The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Flipbook Hồi Ký DUYÊN và NGHIỆP Tập II của Đào Hiếu Thảo

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2022-03-06 16:43:23

Hồi Ký DUYÊN và NGHIỆP Tập II của Đào Hiếu Thảo

Flipbook Hồi Ký DUYÊN và NGHIỆP Tập II của Đào Hiếu Thảo

Sau phát biểu và chúc Tết của ông Lý Thanh Phi Bảo, Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam
Vùng Washington DC, Maryland & Virginia, ông Đoàn Hữu Định, Đại Diện Liên Hội cựu
Chiến Sĩ VNCH Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận cùng các quan khách Mỹ là phần múa
lân, đốt pháo và tặng quà Xuân.



Buổi lễ kết thúc lúc 1 G 30 trưa trong không khí vui tươi của ngày mồng một Tết Nguyên
đán Nhâm Dần, dù lạnh buốt nhưng trời thì trong xanh và nắng rất đẹp. Từ hơn hai năm
qua trong suốt mùa đại dịch Covid 19, đây là lần đầu tiên một sinh hoạt cộng đồng long
trọng được quý vị đồng hương và những người bạn Mỹ hương ứng nồng nhiệt.

Chương trình do bà Nguyễn Bạch Mai, ông Bùi Mạnh Hùng và ông Trần Hồng Minh điều
hợp.
TNVNHTĐ đã chuyển hình ảnh buổi lễ đến khán thính giả khắp nơi qua Facebook

(Hình ảnh: Nguyễn Quang Dũng)



Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An năm thứ 165

Đào Hiếu Thảo

Lễ tưởng niệm Đức Phật Thầy Tây An năm thứ 165 được long trọng cử hành vào trưa chủ
nhật 19 tháng 9 năm 2021 tại An Hòa Tự, trụ sở của Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo Vùng
Washington DC đặt tại thành phố Silverspring, Maryland.

Chương trình khai mạc với lễ chào quốc Kỳ Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng
Hòa và Phút Mặc Niệm do MC Duy Linh phụ trách. Tiếp theo là phần giới thiệu quan
khách và đại diện truyền thông báo chí.
Ông Hà Nhân Sinh, Hội Trưởng Ban Trị Sự chào mừng quan khách đồng thời nhắc nhớ
công đức Phật Thầy Tây An cứu người chữa bệnh cho bá tánh, dìu dắt chúng sinh hướng
thiện theo giáo lý tu hiền của Đạo Phật. Ngài là vị khai sáng dòng phái Bửu Sơn Kỳ
Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Hàng năm vào ngày 12 tháng 8 âm lịch, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, sinh sống bất cứ
nơi đâu và trong hoàn cảnh nào cũng cử hành trọng thể Lễ Vía của Ngài hầu đền đáp Tứ
Đại Trọng Ân ( ân tổ tiên-cha mẹ, ân quốc vương-thủy thổ, ân tam bảo, ân đồng bào-nhân
loại) mà Ngài đã dày công hoằng pháp.
Sau đó là phần hành lễ theo nghi thức Phật Giáo Hòa Hảo do ông Phan Ngọc Hân phụ
trách.
Về ý nghĩa của Lễ Vía hôm nay, ông Phan Nhất Lĩnh, Phó Hội Trưởng Ban Trị Sự tin
rằng khi nhân tâm điên đảo, sanh linh lầm than, vận nước lâm nguy thì có bậc Thánh Nhân

ra đời. Đức Phật Thầy Tây An sanh giờ Ngọ ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão
(1807) vào Niên Hiệu Gia Long thứ 8, thế danh là Đoàn Minh Huyên, người làng Tòng
Sơn, xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, Sa Đéc nay là tỉnh Đồng Tháp.
Mùa thu năm Kỷ Dậu (1849), bệnh thời khí hoành hành dữ dội trong dân gian, số người
mắc bệnh dịch chết rất nhiều, lương y, pháp sư đều bó tay, lòng dân xao xuyến, âu lo. Lúc
ấy Phật Thầy tại chùa Tây An xuất hiện trị bệnh, cứu người, truyền dạy cách tu mới, đơn
giản hóa nghi thức tu hành, không cần ăn chay, xuống tóc, đó là Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
nên Ngài được mọi người tôn vinh là Phật Thầy Tây An. Ngoài là một người tu sĩ có tài trị
bệnh giỏi, Ngài còn là một người yêu nước, một nhà dinh điền, có công lớn trong việc vận
động, hướng dẫn nhà nông khai hoang, đào kênh, xẻ rạch, tạo ấp, lập làng, xây dựng cuộc
sống an cư, lạc nghiệp cho người dân trong vùng.
Ngài viên tịch ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn nhằm ngày 10 tháng 9 năm 1856. Hưởng
dương 50 tuổi. Phần mộ của Phật Thầy hiện vẫn nằm tại Chùa Tây An, phường Núi Sam,
thành phố Châu Đốc.
Chương trình được tiếp nối với phần Thi Văn Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo do cô Hiền
Trịnh diễn ngâm, sau phần phát biểu cảm tưởng của ông Đỗ Hiếu, cựu phóng viên Đài Á
Châu Tự Do là tự do lễ bái, văn nghệ giúp vui và chụp ảnh lưu niệm.

Buổi lễ hoàn mãn vào lúc hai giờ trưa sau bữa cơm chay thân mật.

Truyền Hình Việt Nam Vùng Hoa Thịnh Đốn trực tiếp phát hình qua Facebook &

YouTube. Tuần báo Đời Nay & Thương Mãi Miền Đông VA có bài tường thuật đến đọc

giả gần xa. Th2

Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa năm thứ 56 tại Virginia

Đào Hiếu Thảo

Lễ Truy Điệu Quân, Dân, Cán, Chính nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
năm thứ 56 (1965-2021) do Liên Hội cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Vùng Hoa Thịnh
Đốn tổ chức vào tối thứ sáu 18 tháng 6 năm 2021 tại kỳ đài trong trung tâm thương mại
Eden, Falls Church, Virginia.

Theo truyền thống thì mỗi năm, Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 và từ năm 2002 cũng
là Freedom Fighters Day tức là Ngày Chiến Sĩ Tự Do của tiểu bang Virginia, thường được
long trọng tổ chức trong hai ngày. Đêm hôm trước là Lễ Truy Điệu, hôm sau cử hành lễ
chào quốc kỳ và diễn hành trong khu vực thương xá Eden.
Vì ảnh hưởng của đại dịch cúm Covid 19, năm 2020 công tác này đã không thực hiện
được. Năm nay, kỷ niệm 56 năm Ngày Quân Lực được thu gọn với Lễ Truy Điệu Chiến
Sĩ trận vong và Đồng Bào tử nạn.
Ông Nguyễn Minh Toàn, Trưởng Ban Tổ Chức chào mừng quan khách và tuyên bố khai
mạc buổi lễ. Tiếp theo là lễ chào quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và phút mặc niệm
với toán Quốc Quân Kỳ do Liên Hội cựu Chiến Sĩ VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn phụ trách
và sự tham gia của các “Bà Mẹ Việt Nam” trong áo dài vàng, áo dài xanh của “Nữ Cư An
Tư Nguy” và Hội Ái Hữu Đồng Hương Saigon-Gia Định.

Sau ba hồi chiêng trống khai lễ là nghi thức đặt Quân Kỳ Rũ tưởng niệm Anh Linh các
Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vị quốc vong thân.
Tiếp theo là Lễ đặt Vòng Hoa tưởng niệm anh hùng, nữ kiệt đã hy sinh vì Chánh Nghĩa
Quốc Gia và Dân Tộc do ông Đoàn Hữu Định, Đại Diện Liên Hội cựu Chiến Sĩ VNCH
Vùng Hoa Thịnh Đốn và ông Nguyễn Văn Hào, Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Biệt Động
Quân tiến hành.
Kế đó, Hậu Duệ Nhất Lĩnh đọc Văn Tế Truy Điệu Chiến Sĩ Trận Vong.
Liên tục chương trình là Lễ Dâng Hương tưởng niệm Chiến Sĩ trận vong và Đồng Bào tử
nạn.
Ông Đoàn Hữu Định thay mặt Liên Hội Cựu Chiến Sĩ phát biểu cảm tưởng về ý nghĩa
Ngày Quân Lực 19 tháng 6.
Lễ Truy Điệu hoàn tất vào lúc 9 giờ đêm sau các tiết mục văn nghệ đấu tranh do Ban Văn
Nghệ của Hội Ái Hữu Đồng Hương Saigon-Gia Định cùng các thân hữu phụ trách với các
ca khúc quen thuộc về Đời Lính: “Xuất Quân”, “Trên Đầu Súng Quê Hương”, “Trên Bốn
Vùng Chiến Thuật”, “Ngỏ Hồn Qua Đêm” và “Thề Chiến Thắng Quân Thù”.
Xin nhắc lại, cách đây đúng 56 năm, ngày 19 tháng 6 năm 1965, tập thể Chiến Sĩ
QLVNCH chính thức đảm nhận trọng trách mà Tổ Quốc giao phó về quốc phòng và hành
chánh để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, ngăn chống mưu mô xâm lược của cộng sản Bắc
Việt hiếu chiến, bình định và phát triển Miền Nam chúng ta thành một quốc gia hưng thịnh
trong hoàn cảnh chinh chiến triền miền.

Chính thể Cộng Hòa và Quân Lực VNCH không còn từ sau tháng tư đen năm 1975
nhưng Lá Cờ Vàng Chính Nghĩa vẫn hiện hữu trong tâm lòng của các con dân Nước Việt
khắp năm châu.
Dù bị xóa tên trên bản đồ thế giới từ 46 năm qua, nhưng những thành tích bảo quốc, an
dân đã thu phục lòng người và những công trình nhân bản tốt đẹp trong các lãnh vực văn
hóa, nghệ thuật của chính thể Cộng Hòa để lại cho dân tộc Việt còn mãi đến nay và sẽ lưu
truyền cho các thế hệ mai sau.
Ngày 19 tháng 6 hàng năm, cộng đồng Người Việt Quốc Gia tỵ nạn khắp nơi trên thế giới
vẫn long trọng tổ chức sự kiện lịch sử trọng đại này để tri ân các Chiến Sĩ VNCH đã hy
sinh vì Chánh Nghĩa trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự Do.
Khẩu hiệu “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách nhiệm” vẫn là phương châm, kim chỉ nam cho các
cựu quân nhân QLVNCH đã kiên cường chiến đấu bảo vệ Miền Nam Tự Do trong cuộc
chiến Quốc-Cộng. Những nguyên tắc ấy cũng được áp dụng trong mọi sinh hoạt trên quê
hương mới, sao cho xứng đáng với truyền thống và tư cách của người lính Cộng Hòa
thường xuyên góp phần tích cực vào các sinh hoạt chung của cộng đồng Người Việt Quốc
Gia trong công cuộc vận động tự do, dân chủ, nhân quyền cho Quê Nhà.
Dịp này, Ban Tổ Chức có lời cám ơn sâu xa nhứt đến quý Niên Trưởng, quý Chiến Hữu,
quý Bằng Hữu đã đóng góp sáng kiến, công sức, thời giờ tổ chức Lễ Truy Điệu và các cơ
quan truyền thông báo chí đã phổ biến rộng rãi tin tức, hình ảnh của chương trình sinh hoạt
này trong hoàn cảnh khó khăn do đại dịch cúm Tàu gây ra.
Lên tiếng với báo chí, ông Đoàn Hữu Định, Đại Diện Liên Hội cựu Chiến Sĩ VNCH Vùng
Hoa Thịnh Đốn trình bày ý nghĩa Ngày Quân Lực 19 tháng 6. Ông cũng loan báo về một
số sinh hoạt sẽ được tổ chức trở lại trong những ngày tới. Dịp này, ông có lời tưởng nhớ
đến các vị Niên Trưởng đã vĩnh viễn xa cách gia đình và bằng hữu trong năm qua.
Ông Nguyễn Minh Toàn, Trưởng Ban Tổ Chức nhắc lại sứ mạng của Quân Lực VNCH
được toàn dân trao cho vào năm 1965 để ngăn chống Cộng sản Bắc Việt xâm lược, bảo vệ
đất nước và phát triển xứ sở trên các lãnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, xây dựng cuộc
sống hòa bình, thịnh vượng tại Miền Nam.
Bà Nguyễn Quang Dũng, một người thường xuyên tham gia các sinh hoạt Cộng Đồng nói
“người dân Miền Nam trước đây đã đặt trọn vẹn niềm tin vào Quân Lực VNCH trong sứ
mạng Vì Dân, Trừ Bạo”. Bà còn nhấn mạnh, lễ Truy Điệu hôm nay là buổi họp mặt đầu
tiên được tổ chức sau hơn một năm phải ngồi nhà, mọi sinh hoạt bị hủy bỏ vì đại dịch
Covid 19, đây là một dấu hiệu phấn khởi, báo trước cuộc sống bình thường sẽ sớm tái lập

nhờ các biện pháp kiểm soát dịch cúm Tàu được nới lỏng.

