The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh220, 2016-03-12 07:29:56

K01R5_050316_VyDgHuTiDgNHHDgTi (2)

K01R5_050316_VyDgHuTiDgNHHDgTi (2)

 

KHÓA 1 – PHAN BỘI CHÂU
TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM - HUẾ

(École des Officiers Vietnamiens)

Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu

SƠ LƯỢC

Nhập Trường: Tháng 10, 1948
Số Ứng Viên: 64

Mãn Khóa: Tháng 5, 1949
Chủ Tọa Lễ Mãn Khóa: Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo
Số Sĩ Quan Tốt Nghiệp: 56

Tên Khóa: Bảo Đại / Phan Bội Châu
Thủ Khoa: Nguyễn Hữu Có


  163
 

 

NGUYÊN NHÂN THÀNH LẬP TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM
(Tiền thân của Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt và Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam)

Sau khi quân phiệt Nhật
đầu hàng vào ngày 15 tháng 8
năm 1945, có nhiều thay đổi liên
tiếp trên toàn cõi Đông Dương
(Việt-Miên-Lào.)

Ngày 19 tháng 8 năm
1947, Hoàng Đế Bảo Đại từ
Hồng Kông bằng lòng đứng ra
tiếp xúc với chính phủ Pháp.
Cuộc vận động kéo dài đến ngày
5 tháng 6 năm 1948, Hoàng Đế
Bảo Đại đã đến để chứng kiến lễ
ký kết giữa Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Xuân, Thủ Tướng
cùng đại diện chính phủ Pháp
Emile Bolloert ký bản "Hiệp
Ước Hạ Long" công nhận QUỐC GIA VIỆT NAM ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT cả 3 miền
BẮC TRUNG NAM trong khối LIÊN HIỆP PHÁP.

Một ngày sau khi ký Hiệp Ước Hạ Long, tức là ngày 6 tháng 6 năm 1948, Quốc
Trưởng Bảo Đại chỉ thị Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân xúc tiến việc thành lập QUÂN
ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), và đồng thời cũng tiến hành việc tổ chức
Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Huế.

ĐIẠ ĐIỂM TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM

Cố Đô Huế tại miền Trung Việt Nam là nơi được lựa chọn để xây dựng cơ sở
Trường. Trách nhiệm thực hiện được giao cho Toà Đại Biểu Chính Phủ tại miền Trung
do Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo lãnh đạo phối hợp với Bộ Chỉ Huy Lực Lượng
Việt Binh Đoàn do Đại Úy Nguyễn Ngọc Lễ, đang làm Chỉ Huy Trưởng thực hiện. Một
khu biệt thự lớn nằm bên bờ sông Hương của Thị Xã Huế được chỉnh trang lại cho mục
đích trên. Khu biệt thự này nằm gần cầu Trường Tiền, nếu đi trên đường Lê Lợi về hướng
Thuận An thì khu biệt thự nằm bên trái nhưng chưa đến Đập Đá.

Khu biệt thự biến thành Trường Sĩ Quan Việt Nam khá rộng, bề ngang 400 mét và
bề sâu khoảng 200 mét. Mặt trước của Trường nằm trên đường Lê Lợi, mặt sau sát bờ
sông Hương đối diện với chợ Đông Ba phía bên kia sông. Suốt mặt trước sát ngay bên lề
phố là một dẫy tường gạch cao 2 mét, ở khoảng giữa có một cổng rộng chừng 8 mét, phía
trên gắn bảng hiệu hình vòng cung sơn mầu xanh lá cây, trên kẻ chữ “ÉCOLE DES
OFFICIERS VIETNAMIENS” (Trường Sĩ Quan Việt Nam) mầu vàng. Từ đường Lê Lợi
nhìn vào Trường, cạnh bên trái là hướng Tây sát với các nhà dân. Cạnh này được ngăn
bằng một hàng rào kẽm gai cao 2 mét đan ô vuông dầy 20 phân, chạy từ lề đường thẳng


  164
 

 

xuống tận bờ sông Hương, và có một cổng phụ cho xe hơi tiếp vận ra vào Trường. Cạnh
bên phải là hướng Đông, có một dẫy tường đá dầy 40 phân cao hơn 1 mét để ngăn cách
với khu biệt thự kế bên cũng rất rộng bỏ trống không người ở.

