gây hư hỏng và bỏ phế quân xa mà hậu quả là tôi bị phạt
30 ngày trọng cấm và phải bồi thường cho công quỹ 1.700.000 đồng, nếu không có sự giúp
đỡ và can thiệp đúng lúc của chú ruột tôi, Giáo Sư Tạt là Giám Đốc Trường Quốc Gia
Thương Mại, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ lúc bấy giờ, thì đời “nhà binh” của tôi kể như
“hạ màn”mang cấp Thiếu úy “múc mùa” .
Chuyện xưa kể rằng khoảng trên 20 năm trước, Chuẩn tướng Võ Dinh và Trung tá Đặng
Trần Dưỡng có chuyện bất hoà. Nay tôi về làm Chánh Văn Phòng cho tướng Tham Mưu
Trưởng Không Quân, nên ông Dưỡng thấy có phần khó xử, “ăn không ngon, ngủ không
yên”.
Tuy nhiên, mỗi khi nắm bắt được tin tức gì hay, tôi thường gọi thăm Trung tá Dưỡng và
trao đổi với ông. Giờ cơm trưa, thỉnh thoảng tôi đến câu lạc bộ sĩ quan Không Quân
Huỳnh Hữu Bạc dùng bữa với bạn bè và y như rằng mỗi khi trông thấy Trung tá Dưỡng,
ông thường cất tay chào trước. Tôi rất ngại ngùng khi ông làm như vậy, vì trong quân đội,
cấp nhỏ phải nghiêm chỉnh chào cấp trên trước, khi còn cách nhau 6 bước!
Những ngày cuối cùng của nền đệ nhị Cộng Hoà, Trung tá Dưỡng chạy tìm tôi và báo tin
là anh ruột ông, Hải Quân Đại tá Đ. T. Dư có nhiều chỗ trên chiến hạm sắp ra khơi, nếu
gia đình tôi cần di tản, ông sẵn sàng giúp đỡ phương tiện.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, như hàng trăm ngàn người Việt Nam khác, Trung tá Dưỡng
và gia đình đã ra được thế giới nên ngoài. Phần tôi, vì nghiệp chướng nặng nề và chắc vì
số mạng đã an bài, tôi phải ở lại đất nước mình, nếm mùi ngục tù cộng sản, lao động khổ
sai suốt 6 năm trời ở cả 7 hỏa ngục hai miền Nam Bắc.
Trở lại với công việc vào những tháng cuối năm 1974, Tư Lệnh Bộ tức bộ chỉ huy đầu não
của Không Quân Việt Nam, nơi đặt văn phòng của Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó, Tham Mưu
Trưởng Không Quân cùng với ba Chánh Văn Phòng và Phòng Hành Quân Chiến Cuộc
(War Room) hoạt động 24 giờ một ngày và trọn 365 ngày trong năm.
Trong số ba vị tướng lãnh vừa nói, có Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không
Quân là luôn túc trực tại phần sở, xem như nơi đó là nhà của ông. Trung tướng Trần Văn
Minh Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn tướng Võ Dinh Tham Mưu Trưởng Không Quân
chỉ có mặt tại văn phòng ngoài giờ công vụ khi nào Thiếu tướng Lành rời khỏi căn cứ Tân
Sơn Nhất.
Ba Chánh Văn Phòng cũng thay phiên nhau trực đêm tại phần sở, cứ một buổi tối
túc trực, hai tối kế tiếp được xuất trại. Vì tình hình biến đổi dồn dập, chiến cuộc leo thang
khắp nơi vào cuối năm 1974, tôi đã xin nghỉ làm xướng ngôn viên tin tức cho đài Phát
Thanh Saigon, chỉ tiếp tục đến TV Saigon đọc tin ban đêm, cứ làm một tối nghỉ hai tối.
Với những việc làm hàng ngày tại Bộ Tư Không Quân thì từ 5 giờ sáng tôi bắt đầu xem
xấp công văn tập trung tới văn phòng Tham Mưu Trưởng trong đêm. Giải quyết xong đợt
văn thư đầu tiên này thì đến giờ nghe War Room (Trưởng Phòng Hành Quân Chiến Cuộc
là Đại tá Phùng Ngọc Ẩn) thuyết trình về tình hình chiến sự, hoạt động của Không Quân,
tin tức quân báo, xem các không ảnh, theo dõi sự điều động của các đơn vị cộng sản Miền
Bắc đang tiến sâu về phía Nam...
Tới giờ ăn sáng, bộ tham mưu gặp nhau tại quán cà phê Soạn, thiết lập ngay trong Tư Lệnh
Bộ, do Thượng sĩ Soạn phụ trách. Căn phòng kín đáo này có những ưu điểm là được bảo
đảm an ninh tuyệt đối (bên ngoài có quân cảnh canh gác ngày đêm), các sĩ quan tham mưu
cao cấp dùng điểm tâm tại chỗ. Mỗi ngày Thượng sĩ Soạn lo đặt mua từ Brodard, Givral,
Thanh Thế những loại bánh croissant, paté chaud, bánh mì Pháp, thịt nguội hảo hạng,
beurre Bretel, còn có cả cà phê filtre Martin, bia, nước ngọt, thuốc lá...
“Cà phê Soạn” cũng là nơi các ông Tướng, các Chánh Văn Phòng tiếp quan khách, bạn
hữu từ những đơn vị xa về thăm để không mất giờ di chuyển ra những quán ăn trong căn
cứ Tân Sơn Nhất.
Sau một buổi sáng làm việc miệt mài, đến giờ nghỉ trưa, Đại tá Ry, Trung tá Đễ và tôi thay
phiên nhau đi ăn. Hai ông Ry và Đễ có nhà trong căn cứ sĩ quan Không Quân Tân Sơn
Nhất, nên về với gia đình, phần tôi thì chạy lanh quanh trong căn cứ, có nhiều câu lạc bộ,
quán ăn ở khu gia binh chuyên bán cơm bình dân vừa túi tiền.
Sau bữa trưa, chúng tôi trở lại văn phòng tiếp tục với công việc thường nhật. Thời đó, ở
Việt Nam, các công sở dân chính hay quân đội thường có giờ nghỉ trưa từ 12 giờ đến 2
giờ. Trong Không Quân cũng vậy, mọi hoạt động chỉ tiếp nối sau 2 giờ trưa, cho nên cả ba
chúng tôi bày trò chơi scrabble, một cách vừa giải trí, vừa học hỏi, vừa trực gác ngay tại
phần sở.
Scrabble là trò chơi nối chữ bằng tiếng Anh, cần sự tham gia của 2, 3 hay 4 người, mỗi
người chọn 10 quân cờ là 10 ô có mẫu tự, mỗi mẫu tự có khắc một số nhỏ ở góc phải, ví dụ
chữ A là 1, N là 3, Q là 8, W là 10. Bắt thăm để biết ai đi trước, người đó đặt một ô chữ
trên bàn cờ, người đánh thứ 2 chọn một ô chữ đặt kế bên, người đánh thứ 3 đặt thêm một ô
chữ nữa nối tiếp theo sau. Đến khi các ô chữ mang ý nghĩa trọn vẹn của một từ, thì cộng
tổng số điểm cho người vừa hoàn thành chữ ấy. Có những chữ sau khi được xếp trên bàn
cờ, ghi là tổng số được nhân lên gấp hai hay bốn lần thì người đánh trúng tăng điểm nhanh
chóng. Ví dụ chữ WALTZ, W là 10 điểm, A là 1, L là 5, T là 7, Z là 8, cộng tất cả lại là
31 điểm. Nếu chữ WALTZ được xếp trên những ô có ghi là tổng số được nhân lên 5 lần
thì người trúng sẽ có tất cả 31 X 5 = 155 điểm.
Trò chơi này khá hấp dẫn, thu hút, giúp người tham gia học thêm nhiều từ mới, khác với
Cờ Tướng của Việt Nam hay cờ Chess của Mỹ. Nếu có thắc mắc thì quyển tự điển
Webster of English Language là trọng tài. Chúng tôi chơi trò Scrabble mỗi buổi trưa,
người thua cuộc phải mua cà phê đá cho hai người có số điểm dẫn đầu hôm ấy.
Sau khi ván bài Scrabble chấm dứt, cả ba chúng tôi lại tiếp tục công việc của mỗi người,
phần tôi thì lo giải quyết những chồng công văn cao ngất, đến rồi đi một cách vô tận. Đọc
văn thư quân đội hàng ngày, tôi học hỏi được nhiều điều mới lạ, bổ ích, mỗi cá
nhân, mỗi phần sở, ngành nghề có cách hành văn, soạn thảo, trình bày, thuyết phục khác
nhau.
Trong công việc tham mưu, ngòi bút có thể làm công việc cứu hay buộc tội một người nào
đó! Một cá nhân được khoan dung, tha thứ hay phải “lãnh đủ” mọi hình thức kỷ luật
nghiêm khắc theo như đề nghị từ các phần sở liên hệ cũng từ đây mà ra.
