KHÓA 30
TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM
SƠ LƯỢC
Nhập Trường: 26-01-1974
Số Ứng Viên: 223
Chinh Phục Lâm Viên: 30-03-1974
Lễ Gắn Alpha: 30-03-1974 với 222 SVSQ
Rời Trường Di Tản: 30-03-1975
Giải Tán: 30-04-1975 (thi hành lệnh của
Tổng Thống Dương Văn Minh)
Tân Khóa Sinh Đại Diện Khóa: Hoàng Việt Hùng
NHẬP NGŨ
Từ mồng 4 Tết năm Giáp Dần (ngày 26 tháng 1 năm 1974), trên 300 thí sinh đã
trúng tuyển, nhận lệnh trình diện để được phỏng vấn, khám sức khoẻ và thi thể chất tại
trại tạm trú trong Khu Quân Xa Trường Võ Bị. Sau lần tuyển chọn cuối cùng, ngày 1
tháng 2 năm 1974, 220 người được chính thức công nhận là Ứng Viên Khóa 30. Vài ngày
sau, thêm 3 người nhập trường trễ, nâng tổng số Ứng Viên lên 223.
Ứng Viên Khóa 30 tiến qua Cổng Nam Quan buổi sáng ngày Hành Xác Nhập Trường (2/2/1974)
TÁM TUẦN SƠ KHỞI
Thứ Bảy, ngày 2 tháng 2 năm 1974, từ Cổng Nam Quan—cổng chính của Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN), các Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 27 đón
tiếp Tân Khóa Sinh (TKS) Khóa 30, qua truyền thống “ngày hành xác nhập trường.” Đây
là một nghi thức mang nét đặc trưng của Trường Võ Bị, được áp dụng cho tất cả các TKS
trong ngày đầu tiên nhập trường. Vì chỉ xảy ra vỏn vẹn trong một ngày, nên được gọi là
ngày hành xác nhập trường. Nghi thức truyền thống này mở đầu và khởi động cho 8
Tuần Sơ Khởi (còn được gọi là 8 Tuần Huấn Nhục hay 8 Tuần Tân Khóa Sinh) nổi tiếng
gian lao của Trường Võ Bị.
Ngay những ngày đầu tiên, SVSQ Cán Bộ Khóa 27 đã gọi TKS Khóa 30 là mấy
“Ông Ba Mươi.” Có vài sự trùng hợp ngẫu nhiên, khiến khóa đàn anh gọi chúng tôi như
vậy. Đối với tập quán và ngôn ngữ của người Việt, “Ông Ba Mươi” có ý nói là Ông Hổ,
Ông Cọp, Ông Hùm. Hổ, cọp hay hùm là những con vật dũng mãnh, tinh khôn, được xem
là "chúa tể sơn lâm." Vì thế, người ta thường dùng cọp, hổ đặt tên cho những đơn vị quân
đội như Mãnh Hổ, Cọp Ba Đầu Rằn, Hùm Xám…
Ngoài hàm ý cầu chúc đàn em thông minh, can trường như Loài Cọp, Khóa 27
còn gọi Khóa 30 là mấy “Ông Ba Mươi,” cũng vì Khóa 30 là khóa thứ 30 của Trường Võ
Bị. Ngoài ra, chúng tôi còn nhập trường đúng vào những ngày Tết năm Con Cọp (năm
Giáp Dần), và trong tương lai (năm 1977), như dự trù, Khóa 30 sẽ chịu trách nhiệm huấn
luyện Khóa 33, mà "33" là một loại bia mang nhãn hiệu Con Cọp nổi tiếng hồi thập niên
1960-1970 tại Việt Nam.
Sau 8 Tuần Sơ Khởi, đầy thử thách và chẳng thể nào quên, Thứ Bảy, ngày 30
tháng 3 năm 1974, TKS Khóa 30 chinh phục Đỉnh Lâm Viên (còn được gọi là Núi Lang
Biang). Lâm Viên có độ cao 2.167m so với mặt nước biển, cách trung tâm Thành Phố Đà
Lạt khoảng 12km về Hướng Bắc. Đặt chân lên Đỉnh Lâm Viên trước ngày chấm dứt 8
Tuần Huấn Nhục, là một truyền thống kiêu hãnh của mỗi người SVSQ Trường Võ Bị.
Chinh phục Lâm Viên chứng tỏ ý chí sắt đá, đức tính tự thắng, và thể lực cường tráng của
người SVSQ. Đêm hôm đó, 30 tháng 3 năm 1974, tại Vũ Đình Trường Lê Lợi, các TKS
Khóa 30 được gắn Alpha, chính thức gia nhập hàng ngũ SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia
Việt Nam, với tổng số 222 người (1 TKS đã xin rời Trường).
TKS Khóa 30 tại chân núi, trước lúc tiến lên chinh phục Đỉnh Lâm Viên (30/3/1974)
Trên Đỉnh Lâm Viên (30/3/1974)
Đêm gắn Alpha tại Vũ Đình Trường (30/3/1974)
SINH VIÊN SĨ QUAN NĂM THỨ NHẤT
Năm học đầu tiên tại Trường Võ Bị là năm, người sinh viên chịu đựng nhiều gian
lao, và thử thách nhất trong suốt 4 năm học. Đây là một truyền thống quân trường, nhằm
huấn luyện đức tính Tự Thắng cho sinh viên ngay từ bước khởi đầu binh nghiệp. Khóa
năm thứ nhất phải đảm nhận tất cả những nhiệm vụ khó khăn, nhọc nhằn nhất về tạp
dịch, canh gác, ứng chiến, hoả thực, tiếp vụ… cho cả 4 khóa đang học tại Trường. Trong
Hệ Thống Tự Chỉ Huy, ngoài việc được đặt dưới sự huấn luyện, kiểm soát thường xuyên
của khóa năm thứ tư, khóa năm thứ nhất còn chịu sự theo dõi và sẵn sàng bị chấn chỉnh
bởi các khóa năm thứ hai và thứ ba.
