The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Nhìn lại quá khứ-Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam
Robert S.McNamara

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-09-22 16:28:20

Nhìn lại quá khứ-Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam Robert S.McNamara

Nhìn lại quá khứ-Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam
Robert S.McNamara

THƯ MỤC CÁC TÁC PHẨM XUẤT BẢN ĐƯỢC CHỌN

David Halberstam. Sự hình thành của bãi lầy. New York Random
House, 1965.

Ellen J. Hammer. Cái chết tháng 11: Hoa Kỳ ở Việt Nam, 1963. New York:
Dutton, 1987.

William M. Hammond. Quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, những công việc
chung: Quân đội và các phương tiện thông tin, 1962-1968. Washington:
Trung tâm lịch sử quân sự của Quân đội Hoa Kỳ, 1988.

George C. Herring. Cuộc chiến tranh dài nhất của Hoa Kỳ: Hoa Kỳ và Việt
Nam, 1950-1975, tái bản lần thứ hai. New York: Knopf, 1986.

George C Herring. LBJ và Việt Nam: Một kiểu chiến tranh khác. Austin:
Nhà in Trường Đại học Texas, 1994.

George C. Herring. Ngoại giao thầm lặng của cuộc chiến tranh Việt Nam:
Những tài liệu đàm phán của Lầu Năm Góc. Austin: Nhà in Trường Đại
học Texas, 1983.

Roger Hilsman. Làm suy chuyển một quốc gia: Chính trị của chính sách
đối ngoại trong Chính quyền John F. Kennedy. Garden City: Doubleday,
1967.

Townsend Hoopes. Những hạn chế của việc can thiệp: Một tài liệu nội bộ
về chính sách leo thang của Johnson đã được thay đổi như thế nào. New
York: McKay, 1969.

Walter Isaacson. Kissinger: Tiểu sử. New York: Simon & Schuster, 1992.

Lyndon Baines Johnson. Ưu thế: Những triển vọng của chức Tổng thống,
1963-1969. New York: Holt, Rinchart và Winston, 1971.

Stanley Karnow. Việt Nam: Một lịch sử. Tái bản lần thứ hai. New York:
Viking, 1991.

William W. Kaufmann. Chiến lược McNamara. New York: Harper & Row,
1964.

Doris Kearns. Lyndon Johnson và giấc mơ Mỹ. New York: Harper & Row,
1976.

Henry Kissinger. Ngoại giao. New York: Simon & Schuster, 1994.

Don Kowet. Một vấn đề của danh dự. New York: Macmillan, 1984.

David Kraslow và Stuart H. Loory. Bí mật tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam.
New York: Random House, 1968.

Andrew F. Krepinevich, Jr. Quân đội và Việt Nam. Baltimore: Nhà in của
Trường Đại học Johns Hopkins, 1986.

Anthony Lake. Di sản của Việt Nam. New York: Nhà in của Trường Đại
học New York, 1976.

Guenter Lewy. Người Mỹ ở Việt Nam. New York: Nhà in của Trường Đại
học Oxford, 1978.

Raphael Littauer và Norman Uphoff. Cuộc không chiến ở Đông Dương, tái
bản có sửa đổi. Boston: Nhà in Beacon, 1972.

Edward J. Marolda và Oscar P. Fitzgerald. Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung
đột Việt Nam, tập 2, Từ viện trợ quân sự đến tham chiến, 1959-1965.
Washington: Trung tâm Lịch sử Hải quân, 1986.

Bill McCloud. Chúng ta nên kể gì về Việt Nam cho con em chúng ta?
Norman: Nhà in Trường Đại học Oklahoma, 1989.

Robert S. McNamara. Bản chất của an ninh: Những suy nghĩ khi đương
chức. New York: Harper & Row, 1968.

William M. Momyer. Không lực trong ba cuộc chiến tranh. Washington:
Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1978.

Janne E. Nolan. Sự tham gia toàn cầu: Hợp tác và An ninh trong thế kỷ
XXI, Washington: Brookings Institution, 1994.

