The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bài tập cuối kì Môn Văn hóa nghệ thuật

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Duyên Xavi, 2022-10-03 21:58:06

Thư Pháp Trong Văn hóa Trung Hoa

Bài tập cuối kì Môn Văn hóa nghệ thuật

Keywords: thuphap

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VĂN HÓA HỌC

ĐỀ TÀI
NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP TRUNG HOA

Môn: Văn hóa nghệ thuật
GVHD: Ths. Ngô Anh Đào
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích Duyên
MSSV: 1756110032

TP. HỒ CHÍ MINH, 06/2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu..............................................................3
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn.........................................................................................4
5.1 Cơ sở lý luận.......................................................................................................4
5.2 Cơ sở thực tiễn....................................................................................................4
5.2.1 Khái quát về đất nước Trung Hoa..................................................................4
5.2.2 Khái quát về nền văn minh Trung Hoa..........................................................5

NỘI DUNG
1. Sơ lược về sự ra đời của chữ Hán.............................................................................6
2. Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa..............................................................................7
2.1 Sự ra đời cuur nghệ thuật thư pháp Trung Hoa..................................................7
2.2 Thư pháp dưới các triều đại trong lịch sử Trung Hoa........................................12
2.3 Công cụ để viết thư pháp..................................................................................19
2.4 Những yêu cầu đối với người viết thư pháp......................................................21
3. Các thư pháp gia cùng các tác phẩm tiêu biểu..........................................................23
4. Ảnh hưởng của thư pháp Trung Hoa đến các quốc gia khác...................................26
4.1 Nhật Bản............................................................................................................26
4.2 Hàn Quốc.......................................................................................................... 27
4.3 Việt Nam...........................................................................................................28
5. Ảnh hưởng của nghệ thuật thư pháp đến các nghệ thuật khác...............................29
6. Kết luận...................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Hoa là quốc gia có nền văn hóa lâu đời, có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc
gia lân cận trong khu vực. Nói đến văn hóa Trung Hoa không thể không nói đến thư pháp
– một trong những tinh hoa văn hóa, đã được hình thành và lưu truyền qua rất nhiều thế hệ.
Đây cũng được xem là một trong những thành tựu văn hóa lớn nhất của người Trung Hoa.
Thư pháp Trung Hoa là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa, mỗi
thời kì phát triển của thư pháp luôn gắn với một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa. Lựa
chọn đề tài này là cơ hội quý báu để bản thân tiếp cận và nghiên cứu nghệ thuật thư pháp
nói riêng và văn hóa Trung Hoa nói chung, qua đó vận dụng những kiến thức của môn Văn
hóa nghệ thuật vào thực tiễn nghiên cứu và tìm hiểu, tích lũy những kiến thức quý báu để
phục vụ cho môn học “Văn hóa nghệ thuật”.
Nói đến thư pháp là nói đến khổ luyện. Người Trung Quốc có câu: “Học thư vô nhật
bất lâm trì”, có nghĩa là học viết thư pháp thì ngày nào cũng phải khổ luyện, từ ngữ “lâm
trì” ý nói đến công phu khổ luyện thư pháp. Qua nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật thư pháp
của Trung Hoa”, giúp bản thân ngộ ra nhiều giá trị tốt đẹp, là những hành trang vô cùng
quý báu giúp bản thân học tập và rèn luyện tốt hơn. Cũng thông qua đề tài này có thể củng
cố kiến thức về các loại hình nghệ thuật, qua đó có sự so sánh và đối chiếu và đưa ra quan
điểm cá nhân.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu với mục đích tìm hiểu về nghệ thuật thư pháp của Trung Hoa. Hiểu
được giá trị và ý nghĩa của nghệ thuật này và ảnh hưởng của nó đến văn hóa Trung Hoa và
các quốc gia trong khu vực.
Đưa ra những ý kiến nhận xét và quan điểm cá nhân về nghệ thuật thư pháp của Trung
Hoa dựa trên những kiến thức của môn học.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nghệ thuật thư pháp của Trung Hoa.

2

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp tư liệu: phân loại và
sàng lọc các nguồn tư liệu thứ cấp sau đó hệ thống hóa lại.
Nguồn tư liệu: Nguồn tư liệu thứ cấp được sưu tầm, tổng hợp từ các sách, báo, và mạng
xã hội.
5. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
5.1 Cơ sở lí luận
Khái niệm văn hóa
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình.”
Khái niệm về nghệ thuật
Mỗi thời đại, nơi chốn, cộng đồng, hoàn cảnh cụ thể nào đó, sở hữu những khái niệm
nghệ thuật khác nhau. Và chính những khái niệm nghệ thuật khác nhau đó, sẽ tổ chức các
thực hành nghệ thuật khác nhau của mỗi thời đại, nơi chốn, cộng đồng và hoàn cảnh khác
nhau. Nghệ thuật là hình thái ý thức phản ánh tư duy tình cảm, tình cảm, cảm xúc của con
người trước hiện thực khách quan.
Văn hóa nghệ thuật
Theo PSG. Tạ Văn Thành: “Văn hóa nghệ thuật là sự phát triển năng lực nghệ thuật
(thụ cảm, nhận thức, sáng tạo nghệ thuật) của con người, thể hiện tra trong các hoạt động
nghệ thuật) và kết tinh lại ở các giá trị nghệ thuật.”
Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa
Thư pháp Trung Hoa (中华的書法) hay còn gọi là nghệ thuật viết chữ Hán, được xem

là một loại hình nghệ thuật rất cao. Thư pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp hay thư pháp là
phép viết chữ được nâng lên thành một nghệ thuật. Có thể hiểu thư pháp là nghệ thuật thể
hiện chữ viết và là phương tiện để bày tỏ tâm thức của con người. Với ý nghĩa này, thư
pháp trở thành một nghệ thuật biểu đạt mỹ cảm của mỗi dân tộc, chí hướng, tâm tư và tình
cảm chủquan, có giá trị đạo đức và giá trị mỹ học.Có nhiều trường phái nhưng cơ bản được

3

chia thành thư pháp phương đông bắt nguồn từ Trung Quốc phổ biến ở vùng văn hoá chữ
Hán, thư pháp tại phương tây còn gọi là calligraphy với phong cách khác biệt khi nét chữ
được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ; và thư pháp Ả rập là một khía cạnh của nghệ thuật
hồi giáo được phát triển song song với đạo Hồi và ngôn ngữ Ả rập.

5.2 Cơ sở thực tiễn
5.2.1 Khái quát về đất nước Trung Hoa
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một quốc gia có chủ quyền nằm tại Đông Á.
Đây là quốc gia đông dân nhất trên thế giới, với số dân trên 1,35 tỷ người. Với diện tích
xấp xỉ 9,6 triệu km², là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ nhì trên thếgiới. Lãnh thổ Trung
Quốc ngày nay rộng mênh mông nhưng Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều, nó
được mở rộng qua hàng nghìn năm chính chiến mở rộng bờ cõi của các bậc tiền nhân.
Trung Quốc chính thức công nhận 56 dân tộc riêng biệt, dân tộc đông dân nhất là người
Hán, chiếm khoảng 91,51% tổng dân số.Người Hán là dân tộc đơn lẻ lớn nhất trên thế giới.
Chữ Hán được sử dụng làm văn tự chính thức cho các ngôn ngữ Hán từ hàng nghìn năm,
tạo điều kiện cho người nóicác ngôn ngữ và phương ngôn Hán không hiểu lẫn nhau có thể
giao tiếp thông quavăn tự. Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa

giáo.
5.2.2 Khái quát về nền văn minh Trung Hoa cổ đại
Một đặc điểm mà chúng ta dễ dàng nhận thấy đối với nền văn minh phương Đông thời

cổ đại, như văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Quốc, văn minh Lưỡng
Hà… tất cả đều hình thành trên lưu vực các con sông lớn. Tương tự như vậy, Trung Quốc
có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hà
và sông Trường Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-
đông và hằng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.
Hoàng Hà và Trường Giang từ xưa thường gây ra nhiều lũ lụt, nhưng qua đó đã bồi đắp
cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công
cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn
minh Trung Quốc cổ đại. Trung Quốc có một nền văn hóa lâu đời và phức tạp nhất trên thế
giới. Nền văn minh Trung Hoa cổ đại được biết đến với những thành tựu nổi bật như: phát

4

minh ra thuốc súng, la bàn, nghề làm giấy và in. Tuy nhiên, một trong những thành tựu
khiến người Trung Hoa luôn tự hào chính việc phát minh ra chữ viết. Hán tự được xem
như một trong những thành tựu lớn nhất, là dấu mốc quan trọng đánh giá sự phát triển của
nền văn minh Trung Hoa cổ đại. Từ chữ Hán mà nghệ thuật viết thư pháp được manh nha
và phát triển, trở thành một trong những loại hình nghệ thuật tiêu biểu của nền văn hóa
Trung Hoa từ cổ chí kim cho đến hiện tại.