Ngoài ra, còn phải kể đến những buổi thanh tra bất ngờ của các Sĩ Quan Cán Bộ
Đại Đội, Tiểu Đoàn. Nhọc nhằn như vậy, nhưng khóa năm thứ nhất cũng được hưởng
nhiều sự đãi ngộ đặc biệt dành cho khóa em út—được thương yêu, chỉ bảo và nâng đỡ
của tất cả các khóa đàn anh, và được sự bênh vực, che chở của các sĩ quan cán bộ (cũng
xuất thân từ Trường).
Thời gian làm việc tiêu biểu trong một ngày của SVSQ Khóa 30 năm thứ nhất có
thể tóm tắt như sau:
• 5 giờ 00: kèn báo thức;
• 5 giờ 30: thể dục chạy sáng;
• 6 giờ 15: vệ sinh cá nhân, phòng ốc, doanh trại;
• 7 giờ 00: ăn sáng;
• 7 giờ 30: trở về doanh trại, chuẩn bị buổi học sáng (văn hoá hoặc quân sự tuỳ theo
mùa);
• 8 giờ 00: đi học;
• 11 giờ 30: trở về doanh trại, chấn chỉnh—sửa sang lại quân phục, phòng ốc;
• 12 giờ 00: cùng Trung Đoàn SVSQ diễn hành đến phạn xá;
• 12 giờ 30: ăn trưa;
• 13 giờ 00: trở về doanh trại, nghỉ trưa hoặc thi hành các lệnh phạt (cá nhân hay tập
thể, nếu có), chuẩn bị buổi học chiều;
• 14 giờ 00: đi học;
• 17 giờ 30: trở về doanh trại;
• 18 giờ 00: ăn chiều;
• 18 giờ 30: trở về doanh trại, giờ tuỳ quyền—có thể tự học, giải trí hoặc chuẩn bị ca
gác đêm;
• 20 giờ 00: tự học tại phòng;
• 22 giờ 00: kèn hiệu, báo giờ tắt đèn đi ngủ.
Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 30 năm thứ nhất trong giờ nghỉ.
Cũng như các khóa đàn anh, Khóa 30 được huấn luyện theo chương trình học 4
năm. Mỗi niên học được chia làm 2 mùa: Quân Sự (3 tháng) và Văn Hóa (9 tháng). Mùa
Quân Sự bắt đầu từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 3. Mùa Văn Hóa từ giữa tháng 3 đến
giữa tháng 12. Để được lên năm thứ hai, điểm trung bình của SVSQ năm thứ nhất tối
thiểu phải là 2.50/4.00, do kết quả từ những kỳ thi sát hạch vào cuối mỗi giai đoạn và thi
bán niên.
Quân Sự
SVSQ năm thứ nhất được huấn luyện kỹ thuật về Cá Nhân Chiến Đấu, Chiến
Thuật Cấp Tiểu Đội áp dụng bao gồm:
§ Khoa Chiến Thuật,
§ Khoa Vũ Khí,
§ Khoa Địa Hình.
Mùa Quân Sự năm thứ nhất của Khóa 30 cũng chính là Mùa Tân Khóa Sinh, cộng thêm 4
tuần lễ huấn luyện bổ túc, do các Sĩ Quan Huấn Luyện Viên giảng dạy, ngay sau ngày
được gắn Alpha.
Văn Hóa
Theo chương trình Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng (Bachelor of Applied Sciences)
với 6 Khoa áp dụng cho năm thứ nhất:
§ Khoa Toán: Đại Số, Giải Tích, Vi Phân, Tích Phân;
§ Khoa Khoa Học: Hóa Học Vô Cơ, Hữu Cơ;
§ Khoa Công Chánh: Trắc Lượng, Họa Đạc;
§ Khoa Kỹ Thuật Điện: Điện Nhập Môn;
§ Khoa Nhân Văn: Văn Chương, Lịch Sử;
§ Khoa Sinh Ngữ: Anh Văn, Thính Thị Anh Ngữ.
Thể Chất
Huấn luyện thể chất gồm các môn thể thao, điền kinh và võ thuật. Kể từ Khóa 30,
Trường Võ Bị bãi bỏ huấn luyện môn Quyền Anh (Boxing). Vì một số SVSQ đã có căn
bản võ thuật từ trước khi gia nhập Trường Võ Bị, nên chỉ sau một năm thụ huấn, 1/4 số
SVSQ Khóa 30 được mang từ nhất đẳng huyền đai đến tam đẳng huyền đai Nhu Đạo và
Thái Cực Đạo.
Đức Dục
Phê bình, tự phê bình để Tự Thắng.
Thao Diễn
Cá nhân, đội hình.
Trước 8 giờ sáng, Sinh Viên Sĩ Quan đi học trong nhịp bước đều đến Khu Văn Hoá
Sau 5 giờ 30 chiều, từ lớp học Sinh Viên Sĩ Quan trở về doanh trại.
NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 3-1975
Vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975, lúc mà Thành Phố Ban Mê Thuột tại
Vùng 2 thất thủ, nhiều thành phố khác tại Vùng 1, Vùng 2 cũng trở nên rối loạn. Các
Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín đều rơi vào tay Cộng Sản. Thành Phố Đà Nẵng
bị tràn ngập bởi trên 2 triệu người tản cư hoảng loạn. Sự rối ren lan tràn nhanh chóng từ
Phương Bắc xuống Phương Nam một cách tồi tệ khiến tình hình an ninh của Quân Đoàn
II và Quân Khu II càng lúc càng trở nên nghiêm trọng. Lúc này, tại Miền Trung, từ quân
đến dân, mọi người đều tìm cách di tản về Đà Nẵng hoặc đến các tỉnh thành ven biển, để
từ đó cố xuôi về Miền Nam. Với nhiều băn khoăn, mỗi ngày chúng tôi để ý theo dõi tin
tức về chiến sự thường xuyên hơn. Dù tuổi trẻ với bản tính hiếu động—chúng tôi thích
cười đùa, ca hát; nhưng bây giờ, chúng tôi trở nên ít nói và ưu tư hơn. Có đôi lần, từ Núi
Voi, Cộng Quân pháo kích gây rối vào Thị Xã Đà Lạt và Tiểu Khu Tuyên Đức. Có lúc
đạn đã rót trúng vòng đai phòng thủ của Trường Võ Bị. Trước đây, âm hiệu ban hành
thiết quân luật Thị Xã Đà Lạt vào lúc 12 giờ mỗi đêm, nay được phát ra ngay từ lúc 10
giờ tối. Để đối phó với những diễn biến chiến sự sôi động thay đổi hàng ngày, và chuẩn
bị cho những quyết định trong tương lai, Trung Đoàn SVSQ được đặt trong tình trạng
báo động. Một số SVSQ đàn anh năm thứ ba và năm thứ tư, thuộc các Khóa 29 và 28
đang thụ huấn chuyên môn về Nhảy Dù, Không Quân hoặc Hải Quân, được lệnh ngưng
các khóa học, tức khắc trở về Trường trình diện. Lệnh cấm trại 100/100 được áp dụng
cho toàn Trường. Chúng tôi không còn đi phép hay dạo phố vào ngày Chủ Nhật.
Tuy đang ở cuối Mùa Quân Sự năm thứ hai, chúng tôi—cũng như các khóa đàn
anh, đàn em không còn đến lớp học hay ra bãi tập. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó không
còn là thụ huấn, mà đương nhiên chuyển sang chiến đấu, phòng vệ và chuẩn bị hành
quân. Các đơn vị được phối trí và điều động ra các vị trí phòng thủ. Tất cả những thời
khóa biểu về huấn luyện và sinh hoạt đều bị bãi bỏ. Trung Đoàn SVSQ không còn thực
tập diễn hành vào giờ ăn trưa như thường lệ. Thay vào đó, để tránh thiệt hại khi có biến
động hoặc bị pháo kích, chúng tôi được lệnh cố tránh việc tập trung đông người vào cùng
một vị trí. Từ những ngày ấy, mỗi người chúng tôi đã cảm nhận được điều bất thường về
tình hình đất nước, về tương lai Trường Mẹ, và về cả tương lai của chúng tôi.
RỜI TRƯỜNG VÕ BỊ—HÀNH QUÂN DI TẢN
Đúng một năm sau ngày gắn Alpha, ngày 30 tháng 3 năm 1975, Khóa 30 được
lệnh bỏ Trường cùng với các khóa đàn anh, đàn em, di tản khỏi Đà Lạt và Cao Nguyên
Trung Phần. Theo bước mọi người, chúng tôi cùng rút quân về Phương Nam, tham gia
vào một cuộc triệt thoái—mà sau này bị xem là tai họa, đầy dẫy đau thương và chất chứa
nhiều uẩn khúc.
Để tránh làm xáo trộn và hoang mang cho dân chúng, chúng tôi cố không gây náo
động. Chỉ huy trưởng của chúng tôi lúc bấy giờ là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, đích
thân chỉ huy cuộc hành quân triệt thoái. Các tướng lãnh và các đạo quân rút về từ Miền
Trung đã ít nhiều ảnh hưởng đến những suy nghĩ và quyết định của Ông. Vào lúc mà các
đơn vị tác chiến đang rối loạn, tan rã và tự tháo lui về Vùng III, vị Chỉ Huy Trưởng cho
rằng, những SVSQ trẻ không cần phải ở lại chiến đấu đơn phương như những người lính
cảm tử. Đối với Ông, chúng tôi là tương lai và rường cột của đất nước. Ông thừa biết
rằng, nếu được lệnh, những SVSQ đầy ắp lý tưởng, sẽ sẵn sàng hy sinh mọi thứ, để giữ
gìn ngôi trường thân yêu và Thị Xã Đà Lạt quen thuộc. Danh dự và hào khí sẽ giữ chân
mỗi người chúng tôi đến mức độ sẵn sàng cùng gục ngã với kẻ thù. Để tấn công và chiếm
lĩnh bản doanh của 4 khóa chúng tôi, Cộng Sản chắc chắn sẽ phải trả một cái giá rất đắt.
Thế nhưng, đối với Ông, tính mạng và tương lai của các SVSQ cũng cần thiết cho tiền đồ
Tổ Quốc, và phải được xem là không có thể lấy gì so sánh được. Bằng mọi cách, Ông
muốn bảo vệ sự an toàn cho chúng tôi; cố gắng không để các SVSQ phải đương đầu trực
diện với kẻ thù—giản dị và dễ hiểu như chuyện người ta thường cố tránh không để “chén
kiểu đụng chén sành.”
