Bảo vật bị rao bán
Chiều ngày 18/10/2022, tôi nhận tin nhắn gửi qua messenger từ một người bạn ở
Pháp: “Sắp có một phiên bán đấu giá hai bảo vật thời Nguyễn tổ chức bởi nhà đấu
giá MILLON vào 11 giờ trưa ngày 31/10/2022 (giờ Paris)”. Kèm theo tin trên là hai
link giới thiệu hai hiện vật này.
Theo hai link trên, tôi vào website chính thức của MILLON, một hãng đấu giá ra
đời từ năm 1928, có trụ sở chính tại Paris và các chi nhánh ở Nice (Pháp), Bruxelles
(Bỉ), thì được biết, đợt này MILLON sẽ đưa ra đấu giá 329 cổ vật, trong đó có hai
cổ vật của nhà Nguyễn (1802 - 1945). Đó là một ấn vàng đúc năm 1823 triều Minh
Mạng (1820 - 1841) và một bát vàng triều Khải Định (1917 - 1925).
Ấn
vàng hình một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn về phía trước, tư thế
vững vàng; trán rồng có khắc chữ 王 (vương: vua).
Thông tin trên website của MILLON miêu tả (bằng tiếng Pháp, tôi lược dịch) như
sau:
Ấn vàng (lô số 101/329) cao 10,4cm, mặt ấn hình vuông (13,8 x 13,7cm), nặng
10,78kg. Quai ấn đúc hình một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn về phía
trước, tư thế vững vàng; trán rồng có khắc chữ 王 (vương: vua), vây lưng và đuôi
rồng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước, bốn chân rồng đúc rõ năm móng.
Mặt dưới của ấn khắc nổi bốn chữ triện “Hoàng đế chi bảo”.
Mặt trên của ấn, ở hai bên quai ấn, có khắc chìm hai dòng chữ: 明命肆年貳月初 肆
日吉時 鑄造 (Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo: đúc vào
giờ tốt ngày mùng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4) và 拾成 黃金重貳佰捌拾兩玖
錢貳 分 (Thập thành hoàng kim trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân: làm
bằng vàng, nặng 280 lạng, 9 chỉ, 2 phân). Mặt dưới của ấn khắc nổi bốn chữ triện:
皇帝之寶 (Hoàng đế chi bảo: báu vật của hoàng đế).
Bát vàng quý hiếm (lô số 100/329), có đường kính miệng là 10,4cm, cao 7cm, nặng
456,6g.
Mặt ngoài thân bát chạm trổ các đồ án: rồng mặt nạ, long hí thủy (rồng giỡn với
nước), hốt như ý và thủy ba văn (văn sóng nước)
Mặt ngoài thân bát chạm trổ các đồ án: rồng mặt nạ, long hí thủy (rồng giỡn với
nước), hốt như ý và thủy ba văn (văn sóng nước). Lòng bát bọc khắc nổi ba đồ án
lưỡng long triều thủy (hai con rồng chầu cột nước) và khắc nổi bốn chữ: 啟 定年造
(Khải Định niên tạo) ở chính giữa; phía trên bọc một lớp thủy tinh màu nâu đậm.
Lòng bát bọc khắc nổi ba đồ án lưỡng long triều thủy (hai con rồng chầu cột nước)
và khắc nổi bốn chữ “Khải Định niên tạo” ở chính giữa; phía trên bọc một lớp thủy
tinh màu nâu đậm.
Mặt dưới đáy bát có khắc nổi bốn chữ: 啟定年造 (Khải Định niên tạo: làm dưới
triều Khải Định).
Mặt dưới
đáy bát có khắc nổi bốn chữ “Khải Định niên tạo” ( làm dưới triều Khải Định).
Hãng đấu giá MILLON đặt giá khởi điểm (Estimation) cho chiếc bát đời Khải Định
từ 20.000 - 25.000 euro, còn chiếc ấn thì catalogue ghi: “Estimation sur demande”
(Giá tùy chọn).
Lai lịch cổ vật
Triều Nguyễn tạo tác và sử dụng rất nhiều loại ấn triện, trong đó quý nhất là ấn làm
bằng vàng, gọi là kim ấn, và triện làm bằng ngọc, gọi là ngọc tỉ. Theo sách “Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ”, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, có 20 kim ấn và
ngọc tỉ được tạo tác dưới hai triều vua đầu thời Nguyễn là Gia Long (1802 - 1820):
6 chiếc và Minh Mạng (1820 - 1841): 14 chiếc.
Trong đó, kim ấn khắc bốn chữ 皇帝 之寶 (Hoàng đế chi bảo) là kim ấn lớn nhất,
đẹp nhất và quý nhất của vương triều Nguyễn. Ấn này được đúc bằng vàng ròng
vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823), nặng 280 lạng 9
chỉ, 2 phân (ước tính tương đương 10,7kg).
