(Coins and banknotes of Vietnam collection) (La collection des monnaies du Việt Nam) 2004 - 2020
Tiền VN 2 VIỆT NAM TEM PHIẾU THỜI BAO CẤP
Tiền VN 3 Tem phiếu ở Liên khu Việt Bắc 1953 - Phiếu gạo mười kilô 1953 - Phiếu gạo năm mươi kilô
Tiền VN 4 Tem phiếu thời bao cấp Thời bao cấp với những người Việt Nam đã đi qua giai đoạn cuối thế kỷ 20, là một miền ký ức về một thời kỳ đất nước còn gian khó, những thiếu thốn trong cuộc sống1 . Trong thời kỳ này, kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do Nhà nước làm chủ; việc thông thương, buôn bán bị hạn chế; hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu. Chế độ hộ khẩu được thiết lập để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua. Đây là thời mà sổ gạo, tem phiếu, sổ lương thực là những thứ vô cùng quan trọng với các gia đình. Khi đó, thậm chí người có tiền chưa chắc đã mua được. Tem phiếu quy định loại hàng và số lượng người dân được phép mua, chiếu theo một số tiêu chuẩn như cấp bậc và niên hạn. Có diện được ưu đãi, ưu tiên. Tùy thuộc vào vị trí công việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công chức nhà nước cũng như người dân lao động được phát tem phiếu mua lương thực, thực phẩm với chế độ riêng. Tem, phiếu Tem, phiếu là những mảnh giấy nhỏ, ghi tên những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống được nhà nước phân phối cho mỗi người dân. Tùy thuộc vào vị trí công việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công chức nhà nước cũng như người dân lao động được phát tem phiếu mua lương thực, thực phẩm với chế độ riêng. Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ. viện được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, Nhà Thờ, Vân Hồ (Hà Nội)… Tất cả các mặt hàng mua bằng tem phiếu chỉ có giá trị trong tháng, ai đi công tác không kịp mua chỉ còn cách bỏ đi. Nội dung 7 bìa tem phiếu, gồm: * Sổ lương thực (sổ gạo) Sổ lương thực, hay còn gọi là sổ gạo, là một quyển sổ ghi chỉ tiêu lương thực của một hộ gia đình được mua hàng tháng. Đã có một thời mà “sổ gạo” gắn liền với sự sống còn của người dân, như một “vị cứu tinh”, một bùa hộ mệnh được cấp cho hộ gia đình (ở thành phố có hộ khẩu thường trú) hoặc ở nông thôn chỉ cho các thành viên làm trong khu vực nhà nước (dù cùng có hộ khẩu thường trú), các thành viên sản xuất nông nghiệp, dịch vụ không có tên trong sổ gạo. Sổ này do Sở Lương thực cấp căn cứ vào tên, tuổi, nghề nghiệp đăng ký trong sổ hộ khẩu chính thức. Để nhận lương thực, người dân mang sổ lương thực và xếp hàng tại cửa hàng lương thực. Khi mới đến ở một nơi mới, chưa có sổ mua lương thực thì người dân tạm thời sử dụng tem chuyển lương thực. Trường hợp nếu người này đi công tác nơi khác thì mang con tem này đi, đến chỗ công tác hiện tại nộp vào đó để họ tăng thêm khẩu phần ăn cho mình. Nguyên nhân sâu xa của việc hình thành chế độ cấp sổ gạo ở Việt Nam là cung luôn luôn thấp hơn cầu. Tình trạng này xuất hiện ở miền Bắc từ cuối thập kỷ 50 và kéo dài trong cả nước sau 1975 cho tới khi đổi mới kinh tế. Sau Hiệp định Genève 1954, hai miền bị chia cắt, kinh tế miền Bắc chưa phục hồi, nạn đói đe doạ một số nơi, miền Bắc mất đi một nguồn cung cấp gạo thường xuyên của miền Nam qua cảng Hải Phòng. Từ năm 1955, Nhà nước tạm thời bán gạo định lượng cho các hộ gia đình ở thành phố. Mỗi thành phố áp dụng một tiêu chuẩn khác nhau. Bắt đầu từ ngày 1/3/1957, Nhà nước mới thực hiện chế độ cung cấp gạo ăn hàng tháng cho tất cả bộ đội, CBCNV, học 1 Thời bao cấp được diễn ra từ năm 1957 tại miền Bắc, năm 1975 thì triển khai trên toàn quốc và mãi đến năm 1986 mới kết thúc.
