DI TÍCH ĐÌNH LÀNG SẶT, XÃ LIÊN SƠN, HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG I. TÊN GỌI DI TÍCH Tên gọi thống nhất trong hồ sơ khoa học: Đình làng Sặt, xã Liên Sơn, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Tên gọi khác: Không.
2 II. ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH 1. Địa điểm di tích Theo cuốn sách “Địa chí Bắc Giang từ điển” do Sở Văn hóa Thông tin Bắc Giang xuất bản năm 2001 (tr.393) cho biết: Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đình làng Sặt thuộc xã Dương Sơn, tổng Mục Sơn, phủ Yên Thế. Lúc này xã Dương Sơn gồm 3 thôn: Chiềng, Dương, Sặt. Sau năm 1945, xã Dương Sơn đổi tên là Cương Lập. Năm 1957 (thành lập huyện Tân Yên) chia làm hai xã Cương Lập và Liên Sơn. Xã Liên Sơn nằm liền kề thị trấn Cao Thượng (trung tâm huyện Tân Yên). Đình làng Sặt nằm ở địa giới hành chính của thôn Chài, xã Liên Sơn, huyện Tân, tỉnh Bắc Giang và tồn tại cho đến ngày nay. 2. Đường đi đến di tích Đình làng Sặt nằm cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng 17km về phía Bắc. Từ thành phố Bắc Giang đi theo đường Xương Giang qua cầu Mỹ Độ, rẽ phải theo đường Quốc lộ 17 tuyến Bắc Giang-Cầu Gồ, đi khoảng 15km đến thị trấn Cao Thượng (trung tâm huyện Tân Yên). Từ trung tâm huyện Tân Yên đi khoảng 2km đến UBND xã Liên Sơn, đi thẳng 300m rẽ phải vào đường liên thôn khoảng 200m là đến nơi di tích tọa lạc. Đường tới di tích khá thuận lợi cho du khách tới tham quan, nghiên cứu bằng các loại phương tiện giao thông đường bộ như: Ô tô, xe máy, xe đạp... III. PHÂN LOẠI DI TÍCH Căn cứ vào giá trị cơ bản của di tích đình làng Sặt; Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 28, và Điểm a, Khoản 1, Điều 29, Mục 1; Chương IV của Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tiêu chí để xếp hạng di tích lịch sử văn hóa; Căn cứ Điều 11, Chương III, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP, ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; Căn cứ công văn số 3351/UBND-KGVX, ngày 29/9/2017 của UBND tỉnh Bắc Giang về tiêu chí xếp hạng di tích cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Chúng tôi xác định di tích đình làng Sặt thuộc loại hình: Di tích lịch sử. IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH
3 1. Sự kiện diễn ra tại di tích Căn cứ kết quả khảo sát điền dã tại địa phương, đồng thời theo hồi cố của các cụ cao niên trong làng, đặc biệt là sự ghi chép tỉ mỉ, đầy tâm huyết của cụ Trần Mạnh Thái-Trưởng Ban quản lý đình làng Sặt được biết: Đình lãng Sặt có lịch sử khởi dụng từ lâu đời, là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân 5 thôn Chài, Quân, Phố, Đồn, Thượng. Ngôi đình đầu tiên nằm ở đồi Ma Phân thuộc địa phận thôn Chài, giáp với thôn Đồn. Đến khoảng thế kỷ XVI-XVII, đình được nhân dân chuyển về khu đồng Giếng thuộc địa giới hành chính của thôn Chài và thôn Quân ngày nay cho tiện việc sinh hoạt. Ngôi đình xưa to rộng, bề thế với hệ thống sàn và khung cột gỗ lim 1 người ôm không hết. Sang cuối thế kỷ XIX, đình làng Sặt là một trong những địa điểm có nhiều sự kiện gắn với phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Đề Nắm và Đề Thám lãnh đạo. Ngôi đình nằm trong vùng lãnh địa quan trọng của các thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế (Đề Hả, Đề Sặt, Đề Thám) nên đẩy thường được các thủ lĩnh dùng làm nơi hộ quân để bàn kế chống lại thực dân Pháp. Đặc biệt, ở làng Sặt có 5 vị thủ lĩnh tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Đó là: Ông Trần Lâm (Đề Lâm), ông Trần Đình My (Đốc My), ông Đỗ Văn Hùng (Thống Sặt) ông Trần Văn Duệ - còn có tên khác là Rệ (Đề Sắt), ông Trần Đình Lành (Đốc Lành). Đây là những tướng tài của nghĩa quân Yên Thế. Những tướng lĩnh này đã làm cho thực dân Pháp và bọn tay sai khiếp vía kinh hồn ở trận Ngõ Hun (nay thuộc thôn Quân), ngõ Lứa năm 1887 (nay thuộc thôn Chài); đồi Yên Ngựa (Cao Thượng) năm 1889; trận Ngàn Ván (xã An Dương) năm 1913. Những chiến công ấy đã được ghi vào lịch sử cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hiện nay, vẫn còn tấm bia ghi dấu làng chiến đấu tiêu biểu của nghĩa quân Đề Thám được dựng ở ngay đầu làng Sặt với dòng chữ “Đây là làng chiến đấu tiêu biểu của nghĩa quân Đề Thám trong những năm 1887-1889”. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), với vị trí giao thông thuận lợi, đình làng Sặt là địa điểm liên lạc và là nơi hội họp của bộ đội vàdu kích địa phương. Năm 1950, đình làng Sặt là nơi đặt sở chỉ huy của Tiểu đoàn Thiên Đức tỉnh Bắc Giang. Sau đó do bị lộ, giặc Pháp đã ném bom làm sập 2 gian Tiền đình và hư hại một số hạng mục khác. Đến năm 1955, sau khi hòa bình lập lại đình là nơi tổ chức các lớp bình dân học vụ cho con em trong xã. Năm 1966, do không được tu sửa nên ngôi đình ngày càng xuống cấp. UBND xã Liên Sơn đã cho tháo dỡ toàn bộ ngôi đình lấy gỗ về xây dựng một số công trình công cộng khác ở khu Đồi Thông (thuộc địa phận xóm Đình ngày nay). Với ý thức khôi phục lại một di tích lịch sử-văn hóa của quê hương, năm 2008, nhân dân làng Sặt đã đóng góp công sức, tiền của để phục dụng lại ngôi đình tại khu Đồi Chùa (thuộc địa phận thôn Chài), cách vị trí ngôi đình cũ khoảng 200m về phía Tây Nam làm nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cho nhân dân trong vùng.
4 2. Nhân vật lịch sử Căn cử vào bài vị, văn tế, nội dung sắc phong niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909) còn lưu giữ tại định cho biết: Đình làng Sặt là nơi thờ các vị Đức thánh Cao Sơn,Quy Minh Đại vương và phối thờ thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám làm Thành Hoàng làng. 2.1. Công trạng của hai vị Thánh Cao Sơn, Qúy Minh Hai vị Cao Sơn, Qúy Minh vốn là những tướng tài dưới triều Hùng Duệ Vương đã có nhiều công lao trong việc đánh dẹp giặc Thục xâm lược. Truyền rằng, vào thời Hùng Duệ Vương thứ 18, ở đất Tượng Quận có người họ Thục tên Phán vốn dòng dõi nhà Hùng, sau khi phân chi nhánh được sang trị vì vùng đất này nên đã đổi họ, nghe tin vua Hùng truyền ngôi báu cho con rể nên sinh lòng ghen tức bèn đem quân sang xâm lược. Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng liền cho vời phò mã Sơn Thánh đến để hỏi kế. Sơn Thánh lĩnh mệnh vua và phong cho Cao Sơn, Qúy Minh làm Tả hữu tướng quân tiên phong lên đường dẹp giặc Thục Phán ở miền Đông Bắc. Qua thật, sau đó hai ông đã dẹp yên được quân giặc, thiên hạ thái bình. Cùng lúc ấy, trời đất bỗng nhiên tối sầm, có hai đám mây vàng từ trên trời hạ xuống trước mặt hai ông rồi đưa hai ông bay đi, đó là ngày 15 tháng 8 âm lịch. Dân trang khu liền làm sớ tấu trình lên vua. Vua lệnh cho dân các trang khu, nơi được hai ông đóng đồn trại đánh đuổi giặc Thục tổ chức thờ cúng, tế lễ hai ông theo đúng nghi thức. Nhân đó, vua ban sắc cho hai ông, phong cho Đức Cao Sơn là Thông minh Đại Vương, Đức Qúy Minh là Hiển ứng Đại Vương. Tặng phong thượng đẳng thần. Chuẩn cho dân toàn vùng trong trang khu phụng thờ. Từ đó trở về sau, hai vị được các triều vua ban sắc phong thần, công lao của hai vị được các sử thần xưa biên ghi trong quốc sử, ngọc phả, thần tích, sắc cho nhân dân nhiều nơi lập đình, đền thờ phụng, trong đó có đình làng Sặt, xã Liên Sơn, huyện Tân Yên. 2.2. Công trạng của Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) Theo cuốn sách Địa chi Bắc Giang từ điển, trang 297-298 viết về Hoàng Hoa Thám như sau: Hoàng Hoa Thám (1913) còn gọi là Đề Thám, quê ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, từ nhỏ lớn lên ở làng Trũng (nay thuộc xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên). Ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa Đại Trận, khởi nghĩa Cai Kinh và về với khởi nghĩa Yên Thế từ năm 1888. Sau khi Đề Nắm chết (1892), ông đã kiên định tổ chức lại lực lượng để tiếp tục chiến đấu.