Dù biết rằng, sẽ trở nên đề tài cho những chỉ trích về sau, Thiếu Tướng Lâm
Quang Thơ đã tỏ ra cứng rắn—có những quyết định can đảm, và cũng tự mình chịu trách
nhiệm cho những quyết định này. Là một Niên Trưởng Khóa 3 của chúng tôi, và cũng từ
Binh Chủng Thiết Giáp, Ông dẫn đầu đoàn quân trên một chiếc thiết vận xa. Lúc bấy giờ,
mục tiêu của Ông trong cuộc hành quân triệt thoái là đưa các SVSQ Trường Võ Bị đến
một nơi an toàn, mà không bị một tổn thất nào. Thiếu Tướng Thơ thừa biết rằng, trong
tình thế rối ren lúc bấy giờ, Ông phải đơn phương đương đầu với vô số những chướng
ngại và hiểm nguy, không thể trông chờ sự chấp thuận và giúp đỡ nào từ Bộ Tổng Tham
Mưu, hoặc Tổng Cục Quân Huấn. Đoàn quân của Ông sẽ đương nhiên bị xen kẽ, bị chi
phối và bị làm rối loạn bởi dòng người di tản. Tuy vậy, tin tưởng vào tinh thần đồng đội
cao độ, và kỷ luật thép truyền thống của các SVSQ, Ông cương quyết cho thi hành lệnh
di tản. Ông cũng tiên liệu và trông cậy vào sự trợ giúp đắc lực từ các niên trưởng đàn anh
của chúng tôi, nay đang chỉ huy nhiều đơn vị nòng cốt, trấn giữ hoặc triệt thoái dọc theo
tuyến đường mà các đàn em của họ sắp đi qua. Sau này, thực tế đã chứng minh, những
điều Tướng Thơ tin tưởng đều đã hoàn toàn xảy ra đúng như Ông dự đoán. Các niên
trưởng đàn anh của chúng tôi đã liều thân, và hết lòng giúp đỡ vào cuộc hành quân di tản
của 4 khóa đàn em.
Toàn cảnh Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – 1975
Cuộc triệt thoái bắt đầu khi chúng tôi tiến về Hướng Đông, băng qua Đơn Dương
để đến Quốc Lộ 1 rồi xuôi về Phương Nam dọc theo ven biển. Ngày 30 tháng 3 năm
1975, SVSQ thuộc Liên Đội G-H được lệnh di chuyển bằng quân xa, rải quân dọc theo
Liên Tỉnh Lộ 11 hướng về Trại Hầm–Đơn Dương, trấn giữ Cầu Đất, kiểm soát tuyến
đường này, vừa tự phòng thủ cho mình và bảo vệ cho các đơn vị bạn sẽ tiến theo ngay
sau đó.
Liên Đội E-F có nhiệm vụ xây dựng đầu cầu tiếp vận trải dài đến Quận Lỵ Đơn
Dương, thiết lập tuyến phòng thủ, và canh gác tại đài ra-đa. Liên Đội C-D tiến vào Thị
Trấn Đơn Dương, trấn giữ Cầu Đơn Dương và những cây cầu nhỏ khác dọc theo lộ trình.
Lúc bấy giờ, trục lộ từ Đà Lạt đến Đơn Dương đã trở nên rối loạn, bị tràn ngập bởi làn
sóng người di tản và các binh lính thất lạc đơn vị. Do tắc nghẽn và cản trở gây ra bởi
đoàn người hốt hoảng, ô hợp và vô kỷ luật; những chiếc quân xa của Trường Võ Bị
không còn khả năng quay trở lại vận chuyển nốt Liên Đội A-B, liên đội triệt thoái sau
cùng, theo đúng kế hoạch dự trù.
Đến 9 giờ tối ngày 31 tháng 3 năm 1975, các SVSQ thuộc Liên Đội A-B được
lệnh bộ hành rời khỏi trường qua Cổng Tôn Thất Lễ, di tản theo Trung Đoàn SVSQ. Đơn
vị binh sĩ cơ hữu có nhiệm vụ đi đoạn hậu, và thi hành nốt những nhiệm vụ sau cùng.
Nửa đêm về sáng hôm đó, vũ khí cầm tay, ba lô trên lưng, theo đội hình hàng dọc, những
người SVSQ cuối cùng lầm lũi và lạnh lùng triệt thoái. Chúng tôi bộ hành thâu đêm trên
đường đồi Đà Lạt, ra đi vội vàng nhưng không hốt hoảng, bất ngờ nhưng không bối rối.
Những bước chân lính trẻ dứt khoát, gọn gàng, che đậy cho những tấm lòng quyến luyến,
vấn vương.
Dân chúng địa phương ngơ ngác nhìn những SVSQ Võ Bị sau cùng đang rời xa thị
xã. Thoáng chốc, họ trở nên hoang mang, lo sợ, và rồi số đông trong những người này, đã
bỏ lại tất cả, đi theo đoàn quân di tản. Họ dùng đủ mọi phương tiện sẵn có để cố song
hành với chúng tôi. Đối với thị dân Đà Lạt, Trường Võ Bị là dấu hiệu, và là điểm tựa sau
cùng cho việc di tản hay ở lại. Tiếng chân chạy vội vã, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng
trẻ con và phụ nữ khóc than, hoà với tiếng rầm rì của các loại động cơ xe, tạo nên một thứ
âm thanh hỗn độn, thê lương và hoảng loạn. Trong khí lạnh se sắt của núi đồi miền cao
nguyên, chúng tôi ra đi mang theo nỗi buồn tê tái.
Rừng thông già hoà cùng tiếng gió cao nguyên, reo vi vu như cảm khái và hát bài
ca tiễn biệt. Không ai bảo ai, chúng tôi thường ngoảnh mặt nhìn về hướng Trường Mẹ, cố
ghi nhớ và cố mang theo một phần những hình ảnh mà bỗng chốc sắp trở thành quá khứ.
Để tránh bị địch quân sử dụng, sau lưng chúng tôi, một phần căn cứ tiếp liệu, kho
đạn, trạm biến điện và nhà thí nghiệm nặng đang được phá huỷ, tạo nên những tiếng nổ
vang dội, và những đám cháy bập bùng trong đêm. Ánh lửa trở nên những ngọn đuốc, soi
sáng một phần của toàn diện TVBQGVN. Sau vài tiếng nổ, ngôi trường không còn ánh
điện, chỉ lập loè ánh lửa, rồi khuất dần trong màn đêm u tối. Đó là lần sau cùng chúng tôi
còn nhìn thấy Trường Mẹ. Làm điểm tựa cho những thường dân di tản đang rảo chân bên
cạnh, cùng với đất nước, SVSQ Trường Võ Bị lặng lẽ và lạnh lùng bước vào những ngày
đen tối của “tháng Tư bi thảm.”