Nhờ có một thời gian học việc với Đại uý, nhà thơ Huy Sơn Dương Quang Thuận, khi
cùng phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến/ Bộ Tư Lệnh Không Quân mà tôi biết thảo văn thư
quân đội rành rẽ, nhanh chóng, với đầy đủ mọi tình, lý, cho đến bây giờ tôi vẫn viết văn
thư và soạn diễn tiến quân lễ khá dễ dàng.
Với tâm niệm “làm hết việc, không làm hết giờ” kể từ khi về trình diện làm sĩ quan Thông
tin, Báo chí và sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, buổi chiều tôi ngồi lại văn phòng rất muộn,
để Đại tá Ry và Trung tá Đễ ra về trước. Hôm nào đọc tin tức trên truyền hình Saigon thì
tối ấy có công xa đến Tân Sơn Nhất đưa đón, xong việc tôi lại trở về văn phòng túc trực
trong đêm.
Do sự tình cờ, trong những phiên trực gác đêm ở Tư Lệnh Bộ, tôi đã có dịp gần gũi, thảo
luận và học hỏi nhiều với Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân, ông
được các chiến hữu trong và ngoài Không Quân xem là một ông Tướng “sạch”. Ông xuất
thân từ khoá 1 sĩ quan trừ bị Thủ Đức năm 1951, từ Pháo Binh chuyển sang Không Quân
học bay khu trục cơ. Thiếu tướng Lành gần như là phi công duy nhất có khả năng bay tất
cả các loại máy bay của Không Quân Việt Nam. Ông là test pilot nhận bay thử đầu tiên
chiếc phi cơ Tiền Phong 001 do Không Quân Việt Nam chế tạo 100% năm 1973.
Ông Tướng Lành là một người trầm ngâm ít nói, có cuộc sống giản dị, cô độc, ít khi tôi
thấy ông có mặt trong các cuộc tiếp tân, liên hoan, dạ tiệc với các vị tướng lãnh và sĩ quan
Không Quân cao cấp, trái lại ông thích sát cánh với các anh em binh sĩ. Lúc mang cấp
Chuẩn tướng, lính tráng gọi ông là Thiếu uý vì ông mang một sao thêu màu đen, khi thăng
cấp Thiếu tướng, nhiều người không biết mặt ông thì gọi ông là Trung uý.
Sau giờ làm việc buổi chiều, Thiếu tướng Lành thường ra sân banh trước Tư Lệnh Bộ, đá
banh giao hữu với các thuộc cấp của ông trong Không Quân hoặc với những đội banh của
quân, binh chủng Hải, Lục, Cảnh sát Quốc gia... Trung tướng Minh, Tư Lệnh, Chuẩn
tướng Dinh Tham Mưu Trưởng, các vị Tham Mưu phó, Phụ Tá thích đánh tennis, chứ
không ai chịu ra sân banh phơi nắng.
Có hôm ông Tướng Lành bị lấn té trặt chân, một cầu thủ Không Quân cõng ông chạy về
văn phòng, thấy vậy tôi vội gọi một bác sĩ quen ở Trung Tâm Y Khoa Không Quân, Y Sĩ
Trung tá Đỗ Quang Trường lo thuốc men, dầu nóng, và nhờ Chuẩn uý Tân, sĩ quan tuỳ
viên xoa bóp chân cho ông.
Có những đêm, Thiếu tướng Lành rủ tôi cùng đi với ông một vòng trong căn cứ Tân Sơn
Nhất để xem tình hình trực gác, phòng thủ ra sao? Lần đó vào khoảng 3 giờ sáng, khi đến
gần một vọng gác sát vòng đai, không thấy ai lên tiếng, đối đáp, ông nói tôi ngừng xe Jeep
lại xem xét. Người lính canh đang ngủ gục, dựng khẩu súng M 16 bên cạnh, ông bảo tôi
nhấc khẩu súng mang đi. Sáng hôm sau, anh binh sĩ đó đến trình diện Thiếu tướng Lành
xin tha thứ và nói vì phải làm thêm để đủ nuôi vợ con, lúc canh gác anh lơ là vì mệt mỏi.
Thiếu tướng Lành tha cho anh lính và dặn anh là không được tái phạm.
Có những lần Thiếu tướng Lành sắp đặt trước với các pilot kỳ cựu được ông tin
cậy trong Bộ Tư Lệnh cùng bay với ông, bất chợt đến thăm các đơn vị Không Quân xa xôi
và trở về trong đêm hoặc khi trời vừa sáng.
Đêm nào không có chương trình gì đặc biệt, Thiếu tướng Lành và tôi ngồi nhậu lai rai
ngay tại văn phòng. Ông lo rượu mạnh, “gout” của ông là Remy Martin chai mờ, tôi mua
bánh mì, phá lấu, nem chả, đồ chua...
Cuối năm 1974, Chuẩn tướng Dinh Tham Mưu Trưởng được mời tham dự Lễ Truy Điệu
Truyền Thống của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ở Dalat tổ chức tại Đồi Lâm Viên,
trước ngày mãn khoá của các tân sĩ quan. Trong tình thế hết sức cấp bách, ai nấy đều bận
rộn nên tới giờ phút chót cận kề mà chưa có phép của thượng cấp, lúc đó biết Tướng Lành
đang ở sân banh, Tướng Dinh nhờ tôi ra đón Thiếu tướng Tư Lệnh Phó để trình ký lệnh di
chuyển và cho phép Ông sử dụng một trực thăng với phi hành đoàn cho chuyến công tác
lần đó.
Đây là một kỷ niệm khó quên, vì chưa bao giờ có chuyện một ông Tướng Không Quân
đang đá banh, bị chặn lại để trình ký một sự vụ lệnh thượng khẩn, mà tôi là nhân chứng
trong cuộc.
Nghe kể lại vào những giờ hấp hối sau cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, khi căn cứ
Không Quân Tân Sơn Nhất bị địch pháo kích dữ dội trong đêm 28 tháng 4 năm 1975,
Thiếu tướng Lành đã bật khóc, ông uất ức khi thấy dã tâm của đồng minh Hoa Kỳ không
muốn cho Miền Nam chiến thắng Miền Bắc, họ cúp mọi nguồn viện trợ và giao “nguyên
mâm, trọn gói” tức là cả cơ đồ của chính thể Saigon cho cộng sản Bắc Việt.
Định cư tại San Jose sau tháng 4 năm 1975, Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó
Không Quân, sống bằng nghề đập đá nặng nhọc, chỉ đủ tiền mua bia. Các thuộc cấp hết
lòng chăm lo cho ông, vì ông là một tướng lãnh tận tuỵ, gan dạ, thanh liêm, gương mẫu.
Mấy anh bạn cùng khoá 7/68 Không Quân với tôi ở San Jose, CA được cận kề bên ông
trong thời gian này kể lại là thường nghe ông nói: “vì lòng hiếu thảo với mẹ nó mà Thảo
phải ở lại với Việt Cộng”. Thiếu tướng Võ Xuân Lành mãn phần vào đầu năm 90 khi ông
chỉ mới gần 60 tuổi.
Với nén hương lòng, xin thành kính tưởng niệm Thiếu tướng Võ Xuân Lành, (xuất thân
khóa 1 Thủ Đức-1951) Tư Lệnh Phó Không Quân, một bậc thầy mà tôi suốt đời ngưỡng
mộ.
Trong công việc mới tôi luôn cố gắng, thường xuyên học hỏi, tìm hiểu, hầu tránh mọi sơ
sót, vấp váp, dù chưa bao giờ được đào tạo, tham dự khoá huấn luyện chuyên môn nào về
hành chánh hầu chu toàn trách nhiệm của một Chánh Văn Phòng, đây là điều được người
Mỹ gọi là OJT (On The Job Training) tức là vừa làm vừa học.
Theo lời của Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng Không Quân, ông hứa nếu chu
toàn trách nhiệm của mình thì tôi được đền bù xứng đáng. Bản cấp số Không Quân quy
định Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng có thể thăng đến cấp Trung tá và chỉ số chuyên
môn cấp cho tôi là 70.16 tức thuộc ngành Tham Mưu Hành Chánh, dù thuyên chuyển đến
đơn vị nào, tôi cũng được ưu tiên bổ nhiệm làm Chánh Văn Phòng cho các Tư Lệnh Sư
Đoàn hoặc Chỉ Huy Trưởng các đại đơn vị Không Quân.
Ngoài ra, chiếu theo nhu cầu công vụ, tôi được Bộ Tổng Tham Mưu cấp giấy phép lái
quân xa trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, trong cũng như ngoài giờ giới nghiêm.
Trong phạm vi Không Quân, tôi có thông hành đặc biệt được phép ra vào tất cả các Phòng
Sở, ngay cả những vị trí tối mật, hạn chế mọi sự đi lại. Quân xa của ba Chánh Văn
Phòng có dán trên kiếng vignette (ký hiệu) số 4, được phép ra ngoài phi đạo khi cần thiết.
Vignette số 1 dành cho Tư lệnh, số 2 dành cho Tư Lệnh phó và số 3 dành cho Tham Mưu.