Frederick Nolting. Từ niềm tin đến bi kịch: Những hồi ức chính trị của
Frederick Nolting, Đại sứ của Kennedy tại Việt Nam thời kỳ Diệm. New
York: Praeger, 1988..

Bruce Palmer, Jr.. Cuộc chiến 25 năm: Vai trò quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
Lexington: Nhà in của Trường Đại học Kentucky,1984.

Các ghi chép của Lầu Năm Góc: Lịch sử của những quyệt định về Việt Nam
của Bộ Quốc phòng Mỹ, Thượng nghị sĩ Gravel, các tập tái bản lần thứ 5.
Boston: Nhà in Beacon, 1971.

Mark Perry. Bốn ngôi sao. Boston: Houghton Mifflin, 1989.

Richard M. Pfeffer. Liệu còn có những Việt Nam nữa chăng?: Cuộc chiến
tranh và tương lai chính sách của Hoa Kỳ. New York: Harper & Row,
1968.

Richard Reeves. Tổng thống Kennedy: Hồ sơ quyền lực. New York: Simon
& Schuster, 1993.

James Reston. Hạn cuối cùng: Hồi ký. New York: Random House, 1991.

W. W. Rostow. Khuếch trương quyền lực: Một cố gắng trong lịch sử gần
đây. New York; Macmillan, 1972.

Dean Rusk tự sự cùng Richard Rusk. Như tôi đã thấy. New York. Norton,
1990.

William J. Rust. Kennedy ở Việt Nam. New York: Scribner, 1985.

Herbert Y. Schandler. Những điều chưa làm được của một Tổng thống:

Lyndon Johnson và Việt Nam. Princetown: Nhà in của Trường Đại học
Princetown, 1977.

Arthur M. Schlesinger, Jr. Robert Kennedy và Thời đại mình. Boston:
Houghton Mifflin, 1978.

Arthur M. Schlesinger, Jr. Một ngàn ngày: John F. Kennedy ở Nhà Trắng.
Boston: Houghton Mifflin, 1965.
John Schlight. Không lực Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, cuộc chiến tranh ở miền
Nam Việt Nam: Những năm tấn công, 1965-1968. Washington: Phòng Lịch
sử Không quân, 1988.

Robert Shaplen. Cuộc cách mạng thất bại: Nước Mỹ ở Việt Nam. New
York: Harper & Row, 1965.

Deborah Shapley. Lời hứa và Sức mạnh: Cuộc đời và những giây phút của
McNamara. Boston: Little, Brown, 1993.

U. S. Grant Sharp. Chiến lược của thất bại: Việt Nam nhìn lại. Novato:
Nhà in Presidio, 1978.

U. S. Grant Sharp và W. C. Westmoreland. Báo cáo về chiến tranh ở Việt
Nam, 1964-1968. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1968.

Neil Sheehan. Lời nói dối bóng bẩy: John Paul Vann và Hoa Kỳ ở Việt
Nam. New York: Random House, 1988.

Jack Shulimson. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Việt Nam: Một cuộc chiến tranh
mở rộng, 1966. Washington: Phân ban Bảo tàng và lịch sử quân đoàn lính
thuỷ đánh bộ Mỹ, 1982.

Jack Shulimson và Charles M. Johnson. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Việt
Nam: Đổ bộ và Xây dựng lực lượng, 1965. Washington: Phân ban Bảo tàng
và lịch sử quân đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 1978.

Theodore C. Sorensen. Kennedy, New York: Harper & Row, 1965.

Maxwell D. Taylor. Những thanh gươm và những lưỡi cày, New York:

Norton, 1972.

Henry L. Trewhitt. McNamara. New York: Harper & Row, 1971.

Sanford J. Ungar. Báo chí và văn bản: Về trận chiến luật pháp và chính trị
xung quanh những văn bản của Lầu Năm Góc. New York: Dutton, 1972.