NỘI DUNG
1. Sơ lược về sự ra đời của chữ Hán

Chữ Hán là một trong những ngôn ngữ ra đời sớm nhất thế giới. Đã có rất nhiều giả
thiết về sự ra đời của ngôn ngữ tượng hình này. Đầu thế kỷ thứ 10 các nhà khảo cổ phát
hiện hệ thống chữ viết xưa trên xương cốt, mai rùa mà nội dung của nói liên quan đến việc
bói toán (bốc) có niên đại thuộc nhà Thương (sau đổi tên thành nhà Ân) chữ viết lên xương
cốt gọi là Giáp Cốt Văn. Các nhà khảo cổ còn phát hiện các chữ viết được viết trên các
chuông vạc bằng đồng thời nhà Chu gọi là Chung Đỉnh Văn. Ban đầu chữ viết chỉ dùng để
mô tả hình tượng nên gọi là Văn, tức là hình thức bề ngoài. Về sau bổ sung thêm hình thức
ghi nhận thanh (thanh điệu) trong chữ viết nên gọi là Tự. Chữ viết từ đó sinh ra nhiều từ
mới và phát triển bằng hệ thống hình thanh. Chữ viết lúc bấy giờ được viết lên thẻ tre, lụa
gọi là Thư. Thời Chu hệ thống chữ viết của người Trung Quốc đã phát triển hoàn thiện
nhưng số lượng từ vựng không nhiều quá 2.500 chữ. Ngày nay số từ vựng đã có vài chục
ngàn. Chữ viết Trung Hoa thời đó là những hình biểu ý, nghĩa là vẽ phác vật mình muốn
chỉ. Chẳng hạn như:
Muốn chỉ Mặt Trời, Trung Hoa vẽ , sau thành chữ 日 (từ Hán – Việt nghĩa là nhật)

Muốn chỉ khu ruộng, Trung Hoa vẽ , sau thành chữ 田 (từ Hán – Việt nghĩa là điền)
Muốn chỉ cái miệng, Trung Hoa vẽ ,sau thành chữ 口 (từ Hán – Việt nghĩa là khẩu)
Chữ Hán có sáu nguyên tắc cấu tạo, gọi là "Lục Thư". Lục thư là: tượng hình, chỉ sự, hội
ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá.

5

• Tượng hình: dựa theo hình các sự vật mà viết thành chữ, như hình núi có các ngọn
núi, cho nên chữ “sơn” biểu thị bằng ba nét nhọn. Chữ “ộc” nghĩa là cây, cho nên
có ngọn, có gốc. Chữ “điề” là ruộng thì có từng thửa đất.

• Chỉ sự: dựa theo sự việc mà đặt ra chữ. Chẳng hạn: trời mưa thì có mây đen che
phủ, rồi nước rơi xuống, vì vậy, chữ “vũ” 雨 có chấm “thủy”. Vì vậy, khi nhìn thấy

mặt chữ ta có thể hiểu ngay đại thể, quan sát kỹ thì có thể hiểu được ý nghĩa của
nó.
• Hội ý: lấy hai chữ hợp lại mà thành một chữ có ý nghĩa mới; nói cách khác là ghép
vài ba ký hiệu tượng hình để biểu thị ý nghĩa mới của một từ. Ví dụ: 1 cây đơn
độc thì dùng chữ mộc – 木 nhưng nhiều cây ghép lại 2 chữ mộc – 林 lại thành

chữ “lâm” nghĩa là “rừng”.
• Hình thanh: ghép những chữ có sẵn thuộc loại tượng hình và loại âm thanh để hình

thành loại chữ mới; vì vậy đây cũng là loại chữ hợp thể. Đó là điểm khác với chữ
tượng hình và chỉ sự. Tuy ghép những chữ có sẵn thành chữ mới, nhưng thế nào
cũng có một chữ thuộc về “âm thanh”; điểm nầy khác với chữ hội ý. Ví dụ: chữ
“chi” (nghĩa là cỏ thơm) thì kết hợp bởi chữ “thảo” (là cỏ) cọng thêm với chữ “chi”
là thanh.
• Chuyển chú: Nguyên chữ Hán nhiều chữ đồng âm mà khác nghĩa, hay nghĩa đồng
mà âm lại khác, nên thuờng lấy chữ này để làm chữ khác. Nói cách khác, “chuyển
chú” là lối đặt chữ có cùng một bộ thì thanh âm gần nhau, ý nghĩa giống nhau và
có thể chú thích cho nhau.
• Giả tá: Trong chữ Hán, ngoài cách dùng lối hình thanh để biểu âm, lại dùng chữ
đồng âm để đại biểu cho những chữ có nghĩa mới, mà không cần sáng tạo ra chữ
mới, thì gọi là giả tá. Chữ giả tá hoàn toàn xuất phát từ thanh âm giống nhau hay
gần nhau, giữa chữ vay mượn và chữ được vay mượn có thể không quan hệ nhau
về mặt ngữ nghĩa. Ví dụ: chữ “vạn” ngày xưa dùng để chỉ con bò cạp, nhưng sau
dùng để chỉ 10,000. Chữ “trưởng” (trưởng thành) trong thanh âm gần giống chữ
"trường" (trường đoản) nên mượn lấy.

6

2. Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa
2.1 Sự ra đời và phát triển của nghệ thuật thư pháp

Ban đầu, chữ Hán cũng giống như các ngôn ngữ khác chỉ dùng làm phương tiện để
trao đổi thông tin nhưng theo thời gian càng ngày càng hoàn thiện trong cách viết, người
Trung Quốc đã sáng tạo ra lối viết thư pháp độc đáo dựa trên đặc thù của chữ khối vuông.
Thư pháp Trung Hoa được hình thành từ rất sớm, người ta cho rằng: Thư pháp ra đời vào
khoảng thế kỷ II-IV ( tức từ đời nhà Hán đến dời nhà Tấn), được xem là thú chơi cao nhã
của những người có học. Về thế chữ, chữ Hán khởi đầu bằng loại giáp cốt (viết trên mai
rùa), rồi sau đó, xuất hiện những loại chữ kiểu đại triện, tiểu triện, lệ thư; sau dẫn lại diễn
biến thành loại khải thư như chữ thông dụng ngày nay. Nghệ thuật thư pháp Trung Quốc
đã phát sinh và tiến triển từng bước theo những thay đổi trong quá trình đó, trở thành một
tài sản nghệ thuật quý báu trong kho tàng văn hoá cổ truyền Trung Quốc. Những nhà
nghiên cứu về thư pháp ngày càng nhiều, nên có thêm nhiều khám phá mới lạ trong từng
thời kỳ.