Vì thế, khi tuyên bố thoái vị vào ngày 30/8/1945, trong số hơn 200 ấn triện các loại
còn lưu giữ tại điện Cần Chánh và Ngự tiền văn phòng (bên trong Hoàng thành
Huế), vua Bảo Đại đã chọn chiếc ấn đẹp nhất, quý nhất, biểu trưng của chế độ quân
chủ thời Nguyễn là kim ấn Hoàng đế chi bảo, cùng thanh bảo kiếm mà phụ vương
của ông là vua Khải Định (1916 - 1925) trao lại cho ông, để bàn giao cho chính
quyền cách mạng.
Ông Trần Huy Liệu, đại diện cho chính quyền cách mạng, đã tiếp nhận bộ ấn kiếm
mang tính biểu tượng này, rồi cho chuyển về Hà Nội ngay trước khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập tại
quảng trường Ba Đình vào chiều ngày 2/9/1945.
Tháng 12/1946, thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội. Chính phủ Hồ Chí Minh rút lên
Việt Bắc tiến hành “trường kỳ kháng chiến”. Bộ ấn kiếm trên được đem giấu trong
một ngôi nhà ở làng Nghĩa Đô, vốn là một xưởng in tiền của Việt Minh trước đây.
Ngôi nhà này đã bị phá hủy năm 1947.
Ngày 28/2/1952, Tiểu đoàn 2 B.P.C của Pháp do Tiểu đoàn trưởng Toce Raymond
chỉ huy, đào bới phần móng ngôi nhà đổ nát này để thu nhặt gạch vỡ, thì tình cờ tìm
thấy trong 2 chiếc hòm kẽm chôn chứa bộ ấn kiếm này.
Năm 1952, người Pháp quyết định trao trả bộ ấn kiếm này cho cựu hoàng Bảo Đại,
lúc này đang là Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam. Lễ trao trả ấn kiếm cho cựu hoàng
Bảo Đại được tổ chức trang trọng vào ngày 8/3/1952, được tạp chí Paris Match của
Pháp tường thuật rất đầy đủ với nhiều hình ảnh chi tiết.
Lúc này, cựu hoàng Bảo Đại đang ở Pháp cùng hoàng hậu Nam Phương, nên “thứ
phi” Mộng Điệp và bà Đoan Huy hoàng thái hậu (Đức Từ Cung), thân mẫu cựu
hoàng, thay mặt ông tiếp nhận bộ ấn kiếm này.
Năm 1953, do tình hình chiến sự ở Đông Dương ngày càng ác liệt, cựu hoàng Bảo
Đại nhận thấy không thể đưa bộ ấn kiếm này trở về cố đô Huế, nên cử bà Mộng
Điệp mang bộ ấn kiếm, cùng một số tư trang sang Pháp giao cho hoàng hậu Nam
Phương và cựu thái tử Bảo Long cất giữ.
Năm 1963, hoàng hậu Nam Phương qua đời, bộ ấn kiếm được hoàng thái tử Bảo
Long ký gửi trong một két sắt tại Union des Banques Européennes (Ngân hàng châu
Âu). Theo lời kể của bà Mộng Điệp, năm 1980, khi xuất bản tập hồi ký Le Dragon
d’Annam (Con rồng An Nam), cựu hoàng Bảo Đại muốn dùng kim ấn Hoàng đế chi
bảo đóng vào sách để làm tăng giá trị cho cuốn sách của ông, nhưng ông Bảo Long
không cho mượn ấn.
Cựu hoàng Bảo Đại liền kiện con trai ra tòa để đòi lại ấn kiếm. Sau quá trình tranh
tụng lâu dài và phức tạp, cuối cùng tòa án ở Pháp phân xử: cựu hoàng Bảo Đại được
sở hữu kim ấn Hoàng đế chi bảo, còn cựu thái tử Bảo Long giữ thanh bảo kiếm.
Năm 1972, cựu hoàng Bảo Đại kết hôn với bà Monique Baudot, người Pháp. Trước
khi qua đời vào tháng 8/1997, cựu hoàng để lại di chúc, trao quyền thừa kế toàn bộ
tài sản của ông ở Pháp, trong đó có kim ấn Hoàng đế chi bảo cho bà Monique
Baudot.
Bà Monique Baudot qua đời vào năm 2021, nên có lẽ giờ là thời điểm thích hợp để
những người thừa kế tài sản của bà, mang kim ấn Hoàng đế chi bảo và bát vàng
Khải Định niên tạo nhờ MILLON đem bán đấu giá.
Vĩ thanh
Người bạn của tôi khi chia sẻ thông tin về cuộc bán đấu giá kim ấn Hoàng đế chi
bảo và bát vàng Khải Định niên tạo nói trên, nhắn gửi: “Anh cung cấp thông tin này
cho Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế và khuyến khích họ tham gia đấu giá để đưa
những bảo vật này hồi hương”.