5 Cuốn Lịch sử Hà Bắc, tập I, tr.194 có đoạn viết: “Cuộc khởi nghĩa Yên Thế chuyển sang giai đoạn mới. Đề Thám khôi phục lại phong trào. Để lấy danh nghĩa và khôi phục lại uy thế, sáng ngày 19-12-1892 (tháng 11 năm Nhâm Thìn) Đề Thám đã tập hợp một lực lượng 400 quân tại đình làng Đông, xã Quỳnh Đông (sau đổi là Bích Động, nay thuộc Bich Sơn, Việt Yên), tổ chức lễ tế cờ, chính thức nhận chức chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Thế". Căn cứ địa của nghĩa quân Đề Thám với chiến khu Yên Thế lấy chợ Cầu Gồ làm chính-đây là nơi cực kỳ hiểm trở giữa đồng ruộng và núi non đã khiến thực dân Pháp lo sợ ngày đêm. Những cuộc tấn công của Pháp có sự quân sư của Tổng đốc Lê Hoan vào Yên Thế đều đại bại khiến chính phủ Pháp hết sức lo ngại, kinh hãi. Đề Thám và các tướng tài của ông như Cả Dinh, Cả Huỳnh, Cả Trọng, Đốc Thu... đã biến căn cứ Yên Thế thành một pháo đài bất khả xâm phạm trong gần 30 năm (1884-1913). Nhờ thay đổi nhãn quan, Đề Thám đã góp phần quan trọng làm chuyển hóa phong trào nông dân Yên Thế mang tính tự phát thành phong trào giải phóng dân tộc, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam tham gia vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm... Ông trở thành “kẻ thù truyền kiếp” của khâm sai Lê Hoan, là “cái đinh” trong mắt Chính phủ bảo hộ nhưng chúng vẫn không thể bắt ông cho đến khi giải thưởng 25.000 ngàn lấy đầu ông được tung ra, Giải thưởng ấy đã làm tối mắt tên phản phúc Lương Tam Kỳ và đồng bọn. Chúng giả vờ gia nhập hàng ngũ nghĩa quân để chờ thời cơ ám sát ông. Đến ngày 10/02/1913 (năm Quý Sửu), trong khi ông ngủ bọn phản phúc đã hèn hạ thủ tiêu ông, sau đó cắt đầu ông nộp cho công sứ Pháp ở Nhã Nam để lãnh thưởng. Sau khi Yên Thế bị san bằng, đại gia đình Hoàng Hoa Thám đều bị bắt. Toàn bộ nghĩa quân người thì bị tử hình, người bị đày vào lao tù vĩnh viễn. Thất bại đó đã chấm dứt một cuộc khởi nghĩa nông dẫn võ trang vĩ đại nhất, kéo dài nhất trong lịch sử chống Pháp của dân tộc ta và Hoàng Hoa Thám đã trở thành một biểu tượng anh hùng người mà chính giới Pháp cũng phải thừa nhận “mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi”. 3. Đặc điểm của di tích 4 Hiện nay, đình làng Sặt có qui mô vừa phải với bình đồ kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm tòa Tiền đình 3 gian nối với Hậu cung 1 gian, ngoảnh hướng Nam. Trong đình còn bảo lưu được một số tài liệu, hiệu vật: Ngại thờ, bài vị, hòm sắc, sắc phong niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), bát hương gốm Phù Lãng, sập thờ, bộ bát bửu... có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) có giá trị về mặt nghệ thuật và trong việc nghiên cứu về lịch sử của di tích. Hằng năm, cứ vào ngày 14 và 15 tháng Giêng nhân dân địa phương lại tổ chức lễ hội truyền thống tại đình với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Qua những cứ liệu trên có thể thấy di tích đình làng Sặt là một công trình văn hóa tín ngưỡng còn lưu giữ được nhiều giá trị lịch sử văn hóa cần bảo tồn, phát huy. V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
