The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa và Người Sài Gòn Sơn Nam

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-12-22 23:39:14

Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa và Người Sài Gòn Sơn Nam

Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa và Người Sài Gòn Sơn Nam

Phá sơn lâm là phá rừng, đốn củi, khai hoang. 51
Đâm Hà Bá là làm nghề chài lưới ở sông, biển.
Nghề cây củi xưa, đánh cá ngày nay tuy đem lợi tức
nhanh chóng nhưng không bền bằng nghề ruộng. Lợi
tức từ rừng, sông, biển tùy thuộc vào sự may mắn hơn
là chăm chỉ. Khi được tiền, người khai thác nghề này dễ
có xu hướng ăn chơi, cờ bạc vì thấy đồng tiền dễ kiếm,
gặp lúc suy, trở thành tay trắng.
Làm ruộng chắc ăn hơn, sau vài năm trúng mùa
dễ tu bổ nhà cửa vườn tược, nhưng cần đến sự kiên
nhẫn, nhứt là nơi mới khai phá, nhanh nhứt phải qua
ba năm mới tạm ổn. (Vì vậy, ngày xưa bày lệ miễn
thuế ba năm cho người mới khẩn hoang). Ba năm đầu
còn dọ dẫm về địa chất, mưa nắng, thủy triều, chọn
giống lúa, chọn thời điểm gieo cấy. Và, còn phải đối
phó với bệnh tật, với thú dữ. Đất giồng còn hoang vu
là nơi “xuống sông hốt trứng sấu, lên bờ xỉa răng cọp”!
“Hùm tha, sấu bắt” là lời nguyền rủa mà cũng là
lời thương xót muôn đời, dịp rằm tháng Bảy, những
nạn nhân ấy được cúng tế trong thập loại chúng sinh.
Ở nước ta, chuyện về cọp dữ nghe vào thời đại xa xưa,
từ Lạng Sơn, qua Trường Sơn, tới miền Đông Nam Bộ,
tận Mười tám Thôn Vườn Trầu, sát nách chợ Sài Gòn.
Điều làm cho nhiều người ngạc nhiên: cọp sống giữa
sình lầy nước mặn, ở bãi bùn nước lợ với rặng dừa nước
dày bịt, hoặc trên gò đất với vài cây kè, cây gừa giữa
cỏ thấp, bên đám tràm lưa thưa.

SƠNNAM Đất thấp và trống trải, cọp vẫn có thể tạo căn cứ,
kết bầy, sanh con. Hồi thế kỷ XVII và XVIII, Gia Định
ĐẤT Thành Thông Chí ghi rằng trẻ con, đàn bà cầm liềm cắt
GIA ĐỊNH cỏ, cầm đòn xóc cũng chống cự và đuổi được cọp. Thái
độ của người dân đối với cọp cũng lạ: vừa kính nể, xem
XƯA như vị thần nhưng cũng coi thường nếu cần thì rủ nhau
đi săn bắt, giết không nương tay.

Ở đồng bằng và bờ biển, cọp sống với thức ăn lý
tưởng là nai và heo rừng. Hai loại này ăn cỏ, ăn lau sậy,
thích nằm vũng cho mát. Cù lao Nai, Cù lao Heo ở gần
vàm biển là bằng cớ mức độ heo và nai thời trước khá
cao, vì vậy cọp cũng lội qua sông tới cù lao, tuy đất
hẹp nhưng dễ sống. Nai thì chịu thua cọp, chỉ biết lẩn
tránh, nhưng heo rừng to con, gặp vị trí thuận lợi, có
thể chống cự.

Đất giồng gần bờ sông, nhiều cây da, cây gừa mọc
um tùm. Rừng nào cọp nấy, vì vậy cọp tìm cách bám
giữ địa bàn cũ, đổi vùng thì khó giành đối thủ khác.
Heo rừng và nai hay bén mảng đến mấy đám rẫy gần
nhà. Lúc mới khẩn hoang, nơi nào có cọp, người làm
rẫy được yên tâm vì cọp săn bắt heo, nai, gián tiếp bảo
vệ nương rẫy.