Sau này vào năm 1951, khi đào tạo xong 2 khoá đầu tiên là Khóa 1 - Bảo Đại và
Khóa 2 - Quang Trung, do quyết định của Quốc Trưởng Bảo Đại, Trường được di chuyển
vào Đà Lạt bên cạnh hồ Mê Linh (Khu Chi Lăng ngày nay) và cải danh thành Trường Võ
Bị Liên Quân Đà Lạt (EMIAD = École Militaire Inter Armes DaLat.) Đến thời Đệ Nhất
Cộng Hoà, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại quyết định cho xây cất cơ sở trường mới thật
lớn gần Hồ Than Thở, và một lần nữa được đổi tên thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt
Nam (TVBQGVN.)

Bước qua cổng chính của Trường Sĩ Quan Việt Nam đi vào trong, ngay phía bên
trái là một sân tập họp thật rộng có dựng một cột cờ cao, treo cờ Quốc Gia Việt Nam (Cờ
Vàng 3 Sọc Đỏ.)

Ngôi nhà bên trái dùng làm trụ sở của Ban Giám Đốc gồm văn phòng Trung Tá
Chaix, Chỉ Huy Trưởng; Đại Úy Joly, Giám Đốc Quân Huấn; văn phòng của các sĩ quan
Huấn Luyện Viên kiêm Trung Đội Trưởng và các hạ sĩ quan Phụ Tá.

Phía bên phải là Trạm Kiểm Soát, văn phòng Sĩ Quan Trực, Phòng Y Tế và nơi ở
của lực lượng Việt Binh Đoàn.

Bên trong là một dãy nhà dài dùng làm giảng đường và cũng là nhà ăn cho khóa
sinh, bàn ăn cũng là bàn viết cho cả khóa khi tập trung nghe thuyết trình hoặc làm bài thi.

Sau lưng nhà ăn tập thể có 3 dãy nhà khác nhỏ hơn dùng làm phòng học và sinh
hoạt cho từng trung đội khóa sinh. Bên trong được trang bị như lớp học của học sinh các
trường trung học, bàn liền ghế cho 2 người. Đầu phòng có bảng đen lớn và bàn cho huấn
luyện viên.

Phía trong cùng, dọc theo bờ sông Hương, là 2 dãy nhà dùng làm nhà ngủ cho
khóa sinh, mùa hè rất nóng và mùa đông rất lạnh! Dãy nhà bên trái được ngăn đôi, một
nửa làm phòng kho và phòng ngủ cho Thượng Sĩ Lục Sĩ Mẫn, hạ sĩ quan phụ trách
thường vụ (service général), nửa còn lại là phòng ngủ cho khóa sinh.

Phòng ngủ có 2 dẫy giường, mỗi giường có một chiếc chiếu bằng cói (lác) và một
nệm nhồi bằng cỏ khô và bông gòn có thể xếp lại được.

Mỗi khóa sinh được cấp một khẩu súng trường Garant M1, loại súng này dài và
nặng nhưng khi bắn không giật hậu mạnh như loại súng Mousqueton hoặc Mas 36 nên
khi bắn đạt được điểm rất cao.

Phía sau nhà ngủ là cầu bến tắm bên bờ sông Hương, đủ cho cả trăm người tắm
cùng một lúc.

PHƯƠNG THỨC TUYỂN LỰA KHÓA SINH

Không biết việc tuyển lựa khóa sinh tại miền Nam và Trung như thế nào, riêng tại
miền Bắc thì do đề nghị của đơn vị trưởng của các đại đội Vệ Binh Bắc Kỳ đề nghị. Bộ
Tư Lệnh cứu xét và tuyển chọn. Danh sách được gửi lên Bộ Quốc Phòng để quyết định.
Điều kiện tối thiểu là ứng viên phải có bằng trung học Pháp hoặc có trình độ học vấn các


  165
 

 

lớp trung học và đang phục vụ trong quân đội với cấp bậc hạ sĩ quan tốt nghiệp từ các
khóa Peloton 1 và 2 của quân đội Pháp. Nếu ai là binh nhì thì phải có bằng Tú Tài.