Uỷ ban quân dịch của Thượng nghị viện Quốc hội Hoa Kỳ. Không kích vào
miền Bắc Việt Nam: Các cuộc điều trần trước Tiểu ban Điều tra việc sẵn
sàng chiến đấu, 9-29 tháng 8, 1967. Quốc hội thứ 90, kỳ họp thứ nhất,
1967. Nhà in của Uỷ ban.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, 1961-1963, tập 1,
Việt Nam, 1961. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1988.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, 1961-1963, tập 2,
Việt Nam, 1962. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1990.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, 1961-1963, tập 3,
Việt Nam, 1-8/1963. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1991.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, 1961-1963, tập 4,
Việt Nam, 8-12/1963. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1991.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, 1964-1968, tập 1,
Việt Nam, 1964. Washington: Nhà in của Chính phủ Mỹ, 1992.

Brian VanDeMark. Đi vào bế tắc: Lyndon Johnson và việc leo thang chiến
tranh ở Việt Nam. New York: Nhà in Trường Đại học Oxford, 1991.

Các cuộc điều trần về Việt Nam. Do J. William Fulbright giới thiệu. New
York: Vintage Books, 1966.

William C. Westmoreland. Ghi chép của một người lính. Garden City:
Doubleday, 1976.

LỜI CẢM ƠN

Tôi biết ơn sâu sắc nhiều người và nhiều cơ quan về sự giúp đỡ của họ
trong việc hoàn thành cuốn sách này. Nhưng Brian VanDeMark là người
tôi mang ơn nhiều hơn cả.

Trong suốt bảy năm làm Bộ trưởng Quốc phòng, tôi không viết nhật ký và
khi rời Lầu Năm Góc, tôi chỉ mang theo người một cặp bìa ba đai đựng các
thư báo tối mật của tôi trình lên Tổng thống Kennedy và Johnson. Lẽ ra tôi
đã không nhận viết cuốn sách này nếu như Brian, một giáo sư sử học trẻ
của Học viện Hải quân Mỹ ở Annapolis, tác giả cuốn Lún vào bãi lầy viết
về Việt Nam, và là người hỗ trợ cho Richard Holdbrooke trong việc viết
cuốn tự sự của Clark Clifford, không đề nghị sẽ giúp tôi. Trước hết, nhiệm
vụ của anh là bảo đảm rằng tôi giữ trung thành với các ghi chép và băng
ghi âm hiện có, nếu có thể được, và nếu có điều gì trái ngược với trí nhớ
của tôi thì đã có những ghi chép đó. Và anh ta thực hiện nhiệm vụ hoàn
thiện tác phẩm.

Nhưng anh còn làm được hơn thế nhiều. Chúng tôi đã bắt đầu bằng việc
chia thời gian bảy năm liên quan tới Việt Nam của tôi thành các giai đoạn.
Với mỗi một giai đoạn, anh ta lại tìm kiếm và trích những tài liệu từ các
thư viện của các Tổng thống Kennedy và Johnson, các hồ sơ lưu trữ của Bộ
Quốc phòng, Cơ quan Lưu trữ quốc gia và cả các nguồn công khai khác.
Ngoài ra, còn có tư liệu từ các cuộc phỏng vấn riêng, các nhân chứng sống,
thư trả lời các câu hỏi được viết sẵn, các bài báo và sách đã được xuất bản.
Từ tất cả những nguồn đó, Brian đã cung cấp cho tôi một bộ “hồ sơ”, đúng
ra là hàng trăm tài liệu ở mỗi một giai đoạn. Dựa trên những tài liệu này,
tôi viết bản thảo đầu tiên cho mỗi chương. Sau đó Brian soát lại bài viết
của tôi để kiểm tra lại độ chính xác về lịch sử. Trong quá trình này, anh đã
làm bài viết cân đối và rõ ràng. Đúng ra mà nói, tôi đã không thể viết nổi
cuốn sách này nếu không có sự cộng tác của anh.