Th2

Biểu tình chống lãnh đạo cộng sản Hà Nội, trước Bạch Cung

Đêm Không Gian tại VA

Những chuyện không thể quên

Hành nghề tư ngoài giờ công vụ / Saigon 1971-1975
Xướng ngôn viên hệ thống phát thanh & truyền hình Quốc Gia

Đào Hiếu Thảo

Tết Mậu Thân năm 1968 cộng sản Hà Nội đã âm mưu huy động hàng chục sư đoàn chính
quy, tung vào Miền Nam mở cuộc tấn công trên khắp các đô tỉnh thị. Sau đợt “tổng công
kích” này, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ban hành lệnh tổng động viên. Hầu hết thành
phần trí thức, chuyên viên đều được gọi nhập ngũ, tái ngũ, trưng tập, trong đó có rất nhiều
nhân sự cốt cán, cần thiết cho xã hội Miền Nam vào thời điểm ấy.
Trước nhu cầu phụng sự cho công cuộc tái thiết, phát triển và ổn định đất nước, Bộ Quốc
Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cho phép quân nhân các
cấp có khả năng chuyên môn, thuộc diện trừ bị hay hiện dịch đều có thể hành nghề tư
ngoài giờ công vụ nếu được sự chấp thuận của đơn vị.
Thông tư ghi rõ quy định, điều lệ, danh sách những ngành nghề tư mà các quân nhân tại
chức được phép tham gia ngoài giờ công vụ và giờ hành chánh.
Xét chung các nghề tư được liệt kê bao gồm: bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, y tá, luật sư, kiến trúc
sư, giáo sư, khoa học gia, ca, nhạc, nghệ sĩ, hoạ sĩ, thể tháo gia, diễn viên điện ảnh, kịch
nghệ, phóng viên, ký giả, nhiếp ảnh gia, đạo diễn, tài tử điện ảnh, xướng ngôn viên phát
thanh, truyền hình...

Ban Xướng Ngôn Viên Hệ Thống Truyền Hình Quốc Gia với ông Trịnh Quang Bình, Phụ
Tá Tổng Trưởng Dân Vận & Chiêu Hồi (năm 1972)
Tuy danh sách các nghề tư khá dài nhưng trên thực tế số chuyên viên xin làm việc ngoài
giờ không dồi dào vì lý do trước tiên phải có những phần sở, cơ quan, định chế tuyển dụng
các đương sự xác nhận về nhu cầu cần thiết, bất khả kháng. Kế đó là các yếu tố thuận lợi
về không gian, thời gian vì nếu đơn vị quân đội đóng quá xa nơi làm việc ngoài giờ, thì

không thể nào lui tới được, hơn nữa mỗi quân nhân phải hàng ngày lo việc trực
gác, ứng chiến, tuần tiểu ngoài giờ, nên việc làm thêm cũng khó mà thực hiện.
Do đó lệnh cho phép hành nghề tư ngoài giờ công vụ cần phải hội đủ mọi yếu tố “Thiên
thời, Địa lợi, Nhân hoà”. Rất may mắn là nghề tay trái của tôi được ghi rõ trong Thông Tư
nên tôi thảo đơn thỉnh cầu qua hệ thống quân giai gởi đến Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Tuy làm đầy đủ hồ sơ theo quy định, có nghĩa là được Hệ thống Phát thanh, Truyền hình,
Điện ảnh Quốc gia xác nhận sẵn sàng thu nhận tôi, được Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị, Trung tướng Trần Văn Trung phê chuẩn, Trung tướng Trần Văn
Minh, Tư Lệnh Không Quân chấp thuận và chuyển đơn với hảo ý, được Cục An Ninh
Quân Đội thông qua các tiêu chuẩn về an ninh cá nhân và gia đình, nhưng tôi cũng không
dám hy vọng nhiều là việc tôi xin làm thêm ngoài giờ hành chánh sẽ được Bộ Tổng Tham
Mưu khuyến khích.
Chừng một tháng sau khi gởi đơn đi, Đại tá Đinh Văn Chung, Tham Mưu Phó Chiến
Tranh Chính Trị/ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi tôi trình diện ông tại văn phòng. Đại tá
Chung chúc mừng tôi và trao tận tay giấy phép có chữ ký của Đại tướng Cao Văn Viên,
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chấp thuận cho tôi được phép
hành nghề xướng ngôn viên phát thanh, truyền hình. Giấy phép có hiệu lực tức khắc và vô
giới hạn...
Ngày 30 tháng 4 đen của năm 1975 đã vô hình chung trở thành giới hạn của giấy phép này.
Được làm lại công việc mà mình yêu thích là một niềm vui, khó tin nhưng có thật, tôi được
tiếp tục đến Đài Phát thanh và Truyền hình Saigon đọc tin tức, thời sự ban đêm, công việc
mà tôi từng đảm trách khi bước vào đời kiếm ăn năm 19 tuổi, lúc mà tôi còn đang học Ban
Pháp Văn, Đại học Văn khoa Saigon.
Vì có phép đặc biệt của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà và Trung tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân chấp thuận
cho tôi được làm việc ngoài giờ công vụ, nên các cấp chỉ huy trực tiếp đã dành mọi sự dễ
dãi, du di trong việc cắt đặt công tác trực gác, ứng chiến, tuần tiểu, phòng thủ căn cứ... Tôi
cũng được phép để tóc dài như quy tắc dành cho các ca nghệ sĩ, tài tử, đúng theo quy định
của Thông Tư không bắt buộc phải hớt tóc thật ngắn, đối với những quân nhân thường
xuất hiện trước công chúng.
Tại đài Phát thanh Saigon, công việc của tôi là có mặt nơi phòng vi âm lúc 6 giờ rưỡi
chiều, bắt đầu đúng 7 giờ tối đọc bản tin chính trong ngày với thời lượng từ 30 đến 40

phút.
Đài Phát thanh Saigon hoạt động 24 tiếng một ngày, 7 ngày trong tuần, mỗi đầu giờ đều có
tin tức, thông báo, nhật ký truyền thanh... Những bản tin chính là 7 giờ sáng, 01 giờ trưa, 7
giờ chiều và 10 giờ tối. Vào 11 giờ mỗi tối có phần tổng kết tình hình quốc tế và quốc nội
trong ngày. Ngoài những bản tin chính, hoàn toàn do các xướng ngôn viên đọc live (trực
tiếp), còn có phần tin tóm lược, tin ngắn mỗi đầu giờ. Cứ làm việc trọn một đêm thì được
nghỉ hai đêm kế tiếp.
Trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà, phần tin tức, phóng sự, bình luận, nhận định thời cuộc,
không cần phải thu âm trước mà luôn được trực tiếp phát thanh, nhưng ít ai đọc sai vì thói
quen nghề nghiệp hoặc do kỷ luật nghiêm khắc áp dụng đối với những lần sai phạm hiếm
hoi lúc xướng ngôn viên đọc trước micro.

Có một điều tôi không hiểu tại sao mà lúc đó không một nhân viên thuộc bất cứ
phần sở nào có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến chương trình phát thanh, phát hình
phải trải qua phần điều tra về lý lịch cá nhân cùng quan hệ họ hàng của đương sự với Cục
An Ninh Quân Đội. Không hiểu vì sao chính quyền khi ấy quá tin tưởng vào những công
chức, cán bộ, từ cấp thấp đến thượng tầng kiến trúc?.
Sau này báo chí Saigon tố giác mới vỡ lẽ ra là có cán bộ cộng sản cao cấp đã len lỏi vào
làm Cố vấn cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ở ngay trong Dinh Độc Lập, có những
ông Tướng, ông Tá “Nhị Trùng” chuyển tài liệu mật cho cộng sản Bắc Việt, những ông
Tỉnh trưởng bán gạo, thuốc Tây cho quân “Giải Phóng Miền Nam”. Bên Không Quân thì
có Trung uý Nguyễn Thành Trung, phi công chiến đấu cơ phản lực F 5 E lúc 8 giờ sáng
ngày 8 tháng 4 năm 1975 đã cất cánh từ căn cứ Không Quân Biên Hoà về Saigon oanh
kích Dinh Độc Lập rồi trở ra đáp tại phi trường Đà Nẵng, lúc đó gọi là vùng “Giải Phóng”
và được cộng sản Bắc Việt thăng cấp Đại uý Quân đội Nhân dân!.
Xin được nhắc lại, làm xướng ngôn viên phát thanh, truyền hình dưới thời Việt Nam Cộng
Hoà cần nhất là giọng nói, giọng đọc, cách phát âm, chứ không đòi hỏi về khả năng biên
soạn, “viết lách” nội dung cần truyền đạt, công tác đó được các phóng viên, biên tập viên
phụ trách. Vì thế, khi chúng tôi bị tù lao động khổ sai các cán bộ cộng sản gọi nghề làm
xướng ngôn viên hay phát thanh viên là “giặc lói”.
Thông thường các xướng ngôn viên thuộc Khối Chương Trình, còn phóng viên, biên tập
viên thuộc Khối Thời Sự với trách nhiệm chính là ra hiện trường, ngoài mặt trận, tháp tùng
phái đoàn chính phủ đi kinh lý để thực hiện phóng sự, ngoài ra anh chị em phóng viên,
biên tập viên cũng biên soạn tin tức, bình luận, xã luận. Rất ít phóng viên vừa biên soạn
bài vở, vừa lên tiếng qua các chương trình phát thanh như các anh Thiên Ân, Vũ Ánh,
Mạnh Tiến, Lê Phú Nhuận, Dương Phục và cô Bích Thu…
Nội dung được giao cho các xướng ngôn viên đọc thường được đánh bằng máy chữ, lắm
lúc quá cấp bách thì các biên tập viên viết tay, rất khó đọc, xướng ngôn viên đôi khi phải
đoán mò hoặc cấp tốc tìm chữ khác thay thế cho hợp tình, hợp cảnh.
Anh chị em xướng ngôn viên phải trực thường xuyên 24 giờ mỗi ngày, đối với người chỉ
nhận làm ca tối như tôi thì đến lo bản tin chính lúc 7 giờ chiều, sau đó mỗi đầu giờ thì đọc
bản tin dưới 10 phút, lúc 8 giờ, 9 giờ. Đến 10 giờ đêm trở lại đọc bản tin chính và 11 giờ
trình bày câu chuyện thời sự, tổng kết tình hình quốc nội và quốc tế trong ngày. Những
bản tin kéo dài từ 30 phút trở lên do hai xướng ngôn viên phụ trách, các bản tin ngắn chỉ
cần một người trình bày.
Theo phân công, tôi đọc tin lúc 7 giờ chiều rồi 8, 9, 10 và 11 giờ tối, sau đó được nghỉ và
trở lại đọc tin ngắn, lúc 2 , 3 và 4 giờ khuya, rồi được nghỉ cho đến 7 giờ sáng, đọc bản tin
tức chính đầu tiên trong ngày. Rời đài Phát thanh Saigon, tôi phóng xe chạy thẳng về Tân
Sơn Nhất để làm công việc của một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị Không Quân.