SINH HOẠT HẰNG NGÀY CỦA KHÓA SINH

Giờ giấc sinh hoạt:
• 6 giờ: Kèn báo thức, vệ sinh cá nhân, tập thể dục tập thể tại sân cờ.
• 7 giờ: Ăn sáng.
• 8 giờ: Tập họp, trình diện Sĩ Quan Huấn Luyên Viên trực trong ngày.
• Lễ chào cờ.
• Ra bãi tập thao luyện tác chiến hoặc đi thăm viếng, thực tập tại các đơn vị
chuyên môn hoặc kỹ thuật.
• 11 giờ: Nghỉ, ăn trưa, chuẩn bị cho sinh hoạt buổi chiều.
• 13 giờ: Thức dậy.
• 14 giờ: Học tập do sĩ quan của Trường giảng dạy hoặc nghe giảng viên bên
ngoài đến thuyết trình các đề tài tổng quát hoặc liên quân chủng.
• 18 giờ: Nghỉ, cơm tối. Sau đó được phép xuất trại không cần giấy phép.
• 21 giờ: Điểm danh tối và tắt đèn đi ngủ.

Những qui luật bắt buộc:
Ban ngày phòng ngủ của khóa sinh phải thường xuyên sắp xếp ngăn nắp theo cùng

khuôn mẫu như nhau, vuông vắn đẹp mắt. Va-li, túi đựng quần áo và tư trang để gọn
gàng dưới gầm giường.

NHỮNG KỶ NIỆM CHÍNH KHÓ QUÊN VỀ KHÓA 1

Ngày Nhập Trường
Tháng 10, 1948, chúng tôi được xe của đơn vị đưa đến trình diện tập trung tại

Trung Tâm Huấn Luyện Hạ Sĩ Quan Vệ Binh Bắc Kỳ tại Ngọc Hà, Hà Nội. Vào một
ngày thứ Bảy khoảng 9 giờ sáng, một Thượng Sĩ người Pháp đến mời chúng tôi lên xe đi
qua cầu Long Biên đến Phi Trường Gia Lâm. Khi xong một số thủ tục, chúng tôi được
đưa vào phòng VIP đợi giờ lên phi cơ của máy bay hãng hàng không dân sự Pháp SITA.

Tại phòng VIP, Đại Tá Tư Lệnh Vệ Binh Bắc Kỳ và Đại Úy Fauvel, Liên Đoàn
Trưởng Trường Vệ Binh Biên Phòng Miền Đông vào thăm hỏi, chúc mừng chúng tôi
bình an, sức khỏe, chăm chỉ học hành và có được kết quả tốt để sau này về chỉ huy các
đơn vị Vệ Binh.

Sau khi phi cơ đáp xuống phi trường Phú Bài, Huế, Trung Úy An thuộc Bộ Chỉ
Huy Lực Lượng Việt Binh Đoàn đón đưa chúng tôi về Trường. Hôm đó thứ Bảy vì là
ngày nghỉ, các khóa sinh đến trước đều đã đi phố hoặc thăm gia đình nên Trường vắng
tanh. Vừa ổn định xong chỗ nằm thì Tôn Thất Tương, khóa sinh đang thi hành nhiệm vụ
trực ghé thăm chúng tôi. Anh tự giới thiệu là người Huế, anh nói nếu chúng tôi muốn đi
xem phố Huế thì sáng sớm mai Chủ Nhật anh sẽ đón chúng tôi đi.


  166
 

 

Rời Trường, qua cầu Trường Tiền rẽ phải, từ Chợ Đông Ba nhìn qua bên kia bờ
sông, phía trước mặt chúng tôi là 2 dẫy nhà ngủ của Trường nối nhau suốt bề ngang và
chiếc cầu bến tắm. Nhìn qua phía trái là Cồn Hến, Đập Đá và Thôn Vĩ Dạ.

Ngày Khai Giảng Khóa Học
Ngày thứ Hai đầu tuần, tất cả mọi người tập họp trong nhà ăn để làm thủ tục khai

giảng. Đây là phút đầu tiên anh em toàn khóa thấy mặt nhau đầy đủ. Quân phục mọi
người khác nhau vì được tập trung từ nhiều đơn vị trên toàn quốc.

Trước khi buổi lễ chính thức bắt đầu, Đại Úy Joly, Giám Đốc Huấn Luyện, giới
thiệu các sĩ quan Huấn Luyên Viên kiêm Trung Đội Trưởng khóa sinh và các hạ sĩ quan
(HSQ) Phụ Tá của từng trung đội gồm: Trung Úy Scuanec và 1 HSQ Phụ Tá phụ trách
Trung Đội 1 gồm những người từ miền Nam; Trung Úy Peledieu và Thượng Sĩ Nhất Do
phụ trách Trung Đội 2 gồm những người từ miền Trung; Trung Úy Besson và Trung Sĩ
Kervenic phụ trách Trung Đội 3 gồm những người từ miền Bắc.