Chỉ vài năm trước đó, mỗi buổi chiều, vào giờ tan sở, khi dùng xe gắn máy đến đón bạn
gái làm việc trong căn cứ Tân Sơn Nhất, tôi thường bị các anh quân cảnh hay cảnh sát xét
hỏi giấy tờ tuỳ thân, xua đuổi, cấm cản không cho đứng gần cổng ra vào. Tình đời là thế
đó, bây giờ tôi không còn là một sinh viên đại học nữa mà là một sĩ quan cơ hữu thuộc Tư
Lệnh Bộ Không Quân, ra vào cổng Phi Long như là nhà của mình vậy. Thật thế, vì thời
gian tôi ở sở thường gấp đôi, ba lần thời gian ở nhà mỗi ngày.
Tôi còn nhớ Đại tá Nguyễn Văn Ba, Tham Mưu Phó Nhân Viên/ Bộ Tư Lệnh Không
Quân, có lời dặn dò rằng, đến lúc đủ năm tháng thâm niên cấp bậc, nhớ thông báo cho ông,
để lập hồ sơ đề nghị thăng cấp Thiếu tá cho tôi.
Ngoài ra tôi cũng được đặc miễn tất cả các công tác trực gác, ứng chiến, tuần tiểu, phòng
thủ mà mỗi sĩ quan cấp Uý thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân phải đảm nhiệm. Đến ngày
lãnh lương tháng, tôi cũng không phải xếp hàng chờ đợi đến phiên mình mà được sĩ quan
tài chánh mang bao thơ tiền đến trao tận bàn giấy.
Trong đời binh nghiệp ngắn ngủi, không ngờ vận mạng tôi được “phát” hay “bốc” nhanh
như thế, hàng ngày ra vào văn phòng thường gặp Trung tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh
Không Quân Việt Nam, còn có tên là “Minh Đù” do mỗi khi mở miệng Tướng Minh hay
dùng tiếng “Đan Mạch”. Ông thăng cấp Chuẩn tướng năm 32 tuổi, bốn năm sau, được
thăng cấp Thiếu tướng rồi đến năm 1972 mang cấp Trung tướng, lúc ông mới 40 tuổi. Là
một tướng lãnh khéo léo, trung thành tuyệt đối nên được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đặc biệt cất nhắc lên ba sao, giao ông giữ chức Tư Lệnh Không Quân suốt 10 năm, trong
khi cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ vẫn còn mang cấp Thiếu tướng Không Quân.
Đến những ngày cuối tháng 3 năm 1975, Việt Nam Cộng Hoà cứ mất dần hàng loạt tỉnh
thành từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam. Mỗi buổi sáng sớm, ngồi tại War Room nghe thuyết
trình tin tức quân báo thấy ngao ngán, phân vân, cứ mỗi sư đoàn bộ binh Việt Nam Cộng
Hoà thì có từ 2 đến 3 sư đoàn quân chính quy Bắc Việt kềm chân. Xe tăng từ miền Bắc
xâm nhập sâu xuống phía Nam qua ngã Quảng Trị, Thừa Thiên, Tây Nguyên. Dù có
những anh hùng Không Quân một mình lúc đó đã triệt hạ trên 20 chiếc tăng T 54, PT 76
của Hà Nội. Nhưng rồi, như vận nước đã được an bài, chuyện gì phải đến tuần tự đến.....
Chính tai tôi nghe lời nói cuối cùng của sĩ quan trực văn phòng Tư lệnh Sư Đoàn 1 Không
Quân/Đà Nẵng là “cộng quân đã tràn ngập vào phi trường rồi, vĩnh biệt !”, lúc ấy khoảng
3 giờ trưa ngày 29 tháng 3, năm 1975. Tiếp theo đó Pleiku, Quảng Đức, Nha Trang, Phan
Rang, Quy Nhơn, Dalat, Bình Long, Biên Hoà lần lượt rơi vào tay đối phương. Những
cảnh tượng ghê rợn trên Quốc lộ Máu, Đại lộ Kinh hoàng, với từng đàn người tháo chạy bị
địch bắn trọng pháo truy cản, xác chết chồng chất lên nhau, khiến người dân Miền Nam
hoảng loạn. Do tình trạng “rắn mất đầu”, binh lính rút lui vô trật tự, cởi bỏ quân phục,
thoát thân, trà trộn vào dân, phân tán mỏng, đối phương không đánh cũng thắng. Trên các
chiến hạm của Hải Quân Việt Nam dân chúng cùng các đơn vị quân đội di tản từ Miền
Trung xuôi Nam cũng xảy ra bao cảnh cướp bóc, tranh giành, hôi của, bắn giết, thanh toán
lẫn nhau.
Trong phạm vi Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam, từ ngày 20 tháng 4, 1975 đã có tin
báo nhiều sĩ quan cao cấp bỏ trốn, tìm cách mang gia đình rời khỏi Việt Nam. Cùng thời
gian đó, DAO (Defense Attache Office) tức Cơ quan Quốc Phòng thuộc toà Đại sứ
Hoa Kỳ bắt đầu thiết lập danh sách các quân nhân Không Quân Việt Nam cùng gia đình
được ưu tiên di tản khỏi Saigon bằng phi cơ quân sự Mỹ. Vợ con quân nhân lên đường
trước, các quân nhân phải ở lại đơn vị chờ lệnh.
Máy bay quân sự Mỹ cất cánh ngày đêm từ Tân Sơn Nhất đưa gia đình các ông tướng, các
sĩ quan cao cấp qua đáp bên Thái Lan, từ đó sẽ có phi cơ vận tải lớn chở họ đến Guam hay
Philippines, rồi tới Mỹ.
Chuẩn tướng Dinh và tôi đưa vợ con ông ra máy bay C 130, mọi người phải ngồi la liệt
trên sàn, chen chúc nhau, ghế băng được tháo ra để có thêm nhiều chỗ. Trở về văn phòng,
Chuẩn tướng Dinh than thở với tôi rằng, nếu biết cảnh xô đẩy, tống người bừa bãi lên phi
cơ quân sự Mỹ như vậy thì ông đã không cho vợ con đi di tản kiểu đó.
Phần tôi, đến trưa ngày 24 tháng 4, 1975, được lệnh về nhà gấp, đưa vợ con vào Tân Sơn
Nhất, ra thẳng phi đạo lên máy bay di tản. Lúc ấy, lệnh giới nghiêm trong phạm vi quân
trấn Saigon-Gia Định-Chợ Lớn đã được ban hành, mọi di chuyển phải có công vụ lệnh đặc
biệt, nếu vi phạm có thể bị lực lượng an ninh bắn hạ.
Mẹ tôi không có tên trong danh sách được đặc biệt di tản này và nhạc gia tôi lại không
đồng ý cho vợ con tôi ra đi vì cháu Khiêm vừa 16 tháng, cháu Trâm mới có 4 tháng. Ông
còn nói “tôi không có nợ máu thì không cần gì phải ra đi”. Nghe ông nói vậy, một mình
tôi trở lại căn cứ Tân Sơn Nhất, tiếp tục công việc của mình.
Trông thấy tôi quay lại văn phòng, Trung tướng Minh, Tư Lệnh Không Quân hỏi “vợ con
toa đâu, đi chưa?”, tôi đáp “Thưa Trung tướng, hai cháu còn nhỏ quá, cha vợ tôi không
chịu cho di tản trước”, ông cười “Ai biểu đẻ cho cố”, “mà toa cấp Đại uý, ở lại chắc cũng
không đến nỗi nào”...
Đến chừng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, một phi tuần 4 chiếc oanh tạc cơ A 37
ném bom Tân Sơn Nhất, gây hư hại nặng cho một đoạn băng dài trên phi đạo. Ít lâu sau,
báo cáo từ khối Hành Quân và An Ninh Quân Đội cho biết chính Nguyễn Thành Trung,
từng bỏ bom Dinh Độc Lập, sáng ngày 8 tháng 4, 1975 đã hướng dẫn các phi công cộng
sản, do anh huấn luyện, từ Phan Rang bay về đánh bom Tân Sơn Nhất.
Chuẩn tướng Dinh gọi tôi vào văn phòng, cho phép tôi về nhà và khỏi phải trở lại nhiệm
sở, vì ông cũng sắp lên đường, có thể là bay xuống Miền Tây cầm cự, xem tình hình
chuyển biến ra sao. Tôi chào ông rồi lui bước. Ngày 29 và 30 tháng 4, 1975, cả Saigon
mạnh ai nấy chạy, ra sông, ra biển, bám theo tàu bay, vì lo sợ sẽ có biển máu như từng xảy
ra bên Campuchia khi quân Khmer Đỏ tiến vào thủ đô Phnom Penh (17 tháng 4/1975).
Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu quân nhân các cấp buông súng,
ra trình diện chánh quyền cách mạng. Miền Nam Việt Nam sụp đổ hoàn toàn sau 55 ngày
đêm bị quân Bắc Việt tấn công liên tục, tràn ngập lãnh thổ và xoá tên trên bản đồ thế giới.
Không xảy ra biển máu, nhưng sau đó, đất nước biến thành những nhà tù khổng lồ, giam
cầm hàng trăm ngàn công chức, quân nhân, cán bộ quốc gia, bị bỏ trong cảnh đói rét, con
người chỉ còn da bọc xương.