Giáp cốt văn
Là loại viết chữ cổ nhất của người Trung Hoa. Theo nghiên cứu, người xưa đã từng
dùng dao (hay những dụng cụ sắc bén khác) để khắc vạch lên mai rùa, xương thú mà thành.
Ngoài ra cũng dùng trong thuật bói toán. Loại chữ giáp cốt còn được lưu truyền trong sách
sử ngày nay, đa phần xuất hiện vào đời nhà Thương; một số nhỏ thì thuộc Tây Chu (theo
Lâm Ngữ Ðường). Giáp cốt văn được xem là thư pháp đầu tiên của Trung Quốc. Vào đời
Tây Chu, loại chữ “đại triện” xuất hiên; một số nhà nghiên cứu cho rằng loại chữ nầy do
vị quan Thái sử đời vua Chu Tuyên Vương là Trứu (Hoàng Trứu) nghiên cứu để sáng tạo
ra, biến đổi của giáp cốt văn. Loại chữ nầy còn được gọi là “Trứu văn”. Ða số những vương
thất quý tộc vào đời nhà Thương và nhà Chu thường sai người chế tác ra rất nhiều lễ vật
dùng trong cúng bái, như chuông vàng bằng kim loại, mà trên đó bao giờ cũng khắc chữ;
do đó, người đời gọi là “kim văn”. Trên nguyên tắc bố cục và hình thành thì loại “kim văn”
của đời nhà Thương có nhiều điểm giống như loại giáp cốt văn ngày trước; cho đến đầu
đời nhà Chu, nhờ công trình của Quách Thế Giai, thể “kim văn” đã được chỉnh đốn lại, với
khí thế mạnh mẽ; nét chữ mới nầy tương đối phóng khoáng hơn.

7

Giáp cốt văn và kim văn
Ảnh: khoahoc.net

Chữ triện
Cho đến những năm cuối thời Chiến Quốc, (206 trước CN) thì lại có thêm những
thay đổi thêm, tỏ rõ bước chuyển biến, để sau nầy trở thành loại chữ “triện” (đại triện và
tiểu triện). Tiểu triện là lối chữ được hai vị danh nho đời nhà Tần là Lý Tư và Triệu Cao
sáng tạo ra, đã được giản lược khá nhiều so với loại đại triện, cho nên khi viết được tiện
lợi hơn và nhanh chóng hơn nhiều. Bản thân vị Thừa tướng Lý Tư cũng là một nhà đại thư
pháp đời Tần. Theo những di tích còn lại, thì thể viết tiểu triện của ông rất mềm mại, hoạt
bát, cho nên được các danh nho thời đó mệnh danh là loại “ngọc cân triện”. Cũng trong
giai đoạn nầy, loại bút lông đã được phổ biến nhiều; vật liệu để viết nầy là những vải lụa
và những thẻ tre, những bản gỗ mềm mại, cho nên những thể chữ viết đã có phong cách
khác với loại chử khắc trên giáp cốt ngày xưa. Thư pháp được chỉnh đốn thêm nhiều.

Thư pháp thể tiểu triện
Ảnh: nghiencuulichsu.com

8

Chữ lệ
Chữ lệ sử dụng phổ biến thời Hán về hình chữ thể chữ cũng có rất nhiều loại. Nét
đặc sắc của nó là: tự hình mở rộng sang hai bên, nét chữ cứng cỏi, gấp vuông, phóng khoáng
thanh thoát, nét bút lên xuống, nặng nhẹ rõ ràng. Chữ lệ đời Hán hiện còn phần lớn là khắc
ở bia mộ, kệ đá, cột hoa biểu đá, cửa khuyết đá… Những chữ đề tự khắc đá ở đền Võ
Lương và đền thờ mộ Quách Cự ở núi Hiếu Đường đều là chữ lệ, khí vận cao nhã, cổ kính.
Bia khắc lệ thư đời Hán, nổi tiếng nhất có Lễ khí bi: nét bút khỏe khoắn, nhỏ mà cứng cỏi,
khoảng cách các nét rộng; Sử Thần bi, Ất Anh bi: nét bút khoan thai, tú nhã, ngay ngắn mà
không cứng nhắc; Trương Thiên biểu tụng: vuông khỏe trầm nặng, bút lực đầy đặn khỏe
khoắn; Tào Toàn bi: đẹp đẽ, nhiều tư thái. càng ngày chữ Hán lại được canh cải thêm. Ðể
cho việc viết sách được tiện lợi hơn, loại “chữ lệ” được ra đời sau đó. Loại chữ nầy đời
Tần thì gọi là “Tần lệ”. Sau khi triều đại Tây Hán được kiến lập, chỉnh đốn mọi sinh hoạt
văn hoá, quan thừa tướng Tiêu Hà ra quy định: Thư pháp là một trong những nội dung thi
cử từ trung ương đến địa phương; những người đạt được những thành tích tốt thì có thể
giao phó đảm nhiệm công việc văn thư trong các cơ quan chính quyền.

Thư pháp thể Lệ được khắc trên bia
Ảnh: yeuHanNom.blogspot.com

9

Chữ chân
Thời gian sau đó, chữ lệ lại biến cách dần; cho đến đời Tam Quốc, thì Hán lệ lại
được phát triển lên thêm một bực nữa; nét chữ cũng như cách kết cấu chữ lệ nghiêm chỉnh,
đẹp đẽ thêm nhiều, hình thành chữ “chân” cũng được gọi là “chính khải”. Trong số những
nhà thư pháp trong giai đoạn nầy, thì loại chữ “chân của Chung Do vào cuối đời nhà Hán
được ca tụng là “cổ nhã tuyệt diệu” khó mấy ai sánh kịp. Sau nầy, Lý Thái Bạch khen lối
viết chữ “chân” của Chung Do là “Hạc múa trên trời; chim hồng giỡn sóng”. Từ đó được
nhiều người sao lục để truyền bá khắp nơi. Thư pháp thời nầy cũng nở rộ. Trong việc
truyền bá, “Lệ thư” được ra đời và tu chỉnh nhanh là do muốn sao chép cho nhanh chóng
và tiện lợi, kể cả việc sử dụng trong trường thi. Nguyên tắc chính là: “Lệ thư dùng để viết
nhanh chữ tiểu Triện”.
Chữ chương thảo
Sau khi lệ thư được ra đời và hoàn chỉnh, thì trong học giới lại có thêm một loại chữ
viết nhanh khác, gọi là “chương thảo”, nhưng chỉ được dùng trong dân gian mà thôi. Với
những tiến bộ về cách viết chữ như vậy, nhiều tác phẩm nổi tiếng kiệt chúng cũng xuất
hiện. Chẳng hạn như vào thời Nguyên Ðế nhà Tây Hán, danh nho Sử Du đã viết “cấp tựu
chương” bằng loại chữ mới, được xem là tác phẩm “chương thảo sớm nhất” trong lịch sử
văn học Trung Quốc. Như thế, loại chương thảo nầy vừa bảo tồn được những tinh túy của
lệ thư trước kia, mà lại thêm những đường nét mới: nét chữ như sóng, không có sự nối liền
giữa các chữ, vừa không hoàn toàn căn cứ vào những quy củ viết chữ của lệ thư. Nhờ thế,
đường nét vô cùng phóng khoáng, nhiều bản văn thể hiện rất đặc sắc.
Chữ kim thảo, chữ hành và chữ khải
Sự biến hoá của chữ Hán càng ngày càng phong phú thêm. Cũng trong đời nhà Hán,
loại chữ “kim thảo” và chữ “hành thư” lần lượt ra đời, nhưng chỉ được truyền bá trong một
số danh gia. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: nhân vật đầu tiên đã biết sáng tạo ra chữ
“kim thảo” là Trương Chi. Nhưng giả thuyết nầy về sau nầy vẫn bị phản bác. Theo cách
viết mới, loại chữ “kim thảo” khác với “chương thảo” là nét chữ không có sóng, giữa các
chữ được kết liền lại với nhau. “hành thư” là loại chữ viết nằm giữa loại “khải thư” và loại
chữ “kim thảo”; tương truyền là do danh nho Lưu Ðức Thăng ra công sáng tạo nên. Những

10

bản văn của ông lưu truyền lại cho thấy: chữ viết của ông bay bướm, mềm mại, vó những
nét độc đáo, ít ai theo kịp được. Như thế, cho đến đời nhà Hán thì cả ba thể viết “khải”,
“hành” và “thảo” đã được phổ cập trong dân gian rất hoàn chỉnh, không còn những thay
đổi khác nữa. Qua những chuyển biến của chữ Hán, có thể hiểu theo một hệ thống rằng:
“lệ thư” là kế tục của “triện thư” và sau đó đã mở ra “thảo thư” và “khải thư”. Chữ khải
được xem là thể chữ ra đời sau cùng và muộn nhất.