6 Di tích đình làng Sặt là một trong những trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân năm thôn Phố, Chài, Quân, Đồn, Thượng. Hội lệ hằng năm được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng Giêng. Khi xưa,lễ hội đình làng Sặt được tổ chức rất long trọng, cầu kỳ trong 7 ngày liền Các cụ đón các nhà trò về hát suốt cả 7 ngày 7 đêm. Từ ngày hòa bình lập lại lễ hội tổ chức rút xuống còn 3 ngày, đến ngày nay lễ hội tổ chức gọn nhẹ vào 2 ngày 14 và 15 tháng Giêng với nhiều nghi thức tổ lễ và các trò chơi dân gian. Lễ tế thường được diễn ra tại đình vào sáng ngày 15 ở Thánh cung. Việc tế lễ do chủ tế cùng các viên bồi tế chịu trách nhiệm. Lễ vật tế gồm có: Sỏ lợn (hoặc chân giò lợn) luộc, xôi gà, rượu, hoa quả, trầu cau, hương đăng... Nội dung cuộc tế là nhắc lại công lao của Đức Thánh Cao Sơn, Qúy Minh và thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám-những người đã có công dẹp giặc đem lại cuộc sống bình yên và no ấm cho nhân dân. Song song với việc tế lễ bên đình, ở bên chùa các cụ bà cũng tiến hành tổ chức các cuộc dâng hương lễ Phật với xôi, oản, hương đăng, trầu cau, hoa quả...Sau cuộc tế lễ, dâng hương, nhân dân tổ chức các trò chơi dân gian đặc sắc như: Đấu vật, chọi gà, cờ người, đập niêu, thi làm cỗ... Những năm trở lại đây còn có các môn thể thao: Đá bóng, cầu lông... lôi cuốn các tầng lớp nhân dân cùng du khách tham gia. Thông qua nghi thức tế và các trò chơi dân gian diễn ra trong lễ hội truyền thống đình làng Sặt cho thấy: Đây không chỉ là một di tích còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa vật thể mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa dân gian độc đáo. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các nghi thức rước tế, các trò chơi dân gian trong lễ hội tại di tích đình làng Sặt là rất cần thiết, góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
7 (Liên đội trường Tiểu học Liên Sơn tổ chức chương trình hành trình đến địa chỉ đỏ năm 2023 tại Đình Sặt, xã Liên Sơn, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) VI. KHẢO TẢ DI TÍCH 1. Không gian, cảnh quan di tích Đình làng Sặt được tạo dựng trên một địa thế cao, thoáng thuộc thôn Chài, ngoảnh hướng Nam. Toàn bộ công trình có tổng diện tích 899,3m thuộc tờ bản đồ số 50, thửa đất số 201, được trích lục năm 2018. Hiện nay, di tích có vị trí địa lý như sau: Phía Đông giáp thửa đất ONT 115/1336.6 và một phần thửa đất ONT 89/1928.5; Phía Tây giáp chùa Sặt (thửa đất TON 114/3214); Phía Nam giáp thửa đất ONT 128/885.9 và lối lên đình; Phía Bắc giáp thửa đất ONT 89/1928.5 và một phần đất chùa Sặt. 2. Khảo tả di tích Đình làng Sặt tọa lạc trên một khu đất cao, thoáng nhìn ra hướng Nam. Theo các cụ cao tuổi trong làng, trước đây ngôi đình có khuôn viên rộng, bốn mặt được bao bọc bởi một màu xanh mướt của cây trái xum xuê, tạo cho không gian di tích thêm phần tĩnh mịch, uy nghiêm. Hiện nay, ngôi đình được tạo bởi 2 hạng mục chính: Nghi môn và đình. 2.1. Nghi môn Trước khi bước vào bên trong ngôi đình, du khách qua nghi môn đình mới được tôn tạo lại năm 2017. Nghi môn đình làng Sặt được tạo bởi 3 cổng (1 cổng chính và 2 cổng phụ). Cổng chính để mở tạo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái đao cong. Trên đỉnh dắp đề tài lưỡng long chầu nhật. Ngăn cách giữa cổng chính và cổng phụ là hệ thống cột đồng trụ xây gạch. Trong lòng các cột đồng trụ đắp đôi câu đối chữ Hán viết theo thể chân phương. Đỉnh cột đồng trụ cổng phụ đắp nổi đôi nghê chầu, phía dưới bốn phía tạo các ô hình chữ nhật, trong lòng đắp nổi đề tài tứ quý. Hai cổng phụ xây kín dạng bình phong, trang trí đề tài phong cảnh. Tiếp đó, du khách đi lên một con dốc nhỏ để tới khoảng sân gạch rộng. Từ đây, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh ngôi đình với tổng diện tích 899,3m. Khuôn viên di tích trồng nhiều cây xanh quanh năm xanh tốt tạo bóng mát khiến cho ngôi đình thêm phần tĩnh tại, linh thiêng. 