Vào thời ấy, công việc liên quan đến kỹ thuật phát thanh do các anh chị em hoà âm viên
phụ trách, lo chạy máy, thu thanh, phát nhạc, tương tự như việc làm của các producers
VOA, RFA ngày nay. Các xướng ngôn viên chỉ phụ trách phần truyền đạt những nội dung,
bản văn được trao mà không có phận sự biên soạn hay điều khiển máy móc.
Ban đêm lúc được đi ngủ, chúng tôi thường vặn đồng hồ báo thức cho kịp giờ nhổm dậy,
tỉnh ngủ và liếc sơ qua các bản tin sắp đọc, cái an toàn thứ 2 là nhờ các bạn hoà âm viên
canh giờ và gọi dùm, vì họ bắt buộc phải theo dõi nội dung phát thanh, thay đổi băng nhựa,

ghi âm trước các tiết mục ca nhạc, văn hoá nghệ thuật, đọc truyện, thoại kịch, nên
không có quyền ngủ trong ca làm việc.
Trong thời gian tôi được phép hành nghề tư ngoài giờ công vụ, làm xướng ngôn viên đọc
tin tức thời sự ở đài Phát thanh Saigon, tôi được cơ hội làm việc cùng với chị Dạ Lan, nữ
xướng ngôn viên đài Phát thanh Quân đội, “Người em gái hậu phương” có một giọng nói
ngọt ngào truyền cảm, thu hút. Hàng đêm ngoài chiến tuyến, dưới giao thông hào mà luôn
có Dạ Lan thỏ thẻ những lời hỏi han, an ủi “làm say mê hàng triệu con tim các anh Chiến
sĩ” khắp 4 Vùng Chiến Thuật và trên các nẻo đường Đất Nước.
Ban ngày, chị làm ở Đài Quân đội, tối làm thêm ở đài Phát thanh Saigon. Tình cảnh của
Dạ Lan rất khó khăn, một mình nuôi bé Ty, ban đêm hai mẹ con phải ở lại đài Phát thanh
Saigon, vì lệnh giới nghiêm không thể về nhà được. Nay chị Dạ Lan còn ở Việt Nam,
không sinh sống trong nghề truyền thông nữa, mà dấn thân vào các hoạt động xã hội, từ
thiện, đi khắp đó đây, xoa dịu nỗi khổ đau cho những người kém may mắn hơn mình. Bé
Ty định cư tại Pháp với chồng và con.
Vì cùng đọc tin tức với chị nhiều năm, ngày nay mỗi khi nghe ai giới thiệu Dạ Lan, tôi cố
lắng nghe, nhưng rồi biết ngay đó không phải là chị Dạ Lan ngày nào, chị có một giọng
nói không ai bắt chước được cũng như giọng nói của anh Trần Nam, gần 50 năm sau mà
không chút đổi thay.
Trong số anh em xướng ngôn viên chúng tôi cũng có xảy ra chuyện “sinh nghề, tử
nghiệp”, nạn nhân xấu số là anh Lê Văn Gòn, trong khi làm việc giấc khuya tại Phát thanh
Saigon đã tắt thở ngay trong studio phát thanh. Ban ngày anh công tác tại Cục Tâm Lý
Chiến, xướng ngôn viên bên Phát thanh Saigon là việc anh làm thêm. Hôm ấy, anh đọc tin
cho đến 12 giờ khuya, sau đó được đi ngủ để 2 giờ dậy đọc tin ngắn. Khi anh hoà âm viên
Hoạt vào phòng vi âm đánh thức anh thì anh Gòn đã không còn nữa, anh chưa được tròn
25 tuổi đời.
Đến đài phát thanh Saigon đọc tin tức thời sự từ 7 giờ tối đến 7 giờ sáng hôm sau, cứ làm
việc một tối thì được nghỉ liên tiếp hai đêm, nên tôi nhận luôn công việc đọc tin cho đài
truyền hình Saigon. Bên TV các anh chị em xướng ngôn viên cũng làm việc trọn một buổi
tối thì nghỉ hai đêm kế tiếp. Phần thời sự luôn được trình bày trực tiếp (live) vì thế đối với
đa số anh chị em xướng ngôn viên truyền hình việc cộng tác với TV là job thứ 2, trong giờ
hành chánh, tất cả mọi người đều có nhiệm sở chính thức khác trong các cơ quan chính
quyền, quân đội hay ngành nghề tự do.
Lúc bắt đầu phục vụ khán thính giả Miền Nam, đài truyền hình Saigon băng tầng số 9 có
tất cả 5 hoặc 6 anh chị em xướng ngôn viên, sau đó tăng dần lên 10 người và cuối cùng là
16, tính đến trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Những phần hành được phân công cho xướng ngôn viên gồm có:
1/ Đọc tin tức, quốc tế, quốc nội, bình luận, phóng sự

2/ Đọc tin ngắn, thông cáo, tin thời tiết, giới thiệu các chương trình văn học, nghệ thuật,
giáo dục, khoa học, kiến thức phổ thông, thể thao...
3/Tường thuật từ hiện trường, thực hiện phỏng vấn
Mục số 1 được giao cho các anh chị xướng ngôn viên có lâu năm kinh nghiệm trong nghề
truyền thông, đa số biệt phái từ đài phát thanh Saigon sang để trình bày những bản tin
chính do Phủ Tổng Thống và Bộ Thông Tin, Dân Vận & Chiêu Hồi chỉ thị.

Mục số 2 do các nữ đồng nghiệp tân tuyển phụ trách, đa số đều còn tiếp tục học đại
học, được huấn luyện, đào tạo chuyên môn đúng quy cách.
Mục số 3 mới được thực hiện vào hai năm cuối của chế độ Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà,
sau khi đài truyền hình Saigon tuyển dụng thêm nhiều nữ xướng ngôn viên trẻ để làm việc
toàn thời gian, tăng cường nhân lực cho một số tiết mục mới, phục vụ cho mục tiêu thông
tin, nghị luận, tuyên truyền, được chính phủ quảng bá rộng rãi.
Tại đài truyền hình Saigon, các anh chị em xướng ngôn viên cũng chỉ truyền đạt những nội
dung do Khối Thời Sự biên soạn, tổng hợp và cung cấp bao gồm phần tin tức, phóng sự,
bình luận, thông báo...
Nhờ ngân sách dồi dào hơn bên hệ thống truyền thanh lại là hình ảnh tiêu biểu của quốc
gia nên các xướng ngôn viên TV được hưởng nhiều quyền lợi và bổng lộc hơn. Những
bạn đồng nghiệp phía radio, làm việc trong âm thầm, có nằm xuống vĩnh viễn tại phần sở
như anh Lê Văn Gòn cũng chẳng ai hay biết.
Vì phải di chuyển trong giờ giới nghiêm khi chương trình phát hình kết thúc lúc 12 giờ
đêm mỗi ngày, nên anh chị em xướng ngôn viên TV được công xa đưa đón từ nhà đến sở
cũng như khi quay về, trong lúc không còn ai được phép ra ngoài đường phố.
Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gởi tặng hiện
kim cùng vải vóc may áo dài, áo veste, cho các anh chị em xướng ngôn viên TV và tiền
thù lao hàng tháng cũng thoải mái hơn so với đồng nghiệp bên Radio Saigon.
Thỉnh thoảng anh chị em xướng ngôn viên cũng được dịp tham dự các cuộc tiếp tân do
Tổng Thống, Thủ Tướng, các vị Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh đầu não của Quân Lực
khoản đãi, mỗi khi có những buổi lễ hội quan trọng trong năm hoặc lúc cần gặp truyền
thông, báo chí để trình bày chủ trương, đường lối của chánh phủ.
Những bản tin chính trên TV Saigon dài từ 30 tới 45 phút lúc đúng 7 giờ tối thường do
một nam và một nữ xướng ngôn viên phụ trách.
Đọc cặp với Anh Trần Nam là chị Mai Liên, anh Thiên Ân đọc với Xuân Kiều và Oanh
Oanh đọc với tôi.
Vào thời điểm đã cách đây trên 50 năm phần kỹ thuật còn sơ khai, màn ảnh TV đen trắng,
tin tức, phóng sự nặng về chữ nghĩa, kém về hình ảnh, chỉ các hoạt động của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại
tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà mới có
hình ảnh đi kèm.
Mở đầu phần tin quốc nội là tường thuật hoạt động trong ngày của vị nguyên thủ quốc gia,
thành viên nội các, lãnh đạo quân lực, tiếp theo là tin chiến sự, thành quả các cuộc hành
quân, chiến dịch bình định phát triển trên khắp lãnh thổ, công tác chiêu hồi “Tiếng Chim
Gọi Đàn” tiếp đón những người anh em bên kia giới tuyến trở về với chính nghĩa Quốc

Gia...
Sang tin tức quốc ngoại là hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, sự
ủng hộ của các quốc gia bạn trong thế giới tự do đối với công cuộc chiến đấu để bảo vệ
Miền Nam, tái lập hoà bình, chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến...
Gần như ngày nào cũng phát đi những nội dung rập khuôn, những hình ảnh quen thuộc,
lập luận đơn điệu như thế, chưa đọc tin mà biết trước chuyện gì sẽ được bộ máy thông tin
của chính phủ đề cập tới và nhắc đi nhắc lại mãi. Người dân cũng thấy rõ như vậy, họ chỉ

muốn đón xem những tiết mục giải trí, các chương trình văn nghệ, cải lương, thi
ca, hát bộ nên ráng chờ đợi cho hết phần tin tức hoặc tắt TV, chỉ mở lại sau khi bản tin
chấm dứt.
Nội dung phát thanh truyền hình đều được thường xuyên ghi lại, có phần sở chuyên môn
cùng nhân viên túc trực theo dõi 24 giờ mỗi ngày, quanh năm, suốt tháng. Mỗi khi xướng
ngôn viên đọc sai điều gì lập tức có điện thoại từ Phủ Tổng Thống hay Bộ Dân Vận &
Chiêu Hồi gọi đến khuyến cáo.
Bởi những lý do cấp trên theo dõi liên tục nên dù các bản tin Radio, TV đã dài thậm thượt,
đọc phát mệt, muốn hụt hơi, đuối sức, thêm vào cái nóng bức vì lúc camera thu hình, phải
tắt máy lạnh do tiếng ồn quá lớn mà các Sếp thì cứ muốn bổ túc thêm chuyện này, việc kia,
ngại bị quở trách nên nhiều khi phóng viên phải cúi rạp mình sát xuống dưới mặt bàn để
đưa những bản tin bổ túc vừa cập nhật cho các xướng ngôn viên đọc. Dù không được xem
qua trước nhưng rất may mắn là gần như không ai đọc sai bao giờ, thật không hiểu vì sao?
Sau các bản tin chính kết thúc lúc 7 giờ 45 phút, đến 9 giờ tối có phần bình luận chừng 10
phút, nói lên quan điểm lập trường của chính phủ Quốc Gia trong cuộc chiến đối đầu với
cộng sản Miền Bắc. Các anh xướng ngôn viên được giao phụ trách phần bình luận là Hồng
Phúc, Trần Nam và Thiên Ân. Tôi không được chọn đọc bình luận vì nói năng “hiền lành
quá” theo giải thích của lãnh đạo Bộ Thông Tin, bình luận thì phải “đanh thép, gân guốc”
để chỉa thẳng mũi dùi vào Bắc Bộ Phủ.
Vào lúc 10 giờ đêm có phần nhận định thời cuộc và tới 12 giờ khuya là tổng kết tình hình

trong ngày.
Các show TV do văn nghệ sĩ thực hiện đều được thu hình từ thứ hai đến thứ sáu, sáng tới
chiều, trong cả hai studio A và B của đài truyền hình Saigon. Thời đó việc thu hình rất
phức tạp, tốn nhiều thời giờ, mỗi lần bị hư sửa lại thật khó khăn, có những show thu từ
sáng sớm đến xế chiều vẫn chưa xong, nghệ sĩ phải ra về, nhường studio cho chương trình
tin tức thời sự và trở lại thu hình tiếp vào hôm khác.
Ruồi nhặng là một vấn đề nan giải trong những studio thâu thanh cũng như TV, vì phải ở
studio cả ngày để trình diễn các tiết mục ca nhạc, tân cổ, anh chị em nghệ sĩ đã mang theo
thực phẩm, nước giải khát để dùng tại chỗ và đây cũng là lý do để ruồi nhặng lọt theo vào
bên trong. Với thời gian loài ruồi sinh sôi nẩy nở nhanh chóng khiến việc tiêu diệt chúng
gần như vô hiệu, đôi khi chúng còn bay lởn vởn trước mặt xướng ngôn viên lúc “on air”, tệ
hơn là còn muốn đậu trên mặt mình nữa.
Qua màn ảnh nhỏ của TV Saigon, thỉnh thoảng bà con khán giả thấy ruồi bay tới đậu trên
mặt các xướng ngôn viên trong lúc họ đọc tin tức live là như vậy. Loài ruồi muỗi nhặng
trong hai studio của TV Saigon chỉ được “tảo thanh”, “diệt gọn” mỗi khi sắp tiếp đón Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đến thu lời hiệu triệu gởi toàn thể quốc dân, đồng bào.
Vào những tháng đầu năm 1975, tình hình chiến sự ngày càng thêm nóng bỏng, nguy cơ
Miền Nam thất thủ đã gần kề, nhiều vị trí chiến lược lần lượt bị đối phương tràn ngập,
vùng Cao Nguyên Trung Phần bị cắt ngang, các cuộc di tản chiến thuật làm mất thêm lãnh
thổ vào tay cộng sản, quân số phía Bắc dàn trải khắp các tỉnh thị Miền Nam gấp nhiều lần
so với quân lực Miền Nam. Trong lúc này Hoa Kỳ lại quyết định cắt giảm viện trợ kinh tế
và quốc phòng cho Việt Nam Cộng Hoà báo trước số phận hẩm hiu và sự tồn tại của Miền
Nam không còn kéo dài bao lâu nữa.