Sau tháng tư đen năm 1975
Tôi đi tù lao động khổ sai từ Hóc Môn, qua Long Giao rồi ra tận Hoàng Liên Sơn, Bắc
Thái, Nghệ Tĩnh. Ông ngoại mấy cháu thường khóc mỗi khi nhớ đến tôi, khi ấy đang bị
đoạ đầy trong ngục tù cộng sản, người ở nhà nhận được tin về là tù bị bỏ đói sống màn
trời, chiếu đất trong rừng sâu, lạnh cóng, nước độc, muỗi mòng, phát sinh bệnh tật
và đã có rất nhiều người tử vong.
Ngục tù cộng sản khắp hai miền Nam Bắc sau tháng tư đen năm 1975
Cùng khoang thuyền trên tàu Sông Hương chở tù ra Bắc, tôi gặp lại Trung tá Chu Trọng
Đễ, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Phó Không Quân, vợ con ông đi trước, riêng ông giờ chót
bị kẹt lại Tân Sơn Nhất. Năm nay, nếu còn ông được 95 tuổi và sau nhiều năm tù đày, nhờ
Ơn Trên cho ông sống yên vui với vợ con tại Nam Cali, thủ đô của Người Việt tỵ nạn cộng
sản tại Hoa Kỳ.
Đại tá Đỗ Văn Ry, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Không Quân, đã đưa vợ con đi trước, phút
chót ông phóng ra bến tàu trên sông Saigon, lên xà lan ra khơi. Gặp lại ông Ry cuối năm
1998 tại Virginia, thấy ông gầy gò, tóc bạc trắng, không đạo mạo, oai phong như xưa. Ông
nói rằng, Trung tá Đễ và tôi bị cộng sản nhốt tù thì có những nỗi cơ cực, hà khắc, phần
ông được đến Mỹ sinh sống bên cạnh vợ con, nhưng cũng vất vả, gian nan, tủi nhục không
kém.
Sáng sớm ngày 21 tháng giêng năm 2010, qua email từ các anh em Không Quân, tôi nhận
hung tin là Đại tá Đỗ Văn Ry, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Không Quân đã từ trần ở
Aurora, Colorado, hưởng thọ 80 tuổi. Điều làm tôi mãi sửng sốt, băn khoăn mỗi khi nhớ
tới ông là chuyện ông treo cổ tự tử vì bị chứng bệnh nan y ngoài da, hành hạ, rất ngặt
nghèo, hết thuốc chữa, đến phải kết liễu đời mình. Thật không ngờ một bậc đàn anh vui
tánh, hoạt bát, tiếu lâm, thành công mỹ mãn trong quân ngũ lại ra đi như thế.
Tôi cũng may mắn gặp lại Trung tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân tại Fresno,
San Jose năm 1993, khi họp mặt kỷ niệm 25 năm khóa 7/68 Không Quân chúng tôi nhập
ngũ.
Ông kể lại là đã xin làm một chân thợ điện khi mới tới Mỹ sau tháng 4 năm 1975, được
các anh em Không Quân hết lòng giúp đỡ trong mọi hoàn cảnh. Có lần nhắc chuyện cũ,
Tướng Minh nói “tụi này thắc mắc không hiểu tại sao ông Dinh chọn “toi” về làm
Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng?”. Trung tướng Minh qua đời năm 1997, hưởng thọ
65 tuổi, dịp này RFA có loan tin buồn đến những người biết ông, những thuộc cấp của ông
trong và ngoài nước.
Một dịp may khác thật hiếm có là anh em Không Quân vùng Đông Bắc Hoa Kỳ được tiếp
đón Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng Không Quân, khi ông tham dự Đại Hội
Hoa Anh Đào Không Quân, tháng 4 năm 2005. Trong câu chuyện tâm tình, ông kể lại là
trước khi quyết định chọn tôi làm Chánh Văn Phòng, ông đã hỏi ý kiến một số thượng cấp
của tôi trong ngành Chiến Tranh Chính Trị và đa số đều ủng hộ vì cho rằng tôi làm việc
siêng năng, cẩn thận. Còn phu nhân của ông thì nói với ông, tôi là một sĩ quan dù còn trẻ
nhưng chững chạc và nghiêm nghị.
Kỷ niệm với Chuẩn tướng Võ Dinh (San Jose, CA, 2013. Ông đã mãn phần ngày 17 tháng
6 năm 2017 tại SJ/CA, thọ 89 tuổi
Cá nhân tôi, trong thời gian làm việc dưới quyền của Chuẩn tướng Võ Dinh đã học hỏi
được nhiều kinh nghiệm quý báu về quản lý hành chánh, điều hành tham mưu, lãnh đạo
chỉ huy. Tôi để ý thấy ông dùng bút mực xanh để ký các văn thư trình lên Phủ Tổng
Thống, Phủ Thủ Tướng, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà, còn trong nội bộ Không Quân, có nghĩa là gởi các cấp dưới, thì ông dùng bút bic đen.
Chi tiết nhỏ như vậy cũng cho thấy sự khéo léo của ông trong hành xử đối với cấp trên.
Kỷ niệm với Chuẩn Tướng Võ Dinh tại San Jose, CA lần sau cùng gặp nhau ngày 4 tháng
10 năm 2016
Hồi tưởng chuyện quá khứ, có những việc tôi vẫn chưa hiểu tại sao lại xảy ra như vậy chỉ
biết rằng, tôi càng tin tưởng hơn vào số mạng của con người, vào sự sắp đặt, an bài nào đó
mà mình không suy đoán được, cũng như ai mà chọn được khi nào mình sinh ra làm người
hay biết được lúc nào mình sẽ vĩnh viễn đi vào lòng đất Mẹ !!!
Đào Hiếu Thảo/Th2
Hành nghề tư ngoài giờ công vụ
Saigon 1971-1975
Đào Hiếu Thảo
Với bất cứ công việc hay sinh hoạt nào mà mình gắn bó, yêu thích và đeo đuổi thì hầu như
luôn mang lại niềm vui và kinh nghiệm quý báu làm hành trang cho cuộc sống. Người
Pháp có câu ngụ ngôn “Quand on aime ce qu’on fait, on va au travail en chantant” tạm
dịch “Khi ưa thích việc mình làm, người ta hay ca hát trên đường đến sở”.
Thời gian phục vụ trong Không Quân, tôi được phép hành nghề tư ngoài giờ công vụ, đi
đọc tin tức, thời sự tại đài phát thanh & truyền hình quốc gia, đây cũng là việc làm có ảnh
hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ chính của tôi trong vị trí sĩ quan thông tin & báo chí, phát
thanh & truyền hình. Dù phải làm việc liên tục từ sáng đến tối, ban ngày ở Bộ Tư Lệnh
Không Quân/Tân Sơn Nhất, cuối ngày chạy về đài phát thanh và truyền hình ở gần khu
vực Vườn Bách Thảo (Sở Thú/Thị Nghè) nhưng không vì vậy mà thấy mệt nhọc hay căng
thẳng, còn trẻ và khỏe, lúc ấy tôi vừa 25 tuổi (1972).
Với 3 công việc hàng ngày, suốt 7 ngày trong tuần, ban đêm thì một tối ở đài phát thanh,
tối khác đọc tin bên truyền hình, tối nào được nghỉ thì lại lo trực gác, phòng thủ, ứng chiến
trong căn cứ Tân Sơn Nhất hay lấy bài ở đại học về luyện thêm chương trình cử nhân và
cao học.
Hôm nay có cơ hội nhắc chuyện của hơn 50 năm về trước, cái khoảng thời gian
làm xướng ngôn viên tin tức, thời sự radio & tivi Saigon, tôi không thể không ghi ơn các
bậc đàn anh, đàn chị, còn sinh tiền hay quá vãng, những người đã dẫn đắt, khuyến khích,
giúp đỡ khi tôi mới chập chững vào đời, trong số đó có Thiếu tá Văn Thiệt, người với
giọng nói “Trời cho”. Tổng thống Ngô Đình Diệm rất thích giọng nói hùng hồn của ông
Thiệt, nên khi tiến hành cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Diệm ngày 11 tháng 11 năm
1960, phe quân nhân cách mạng đã cưỡng bách ông Văn Thiệt trong công tác lên án, cáo
buộc, chỉ trích tập đoàn gia đình trị họ Ngô Đình.
Đảo chánh bất thành, phe lãnh đạo quân nhân thoát sang Cam Bốt, số còn lại có liên can
đến cuộc binh biến này bị giam giữ và kết án tù. Ông Văn Thiệt được gọi vào Phủ Tổng
Thống trình diện, nghĩ sẽ gặp chuyện chẳng lành, ông từ biệt vợ con trước một chuyến đi
không biết bao giờ trở lại. Thật bất ngờ, “Cụ Diệm” không những không khiển trách Trung
sĩ Thiệt mà còn thăng cấp sĩ quan cho ông, từ Trung sĩ lên thẳng Thiếu úy và chỉ thị ông
đọc những bài bình luận phê phán, công kích dữ dội phe quân nhân đảo chánh. Sau ngày
30 tháng 4 năm 1975, nghe nói ông Thiệt tìm đường xuống Gò Công, vượt biển, từ đó anh
chị em đồng nghiệp đài phát thanh Saigon không còn tin tức gì của ông nữa.