2.2. Đình Giống như nhiều công trình tôn giáo, tín ngưỡng khác, đình làng Sặt được chia làm ba phần theo chiều cao để gắn với tinh thần chia vũ trụ thành 3tầng: Mái
8 là tầng trời, bộ khung giữa là nơi sinh hoạt của con người và là nơi con người tiếp cận với thần linh, phần dưới là nền đình. Theo di ngôn của các bậc tiền bối trong làng, nguyên xưa đình không lát nền, nhằm tạo cho không gian thiêng có sự hài hòa khí âm dương, đưa phúc tới con người. Nền đình cũ được bó vỉa đá để xác định ranh giới giữa chốn thiêng và cõi tục. Năm 2008, sau đợt tu sửa, nền đình mới được lát gạch vuông đỏ truyền thống như hiện nay. Tiền đình gồm 3 gian, tường xây gạch chi, ngoài phủ vữa, mái lợp ngói mũi. Bờ nóc, bờ dải xây gạch, phủ vữa soi gỡ. Bờ dải được thiết kế chạy thẳng xuống hệ mái, nối với đỉnh cột đồng trụ phía dưới, dật tam cấp tạo thế tường hồi tay ngai. Sân được làm ở phía trước công trình, khoảng sân rộng được lát gạch vuông đỏ truyền thống khang trang, sạch đẹp. Sân và nội đình được ngăn cách bởi hệ thống bậc lên xuống xây gạch phủ vữa. Qua những hàng bậc này là lên đến hiện đình. Hàng hiên được lát gạch vuông đỏ truyền thống kích thước 25cmx25cm với chiều dài 6,2m; chiều rộng 1,2m. Hệ thống cửa đình làng Sặt xây lùi về phía sau so với tường hồi 1,2m, gồm 3 cửa ra vào (mỗi cửa có 4 cảnh) được làm bằng gỗ kiểu ván ghép chân quay, sơn màu nâu đỏ, đặt trên ngõng gỗ cao cách mặt hiển 30cm. Bước qua hệ thống cửa là vào bên trong tòa Tiền đình. Toà Tiền đình được dựng gồm 4 vì mái, giữa các vì được liên kết với nhau bằng hệ thống xà thượng, xà trung. Hệ thống vì nóc kết cấu không giống nhau, hai vì hồi kết cấu kiểu chồng rường ván mê, trang trí đề tài hoa lá, hoa dây với thủ pháp chạm nông, 2 vì gian giữa kết cấu kiểu trụ giá chiêng kẻ ngồi trốn cột, bào trơn đóng bén. Nền lát gạch vuông đỏ. Tại đây đặt bộ bát bửu và treo bức hoành phi chữ Hán “Vạn cổ anh linh” (Muôn thuở linh thiêng) cùng đôi câu đối “Đức đại an dân thiên cổ thịnh /Công cao hộ quốc vạn niên trường” (Đức lớn yên dân, ngàn năm thịnhvượng/Công cao giúp nước muôn năm trường tồn). Toà Tiền đình có kích thước như sau: - Chiều dài: 9,24m; - Chiều rộng: 8,32m; - Chiều cao từ nền đến nóc: 4,95m; Hậu cung đình làng Sặt xây lùi về phía sau được tạo bởi 1 gian, tường xây gạch chỉ, phủ vữa, mái lợp ngói mũi. Hệ thống khung chịu lực bên trong được tạo bởi 2 vì, kết cấu trụ giá chiêng kẻ ngồi trốn cột, bào trơn đóng bén. Bên trong Hậu cung là trung tâm thờ Thành Hoàng làng của đình, tại đây đặt ngai thờ, bài vị Đức Thánh Cao Sơn, Qúy Minh và ảnh chân dung thờ thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám. Xung quanh đặt các đồ thờ, tế khí, hòm sắc, sắc phong... có niên đại thế kỷ XIX-XX. Hậu cung có kích thước như sau: - Chiều dài: 3,4m;