Tôi nghĩ việc này rất khó, bởi từ trước đến nay, chưa có một bảo tàng công lập nào
ở Việt Nam tham gia đấu giá cổ vật thành công, do những rào cản của thủ tục và
hạn chế về nguồn lực tài chính.
Vì thế, với những bảo vật đặc biệt như thế này, tôi nghĩ chỉ có một cách: Giám đốc
Bảo tàng Lịch sử quốc gia làm tờ trình gửi Bộ VH-TT&DL và Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam, đề nghị cử người trực tiếp đàm phán với nhà đấu giá MILLON để
mua hai bảo vật này, đặc biệt là chiếc kim ấn Hoàng đế chi bảo, trước khi MILLON
mở phiên đấu giá.
Bởi, một khi cổ vật đã lên sàn đấu giá công khai, thì giá cả sẽ diễn biến khôn lường,
như trường hợp chiếc mũ quan nhất phẩm triều Nguyễn do hãng Balclis ở
Barcelona (Tây Ban Nha) đưa ra đấu giá hồi tháng 10/2021 đã tăng vọt từ 600 euro
(giá khởi điểm) lên 600.000 euro (giá mua, chưa tính thuế và phí), là một ví dụ.
Khi bài báo này sắp hoàn thành, thì anh bạn tôi lại nhắn tin: Người đấu giá của
chúng tôi nói rằng bảo tàng (ở Việt Nam) có thể tham gia vụ (mua) bán (món đồ
này) thông qua đại sứ (Việt Nam tại Pháp). Họ (nên) gửi thư thông báo cho đại sứ
Việt Nam tại Pháp.
Vậy thì, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cần khẩn trương làm tờ trình gửi Bộ
VHTT&DL và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, đề nghị cử người đàm phán với
MILLON mua lại hai bảo vật này trước khi phiên đấu giá được mở công khai. Kẻo
vuột mất thì lại tiếc.
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
Lịch sử giao thương Việt - Nhật: Tiếp cận nhiều tư
liệu quý
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
LTS: Hôm nay 20.10, mô hình Châu ấn thuyền - thuyền Nhật Bản thời Mạc
phủ được cấp phép đi ra nước ngoài buôn bán, trong đó có xứ Đàng Trong
thời Nguyễn - sẽ cập cảng Đà Nẵng, sau đó được vận chuyển vào Hội An bằng
đường bộ để tiến hành lắp đặt các công đoạn cuối cùng. Dự kiến ngày 10.11 tới
sẽ khai trương trưng bày mô hình Châu ấn thuyền tại khu vực đường Nguyễn
Thị Minh Khai, TP.Hội An. Dịp này, Báo Quảng Nam giới thiệu bài viết của
TS. Trần Đức Anh Sơn về những tư liệu, hiện vật ghi đậm dấu ấn giao thương
Việt - Nhật hàng trăm năm trước đang được lưu giữ tại Nhật Bản mà ông cùng
các cộng sự đã có cơ hội tiếp cận, sao lưu và nay mong muốn hiến tặng cho các
bảo tàng xứ Quảng.
Tranh cuộn “Shuin-sen Kochi toko zukan” (trích đoạn) vẽ cảnh
thương nhân Nhật Bản yết kiến quan Tổng trấn tại Dinh trấn
Thanh Chiêm (Quảng Nam). Ảnh chụp lại: Trần Đức Anh Sơn.
ĐẦU thế kỷ XVII, tại Nhật Bản, quyền điều hành đất nước rơi vào tay các shogun
(tướng quân) theo thể chế Mạc phủ, thay vì thuộc về Thiên Hoàng như trước đây.
Để phát triển nền hải thương Nhật Bản đang hội nhập sâu sắc vào mạng lưới hải
thương thế giới trong thời đại thương mại (thế kỷ XVI-XVII), chính quyền Mạc phủ
đã ban hành chế độ shuin-sen (châu ấn thuyền), bắt đầu từ năm 1602 kéo dài cho
đến năm 1635. Theo đó, Mạc phủ cấp phát shuin-jo (châu ấn trạng), một loại giấy
phép thương mại có đóng dấu màu đỏ (shuin: châu ấn) cho các thuyền buôn Nhật
Bản đi ra nước ngoài buôn bán. Lịch sử Nhật Bản gọi thời kỳ này là thời kỳ “mậu
dịch châu ấn thuyền”.