Tiền VN 5 sinh các trường chuyên nghiệp, học sinh trường phổ thông hưởng học bổng toàn phần, bệnh nhân tại các bệnh viện, trạm điều dưỡng… Giá thống nhất và ổn định là 0,4 đ/kg (4 hào/kg). Đến năm 1959, Nhà nước đã mở rộng chế độ cung cấp định lượng về gạo cho công nhân, viên chức tại các cơ sở công tư hợp doanh, xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, nhân dân thành thị và những đối tượng làm nghề phi nông nghiệp (thợ thủ công, người làm muối, ngư dân, làm nghề rừng…). Định lượng như sau: – Cán bộ viên chức làm công tác hành chính sự nghiệp được tiểu chuẩn 13,5kg/người/tháng. – Trẻ em từ sơ sinh đến 4 tuổi được hưởng 4kg/tháng. Tăng một tuổi được tăng thêm 1kg và không quá 15kg. – Từ 18 tuổi trở lên được hưởng 13kg/người/tháng. – Công nhân lao động tùy theo công việc nhẹ, nặng hay độc hại được hưởng theo công việc từ 18kg -24kg/tháng. Định lượng như vậy nhưng không phải là được mua toàn gạo mà phải mua kèm từ 25% đến 50% (có lúc lên tới 75%) chất độn có thể là ngô, khoai, sắn, bột mỳ, mỳ sợi, thậm chí là hạt bo bo (loại thức ăn dùng cho gia súc). Sổ gạo là vô cùng quan trọng đối với mỗi gia đình, có câu thành ngữ “Mặt nghệt như mất sổ gạo” trở nên vô cùng nổi tiếng thời bấy giờ, dùng để mô tả một khuôn mặt ủ ê não nề không thể đau khổ hơn. Bởi vì thời đó, mất sổ gạo là cầm chắc nhịn đói! Nhịn đói không phải là một ngày hay một tháng mà có khi đến vài ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn “bảo bối quý giá” này khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại sẽ chạy vạy, vay mượn khắp nơi để sống sót qua ngày đoạn tháng. Nạn ăn cắp diễn ra phổ biến và rất tinh vi khiến việc mất tem phiếu, mất sổ gạo diễn ra lại càng thường xuyên hơn. Với nhiều người, thời bao cấp là miền ký ức rất đặc biệt. Những năm tháng đó, niềm vui, nỗi buồn thật giản dị và khoảng cách giàu nghèo không quá xa. * Bìa mua hàng gia đình Trong thời kỳ bao cấp, các hộ gia đình (kể cả thành thị và nông thôn) được cấp bìa mua hàng để được mua các mặt hàng như: chiếu, xà phòng, diêm, kim chỉ… và trong các dịp lễ tết thì được mua các loại chè, thuốc, bánh, mứt, kẹo… Bìa mua hàng cũng được phân loại A, B, C, D … tùy theo hộ gia đình có ít hay nhiều nhân khẩu để được mua lượng hàng không bằng nhau. - Ngày Quốc khánh (2/9), các bìa được cung cấp bánh, kẹo, thuốc lá, chè. - Ngày tết Trung thu, được cung cấp bánh nướng, bánh dẻo. - Ngày tết Nguyên đán được cung cấp phong phú hơn cả: Mỗi hộ được mua 1 túi hàng Tết bao gồm: Mứt tết, bánh, kẹo, chè, thuốc lá, một miếng bóng bì, vài lạng miến, vài lạng đỗ xanh, gói mỳ chính, gói hạt tiêu, một chai rượu mầu Cam hoặc Chanh, lại có cả một bánh pháo Trúc Bạch để đốt lúc giao thừa. * PHIẾU MUA THỰC PHẨM Mỗi đầu người được một tờ phiếu để mua thực phẩm cả năm. Trên tờ phiếu được chia theo nhiều ô có in số, in Tháng và in cả loại phiếu như N, TR, E, I, II, III để phân biệt định lượng được mua. – N là nhân dân 0,3kg thịt/tháng – E là nhân viên hành chính sự nghiệp 0,5kg thịt/tháng – I, II, III La Mã là công nhân lao động được mua từ 0,5kg, 0,75kg, 1kg đến 1,5kg thịt/tháng. Ngoài ô mua thịt còn có các ô khác để mua đậu phụ, nước mắm, Trứng muối , thức ăn chín….. Cán bộ hưởng cấp đặc biệt và tiêu chuẩn phiếu A, B mua tại cửa hàng 17 phố Tông Đản. Tiêu chuẩn phiếu C mua ở phố Nhà Thờ, Đặng Dung và Vân Hồ. Phiếu in cả số tháng nên nếu quên không mua để quá hạn là coi như mất tiêu chuẩn.