Năm thể thư pháp phổ biến nhất
Ảnh: mythuatms.com

2.2 Thư pháp dưới các triều đại trong lịch sử Trung Hoa
Thời Ân – Thương
Thời Ân, Thương người ta dùng mai rùa, xương thú để xem bói, trên đó có khắc các
lời bói (bốc từ), là những chữ tượng hình, gọi là giáp cốt văn.
Thời Chu
Đến thời Chu Tuyên Vương (周宣王), một vị quan Thái sử tên Trựu đem những cổ
văn từ trước, chỉnh lý thành một thể chữ mới, gọi là Trựu văn, Trựu triện, đại triện. Đời

11

Chu còn có một loại chữ gọi là thạch cổ văn, là loại chữ mà quý tộc chư hầu khi đi săn bắn
ở Kỳ Sơn khắc vào đá ghi lại sự việc, lấy từ chữ Trựu triện và có chỉnh lý đôi chút, cũng
thuộc vào loại chữ đại triện. Những chữ đại triện đến nay còn thấy được, tiêu biểu nhất có:
Mao công đỉnh, Tụng đỉnh,… chữ mang phong cách Tông Chu, chân phương, ngay ngắn,
nét chữ tròn đều, trầm, nặng. Cùng với Tông Chu, vùng Kinh Sở còn có một kiểu viết chữ
rộng, thưa hơn, mà tiêu biểu là Tản thị bàn, có phong cách rất hùng vĩ. Những loại chữ
khắc trên chuông, đỉnh, và các đồ thờ cúng kim loại khác, còn được gọi là kim văn.

Thời Tần
Đời Tần, để thống nhất văn tự của sáu nước, Thừa tướng Lý Tư (李斯) đã tiến hành

lược bỏ những nét phức tạp của chữ đại triện đi, giữ lại những điểm hợp lý, sáng tạo ra thể
chữ tiểu triện. Loại chữ này có khuôn chữ hẹp mà dài, hình chữ cũng tề chỉnh, cân đối. Các
tờ chiếu thời Tần hầu hết đều dùng chữ tiểu triện. Thời gian này có Trình Mạc (程邈) -

một viên ngục lại ở huyện, vì mắc tội với Tần Thủy Hoàng, bị giam giữ ở ngục Vân Dương
(雲陽), đã để tâm suy nghĩ trong suốt mười năm trời, thêm bớt những nét vuông tròn cho

chữ đại, tiểu triện, tạo ra ba ngàn chữ lệ thư, Tần Thủy Hoàng liền dùng ông ta vào chức
Ngự sử. Vì loại chữ này thuận tiện cho những người tù, nô lệ, quan ngục sử dụng nên được
gọi là lệ thư (chữ lệ trong từ nô lệ). Đó là cách nói phổ biến xưa nay về việc ra đời của chữ
lệ. Song cũng có người cho rằng chữ lệ khởi nguyên từ đời Chu, có người lại cho rằng chữ
lệ là loại chữ dành riêng cho những người nô lệ, hạ dân, chỉ vì thời Tần chưa sử dụng một
cách phổ biến, đến thời Hán mới lưu hành nên gọi là Hán lệ.

Thời Hán
Đời Hán, ngoài thông dụng chữ lệ, còn có một loại chữ gọi là chữ bát phân (八分).

Một trong những cách giải thích sở dĩ gọi là chữ bát phân là vì thể chữ này “cắt chữ lệ của
Trình Mạc đi tám phần, giữ lại hai phần, cắt chữ triện của Lý Tư đi hai phần, giữ lại tám
phần”, trong chữ bát phân thể triện nhiều hơn thể lệ. Một cách giải thích khác lại cho rằng
sở dĩ gọi là “bát phân”, là bắt nguồn từ tự hình thể chữ này, phép viết thường phân bố hai
phần phải trái hướng lưng vào trong (như hình chữ bát 八). Có người nói đây là thể chữ

thời Tây Hán, lại có người nói thể chữ này do Sái Ung (蔡邕) sáng tạo ra. Chữ bát phân

12

ngày nay còn thấy đều là chữ đời Hán, không thấy có ở thời Tần. Bia chữ triện đời Hán
cũng rất ít, chỉ có Trung nhạc Thiếu Thất thần đạo thạch khuyết minh và Khai Mẫu miếu
thạch khuyết minh là nổi tiếng nhất.

Đời Hán còn xuất hiện khải thư, hành thư và thảo thư. Trước đời Đường, khải thư
được gọi là chân thư, theo ghi chép lại, đây là thể chữ do Vương Thứ Trọng (王次仲) sáng

tạo ra. Cuối đời Hán, Lưu Đức Thăng (劉德昇) sáng tạo ra hành thư. Nhưng còn ai sáng

tạo ra lối thảo thư có nhiều cách nói chưa thống nhất. Thời Đông Hán, thông dụng lối
chương thảo, loại chữ thảo này các chữ viết rời, không liền nối với nhau, còn mang nét
cứng rời của chữ lệ và chữ bát phân. Có người nói thời Hán Chương Đế, Đỗ Bá Độ (杜伯

度) giỏi thảo thư, Chương Đế rất yêu thích, hạ chiếu trong các chiếu lệnh, tấu chương đều

dùng lối thảo, nên bấy giờ người ta gọi là chương thảo. Trương Chi (張芝) thời Đông Hán

rất giỏi chương thảo, áo quần vải vóc trong nhà đều viết kín chữ rồi lại đem nhuộm lại, ra
bên ao học viết chữ, nước ao cũng đen như mực… đều trở thành những giai thoại trong
lịch sử thư pháp.

Vào đời Ðường
Chưa có giai đoạn trước đó, mà thư pháp lại được giới văn học thưởng thức và sáng
tạo phong phú cho bằng lúc nầy. Tất cả các thể “triện”, “lệ”, “chân”, “thảo” “hành” đều có
những trường phái thư pháp riêng biệt, hoạt động trong những lãnh vực khác nhau. Người
ta thường nhắc đến tên tuổi của Lý Dương Băng sành về lối chữ “triện”, Trương Húc, Hoài
Tố hai nhân vật xuất chúng về lối “cuồng thảo”. Chẳng những thư pháp được mến chuộng
và được sưu tầm của hoàng thân, quốc thích, quan lại trong triều, mà ngoài dân gian cũng
được dấy lên một tư trào tìm kiếm không kém.
Vào thời Sơ Ðường, phong trào tôn sùng thư thánh Vương Hy Chi rất mạnh, thiên
hạ đua nhau sao chép lại các bút tích hiếm hoi còn lưu lại của ông; rồi đến lượt các tác
phẩm của Âu Dương Tuần, Ngu Thế Nam, Chữ Toại Lương, Tiết Tắc... của giai đoạn nầy
cũng được mọi người ái mộ. Tuy những phong cách của thư pháp gia Sơ Ðường vẫn chưa
thoát ra khỏi thư pháp đời Tần, tuy nhiên, trong nét bút và thể chữ của họ đã có những biến
dạng về hình thức, khuôn mẫu, khác với thể dẹt của lối “chữ lệ” vào đời Hán.