Ngoài chiến trường các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà cố chống chọi, phản công,
chiến đấu trong vô vọng, thiếu thốn mọi bề, nơi hậu phương các phủ bộ cũng khuyến cáo
nhân viên, cán bộ, hãy tích cực trong nhiệm vụ mình đảm trách, khi nước nhà đang
nghiêng ngả.
Các hệ thống phát thanh, truyền hình quốc gia cũng ra sức cải tiến nội dung chương trình
mà phần tin tức, thời sự đóng vai trò chủ lực. Anh chị em xướng ngôn viên tình nguyện
làm thêm giờ, đọc những bản tin dài hơn, theo diễn tiến dồn dập của tình hình chiến cuộc
khắp các quân khu từ Quảng Trị tới Cà Mau.
Sau tháng 4, 1975, khi Uỷ Ban Quân Quản Saigon-Gia Định của nhà cầm quyền cộng sản
gọi đến trình diện nhận công tác tạm, đọc tin tức, thời sự ở Đài Phát thanh và Truyền hình
Saigon vào những ngày đầu tháng 5, 1975, tôi có dịp làm việc chung với các phát thanh
viên Miền Bắc thuộc các đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, mới biết họ chuyên thu
thanh trước các nội dung, không đọc live như mình, vì “chế độ mới” không tin vào ai cả.
Trong dư luận ở Saigon lúc ấy bỗng xuất hiện nhiều tin đồn được tung ra từ những nơi tập
trung đông người, ngoài chợ, trong trường học, nói rằng các nam xướng ngôn viên TV
Saigon đều là thương phế binh, ngồi xe lăn. Khi đọc tin thì họ chỉ quay hình phần trên thôi
vì cả đôi chân đều bị bom đạn của quân đội nhân dân Bắc Việt nghiền nát rồi!?
Rất may, đến bây giờ chắc đồng bào ruột thịt miền Bắc đã thấy rõ thêm một cái dối trá,
phỉnh lừa, tuyên truyền bịp bợm, láo lếu của những con người cộng sản vì hai anh Trần
Nam, Thiên Ân và tôi thân thể vẫn nguyên vẹn sau cuộc chiến tương tàn để rồi.... tháng 4
đen năm 1975, miền Nam bị nhuộm đỏ, đất nước biến thành một nhà tù khổng lồ, giam
cầm hàng trăm ngàn quân nhân, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hoà, tôi phải sống
cảnh ngục tù lao động khổ sai suốt 6 năm trời từ Nam ra đến Bắc!
Cũng là cái duyên, cái nghiệp với ngành truyền thông còn thịnh nên cả ba anh em chúng
tôi được cơ hội phục vụ hai đài phát thanh quốc tế VOA (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ) & RFA
(Đài Á Châu Tự Do) tại thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ cho đến lúc an hưởng tuổi vàng.

Đào Hiếu Thảo/ Th2

Thụ huấn tại căn sư Không Quân Lackland, San Antonio, TX 1969

Xướng Ngôn Viên Đài Truyền Hình Saigon 1972

Những tội ác lớn nhất của Cộng Sản

2018
Kính chào quý vị, hân hạnh được đến thưa chuyện với quý vị hôm nay, cám ơn Ban Tổ
Chức rất nhiều đã cho tôi dịp may để nói thay cho những người không thể nói, không được
nói, không bao giờ nói được, vì họ không còn ở thế gian này nữa.
Quý vị có khỏe không, có vui khi thời tiết giá buốt đã trôi qua, có những mơ ước gì đối với
đất nước, dân tộc và gia đình trong năm mới 2018, có hưởng lễ Tạ Ơn sum họp, mùa
Giáng Sinh đầm ấm, những ngày đầu năm hạnh phúc, vui vẻ không? Xin chúc mừng năm
mới vạn sự như ý, toại nguyện.
Trong cuộc mạn đàm hôm nay, với tư cách một nhà báo, một nạn nhân cộng sản, chúng tôi
tìm kiếm tài liệu, tổng hợp để trình bày cùng quý vị và gởi lời cám ơn đến các tác giả đã
mạnh dạn phơi bày tội ác của cộng sản đối với nhân loại và với quê hương VN của chúng

tôi.
Xin được mượn câu nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây
Tạng để mở đầu câu chuyện hôm nay:
“Cộng sản sinh ra từ nghèo đói và ngu dốt. Lớn lên trong dối trá và bạo lực. Cộng sản sẽ
chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của cả nhân loại.”
Cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói “ Đừng Nghe Những Gì Cộng Sản
Nói Mà Hãy Nhìn Kỹ Những Gì CS Làm”.
Trước khi trình bày cùng quý vị về hoàn cảnh của VN, quê hương chúng tôi đã nhuộm đỏ
và mất tên trên bản đồ thế giới, xin được dành chút thời gian để nói về tội ác của tập đoàn
CS Nga, Tàu, vì mọi chủ trương, đường lối của Hà Nội đều rập khuôn theo chính sách của
Moscow và Beijing. Tổng Bí Thư đảng CSVN Lê Duẩn (1907-1986) từng tuyên bố “Ta
đánh Mỹ là đánh cho cả Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và cho các nước xã hội chủ nghĩa
anh em”.
Nói về tội ác tày trời cuả cộng sản sau trên 100 năm hiện hữu từ Nga qua Tàu, rồi lan
truyền khắp thế giới, thì không thể kể ra hết qua phim ảnh, sách vở, tài liệu, chứng cớ, buổi
thuyết trình, không thể nhắc lại trong một không gian, thời gian nhất định, mà trọn một
kiếp người này cũng không làm sao nói được trọn vẹn.
Năm 1997, sáu sử gia Pháp đã phát hành một cuốn sách dày 846 trang, mang tựa đề “Le
Livre Noir Du Communisme” ghi lại rõ ràng là trong vòng 80 năm từ 1917 đến 1997, kể từ
khi cộng sản lên nắm chánh quyền tại Nga đã có trên 100 triệu người chết vì hiểm họa đỏ
của búa liềm. Chắc quý vị đã nhiều lần xem phim “Doctor Zhivago” đầy máu và nước mắt,
sản xuất năm 1965, dựa theo cốt truyện của văn hào Boris Pasternak, đoạt giải Nobel về
văn học 1958, bị cấm lưu hành tại Nga.
Trong khi đó, bên Trung Quốc, thời Mao Trạch Đông, theo nhà sử học Frank Dikotter,
trên 45 chục triệu người chết từ 1958 đến 1962, trong cuộc cách mạng “Đại Nhảy Vọt”, là
chính sách con cưng của Mao, bằng cách tập hợp dân làng khắp Hoa Lục, thành những
công xã khổng lồ, tạo ra một thiên đường không tưởng, tất cả mọi thứ trên đời là sở hữu
tập thể. Người dân mất hết công việc, nhà cửa, đất đai, đồ đạc, tài sản. Mao sử dụng bạo
lực để cưỡng chế, bắt ép nông dân đói khát, phải lao động trên những công trình thủy lợi

quy hoạch kém, còn những cánh đồng lúa thì quên lãng. Chính sách này mang lại
thảm họa, hàng chục triệu người chết đói, bị tra tấn, hành hình đến chết. “Ai không làm
việc thì không được ăn”, Lenin đã nói như vậy. Người ta bị chôn sống, bị bóp cổ, bị cắt
từng mảnh, bị treo cổ trên cây. Có một thiếu niên vì quá đói lấy trộm nắm thóc trong làng
ở Hồ Nam, công an buộc cha cậu bé phải chôn sống con mình, ít hôm sau ông chết theo vì
quá uất hận, buồn đau.
Sau khi cộng sản Hà Nội thôn tính miền Nam Việt Nam Tự Do vào tháng tư đen năm
1975, hàng trăm ngàn người bị cầm tù vì đã phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hàng
triệu người dân vô tội đã phải vượt biển tìm tự do, với 9 phần 10 cầm chắc cái chết ngoài
biển cả, dân gian thường nói “tội ác của cộng sản không thể nào rửa sạch được bằng nước
khắp các đại dương, không thể ghi hết trên lá cây trên toàn thế giới, với câu nói bất hủ của
người Việt trong Nam sau 30 tháng 4, 1975 “ đến cái cột đèn cũng muốn ra đi, vượt thoát
khỏi sự cai trị tàn ác của cộng sản Hà Nội “
Cách đây 64 năm cũng đã có một cuộc bỏ phiếu bằng chân lớn nhất trong lịch sử VN và
thế giới với trên một triệu người, bỏ quê hương, xứ sở ra đi, miền Bắc là cộng sản độc tài,
toàn trị, miền Nam là quốc gia tự do, dân chủ. Khi bước chân lên tàu di cư vào nam,
người dân miền Bắc nhận được message “Passage To Freedom” treo khắp trên tầu.
Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc, phải treo
hình ảnh họ trong nhà. Còn ngoài Bắc, trước đây, dưới thời Hồ Chí Minh, cộng sản buộc
dân chúng phải sùng bái các cấp lãnh đạo Nga và Trung Cộng, treo hình của họ trong mỗi
nhà và cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê
bình chánh phủ và giới lãnh đạo cộng sản. Những ai mạnh dạn phê bình, bằng bất cứ hình
thức nào, đều bị gán ghép tội chống phá nhà nước, làm gián điệp cho ngoại bang, lợi đụng
quyền dân chủ, vi phạm an ninh quốc gia và bị kết án nặng nề có thể lên tới 15 hay 20 năm
tù. Tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của Á Đông và
tinh thần quốc gia, dân tộc của người dân Việt.
Kính thưa quý vị,
Năm nay là tưởng niệm 50 năm cuộc thảm sát vào Tết Mậu Thân năm 1968, gần đây có
nhiều bài viết về những hành động man rợ của cộng sản nói rằng “máu vẫn chưa khô trên
thành phố Huế” với khoảng 6000 dân lành bị giết bằng cuốc sẻng, búa, đâm bằng lưỡi lê,
chặt đầu bằng mã tấu, trói bằng giây thép gai, bị chôn sống, trong thời gian 28 ngày binh
lính Việt Cộng từ miền Bắc kéo vào tấn công và xâm chiếm vùng đất này. Đa số các nạn
nhân bị cộng sản giết hại là những nhà tu hành, sinh viên, học sinh, công chức, quân nhân,
giáo chức, phụ nữ. Gia đình nạn nhân đã cố tìm dấu vết của người chết như áo quần, tượng
ảnh, căn cước, giày dép, để biết người nhà của mình bị chôn trong đống sọ và xương cốt
lẫn lộn, trong nhiều hố chôn tập thể, khắp thành phố Huế.
Tính chung 40% nhà cửa ở Huế bị quân CS miền Bắc phá hủy, cả 627 ngàn người mất nhà
cửa, ruộng đồng, chạy về các thành phố lánh nạn.
Theo thống kê của chánh phủ VNCH, tổng số người chết và mất tích trong trận Mậu Thân
khoảng 120 ngàn người.
Theo tác giả Matthew White thì trong số 100 sự kiện tử vong cao nhất trong lịch sử nhân
loại, có vụ thảm sát tập thể tại Huế, năm 1968.
Đây là một vết nhơ trong lịch sử Việt Nam, do Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng
sản Hà Nội gây ra. Họ đã vi phạm hiệp định ngưng bắn ba ngày Lễ Tết Cổ Truyền để dân

chúng đón xuân. Hành động tổng tấn công, giết người man rợ của VC ngay trong
đêm giao thừa trên toàn lãnh thổ VNCH cách đây 50 năm là tội ác diệt chủng, nỗi kinh
hoàng, vết thương còn rỉ máu, niềm uất hận ngút trời, mà người dân Miền Nam VN và
Huế không bao giờ quên.
Đến nay, đã 50 năm rồi, cộng sản Hà Nội không một chút hối hận gì, không một lời xin lỗi
gia đình các nạn nhân, trái lại họ còn tổ chức rầm rộ ăn mừng chiến thắng Tết Mậu Thân.
Sao họ lại khơi dậy biến cố tang thương đó, vui mừng với thành tích giết người tàn bạo,
không gớm tay, bị nhân loại nguyền rủa đời đời.
CSVN bắt đầu cuộc chiến xâm lược với chiêu bài giải phóng miền Nam VN từ năm 1954,
đến ngày 30 tháng 4, năm 1975, là ngày VNCH sụp đổ, có ít nhứt trên dưới 4 triệu thanh
niên miền Bắc đã chết oan trên đường xâm nhập miền Nam. Theo các nhân chứng, sử gia,
nhà văn miền Bắc thì tổng số dân quân chết vì tham vọng hiếu chiến của CSVN có thể lên
đến 10 triệu người.
Sau đây chúng tôi xin nhắc lại những con số cụ thể về tội ác do tập đoàn cộng sản VN gây
ra, đây là những con số khô khan, nhưng cần được nhắc nhớ và phổ biến.