Lộ trình triệt thoái của Trường Võ Bị từ Đà Lạt
Dù tình thế hỗn loạn và phức tạp, dù di chuyển bằng các phương tiện tự túc hay
được cung cấp—bộ hành hay cơ giới, trong suốt chặng đường triệt thoái, các SVSQ luôn
giữ vững đội hình, hàng ngũ với kỷ luật tự giác cao độ. Không vướng bận gia đình, chúng
tôi không những tự lo cho mình, cho đơn vị, mà còn chăm sóc cả đến thường dân. Truyền
thống và tình tự Võ Bị thể hiện đậm đà, khi không ít niên trưởng thuộc đủ mọi quân binh
chủng, tự tìm đến với các sinh viên khóa đàn em, tự xưng danh và thăm hỏi thân mật.
Những câu hỏi ngắn và hết sức Võ Bị như: “Tôi khóa … nè! Các anh đi đâu vậy?” là
những câu tiêu biểu mà các SVSQ 4 khóa cuối cùng của Trường Võ Bị thường được nghe
trong suốt chặng đường triệt thoái. Gần đến Bình Tuy, chúng tôi cũng có cơ hội góp phần
với một Niên Trưởng, Thiếu Tá Trịnh Trân Khóa 20 Võ Bị, và binh sĩ Tiểu Đoàn 34 Biệt
Động Quân của Ông hạ chốt địch, khai thông đường cho các đơn vị vào Bình Tuy. Trong
trận phá chốt này, một SVSQ Khóa 30 bị trọng thương, đã được các sĩ quan niên trưởng
can thiệp, vận chuyển ngay về Tổng Y Viện Cộng Hoà chữa trị kịp thời.
Nhờ những biểu lộ về kỷ luật cao độ, và nhờ sự giúp đỡ tận tình của Chuẩn Tướng
Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Chiến Trường Bình Tuy, cũng là một Niên Trưởng (Khóa 10)
của chúng tôi, SVSQ Trường Võ Bị được ưu tiên và an toàn vào Bình Tuy. Ngày 4 tháng
4 năm 1975, từ Bình Tuy, SVSQ 4 khóa lại được không vận về Phi Trường Biên Hoà, rồi
từ Biên Hoà về tá túc tại Trường Bộ Binh Long Thành.
Tại quân trường bạn, do tình hình chiến sự sôi động và nhu cầu chiến trường cấp
bách, hai Khoá 28, 29 được cho ra trường vội vã vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 trong
một Lễ Mãn Khóa đơn giản chưa từng có trong lịch sử Trường Võ Bị. Trung Tướng
Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn chủ tọa buổi lễ, gắn cấp bậc
cho hai SVSQ Thủ Khoa: Hồ Thanh Sơn Khóa 28 và Đào Công Hương Khóa 29. Các
Tân Thiếu Uý, trong quân phục tác chiến, tự gắn cấp bậc cho nhau. Buổi lễ không kèn
không trống, diễn ra trong lúc những chiếc quân xa đang chờ sẵn, để đưa các Tân Thiếu
Uý ra thẳng đơn vị. Sau buổi lễ, Khóa 30 nhận nhiệm vụ lãnh đạo Hệ Thống Tự Chỉ Huy,
duy trì các sinh hoạt và truyền thống của Trường Mẹ, mà nay chỉ còn lại 2 Khóa 30 và
31.
Trong quyển “Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils?”, Pierre Darcourt (Albatros, 1976)
đã kể lại: “…Các lô cốt dọc theo quốc lộ được các Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị
Quốc Gia Dalat trấn giữ. Những Sinh Viên Sĩ Quan trẻ từ 18 đến 20 tuổi đầu, sạch sẽ,
gọn ghẽ và bóng láng như những chú lính trong tủ kính. Trên balô của họ đặt dưới đất là
mũ cát kết truyền thống vàng đỏ của Sinh Viên Trường Võ Bị… Một anh Sinh Viên Sĩ
Quan nói với tôi bằng một giọng gần như rất trịnh trọng: Chúng tôi sẽ đội mũ sinh viên
lên khi thấy mình phải chết!” (Dương Hiếu Nghĩa—Việt Nam, Quê Mẹ Oan Khiên,
Tiếng Quê Hương, 2007, Chương 22, Trang 297.)
Một ký giả khác, Jean Lartéguy ghi lại trung thực trong quyển “L’Adieu à Saigon”
(Paris, Presses Pocket, 1976) những gì mà bạn ông—phóng viên Raoul Coutard đã chứng
kiến:“…Và những anh chàng Sinh Viên Sĩ Quan trẻ của Trường Võ Bị Đà Lạt trong bộ
quân phục mới thật đẹp, với những đôi giầy xi thật bóng, đã bình tĩnh đi đến chỗ chết một
cách rất oai hùng. Họ chỉ thiếu có chùm lông đà điểu trên mũ và những đôi găng tay
trắng mà thôi.” (Dương Hiếu Nghĩa—Tiếng Quê Hương, Chương 4, Phần 2,
http://nhd18.nhansinh.com/larteguy)
Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam diễn hành trong quân phục đại lễ
Đọc những lời này, nhà văn Kiều Mỹ Duyên cảm khái, viết thêm: “Tôi chợt nghĩ,
vâng, các anh sẽ đội chiếc mũ ấy trong giờ phút bi hùng nhất của người chiến sĩ. Trên
chiếc mũ ấy có hàng chữ Tự Thắng Để Chỉ Huy. Các anh hãy đội chiếc mũ ấy, vì trong
giờ phút đó, khi các anh ngã xuống cho quê hương, chắc chắn thân xác các anh sẽ không
còn được lá cờ thân yêu phủ lên nữa. Chiếc mũ ấy sẽ thay thế cho lá cờ tri ân…”(Kiều
Mỹ Duyên—https://www.khoa30.com.)