Ba lần đi Nhật Bản
Theo kết quả nghiên cứu của nhà sử học Nhật Bản Shigeru Ikuta, trong số 354
shuin-jo mà Mạc phủ Tokugawa cấp cho các thương thuyền Nhật Bản ra nước
ngoài buôn bán trong khoảng thời gian 1604-1634, có 331 shuin-jo được cấp để đi
đến 19 thương cảng thuộc các nước Ðông Nam Á. Trong số đó có 130 shuin-jo cấp
đi 6 thương cảng thuộc Ðại Việt và Chămpa, với 86 thương thuyền được cấp đến
Hội An. Thời kỳ “mậu dịch châu ấn thuyền” này đã tạo cơ hội cho việc giao thương
giữa Nhật Bản với Việt Nam trong các thế kỷ XVII-XVIII, mà nhiều chứng cứ, hiện
vật nay vẫn còn được lưu giữ ở Nhật Bản và Việt Nam.
Shuin-jo (châu ấn trạng) do chính quyền Mạc phủ cấp vào năm
Khánh Trường thứ 16 (1614), cho phép thuyền buôn Nhật Bản
đến buôn bán với Đàng Trong.
Năm 2013, với sự tài trợ của Quỹ Sumitomo Foundation (Nhật Bản), tôi đã triển
khai nghiên cứu đề tài “Quan hệ giữa miền Trung Việt Nam với Nhật Bản từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ XVIII”, cùng với các cộng sự là TS. Phan Hải Linh (Đại học Quốc
gia Hà Nội) và TS. Phan Thanh Hải (Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế). Trong
quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã đi đến Nhật Bản 3 lần, trực tiếp khảo sát
tại các di tích khảo cổ học ở Sakai, Nagasaki, Fukuoka, Oita, Okinawa…, những
thương cảng từng giữ vai trò quan trọng trong thương mại hàng hải giữa Nhật Bản
và Việt Nam. Chúng tôi cũng đi đến các văn khố, thư viện, bảo tàng như: Đông
Dương văn khố, Thư viện Đại học Tokyo, Thư viện Đại học Keio, Thư viện Đại
học nữ Showa, Thư viện Đại học Kansai, Bảo tàng Quốc gia Kyushu, Bảo tàng Lịch
sử văn hóa Nagasaki, chùa Jomyo-ji… để tìm kiếm tư liệu, tranh vẽ, đồ bản… liên
quan đến thương mại Nhật - Việt trong thời kỳ “mậu dịch châu ấn thuyền”. Chúng
tôi đã may mắn tiếp cận và sao lại được nhiều tư liệu quý hiếm về “mậu dịch châu
ấn thuyền” đang lưu giữ ở những nơi này, có những tài liệu, hiện vật đã được công
nhận là “Tài sản văn hóa quan trọng” của Nhật Bản.
Tiếp cận và sao lưu
Trong số tư liệu chúng tôi tiếp cận, có thể kể đến bức tranh “Thác Kể chuyện bằng tranh cuộn
kiến Quan Thế Âm Bồ Tát tượng” thế kỷ XVII. Bức tranh này vốn từ Trong các chuyến đi Nhật Bản, chúng tôi
chùa Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, đã được chúa Nguyễn tặng cho cũng đã tiếp cận được nhiều tranh cuộn
thương nhân dòng họ Chaya - một dòng họ thương nhân nổi tiếng của độc đáo miêu tả mối quan hệ giao
Nhật Bản vào thời kỳ Edo - từng sang làm ăn buôn bán ở Đàng thương trước kia giữa Việt Nam và Nhật
Trong, nhằm ghi nhận những đóng góp của dòng họ này với quan hệ Bản. Như tranh cuộn “Chaya Shinroku
giao thương Nhật - Việt thời chúa Nguyễn. Bức tranh này hiện đang Kochi toko zukan” (71,8cm x 511,8cm)
được thờ ở chùa Jomyo-ji (thành phố Nagoya, tỉnh Aichi). Hay bức vẽ vào thế kỷ XVII, miêu tả hành trình
tranh “Annan to kaisen gaku” vẽ trên gỗ (68,7cm x 79,8cm) do họa sĩ vượt biển của thương thuyền thuộc dòng
Hisikawa Magobei vẽ năm 1647, miêu tả châu ấn thuyền Nhật Bản họ Chaya từ Nagasaki đến Giao Chỉ (tức
đến mua bán với Đàng Trong vào thế kỷ XVII. Bức tranh hiện được Đàng Trong) để giao thương. Bức tranh
lưu giữ tại đền Himure Hachimangu ở tỉnh Shiga và được Chính phủ này đang được bảo quản ở chùa Jomyo-ji
Nhật Bản công nhận là “Tài sản văn hóa quan trọng” của quốc gia. và được công nhận là “Tài sản văn hóa
Ngoài ra, còn có bức tranh “Suetsugu sen e ma utsushi” vẽ trên giấy quan trọng” của tỉnh Aichi. Hay tranh
(153cm x 186cm), niên đại vào thế kỷ XIX, ở Bảo tàng Lịch sử văn cuộn “Shuin-sen Kochi toko zukan”