Crimes Committed By Ho Chi Minh & The Vietnamese Communist Party

1949-1956: Five waves of agrarian reforms: 500,000 victims.
1954: Almost 1 million people left Everything for Freedom in the South VietNam.
1958: Obeying Ho Chi Minh's decision, Pham Van Dong sent a letter officially approving
the claims China made to the sea area in the East, including the islands Paracel and
Spratley.
1968: Tet Offensive, more than 14,000 civilians killed, and more than 2000 among them
buried alive.
1974: Acting in collusion with the Government of Hanoi, China invades the archipelago
Paracel belonging to the Republic of Viet Nam.
1975:
- Invasion of South Viet Nam two years after signing the Peace Treaty of Paris.
- Concentration Camps: Half a million ARVN prisoners, thousands and thousands died
while there.
1975-1985: More than 1,7 million Vietnamese escaped out of their country (about 4 to 5
hundred thousand died in the sea, maybe more)
1979: War between two communist regimes (VN and China), hundred thousands lost their
lives.
1999-2000: Treaties, signed secretly, yielding national territories to China (the frontier
regions in the North, the quasi totality of the sea in the East including the archipelagos
Paracel and Spratley. By then, not a treaty revealed, not a map published…
Leading to the actual situation:
- Loss of quasi totality of the sea region in the East and one part of the frontier region.
- The majority of the people live in poverty despite 42 years of absolute peace.
- Vietnamese fishermen are openly maltreated, avowedly terrorized, and even killed by
Chinese forces in the traditional fishing regions, Viet Nam kept quiet, showing no reaction.
- Brutal repression to the political dissidents and religious believers, not belonging to the

state’s organisations.

- In its 2017 classification in regard to liberty of expression, Reporters Without Borders

ranked VN 175 among 190 nations in the world.

- Children trade, women trade for sexual slavery.

- Trade 'labourer cheap price' (in reality selling slaves) all over the world.
- “Leasing” entire strategical zones of the fatherland to China (our perennial enemies)

which is exploiting bauxite (very pollutant), with its own workers from the mainland.

- The cadres in the Communist Party become multi-millionaires in USD.

- VN is still among the poorest countries in the world, always begging for international
aid…

(2018 still begging aid).
Gần đây công luận trong và ngoài nước đã cực lực lên án thảm họa môi trường lớn nhứt
trong lịch sử do hãng Formosa của Đài Loan gây ra tại vùng Hà Tĩnh, với nạn tôm cá chết
hàng loạt, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người. Hậu quả tai hại về kinh tế, an
ninh, quốc phòng, có thể kéo dài vài chục năm, gây lo lắng, phẩn nộ, nhưng lãnh đạo Hà
Nội vẫn lặng thinh một cách vô cảm, vô trách nhiệm.
Với mưu đồ đồng hóa các dân tộc Á Châu trong lãnh vực văn hóa, thời gian gần đây, công
luận trong và ngoài nước phản đối quyết liệt một đề nghị của Bùi Hiền, đảng viên CS,
muốn cải cách tiếng Việt, đọc , viết y như tiếng Tàu, để đưa chương trình dạy tiếng Tàu
vào các trường ở VN, tạo nên cơn bão đối với cả chục triệu người Việt khắp nơi.
Mặt khác, quân đội CSVN đã cho thành lập “Lực Lượng 47” với 10 ngàn người, có nhiệm
vụ ngăn chống các quan điểm bị cho là thù địch, vu khống, xuyên tạc CSVN, trên không
gian mạng.
Hôm 4 tháng 12 năm 2017, trong buổi tiếp tân ông tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN Daniel
Kritenbrink, chúng tôi có dịp may, trình bày với ông về những quan ngại của cộng đồng
VN đối với tội ác của Hà Nội, đây là một trích đoạn:

Dear Mr. Daniel J. Kritenbrink U.S. Ambassador to Vietnam

I would like to share with you some of the concerns the Vietnamese Community has

regarding human rights issues in Vietnam. I retired after 16 years, from Radio Free Asia,

which provided me the opportunity to keep current on issues affecting the people of

Vietnam.

While I am sure that you are aware of the plight of the common people in Vietnam, I

would like to bring your attention to just a few of the concerns our community has
regarding the Vietnamese Government’s violations. Specifically:

Freedom of Religion - While this is being touted in their propaganda as a freedom, in fact

freedom to worship is forbidden in the remote areas and when put into practice must be

masked.

Freedom of Speech - This is often condemn as an attempt to:

- Disturb the peace and commit a crime prejudicial to National Security

- Espionage/spy for Foreign Governments

- Conspiracy to overthrow the Government
When charged with violations of these “crimes” the verdicts are always harsh, even for

women, who are with very young children and only struggle peacefully for democracy,

freedom and human rights.

There have been more than 250 individuals who incomprehensibly died while in
the police’s captivity. These dead bodies have came home, some with their throats slit
and others with evidence of barbarous torture. When questioned regarding the deaths, the
Vietnamese authorities claim that they committed suicide while at the police station.
Thank you for your attention.
Một ngày nào đó, nếu CSVN sụp đổ, thì loài người cần bao nhiêu năm, bao nhiêu giấy
mực, bao nhiêu hình ảnh để phanh phui những tội ác mà chế độ độc tài, man rợ này đã gây
ra.
Xin biết ơn những con người quả cảm, yêu nước, không ngại hiểm nguy, tù đày, dám đánh
đổi bằng mạng sống của mình, mạnh dạn lên tiếng trong ôn hòa để giúp cho nhân loại, cho
đồng bào hiểu rõ bản chất ác độc và hành động cai trị bằng sắt máu và bạo lực.
Xin kính mời quý vị cùng đứng lên để tưởng niệm hàng trăm triệu người dân lành đã ngã
gục dưới súng đạn và trong ngục tù CS.
Nhạc mặc niệm
Mời quý vị an tọa
Cám ơn quý vị rất nhiều, cầu chúc quý vị luôn hạnh phúc, bình an, may mắn, mạnh khỏe.
2/07/2018

Th2

Tranh vẽ Đào Hiếu Thảo

Prelude Chamber Ensemble và buổi trình diễn ca vũ
nhạc ngoài trời

Đào Hiếu Thảo

Nhóm Prelude Chamber Ensemble (PCE) tổ chức chương trình văn nghệ chiều thứ bảy 24
tháng 7 năm 2021 tại Ossian Hall Cultural Park thuộc thành phố Annandale, Virginia với
sự tham gia của các ca, nhạc sĩ Việt-Mỹ thuộc đủ mọi lứa tuổi yêu chuộng lời ca, tiếng
đàn.
Chủ đề của buổi hòa nhạc nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống dân tộc gồm những tác
phẩm dân gian để đời, nói về quê hương Việt Nam với những đặc trưng của ba miền Bắc-
Trung-Nam.

Khán giả có dịp thưởng thức những âm thanh thánh thót của đàn tranh, tiếng sáo vi vút,
tiếng đàn của nhạc cụ Tây Phương cùng những giọng ca điêu luyện, qua các nhạc phẩm
chọn lọc, trong bầu không khí mát dịu của buổi hoàng hôn đẹp trời.
Ông Lassine, đại diện Fairfax County Park Authority cùng hai MC duyên dáng Nathalie
Monges trong phần Anh Ngữ và Thanh Thúy trong tiếng nước ta chào mừng quan khách
và lần lượt giới thiệu chương trình với những màn biểu diễn: song ca “Dòng Giống Lạc
Hồng”, đàn tranh “Trống Cơm”, đàn dương cầm “Tiếng Sáo Thiên Thai”, màn vũ “Đồi

Sim” do các nghệ sĩ cao niên phụ trách, màn vọng cổ “Dạ Cổ Hoài Lang”, đơn ca
“Ai Ra Xứ Huế”, tam ca “Giòng An Giang”, hợp ca bản “Tình Ca” do ba thế hệ cùng một
gia đình trình bày, màn hòa tấu “Giọt Mưa Trên Lá” do thành viên trong Ca Đoàn John
Paul II biểu diễn, nhạc phẩm “Gửi” do cụ Dương Vân Châu, thân mẫu của nhạc sĩ Phạm
Dương Hiển sáng tác. Đây là một trong hàng trăm bản nhạc cụ biên soạn để nói lên tình
cảm sâu đậm với quê hương, đất nước Việt Nam. Buổi ca nhạc kết thúc với hai sáng tác
quen thuộc, được ưa chuộng “Bài Không Tên Số 8” và “Mời Em Về”.
Đặc biệt năm nay có sự tham gia lần đầu của Nhóm Múa Tuổi Vàng và Ca Đoàn thuộc
Thánh Đường Saint John Paul the Second trong Cộng Đồng Thiên Chúa Giáo Việt-Mỹ.

Buổi ca vũ nhạc được hàng trăm khán giả cùng nhiều sắc tộc bạn đến thưởng thức, nhiệt
liệt tán thưởng và theo dõi đến phút chót vì đã khá lâu rồi từ khi đại dịch bắt đầu, mới có
một buổi trình diễn ngoạn mục và phong phú như thế trong một buổi chiều thứ bảy.
Lên tiếng với báo chí, Nhạc sĩ Phạm Dương Hiển, Giám Đốc Chương Trình kiêm Trưởng
Ban Tổ Chức cho biết ông sáng lập Nhóm Prelude Chamber Ensemble tại Virginia năm
2008 hầu quảng bá và trình diễn nhạc thính phòng qua đủ thể loại từ Đông sang Tây và sử
dụng các nhạc khí, nhạc cụ từ cổ chí kim.
Cô Linh Phượng cho biết cô tham gia ban nhạc này từ nhiều năm nay để gìn giữ và phổ
biến bộ môn cải lương, vọng cổ miền Nam đến các thế hệ mai sau.
Cô Diễm Loan tin rằng lời ca, tiếng hát là để gìn giữ tiếng Việt trong sáng và giúp phát
huy nền văn hóa truyền thống của dân tộc.
Sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật này được trực tiếp truyền hình trên Facebook & YouTube và
phổ biến qua các cơ quan truyền thông báo chí: Truyền Hình Việt Nam Vùng Hoa Thịnh
Đốn, VOA, SBTN, tuần báo Đời Nay và Thương Mãi Miền Đông VA.
Chương trình kết thúc lúc 8 giờ 45 phút tối.

Sắc Hoa Màu Nhớ

Đào Hiếu Thảo
Hình: NAG Nhất Hùng

Chương trình dạ vũ, dạ tiệc chủ đề “Sắc Hoa Màu Nhớ” tưởng niệm cố nhạc sĩ Nguyễn
Văn Đông được tổ chức vào chiều chủ nhật 28 tháng bảy, năm 2019 tại nhà hàng Harvest
Moon, thành phố Falls Church, Virginia với sự hiện diện của trên 400 quan khách và thân
hữu.