Hai ngày sau, cùng với các SVSQ Trường Bộ Binh Long Thành, một lần nữa
chúng tôi lại được lệnh di tản về Huấn Khu Thủ Đức (Trường Bộ Binh Thủ Đức cũ). Tại
nơi tạm trú mới này, chúng tôi đã liên kết với SVSQ và khóa sinh các quân trường bạn
cùng phối hợp và bố trí tuyến phòng thủ.
BỎ VŨ KHÍ—TAN HÀNG
Khi chúng tôi đến, Huấn Khu Thủ Đức đang là nơi tá túc của nhiều quân trường
như: Quân Báo, Quân Y, Quân Cụ, Quân Nhạc, Không Quân, Tổng Quản Trị, Hành
Chánh Tài Chánh,… Bên cạnh huấn khu còn có thêm Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia.
Trong cơn sốt hoảng loạn của di tản và triệt thoái, tình hình nơi đây hết sức hỗn độn. Vì ở
gần Sài Gòn, nên mặc dầu lệnh cấm trại 100% đã được ban hành, quân số huấn khu vẫn
mỗi ngày một vơi dần. Từ sĩ quan cán bộ cho đến học viên, binh sĩ, dường như đều tìm
cách đi phép để lo toan cho gia đình. Việc SVSQ Long Thành và SVSQ Đà Lạt rút về
Huấn Khu Thủ Đức, đã phần nào làm giảm bớt không khí bi quan tại đây. Nhìn hình ảnh
các SVSQ vẫn hàng ngũ gọn gàng, kỷ luật tới mức tuyệt đối giữa cảnh hoảng loạn xung
quanh, mọi người yên tâm hơn.
Ngay sau khi đến Huấn Khu Thủ Đức, chúng tôi lập tức tiếp nhận vị trí phòng thủ,
củng cố ngay hệ thống rào kẽm gai, hầm trú ẩn và giao thông hào. Bên ngoài huấn khu,
cảnh di tản vẫn ồn ào hỗn độn với từng đoàn xe, đoàn người từ hướng Biên Hoà lũ lượt
đổ dồn về Sài Gòn. Không khí lo sợ, hoảng hốt càng lúc càng lan tràn khắp nơi.
Cộng Quân pháo kích lẻ tẻ từ tối 23 tháng 4 năm 1975, đôi khi chúng pháo kích cả
ban ngày nhằm thị uy và gây hoang mang. Đêm 29 rạng sáng 30 tháng 4 năm 1975, địch
pháo kích dữ dội hơn. Chúng đang dồn mọi nỗ lực để uy hiếp Sài Gòn, cố tiến về Sài
Gòn, và chắc chắn sẽ không để cho Huấn Khu Thủ Đức được yên ổn.Tiếng đạn nổ dồn
trong đêm, nhưng tuyến phòng thủ của SVSQ Võ Bị vẫn yên tĩnh. Khoảng 9 giờ sáng
ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Học Viện Cảnh
Sát ở bên ngoài huấn khu, 2 Chiến Xa T54 của Cộng Quân còn cành lá nguỵ trang tiến
đến Cổng Số 1—cổng chính của Huấn Khu Thủ Đức. Sau một lúc thăm dò, chúng ủi sập
rào kẽm gai, rồi xả hết tốc lực tiến thẳng vào trung tâm của Huấn Khu Thủ Đức.
Chiến xa địch gầm rú, quần thảo dữ dội, tạo khói bụi mịt mù trong sân quân
trường. Chúng hung hăng bắn phá các doanh trại và các vị trí phòng thủ hòng trấn áp, gây
khiếp đảm cho quân ta. Một số SVSQ các quân trường bạn bị trúng đạn do bất ngờ không
kịp ẩn tránh. Khi chiến xa địch tiến vào tuyến phòng thủ của Trường Võ Bị, SVSQ hai
khóa út đã đối đầu một cách dũng cảm, không làm hổ danh Trường Mẹ. Mặc dù không
được trang bị súng chống chiến xa, chúng tôi vẫn bình tĩnh và kiên nhẫn ẩn mình dưới
các giao thông hào, bắn trả kịch liệt. Một vài SVSQ quân trường bạn lạc khỏi vị trí của
họ, cũng nhảy xuống giao thông hào của SVSQ Võ Bị, cùng chung vai sát cánh phản
công. Súng nhỏ, súng cá nhân bắn vào các chiến xa địch chẳng thấm vào đâu, nên chúng
thản nhiên chạy ra, chạy vào như chỗ không người. Trên đầu chúng tôi, bụi đất mịt mù
với những tiếng nổ lớn chát chúa và âm thanh vang động của chiến xa địch. Thiếu Tá
Nguyễn Văn Dục Khóa 17 VB, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 SVSQ cùng một vài
SVSQ Khóa 30 vội vàng xông vào nhà kho của Trường Quân Cụ tìm vũ khí. Sau một hồi
lục lọi, tìm được 8 khẩu M72. Thoạt đầu, chúng tôi định mang hết số súng này về vị trí
phòng thủ của Trường Võ Bị, nhưng các SVSQ Bộ Binh Long Thành đến sau vài phút,
không còn tìm được khẩu nào; do đó, Thiếu Tá Dục quyết định chia lại cho họ một nửa.