hóa Nagasaki. Bức tranh miêu tả thương thuyền shuin-sen, trên đó có (32,8cm x 1.100,7cm), khoảng vào cuối
ghi tên 16 thương nhân Nhật Bản từng đến buôn bán ở Hội An vào thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII miêu tả
thế kỷ XVII. Bức tranh màu vẽ voi, thế kỷ XIX. Tại thư viện Đại học hành trình vượt biển sang buôn bán với
Kansai lưu giữ bức tranh miêu tả một trong hai con voi được tướng xứ Đàng Trong của châu ấn thuyền Nhật
quân Tokugawa Yoshimune mua từ Quảng Nam đưa về Nhật Bản vào Bản, bắt đầu từ cảng Nagasaki, đi qua
năm 1728. Cù Lao Chàm, vào cảng Hội An. Sau đó,
thương thuyền lên đường đến Đô thành
Khi đến Bảo tàng Lịch sử văn hóa Nagaski, chúng tôi có dịp tiếp cận Phú Xuân để diện kiến chúa Nguyễn và
hiện vật là chiếc gương soi khung gỗ (38,6cm x 34,5cm) đặt trong dâng quà tặng. Bức tranh này hiện được
chiếc hộp sơn mài thếp vàng, thế kỷ XVII. Đây là kỷ vật của quận bảo quản tại Bảo tàng Quốc gia Kyushu
chúa Anio - Công Nữ Ngọc Hoa, vợ của thương nhân Araki Sotaro, (thành phố Dazaifu, tỉnh Fukuoka) và
mang từ Việt Nam sang để dùng trong thời gian bà sống ở Nhật Bản. được công nhận là “Tài sản văn hóa
Công Nữ Ngọc Hoa có lẽ là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên sang quan trọng” của Nhật Bản.
làm dâu xứ Phù Tang, khi được chúa Nguyễn gả cho thương nhân Tại thư viện Nakanoshima ở Osaka,
Araki Sotaro năm 1619. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã tiếp cận, sao chúng tôi bắt gặp tranh cuộn “Kiyo
chụp được 4 shuin-jo do chính quyền Mạc phủ cấp vào các năm 1604 Suwa Myojin saishiju” (36,1cm x
(2 tờ), 1605 và 1614; sưu tập gồm 2 bản giao kèo về việc thu mua 1.003cm), thế kỷ XIX, miêu tả lễ hội
hàng hóa cho các thuyền buôn Nhật Bản, do các thương nhân người Suwa Myojin ở Nagasaki tôn vinh quận
Nhật ký kết với các đầu mối người Đàng Trong vào các năm 1617 và chúa Anio (Công Nữ Ngọc Hoa, con gái
1633; tờ danh mục các quà tặng của chính quyền Đàng Trong gửi nuôi của Chúa Sãi Nguyễn Phúc
chính quyền Nhật Bản vào năm 1632; sưu tập gồm 4 bức thư có niên Nguyên, được gả cho thương nhân Nhật
đại vào thế kỷ XVII, là thư từ trao đổi của các thành viên trong dòng Bản là Araki Sotaro) đang ngồi trong
họ Kadoya (một dòng họ doanh nhân nổi tiếng ở Nhật Bản vào thời chiếc xe kiệu có đoàn tùy tùng theo hầu.
kỳ Edo) liên quan đến hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản với Đàng Trong khi đó, ở thư viện Đại học Kansai
lưu giữ tranh cuộn “Yonoe maki mono”
Trong vào thế kỷ XVI-XVII.
(487cm x 27,5cm) do họa sĩ Ogata
Hiến tặng bản sao tư liệu Tanko vẽ vào thế kỷ XIX, miêu tả hai
con voi được tướng quân Tokugawa
Yoshimune (1684-1751) mua từ Quảng
Một số tư liệu, hiện vật mà chúng tôi giới thiệu Nam chuyển về Nhật Bản vào năm 1728,
sau đó được đưa vào hoàng cung Kyoto
trong bài viết này đã được các nhà nghiên cứu Nhật “yết kiến” Thiên hoàng Nakamikado
Bản và Việt Nam khảo cứu, công bố trong nhiều (1709-1735) và Pháp hoàng Reigen
công trình nghiên cứu trước đây, cũng như đã được (1654-1732) vào năm 1729.
đưa ra trưng bày ở một vài cuộc triển lãm tại Nhật
Bản, đặc biệt là cuộc triển lãm “The Great Story of Vietnam” do Bảo tàng Quốc gia
Kyushu thực hiện từ ngày 14.6 đến 6.9.2013. Đó là những sử liệu giá trị, cũng là
những kỷ vật ghi nhận mối quan hệ bang giao, thương mại và giao lưu văn hóa giữa
Nhật Bản với Đàng Trong trong lịch sử… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tư liệu và hiện
vật đang được lưu trữ rất nghiêm ngặt trong các thư viện, văn khố, hoặc được thờ tự
ở những nơi tôn nghiêm nên ít người có cơ hội tiếp cận khảo cứu.