Tiền VN 6 Ngoài các loại tem phiếu trên, còn có nhiều thứ giấy tờ có thể mua hàng: giấy giới thiệu, giấy chứng nhận kết hôn, giấy báo tử, bệnh tật… cũng có giá trị để xét cho hưởng chế độ cung cấp định lượng. Tang ma (có giấy báo tử) thì gia đình được mua 1 quan tài theo giá cung cấp kèm theo một số vải tang để khâm liệm (người dân tộc: 10m/người; người Kinh: 6m/người)… Có giấy khai sinh (cho trẻ sơ sinh) thì được mua xoong nồi, chậu tắm, vải làm tã lót… Có giấy kết hôn được mua 1 màn đôi, 2kg bánh kẹo, 10 bao thuốc lá, ngoài ra tuỳ nơi, tuỳ lúc mà còn có thể được mua cả 1 giường đôi, 1 xoong hoặc nồi nhôm, 1 phích nước… Chú thích: Thông tư số 119- TTg ngày 21/12/1963. Công báo số 48 B, năm 1963, tr. 830. * Tem, phiếu các mặt hàng thực phẩm (thịt, đường, sữa…) Sữa là mặt hàng chỉ dành cho trẻ em và người ốm; phiếu sữa trẻ em phân theo loại A; B, phiếu đường cũng có loại I, II, loại ĐB, loại TR, loại D, loại (E+III), loại N, tất cả đều do Cục Thực phẩm, Bộ Nội thương phát hành. Theo Thông tư 345-NT ngày 25-5-1968, trẻ em sơ sinh thành thị dưới 1 năm tuổi nếu mẹ mất sữa toàn phần hoặc trẻ em mất mẹ dưới 3 tuổi hưởng loại phiếu A, mỗi tháng được 8 hộp sữa đặc. Trẻ sơ sinh nông thôn và trẻ sơ sinh thành thị mà mẹ mất sữa một phần hưởng loại phiếu B, mỗi tháng được 4 hộp sữa đặc. Sữa trong nước có Thảo Nguyên, sản phẩm của Nông trường Bò sữa Mộc Châu, ngoài ra còn có sữa hộp Trung Quốc, Liên Xô. Tuy nhiên chất lượng sữa Thảo Nguyên không cao, dễ bị vón cục phải luộc cả hộp trong nước sôi thì mới rót ra được, để lâu dưới đáy đọng tới nửa hộp là đường, nên nhiều người không dám cho trẻ ăn. Người ốm phải có giấy chứng nhận đang nằm điều tri ở bệnh viện mới được cấp tem mua sữa. * PHIẾU ĐƯỜNG – loại N của nhân dân 0,1kg/tháng. – loại TR của trẻ em 0,25kg/tháng – loại E của người làm hành chính sự nghiệp 0,35kg/tháng – loại I, II, III của công nhân lao động tùy theo công việc nặng, nhẹ đươc mua 0,5kg/tháng, 0,75kg/tháng, 1kg/tháng. * Tem vải; phiếu vải Tem vải; phiếu vải gồm có loại 0m50; 0m20, 0m10; 1m; 5m; 4m; 3m; 3.8m tất cả đều do Cục Vải sợi may mặc –Bộ Nội thương phát hành từ năm 1964-1975. Thông tư số 119-TTg ngày 21-12-1963 công bố định lượng phân phối một năm như sau: Cán bộ công nhân viên 5 mét/người, nhân dân thành phố và thị xã 4 mét/người/năm, dân nông thôn 3 mét/người/năm. Phiếu vải cũng chia ra hai loại, nam và nữ. Phiếu vải nữ có quyền mua 2 mét lụa đen hay các loại vải tương tự để may quần. Vải cung cấp cũng không có nhiều loại, trong nước có vải phin, popelin 8-3 (Nhà máy Dệt 8-3 sản xuất), vải thô, kaki Nam Định (Nhà máy Dệt Nam Định sản xuất) và chỉ có hai màu cơ bản là xanh công nhân và tím than. Vải bán tự do ở bách hóa cũng chỉ có vài loại nhưng giá rất cao nên không phải ai cũng có tiền mua. Vì thế người mặc quần vá, tích kê đầu gối rất phổ biến, áo sơmi sờn cổ thì mang ra hiệu