Buổi lễ khai mạc diễn ra rất đơn giản, chỉ có Trung Tá Chaix, Chỉ Huy Trưởng,
đến chào mừng và nhắn nhủ mấy điểm chính yếu như sau (theo trí nhớ người viết):

Vì phần lớn khóa sinh là hạ sĩ quan thâm niên có nhiều kinh nghiệm quân đội nên
chương trình được cắt bỏ bớt, do đó thời gian học sẽ ngắn hơn dự liệu, chỉ còn 8 tháng.
Kể từ ngày nhập trường, khóa sinh nào chưa là hạ sĩ quan sẽ được thăng cấp trung sĩ và
lãnh lương theo cấp bậc này, những người khác có cấp bậc cao hơn tiếp tục lãnh lương
theo cấp bậc của mình.

Ông nhắn nhủ chúng tôi cố gắng học hành để đạt kết quả tốt nhằm cung ứng nhu
cầu sĩ quan cho các đơn vị thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam sẽ được bắt đầu thành lập
vào năm tới (1949). Các sĩ quan huấn luyện viên đều là người Pháp tốt nghiệp từ trường
Võ Bị Saint Cyr của Lục Quân Pháp sẽ giúp đỡ, hướng dẫn chúng tôi học hành được dễ
dàng, nếu có vấn đề gì cảm thấy chưa thông hiểu rõ ràng, cặn kẽ thì đừng ngần ngại hỏi
để được giúp đỡ và bổ túc.

Ông cũng cho biết, Trường sẽ cung cấp cho chúng tôi có đồng phục mới để được
đồng nhất và cũng từ hôm nay không ai mang cấp bậc cũ của mình nữa. Mọi người sẽ
mang trên cầu vai áo huy hiệu Sinh Siên Sĩ Quan (ký hiệu Alpha bằng đồng màu vàng
trên nền dạ nỉ màu đen), đội mũ "Calô" nỉ đen có đỉnh màu vàng và 2 bên viền chỉ kim
tuyến. Như vậy mọi người đều nhận biết rõ ràng chúng tôi là sinh viên của trường đào tạo
sĩ quan Việt Nam. Cuối cùng ông kêu gọi chúng tôi giữ gìn phong thái và tư cách để
không làm tổn thương đến thanh danh cá nhân và nhà trường.

Đồng Phục Khóa Sinh
Đồng phục làm việc của chúng tôi là quần ngắn (short) vải kaki vàng, áo ngắn tay,

cổ bẻ, giày da thấp cổ màu nâu đậm và tất (vớ) tới đầu gối cùng màu với quần áo.
Đồng phục dạo phố cũng bằng vải kaki, quần dài, áo sơ mi dài tay với 2 túi ngực

có nắp, cổ thắt cà vạt nỉ mỏng màu ô liu. Mùa đông dùng áo dạ màu ô liu đậm, áo
blouson. Mũ calô nỉ đen được dùng cho tất cả các loại quân phục.


  167
 

 

Có điều làm cho chúng tôi rất hãnh diện là từ ngày chúng tôi mặc đồng phục mang
cầu vai Alpha ra đường, các hạ sĩ quan và binh sĩ gặp chúng tôi đều chào kính chúng tôi
theo cung cách chào kính sĩ quan.

Chương Trình và Thời Khóa Biểu
Chương trình học gồm các môn thuộc lãnh vực quân sự và chuyên môn, không có

môn nào thuộc bổ túc văn hóa tổng quát. Các môn quân sự đều do sĩ quan huấn luyện
viên nhà trường dạy. Trường cũng mời các sĩ quan chỉ huy các ngành liên hệ đến để
giảng dạy và sát hạch các môn chuyên nghiệp.

Thời biểu học trong ngày thường là buổi sáng học ở ngoài trời, buổi chiều học
trong nhà.

Bãi tập thường xuyên hàng ngày là sân vận động Huế và các vùng phụ cận như
Xóm Mới quán cơm Âm Phủ, Chợ Cống. Thời gian học thực hành tác chiến trong thành
phố thì vào Thành Nội, vùng quanh sân bay, Hồ Tịnh Tâm và Thành Mang Cá. Khi học
băng đồng lục soát làng xóm, bảo vệ xa lộ và thiết lộ thì xuống vùng quanh núi Ngự
Bình, từ Ga An Cựu đến Phú Bài. Sân bắn nằm sát bên Trung Tâm Huấn Luyện Hạ Sĩ
Quan Việt Binh Đoàn tại chân núi Ngự Bình.