13

Một nhân vật khác chiếu sáng lên thời đó là Nhan Chân Khanh. Theo những nhà
văn học thời đó, thư pháp họ Nhan được đánh giá là : “Ông đã đưa phương pháp cổ vào
trong ý tưởng mới, đã tìm cách sáng tạo ra phương pháp mới bên ngoài ý cũ, đã sản sinh
một phong cách mới: ngay ngắn mà không cẩu thả, trang trọng nhưng không bí hiểm, kỳ
vĩ, đẹp đẽ mà pháp độ lại thung dung, phóng khoáng”.

Tự thư “Cáo Thân Thiếp” – Nhan Chân Khanh.
(Ảnh: Soundofhope.org)

Ðến đời Trung Ðường, lại có thêm một số biến chuyển mới. Tiêu biểu là thiên tài
Liễu Công Nguyên, lập ra “Âu thế”, cùng với những bạn đồng liêu của mình sáng tạo kiểu
chữ mới: nét thanh tao hơn, tráng lới viết béo đậm ngày trước, thế chữ nghiêm mật, gân
guốc, mạnh mẽ. Câu nói về hai thiên tài nầy đứng bên cạnh nhau là “Nhan cân, Liễu cốt”,
xứng đáng là những mẫu mực cần thiết cho những ai muốn luyện thư pháp sau nầy.

Cho đến thời Vãn Ðường thì có Dương Ngưng Thức, cũng là một bậc kỳ tài trong
ngành thư pháp Trung Quốc, có nét chữ vô cùng phóng khoáng, phiêu diêu. Phong cách
nầy được xem là bước chuyển mình của thư pháp đời Ðường chuyển sang đời Tống. Chỉ
tiếc là thời kỳ nầy gặp nhiều tao loạn, chính bản thân Dương Ngưng Thức cũng khó tránh
tai ương, cho nên khó tìm được nhiều bút tích của ông. Ða phần là chữ được ghi trên bia
đá.

14

Cửu Hoa thiếp – Dương Ngưng Thức
Ảnh: thuphapdungpham.com

Vào đời Tống
Ðược dấy lên cao vào đời nhà Ðường, cho nên đến đời Tống, thư pháp lại nở rộ,
Nhiều nhà thư pháp phương Nam lẫn phương Bắc dồn dập xuất hiện. Bốn nhà thư pháp
lớn trong tiêu ngữ “Tô, Hoàng, Mễ, Thái” dồn vang trong dân gian chính là Tô Thức (Ðông
Pha), Hoàng Ðình Kiên, Mễ Phất (Mễ Phí hay Mễ Nam Cung) và Thái Tương. Họ cũng là
những thi sĩ khét tiếng. Thuật viết chữ đẹp vào đời nhà Tống đã trở thành một công việc
khắc chạm chữ đẹp trê đá và trên gỗ trong nghệ thuật trang trí. Về sau, lấy các chữ cà lên
trên giấy và biên soạn các phần nầy thành tập bản sao lưu truyền trong các văn khố. Công
việc nầy trở thành một phương pháp thịnh hành trong việc nghiên cứu, học hỏi các kiểu
chữ đẹp khác.
Thư pháp của Tô Ðông Pha (Tô Thức) thường đưa những ý mới vào trong pháp độ
chữ viết của mình “có xương, có thịt”, dấu kín sự khéo léo trong những nét thô sơ. Hoàng

15

Ðình Kiên thì thường dùng những thế chữ bí hiểm, khó đọc, nhưng lại có sức hoành dật,
toàn bài đều biến hoá vô cùng.

Tác phẩm “Xích bích hoài cổ” của Tô Đông Pha
Ảnh: thohanviet.tripod.com
16

Vào đời Nguyên
Thư pháp Triệu Mạnh Phủ có dạng chữ rất đẹp trong toàn diện, bao gồm các loại
chữ “lệ”, “chân”, “hành”, “thảo”.

Tác phẩm “Tâm kinh” của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên
Ảnh: Soundofhope.org

Vào đời Minh
Các văn nhân thường sở trường về lai loại “hành” và “thảo”, mà tiêu biểu là Chúc
Doãn Minh, Văn Trưng Minh, Ðổng Kỳ Xương, Thần Áng, Giang Tân, Văn Thành Minh,
Vương Long, Chúc Ngôn Minh, Hưng Ðồng, Trương Thụy Ðồ, Trung Kỳ Xương, Tống
Khắc, Thần Ðộ... Họ thường trở lại phong cách thư pháp đời Tấn và đời Ðường. Ảnh hưởng
của họ truyền về những thế hệ sau nầy rất mạnh mẽ.

17

Vào đời Thanh
Thư pháp ban đầu vẫn nối tiếp phong cách đời Tống và đời Nguyên, thịnh hành về
“thiếp học”. Vào đời Khang Hy, Càn Long, thư pháp của Triệu Mạnh Phủ, Ðổng Kỳ Xương
được kế thừa sâu sắc nhất. Về sau, kim thạch văn khai quật được nhiều, người đều mến mộ,
nẩy sinh ra lối “bi học” để thay thế cho “thiếp học”. Một thời, hai thể “bi” và “thiếp” cũng
cạnh tranh nhau. Thư pháp vào đời nhà Thanh có thể phân chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ
đầu kể từ đầu nhà Thanh cho đến triều vua Gia Khánh (1796-1820) và Ðạo Quang (1821-
1850). Trong thời kỳ nầy, việc nghiên cứu các bản sao vẫn tiếp tục không sút giảm; những
người viết chữ đẹp được ưa thích phải kể đến: Hoàng Từ Thành, Phù Sơn, Trương Triệu,
Vương Văn Trị, Lưu Dung.

“Thảo thư thi cửu thủ” – Vương Đạc
Thư pháp gia thời kỳ đầu nhà Thanh

Ảnh: soundofhope.org
2.3 Công cụ để viết thư pháp
Thư pháp gắn liền với bộ “văn phòng tứ bảo” (文 房 四 寶) tức bốn món không thể
thiếu, đó là: bút lông, mực Tàu, nghiên, giấy. Vào thời nhà Tần, một vị tướng tên là Trình
Mạc đã sáng tạo ra một loại bút bằng que gỗ, đập dẹp một đầu, chấm sơn mà viết chữ trên
thẻ tre, trên thẻ gỗ và trên vải lụa. Đến thời Tấn, tướng Mông Điềm đã cải tiến nhiều lần

18

cho ra bút lông trong giai đoạn sơ khai. Trong tác phẩm “Thiên tự văn” của Chu Hưng Tự
đời Lương có viết rằng: “Điềm bút luân ch” là ý nói: Mông Điềm đời Tấn đã phát minh
ra bút lông. Thái Luân đời nhà Hán đã chế tạo ra giấy. Cũng trong tài liệu nầy có ghi: Đời
Tần dùng sơn để viết chữ; mãi đến đời Hán Hình Di mới phát minh ra mực.

Bộ văn phòng tứ bảo
Ảnh: dungcuthuphap.com
Giấy viết thư pháp thường là giấy Tuyên. Đó là những loại giấy trắng tinh, có thể
thẩm thấu độ mực vừa phải. Mỗi đường bút trên giấy cho ra những con chữ có độ thanh
thoát, đậm nhạt phụ thuộc vào tài hoa của người viết. Nó do vỏ cây thanh đàn và rơm rạ
tạo thành một loại giấy quý, bề mặt giấy mịn nhẵn, chất giấy mềm mại và dẻo dai, thấm
mực đều đặn và có tính thấm nước mạnh. Vì là một loại giấy quý nên từ thời Đường đã trở
nên rất nổi tiếng, do nó có hiệu quả đặc biệt đối thư pháp và hội họa Trung Quốc vì thế mà
rất được các nhà thư pháp và họa sĩ nổi tiếng coi trọng.

