The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

25. Ý nghĩa hình tượng bồ tác Di Lặc

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lạc an, 2019-12-17 01:24:57

25. Ý nghĩa hình tượng bồ tác Di Lặc

25. Ý nghĩa hình tượng bồ tác Di Lặc

Ý NGHĨA HÌNH TƯỢNG
BỒ TÁT DI LẶC VÀ SÁU
ĐỨA BÉ

Mỗi mùa Xuân đến,
mọi người đều in thiệp
chúc Tết nhau. Trong
nhà chùa nói chung,
nhất là Phật giáo Bắc
tông, hầu hết đều chúc

nhau một mùa xuân Di-
lặc. Như vậy đức Phật
Di-lặc có liên hệ gì đến
mùa Xuân, mà chúng ta
cầu chúc nhau như thế.
Có nhiều người cho
rằng ngày mùng một
Tết là ngày vía đản sanh
của đức Di-lặc. Tôi chưa

biết đó là ngày đản
sanh ủa hóa thân nào,
vào thời đại nào.

Bởi vì lịch sử phát triển
của Bồ-tát ứng thân vô
lượng, làm sao chúng ta
căn cứ một bề, lấy đó
làm tiêu chuẩn. Chúng
tôi chỉ biết một điều

thật là quan trọng trên
danh nghĩa Phật Di-lặc
mà chúng ta thường
tụng thường nguyện.

Khi chúng ta tụng:
nam-mô long Hoa giáo
chủ đương lai hạ sanh
Di-lặc Tôn Phật, đó là
thể theo lời huyền ký

của Bổn sư Thích-ca
Mâu-ni rằng, sau khi
Bồ-tát Di-lặc sanh lên
cung trời Đâu-suất mãn
công hạnh, sẽ đến thế
giới Ta-bà này thuyết
giảng. Lúc tuổi thọ con
người giảm tột cùng chỉ
còn mười tuổi, rồi do

nhờ phát tâm tu hành,
gìn giữ thập thiện, tuổi
thọ tăng lên sáu mươi
bốn ngàn tuổi, chừng
đó đức Phật Di-lặc ra
đời. Như vậy thời gian
Ngài ra đời còn xa lắm.
Tôi đã từng nói mỗi
đức Phật ra đời không

làm việc trùng lập
nhau. Bao giờ giáo lý
của đức Phật Thích-ca
Mâu-ni, danh từ Tam
Bảo không còn được
biết tới nữa thì đức
Phật Di-lặc mới ra đời.

Đức Phật Thích-ca
được gọi là ta-bà giáo

chủ, là bị giáo chủ trong
cõi Ta-bà này. Còn đức
Phật Di-lặc sẽ thành
đạo dưới cội Long Hoa,
cho nên được gọi là
Long Hoa giáo chủ. Tuy
thời gian Ngài ra đòi
còn lâu xa, nhưng
chúng ta tin rằng tương

lai sẽ có Phật ra đời.
Đức Phật ra đời, đó là
một diễm phúc cho
chúng sanh, la ngọn
đuốc sáng cho nhân
loại. Vì vậy khi nghĩ đến
đức Phật ra đời, chúng
ta cảm thấy cả một
nguồn hạnh phúc an

lành. Ngày mùng một
Tết là ngày vía đức Phật
Di-lặc, cũng là ngày hứa
hẹn hạnh phúc cho
chúng sanh. Hạnh phúc
bằng cách giải thoát
khổ đau, ra khỏi luân
hồi, chớ không phải
hạnh phúc trong ngũ

dục tầm thường. Đầu
năm tăng Ni cùng Phật
tử lễ vía đức Phật Di-
lặc, Ngài là hình ảnh
bên ngoài mà cũng là
sự hứa hẹn ở nội tâm
chúng ta. Nhớ đến đức
Phật sẽ thành, chúng ta
cũng nhớ luôn mai kia

mình sẽ thành Phật. Vì
vậy chúng ta không chỉ
lạy đức Phật với lòng
thành kính, mà còn cầu
chúc cho nhau một
mùa Xuân hứa hẹn sẽ
thành Phật. Đó là ý
nghĩa thâm sâu của

ngày vía đức Phật Di-
lặc.

Bây giờ chúng ta đi vào
ý nghĩa hình tượng của
Ngài. Chắc rằng chúng
ta ai cũng từng thấy
hình tượng đức Di-lặc ở
các ngôi chùa. Có khi
người ta thờ Ngài với

vẻ mập mạp; cười toe
toét. Có chỗ khác cũng
thờ hình tuuợng như
vậy mà có sáu đứa nhỏ.
Đứa thì chọc ngón tay
vô rún, đứa thì móc lỗ
mũi, đứa thì móc
miệng, đứa thì dùi lỗ tai
v.v… mà Ngài cứ vui

cười không phiền,
không chướng ngại gì
hết.