Có súng chống chiến xa, tất cả SVSQ đều lên tinh thần. Khi một chiếc xe tăng địch gầm
gừ quay trở lại một lần nữa, những tiếng hét lớn: “Bắn đi! Bắn nó đi!...” vang dội khắp
các giao thông hào. Nhiều họng súng lớn nhỏ đồng loạt cùng hướng về một mục tiêu—
nhiều trái cầu lửa phụt ra, bùng lên khiến chiến xa địch khựng lại, bốc cháy. Nó vùng
vẫy, cố lết trở lại cổng số 1, nhưng không chạy thoát được, vì một bên xích sắt đã bị cháy
nát, đứt lìa. Vài SVSQ dũng cảm lăn mình khỏi chiến hào—một người nhảy nhanh lên
xe, ném lựu đạn qua pháo tháp. Sau một tiếng nổ lớn và nhiều tiếng nổ phụ, chiếc xe tăng
địch bất động. Từ khắp các giao thông hào, tiếng SVSQ đắc thắng reo hò vang dội.
Trước đó ít lâu—từ khoảng sau 10 giờ sáng, lệnh đầu hàng và bàn giao của Tổng
Thống Dương Văn Minh đã được phát ra, lập đi lập lại trên đài phát thanh. Trong lúc mải
mê giao tranh, chúng tôi không nghe được những lời này. Nhưng khi ra khỏi chiến hào,
nghe rõ lệnh buông súng, chúng tôi nhìn nhau chết lặng. Thiếu Tá Dục, vị sĩ quan chỉ huy
trực tiếp của chúng tôi không chịu ở lại, không đầu hàng, cũng không ra lệnh tập họp để
bàn giao. Bằng giọng nghẹn ngào, ông vỗ về, tâm sự với 2 khóa đàn em trước khi tan
hàng, nhắc nhở chúng tôi về bài học “Thoát Hiểm Mưu Sinh.” Lúc chia tay, ông cố quay
mặt đi không để đàn em nhìn thấy mình đang khóc.
Khi chúng tôi rời khỏi Huấn Khu, Chiến Xa T54 của địch vẫn còn bốc khói.
DANH SÁCH KHOÁ 30
STT HỌ VÀ TÊN ĐẠI ĐỘI STT HỌ VÀ TÊN ĐẠI ĐỘI
1 Đoàn Văn Anh G 113 Hồ Văn Nam A
2 Hoàng Đức Anh E 114 Nguyễn Văn Nam E
3 Nguyễn Ngọc Anh B 115 Võ Văn Nam G
4 Trần Ngọc Anh D 116 Đặng Văn Năm H
5 Trần Tú Anh E 117 Huỳnh Văn Năm D
6 Nguyễn Ánh B 118 Nguyễn Ngân F
7 Nguyễn Văn Ba F 119 Võ Văn Nghĩa E
8 Hoàng Văn Ban D 120 Ngô Thành Nghiệp B
9 Lê Bá Bánh A 121 Nguyễn Thành Nghiệp A
10 Hồ Văn Bảy C 122 Võ Tấn Nghiệp D
11 Trương Văn Be G 123 Lê Văn Ngọc B
12 Lưu Văn Bê A 124 Nguyễn Minh Ngọc F
13 Phan Văn Biên H 125 Nguyễn Ngọc B
14 Nguyễn Văn Bình D 126 Đào Thanh Nhã B
15 Ngô Phùng Cần G 127 Nguyễn Văn Nhân F
16 Đặng Phước Cao G 128 Võ Lê Đình Nhân H
17 Lê Minh Chánh H 129 Nguyễn Văn Nhớ H
18 Lê Chất G 130 Nguyễn Quang Ninh E
19 Lê Độ Châu G 131 Phạm Ngọc Ninh H
20 Nguyễn Bạch Châu A 132 Võ Nuôi G
21 Nguyễn Văn Châu C 133 Nguyễn Ngọc Oánh G
22 Lại Văn Chiêm F 134 Trịnh Xuân Phẩm D
23 Nguyễn Chiến F 135 Đặng Văn Phong E
24 Võ Chiến F 136 Hoàng Thu Phong D
25 Nguyễn Quang Chiêu F 137 Huỳnh Thanh Phong C
26 Ngô Quang Chiêu B 138 Nguyễn Quốc Phong H
27 Phan Minh Chín D 139 Thái Doãn Phong D
28 Đỗ Hữu Chính B 140 Trần Trọng Phú B
29 Vũ Minh Chung C 141 Võ Công Phục B
30 Trần Văn Chương E 142 Trần Đình Phước A
31 Ngô Có C 143 Võ Văn Phước C
32 Nguyễn Kim Cơ D 144 Đào Hoàng Phương D
33 Phạm Văn Côn B 145 Lai Viết Phương H
34 Châu Thành Công F 146 Đoàn Văn Quang C
35 Nguyễn Phước Cường C 147 Lê Văn Quang H
36 Nguyễn Cường H 148 Phan Văn Quang C
37 Đoàn Phan Danh D 149 Nguyễn Văn Quảng B
38 Trần Quốc Đạt F 150 Trần Văn Quý H
39 Nguyễn Diệu H 151 Trần Tấn Rần D
40 Tống Phước Định A 152 Trần Hữu Sa H
41 Nguyễn Hữu Đoàn A 153 Tsan A Sam A
42 Lê Mộng Đông E 154 Phòng Cún Sáng E
43 Trần Văn Du C 155 Mã Văn Say F
44 Hồ Bảo Dũng E 156 Hoàng Đình Sinh A
45 Nguyễn Văn Dũng E 157 Lương Dũng Sinh F
46 Phạm Văn Dũng C 158 Trần Văn Sói H
47 Trần Sinh Duyên F 159 Lê Hoàng Sơn F
48 Trần Thế Dzu F 160 Lê Hồng Sơn A