9 - Chiều rộng: 3,64m; - Cao từ nền đến nóc hậu cung: 3,85m. VII. PHÂN BỐ DI VẬT, CỔ VẬT DI TÍCH ĐÌNH LÀNG SẶT 1. Di sản Hán Nôm Hiện nay, ngôi đình còn bảo lưu được nguồn di sản Hán Nôm như hoành phi, câu đối, 01 đạo sắc niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909) (sắc phục chế). Đây là một trong những nguồn tư liệu quý giá góp phần tìm hiểu về lịch sử của di tích. 1.1. Hoành phi: 萬古英靈 Vạn cổ anh linh “Muôn thủa linh thiêng”. 1.2. Câu đối: 地靈千古應 人傑繼世傳 Địa linh thiên cổ ứng Nhân kiệt kế thế truyền “Đất linh ngàn năm ứng Nhân kiệt mãi mãi truyền”. 萬古乾坤興再造 九霄日月映重光 Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo Cửu tiêu nhật nguyệt ánh trùng dương. “Muôn thủa càn khôn hưng công tái tạo Chin tầng nhật nguyệt chói lọi hào quang". 德大安民千古盛 功高護國萬年長 Đức đại an dân thiên cổ thịnh Công cao hộ quốc vạn niên trường. “Đức lớn yên dân, ngàn năm thịnh vượng Công cao giúp nước muôn năm trường tồn”. 1.3. Sắc phong Nguyên văn: 敕旨北江省安世縣楊山社從前奉事效靈敦静雄峻卓偉翊 保中興高山上等神清朗高妙迪吉俊靜翊保中興貴明上等神節 經頒給敕封準其奉事維新元年晉光大禮經頒寶詔覃恩禮隆登 秩特準依舊奉事用誌國慶而申祀典欽哉 維新三年捌月拾壹日 Phiên âm: “Sắc chỉ: Bắc Giang tỉnh, Yên Thế huyện, Dương Sơn xã tòng tiền phụng sự: Hiệu linh đôn tĩnh, hùng tuấn trác vĩ, dực bảo trung hưng Cao Sơn Thượng đẳng
10 Thần. Thanh lãng cao diệu, địch cát tuấn tĩnh, dực bảo trung hưng Quý Minh Thượng đẳng Thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong, chuẩn kỳ phụng sự. Duy Tân nguyên niên, tấn quang đại lễ kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn, y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm tại. Duy Tân tam niên, bát nguyệt, thập nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc ban cho xã Dương Sơn, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang cứ theo như cũ phụng thờ: Hiệu linh đôn tĩnh, hùng tuấn trác vĩ, dực bảo trung hưng Cao Sơn Thượng đẳng Thần; Thanh lãng cao diệu, địch cát tuấn tĩnh, dực bảo trung hưng Quý Minh Thượng đẳng Thần. Các Thần đã nhiều lần được ban tặng sắc phong chuẩn cho địa phương phụng thờ. Nay đúng năm Duy Tân đầu tiên (1907) nhân dịp nhà vua đăng quang ngôi báu có tổ chức đại lễ mừng, đã ban bảo chiếu tỏ rõ ân lễ của nhà vua, tăng thêm phẩm cấp cho các Thần. Chuẩn cho địa phương cứ theo như cũ phụng thờ các Thần vào những ngày lễ lớn, những dịp mừng vui của đất nước, lưu vào điển chương thờ tự. Hãy tuân theo sắc chỉ này. VIII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC THẢM MỸ CỦA DI TÍCH ĐÌNH LÀNG SẶT Đình làng Sặt là công trình văn hóa tín ngưỡng có lịch sử xây dựng từ lâu đời, trải qua sự biên sơn hà, ngôi đình cũ bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Hòa bình lập lại, nhân dân địa phương với hằng sản, hằng tâm đã cùng nhau khôi phục lại ngôi đình làm nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nó có ý nghĩa về mặt giáo dục truyền thống và nghiên cứu văn hóa, lịch sử của một thời xa xưa, điều này được thể hiện ở những tiêu chí sau: Giá trị văn hoá vật thể tại di tích: Hiện nay, đình làng Sặt có quy mô vừa phải với bình đồ kiến trúc hình chữ Đinh (J). Trong đình còn bảo lưu được nhiều tài liệu, đồ thờ quý có niên đại thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX) như: Ngai thờ, bài vị, bát hương gốm Phù Lãng, sập thờ, bắt bừu, 01 sắc niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909)... Đây là nguồn tài liệu, hiện vật quý có giá trị trong nghiên cứu khoa học, đồng thời góp phần tìm hiểu về lịch sử của ngôi đình. Giá trị văn hoá phi vật thể tại di tích: Di tích được nhân dân xây dựng lên để làm nơi thờ phụng và tưởng nhớ Đức Thánh Cao Sơn, Qúy