Thử Lửa Bổ Túc Cho Bài Thi Mãn Khóa
Vào giai đoạn chót của khóa học, chúng tôi được đem đi "Thử Lửa" (Baptême au

Feu) bằng 2 đợt.
Cuối tháng 4, 1949, cả khóa tập họp thiết kế và thực hiện cuộc hành quân cấp đại

đội chiếm làng Cùi (không người ở) vùng núi Bạch Mã, có pháo binh từ phi trường Phú
Bài và phi cơ khu trục từ phi trường Đà Nẵng ra bắn đạn thật.

Qua đầu tháng 5, 1949 cả khóa lại được đưa đi quan sát mặt trận do Bộ Chỉ Huy
Khu Quân Sự Pháp tại Huế hành quân đánh chiếm chiến khu Lương Miều của Việt Cộng.
Khóa sinh được chia thành nhiều toán xuất phát từ cầu Bạch Hổ ngược dòng sông Hương
lên phía thượng nguồn tận khu vực xa hơn lăng Gia Long, đến khu vực hành quân, thăm
bộ chỉ huy hành quân đóng trong các lều để nghe thuyết trình về diễn tiến của mặt trận,
sau đó đi thăm các đơn vị đang giáp chiến.

Lễ Mãn Khóa
Để chuẩn bị cho lễ mãn khóa, Ban Giám Đốc đưa nhà thầu may quân phục vào đo

may cho chúng tôi. Mỗi người được một bộ đại lễ bằng vải kaki (quần dài, áo 4 túi), một
cặp cầu vai nỉ đen trên có gắn 3 vật cùng bằng đồng mầu vàng từ đầu vai vào sát cổ áo:
cấp hiệu Alpha, cờ Quốc Gia Việt Nam, và khuy tròn nhỏ có hình con rồng nổi. Một nhà
mát mới lợp rạ (rơm), ba bề vách lửng bằng cót cao hơn 1 mét được dựng lên sát tường,
chiếm hết gần 1/3 sân tập họp bên cột cờ để làm khán đài kê ghế dành cho quan khách
đến tham dự.

Giữa tháng 5, 1949, lễ mãn khóa được tổ chức dưới sự chủ tọa của ông Phan Văn
Giáo, Thủ Hiến Trung Phần, đại diện Quốc Trưởng Bảo Đại, khoảng 100 quan khách
Việt Pháp tham dự (trong đó có một số thân nhân các khóa sinh miền Trung.) Chương
trình diễn tiến như sau:


  168
 

 

• Nghi thức chào đón vị chủ tọa.
• Lễ thượng Quốc Kỳ Việt Nam (không có cờ Pháp).
• Khóa sinh đồng ca bản Quốc Ca Việt Nam.
• Nhạc tưởng niệm tử sĩ do ban quân nhạc Việt Binh Đoàn hòa tấu.
• Trung tá Chaix, Chỉ Huy Trưởng, đọc diễn văn, phúc trình tổng lược kết quả