may lộn lại. Mùa đông cánh đàn ông chỉ có áo bông, áo sợi và áo đại cán, người già áo bông trần quả trám. Phụ nữ trung niên và cánh con gái bên ngoài áo kaki một lớp bên trong nhồi đủ các loại. Thậm chí áo len còn trộn tới 4 màu, không phải tạo mốt mà mỗi loại len chỉ có một ít. Thanh niên và thiếu niên thường mặc áo bông, loại áo vỏ là kaki màu tím than bên trong là ruột bông. Thế hệ trẻ nghe kể lại rằng, người dân hồi đó đều dành vải đến Tết mới may quần áo để diện đi chơi. Người lùn nhỏ thì may quần áo còn rộng rãi vài phần. Những người
Tiền VN 7 cao lớn, mặc quần áo ngắn cũng đành chịu. Ai chịu khó giữ gìn thì quần áo mặc được lâu, lỡ sờn rách thì cố vá víu mặc tạm chờ đợt cấp mới. Nhiều người còn nhớ, khổ vải hồi đó thường là 1m, nhưng đôi khi rộng hoặc hẹp hơn. Có người nhận vải khổ chỉ được 70- 80cm hoặc hẹp hơn chút, nhân viên phân phối bù thêm cho một đoạn chiều dài, miễn sao đủ diện tích. Người Việt Nam thời đó hầu hết đều nhỏ con, lại gầy gò nên nhìn chung đều may vừa quần áo. * PHIẾU MUA CHẤT ĐỐT. (Dầu, than, củi, mùn cưa) Về chất đốt, tiêu chuẩn cho dân ngoại thành là củi, than, còn nội thành ban đầu là củi, sau là dầu hỏa, tiêu chuẩn của cán bộ và nhân dân bằng nhau, 4 lít/tháng. Các cửa hàng bán dầu bằng máy bơm tay. – Các hộ gia đình ở thành phố, thị xã từ 4 người trở lên được cấp than là chủ yếu và được mua 10kg củi/hộ (để nhóm lò).Than chủ yếu là loại than cám, mua về phải tự nắm thành nắm mới đun được. – Các hộ dưới 4 người được dùng dầu hoàn toàn.Về sau do hiếm than củi nên tất cả các hộ gia đình chủ yếu là đun bếp dầu hỏa. Vì chất đốt khan hiếm như vậy nên có gia đình còn phải kiếm thêm chất đốt bằng cách quét lá cây, cành cây khô gẫy, rụng trên đường phố. – Diện đối tượng được cung cấp tem phiếu chất đốt ở miền núi thì chỉ được mua củi. – Diện đối tượng được cung cấp tem phiếu chất đốt ở các nơi khác thì được mua than. * Sổ cung cấp phụ tùng xe đạp: Từ năm 1965, Nhà nước quy định tiêu chuẩn của mỗi cán bộ, công nhân VC nhà nước là được phân phối 1 chiếc xe đạp trong cả đời công tác. Xe phân phối chủ yếu là xe Thống Nhất của Việt Nam, xe Phượng Hoàng và Vĩnh Cửu của Trung Quốc. Phượng Hoàng và Vĩnh Cửu rất nặng nhưng chắc chắn và bền. Giá xe phân phối rẻ hơn nhiều lần so với bán tự do. Ai đã có xe đạp thì được đăng ký để xin sổ mua phụ tùng. Việc phân phối này khá phức tạp. Mỗi đợt có “tiêu chuẩn” đưa về cơ quan và xí nghiệp như xích, líp, xăm, lốp… là lại có một cuộc bình xét hoặc gắp thăm. Người cần lốp lại gắp được xích, người cần săm lại gắp được líp là chuyện quá bình thường. TIÊU CHUẨN PHÂN PHỐI Thời bao cấp, nhà nước chia ra 11 mức được hưởng chế độ cung cấp thực phẩm và nhu yếu phẩm. Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn ĐB (đặc biệt), cấp bộ trưởng hưởng tương đương tiêu chuẩn A, cấp thứ trưởng tiêu chuẩn B; cấp trưởng của các “cục, vụ, viện”, các chuyên viên cấp cao, giám đốc… được tiêu chuẩn C. Còn cán bộ, công nhân viên chức hưởng tem phiếu E nhưng tùy theo mức lương sẽ được tiêu chuẩn tem phiếu E1 hay E2. Cán bộ độc thân là tiêu chuẩn D. Công nhân làm trong môi trường độc hại, lao động nặng nhọc thì hưởng tiêu chuẩn I, II, III và cuối cùng nhân dân là tiêu chuẩn N. Cán bộ cấp đặc biệt hưởng từ 7,5 kg thịt, 3,5 kg đường/tháng trở lên. Cấp bộ trưởng hoặc tương đương là phiếu A, trước 1975 hưởng 6 kg thịt, 3 kg đường, sau năm 1975 hưởng 4,2 kg thịt, 2 kg đường/tháng. Cán bộ trung cấp phiếu C trước 1975 hưởng 1,5 kg thịt, 1 kg đường/tháng, sau 1975 hưởng 1 kg thịt, 0,8 kg đường/tháng… Cán bộ cấp nhỏ tiêu chuẩn phiếu D trước năm 1975 hưởng 1 kg thịt, 0,5kg đường/ tháng; sau năm 1975 hưởng 0,8 kg thịt, 0,7 kg đường/tháng. Công nhân lao động nặng
Tiền VN 8 trước năm 1975 tiêu chuẩn phiếu I, hưởng 1,5 kg thịt, 0,75 kg đường/tháng, còn nhân dân trước năm 1975 và cả sau này là phiếu N với 0,3 kg thịt và 0,1 kg đường/tháng. Về lương thực, tiêu chuẩn A, B hay C là 21 kg/tháng, cao hơn cán bộ bình thường nhưng thấp hơn tiêu chuẩn công nhân độc hại. Còn vải, ngoài tiêu chuẩn 5 m/năm thì cán bộ tiêu chuẩn A có sổ giao tế có thể tự do mua thêm các loại vải khác mà không cần phiếu.Tiêu chuẩn N của nhân dân trước sau vẫn là 0,3kg thịt/tháng và 0,1kg đường/tháng. Vì tiêu chuẩn giữa cán bộ cao cấp và nhân dân chênh lệch nhiều như thế nên phải có những cửa hàng riêng để phục vụ. Cán bộ tiêu chuẩn A, B, Bộ Nội thương cho mở các cửa hàng riêng. Ở phố Ngô Quyền (Q.Hoàn Kiếm) là cửa hàng chuyên bán gạo. Tuy tiêu chuẩn không nhiều hơn so với cán bộ bình thường nhưng tiêu chuẩn A, B không phải ăn độn, chất lượng gạo ngon hơn. Ngoài bán cho cán bộ tiêu chuẩn A, B, cửa hàng Ngô Quyền còn bán cho gia đình các vị, tất nhiên vẫn phải ăn độn như quy định nhưng không bao giờ có gạo mốc, hôi và đen như các cửa hàng lương thực bán cho nhân dân. Cửa hàng 17 phố Tôn Đản thì chuyên bán thực phẩm và rau quả, nói chung thịt cá bao giờ cũng tươi ngon còn rau quả không bao giờ có rau héo. Đúng ra cửa hàng này chỉ dành riêng cho cán bộ cấp cao, tuy nhiên nếu có quan hệ thì gia đình họ vẫn có thể mua thực phẩm ở đây, tiêu chuẩn thì theo quy định nhưng mua ở đây không phải xếp hàng, không phải ăn thịt ướp lạnh, không phải chịu cảnh cửa hàng có gì mua nấy. Và nói chung nhân viên bán hàng này rất biết họ đang phục vụ ai nên nhã nhặn, lịch sự không vênh váo như mấy bà bán tại các cửa hàng dành cho nhân dân. Cán bộ tiêu chuẩn A và B còn được cấp sổ mua hàng ở cửa hàng giao tế (nay là Intimex, phố Lê Thái Tổ, Q.Hoàn Kiếm). Tiêu chuẩn của mỗi sổ giao tế được mua mấy cây thuốc lá trong một tháng, đường, xà phòng bán theo tiêu chuẩn nhưng bánh, kẹo, bơ, vải, pin… mua tự do. Đó là những mặt hàng rất hiếm, có mặt hàng không có ngoài thị trường nên mức chênh lệch giá rất lớn. Còn cán