Còn nhiều giai thoại lưu truyền về những “thầy võ
cọp” từ Bình Định vào Nam, ra sức giúp đồng bào, vì
nghĩa. Ông Tăng Ân và đệ tử là Trí Năng giết cọp vào
dịp Tết tại chợ Tân Kiểng (Sài Gòn, năm 1771); ông
Tăng Ngộ đuổi cọp để khẩn hoang, đắp đường ở Cần
Giuộc. Người từng đánh cọp nắm được quy luật: cọp

quỳ chân sau, chống chân trước là đang chờ đợi trước 53
khi vồ mồi, cọp chạy theo thế bò sát rồi phóng tới. Đuôi
cọp phe phẩy hoặc để ở phía nào cũng là chỉ dẫn để ta
đoán trước hướng tấn công. Người đánh cọp thường dùng
cây roi nặng, cứng, chắc. Có chuyện khó tin kể rằng võ
sĩ cao cường có thể đánh cọp bằng tay không. Khi cọp
nhảy tới, võ sĩ hụp xuống, nắm hai chân trước của cọp
rồi dùng đầu mà đội lên, miệng cọp không hả ra được,
nanh cọp trở thành vô hiệu! Nhưng theo sự tổng kết có
thể tin được, trước khi giết cọp, phải đánh nhừ tử vài hiệp
cho nó mệt. Nhiều con cọp, từng đánh nhau với người
nên khôn ngoan, dùng thế hiểm độc là nằm ngửa bụng
lên, nhìn đối thủ qua hai chân trước và hai chân sau. Với
tư thế ấy, cọp dưỡng sức chờ thời cơ. Ai nôn nóng, xốc
tới đánh, cọp sẽ chụp roi, giữ chặt, người mạnh khỏe
cũng không tài nào dằng ra nổi, cọp thừa cơ mà vồ trong
nháy mắt. Buông roi để chạy thì càng mau chết. Miếng
võ ấy của cọp gọi là thế “trâu giằn”. Nhiều khi người
đi đường gặp cọp lại quá bối rối, chắp tay xá, mặt mày
mếu máo, cọp lại hoảng sợ vì thấy chuyện không bình
thường, cong đuôi chạy trốn. Ở rừng miền Đông, chủ
xe dùng tỏi thoa vào mũi bò, bò không đánh hơi được
nên ung dung kéo xe, không dừng từng chập khi nghe
mùi cọp trong rừng bay ra. Ở rừng ven biển, người đi
đốn cây, thường đem theo đứa bé ngồi trên xuồng, đánh
trống nhỏ “tung tung” liên hồi để đuổi cọp. Khi bị giết,
bị thương, lắm khi cọp trở lại đông đảo hơn, như khiêu
khích, tỏ ý bám giữ địa bàn làm ăn của chúng “rừng nào

SƠNNAM cọp nấy”. Ở miền Đông, kỹ thuật làm bẫy cọp, săn cọp
khá tinh tế, vào thời chưa có súng. Tuần báo Nam Kỳ địa
ĐẤT phận (1909) dành để phổ biến giáo lý đạo Thiên Chúa
GIA ĐỊNH mà còn đăng tải những tin tức về cọp, như là thời sự.
Mãi đến sau những năm 1930, cọp vẫn còn lảng vảng ở
XƯA Rạch Giá, Cà Mau, ở Bảy Núi.

Lúc mới khẩn hoang, thầy võ đánh cọp không nhiều,
thông thường là đồng bào đứng lên tự vệ, trong gia đình,
ở láng giềng, dù có cọp tới lui, giết người, đồng bào vẫn
bám đất kiên trì. Cù lao Dung ở ngay vàm sông Hậu, diện
tích rộng lớn gồm ba xã, một thời gọi là Hổ Châu vì cọp
khá nhiều. Ở Sa Đéc, còn tên đất Hổ cứ. Chuyện “bà mụ
cọp” được phổ biến cùng với chuyện nuôi cọp trong nhà,
thay chó. Rạch “Ông” ra, Rạch “Ông” rầy... hãy còn, đánh
dấu bước đầu gay go mà người khẩn hoang dám đi lẻ tẻ
vào đồng cỏ, rừng chồi, phải đối phó ngày đêm với năm,
ba con cọp liều lĩnh, tinh khôn đang bám mấy đám cây
gừa, cây kè trên vài gò nỗng: cọp “ra” tìm mồi “rầy la”
nổi giận. Hoặc còn tổng Ăn Thịt ở vùng Cần Giờ, nơi cọp
hay ăn thịt người, phải nói gọn lại vì kiêng cữ là An Thịt.

Có người nói ở miền Nam không gọi con đầu lòng là
con “cả” vì kiêng ông Hoàng Cả (tức Hoàng tử Cảnh),
nhưng giải thích chức vụ đại hương cả trong làng (gọi
tắt là ông Cả) ngày xưa dành cho cọp thì dễ thuyết phục
hơn. Người ta không dám gọi to, mắng nhiếc hoặc đánh
đập “thằng cả”, e động lây. Giai thoại về cọp hằng năm
đến miễu ăn đầu heo rồi nhận tờ cử chức đại hương cả
còn phổ biến trong dân gian.

Sau cọp, phải nhắc đến sấu, phân biệt hai loại sấu 55
cá, và sấu lửa.