diễn tiến chương trình huấn luyện và trình diện khóa sinh.
Thủ khoa, Khóa Sinh Nguyễn Hữu Có, bước ra đứng trước toàn khóa - đang xếp 2
hàng ngang trước khán đài, hô to "A genoux les homes!" (Quỳ xuống các người!) Mọi
khóa sinh đều quỳ đầu gối phải xuống đất, hai tay xếp trên đầu gối trái chờ lệnh. Sau đó
SVSQ thủ khoa quỳ xuống tại chỗ.
Trung Tá Chaix đến gần ghế ngồi của vị chủ tọa (nói gì giữa 2 người, chúng tôi ở
xa không nghe được) sau đó quay ra nói lớn đại ý: "Hoàng Thượng chiếu chỉ đặt tên cho
khóa là Khóa Bảo Đại," rồi hướng dẫn vị chủ tọa ra sân gắn cầu vai Alpha cho thủ khoa
Nguyễn Hữu Có. Tiếp theo là 2 hàng khóa sinh quay mặt đối diện nhau và người nọ gắn
Alpha cho người kia.
Thủ tục gắn Alpha xong thì vị chủ tọa trở về đứng trước hàng ghế danh dự. Thủ
khoa đọc lớn lời bằng tiếng Pháp đại ý: "Chúng tôi xin thề trung thành với Tổ Quốc Việt
Nam. Quyết hy sinh để bảo vệ nền Độc Lập, Thống Nhất của đất nước và dân tộc Việt
Nam trường tồn, cường thịnh. Luôn luôn nêu gương bảo vệ Danh Dự của một cấp chỉ
huy." Toàn thể khóa sinh cùng đưa tay phải ra phía trước mặt và đồng thanh đáp lời: "Je
le jure!" (Tôi xin thề!) Chủ tọa lên tiếng chấp nhận và đưa tay ra hiệu cho mọi người
đứng lên.
Thủ khoa đứng lên hô lớn: "Debout les Officiers!" (Đứng lên các Sĩ Quan!) Mọi
người đứng lên giữa những tràng pháo tay mừng vang dậy của toàn thể quan khách.
Tiếp theo, Trung Tá Chaix, Chỉ Huy Trưởng, mời vị chủ tọa ra trao cho thủ khoa
cây kiếm và chiếc cung cùng với bao và 4 mũi tên.
Thủ khoa đứng nghiêm rút kiếm ra khỏi vỏ làm động tác chào kiếm, xong tra kiếm
vào vỏ rồi cầm cây cung lần lượt quay sang 4 hướng bắn 4 mũi tên đi 4 phương trời, biểu
tượng cho ý chí "tang bồng hồ thỉ" của người chiến sĩ quyết tâm đi khắp 4 phương trời để
thi hành nhiệm vụ của người trai trong thời loạn.
Buổi lễ được kết thúc bằng 2 bản nhạc Chiến Sĩ Anh Hùng và Bạch Đằng Giang,
và 3 hoạt cảnh diễn tả chiến thắng lịch sử Trận Đống Đa.

Mãn Khóa Nhưng Niềm Vui Chưa Trọn
Sau lễ mãn khóa, chúng tôi được nghỉ 2 tuần phép về thăm gia đình. Một thắc mắc

lớn khiến cho mọi người suy nghĩ mừng lo lẫn lộn là, ngoại trừ thủ khoa Nguyễn Hữu
Có, ai sẽ được chấm đậu lên Thiếu Úy, ai sẽ rớt? Vì nhà trường không tuyên bố kết quả!
Sự vụ lệnh rời trường của chúng tôi vẫn ghi là: "Élève Officier" (Sinh Viên Sĩ Quan).

Sau khi mãn phép đến trình diện Bộ Chỉ Huy Vệ Binh Bắc Kỳ, chúng tôi nhận
được sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 2 Việt Nam tại Hà Nội, Thiếu Tá Thụ Tiểu Đoàn
Trưởng mới cho người trịnh trọng đọc sắc lệnh do Quốc Trưởng Bảo Đại ký thăng cấp


  169
 

 

Thiếu Úy cho những ai đậu kể từ ngày 1 tháng 6 năm 1949. Chúng tôi được gắn cấp hiệu
một gạch vàng (như Thiếu Úy quân đội Pháp) trên cầu vai áo.

Rượu Champagne khao "lon" rất đơn giản nhưng ấm cúng và thích thú, sau đó
chúng tôi nhận sự vụ lệnh đi đáo nhậm đơn vị mới.

Nhờ có được nghị định thăng cấp của toàn khóa, sau này Khóa 1 mới biết được chỉ
có 56 trên tổng số 63 người theo học được chấm đậu cho thăng cấp Thiếu Úy hiện dịch
(Ngày khai giảng tổng số khoá sinh là 64, nhưng khoảng 2 tuần sau 1 người thuộc Trung
Đội 3 rời Trường nên chỉ còn 63 người theo học cho đến ngày mãn khoá.)

Một Phần Thưởng Bất Ngờ
Chính phủ quốc gia đã dành cho 20 sĩ quan đứng đầu danh sách tốt nghiệp được

sang Pháp theo học các khoá bổ túc chuyên nghiệp cùng với các Thiếu Úy Pháp mới tốt
nghiệp Trường Võ Bị Saint Cyr bằng 2 đợt:

Đợt một vào tháng 10 năm 1949 gồm các Thiếu Úy Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn
Trung, Tôn Thất Xứng, Đặng Văn Quang, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Chuân, Trần Văn
Hổ, Nguyễn Quang Sanh và Nguyễn Khắc Thăng.