Với bài viết này, thông qua Báo Quảng Nam, tôi muốn giới thiệu những tư liệu,
hiện vật đã tiếp cận được với người dân xứ Quảng, nơi từng là cửa ngõ quan trọng
bậc nhất trong mạng lưới hải thương Nhật - Việt vào các thế kỷ XVII-XVIII. Đồng
thời bày tỏ mong muốn hiến tặng bản sao các tư liệu, hiện vật này cho Bảo tàng
Quảng Nam và Bảo tàng Lịch sử văn hóa Hội An để đưa ra trưng bày, nhằm giúp
cho công chúng và du khách hiểu rõ thêm về mối quan hệ mật thiết giữa Nhật Bản
và Việt Nam vào thời kỳ “mậu dịch châu ấn thuyền”.
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
Những biên khảo mới về vua Quang Trung
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
Từ năm 2015 trở lại đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính (học giả người
Việt ở Mỹ) trở nên nổi tiếng ở trong nước, với những biên khảo mới xuất bản
về lịch sử Việt Nam và nhà Tây Sơn.
Học giả Nguyễn Duy Chính đi tìm bức chân dung của vua Quang Trung trong Thư
viện Getty ở California, Hoa Kỳ. Ảnh: T. H.BÍCH
Bộ biên khảo đồ sộ
Từ tháng 9.2015 đến nay, Nguyễn Duy Chính đã gửi 16 đầu sách viết về lịch sử và
văn hóa Việt Nam và Trung Hoa mà ông là soạn giả để xuất bản ở Việt Nam. Trong
đó, có bộ “tổng tập” về cuộc chiến chống lại quân xâm lược Mãn Thanh do Quang
Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo và lịch sử Việt Nam từ thời Lê mạt đến đầu thời
Nguyễn.
Tiêu biểu là các biên khảo: Việt - Thanh chiến dịch (xuất bản năm 2015); Thanh -
Việt nghị hòa. Tiến trình công nhận triều đại Quang Trung (2015); Phái đoàn Đại
Việt và lễ bát tuần khánh thọ của Thanh Cao tông (2016); Giở lại một nghi án lịch
sử “Giả vương nhập cận” - Có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả
hay không? (2016); Lê mạt sự ký (2016); Đại Việt quốc thư (2016); Khâm định An
Nam kỷ lược (2016); Đàng Trong thời chúa Nguyễn (2016)…
Bộ biên khảo đồ sộ nói trên đã đưa Nguyễn Duy Chính trở thành một sử gia có
nhiều nghiên cứu lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 18, đặc biệt là về vua Quang
Trung, triều đại Tây Sơn và mối quan hệ giữa Đại Việt và Trung Hoa sau cuộc
chiến Việt - Thanh (1788 - 1789).
Mới đây, Nguyễn Duy Chính lại tiếp tục xuất bản ba đầu sách mới, theo đề tài mà
ông đã theo đuổi bấy lâu nay: Đi tìm chân dung vua Quang Trung, Nguyễn thị Tây
Sơn ký (đều do Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh xuất bản năm 2019) và Bắc hành
lược ký (Nxb Hội Nhà văn, 2019).
Nguyễn thị Tây Sơn ký là tác phẩm khuyết danh, nhưng nội dung và văn từ của tác
phẩm này cho thấy đó gần như là phó bản của phần viết về ba anh em Tây Sơn
trong Đại Nam chính biên liệt truyện, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Tuy
nhiên cách đánh giá về nhà Tây Sơn, đặc biệt là về Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ,
có những điểm khác, mới và khách quan hơn so với Đại Nam chính biên liệt truyện.
Nguyễn Duy Chính đã dịch tác phẩm này từ chữ Hán, có đối chiếu với Đại Nam liệt
truyện để làm sáng tỏ những điểm khác biệt, những tồn nghi về thân thế của ba anh
em Tây Sơn ghi chép trong Đại Nam chính biên liệt truyện, cho dù “không phải là
những điều gì hoàn toàn mới mẻ, nhưng có thể soi sáng được nhiều chi tiết vốn dĩ
vẫn được coi như bất di bất dịch. Việc đó cũng giúp chúng ta có cơ hội cân nhắc để
lượng định tài liệu về đời Tây Sơn và tìm hiểu những thêm thắt được tiểu thuyết
hóa theo thời gian” (Lời giới thiệu trong sách Nguyễn thị Tây Sơn ký).
Bắc hành lược ký là cuốn “hồi ký chính trị” của Lê Quýnh viết bằng chữ Hán,
được Nguyễn Duy Chính dịch chú và giới thiệu. Lê Quýnh là cựu thần của nhà Lê,
đã tòng vong theo Lê Chiêu Thống sang Trung Hoa sau khi Lê triều sụp đổ và nhà
Thanh bị đại bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt vào cuối năm 1788, đầu
năm 1789.