19

Ví như giấy Tuyên có tính ăn mực cao, nghĩa là khi nhúng bút vào mực thật đậm
viết lên giấy Tuyên, nét mực đó sẽ nằm ở vị trí cố định, nước có trong mực sẽ lan ra khắp
mặt giấy, người vẽ có thể tùy ý trổ tài, những nét đậm đen dường như tỏa sáng, những nét
nhạt thanh nhã mông lung, phân rõ từng tầng từng lớp trên bức họa, thư pháp sinh động,
tạo ra hiệu quả nghệ thuật mà những bức họa khác khó sánh được.

Giấy “Tuyên” còn có tiếng là “Giấy thọ ngàn năm”, có rất nhiều tác phẩm thư họa
quý được lưu trữ ngàn năm đến tận bây giờ vẫn được màu sắc trong trẻo như ngọc. Đó là
do giấy Tuyên là một tinh phẩm trải qua hàng trăm trình tự thao tác tỉ mỉ cẩn thận, các loại
tạp chất có trong giấy rất ít mà chất xenlulôzơ trong giấy không dễ bị chuyển màu. Mặt
khác, các loại mối mọt chuyên đục rũa sách báo lại ''dị ứng'' với vỏ cây thanh đàn mà chỉ
thích gặm, nhấm tơ tre, trúc. Do đó giấy Tuyên không bị đe dọa bởi mối mọt. Sợi giấy
Tuyên có tính dẻo dai cao nên khó bị xé rách, vì vậy mà nó có thể được bảo tồn lâu dài.

Mực thì dùng loại mực thỏi hoặc mực trấp pha theo tỉ lệ và phải điều tiết khi viết,
nghiên mực phải có độ nghiêng nhỏ để tránh bị đọng mự, nghiên mực được sử dụng phải
được cấu tạo bằng sứ.

2.4 Những yêu cầu đối với người viết thư pháp
Cũng giống như các loại hình nghệ thuật khác, thư pháp cũng có những quy tắc.
Người viết thư pháp cũng có yêu cầu về kỹ pháp như đề cao phong cách cầm bút, dùng bút,
dùng mực, đường nét, kết cấu, phân bố hàng lối, bố cục như: cầm bút thì ngón thì tay phải
chắc, lòng bàn tay phải lỏng, năm ngón cùng lực; dùng bút thì phải đứng ngòi, phô diễn
được nét bút; đường nét phải tròn đầy đâu đấy; kết cấu thì ngang dọc đúng độ, ý tứ tương
ứng; phân bố thì biến hóa tung hoành, dầy thưa hợp lý, khí mạch một hơi, đặc biệt là phải
sùng chuộng cá tính, phong cách và ý vị.
Đến tư thế viết chữ cũng được chú trọng. Trước đời Đường, người xưa ngồi bệt
xuống đất, đồ dụng trong nhà đều là vật có hình dáng thấp bé. Đến cuối đời Đường, đầu
đời Tống, chiếc bàn chân cao người Hồ sử dụng đã xuất hiện trong ngôi nhà bình thường
ở khu vực Trung Nguyên. Từ đời Tống, do sự xuất hiện của chiến bàn cao, tư thế viết chữ
không điểm tựa của người xưa đã trở thành tư thế viết chữ vuông góc bàn viết.

20

Thư pháp tinh tế không chỉ ở chỗ phải trải qua khổ luyện mới có nét chữ đẹp, có
hồn, mà nghệ thuật “cho chữ” cũng là một nét văn hóa. Chữ được viết ra là kết tinh của
những năm tháng khổ luyện không ngừng của người viết, nó còn thể hiện cảm xúc, tình
cảm và suy nghĩ của người tạo chữ. Chính vì thế, việc cho chữ cho ai cũng là điều mà các
thư gia hết sức coi trọng, không phải ai cũng được tặng chữ. Văn hóa Trung Quốc nặng lễ
nghĩa, coi trọng sách vở, chữ nghĩa, người có học luôn được trọng vọng, lời nói của người
nhiều chữ rất có trọng lượng… tâm lý ấy không chỉ tồn tại trong xã hội mà ngay trong cả
phạm vi gia đình truyền thống người Hoa, kẻ thất học không bao giờ được xem trọng, khó
có thể thay đổi địa vị của mình .

“Thư thánh” Vương Hy Chi cũng cho rằng, viết thư pháp như bày binh bố trận.
Phải nhu phải cương, phải mềm phải cứng, phải đậm phải nhạt. Người cầm bút như người
cầm kiếm, phải có “xảo”, “nhẫn”, dứt khoát, quyết đoán.

3. Các thư pháp gia cùng các tác phẩm tiêu biểu
Thư pháp Trung Hoa phát triển qua nhiều thời kì và gắn liền với tên tuổi của những

thư pháp gia nổi tiếng. Những thư pháp gia cùng các tác phẩm tiêu biểu đã trở thành “kho
tàng” quý báu để người ở hậu thế học hỏi và trau dồi khả năng thư pháp.

Vương Hy Chi với tác phẩm Lan Đình tự
Vương Hy Chi là một đại danh nhân thời Đông Tấn lịch sử Trung Quốc. Ông nổi
tiếng về thư pháp tuyệt kĩ, nên còn có danh tụng là Thư Thánh. Một trong những kiệt tác
để đời của Vương Hy Chi chính là Lan đình tập tự. Vương Hy Chi sinh ra trong một gia
đình danh gia vọng tộc, cha ông là Vương Khoáng, bác ông là Vương Đạo, Vương Bân
đều làm quan cao trong triều đình và giỏi thư pháp. Chính vì thừa hưởng những tài năng
và sự truyền xuất của gia đình, mà sau này trong nét bút thư pháp của ông là sự kết hợp
tinh tế và điêu luyện những tinh hoa của những môn phái khác nhau mà thành một thể hệ
thư pháp độc lập, mang đầy đủ và vẹn toàn tới hoàn hảo cho thư pháp Trung Hoa cổ xưa.

21

Tranh họa Vương Hy Chi
Ảnh: Ảnh: shine.cn

Ông cho rằng, chữ viết nhất định phải có bố cục cụ thể: Bất kỳ chữ gì hình dáng,
biến hoá thế nào đều phải có sự tập trung câu mạch thông suốt, khí huyết lưu thông mới
tạo ra được cái hồn cho tác phẩm. Đây chính là sự gói gọn của câu nói: Tâm bình tĩnh khí,
là yêu cầu của người khai bút. Nét bút chính là phản ảnh của trạng thái tâm tính và khí
huyết. Chữ Lệ, chữ Khải, chữ Hành, chữ Thảo của Vương Hy Chi đều viết đẹp vô cùng.
Ông đã truyền thừa những tinh túy trong nghệ thuật thư pháp cho thế hệ sau đó, mấy người
con trai của ông đều lần lượt kế tục hàm vị, tư thái, nét bút, ngoại hình và yếu lĩnh trong
thư pháp của ông, đều trở thành nhà thư pháp nổi tiếng, trong đó Vương Hiến có thành tựu
lớn nhất. Càng về sau, thì trong giới thư pháp gia, phong cách của Hy Chi càng ảnh hưởng
sâu đậm.