Tại sao như vậy? Hình
ảnh đã nói lên cái gì?
Điều này rất thiết yếu,
chúng ta nên chú tâm
như trong kinh Lăng
Nghiêm, có đoạn mười

phương chư Phật dị
khẩu đồng âm tuyên bố
cho ngài A-nan và đại
chúng: “Khiến ông phải
luân hồi sanh tử, chính
là sáu căn của ông, chớ
không phải vật gì khác,
khiến ông chóng chứng
Vô thượng Bồ-đề, cũng

chính là sáu căn của
ông, chớ khôg phải vật
gì khác.” Như vậy cội
gốc snah tử cũng là sáu
căn của chúng ta: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Cội gốc Bồ-đề Niết-bàn
cũng là sáu căn của
chúng ta. Như vậy con

đường trở về giác ngộ
hay con đường sanh tử
luân hồi là một hay hai?
Sanh tử luân hồi cũng
đi con đường đó, có
khác nhau. Người thì đi
theo chiều thuận gọi là
thuận lưu, người đi
theo chiều nghịch gọi là

nghịch lưu. Đi theo
chiều thuận là sanh tử
luân hồi. Đi theo chiều
nghịch là giai thoát
sanh tử. Như vậy thì
không có hai đường. Ví
dụ chúng ta về Sài Gòn,
cũng đi trên đường
Vũng Tàu-Sài Gòn. Sài

gòn-Vũng Tàu cũng đi
đường đó. Nhưng nói
về Sài Gòn là đi trở về,
nói đi Vũng Tàu là đi
trở ngược ra. Chỉ khác
một người đi trở ra,
một người đi trở vô
thôi. Khác nhau ở chỗ
đó. Đường thì một mà

hai người đi ngịch hoặc
thuận chiều, kết quả sẽ
có hai ngã khác nhau.
Cũng như vậy, sáu căn
của chúng ta nếu thuận
chiều với nó, đó là
chúng ta đi trong luân
hồi sanh tử. Chúng ta đi
ngược chiều với nó là

chúng ta trở về Niết-
bàn, Bồ-đề, giải thoát
v.v… nếu sáu căn đi
theo sáu trần gọi là
thuận, đi theo chiều
luân hồi. Nếu sáu căn
không chạy theo sáu
trần, không nhiễm,
không dính, không mắc,

đó là người trở về Bồ-
đề Niết-bàn không đâu
xa lạ. như vậy để thấy
rõ con đường tu tuy có
rất nhiều, nhưng sự tu
căn bản chỉ dừng cho
sáu căn chạy theo sáu
trần bên ngoài. Đức
Phật Di-lặc là một vị

Phật sẽ thành ở ngày
mai do Ngài tu hạnh gì?
Chính hình ảnh đó là
câu trả lời cụ thể nhất.
Mỗi đứa bé soi lỗ tai,
móc lỗ mũi của Ngài mà
Ngài vẫn cười không tỏ
vẻ bực dọc, không tỏ vẻ
chướng ngại buồn bã.

Vì vậy ngài sẽ thành
Phật chắc chắn.

Còn chúng ta thì sao?
Nếu ai móc lỗ tai mình
thì không đánh cũng
đá, cũng đâp cũng la.
Móc lỗ mũi mình cũng
thế… Như vậy đối sáu
căn, có ai động tới thì

chúng ta không chịu
nổi. Chỗ không chịu nổi
đó làm chướng ngại
chúng ta. Sáu đứa bé
gọi là lục tặc, tức là sáu
đứa cướp phá phách.
Nhưng thật tình chúng
có phá mình hay
không? Nếu bị móc lỗ

tai mà mình không cảm
thấy khó chịu lại thấy
đã ngứa thêm thì
không bị chướng ngại.
Hiện tại hầu hết chúng
ta đều bị chướng ngại
bởi những lời chửi
mắng dèm pha, nguyền
rủa tới lỗ tai, mà mìh

coi như gió thổi lá
dương cành liễu cho nó
nương theo gió đi đâu
thì đi, đừng vướng mắc
tự nhiên mình an lành
tự tại. Nếu thấy đó là
lời nói thù hằn, mỉa mai
sâu độc mà mình bực
bội tức tối, ghi nhận nó

vào với những tâm
niệm hận thù, đen tối
thì nó sẽ thành giặc
cướp làm tan hoang
của báu nhà mình. Tai
nghe những tiếng khen
chê hoặc là chửi bới đề
cao v.v… mình cũng
xem thường, vì tiếng

nói không thật. Chính
bản thân mình còn
không thật, huống là
tiếng nói bên ngoài.
Tâm không động đó là
mình đã thắng đứa bé
móc lỗ tai rồi.