Minh. Đây là những vị Thánh đã có nhiều công lao trong việc phò vua giúp nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, đem lại sự bình yên cho nhân dân. Công lao to lớn của các ngài được lưu truyền trong sử sách, thần tích; các triều đại phong kiến cũng nhiều lần phong sắc để nhân dân khắp nơi thờ phụng, đời đời ghi nhớ công ơn. Đình làng Sặt còn là nơi phối thờ Hoàng Hoa Thám, đây là vị thủ lĩnh tài ba của nghĩa quân Yên Thế-một cuộc khởi nghĩa đã tồn tại ngót 30 năm (1884-1913). Theo cuốn sách Khởi nghĩa Yên Thế của đồng tác giả Khổng Đức Thiêm,Nguyễn Xuân Cần, năm 1997, trang 368 có đoạn ghi về công lao của Hoàng Hoa Thám
11 như sau: “Có mặt trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế muộn hơn, nhưng Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) đã nhanh chóng trở thành linh hồn của phong trào (...). Đề Thám đã làm cho cuộc khởi nghĩa Yên Thế có một sức sống mãnh liệt, vươn tới chân lý của thời đại, xứng đáng với sự nghiệp do Đề Nắm để lại và niềm tin yêu của nhân dân”. Trong cuốn sách Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Bảo tồn và khai thác các giá trị di sản văn hóa về phong trào khởi nghĩa Yên Thế", năm 2010, trang 68 ghi: “ Trong quá trình tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từ những ngày đầu, rồi trở thành thủ lĩnh nghĩa quân, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, Hoàng Hoa Thám đã bộc lộ ngày càng cụ thể và sinh động phẩm chất của một thủ lĩnh nông dân tài trí, dũng cảm, hết lòng vì đội nghĩa quân, xây dựng cuộc sống tốt lành cho nhân dân. Từ xưa tới nay ngôi đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và là một trong những địa điểm tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân năm thôn Phố,Chài, Quân, Đồn, Thượng. Hội lệ hằng năm tổ chức vào ngày 14, 15 tháng Giêng với các nghi lễ tế trang trọng. Phần hội được tổ chức phong phú, đa dạng với các trò chơi truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc: Cờ tướng, đấu vật, kéo co... Các trò chơi trong lễ hội thu hút đông đảo người dân tham gia. IX. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH Hiện nay, đình làng Sặt còn lưu giữ được một khuôn viên rộng với nhiều cây cối xanh tốt, nơi đất lãnh, không gian thoảng đăng để tôn tạo thành một điểm du lịch văn hóa tâm linh trong tương lai. Điều đảng quý của đình là tuy ít nhiều kiến trúc đã có một số thay đổi qua vải đợt trùng tu, song về cơ bản các thành phản kiến trúc và hiện vật còn bảo lưu trong di tích vẫn đủ để chúng ta có thể tập trung nghiên cứu về khía cạnh văn hóa của một thời đã qua. Hiện nay, di tích đang được ban khánh tiết, các cụ cao niên trong làng trông coi. Công tác bảo quản và tu bổ ngôi đình được ban lãnh đạo thôn củng nhân dân trong làng đồng lòng quan tâm. Công trình được xây dựng khang trang, quy hoạch gọn gàng. Tường bao bảo vệ được xây dựng kiến cổ. Xung quanh di tích trồng nhiều cây xanh tạo cho công trình vẻ tĩnh tại, uy nghiêm. Ban khánh tiết hoạt động khả tích cực, thường xuyên cắt cử người trông coi di tích. Tuy nhiên, trên thực tế di tích này vẫn còn tồn tại một số thực trạng cần khắc phục: - Quy mô kiến trúc ngôi đình hiện tại chưa thực sự phù hợp với kiến trúc ngôi đình cổ... - Hệ thống đồ thờ lâu ngày không được lau chùi khiến bụi, mốc bám một lớp dày như: Ngai thờ, mâm bồng, bát hương.