22

Lan Đình tự của Vương Hy Chi
Ảnh: chuonghung.com

Lan Đình tập tự là bài văn chữ Hán chỉ gồm 28 dòng, 324 chữ, chữ nào cũng tinh
diệu, thanh thoát thông thuận như nét bút của Thần. Ngữ âm xướng tấu hài hòa lưu loát du
dương, người xưa nói rằng đọc lên thật “khoái trá nhân khẩu”. Bài văn khắc họa vẻ đẹp
của thiên nhiên sông núi Lan Đình, niềm vui tụ họp của những bậc tâm đạo đồng hành,
niềm vui bỏ qua những xa hoa trụy lạc, là thú vui tao nhã cùng hòa mình với sự biến đổi
của thiên nhiên vạn vật, nhưng cũng mang lại vẻ suy tư cho sự thay đổi thời cuộc, thế nhân
đổi dời chẳng làm lòng người nao núng, vẫn là tâm thái ung dung tự tại, điềm tĩnh mà thong
dong. Giọng văn ưu nhã, lời lẽ mượt mà thể hiện rõ thêm những điểm đó. Và điều đặc biệt
hơn nữa là tập văn được chính tác giả khởi bút, nét bút điêu luyện đạt tới sự hoàn hảo của
nghệ thuật thư pháp. Lan Đình tập tự được người đời ví như ánh quang của mặt trời, dịu
mát của mặt trăng. Kiệt tác được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hành thư”, đến ngàn năm
sau hậu thế vẫn thán phục. Có thể nói rằng, Vương Hy Chi cùng tác phẩm để đời của ông
là biểu tượng của nghệ thuật thư pháp Trung Quốc qua bao thế hệ truyền thừa. Tài năng và
quá trình rèn luyện thư pháp của ông ảnh hưởng lớn tới hậu nhân. Có nhiều giai thoại lý
thú về “Thư thánh” Vương Hy Chi và con trai ông – Vương Hiếu Chi, cũng là một nhà thư
pháp nổi tiếng.

23

Hoài Tố với tác phẩm Tự tự thiếp
Hoài Tố (737-799), tự là Tàng Chân, họ tục là Tiền, người Vĩnh Châu Linh Lăng
(nay là Linh Lăng, Hồ Nam), một nhà thư pháp thời Đường, danh thế là “Cuồng Thảo“, tự
xưng là “Thảo thánh“. Xuất gia từ khi còn nhỏ, rất yêu thích thư pháp. Ông và Trương Húc
có tên tuổi ngang nhau, hợp xưng là “Điên Trương Cuồng Tố”.
Hoài Tố thảo thư, bút pháp thô nhưng khỏe khoắn, phi động tự nhiên, như phong vũ
lốc xoáy, tùy thủ vạn biến. Mặc dù thư pháp của ông là tùy ý tùy cơ, thiên biến vạn hóa,
nhưng vẫn mang đầy đủ thủ pháp mức độ. Hoài Tố và Trương Húc đã hình thành nên hai
đỉnh chóp của thư pháp nhà Đường, đó cũng là hai đỉnh của thảo thư Trung Quốc. “Tự Tự
Thiếp“ là một tác phẩm tiêu biểu của Hoài Tố về thảo thư. Được viết trên giấy, dọc 28,3
cm, ngang 755 cm, 126 dòng, tổng cộng 698 chữ, đằng trước có ghi bốn chữ “Tàng chân
tự tự“ kiểu chữ Triện của Lý Đông Dương. Bản gốc hiện năm đang nằm ở bảo tàng hoàng
cung Đài Loan. Có người nói rằng trong 6 dòng đầu tiên của tác phẩm đã được người cất
giữ tác phẩm là Tô Thuấn Khâm (nhà Tống) viết bổ sung thêm. Vì thế khi nhìn từ dòng
thứ 7 trở đi ta thấy rõ một thế giới khác biệt, điều này càng rõ hơn khi xem toàn bộ tác
phẩm.

Tự tự thiếp – tác phẩm thư pháp của Hoài Tố được viết theo thể khải
Ảnh: Ifunn

24

4. Ảnh hưởng của thư pháp Trung Hoa đối với các quốc gia khác
4.1 Nhật Bản
Thời đại Nara của Nhật Bản có thể nói là thời kỳ cực thịnh của văn hóa Trung Quốc.

Thành phố Nara, kinh đô đầu tiên được xây dựng phỏng theo kinh đô Trường An của
nhà Đường. Ngoài việc tiếp thu về mặt học thuyết, các cấu trúc thể chế chính trị-xã hội,
Khổng giáo và Phật giáo (thông qua Triều Tiên), Nhật Bản còn tiếp thu chữ Hán và các
thành tựu khác của Trung Quốc về văn học, mỹ thuật, kiến trúc, hội họa,.. trong đó có
nghệ thuật thư pháp. Tuy nhiên, người Nhật Bản từ thuở tiếp xúc với văn hoá Trung
Quốc, đã nhận ra giá trị ưu việt của bộ môn nghệ thuật kỳ diệu này, người Nhật quan
niệm thư pháp là phép vẽ chữ, chỉ khi nào đạt được tư tưởng Thiền trong thư pháp thì
mới phả vào đó một tinh thần, gọi là “thư pháp Thiền”; tâm không ổn định, thì không
có thư pháp hay được, vì vậy đã không gọi tên là “thư pháp”, mà gọi nó là “thư đạo”
(Shodo). Shodo (書道) – nghệ thuật thư đạo – nghệ thuật viết chữ Hán lên giấy Washi
bằng mực tàu. Là một nghệ thuật viết chữ được du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản.
Nghệ thuật thư đạo Shodo còn được dạy như một môn học tại các trường học Nhật Bản
tiểu học và trung học cơ sở, phổ thông. Những người chuyên viết tư đạo được biết đến
là Shodouka (書道家) – những nhà thư đạo. Thư đạo, còn được xem như là một nét đẹp
văn hóa Nhật Bản truyền thóng, trở thành một bộ môn nghệ thuật tinh thần đối với
người Nhật Bản.

25

Nghệ thuật thư đạo Nhật Bản
Ảnh: voh.com

4.2 Hàn Quốc
Cũng giống Nhật Bản, Hàn Quốc có một nền văn hóa truyền thống chịu ảnh hưởng
lớn từ nền văn hóa cổ đại của người Trung Hoa xưa, trong đó có thư pháp. Ở Hàn Quốc,
thư pháp được gọi là nghệ thư. Nghệ thuật viết thư pháp của người phương Đông vốn
coi trọng nhân phẩm, thư pháp và tu thân dưỡng tính là hai điều không thể tách rời.
Cũng như vậy, nghệ thư Hàn Quốc là một loại hình thái trang nhã mang nội hàm sâu
sắc, trong đó mỗi nét chữ được ví như bức họa thể hiện nội tâm của người viết. Văn
phong tứ bảo của Hàn Quốc được gọi là “Munbangsawoo” là bốn vật dụng thường thấy
trong thư phòng của những ngôi nhà Hàn cổ.

26

Nghệ thư của Hàn Quốc
Ảnh: baomoi.com

4.3 Việt Nam
Cũng giống như Nhật Bản và Hàn Quốc, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
văn hóa Trung Hoa. thư pháp Việt phát triển cực thịnh dưới triều đại Lý - Trần. Trong giai
đoạn này, đất nước tự chủ, ổn định về mặt chính trị, kinh tế phát triển, đặc biệt sự giao lưu
trong nước và ngoài nước được đẩy mạnh. Đó là những yếu tố khiến văn hóa, nghệ thuật
phát triển rực rỡ, thư pháp cũng không nằm ngoài. Mặc dù những dấu tích còn lại chỉ là
những mảnh vụn nhưng đủ để cho thấy trình độ thư pháp ở giai đoạn này được đẩy lên rất
cao. Nếu như dưới thời Lý, các thư gia đa số là những người có địa vị cao trong triều đình,
có thân phận quý tộc, thì tới thời Trần thư pháp không còn là thú chơi dành riêng cho số ít
những người như hoàng đế, đại thần mà lan tỏa ra nhiều thành phần trong xã hội. Trong
giai đoạn này, đã xuất hiện nhiều thư pháp gia với trình độ thượng thừa không thua kém
bất cứ tác gia nào cùng thời kỳ, cùng khu vực, thậm chí tên tuổi vang danh ở các nước lân
bang: Phạm Hàm, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Trần Nghệ Tông, Nguyễn Đình
Giới, Nguyễn Thái Xung... Thư pháp được ứng dụng trên gần như tất cả mọi phương diện

27

của cuộc sống, từ quan phương đến địa phương, như văn bản của triều đình, hoành phi, câu
đối, văn bia ở đình chùa, miếu mạo, gia phả, tác phẩm văn chương... Các thư gia xưa đến
từ nhiều thành phần xã hội.