Trong những đêm làm việc ở đài phát thanh Saigon, ngoài phần vụ chính đọc tin tức, thời
sự, anh chị em xướng ngôn viên cũng tham gia các chương trình đọc truyện giúp ca sáng
khi cần, như trong chuyện Gia Đình Bác Tám, Cổ Học Tinh Hoa, Chuyện Cổ Nước Nam
hoặc các tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng Miền Nam... Nhờ tham gia công tác đọc
truyện mà anh chị em chúng tôi có dịp tập luyện giọng già, trẻ, thiện, ác, tuỳ vai nhân vật
mình đảm nhận.
Một hôm, vào dịp cận Tết, trong lúc cùng đọc truyện mừng Xuân, thay vì dùng băng ghi
âm tiếng pháo nổ dòn, một bạn đồng nghiệp đốt một tràng pháo đại, nổ âm vang và khói
mịt mù trong studio, hậu quả là micro vỡ tung, chương trình bị gián đoạn trong giây lát.
Hôm sau, nguyên ê kíp đọc truyện phải hùn tiền mua gấp một micro khác. Thật là chuyện
cười ra nước mắt!
Kỷ niệm vui khác là vào những đêm sáng trăng, sau buổi đọc kết quả chương trình xổ số
Kiến Thiết Quốc Gia (mà thù lao thường rất hậu hĩnh) chúng tôi pha trà ngon, mua bánh
trái đủ loại cùng nhau tụ họp trên những lớp bao cát che nóc hầm trú ẩn để phòng đạn pháo
kích của đối phương rót vào từ phía Thủ Thiêm hay Xa Lộ Biên Hoà mà ngồi ngắm trăng,
ăn uống, chuyện trò vui vẻ, thật là cái tuổi đôi mươi “ăn chưa no, lo chưa tới”, ngây thơ
đến đơn giản!
Tôi vào làm xướng ngôn viên tin tức thời sự cho đài truyền hình Saigon vào cuối năm
1967, đến tháng chín năm Mậu Thân 1968, tôi tình nguyện gia nhập Không Quân Việt
Nam. Trước ngày lên đường tòng quân, với mái tóc nhà binh ngắn gọn nhạc sĩ Nguyễn
Hiền, Phó Giám Đốc Truyền Hình Saigon cho tôi lên chương trình có lời tạm biệt bà con
khán giả và ngày hôm sau tôi lên đường đến quân trường Quang Trung nhập ngũ.
Năm 1971 ngoài giờ công vụ, tôi được trở lại đọc tin tức ở Đài Truyền Hình Saigòn vào
ban đêm. Đến giữa năm 1974, nhân dịp Ngày Quân Lực 19 tháng 6, tôi được thăng cấp
Đại uý, theo lệnh Trung tá Kỹ sư Không Quân Lê Vĩnh Hoà, Tổng Cuộc Trưởng Tổng
Cuộc Truyền Thanh, Truyền Hình, Điện Ảnh Quốc Gia tôi đã mặc quân phục lên đọc bản
tin chính lúc 7 giờ chiều, để trình diện công chúng. Đây cũng là lần đầu tiên và duy nhất
tôi xuất hiện trên màn ảnh Truyền Hình Saigon trong quân phục.
Nhắc đến ông Sếp Hoà, tôi bỗng bật cười một mình vì đã bị hàm oan, mà không
sao giải bày được. Thời ấy, thông thường mỗi ngày đều có công xa đưa rước anh chị em
xướng ngôn viên TV, nhưng do một sự bất thường chiếc công xa được sử dụng trong một
công tác cấp bách khác, nên đặc biệt hôm ấy, xướng ngôn viên được báo trước là phải tự
túc đến đài truyền hình. Từ Tân Sơn Nhất tôi phải dùng xe hai bánh chạy vội về đài TV,
đột nhiên trời lại nổi cơn giông tố, mưa to gió lớn đổ vào Saigon, gây ngập lụt trên đường
phố khiến lưu thông bị cản trở. Nước mưa cứ dâng cao trên đường lộ, gay go lắm mới len
lỏi được giữa giòng người và xe.
Tôi tới nơi thì đã quá giờ đọc tin tức live, đài phải xin cáo lỗi và chạy các chương trình ca
nhạc liên tục (Evergreen). Vì sốt ruột, Trung tá Hoà ra trước cửa đài truyền hình, đứng chờ
hai xướng ngôn viên có nhiệm vụ đọc bản tin chính, mà lại vắng mặt cùng một lúc. Chỉ
cần có một người hiện diện để mở đầu phần tin tức thì show tối đó không đến nỗi “bị bể”
quá nặng như vậy.
Vừa chào và xin lỗi ông Sếp Hoà thì ngay phút ấy Oanh Oanh, người cùng đọc tin với tôi
cũng xuất hiện, thấy cả hai đều ấp úng, toàn thân ướt sũng vì trận mưa lớn, Oanh Oanh nói
với ông là phải nhờ em của cô đưa bằng Honda tới đài, Trung tá Hoà nghiêm sắc mặt và
nói “Trễ giờ rồi, thay quần áo nhanh lên để lo đọc tin tức khắc !”.
Sau đó, ông Hoà gọi chúng tôi, từng người đến gặp riêng ông tại văn phòng và dặn “Nếu
có hẹn nhau thì cũng tránh đừng làm ảnh hưởng đến công việc chung”. Yên lặng là cách
hay nhất trong lúc ông Hoà còn nổi nóng, tình ngay, lý gian! nói sao cho ông hiểu và tin
bây giờ?!
Năm năm sau, vào năm 1979 khi gặp lại Trung tá Hoà trong trại giam cộng sản Phú Sơn 4
ở Khu Gang Thép Thái Nguyên, anh em bị nhốt chung một buồng giam, khi nhắc lại
“chuyện xưa, tích cũ” tôi giải bày về “nỗi oan Thị Kính” từng gây cho ông lắm sự thắc
mắc và bất bình, lúc đó ông mới tin chắc là tôi đã nói lên tất cả sự thật về chuyện cả hai tới
TV cùng lúc vào cái hôm mưa to, gió lớn, đường xá ngập nước, ngày xa xưa đó!
Ngoài công việc làm xướng ngôn viên tin tức thời sự cho đài phát & truyền hình Saigon
ngoài giờ công vụ, tôi cũng có dịp may được sinh hoạt với Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam
vào những năm cuối của chính thể Cộng Hòa.
Trước đó, Chủ Tịch Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam là ông Bầu Võ Văn Ứng, nhà dìu dắt
của Đội Ngôi Sao Gia Định, từ đầu thập niên 1950. Ông là người “lăng xê” thủ môn lừng
danh Phạm Văn Rạng của Đội Tuyển Quốc Gia Việt Nam. Sau ông Bầu Võ Văn Ứng, Chủ
Tịch Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam là ông Trần Minh Mẫn.
Cả hai thượng cấp của tôi trong ngành Chiến Tranh Chính Trị Không Quân là Trung tá
Bùi Hoàng Khải và Trung tá Hoàng Song Liêm đều tham gia vào Ban Chấp Hành Tổng
Cục Túc Cầu Việt Nam.
Với tài tổ chức khéo léo, làm việc có nguyên tắc, có uy tín, nhiều sáng kiến, lại được các
cộng sự viên hết lòng tiếp tay, giúp sức, nên Trung tá Bùi Hoàng Khải được bầu làm Tổng
Thư Ký, Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam nhiệm kỳ 1972-1975.
Trung tá Hoàng Song Liêm, Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, Bộ Tư Lệnh Không Quân/Tân
Sơn Nhất được bầu làm Phó Tổng Thư Ký, Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam. Ông Liêm có
nhiều phương tiện trong tay như Đại Nhạc Đoàn Không Quân, nhóm phóng viên, nhiếp
ảnh viên sẵn sàng hỗ trợ khi Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam cần đến.
Là thuộc cấp trực tiếp của Trung tá Liêm, tôi được cử làm Phụ Tá Uỷ viên Giao tế
của Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam. Nhiệm vụ của tôi là phụ giúp trong một số công tác
như: tiếp đón các phái đoàn túc cầu đến từ những quốc gia Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á,
Châu Phi và Châu Đại Dương, khi họ tới Việt Nam tranh tài trên sân cỏ Cộng Hoà (Chợ
Lớn). Sân cỏ này có sức chứa trên 20 ngàn khán giả.
Tôi được giao việc lo phương tiện di chuyển cho các đội tuyển bạn từ khách sạn đến các
vận động trường để thao dợt, trong lúc giao đấu và khi thăm các danh lam thắng cảnh ở
Huế, Dalat, Cần Thơ... tham dự những buổi tiếp tân, yến tiệc, trình diễn văn nghệ, sau khi
hoàn tất các giải tranh tài hay đấu giao hữu, cuối cùng là thu xếp đưa các phái đoàn túc cầu
quốc tế ra phi cảng Tân Sơn Nhất đáp chuyến bay trở về nguyên quán.
Ngoài ra tôi cũng chứng kiến những cảnh gay cấn, khó xử khi đội tuyển Pháp đến Việt
Nam tranh tài, sau khi Pháp gác đội tuyển Việt Nam 4-0 trong trận đấu kết thúc. Trên
đường từ sân cỏ vào hậu trường qua ngả khán đài danh dự, vì các tuyển thủ Pháp bị khán
giả phản đối “lối chơi xấu” “đá bạo” “lấy thịt đè người”, nên thủ quân của Pháp lãnh ngay
trán một lon coca chưa khui, khiến anh bị thương nhẹ ở mặt.