Khi nói đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, chúng ta, người Việt trong nước và hải ngoại nhớ
ngay đến những nhạc phẩm bất hủ đã đi vào lòng người trên 60 năm qua của ông như:
Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Mấy Dậm Sơn Khê, Hải Ngoại Thương Ca,
Nhớ Một Chiều Xuân, Niềm Đau Dĩ Vãng, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp…

Ông còn đạo diễn và viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng như: Nửa Đời

Hương Phấn, Mưa Rừng, Đoạn Tuyệt, chẳng hạn với các bút danh: Đông Phương Tử, Vì
Dân, Phương Hà, Phượng Linh…
Theo tài liệu quân sử, thiếu niên Nguyễn Văn Đông (tên thật của ông) bắt đầu binh nghiệp
từ năm 14 tuổi, nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương ở Vũng Tàu năm 1946.
Năm 1952, vừa 20 tuổi ông tốt nghiệp Thủ Khoa, Trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tàu với
cấp bậc Thiếu Úy, sau đó ông thụ huấn tiếp các khóa Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng
Bộ Binh. Ông đã cầm súng chiến đấu khắp các chiến trường Nam Bắc, Móng Cái, Lạng
Sơn, Đồng Tháp Mười, Mộc Hóa, Kiến Tường. Năm 1954, ông là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn Trọng Pháo 553, trẻ nhất Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, khi mới 22 tuổi.
Cấp bậc và đơn vị sau cùng là Đại Tá, thăng cấp năm 1972, lúc 40 tuổi, Chánh Văn Phòng
Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Sau tháng tư đen năm
1975, ông bị cộng sản đày đi lao động khổ sai, suốt 10 năm, họ chỉ trả ông về với gia đình
trong tình trạng bại liệt. Ông từ chối qua Mỹ định cư theo chương trình HO. Ông qua đời
ngày 26 tháng 2 năm 2018 tại Saigon, hưởng thọ 87 tuổi.
Trong tang lễ của cố nhạc sĩ Đại Tá Nguyễn Văn Đông, rất đông dân Saigon đến đưa tiễn
ông về nơi an nghỉ cuối cùng, hình ảnh trên Youtube ghi lại cảnh các cựu quân nhân và
thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa kính cẩn chào tay Người Anh Cả hào hùng và tài ba.
Bắt đầu buổi sinh hoạt là nghi lễ chào quốc kỳ, phút mặc niệm do ông Đào Hiếu Thảo phụ
trách, ca sĩ Như Hương trình bày quốc ca Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, nhạc sĩ Ngô
Nguyên đàn bản “Chiêu Hồn Tử Sĩ”.
Trong phát biểu khai mạc đêm ca nhạc, bà Nguyễn Bích Duyên Day, Trưởng Ban Tổ Chức
nói “đây là sự ủng hộ tinh thần, khích lệ quý báu để cùng tưởng nhớ và vinh danh cố Nhạc
Sĩ, Đại Tá Nguyễn Văn Đông. Ông từng là một chiến sĩ cầm súng chiến đấu, bảo vệ Tổ
Quốc và cũng là một nhạc sĩ nổi tiếng được hàng triệu người mến mộ”.

Theo bà Bích Duyên thì trong chuyến về Saigon mới đây, khi gặp bà Trần Thị
Nguyệt Thu, phu nhân cố Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông, bà Thu ủng hộ chương trình tưởng
niệm được tổ chức tại vùng Hoa Thịnh Đốn và mong ước số tịnh tài thu được sẽ trao đến
các anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa kém may mắn là những chiến hữu của
cố Đại Tá Nguyễn Văn Đông.
Bà Bích Duyên cám ơn tất cả cộng tác viên, ca, nhạc sĩ đều cố gắng đóng góp hết sức mình
trong việc thực hiện buổi ca nhạc mà không nhận thù lao.
Sau đó, luật sư Frederick J Day, phu quân bà Bích Duyên, từng chiến đấu tại Việt Nam
năm 1972, sau khi trở về Mỹ, qua kinh nghiệm bản thân cũng như những tác phẩm nói về
cuộc chiến đã bày tỏ tình cảm gắn bó, thân thiết với quân dân Miền Nam Việt Nam. Ông
ủng hộ nghĩa cử giúp đỡ thiết thực các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa vì họ là
những người đáng thương.
Chương trình văn nghệ do Văn Hữu Nhất Hùng, Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam
Cộng Hòa điều hợp với sự đóng góp của các ca, nhạc sĩ Như Hương, Hiếu Thuận, Sĩ Tuấn,
Hữu Nghị, Thủy Tiên, Nguyễn Xuân Thưởng, Bích Ngọc, Hoàn Vũ, Trọng Tú, Vân Anh,
Kim Phụng, Diễm Trang, Ngô Nguyên, Thành Đặng.
Xen kẻ với các tiết mục ca nhạc có màn đấu giá tặng phẩm với món nữ trang kim cương
do ông bà David Từ, chủ nhân hiệu kim hoàn Dupont tặng, được nhà văn Hồng Thủy trả
giá cao nhất với số tiền 1400 Mỹ Kim. Tiếp theo có mục xổ số với ba tặng phẩm giá trị.
Liên tục chương trình là mục biểu diễn áo dài do nghệ sĩ Huyền Phấn phụ trách với các
hoa hậu, á hậu, người mẫu trong những trang phục độc đáo do những nhà thiết kế và danh
họa sáng tạo với: Thanh Tâm, Kim Hiếu, Bạch Hạc, Kim Liên, Quỳnh Trang, Kim Ngân,
Uyên Ly, Cẩm Linh, Phương Ly, Vivian, Asa Trinh.

Sau phần dạ vũ chương trình ca nhạc “Sắc Hoa Màu Nhớ” kết thúc lúc 11 giờ đêm.
Ban Tổ Chức cho biết qua tổng kết sơ khởi, số tiền gởi về tặng các thương phế binh nơi
quê nhà đạt khoảng 8500 Mỹ Kim.

Chương trình "Sắc Hoa Màu Nhớ" tưởng niệm cỗ Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông
Họp mặt với Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm

Mừng Lễ Độc Lập Hoa Kỳ

Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại hội ngộ
Đào Hiếu Thảo/ Đỗ Hiếu

Sáng chủ nhật 4 tháng 7 năm 2021, một số thành viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại họp
mặt tại tư gia ông bà Phạm Quang Hiệp, Cung Thị Lan tại thành phố Silver Spring,
Maryland lúc 10 giờ 30 để chào đón hai văn hữu hậu duệ của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn:
ông Nguyễn Tường Thiết đến từ Seattle, tiểu bang Washington và ông Nguyễn Tường
Cường bút danh Ngọc Cường từ tiểu bang Ohio.

Ngoài gia chủ, nhà văn Cung Thị Lan và phu quân Phạm Quang Hiệp, đến chung vui có:
nhà văn Hồng Thủy và phu quân Bùi Cửu Viên, nhà văn Đăng Nguyên, nhà văn Lê Thị
Nhị, nhà thơ Lê Thị Ý, nhà văn Trịnh Bình An, văn hữu Thúy Messegee và phóng viên
Đào Hiếu Thảo. Thật bất ngờ và hi hữu mà các Niên Trưởng Viên, Nguyên, Thiết, Niên
Đệ Cường và Thảo đều là cựu quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra, phóng viên Việt Hùng/VOA và cô Xuân Tiên, ái nữ của văn hữu Đăng Nguyên
cũng có mặt chung vui.
Nhà văn Hồng Thủy là đương kim Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại vùng Đông Bắc
Hoa Kỳ, nhà văn Cung Thị Lan, đương kim Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhà
văn Ngọc Cường, Phó Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhà văn Lê Thị Nhị, Tổng

Thư Ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhà văn Lê Thị Ý, Thủ Quỹ Văn Bút Việt
Nam Hải Ngoại, nhà văn Đăng Nguyên, cựu Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại vùng
Đông Bắc Hoa Kỳ, hiện anh là Chủ Tịch Ủy Ban Định Chế Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại,
nhà văn Trịnh Bình An, Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại vùng Đông Bắc Hoa Kỳ.
Mục đích chính hôm nay là thăm viếng xã giao, trao đổi, góp ý, hàn huyên, họp bàn về
sinh hoạt tương lai của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
Được biết, ông Nguyễn Tường Thiết (con trai út của Văn Hào Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam) và anh họ của ông, Nguyễn Tường Cường về vùng Washington DC lần này là để
chuẩn bị lễ giỗ của Văn Hào Nhất Linh. Ông Nhất Linh sinh ngày 27 tháng 7 năm 1906
tại Cẩm Giang, Hải Dương, Bắc Việt và từ giã người thân bằng một liều thuốc độc - ngày
7 tháng 7 năm 1963 tại Saigon để lại di chúc – Xin trích:
“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần
tử đối lập quốc gia là một tội nặng…Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình để cảnh cáo
những người chà đạp mọi thứ tự do”.
Ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà văn, nhà báo, chính trị gia nổi tiếng trong
thế kỷ 20. Ông thành lập Tự Lực Văn Đoàn vào năm 1932, là cấp lãnh đạo của Đại Việt
Dân Chính Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là Chủ Tịch của Việt Bút, tiền
thân của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
Nhân cuộc hội ngộ vào dịp Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, các thành viên Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại, các văn thi hữu đặt vấn đề quảng bá các tác phẩm của Việt Nam ra thế giới bên
ngoài theo tâm nguyện thiết tha của Văn Hào Nhất Linh.
Tuy nhiên, chỉ có hội viên chính thức của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại mới có thể phổ
biến tác phẩm của mình trên diễn đàn Việt PEN. Ngoài ra, do tác dụng và ảnh hưởng của
internet cùng các trang mạng xã hội nên ngày nay ít ai thích đọc sách báo như trước.
Mặt khác, thời đại ngày nay từ Âu, Mỹ, Úc sang Á Châu, trong cộng đồng người Việt
chúng ta hầu như không còn có ai làm công việc phê bình văn học nghệ thuật, hướng dẫn
người đọc, nói lên những nhận xét trung thực, khách quan, đưa ra những ưu khuyết điểm
của các tác phẩm, thơ văn để lôi cuốn người đọc như mục điểm phim dành cho những bộ

phim hay.
Vào ngày thứ bảy 16 tháng 10 năm nay, tân Ban Chấp Hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại
nhiệm kỳ 2021-2023 sẽ ra mắt tại Vùng Hoa Thịnh Đốn.
Hiệp & Lan rất tiếc không thể họp mặt đông đủ các hội viên VBVNHN vì thời gian hạn
chế và nhiều anh chị có những sinh hoạt riêng cùng gia đình trong Ngày Lễ Độc Lập.
Tuy nhiên cuộc họp mặt đã diễn trong không khí thân mật, vui vẻ và kết thúc vào lúc một
giờ rưỡi trưa.

Nhân dịp này: Nhóm Hoa Đô gồm cựu học sinh Võ Tánh, nữ trung học Nha Trang
họp mặt
Sau khi các hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại chia tay, sinh hoạt được tiếp nối với
buổi họp mặt của Nhóm Hoa Đô gồm các cựu học sinh Võ Tánh, nữ trung học Nha Trang

chào mừng lễ Độc Lập năm thứ 245 của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.

Hàng đứng từ trái sang phải: Anh Tốt, anh Hiển, chị Phan Anh, anh Bình, chị Minh
Nguyệt, chị Tuyết Lan, anh Khánh, anh Hiệp, anh Thảo
Hàng quỳ từ tái sang phải : Chị Thanh, chị Ngọc Hoa, chị Cung Lan, chị Bạch Mai Anh,
chị Thu Huyên
Theo thông lệ của nhóm, hội ngộ là để thăm hỏi, hàn huyên, tâm sự, đùa vui, cùng thưởng
thức các món ăn tự làm. Nhưng lần hội ngộ này cả nhóm đề nghị Cung Lan làm món bánh
căn. Bánh căn là món ăn rất bình dân nhưng ai đã từng ở Nha Trang trước năm 1975 đều
hồi tưởng thời thơ ấu ngồi quanh người đúc bánh căn để thưởng thức những chiếc bánh
tròn nho nhỏ từ những khuôn đất nung để chắm với nước mắm thơm cà và hành mỡ béo
ngậy. Cảnh ngồi chờ ăn bánh căn đã làm cho các cựu nữ sinh trung học Nha Trang nhớ lại
những lần các cô học trò trong áo dài trắng ngày xưa rủ nhau đi ăn quà vặt lúc tan trường.
Hôm nay tác giả được biết từ thực tế rằng Cung Lan làm bánh căn từ gạo ngâm với nước
khoảng 9 tiếng đồng hồ rồi xay nhuyễn với cơm nguội trước khi đổ vào khuôn đất nóng
mà không cần dùng dầu ăn quét khuôn.
Khuôn nướng bánh căn gồm các lỗ tròn hình chén có nắp đậy. Đổ bột vào khuôn nướng
gần chín thì quét lên mặt một lớp mỏng hột gà đã đánh bông lên, đậy nắp cho chín, thêm
chút hành mỡ trên mặt và nạy bánh ra. Bánh chín nóng dòn thơm ngon ăn với nước chắm
và xoài xanh xắt mỏng. Nước chấm phải làm thật ngon thì mới đúng điệu. Nước chắm
được nấu với nước cốt của trái khóm, cà chua, đường và một chút nước lọc cho vừa ăn.