49 Phạm Văn Ếch G 161 Phạm Công Sơn C
50 Nguyễn Thành Giúp H 162 Phạm Xuân Sơn F
51 Dương Quang Hà C 163 Lý Tam B
52 Nguyễn Thanh Hà F 164 Nguyễn Minh Tâm C
53 Phạm Văn Hai A 165 Trương Tâm F
54 Nguyễn Sơn Hải E 166 Võ Thành Tâm G
55 Trịnh Văn Hải B 167 Nguyễn Tấn A
56 Bùi Xuân Hãn G 168 Phạm Huy Tuấn E
57 Võ Minh Hanh F 169 Võ Văn Tấn B
58 Bành Quốc Hiền A 170 Nguyễn Văn Thạch B
59 Thạch Hiền G 171 Lê Quang Thâm G
60 Cao Hữu Hiển H 172 Phan Cảnh Thắng D
61 Phạm Ngọc Hồ F 173 Nguyễn Ngọc Thanh F
62 Dương Đức Hoà C 174 Nguyễn Trí Thanh D
63 Nguyễn Văn Hoà F 175 Trần Văn Thanh A
64 Nguyễn Huy Hoàng B 176 Đinh Văn Thành G
65 Vũ Huy Hoàng F 177 Hồ Đăng Thành G
66 Châu Toàn Hội D 178 Phan Văn Thành B
67 Trần Đại Hồng G 179 Võ Đức Thạnh D
68 Vũ Khắc Hồng C 180 Phan Tấn Thâu D
69 Huỳnh Ngọc Huệ E 181 Lê Khắc Thế A
70 Đào Mạnh Hùng F 182 Ngô Xuân Thể D
71 Đinh Chí Hùng A 183 Ninh Phúc Thi D
72 Hoàng Việt Hùng E 184 Nguyễn Ngọc Thiết H
73 Lê Quốc Hùng D 185 Nguyễn Gia Thiếu A
74 Nguyễn Đăng Hùng A 186 Trần Văn Thoàn G
75 Phạm Duy Hùng E 187 Nguyễn Đức Thông A
76 Trương Đình Hùng F 188 Phạm Văn Thuận B
77 Nguyễn Đức Hưng G 189 Nguyễn Đức Thường B
78 Huỳnh Minh Hưởng B 190 Nguyễn Văn Tiếp B
79 Đinh Viết Hữu A 191 Phạm Văn Tỏ A
80 Lê Văn Hữu H 192 Lê Văn Toàn F
81 Trần Kết E 193 Nguyễn Văn Toàn C
82 Vũ Quý Khang F 194 Nguyễn Vi Trân A
83 Lê Tất Khánh C 195 Trần Minh Trí C
84 Vũ Đăng Kim H 196 Nguyễn Kim Trọng G
85 Lưu Văn Ký E 197 Nguyễn Bá Trực A
86 Lưu Lạc C 198 Cao Quang Trung E
87 Trần Ngọc Lạc D 199 Lê Hoàng Trung E
88 Trần Tùng Lâm C 200 Trần Viết Trung G
89 Lê Văn Lăng G 201 Cao Xuân Tú G
90 Nguyễn Đăng Lập C 202 Trần Anh Tú G
91 Nguyễn Tấn Liêm A 203 Nguyễn Lộc Tư B
92 Nguyễn Thanh Liêm C 204 Lê Tuấn D
93 Phạm Ngọc Liêm C 205 Lê Như Tuấn H
94 Nguyễn Liễu E 206 Nguyễn Anh Tuấn A
95 Vũ Văn Đông Linh D 207 Sầm Tấn Tuấn H
96 Ngô Tấn Lộc H 208 Trần Liêm Tuấn B
97 Nguyễn Văn Lộc G 209 Đào Thanh Tùng B
98 Phan Văn Lộc H 210 Hoàng Đình Tùng G
99 Nguyễn Văn Lợi E 211 Lê Thanh Tùng E
100 Trần Trọng Lợi B 212 Phan Công Tuyên A
101 Đỗ Hùng Long E 213 Bùi Văn Vân D
102 Huỳnh Văn Thành Long C 214 Nguyễn Văn Vân B
103 Nguyễn Duy Lũy E 215 Nguyễn Đức Viêng D
104 Dương Xuân Luyện G 216 Phạm Việt F
105 Huỳnh Công Lý H 217 Vũ Lê Việt C
106 Nguyễn Doanh Lý C 218 Nguyễn Đức Vinh G
107 Lương Văn Má C 219 Nguyễn Quang Vinh D
108 Hoàng Văn Meo A 220 Bùi Duy Vũ H
109 Nguyễn Văn Minh D 221 Nguyễn Văn Xuân H
110 Phạm Viên Minh H 222 Trương Văn Xuân B
111 Nguyễn Văn Mỹ E 223 Dương Văn Yên E
112 Phan Văn Mỹ E
KHÓA 30 SAU 30-4-1975
Cựu SVSQ Khóa 30 vẫn duy trì và phát triển những truyền thống cao quý từ
Trường Mẹ. Chúng tôi luôn giữ gìn và kiện toàn mối liên hệ mật thiết với các khóa đàn
anh, đàn em, với Gia Đình Lâm Viên (quốc nội), với Tổng Hội, Liên Hội và Hội Địa
Phương (hải ngoại). Một số tham gia kháng chiến, nỗ lực phục quốc nhưng bất thành, bị
bắt bớ, giam cầm, bị sát hại. Trong số bị bắt bớ, vài bạn được phóng thích hoặc vượt
thoát đã may mắn đến được xứ sở tự do. Nỗi ưu tư về tiền đồ Tổ Quốc, cùng những ước
mơ, khát vọng ngày nào vẫn mãi canh cánh bên lòng. Ngày nay, dù cho nhân số đã hao
mòn, thể chất đã suy giảm, nhưng tình đồng môn với các khóa đàn anh, đàn em và tình
bạn giữa những Cựu SVSQ Khóa 30 vẫn ngày thêm bền chặt và gắn bó theo thời gian.
Đại Diện Khóa: Trần Trọng Lợi
Biên Soạn: Nguyễn Gia Thiếu, Nguyễn Minh Tâm