Thư pháp Việt Nam gắn liền với hình ảnh cụ đồ già với “mực tàu” – “giấy đỏ” vào
những ngày xuân. Thú chơi chữ và cho chữ vào những ngày Tết đã trở thành một nét văn
hóa truyền thống của người Việt Nam.

Ảnh: laodongthudo.vn
5. Ảnh hưởng của nghệ thuật thư pháp đến các nghệ thuật khác
Hội họa
Ảnh hưởng sâu sắc nhất của nghệ thuật thư pháp chính là ảnh hưởng đến nghệ thuật hội
họa Trung Hoa mà tiêu biểu là thể loại tranh thủy mặc. “Trong họa có thơ” là một đặc điểm
thường thấy trong tranh thủy mặc. “Thơ” ở đây là một bài thơ thư pháp. Thường các bức
họa sẽ được đề bên cạnh một dòng chữ thư pháp hoặc một bài thơ.

28

Bức Vương Duy Thi Ý Đồ của Vương Duy
Ảnh: cohanvan.com

Âm nhạc
Những năm gần đây, ở Trung Quốc có hiện tượng sử dụng nghệ thuật thư pháp như
một đề tề chủ đạo cho các ca khúc. Điều đặc biệt, các ca khúc được phổ lời từ những tác
phẩm kinh điển như: ca khúc Lan Đình tự của ca sĩ Châu Kiệt Luân.
Kiến trúc
Những tác phẩm thư pháp được đề trên các bia, mộ, các cung điện, lăng tẩm,… là những
biểu hiện rõ nhất cho nghệ thuật thư pháp ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật này.

29

Cố cung ở Bắc Kinh với những bức hoành phi thư pháp
Ảnh: baomoi.com

Tại thành phố Tương Dương (thành phố cấp quận), tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, một
công trình vô cùng độc đáo lấy ý tưởng từ thư pháp sẽ được xây dựng. Công trình này
mang tên cánh cổng hoa do tập đoàn Prechteck thiết kế nhắm tới việc sử dụng như một
công trình kết nối các yếu tố vốn tách rời nhau. Hình dáng bên ngoài của công trình lấy
cảm hứng từ thư pháp Trung Quốc. Giống như nét cọ mờ dần trên giấy sau mỗi nét bút,
cánh cổng cũng khắc họa những đường nét trong nghệ thuật thư pháp truyền thống của
Trung Quốc.

30

Ảnh: dantri.com
Văn học
Trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là tác giả luôn luôn kết hợp với thư pháp tạo ra
một chiều sâu trí tuệ cho những tác phẩm, đem lại sự thích thú cho người đọc. Trong Ỷ
thiên Đồ long ký, chưởng môn phái Võ Đang Trương Tam Phong mô phỏng thư pháp của
Vương Hy Chi để viết Tán Loạn thiếp để giải toả toàn bộ mối lo lắng của mình khi một
người học trò cưng bị kẻ địch đánh gãy hết các khớp xương. Trương Tam Phong viết vào
khoảng không 24 chữ của bài ca Ỷ Thiên Đồ Long:

31

“Võ lâm chí tôn
Bảo Đao Đồ Long
Hiệu lệnh thiên hạ
Mạc cảm bất tòng
Ỷ thiên bất xuất
Thuỳ dữ tranh phong”
6. Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa trong đời sống hiện đại
Ngày nay thư pháp truyền thống cổ đại Trung Quốc đã hình thành một ngành độc lập
trong nhiều ngành nghệ thuật. Thư pháp vẫn là một môn nghệ thuật khó và hấp dẫn nhiều
tầng lớp quan tâm, học tập, nghiên cứu ở Trung Quốc. Người đời sau dùng ánh mắt nghệ
thuật hiện đại để xem xét ngành nghệ thuật cổ xưa này. Để bảo tồn và phát triển nghệ thuật
này, hằng năm, ở Trung Quốc rất nhiều lớp học thư pháp đã được mở ra, phục vụ nhu cầu
học tập và tìm hiểu về thư pháp của những người trẻ tuổi.

Một lớp học Thư Pháp ở Thượng Hải
Ảnh: thoimoi.com
32

Hằng năm, Trung Quốc tổ chức rất nhiều những cuộc thi viết thư pháp dành cho
nhiều lứa tuổi, thu hút rất nhiều những người tham dự. Những cuộc thi là một trong
những phương thức bảo tồn và khuyến khích nghệ thuật thư pháp phát triển.

Một cuộc thi thư pháp tại Thượng Hải
Ảnh: https://www.nbspyl.com

KẾT LUẬN
Thư pháp là một trong những loại hình nghệ thuật hấp dẫn và đầy ý nghĩa. Học viết
thư pháp cũng là một phương thức vô cùng tốt để rèn luyện và tu tâm dưỡng tính bởi thư
pháp không chỉ là một môn nghệ thuật mà còn mang những giá trị đạo đức vô cùng tốt
đẹp. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và phát triển, thư pháp của Trung Hoa đã
ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong khu vực Châu Á mà còn ở phạm vi toàn thế giới, có
rất nhiều người đến từ khắp nơi muốn theo học và luyện tập loại hình nghệ thuật này. Thư
pháp xứng đáng là tinh hoa văn hóa, biểu tượng văn hóa của Trung Quốc bởi những giá trị
vô sắc ẩn chứa bên trong nó. Nghệ thuật thư pháp của Trung Hoa mang tầm ảnh hướng rất
lớn cũng như hệ văn tự của người Trung Hoa ảnh hưởng toàn diện tới văn hóa các nước Á
Đông, tạo nên nét riêng biệt đặc trưng cho cả một vùng địa lý rộng lớn, bao gồm cả Nhật
Bản Hàn Quốc và Việt nam. Nghệ thuật thư pháp như những nghệ thuật khác của Trung
Quốc đều thể hiện bản chất của con người Trung Hoa đầy sáng tạo.

33

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Hữu (2013), Thư pháp Trung Quốc, Nxb Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh
2. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh
3. Diêu Đan - Đặng Cẩm Huy - Vương Phong (2013), Văn học Trung Quốc, Nxb Tổng
Hợp TP. Hồ Chí Minh
4. Nguyễn Duy Chính, Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hóa Trung Quốc, Nxb Trẻ
Các trang mạng xã hội
1. Thưởng thức thư pháp Trung Quốc
https://nghethuatxua.com/thuong-thuc-thu-phap-trung-quoc/
2. Nghệ thuật thư pháp Trung Quốc và Việt Nam
https://nghethuatxua.com/nghe-thuat-thu-phap-trung-quoc-va-viet-nam/
3. Thư pháp – nghệ thuật độc đáo của Trung Quốc
http://gmggate.vn/thu-phap-nghe-thuat-doc-dao-cua-trung-quoc
4. Nghệ thuật thư pháp của người Á Đông
https://tamnhinrong.org/nghe-thuat/nghe-thuat-thu-phap-cua-nguoi-a-dong.html
5. Nghệ thuật thư đạo Shodo
https://senquocte.com/nghe-thuat-thu-dao-shodo/
6. Tinh hoa nghệ thuật thư pháp – giá trị chân thiện mỹ của nghệ thuật chữ viết nhân
loại
https://thuphapvietxuanthanh-baiviet-thuphap.blogspot.com/2018/05/tinh-hoa-
nghe-thuat-thu-phap-gia-tri.html

34


Click to View FlipBook Version