Phản ứng quyết liệt của đội tuyển Pháp là yêu cầu trở về Paris ngay, nhất định huỷ bỏ trận
đấu giao hữu diễn ra hôm sau. Lịch trình giao đấu đã được công bố, vé vào sân bán sạch
rồi, thật là một tin sét đánh ngang tai đối với các giới chức đầu não trong Ban Chấp Hành
Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam.
Cuộc thương lượng, dàn xếp gay cấn kéo dài quá nửa đêm mới đạt giải pháp chung cuộc,
được đền bù thoả đáng về sự việc vô cùng đáng tiếc này, đội tuyển Pháp mới đồng ý trở lại
sân cỏ với bao điều giao ước khắt khe đặt ra với Ban Tổ Chức.
Ngược dòng thời gian, nhớ lại khi còn nhỏ, lúc mười mấy tuổi, như các bạn khác mê đá
banh trong xóm lao động ở Bàn Cờ, Quận III, sau giờ học, buổi chiều anh em chúng tôi
thích mang banh ra các sân cỏ gần nhà đá với nhau, tôi luôn canh đến giờ Mẹ tôi tan sở thì
mới chạy vội về, làm ra vẻ như đang ngồi học bài chăm chỉ.
Mỗi khi có tin các đội tuyển túc cầu lừng danh đến Việt Nam đấu giao hữu, anh em trong
xóm háo hức trông đợi, đến ngày so tài, kẻ đi xe đạp, người bám theo xe bus hay chạy bộ
tới sân vận động Cộng Hoà ở đường Nguyễn Kim, trong Chợ Lớn.
Sân vận động Cộng Hòa
Vì không có tiền mua vé vào cửa, nên bọn trẻ trong xóm chúng tôi tìm những lỗ hổng bên
bờ tường, vạch giây kẽm gai chui vào sân, có khi rách toạt cả áo, nếu không chen vào được
thì thay phiên nhau leo lên cây cao, theo dõi những pha “thần sầu, quỷ khóc”. Nhiều lúc
may mắn lọt được vào sân cỏ, chạy ra ngồi hàng đầu để xem rõ tận mắt trận đấu hào hứng,
nhưng chỉ trong phúc chốc đám đông bọn trẻ chúng tôi bị xe môtô của cảnh sát công lộ
đẩy lui, không cho tràn ra sân, gây mất trật tự.
Hầu như cả Miền Nam đều say mê giọng tường thuật sôi nổi khi diễn ra các trận đấu túc
cầu quốc tế do Bác Huyền Vũ, Ký Giả Thể Thao trực tiếp truyền đạt qua đài phát thanh
Saigon, ông có trí nhớ phi thường, với giọng nói có sức thu hút đặc biệt, kỳ lạ, ông kể tên
thông thạo tất cả các cầu thủ ngoại quốc từ khắp năm châu, dù họ mới ra sân cỏ lần đầu.
Nghe ông dẫn giải, theo dõi từng đường banh, cú sút, quả phạt đền, khiến người nghe có
cảm tưởng như đang ngồi ở sân banh, hồi hộp muốn đứt tim, nghẹt thở, nhất là những
người đã lỡ nộp tiền cá cược, lo cháy sạch túi.
Báo chí Saigon khi nhắc đến ông thì gọi Bác Huyền Vũ là “ Từ điển sống”, “Vua nói”,
Huyền Vũ là nhà tường thuật trực tiếp, nhà bình luận đá banh số 1 của Việt Nam qua mọi
thời đại, giúp người coi đá banh bằng tai…
Nhờ tham gia vào sinh hoạt của Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam, tôi được cấp thẻ thường
trực ra vào khán đài danh dự và chỗ ngồi chính thức mỗi khi có các trận tranh tài quốc nội
và quốc tế, được tới sát bên Bác Huyền Vũ lúc ông tường thuật qua radio cho cả nước
nghe. Tôi cũng được dịp làm quen với các nhà dìu đắt, trọng tài, thủ quân, thủ môn biết rõ
thành phần các đội tuyển hạng A, B, C và luật lệ giao đấu trên sân cỏ.
Sau này khi đến Mỹ làm việc năm 1997, có lần chúng tôi cùng đi với các anh Lê Thiệp,
Phạm Trần và Nguyễn Văn Toàn đến tư gia ở thành phố New Port News, Virginia, thăm
Papa Huyền Vũ (tên thật là Nguyễn Ngọc Nhung) . Trong dịp lễ vinh danh, mừng sinh
nhật thứ 85 của bác (năm 1999), tổ chức tại Saigon House, anh Thiên Ân, anh Huy
Phương và tôi được giao đọc những bài nhắc lại cuộc đời và sự đóng góp vô biên của bác
Huyền Vũ cho nền túc cầu Việt Nam Cộng Hòa.
Bác Huyền Vũ đứng trước micro, từ trái qua phải:
Cầu thủ Đỗ Quang Thách, ông Võ Văn Ứng, Chủ Tịch Tổng Cục Túc Cầu Việt Nam, Ký
Giả Thiệu Võ, ông Đinh Văn Ngọc, Chủ Tịch Ủy Hội Thể Thao Quốc Gia
(Hình chụp cách đây 50 năm và do gia đình Bác Huyền Vũ cung cấp)
Bác Huyền Vũ đã vĩnh viễn ra đi năm 2005, hưởng thọ 91 tuổi, nhắc đến ông tôi có kể lại
với chị Mai, anh Dũng, bạn Kiệt, bạn Bảo là những người con của Bác rằng thuở nhỏ, lắm
lúc bác tường thuật, bọn trẻ nhỏ chúng tôi ngồi trên sân cỏ, nghe loa phóng thanh qua
radio, khi bác hét lớn “Sút banh vào” thì cũng duỗi chân đạp mạnh vào người ngồi trước,
có khi vì mừng quá, kết quả như ý, cũng vô tình cung tay thoi thình thịch vào lưng mấy
thằng bạn khác.
Ký giả lão thành, Papa Huyền Vũ (1914-2005)
Sau trên 50 năm phục vụ quần chúng và làng thể thao Miền Nam, Bác Huyền Vũ đã ngơi
nghỉ, nhưng những lời tường thuật hào hứng, sôi nổi, nóng bỏng, có một không hai của
Bác, từ các sân cỏ nơi quê nhà thuở trước vẫn còn vang vọng trong tâm tư, ký ức những
người yêu thích túc cầu và mến mộ ký giả thao trường lừng danh Papa Huyền Vũ.
Cựu Trung Tá Văn Quang , Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội nói, không ai có thể thay
thế được “Thiên Tài Huyền Vũ”. Ông tường thuật từ cầu trường là khán thính giả “vừa
được nghe, vừa xem đá banh”
Báo chí Saigon thời đó gọi ký giả Thể thao Huyền Vũ là Linh Hồn của những trận túc cầu.
Còn nhà báo Thiên Ân (VOA) thì nói nỗi háo hức được xem nhồi bóng chưa chắc đã mạnh
hơn so với nỗi háo hức được nghe lời tường thuật sang sảng, hấp dẫn của ông Huyền Vũ.
Người ta vẫn nhớ rõ là có rất nhiều khán giả ngồi trong vận động trường mà vẫn thích áp
sát tai vào cái radio để nghe lời tường thuật bén nhạy của ông.
Ông còn là một nhà văn, nhà báo, nhà soạn kịch. Năm 1988, ông ra mắt cuốn hồi ký “Tôi
làm ký giả thể thao”.
Ông từ trần ở tuổi 90 lúc sáng ngày 24 tháng 8 năm 2005 tại thành phố New Port News,
Virginia, cách thủ đô Washington DC ba giờ lái xe. Ông bà có tất cả 8 người con, 6 trai, 2
gái, 19 cháu nội, ngoại và 13 cháu cố. Anh Quốc Bảo, một trong những người con trai của
ông bà Huyền Vũ cho biết hiện nay số cháu nội, ngoại và cháu cố đã tăng gấp hai lần.
Năm 1980, một người đệ tử của bác là Đại Uý Nguyễn Văn Anh, thuộc Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị, bị nhốt chung với chúng tôi trong ngục tù cộng sản ở vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh. Anh là một người đa năng, đa tài, chơi thể thao rất giỏi, nhưng khi tường
thuật túc cầu anh vẫn không thể nào so sánh được với sư phụ của anh là ký giả lão thành
Huyền Vũ, luôn được hàng chục triệu người dân Miền Nam Việt Nam Tự Do mãi yêu
mến.
Hình do cựu cầu thủ đội tuyển Quốc Gia-Chiến Hữu Không Quân Quang Đức Vĩnh (đứng
bên trái cựu cầu thủ nổi tiếng thế giới Pelé của Ba Tây) tặng
Đào Hiếu Thảo/ Th2
Lễ cầu nguyện nạn nhân Covid 19
Đào Hiếu Thảo
Vào lúc 4 giờ chiều chủ nhật 12 tháng 9 năm 2021 tại Mason District Park thuộc thành phố
Annandale, Virgina một buổi lễ cầu nguyện cho nạn nhân Covid 19 tại Việt Nam, Hoa Kỳ
và trên thế giới đã được tổ chức trang trọng.