Đợt hai vào tháng 10 năm 1950 gồm các Thiếu Úy Bùi Đình Đạm, Nguyễn Huy
Hùng, Nguyễn Khương và Trần Ngọc Thức.

Thành Tích
Đối với Quốc Gia Dân Tộc, Khóa 1 đã góp phần đắc lực cho đến ngày 30 tháng 4

năm 1975. Khóa đã cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 9 vị Tướng gồm 5
Trung Tướng, trong đó có 1 vị làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa; 3 Thiếu Tướng và
1 Chuẩn Tướng.

Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Những sĩ quan Khóa 1 hy sinh tại các chiến trường Bắc Trung Nam được ghi nhận

như sau (có thể có thiếu sót.)
v Tại Miền Bắc:
o Thiếu Úy Nguyễn Văn Thản tử thương trong đồn tại vùng tỉnh Hưng Yên vì Việt
Cộng pháo kích tấn công đồn vào khoảng cuối năm 1949.
o Thiếu Úy Nguyễn Bá Liêm tử thương trong trận giao tranh với quân Việt Cộng
trong dịp hành quân tại tỉnh Thái Bình vào ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5
năm 1950.
v Tại Miền Trung:
o Thiếu Úy Lê Văn Thông tử trận ngày 8-8-49.
o Thiếu Úy Trần Tuyên tử thương ngày 25-3-50 do Việt Cộng tấn công đồn Hoà
Luật Nam.
o Thiếu Úy Đỗ Hữu Lý tử trận ngày 18-12-50 tại Đà Nẵng.
o Thiếu Úy Nguyễn Hữu Dụng tử trận ngày 20-3-56 tại Đà Nẵng.
v Tại Miền Nam:
o Thiếu Úy Cao Hoàng Phiên tử trận ngày 30-4-50.
o Đại Úy Nguyễn Văn Thắng tử trận ngày 21-1-54.


  170
 

 

o Trung Tá Huỳnh Văn Nên tử trận ngày 16-4-71 và được truy thăng Đại Tá.

Nhà Tù Cộng Sản
Những sĩ quan Khóa 1 bị giam cầm trong các nhà tù Cộng Sản được ghi nhận như

sau.
v Trước 30-04-1975
Tại miền Trung, Thiếu Úy Phạm Hiển bị Việt Cộng bắt làm tù binh trong một
cuộc hành quân và đem đi biệt tích, không ai biết sống chết ra sao. Mãi 24 năm sau
Thiếu Úy Hiển mới được tha trong dịp trao đổi tù binh theo quy định của Hiệp Định
Đình Chiến tái lập hoà bình ký tại Paris vào ngày 27-1-1973. Hiệp định được ký bởi
4 bên gồm Việt Cộng Bắc Việt, Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam (do Việt Cộng đẻ
ra tại miền Nam vĩ tuyến 17,) Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ.
v Sau 30-04-1975.
Khóa 1 có 1 Trung Tướng và 8 Đại Tá bị bạo quyền Việt Cộng bắt đi tù trong
các trại tập trung nơi rừng thiêng nước độc trên cả 3 miền đất nước Việt Nam, từ 12
đến 13 năm, gồm:
o Trung Tướng Nguyễn Hữu Có
o Đại Tá Phan Văn Cách
o Đại Tá Nguyễn Huy Hùng
o Đại Tá Hoàng Văn Luyện
o Đại Tá Trần Văn Mô
o Đại Tá Nguyễn Văn Nhỏ
o Đại Tá Nguyễn Phú Sanh
o Đại Tá Nguyễn Quang Sanh
o Đại Tá Đàm Quang Yêu

Qua Đời.
Sĩ quan Khóa 1 đã qua đời vì tuổi già hoặc bệnh tật (có thể có thiếu sót) gồm:

o Thiếu Úy Phạm Hiển
o Thiếu Tá Nguyễn Khắc Thăng
o Trung Tá Trần Thượng Phương
o Đại Tá Dương Văn Vinh
o Đại Tá Đàm Quang Yêu
o Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận
o Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân
o Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm
o Trung Tướng Nguyễn Hữu Có
o Trung Tướng Tôn Thất Đính
o Trung Tướng Đặng Văn Quang
o Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu


  171
 

 