Khi con mắt thấy tất cả
hình ảnh phía trước, có

đẹp có xấu, dù hình ảnh
nào mình cũng dửng
dung không lay động
không dính mắc. Như
vậy bao nhiêu hình ảnh
dàn trải tràn trề nước
mắt, mình cũng vẫn an
lành tự tại. Ngược lại
khi thấy một hình ảnh,

mình liền cho là đẹp là
xấu, đẹp thì sợ mất,
xấu thì sanh tâm bực
tức. Thế là hình ảnh
nào cũng gây phiền não
hết, không có hình ảnh
nào là an vui tự tại. Sự
thật những hình ảnh đó
có phải là phiền não

không? Phiền não là tự
ai? Gốc tại mình. Nếu
thấy nó mà không
luyến ái, không ghét bỏ,
thì nó vẫn là nó. Có lỗi
lầm gì đâu! Lỗi lầm là
chính lòng luyến ái.
Lòng sân hận của mình
chớ không phải hình

ảnh có lỗi lầm. Khi chứa
chấp sân hận, chứa
chấp luyến ái, thì của
báu nhà mình bị cướp
mất. Con mắt đem
những hình ảnh vào để
cướp mất của báu nhà
mình, đó là cái chướng
biểu trưng qua hình

ảnh đứa bé móc mắt.
Còn nếu ngược lại mình
không mắc kẹt, hình
ảnh là hình ảnh, mình
vẫn an nhiên thì, đứa
bé ấy có làm gì thì làm,
mình vẫn an ổn.

Lỗ mũi cũng thế, ngửi
mùi hôi mùi thơm đừng

mắc kẹt, coi như khói
như gió vừa qua mũi rồi
mất, không có gì thật
thì, có gì làm cho mình
nhiễm, tự nhiên trong
lòng được tự tại.
Ngược lại, tại chúgng ta
si mê, cho nên mùi
thơm đến thì thích, mùi

hôi đến thì bực. Do đó
tự mình đem giặc vào
cướp của báu nhà
mình, tự làm chướng
ngại.

Như lươi chúng ta nếm
những vị cay, đắng,
mặn, ngọt. Cái nào hợp
thì thích, cái nào không

hợp thì không thích. Vì
vậy mà chúng ta chạy
tìm kiếm, khổ từ năm
này sang năm khác.
Mỗi khi lên mâm cơm,
thấy món gì mình cảm
nghĩ là hợp thì vui,
không hợp thì bực. Vui
và bực đó làm mình

phải chướng, rồi nói lời
thô ác làm cho người
chung quanh không vui.
Vì lẽ đó chúng ta tập
cho lưỡi mình đừng
tham đắm vị. Tất cả cái
ngon cái dở chẳng qua
là tạm mà thôi. Cốt sao
cho mình được an ổn

tu hành là quí. Như vậy
chúng ta thắng được
các thứ vị, tức là đã
thắng đứa bé móc
miệng rồi.

Tôi đã đơn cử các căn
như mắt, tai, mũi, lưỡi
để thấy chúng ta tu là
phải tu ngay tại sáu căn

của mình, đó là các cơ
quan hằng tiếp xúc với
những hoàn cảnh thuận
tiện làm cho mình ưa,
những hoàn cảnh trái
ngược làm cho mình
giận. Tuy nói sáu căn
chớ thật tình ó năm căn
quan trọng, tức là mắt

tai mũi lưỡi thâ, năm
cửa đón tiếp bên ngoài.
Mỗi khi năm căn tiếp
xúc với năm trần thì ý
theo đó phân biệt để
thương ghét buồn giận.
Vì vậy, ngay năm căn
kia mà chúng ta đón
nhận đúng pháp thì căn

thứ sáu (ý căn) không
còn trở ngại nữa. Khi
sáu căn tiếp xúc với sáu
trần mà chúng ta mắc
kẹt, nhiễm theo thì gọi
là sáu đứa cướp, bởi vì
kho báu nhà mình bị
chúng cướp đi. Cướp
bằng cách nào? Ví dụ lỗ

tai nghe tiếng rồi phân
biệt tiếng khen chê,
sanh buồn sanh mừng
là bị mất của. Của đó
giặc mang đi đường
nào và lấy ở đâu? Nói
suông thì khó biết. Cần
phải biết của mình ở
đâu và dấu vết giặc

mang đi đường nào,
mới có thể giữ của
được.

Sự thật nó không mang
đi đâu, đó chỉ là hình
ảnh tượng trưng thôi…
Nhưng chúng ta
thường nghĩ khi có lấy
tức là có mang đi,

không ngờ nếu thật
tình nó mang đi thì sau
này dù có giữ cũng là
giữ cái kho không còn
của đâu mà giữ. Vì vậy
phải biết rõ ràng là tuy
nói nó cướp giật của
mình, nhưng không
cướp gì hết. Chỉ là do

năm căn tiếp xúc bên
ngoài, rồi tâm mình xao
xuyến hoặc buồn hoặc
giận. Đó là những đám
mây đen nổi dậy che
lấp mặt trời trí tuệ của
mình, gọi là đã cướp.
khi nào nghe những
tiếng khen chê mà

trong lòng không xao
động, những đám mây
đen không nổi dậy, thì
mặt trời trí tuệ của
chúng ta vẫn sáng rực,
gọi là giữ được của báu.

Khi trí tuệ chúng ta
hằng sáng tỏ, lúc đó gọi
là giàu.Còn nếu giây

phút nào tri tuệ bị mờ
tối không còn phát hiện
nữa gọi là mất của báu,
ta nghèo đi. Cái nghèo
đó là cái nghèo tạm
thời, nhưng cũng có thể
là nghèo muôn kiếp.
Nếu giờ phút nào bị
mây phiền não che


Click to View FlipBook Version