Cô Cung Lan “chủ quán bánh căn” nói, muốn đãi một bữa như vầy thì cần phải chuẩn bị
cẩn thận, giữ an toàn tuyệt đối, muốn nướng bánh lộ thiên trên sàn gỗ thì cần sắp đặt chỗ,
lò nướng than kê trên nhiều lớp gỗ chống cháy, anh Hiệp còn tự đóng các ghế đẩu để thực
khách ngồi thưởng thức món ăn khoái khẩu giống như ở chợ Đầm Nha Trang thời xưa thì
mới thưởng thức được trọn vẹn.
Không những chỉ có bánh căn mà còn bao nhiêu đặc sản khác được chiêu đãi trong buổi
họp mặt hôm đó như: các món khai vị, bánh nậm, bánh ít, bánh bột lọc, bò bía, bún thịt
nướng, xôi vò, bún riêu, các loại bia rượu, nước giải khát, các món tráng miệng, chè bà ba.
Có thêm một bánh rất đặc biệt mà không ai có thể từ chối đó là món bánh xu xê. Bánh xu
xê còn gọi là bánh phu thê thường được đãi trong các tiệc cưới hỏi ở Việt Nam.
Sau khi chụp hình lưu niệm và mục “hát cho nhau nghe” với những bài ca được yêu
chuộng như: “Bài Ca Hạnh Ngộ” của Lê Uy Phương, “Còn Yêu Em Mãi” của Nguyễn
Trung Cang, “ Mai” của Quốc Dũng, “Que Sera, Sera”… Anh chị em chia tay lúc 9 giờ
tối và hẹn tái ngộ một ngày gần đây.

Th2

Speaking to Mr. Marc Knapper
New US Ambassador to Vietnam

January 10, 2022

I would like to thank Mr. Marc Knapper, the new US Ambassador to Vietnam, and Dr.
Nguyễn Quốc Quân for giving me the opportunity to talk about the human rights situation
in Vietnam as a former prisoner of hard labor following April 1975 and as a former Radio
Free Asia reporter.

This is a valuable opportunity for me, since I hope to speak for the people inside Vietnam
who are unable to express themselves freely, especially those who will never get a chance
to speak after being murdered by the communists.

As you already know, Vietnam holds one of the highest number of prisoners of conscience
(nearly 300 people), including spiritual leaders, democracy activists, writers, journalists,
bloggers, people who lost their land without proper compensation, among them are many
women with young children.

In fact, hundreds of these prisoners of conscience are just patriots who have expressed
their desire for Vietnam to be free, democratic, and respectful of human rights by peaceful
and non-violent means.

Hanoi punished these political prisoners with harsh sentences, some of them from 5 to 15
years in prison; plus many years of house arrest after being convicted of vague crimes;
such as spying for foreign countries, or plotting to overthrow the government, or abusing
democratic freedoms, or causing harm to the state and people.

They are detained thousands of kilometers away from home, in extremely harsh
conditions, without health care or visits from their relatives. Some inmates went on hunger
strike for weeks to demand better treatment.

I also had a chance to talk to Ambassador Daniel Kritenbrink and Consul General Marie
D'Amour, and I have mentioned the case of people in police custody who died
mysteriously (more than 250 people in total, including women) and whose families were
told by police that their relatives had committed suicide. Upon receiving their bodies, the
families saw signs of torture, including cut marks on their throat.The story of victims being
murdered in police stations still happens to this day.

I would like also to take this opportunity to bring to your attention the specific cases of
Ms. Phạm Đoan Trang and Mr. Bùi Văn Thuận. These two brave people have publicly said
that even if they are released from prison, they would not want to be sent to the United
States as a bargaining chip between the two countries.

Mr. Ambassador,

You already know that Vietnamese practice a number of religions such as Buddhism,
Christianity, Hòa Hảo, and Cao Đài. Only religions controlled by the state are allowed to
practice freely; while other genuine religions are either banned, suppressed, persecuted, or
harassed.

Exactly two years ago, around 4:00 a.m. on February 9, 2020, which was two weeks
before Tết, the communists mobilized thousands of heavily armed riot police to attack
Đồng Tâm village.They raided, shot and killed innocent people because these poor people
did not want the authorities to take their ancestors’ land for an airport project near Hanoi.

Thank you for your precious time, Mr. Ambassador. Wishing you and your family a happy
and successful New Year 2022.

Best regards,

Thao Hieu Dao
Former Vietnamese Air Force Officer (1968-1975)
Former Political Prisoner (1975-1981)
Journalist with Radio Free Asia (1997-2013)

Tang lễ ông Bùi Diễm, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa
tại Hoa Kỳ (1967-1972)

Đào Hiếu Thảo

Cựu Đại Sứ Bùi Diễm từ trần ngày chủ nhật 24 tháng 10 năm 2021 tại tư gia thuộc thành
phố Potomac, tiểu bang Maryland, hưởng thượng thọ 98 tuổi.
Tang lễ được cử hành tại nhà quàn Robert A. Pumphrey ở Bethesda, tiểu bang Maryland.
Chương trình thăm viếng vào chiều thứ ba 2 tháng 11, 2021 từ 4 giờ đến 8 giờ. Nghi thức
tiễn đưa ông theo Phật Giáo vào ngày hôm sau, thứ tư 3 tháng 11 chỉ dành riêng cho gia
đình.
Ông Bùi Diễm sinh năm Quý Hợi 1923 ở Hà Nam, Miền Bắc Việt Nam. Ông là học sinh
trường Bưởi và sau này vào trường sĩ quan Lục Quân tại Yên Bái. Từ năm 1944, ông là
Đảng Viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và từng tham gia phong trào dành độc lập cho nước

nhà.
Từ năm 1954 đến 1963 ông cộng tác với Saigon Post, tờ báo đầu tiên ở Saigon xuất bản
bằng Anh Ngữ. Ông cũng thành lập hãng phim Tân Việt thực hiện cuốn phim “Chúng Tôi
Muốn Sống” năm 1956 với đạo diễn Vĩnh Noãn và Manuel Conde. Cuốn phim này đã gửi
một thông điệp chính trị tố cáo tội ác của cộng sản Miền Bắc trước công luận quốc tế sau
khi đất nước bị chia đôi vào tháng 7 năm 1954.
Năm 1965 ông giữ chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong nội các của Thủ Tướng Phan
Huy Quát. Từ năm 1965 đến năm 1967 ông là Ủy Viên Ngoại Giao trong Ủy Ban Hành
Pháp Trung Ương của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Từ 1967 đến 1972 ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử làm Đại Sứ VNCH tại
Hoa Kỳ. Sau tháng tư năm 1975 ông và gia đình định cư tại Rockville, Maryland. Ông là
giảng viên tại Đại Học George Mason, là Học Giả tại Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế
Woodrow Wilson và Viện Doanh Nghiệp Hoa Kỳ.
Năm 2019 cựu Đại Sứ Bùi Diễm giúp Alex Thái Võ thực hiện bộ phim tài liệu của “Dự án
lịch sử truyền khẩu về cuộc chiến Việt Nam” trong tiến trình hoàn thành luận án Tiến Sĩ
Sử Học của anh.

Chữ ký của ông cựu Đại Sứ Bùi Diễm, (màu xanh và màu vàng là của Alex Thái Võ)
“Dự án lịch sử truyền khẩu về cuộc chiến Việt Nam” ngày 2 tháng 3 năm 2019

Ra mắt “Dự án lịch sử truyền khẩu về cuộc chiến Việt Nam” của Tiến Sĩ Alex Thái Võ
tại đại học George Mason, VA- 2 tháng 3 năm 2019

Ký tặng USB “Vietnam War Oral History Project” tại đại học George Mason, VA
Ông cũng tham gia các sinh hoạt chính trị và truyền thông, là Cố Vấn của Nghị Hội Toàn
Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ (National Congress Of Vietnamese American). Ông phụ
trách câu chuyện hàng tuần “Việt Nam Nhìn Từ Bên Ngoài” trên Đài Á Châu Tự Do
(RFA) từ năm 1997 đến 2003 trong thời gian Giáo Sư Tâm Thiện Nguyễn Ngọc Bích là
Giám Đốc Ban Việt Ngữ.
Năm 2000 ông xuất bản hồi ký “The Jaws of History” và được dịch qua tiếng Việt với tựa
đề “Gọng Kìm Lịch Sử”. Năm 2004 ông ra mắt cuốn “Vietnamese Economy and Its
Transformation to an Open Market System” (Kinh tế Việt Nam và sự chuyển đổi sang hệ
thống thị trường mở).
Các ý kiến trên diễn đàn nói: suốt đời cựu Đại Sứ Bùi Diễm đã đóng góp rất nhiều cho
chính thể Việt Nam Cộng Hòa qua những lãnh vực chính trị, ngoại giao, phim ảnh và
truyền thông.

Lễ cầu siêu cho Phật Tử Bùi Diễm tại Chùa Kỳ Viên ngày 26 tháng 10/2021
Theo tâm nguyện của ông Bùi Diễm, gia đình xin miễn chấp điếu và vòng hoa. Bằng Hữu
có lòng xin đóng góp vào quỹ của:
Chùa Kỳ Viên 1400 Madison Street, NW. Washington DC 20011

Hay:
Hội Đồng Trung Ương Hướng Đạo Việt Nam (https://hdtuhdvn.com)



Thánh lễ cầu Hồn cho Phu Nhân cố Tổng Thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu

Đào Hiếu Thảo
Thánh lễ cầu nguyện cho Linh Hồn bà Christine Nguyễn Thị Mai Anh, Phu Nhân cố Tổng
Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu được cử hành lúc 12 giờ trưa chủ nhật 7
tháng 11 năm 2021 tại Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thành phố Arlington,
Virginia do Linh Mục Giuse Đặng Quốc An, Linh Mục Vincentê Đinh Ngọc Thảo, Linh
Mục Giuse Vũ Minh Tiến và Linh Mục Phêro Nguyễn Đình Phương đồng tế.

Bà Nguyễn Thị Mai Anh sinh năm Canh Ngọ 1930 tại Mỹ Tho và đã yên nghỉ tại San
Diego County, Nam California ngày 15 tháng 10 năm 2021 hưởng thượng thọ 91 tuổi.
Bà Mai Anh trở thành đệ nhất Phu Nhân khi ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống
Việt Nam Cộng Hòa năm 1967. Bà hoàn toàn không can dự vào chính trị chỉ thường xuyên
tham gia vào các hoạt động xã hội, từ thiện và lo lắng cho gia đình.
Cha Xứ Giuse Đặng Quốc An nhắc nhớ đến lòng bác ái, tính đức độ và những nghĩa cử
nhân hậu của cố Đệ Nhất Phu Nhân Christine Nguyễn Thị Mai Anh, một phụ nữ gương
mẫu luôn quan tâm đến đời sống gia đình của các binh sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
và dành trọn thời giờ cho các hoạt động xã hội trên khắp mọi miền đất nước.
Bà có sáng kiến xây dựng bệnh viện Vì Dân với 400 giường tại Khu Ngã Tư Bảy Hiền,
Saigon theo tiêu chuẩn quốc tế, khánh thành ngày 20 tháng 3 năm 1973 để chăm lo sức
khỏe cho dân nghèo. Bệnh viện Vì Dân là bệnh viện lớn và tân tiến nhất ở Việt Nam lúc
bấy giờ.
Bà cũng yểm trợ mạnh mẽ Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, là học đường dành riêng cho con
em các tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Bà đã thành lập “Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội” năm 1968 để an ủi, giúp đỡ những quả
phụ, cô nhi có chồng hay cha hy sinh vì Đất Nước trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự
Do. Bà thường đi ủy lạo các thương bệnh binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa cũng như trên
khắp bốn Vùng Chiến Thuật.
Ông bà Nguyễn Văn Thiệu thành hôn năm 1951 có bốn người con, hai gái Nguyễn Thị
Tuấn Anh, Nguyễn Thị Phương Anh và hai trai Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Thiệu Long.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời ngày 29 tháng 9 năm 2001 tại Boston,
Massachussetts, hưởng thọ 78 tuổi.
Thánh lễ cầu nguyện cho cố đệ nhất Phu Nhân Nguyễn Văn Thiệu do bà quả phụ cố Đề
Đốc Lâm Ngươn Tánh, cựu Tư Lệnh Hải Quân VNCH đứng xin phép và được Giáo Xứ
các Thánh Tử Đạo Việt Nam chấp thuận. Cố Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh là Cha Đỡ Đầu
của trưởng nam ông bà Nguyễn Văn Thiệu.