Nhiều người khác cũng đã rộng lòng giúp đỡ tôi trong việc chuẩn bị viết
cuốn sách.

Tôi cảm ơn những người đã chia sẻ các bài viết của họ với tôi, cụ thể là
Raymond Aubrac, McGeorge Bundy, William Bundy, Roswell Gilpatric,
Nicholas Katzenbach, Phó Đô đốc Eugene Caroll và Đô đốc Hải quân Mỹ
đã về hưu R. LaRocque, Paul Warnke và Adam Yarmolinsky.

Có những người đã giúp tôi rất nhiều trong việc đọc bản thảo một cách kỹ
lưỡng và có phân tích, dẫu là toàn bộ hay một phần tác phẩm, như:
McGeorge Bundy, William Bundy, Douglas Cater, Chester Cooper, Ben
Eisman, Clayton Fritchey, Ginsburg Marion và Vernon Goodin, Phil
Goulding, David Humburg, Nicholas Katzenbach, Ernest May, Blanche
Moore, Rechard Neustadt, Robert Pastor, Walter Pincus, Trung tướng
không quân về hưu Robert Pursley, Elliot Richardson, Thomas Schelling,
Arthur Schlesinger (Jr.), Paul Warnke, Thomas Winship, và Adam
Yarmolinsky. Tôi đã không chấp nhận tất cả những lời gợi ý của họ, một số
người đã đưa ra những quan điểm khác hoặc không đồng tình với lời nhận
xét của tôi, dẫu sao tôi vẫn ghi nhận (và đánh giá cao) từng người trong số
họ.

Còn có nhiều người đã giúp tôi theo những cách khác nhau.

William Gibbons và George Herring, hai học giả về Việt Nam nổi tiếng, đã
sẵn lòng cho tôi tham khảo bản thảo của các chuyên khảo của họ trước khi
cho xuất bản. Nicole Ball đã nghiên cứu số người bị chết bởi các cuộc
chiến tranh ở thế kỷ XX. Martin Kaplan đã tạo thuận lợi cho việc trao đổi
thư từ của tôi với Raymond Aubrac. Blanche Moore đã giúp tôi về các bản
dịch và tranh ảnh. Còn John Newman thì giúp tôi về tất cả các tài liệu tình
báo.

Sở dĩ tôi đã chọn Random trong số bốn nhà xuất bản để in cuốn sách này là
vì Peter Osnos, Giám đốc Phân ban Times Book của nhà xuất bản. Peter là
một biên tập viên tuyệt vời, uyên bác và đã tham gia vào việc viết sách
cùng với tôi ngay từ đầu. Anh ta đã khuyến khích tôi vào những lúc thích
hợp và động viên tôi vào những lúc tưởng chừng như tôi sắp sửa bỏ cuộc.
Anh ta và cộng tác viên biên tập của mình là Geoffrey Shandler đã làm rất
nhiều việc để hoàn thiện dàn bài và mạch chuyện. Những nhân viên khác
của Nhà xuất bản Random, những người đã giúp xuất bản cuốn sách này

như biên tập viên sửa bản in Susan M.S. Brown, nhà thiết kế trình bày
Naomi Osnos, bộ phận in ấn và quảng cáo cho cuốn sách, tất cả đã làm
việc nhiệt tình và có hiệu quả.

Tôi luôn dựa vào nhận xét và lời khuyên quý báu của Sterling Lord, người
giúp tôi về mặt văn học. Lord đã nhiệt tình giúp phát triển dự án này từ
chỗ trứng nước tới khi hoàn thành.