Sau lễ chào quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa do ông Hà Văn Sang phụ trách là nghi
lễ khai đàn thắp nến cầu nguyện, dâng hương trước Bàn Thờ Tổ Quốc Việt Nam và Phút
Mặc Niệm.
Anh Hoàng Vi Kha, đại diện Nhóm Khởi Xướng chào mừng, cảm tạ quan khách, sơ lược
diễn tiến buổi sinh hoạt và tóm tắt tình trạng đại dịch Covid 19 không lối thoát tại Việt
Nam hiện giờ, trong khi nhà cầm quyền cộng sản không đề ra biện pháp ngăn chặn hữu
hiệu nào.
Anh chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân, năm 17 tuổi trong chuyến vượt biển tìm tự do sau
tháng tư đen năm 1975, khi chiếc tàu mong manh mất phương hướng, gặp nguy hiểm, có
thể chìm và cái chết cận kề, mọi người đọc kinh, cầu nguyện theo tôn giáo của mình với hy
vọng được Ơn Trên cứu vớt. Thình lình từ trên cao một vệt sáng kỳ diệu chiếu thẳng
xuống con tàu “Đồng Bào” cùng reo to “Cứ đi theo hướng ấy” rồi chẳng bao lâu, trời yên,
bể lặng giúp con thuyền cặp vào đất liền an toàn. Thế mới cảm được sự vạn năng
của đức tin và lời nguyện cầu!
Phát biểu của anh Hoàng Vi Kha do cô Jennifer Nguyễn lược dịch sang Anh Ngữ.
Để dâng lời cầu nguyện cho đất nước mình, anh La Tuấn Anh đã sáng tác và trình bày
nhạc phẩm “Gói Ân Tình Cho Quê Hương”.
Tiếp theo là lễ cầu nguyện liên tôn giáo theo mẫu tự Anh Ngữ:
Đại Diện Phật Giáo: Đại Đức Thích Giác Dũng, Đại Đức Thích Kim Chương Chùa Giác
Nguyên, Đại Đức Thích Chỉnh Long, Đại Đức Thích Pháp Trì , Chùa Hoa Nghiêm.
Đại Diện Cao Đài: Hiền Tài Phan Văn Ba - Hội Trưởng Cao Đài Foundation Vùng Hoa
Thịnh Đốn, ông Võ Thành Nhân - Phó Hội Trưởng Đặc Trách Xây Cất Thánh Thất, ông
Ngô Văn Tú - Thư Ký, cô Trần Ngọc Thảo - Thủ Quỹ.
Đại Diện Thiên Chúa Giáo: Thầy Phó Tế Nguyễn Thanh Nguyên, đại diện Giáo Xứ Mẹ
Việt Nam Maryland.
Đại Diện Tin Lành: Mục Sư Phan Đức Hiếu, Quản Nhiệm Hội Thánh Tin Lành Giám Lý
Việt Mỹ, Arlington, Virginia.
Chương trình được tiếp nối là phần hiệp sức cầu nguyện an lành cho các nhân viên y tế,
cứu nạn, ở tuyến đầu trong công tác ngăn chống dịch bệnh và các nhân viên cảnh sát.
Video thắp nến cầu nguyện của những bằng hữu từ xa được chiếu lên màn hình có ông Tạ
Đức Trí - Thị Trưởng Westmintser, California, ông bà Nguyễn Ngọc Duy & Hân -
Toronto, Canada, ông bà Thành & Vi từ Sydney, Australia.
Anh Nguyễn Nguyên trình bày “Ca Khúc Kinh Cầu Cho Thế Giới”, các đồng
hương hiện diện thắp nến tưởng niệm, chụp ảnh để lưu lại ngày còn có dịp cùng nhau đến
dự một buổi lễ cầu nguyện đầy ý nghĩa và chia tay ra về lúc 6 giờ chiều.
Buổi lễ được Truyền Hình Việt Nam Hoa Thịnh Đốn phát hình trực tiếp qua Facebook.
Đài VIETV, VOA, báo Đời Nay và Thương Mãi Miền Đông VA thực hiện phóng sự và có
bài tường thuật đến quý khán, thính giả.
Th2
Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam tại quốc hội Hoa Kỳ
SỰ ĐỜI
VẾT THƯƠNG CHƯA LÀNH
Phiếm của LÃO QUÁN
(Trích Báo Saigon Nhỏ, San Jose, California, Hoa Kỳ, ngày 22 tháng 8 năm 2003)
Vụ Bùi Đình Thi đã khơi lại những vết thương tưởng đã lành nhưng thật ra vẫn còn rỉ máu.
Năm 1993, Saigon Nhỏ là tờ báo đầu tiên ở hải ngoại đăng những dòng ghi lại sự việc xảy
ra tại trại Thanh Cẩm vào tháng 5 năm 1979 của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, qua một thân
hữu ở Philadelphia, ghi lại hai cái chết đau đớn của cựu dân biểu Đặng Văn Tiếp và ông
Lâm Thành Văn, một bị đánh và một bị bỏ đói tới chết. Ba nạn nhân bị đánh đập tàn nhẫn
là Cựu Đại Tá Trịnh Tiếu ( đã qua đời tại Hoa Kỳ), giáo sư Nguyễn Sĩ Thuyên và Linh
Mục Nguyễn Hữu Lễ, người kể chuyện.
Nhiều người đã quên chuyện Bùi Đình Thi, nhưng chắc chắn ai đã là nạn nhân của Bùi
Đình Thi hay những sự việc tương tự, đều không thể quên dược. Cha Nguyễn Hữu Lễ
tuyên bố tha thứ cho Thi, nhưng không thể xóa nhòa trong ký ức tấn thảm kịch ấy được.
Cha nói :" Làm sao bạn quên được khuôn mặt kẻ đã đánh bạn đến đổ máu ?" Đó là chưa
nói đến chuyện Thi đã đạp vào ngực cha và kéo lê cha đi như một con vật lên những bậc
cấp của phòng giam.
Nhà Phật đã nói rằng: " Lấy oán báo oán, oán chồng chất - Lấy ân báo oán, oán tiêu tan".
Đối với vụ Bùi Đình Thi, có lẽ nhiều người không trải qua những hoàn cảnh đó hoặc
không là nạn nhân trực tiếp của vụ này, đã nói tới việc tha thứ. Mặc dù câu chuyện đã xẩy
ra gần hai mươi lăm năm, một thời gian quá dài để những vết thương thân thể lành lặn,
nhưng liệu những vết thương tâm hồn có còn đau đớn không. Huống chi, hậu quả của
những trận đòn chí tử này, giờ đây khi trái gió trở trời còn để lại nỗi đau đớn cho các nạn
nhân.
Nếu Bùi Đình Thi đã qua đời hay hiện nay còn ở lại Việt Nam, có lẽ dư luận và ngay cả
nạn nhân dễ dàng nói tới việc tha thứ. Nhưng cựu đại úy Bùi Đình Thi, cựu tù nhân cải tạo
có đủ thời gian tiêu chuẩn " bị bạc đãi, kỳ thị" trong nhà tù để người Mỹ chấp nhận cho
vào định cư tại Hoa Kỳ với toàn thể gia đình, dưới danh nghĩa "tỵ nạn Cộng Sản", hưởng
các qui chế dành cho người tỵ nạn như trợ cấp xã hội, y tế... như trăm nghìn người cựu tù
nhân, những cựu nhân viên của chế độ VNCH khốn khổ khác, điều ấy có công bằng hay
không? Và, Bùi Đình Thi, một con chiên, còn chút lương tâm để hối hận ăn năn không ?
Nếu Bùi Đình Thi công khai trong dư luận, nhận lỗi lầm của mình và nói một lời xin lỗi
với các nạn nhân cùng gia đình, anh em chiến hữu, tất cả sẽ sẵn sàng quên đi quá khứ và
chúng ta tin rằng sẽ không có vụ Bùi Đình Thi ra tòa hay bị trục xuất. Tuy nhiên, Thi vẫn
không nhận lỗi lầm và tội ác của mình và nghĩ rằng anh có thể sống đến cuối đời một cách
yên ổn trên đất "tỵ nạn" như những người tỵ nạn chúng ta vậy.
Là một trong những nạn nhân của Bùi Đình Thi, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ chưa
nhận được một lời xin lỗi nào của Thi. Trước sau Bùi Đình Thi phủ nhận tội ác của mình
và cho rằng anh ta chỉ hành động theo chỉ thị của của kẻ tù ( quản giáo hay bộ chỉ huy trại
tù). Ở đây chúng ta cũng không quên nói tới gia đình và con cái vô tội của Bùi Đình Thi.