Tuy chỉ là cuốn hồi ký của một phận người lưu vong, từng bị cầm tù gần 10 năm
trong các nhà ngục ở Trung Hoa, nhưng Bắc hành lược ký lại như một tấm gương
soi phản ánh mối quan hệ giữa nhà Thanh với nhà Lê: khi thắm thiết, khi lạnh nhạt,
khi ruồng rẫy; góp phần vạch trần chiêu bài chính trị “giúp đỡ phiên quốc” của
Thanh triều, mà thực chất chỉ là cái vỏ che đậy những toan tính lớn.
Vua Quang Trung và một giai đoạn lịch sử
Đi tìm chân dung vua Quang Trung là biên khảo đáng chú ý nhất của Nguyễn Duy
Chính trong đợt xuất bản này. Cuốn sách tập hợp 10 bài viết, là các khảo cứu của
Nguyễn Duy Chính và những biên dịch từ các nghiên cứu của người nước ngoài,
liên quan đến vua Quang Trung và quan hệ giao thương giữa Đại Việt và Trung
Hoa vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19 (kèm theo phụ bản chữ Hán và nhiều tranh
ảnh tư liệu quý hiếm và giá trị).
Trong số đó, có những khảo cứu rất quan trọng, như: “Trận Kỷ Dậu từ tài liệu gốc
của nhà Thanh”, “Khảo luận về thuyết Quốc vương An Nam Nguyễn Quang Bình
sang Trung Hoa cuối đời Càn Long là người giả”, “Giải mã một bức tranh”, “Đã
tìm ra chân dung vua Quang Trung?”, “Phúc Khang An và việc khôi phục quan hệ
tông phiên Trung Hoa - An Nam cuối đời Càn Long”, “Khảo cứu về việc quốc
vương Việt Nam Nguyễn Phúc Ánh sai sứ đến triều cống nhà Thanh”…
Nguyễn Duy Chính đã không ngại lao vào những vấn đề rất gai góc như: Người
sang nhà Thanh vào năm 1790 là vua Quang Trung thật hay giả? Bức chân dung do
họa sĩ nhà Thanh vẽ vua Quang Trung liệu có đáng tin hay không? Ông đã lật lại
những vấn đề tồn nghi hoặc chưa tìm hiểu thấu đáo về thời kỳ này, chẳng hạn: con
số thực tế về quân Thanh đã tham chiến và bị chết trong cuộc chiến với quân Tây
Sơn; vấn đề vua Quang Trung sang chúc thọ Càn Long là vua thật hay vua giả; tính
xác thực của bức chân dung vua Quang Trung…
Từ những nỗ lực trong việc sưu tầm tài liệu gốc, đối chứng nhiều tài liệu từ các bên
khác nhau, phân tích nội tình đất nước và quan hệ đối ngoại lúc đó, Nguyễn Duy
Chính xác tín chính vua Quang Trung đã sang Trung Hoa vào năm 1790. Chuyến đi
này là một sự kiện nổi bật, được nhiều tài liệu của Thanh triều ghi nhận. Đây là dấu
mốc quan trọng trong lịch sử bang giao giữa Đại Việt và Trung Hoa, là một thắng
lợi rất vẻ vang của vua Quang Trung về ngoại giao mà các triều đại trước đó chưa
làm được. Chuyến đi này đã thúc đẩy một loạt các hoạt động tiếp theo giữa hai
nước: mở cửa thông thương, thiết lập hòa bình, thúc đẩy cho việc hình thành một
trật tự mới ở vùng Đông Á lúc bấy giờ.
“Nghiên cứu sử là đi tìm sự thật”
Giao lưu với độc giả ở TP.Hồ Chí Minh nhân dịp ra mắt ba cuốn sách nói trên, khi
được hỏi vì sao lại xới xáo câu chuyện chân dung vua Quang Trung, từng bị dư luận
phản ứng trái chiều vào năm 2017, Nguyễn Duy Chính trả lời: “Người nghiên cứu
sử là đi tìm sự thật, chứ không phải tìm sự khen chê của người đời, và rằng, sử học
là khoa học, cho nên nếu sử học tiến bộ, thì phải càng ngày càng tiến gần đến sự
thật hơn”.
Ông cũng bày tỏ quan điểm khi công bố và phân tích sử liệu: “Chúng ta phải đánh
giá đúng tài liệu, đánh giá một cách khách quan chứ không dựa trên cảm xúc. Khi
đó, ta mới tôn trọng tài liệu và sử dụng hiệu quả tài liệu cho công việc nghiên cứu”.