Nỗ lực của tôi đã được Bộ Quốc phòng giúp đỡ và tạo nhiều điều kiện:
Mfred Goldberg, nhà sử học của Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng và các
cộng sự của mình là Stuart Rochester, Lawrence Kaplan, Ronald Landa và
Steven Rearden đã đọc bản thảo để vừa soát lỗi vừa đặt câu hỏi cho những
chỗ khó hiểu. Họ đã đưa ra nhiều gợi ý hữu ích. Giám đốc hành chính và
Quản trị lâu đời của Lầu Năm Góc, “Doc” Cooke, đã khẩn trương giúp đỡ
các yêu cầu của tôi về tư liệu. Harold Neeley, phụ trách ghi âm tại Văn
phòng Bộ trưởng Quốc phòng cùng với Brian Kinney và Sandra Meagher
thuộc Ban loại bỏ tài liệu khỏi danh sách bí mật quốc gia và nghiên cứu
lịch sử đã đưa ra một loạt các tài liệu hữu ích khác nhau. Ban Lịch sử của
Bộ Tham mưu liên quân cũng đã xử lý các bức thư được phân loại một
cách nhanh chóng và hiệu quả.

Mặc dù bận rộn, nhưng bốn quan chức trong Chính phủ đã dành thời gian
để tiến hành tìm kiếm những hồ sơ thuộc quyền hạn của họ trong các báo
cáo của tôi tại Lầu Năm Góc và trong các Kho lưu trữ quốc gia, đó là cựu
Bộ trưởng Quốc phòng Les Aspin; Ngoại trưởng Warren Christopher; Cố
vấn An ninh quốc gia Anthony Lake; và Cựu Giám dốc CIA Woolsey. Tôi
cảm ơn tất cả những người đó.

Lần đầu tiên, những hồ sơ trước kia bị hạn chế hoặc không được phép đưa
ra, nay được sử dụng tại đây, đã tỏ ra có giá trị đặc biệt trong công việc
chuẩn bị cho cuốn sách của tôi. Đó là hồ sơ về “Lịch sử Bộ Tham mưu liên
quân và cuộc chiến tranh Việt Nam” của Bộ Tham mưu liên quân đã được
công khai hoá; những cuốn băng ghi âm các bài phát biểu của Tổng thống
Kennedy trong các cuộc họp về Việt Nam tại Nhà Trắng vào mùa thu năm
1963; băng ghi các cuộc nói chuyện bằng điện thoại của Tổng thống
Johnson trong khoảng thời gian từ năm 1963 đến năm 1968. Tôi xin cảm
ơn Tướng John Shalikashvili, Burke Marshall và Harry Middleton vì đã

thu xếp cho tôi được nghe các cuốn băng quan trọng đó.

Nhiều cơ quan khác đã sẵn lòng giúp đỡ đúng lúc và vô cùng cần thiết, và
tôi mong muốn được ghi nhận những đóng góp của họ ở đây: Thư viện
John Fitzgerald Kennedy, Boston, Massachusetts: Charles Daly, Bradley
Gerratt, Suzanne Forber, Mary Boluch, Stuart Culy, Allan Goodrich,
William Johnson, June Payne, Maura Porter, và Ron Whealan; thư viện
Lyndon Baines Johnson, Austin, Texas: Harry Middleton, Regina
Greenwell, John Wilson, Claudia Anderson, Jacquie Demsky, Jeremy
Duval, Ted Gittinger, Linda Hanson, Tina Houston, Mary Knill, Irene
Parra, Philip Scott và Jennifer Warner; Phòng Lịch sử Bộ Ngoại giao:
William Zlany, David Hamphrey, và Glann LaFantasie; trung tâm Lịch sử
Quân sự: Vincent Demma; Phòng Lịch sử Không quân: Wayne Thompson;
Phòng Quản lý và Thông tin của Ủy ban An ninh quốc gia: Nancy Menan
và David Van Tassel; Văn phòng Kho Lưu trữ quốc gia của các Thư viện
Tổng thống: John Fawcett và Edie Price.

Cô Jeane Moore, cô thư ký không hề có một lời phàn nàn của tôi đã làm
việc trong suốt bao nhiêu đêm và bao nhiêu kỳ nghỉ cuối tuần với một số
lượng bản thảo và những lần sửa đổi nhiều không sao đếm xuể để ra được
sản phẩm cuối cùng này.

HẾT


Click to View FlipBook Version