Sấu cá hiền lành, nhỏ con, thời xưa sống nhung
nhúc quanh Biển Hồ và đất trũng bên Campuchia, tràn
xuống vùng Láng Linh, Đồng Tháp Mười và rừng tràm
Cà Mau. Đến mùa, lái sấu dùng ghe to chở về dự trữ
trong vòng rào ở ven sông bán thịt hàng ngày, cắt từng
khúc đuôi, từng cái chân nhưng sấu vẫn sống (có rạch
Cầu Sấu ở Sài Gòn). Người địa phương đốt đuốc ban
đêm, dùng gậy gộc đập xuống nước ven bờ, cả xóm hò
hét để đuổi bầy sấu lên đồng cỏ, vào vườn. Trên cạn,
sấu trở nên vụng về, dễ bắt. Trong Gia Định Thành
Thông Chí, Trịnh Hoài Đức còn mô tả “Con sấu nhỏ
tầm thường người ta câu bắt, ở nước thì nuôi trong cái
bè, trên đất thì nuôi trong chuồng rồi đem bán cho hàng
thịt, da bán phơi khô, răng làm cán đồ dùng”.

Sấu lửa cũng được mô tả như loại sấu da màu vàng
- đen lớn bằng chiếc ghe, rất dữ tợn, thường lấy đuôi
đập cho con người ngã xuống sông để nuốt. Loại sấu
này tìm những gốc cây cong và thấp dọc bờ sông để giả
khúc cây trôi, nên có người lầm đến gần bị nó cắn, liền
khi ấy, nếu bị thương nhẹ thì nạn nhân leo luôn trên cây
để tránh khỏi. Ta hiểu thời xưa, nhiều người thích đến
những cây bần quỳ ở mé bãi ngồi hóng mát, thường bị
sấu táp. Sấu dữ còn gọi là sấu hoa cà vì da có nhiều đốm
trắng đen lẫn lộn, thấm chất lân tinh trong nước biển nên
đêm thường phát ra từng đốm sáng; thời xưa nghĩ rằng
đốm sáng oan hồn người chết còn lẩn quẩn, dẫn đường

SƠNNAM cho sấu đi. Trịnh Hoài Đức nhắc chuyện con sấu to ở
Bến Tre, biệt danh “Ông Luồng” ngang nhiên chặn đón
ĐẤT ghe xuồng qua lại. Cũng còn chuyện một thầy câu sấu
GIA ĐỊNH mà “người ngoại quốc nghe còn khiếp sợ” đã dùng lưỡi
câu to, móc con vịt sống vào làm mồi, nối theo lưỡi câu
XƯA có sợi dây chắc và dài. Thợ câu xuống sông, ôm theo
con vịt để nhử. Sấu đến, há miệng, thợ câu ném con vịt
vào, sấu táp nhanh nên mắc câu. Dân trên bờ rủ nhau
kéo dây đem sấu lên. Dưới nước, sấu không há miệng,
không thở được, muốn táp mồi, phải trồi lên tìm không
khí. Nắm được quy luật ấy, nhiều thợ câu dạn dĩ, hồi
cuối thế kỷ XIX, không cần đến con vịt mồi nữa. Thợ
câu dùng thế lội (bơi) đứng - với thế này sấu không táp
được - một tay quạt nước, tay kia cầm cái nón lá để che
phủ đầu và cái lưỡi câu. Đánh hơi thịt người, sấu ngờ là
gặp kẻ sắp chết đuối nên lại gần, thừa lúc ấy, thợ câu
rình ném cái lưỡi câu vào miệng sấu.

Một kiểu lấy thân mình làm mồi để bắt sấu.
Tai nạn cá sấu phổ biến hơn cọp và kéo dài nhiều
năm. Năm 1880, trong vòng hai tháng, đồng bào trong
rạch Cổ Cò (Sóc Trăng) đã câu 189 con sấu để lãnh
thưởng, chánh quyền thực dân phải rút tiền thưởng xuống
vì tiền thưởng quá lớn. Sấu thưa dần vì xóm làng đông
đúc, ghe thuyền tấp nập vào những năm đầu thế kỷ XX,
tàu thủy với chân vịt quạt nước làm náo động. Sấu đẻ
trên bãi, mỗi lứa từ 15 đến 20 trứng, từng cặp “đực cái”
chiếm lĩnh một khúc sông làm địa bàn riêng, ẩn núp
khéo léo ở mé lá dừa, theo vịnh nước sâu. Dùng súng

bắn khó thâu kết quả: óc của sấu rất nhỏ, xương sọ lại 57
cứng, đạn dễ trợt, khó lủng. Hồi người Pháp mới đến,
ngay trên sông ngoại ô Sài Gòn hãy còn tai nạn sấu.

*
**

Ca dao:
Chiều chiều vịt lội cò bay

Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng...