bộ tiêu chuẩn C cũng có cửa hàng thực phẩm riêng. Q.Hai Bà Trưng có cửa hàng Vân Hồ, Q.Ba Đình có cửa hàng Đặng Dung, Q.Hoàn Kiếm có cửa hàng ở số 1 phố Nhà Thờ. Sự ra đời các cửa hàng đặc biệt dành riêng cho cán bộ cao cấp bắt đầu từ sau tiếp quản thủ đô 10.10.1954, ban đầu nó hình thành do đề xuất của ngành công an vì muốn bảo vệ cán bộ, tránh bị đầu độc, nhưng năm 1965, giá cả nhiều mặt hàng ngoài thị trường tăng trong khi cửa hàng lại không thể tăng theo và lương cán bộ thì vẫn giữ nguyên. Để đảm bảo đời sống cho cán bộ cao cấp nên đã sinh ra chế độ như vậy. Nhưng đâu chỉ có cán bộ cao cấp mà còn rất đông cán bộ trung cấp nên mới sinh ra tiêu chuẩn C. Trước tiêu chuẩn của các cán bộ “đi xe Volga ăn gà Tôn Đản”, dư luận xã hội cũng lèo xèo. Nhưng xóa bỏ hệ thống này lại đụng chạm quyền lợi của những người mà tiếng nói của họ có trọng lượng trong cơ chế. Trong thời buổi như thế, xã hội đã sinh ra một lớp người làm nghề mua đi, bán lại tem, phiếu, sổ mua hàng cung cấp thậm chí là cả giấy giới thiệu. Đối tượng làm nghề này được dân chúng gọi là “Con phe”. * * * * * Với nhiều thế hệ người Việt Nam, thời bao cấp đã để lại những kỉ niệm khó quên. Sự thiếu thốn về vật chất của một giai đoạn đã qua đem đến cho chúng ta nhiều điều đáng trân trọng, phải giữ gìn. Đó là tinh thần nhân văn, đùm bọc nhau trong thời buổi khó khăn chung của cả đất nước. Những thế hệ trẻ hôm nay có thể không còn biết thế nào là bao cấp, cũng không thể hình dung được thế nào là sổ gạo, phiếu đường, tem thịt… Đối với họ, mua, bán là chuyện bình thường, là thuận mua, vừa bán và giá cả chẳng có gì khác hơn là giá thị trường. Với mong muốn thế hệ trẻ có cái nhìn sinh động và chân thực về quá khứ của nước nhà và cùng thế hệ trung niên, lão niên ôn lại thời kỳ không thể quên của mình. Bảo tàng Lịch sử quốc gia hiện nay đang lưu giữ và trưng bày về bộ sưu tập tem, phiếu - đây chính là những hiện vật lịch sử phản ánh về một thời kỳ khó khăn của đất nước. Vào thời kỳ đó, toàn bộ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống là thông qua chế độ tiêu chuẩn tem, phiếu có định mức cho từng đối tượng. Hàng hóa thời
Tiền VN 9 đó không được mua bán tự do trên thị trường như bây giờ, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Sự khó khăn, thiếu thốn của thời bao cấp cũng chính là động lực để chúng ta thay đổi một cách toàn diện và hiệu quả. Việc xóa bỏ bao cấp và thay đổi cơ cấu nền kinh tế đã mang lại cho đất nước chúng ta một diện mạo mới. Bộ sưu tập tem phiếu có giá trị văn hóa đặc sắc bởi nó phản ảnh đời sống văn hóa– tinh thần – vật chất của người dân trong thời kỳ bao cấp. Tem phiếu được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt của đất nước và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người dân. Phản ánh bức tranh xã hội của lịch sử Việt Nam trong những năm trước đổi mới. Những tấm tem, phiếu chứa đựng những câu chuyện lịch sử để rồi những người hôm nay và mai sau sẽ nhớ và trân trọng lịch sử cũng như hiện tại. Theo Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Vietnam National Museum of History)