12 - Một số hiện vật không còn nguyên vẹn: sập thờ bị một một góc, bát hương gồm bị nứt. Từ thực trạng di tích còn nhiều bất cập như vừa nêu trên nên công tác phát huy giá trị di tích gặp nhiều hạn chế. ( Lễ kết nạp đội viên cho học sinh của trường Tiểu học Liên Sơn năm 2022 tại đình Sặt, xã Liên Sơn, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH Để bảo quản và phát huy tốt giá trị của di tích, các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể ở địa phương cần quan tâm hơn nữa đến công tác bảo vệ và phát huy giá trị của di tích. Về mặt chính quyền và nhân dân địa phương, để bảo vệ và phát huy được tác dụng của di tích, chính quyền và nhân dân địa phương cần thành lập một Ban Quản lý di tích cấp xã theo Chỉ thị 06/2014/CT-UBND ngày 12/9/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang về việc tăng cường các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Trong đó: Trưởng Ban QLDT (là đại diện lãnh đạo UBND xã) cùng đại diện các ban ngành, đoàn thể (văn hóa-xã hội, công an, hội người cao tuổi, địa chính, mặt trận Tổ quốc, trưởng thôn) nơi cổ di tích và chủ sử dụng (người trông coi di tích-nếu có) làm uỷ viên. Thường xuyên
13 giới thiệu, tuyên truyền rộng rãi tới nhân dân các văn bản pháp quy: Luật, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư của Nhà nước có liên quan về bản vệ di tích. Cụ thể là: + Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2001 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) và Nghị định số hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; về Tăng cường biện pháp quản lý, bảo vệ cổ vật trong di tích và ngăn chặn đào bới, trục vớt trái phép di tích khảo cổ học. Cắt cử người thường xuyên trông coi di tích, tránh để xảy ra tình trạng mất cắp di vật, cổ vật. + Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg ngày 18/02/2002 của Thủ tướng Chính phủ Sau khi di tích được ra quyết định xếp hạng, địa phương cần kiện toàn hệ thống quản lý ở di tích, cụ thể như sau: - Lập biển đường chỉ dẫn tới di tích nhằm giúp khách tham quan dễ dàng khi tới thăm di tích. - Trong di tích cần có bảng lược kê tóm tắt giá trị, nội dung, sự lệ của di tích. - Cần có bảng ghi rõ nội quy của di tích. Công tác quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích cần thực hiện theo phương châm giữ nguyên hiện trạng của di tích. Không tự ý sơn sửa những cấu kiện kiến trúc, đồ thờ tự, sẽ làm biến dạng hiện vật, mất giá trị nguyên gốc của di tích. Về mặt bằng hiện trạng di tích, cần khoanh vùng bảo vệ di tích, lập giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích. Quá trình bảo quản và phát huy tác dụng của di tích nếu có những biến đổi về hiện trạng và các tài liệu, hiện vật, cũng như các cấu kiện kiến trúc trong di tích bị hư hỏng, cần thông báo kịp thời cho cơ quan chuyên môn để có hướng bảo tồn tốt nhất cho di tích. Cần tiến hành tốt công tác tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di tích bằng nhiều hình thức khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng: sách, báo, đài phát thanh, truyền hình... để mọi người dân hiểu rõ được giá trị của di tích. Đó cũng là việc khích lệ người dân cùng tham gia bảo vệ, tôn tạo di tích ở địa phương mình. Công tác quản lý di tích, đặc biệt là việc tu sửa, tôn tạo di tích phải được thực hiện theo hướng dẫn của Điều 34 Luật Di sản văn hóa; Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL, ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Sau khi đình làng Sặt được Nhà nước xếp hạng, khuyến khích địa phương tu bổ di tích theo kiến trúc cổ truyền thống. Nguồn: Tư liệu hồ sơ di tích đình Sặt, xã Liên Sơn năm 2018.