Bà Quả phụ cố Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh và phóng viên Đào Hiếu Thảo
Buổi lễ cầu hồn có sự hiện diện của hàng trăm tín hữu trong đó có đại diện Cộng Đồng
Việt Nam, Liên Hội cựu Chiến Sĩ VNCH Vùng Washington DC, Maryland & Virginia.

Th2

MC tang lễ cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu năm 2001

Lời chỉ dạy của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Tưởng niệm Anh Hùng Dân Tộc Nguyễn Trung Trực

Đào Hiếu Thảo phóng viên TMMĐ VA

Đại Lễ tưởng niệm Vị Anh Hùng Dân Tộc Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung
Trực được long trọng cử hành vào trưa chủ nhật 3 tháng 10 năm 2021 tại An Hòa Tự, trụ
sở Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo Vùng Washington DC đặt tại thành phố Silverspring,
Maryland, Hoa Kỳ.

Chương trình khai mạc với lễ chào quốc Kỳ Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng
Hòa và Phút Mặc Niệm do MC Duy Linh phụ trách. Tiếp theo là phần giới thiệu quan
khách và đại diện truyền thông báo chí.
Kế đó là phần hành lễ theo nghi thức cổ truyền của Phật Giáo Hòa Hảo do ông Phan Ngọc
Hân phụ trách.
Ông Hà Nhân Sinh, Hội Trưởng Ban Trị Sự chào mừng quan khách đồng thời vinh danh
công ơn cứu nước của Vị Anh Hùng Áo Vải trung hiếu vẹn toàn Nguyễn Trung Trực. Ông
là một trong Tứ Kiêt gồm Trương Công Định, Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân tại
Vùng Nam Bộ đã tiên phong mộ binh khởi nghĩa ngăn chống giặc Pháp xâm lược nước ta.
Ông Phan Nhất Lĩnh tuyên đọc lược sử của Ngài Nguyễn Trung Trực, tên thật là Nguyễn
Văn Lịch, thường được gọi là Chơn, sinh năm 1837 (Định Dậu) người làng Bình Nhựt,

nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Từ thuở nhỏ mồ côi cha,
gia đình ông mấy đời sống bằng nghề chài lưới.
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Theo lời kêu gọi của Vua
Tự Đức, ông đã chiêu mộ quân sĩ quyết gìn giữ đại đồn Chí Hòa dưới quyền của Trương
Công Định. Ông áp dụng chiến thuật du kích đánh đuổi quân Pháp.
Ngày 11 tháng 12 năm 1861, ông đem nghĩa binh tấn công chiến thuyền Espérance tại
Vàm Nhật Tảo (Tân An) tiêu diệt toàn bộ thủy thủ, bêu đầu tên thuyền trưởng trung tá
Parfait. Ông còn đánh phá đồn địch ở Thủ Thừa, Bến Lức, Long Thạnh, Phú Lâm, Bà
Hom…
Chiếm đồn Pháp thì dễ nhưng giữ đồn mới khó, quân Pháp kéo đến với vũ khí hùng hậu,
sau mấy ngày đêm chống cự, yếu thế ông rút binh sang đảo Phú Quốc. Pháp sai lãnh binh
tên Tấn dụ ông ra hàng, không tìm được tung tích ông, Việt gian Tấn bắt mẹ ông và tra tấn
dân làng. Nghe tin chẳng lành, ông ra nạp mình, giữ tròn câu hiếu nghĩa, một mực từ chối
mọi sự mua chuộc của thực dân Pháp.
Ngày 27 tháng 10 năm 1868 (Mậu Thìn), thực dân Pháp đem ông ra hành quyết tại Kiên
Giang (Rạch Giá) do một tên dân Thổ làm đao phủ, người Việt không ai chịu làm việc
điếm nhục ấy. Dù Ông mất đi ở tuổi đời 31, nhưng khí phách anh hùng vẫn sống mãi với

non sông.
Được tin ông hy sinh, Vua Tự Đức cho lệnh làm lễ Truy Điệu và sắc phong Ông Thượng
Đẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã thà chịu chết chứ nhất
định không đầu hàng giặc Pháp.
Nhà văn, Thi sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đã tán thán công trạng của ông trong hai câu thơ:
“Hỏa Hồng Nhật Tảo Oanh Thiên Địa
Kiếm Bạt Kiên Giang Khiếp Quỉ Thần”.
Anh Hùng Nguyễn Trung Trực không chỉ là một Vị Linh Thần, ông còn được sự kính
trọng của những tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vì có triết lý sống: Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa. Bá
tánh tin tưởng ông đã ẩn trong xác phàm của Huỳnh Giáo Chủ để truyền bá Đạo Giáo nên
tôn kính ông là Tăng Bảo trong Phật Giáo Hòa Hảo.
Chương trình được tiếp nối với phần Thi Văn Giáo Lý do cô Hiền Trịnh và anh Bảo Linh
diễn ngâm. Sau phần phát biểu cảm tưởng của ông Đỗ Hiếu, cựu phóng viên Đài Á Châu
Tự Do là văn nghệ nhắc nhớ về tấm gương trung hiếu, vẹn toàn và bất khuất của vị Anh
Hùng Dân Tộc.
Buổi lễ hoàn mãn vào lúc hai giờ trưa sau bữa cơm chay thân mật.
Truyền Hình Việt Nam Vùng Hoa Thịnh Đốn, trực tiếp phát hình qua Facebook &
YouTube. Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ/VOA thực hiện phóng sự cộng đồng và tuần báo
Thương Mãi Miền Đông VA có bài tường thuật đến đọc giả gần xa.

Th2

Hình chup với Chuẩn Tướng Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng Không Quân

Kỷ niệm ngày thành lập quân trường Thủ Đức năm thứ 66

Tưởng niệm kỹ sư Nguyễn Ngọc Khang

20 năm, một chặng đường dài! Mà niềm đau như mới đến hôm qua!
Đỗ Hiếu

Trong hoàn cảnh khó khăn với đại dịch cúm Vũ Hán từ tháng 2/2020 đến nay, nhiều giới
hạn bởi luật pháp, phải tuân hành sự giãn cách xã hội nên việc cử hành lễ tưởng niệm anh
Nguyễn Ngọc Khang thật nhiêu khê, tưởng chừng như khó có thể thực hiện được.
Kỹ Sư Nguyễn Ngọc Khang - 41 tuổi - là người Viêt Nam duy nhất đã hy sinh tại nhiệm
sở trong Ngũ Giác Đài ngày 11 tháng 9 năm 2001 khi quân khủng bố gây ra cuộc thảm sát
dã man tại New York, Washington DC và Pennsylvania cướp đi mạng sống của hàng ngàn
người.
Nhờ sự tiếp tay nhiệt thành của bằng hữu, bà con, họ hàng, chị Hồ Nguyễn Anh Tú (quả
phụ của anh Ngọc Khang) bằng mọi cách có thể, đã tổ chức buổi tưởng niệm vào trưa chủ
nhật 29 tháng 8 năm 2021 tại hội trường Historic Blenheim, thành phố Fairfax, Virginia
với sự hiện diện của trên 100 quan khách Việt Mỹ.
Năm nay, lần giỗ thứ 20 của anh Nguyễn Ngọc Khang, cũng là năm cháu Nguyễn Hồ
Ngọc An tốt nghiệp Đại Học với Bằng Master of Science in Software Engineering của
George Mason University. Khi cha tử nạn cháu Ngọc An mới được 4 tuổi, thật là những
năm dài không dễ dàng gì cho hai mẹ con chị Hồ Nguyễn Anh Tú. Vừa làm mẹ, chị còn
thay chồng làm cha dạy dỗ, uốn nắn cho con trai được như ngày hôm nay, chắc hẳn không
phải là không có sự giúp đỡ tận tình của hai bên gia đình nội ngoại và linh hồn Anh
Khang, ở đâu đó luôn dõi theo và phù hộ cho chị và cháu.
Chương trình được khai mạc với lễ chào quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và Phút
Mặc Niệm.
Một đoạn video ghi lại cảnh quân khủng bố đã cướp máy bay dân sự đâm thẳng vào góc
của tòa nhà Pentagon ngày Nine-One-One năm 2001 và hình ảnh tang lễ anh Nguyễn
Ngọc Khang sau đó được trình chiếu, làm trong hội trường ai cũng khó cầm nước mắt.
Dì của cháu Ngọc An, Annie Hồ trong hoàn cảnh tuyệt vọng, đau buồn của gia đình chị
Anh Tú lúc ấy đã soạn “Bài viết cho Bé An”sau khi cháu mất cha, được cô Jennie Lê đọc

như nén hương lòng gửi người khuất bóng và cũng để nhắc nhớ đến anh Khang,
một người con hiếu thảo, một người chồng rộng lượng, một người cha gương mẫu, ca sĩ
Như Hương trình bày nhạc phẩm “Cha Yêu” đến mọi người.
Cháu Ngọc An được dịp bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình nội ngoại, đặc biệt là bà ngoại
Nguyễn Thu Thủy, quý thầy cô đã có công dưỡng dục, rèn luyện cho mình được như ngày
hôm nay, đỗ đạt và có vị trí xứng đáng trong xã hội.
Ngọc An cùng các em Diễm Anh Phạm, Diễm Tiên Phạm trong gia đình và bạn Nancy Đỗ
trình bày ca khúc “Ơn Nghĩa Sinh Thành” một sáng tác của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Trong phần chia sẻ cảm nghĩ của mình, chị Anh Tú nhắc lại hành trình gian nan, khó nhọc
sau khi mất anh Ngọc Khang, đứa con trai duy nhất lại thường xuyên đau yếu. Những
tháng năm gay go ấy được ghi lại trong video “Nhật ký của một Người Mẹ” với những
hình ảnh sống thực trong 20 năm phấn đấu, bương chải, kiếm sống của hai mẹ con Anh Tú
& Ngọc An cũng được chia sẻ trên màn ảnh với quan khách hiện diện.
Một số thân hữu được mời phát biểu như: ông Võ Thành Nhân, bạn học của anh Nguyễn
Ngọc Khang tại Đại Học Maryland năm 1980, ông Bùi Mạnh Hùng, cựu Phó Chủ Tịch
Nội Vụ Cộng Đồng Việt Nam Vùng DC, MD & VA, cô Nguyễn Kim Oanh, Giáo Sư
Trung Học Gia Long-Saigon, ông Hà Văn Sang, cựu Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia
quận Đức Thịnh, tỉnh Sadec.
Người bạn Mỹ trình bày cảm tưởng là Cô giáo Jane Dull, người đã tận tình dạy dỗ, hết
lòng dẫn dắt cháu Ngọc An học tiếng Anh từ lớp 4 đến lớp 12, nhờ vậy mà An luôn đạt
kết quả xuất sắc trong môn này, không những cô trau dồi cháu về ngôn ngữ mà còn rèn
luyện cho cháu tinh thần lạc quan trong cuộc sống.
Góp phần vào các tiết mục ca nhạc có Đại Đức Thích Từ Giác, Đại Đức Thích Pháp Quán
(Chùa Hoa Nghiêm), các ca sĩ: Như Hương, Loan Phượng, Hiếu Thuận. Kết thúc chương
trình văn nghệ, nhiều quý vị trong hội trường đã lên sân khấu phụ họa Kelly Phương Linh
trong nhạc phẩm “Mình Ơi”.


Click to View FlipBook Version