Họ cũng là nạn nhân, không có trách nhiệm hay biết gì về những hành động của Bùi Đình
Thi trong tù và chắc chắn họ rất đau đớn vì những búa rìu dư luận rơi xuống chồng, cha
của họ. Ở trong trại tù, thỉnh thoảng trên đường đi lao động, các tù nhân nhận diện ra vợ
của những tên làm"ăng ten" trong tù, họ thường nói những lời nhắn gởi khá phũ phàng như
:" Chị ơi, chị về đi, tiếp tế làm chi cho cho thằng X., nó ăn cho mập xác, nó làm "ăng
ten"trong trại !". Những người vợ đau khổ này chỉ biết tủi hổ, che nón cúi mặt mà đi. Thật
ra, những người vợ này đâu có mang tội tình gì.
Kinh nghiệm qua các trại "cải tạo", chúng ta thấy thường thường các đội trưởng và ban thi
đua đã có những hành động trên sự mong muốn của các tên cai tù. Chúng là những người
yếu đuối. Lý do của chúng là để được sự tán thưởng, được chút đặc quyền ( nhàn nhã, khỏi
lao động), đặc lợi ( nhiều phiếu nhận quà, thăm nuôi lâu hơn - có khi lại được ngủ với vợ
qua đêm tại căn nhà gọi là nhà hạnh phúc). Chúng ta cũng công bình thấy rằng việc chọn
đội trưởng hay thi đua nhiều khi chỉ là việc tùy nghi, tình cờ chứ không căn cứ vào lý lịch
hay sự đề bạt, nhưng khốn nạn thay là những "chức sắc" này lại cung cúc tận tụy, thường
là làm vừa lòng bọn cai tù. Nhưng có phải ai đã là đội trưởng thi đua cũng độc ác, tàn nhẫn
không ?
Nhiều đội trưởng, thi đua cũng có đủ đạo đức và sự khôn ngoan để dung hòa quyền lợi của
bạn tù và bọn cai tù, nhưng đây chỉ là số ít. Tôi nêu lên đây trường hợp của anh Văn huy
Hồng, nếu tôi không nhớ lầm tên, tham mưu phó CTCT Biên Hòa, khi anh là một đội
trưởng đội tù ở trại 6 Yên Báy năm 1977. Hôm ấy trong lán có bạn Bùi Văn Sét ( về sau bị
tai nạn lao động chết ở trại 1) bị ốm, đội trưởng cho Sét nằm nhàvà chỉ báo cáo với cán bộ
trực trại trước khi xuất trại đi làm. Trại lâu nay vẫn cho là Hồng quá dễ dãi với tù, ngay
chiều hôm đó cho thay đội trưởng khác. Đào Hiếu Thảo ở Không Quân, làm thi đua ở trại
2 Bắc Thái, được coi như là một thi đua tốt với anh em nhờ đức tính mềm mỏng, khéo léo.
Lúc ấy vào mùa đông, trại không phát ăn sáng, thấy anh em trong ban văn nghệ đói quá,
Thảo xuống bếp xin một ít sắn nói là để khuấy hồ dán phông sân khấu, giả nát quậy cho
anh em mỗi người một chén. Anh em được bữa lót lòng hi hữu giữ mùa rét Bắc Thái,
nhưng sau đó Thảo bị "cán bộ giáo dục" xài xể hết cỡ.
Ở trong trại tù Cộng Sản từ năm 1975 cho đến 1990, nhiều người đã là nạn nhân của
những đội trưởng mẫn cán với cai tù. Lấy cớ là đội viên chây lười lao động, khiêng vác ít,
làm không đạt chỉ tiêu do trại định ( trong cái đói và lạnh của miền Bắc) đã thẳng tay đánh
đập anh em tàn nhẫn trước mắt cán bộ quản giáo. Các cán bộ này không can thiệp, đương
nhiên đắc chí là đã chọn đúng người làm một thứ "đại bàng" hay "đại ca" trong tù. ( Suốt
những năm ở tù, chúng tôi chưa thấy cán bộ CS nào dánh tù vì không đạt chỉ tiêu hay dù
có lười biếng lao động đi nữa). Trong sinh hoạt hằng ngày thì phe đảng, kỳ thị, chưởi bới,
nhục mạ bạn tù. Trong các buổi "ngồi đồng"( kiểm thảo) buổi tối, những đội trưởng độc ác
thường lèo lái cho anh em tố cáo nhau, chỉ trích nhau, kéo dài thời gian cho đến khi đạt
mục đích ( tìm ra người phát ngôn bừa bãi, chây lười lao động hay không an tâm,
tin tưởng vào Đảng và Nhà Nước để ghi vào biên bản !!! ).
Sẽ không có những anh em tự tử trong tù, nếu thực sự không có những màn đấu tố, áp đảo
tinh thần nhau trong nhà tù đến nỗi làm cho tinh thần nhiều người sa sút, kiệt quệ. Một sự
thật là chúng ta- khi có cơ hội- độc ác với nhau còn hơn cả kẻ thù.
Đã mười năm qua, khi đọc lại những lời tường thuật sự việc Bùi Đình Thi, lòng chúng ta
không khỏi đau đớn, tức giận cho hành động của một chiến hữu đã đối xử với anh em quá
tàn bạo trong cảnh lao tù nghiệt ngã. Là nạn nhân của những trường hợp tương tự, khi bạn
bè chúng ta làm đội trưởng, làm thi đua, vì chút quyền lợi nhỏ nhoi đã không những đứng
về phía kẻ thù, mà còn độc ác tàn nhẫn hơn kẻ thù, ra sức hành hạ áp bức tinh thần bạn tu,
thậm chí còn đánh đập anh em tàn nhẫn. Những việc ấy vì không gây ra chuyện chết
người, hoặc chỉ gây ra chuyện chết người một cách gián tiếp, lần lượt qua thời gian, có
người tha thứ, có người lãng quên. Nhưng sự việc Bùi Đình Thi bị bắt, qua một thời gian
dài" nín thở qua sông", trong sự nhục nhã vì sống chui nhủi không dám nhìn mặt anh em,
chiến hữu trong suốt thời gian định cư tại Mỹ, đã gần như khơi lại nỗi đau của những anh
em đã là nạn nhân những vụ tương tự ở trong nhà tù Cộng Sản.
Những người đã có những hành động độc ác tàn nhẫn với anh em bạn tù, mặc dù không có
lời tố cáo, không bị pháp luật can thiệp nhưng những nạn nhân của họ không bao giờ quên
được, vẫn nhớ mặt và khinh bỉ những kẻ đã táng tận lương tâm, nên lấy đây làm một bài
học, tự vấn lương tâm, tu tĩnh, đừng bao giờ tưởng trời không có mắt, dương dương tự đắc
vì cho rằng ở đâu, chúng vẫn là người được đặc quyền đặc lợi, sống trên sự đau khổ của
người khác, và xem việc hành hạ bạn tù như một thú vui của mình.
LÃO QUÁN
Xin thành kính tưởng niệm Huynh Trưởng Huy Phương Lê Nghiêm Kính ( Lão Quán )
1937-2022
Cầu nguyện Hương Linh Trưởng Thiện Bảo Lê Nghiêm Kính vãn sinh Cõi Vĩnh Hằng, An
Lạc
Một bạn tù của Chiến Hữu Huy Phương qua các trại lao động khổ sai ở hai miền Nam Bắc
sau tháng tư đen 1975: Hóc Môn, Long Giao, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Nghệ Tĩnh
Đào Hiếu Thảo
Lễ Thượng Kỳ Đầu Xuân Nhâm Dần 2022
Đào Hiếu Thảo
Cộng Đồng Việt Nam Washington DC, Maryland và Virginia cùng Liên Hội cựu Chiến Sĩ
Việt Nam Cộng Hòa Vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức Lễ thượng kỳ đầu năm vào trưa thứ ba
mùng một tháng Giêng năm Nhâm Dần nhằm ngày 1 tháng 2 năm 2022 tại kỳ đài Trung
Tâm Thương Mại Eden, trong thành phố Falls Church, VA. Số quan khách và đồng hương
hiện diện lên đến 600 người.
Trong phần khai mạc, Ban Tổ Chức chào mừng quan khách và cảm tạ hai ân nhân Hậu
Duệ Hải Quân VNCH đã qua Liên Hội tặng 5 bộ cờ Hoa Kỳ & Việt Nam Cộng Hòa đến
Cộng Đồng để treo suốt năm tại kỳ đài Eden.
Nghi thức chào Quốc Kỳ và phút Mặc Niệm được cử hành do các cựu quân nhân
Hải, Lục, Không Quân QLVNCH phụ trách.
Tiếp theo, với ba hồi chiêng trống vang rền, đại diện cộng đồng, liên hội cùng các quan
khách và dân cử người Mỹ Niệm Hương trước Bàn Thờ Tổ Quốc.
Ban Tổ Chức ghi nhận sự hiện diện của:
Bà Nguyễn Thị Bé Bảy, Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Nữ Quân Nhân, ông Nguyễn Văn
Hào Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Biệt Động Quân QLVNCH. Cô Phan Anh, Đại Diện
Thượng Nghĩ Sĩ Mark Warner, bà Rachel Reibach, Đại Diện Thượng Nghĩ Sĩ Tim Kaine,
Dân Biểu Gerald Connolly, Dân Biểu Don Beyer, Thị Trưởng David Tarter (Falls Church),
ông Alan Frank ( Giám Đốc Trung Tâm Eden) và Sheriff Stacy Kincaid…