Tiền VN 10 Sổ lương thực (sổ gạo) Tem lương thực 25g. Tem lương thực 50g. Tem lương thực 100g Tem lương thực 200g Tem lương thực 225g Tem lương thực 250g Tem lương thực 1kg Tem lương thực 2kg
Tiền VN 11 Tem lương thực 5kg Tem lương thực 225g Tem chuyển lương thực 50g Tem chuyển lương thực 100g Quận 5 Phiếu mua lương thực 1987 Sổ đăng ký mua lương thực
Tiền VN 12 Sổ đăng ký mua lương thực Sổ đăng ký mua lương thực Sổ mua lương thực Sổ mua lương thực
Tiền VN 13 Sổ mua lương thực Sổ mua lương thực Trà Vinh Phiếu mua lương thực 1987 Phiếu mua lương thực 1988 Phiếu mua lương thực 1988
Tiền VN 14 PHIẾU MUA THỰC PHẨM 1969 - Tem mua thực phẩm 1968 – Tem mua thực phẩm ở Ninh Bình
Tiền VN 15 1969 – Tem mua thực phẩm ở Bắc Thái 1969 – Tem mua thực phẩm ở Hải Hưng
Tiền VN 16 1969 – Tem mua thực phẩm ở Lai Châu 1969 – Tem mua thực phẩm ở Quảng Ninh
Tiền VN 17 1969 – Tem mua thực phẩm ở Hà nội 1965 – Tem thực phẩm 2 lạng ở Hà nội 1987 – Tem thịt 500g Hà Nội 1977 – Tem thịt 500g Hà Bắc
Tiền VN 18 1981 – Tem thịt 500g Hà Nam Ninh Sổ mua bánh mì 1981 – Phiếu cung cấp thịt cơ động 1 kg 1972 – Phiếu cung cấp thịt cơ động 2 kg 1977 – Tem đường 500g Hà Bắc 1985 – Tem đường 200g Hà Bắc Phiếu đường 500g - Hà Nội 1981 – Tem đường 500g Hà Nam Ninh
Tiền VN 19 1985 – Phiếu mua hàng ở Hà Bắc 1973 – Phiếu đường trẻ em ở Hà Nội 1974 – Phiếu bồi dưỡng người đẻ
Tiền VN 20 1970 – Phiếu thực phẩm bồi dưỡng người đẻ Phiếu sữa trẻ em 1979 - Phiếu sữa trẻ em ở Lai Châu
Tiền VN 21 Phiếu vải 1965 – Tem vải 1 thước. 1968 – Tem vải 10 cm Tem mua vải.
Tiền VN 22 1966 – Phiếu vải 1970 – Phiếu vải ở Hà Bắc 1983 – Phiếu vải ở Hà Nội 1981- Phiếu vải ở Quảng Ninh 1978 - Phiếu vải ở Sông Bé.
Tiền VN 23 1979 - Phiếu vải ở An Giang 1979 - Phiếu vải ở TP.HCM Phiếu mua phụ tùng xe đạp 1964 - Phiếu mua phụ tùng xe đạp ở Thái Nguyên. 1980 - Phiếu mua phụ tùng xe đạp ở Lâm Đồng
Tiền VN 24 Phiếu mua chất đốt 1979 - Phiếu mua chất đốt của CNVC ở tập thể. 1979 - Phiếu mua chất đốt của Nhân dân ở Hà Nội Phiếu mua xăng 1985 – Phiếu mua xăng 1988 – Phiếu dầu lửa 1988 - Phiếu mua xăng mô tô, xe máy.
Tiền VN 25 1967 - Phiếu phân phối công nghệ phẩm ở Thái Nguyên. 1979 - Phiếu phân phối hàng hóa ở Cao Bằng. Tiêu chuẩn phân phối đối với từng đối tượng.
Tiền VN 26 Thông báo các mặt hàng bán Tết.
Tiền VN 27 1969 - Giấy chứng nhận sở hữu xe đạp ở Sơn La 1979 - Giấy chứng nhận sở hữu xe đạp ở Hà Nội 1977 - Giấy chứng nhận sở hữu xe đạp ở Hà Nội
Tiền VN 28 1977 - Giấy chứng nhận quyền sở hữu xe đạp ở Hà Sơn Bình Chứng nhận đăng ký máy thu thanh ở Hà Tĩnh 1975 – Giấy chứng nhận sử dụng máy ở Hà Nội
Tiền VN 29 1979 - Giấy đi đường của Ty Công an Sông Bé