Với một góc nhìn mới, đa chiều trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng và phân tích thấu
đáo các nguồn sử liệu trong và ngoài nước về triều đại Tây Sơn; xung đột nhà Lê -
Tây Sơn, Tây Sơn - Nguyễn; chiến tranh và giai đoạn hậu chiến giữa Đại Việt và
Trung Hoa vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19, Nguyễn Duy Chính đã xác lập một
hướng đi mới, khách quan và khoa học trong cách tiếp cận và nghiên cứu lịch sử
Việt Nam, thông qua các biên khảo đã được xuất bản từ năm 2015 đến nay. Đó
cũng là những đóng góp của ông cho nền sử học nước nhà, đồng thời cũng tạo cảm
hứng cho các nhà sử học trong nước, đặc biệt là những người trẻ trên bước đường
nghiên cứu lịch sử Việt Nam một các khách quan và trách nhiệm.
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
NGUYỄN DUY CHÍNH
Ông sinh năm 1948 tại Sơn Tây, đi Nam cùng gia đình năm 1954, cựu học sinh Chu
Văn An Sài Gòn, cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh Sài Gòn, rời khỏi Việt Nam
năm 1979, Tiến sĩ Quản trị kinh doanh Hoa Kỳ, hiện sống và làm việc tại California.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy
Chính
Cho tới nay, các thành viên của diễn đàn Việt Kiếm (vietkiem.com) vẫn không thể
quên được cái tên Nguyễn Duy Chính, không chỉ như một dịch giả xuất sắc hầu hết
các tác phẩm của đệ nhất tác gia kiếm hiệp Kim Dung, mà còn là tác giả của những
bài viết hay về văn hóa Trung Hoa; và những thành tựu dịch thuật, nghiên cứu này
đã bước vào… sách: Đọc Kim Dung – Tìm hiểu văn hóa Trung Quốc (NXB Trẻ,
2002), Lý thuyết quân sự Trung Hoa (dịch, NXB CAND, 2004).
Nhưng từ giai đoạn 2002-2003 tới nay, Nguyễn Duy Chính chuyển sang nghiên cứu
Sử Việt, cụ thể hơn là Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn.
Ông kể, “cách đây gần 30 năm, khi vừa đặt chân lên đất Mỹ, kiếm được những đồng
tiền đầu tiên, người viết đã đặt mua trả góp ngay một bộ Encyclopædia Britannica,
thuở ấy với giá hơn 2.000 US$, bằng tiền mua một chiếc xe cũ còn tốt.”
Để nghiên cứu có kết quả, ông chuẩn bị tư liệu rất tốt, không kể những gì có thể
khai thác từ Internet, ông tìm và mua bằng được những sách quí có liên quan từ Đài
Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; ông tìm đến tư liệu của các đại học danh
tiếng ở Mỹ, bạn bè ở Pháp; những tư liệu Hán Nôm trong nước, đặc biệt là từ Viện
nghiên cứu Hán Nôm.
Kết quả nghiên cứu của ông được công bố liên tục trên Internet và các tạp chí trong
nước (Nghiên cứu & Phát triển của Sở KH&CN TT-Huế, Xưa & Nay…). Ông công
bố, sửa chữa và lại công bố, nhiều lần. Có thể nói rằng, về căn bản, các cuốn sách
đã xuất bản đều có thể tìm trên Internet. Phần rất mạnh của Nguyễn Duy Chính là
ông đã tìm và sử dụng được nhiều tài liệu mới công bố từ nguồn nhà Thanh (Trung
Quốc), làm thay đổi hẳn nhiều nhận định sử học từ trước tới nay.
Bảng dưới đây là 10 cuốn sách của Nguyễn Duy Chính xuất bản trong vòng một năm
vừa qua, tập trung chính vào mảng Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn
Thể Tên sách Nơi xuất bản Số
loại trang
Khảo Việt – Thanh chiến dịch Văn hóa-Văn nghệ TP 544
cứu HCM
Khảo Thanh – Việt nghị hòa Văn hóa-Văn nghệ TP 388
cứu HCM
Giở lại một nghi án lịch sử “Giả vương
Khảo nhập cận” Văn hóa-Văn nghệ TP 236
HCM
cứu – Có thực người sang Trung Hoa là vua
Quang Trung giả hay không?
Khảo Phái đoàn Đại Việt và lễ Bát tuần Khánh Văn hóa-Văn nghệ TP 484
HCM
cứu thọ của Thanh Cao Tông
Khảo Lê mạt sự ký – Sự suy tàn của triều Lê Dân Trí Books và Khoa 408
học xã hội
cứu cuối thế kỷ XVIII
Tư liệu Khâm định An Nam Kỷ lược Hà Nội 1.080
Tư liệu Đại Việt quốc thư Văn hóa-Văn nghệ TP 408
HCM
Tư liệu Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phương Nam Books và 224
Hội Nhà văn
Tiểu Núi xanh nay vẫn đó Văn hóa-Văn nghệ TP 600
luận HCM
Tiểu Vó ngựa và cánh cung Văn hóa-Văn nghệ TP 516
luận HCM
Tổng số trang 4.888