ĐÔI LỜI KẾT LUẬN
Khóa 1 được coi như đứa con đầu lòng của Mẹ Việt Nam nghèo, thiếu thốn mọi bề

lúc ban đầu, không được như các khóa sau này.
Sau khi mãn khóa, CSVSQ Khóa 1 ít có dịp gặp nhau đầy đủ, kể cả sau Ngày

Quốc Hận 30-04-1975 trong nước cũng như tại hải ngoại.
Một điều cần nói thêm về Khoá 1 là, theo kết quả cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23

tháng 10 năm 1955 tại miền Nam Việt Nam, Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống. Nền Đệ Nhất Cộng Hoà chính thức ra đời
vào ngày 26 tháng 10 năm 1956, và tên nước QUỐC GIA VIỆT NAM được đổi thành
VIỆT NAM CỘNG HOÀ. Khi đó, một số CSVSQ Khoá 1 đang làm việc tại Sài Gòn và
vùng phụ cận đã được CSVSQ Bùi Đình Đạm Khóa 1, khi đó đang làm Thiếu Tá Tham
Mưu Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, mời họp để bàn thảo việc xin đổi tên
Khoá. Mọi người có mặt đã đồng ý chọn tên PHAN BỘI CHÂU thay cho BẢO ĐẠI, và
đã làm đơn trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm để xin cứu xét. Tổng Thống Diệm đã
chấp thuận và kể từ đó Khoá 1 mang tên mới là Khoá PHAN BỘI CHÂU.

˜ ™


  172
 

 

NHỮNG TƯỚNG LÃNH XUẤT THÂN TỪ KHÓA 1 TSQVN

Tr. Tướng Nguyễn Văn Thiệu Tr. Tướng Trần Văn Trung Tr. Tướng Đặng Văn Quang
(Tổng Thống VNCH)

Tr. Tướng Nguyễn Hữu Có Tr. Tướng Tôn Thất Đính Th. Tướng Nguyễn Văn Chuân

Th. Tướng Tôn Thất Xứng Th. Tướng Bùi Đình Đạm Ch. Tướng Phan Xuân Nhuận
173
 

 

 

DANH SÁCH KHÓA 1 - TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM
(Theo Danh Sách Sĩ Quan Xuất Thân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, 1972)

01- Lê Quang Biên 29- Nguyễn Đức Mại
02- Bạch Văn Bôn 30- Trần Văn Mô
03- Nguyễn Hữu Có 31- Huỳnh Văn Nên

04- Phan Văn Cách 32- Lê Văn Nhật
05- Võ Trí Châu 33- Nguyễn Văn Nhỏ
06- Nguyễn Văn Chuân 34- Vũ Đức Nghiệm

07- Nguyễn Đình Cầu 35- Phan Xuân Nhuận
08- Trần Bửu Châu 36- Cao Hoàng Phiên
09- Nguyễn Văn Danh 37- Trần Thanh Phú
10- Nguyễn Hữu Dụng 38- Trần Thượng Phương

11- Nguyễn Văn Dư 39- Đặng Văn Quang
12- Bùi Đình Đạm 40- Nguyễn Quang Sanh
13- Lê Văn Dừa 41- Lê Văn Tân

14- Tôn Thất Đính 42- Tôn Thất Tương
15- Lê Quang Hiền 43- Nguyễn Xuân Tựu
16- Võ Văn Hoành 44- Trần Tuyên
17- Phan Hiển 45- Nguyễn Văn Thản

18- Nguyễn Huy Hùng 46- Nguyễn Khắc Thăng
19- Trần Văn Hổ 47- Nguyễn Văn Thắng
20- Trần Văn Hưng 48- Lê Văn Thể

21- Phạm Hữu Huỳnh 49- Nguyễn Văn Thiệu
22- Nguyễn Khương 50- Lê Văn Thông
23- Nguyễn Bá Liêm 51- Trần Ngọc Thức
24- Nguyễn Văn Luông 52- Trần Văn Trung

25- Nguyễn Lương 53- Dương Văn Vinh
26- Hoàng Văn Luyện 54- Tôn Thất Xứng
27- Lê Huy Luyện 55- Nguyễn Văn Y

28- Đỗ Hữu Lý 56- Đàm Quang Yêu

Biên Soạn: Nguyễn Huy Hùng K1
Tháng 11, 2015


  174
 


Click to View FlipBook Version