Voi được gọi là ông; ông bồ, ông tượng của vùng cao
nhưng một thời đã sống khắp đồng bằng sông Cửu Long,
tận đất giồng ven biển, ngao du qua đồng cỏ theo định
kỳ và theo lộ trình không thay đổi, ăn chưa no thì phá
và dậm đạp rẫy mía, rẫy bắp, đủ bản lãnh trở lại nhiều
ngày liên tiếp, không sợ tiếng trống, tiếng pháo. Khỏi
Sài Gòn, hãy còn tên đất Giồng Tượng. Ở Gò Công,
còn Mương Dục (dục: tắm rửa, nơi voi tắm và uống
nước), cầu Long Tượng, Giếng Tượng, Lung Tượng,
Láng Tượng còn rải rác ở các tỉnh miền Tây. Voi đi từng
bầy, dậm đất sình, lâu ngày trở thành đường nước. Voi
chuộng nơi lung, bàu vì phải uống nước nhiều hằng ngày.
Cuối năm 1865, tại hội chợ Sài Gòn có triển lãm một
cặp ngà voi quá mức bình thường, nặng 140 kí-lô-gam,
voi ấy bị bắn tại Đồng Tháp Mười. Năm 1903, khi thực
dân Pháp cho đào kinh Ngã Bảy (Phụng Hiệp) voi mất
môi trường sống nên đi xuống vùng Sóc Trăng, người
Pháp nhờ thợ săn chuyên dụ voi từ Campuchia xuống

SƠNNAM giải quyết. Và theo Nguyễn Liên Phong là người đương
thời kể lại, hàng năm đến mùa lụt sông Cửu Long, voi
ĐẤT từ sông lớn (Cửu Long) đến cánh đồng lau sậy ở Phụng
GIA ĐỊNH Hiệp hàng trăm con, sanh đẻ thêm, phá bờ ruộng, đạp
lúa, gây thiệt hại đáng kể. Những tay thiện xạ dùng súng
XƯA bắn được 40 con.

Trâu rừng xuất hiện ở rừng Tây Ninh, Đại Nam
nhất thống chí ghi ở tỉnh Vĩnh Long cũng có. Trâu
rừng thường bị tiêu diệt vì bịnh toi. Mức tàn phá của
trâu rừng rất đáng kể, làm hư mùa màng. Hồi Pháp đến,
năm 1871, có nghị định thưởng bằng tiền mặt cho người
giết được trâu rừng.

Nai sống từng bầy, ăn cỏ đồng hoang, phá hoại hoa
màu, nhiều đến mức nay hãy còn tên đất: Rạch Cái Nai,
Rạch Cái Hươu...

Heo rừng gây thiệt hại dai dẳng, không riêng gì
miền Đông. Vùng rừng tràm, rừng sác gần biển, nhiều
heo rừng. Heo rừng ăn cỏ, thích ăn lau sậy, thợ săn
phải dè dặt vì khi bị thương, heo chống trả rất dữ. Cù
lao Heo, Vàm Trư (heo), Rạch Dày Heo, không là tên
đặt tùy hứng.

Rắn thường được nhắc tới, nguy hiểm nhất là rắn hổ
đất, rắn mái gầm. Khi ngập lụt, rắn lên ngọn dừa, vào
nhà bếp, quấn xà nhà. Giai thoại về rắn to, rắn thần cũng
như tài ba của những thầy rắn “sinh nghề tử nghiệp”
được kể lại, phổ biến.

Ở rừng bần ven sông, ở rừng tràm, các giống khỉ
xuất hiện dạn dĩnh, từng bầy kêu hú vang dội khi mặt

trời mọc và khi mặt trời lặn, gợi nỗi buồn sâu đậm cho 59
người xa xứ.

Chuột xuất hiện đông đảo bất thường, tàn phá ruộng
nương một lúc đôi ba xã, như một thứ tai trời ách nước,
con người khó chống trả (bài Hịch đuổi chuột của Đồ
Chiểu).

Miền nhiệt đới là thiên đường của côn trùng (mọt,
mối, kiến, rít, ong) và của vi trùng gây những chứng
bịnh nhiệt đới. Muỗi, mòng, đĩa, vắt, bốn loại trực tiếp
quấy rầy. Ngày trước, bịnh sốt rét hình như không ai
thoát khỏi, không nặng thì nhẹ.

Tuy không bị ảnh hưởng bất thường của bão lụt,
đất Gia Định xưa cũng không thuận tiện lắm cho việc
khẩn hoang, vì không có phương tiện cơ giới. Có câu
thai đố từ miền Trung một thời phổ biến vào Nam, đến
nay còn nhắc nhở, có thể sai lạc vài chữ, chưa có ai giải
thích nghe thật ổn:

Ba cây mía đóng tía song song,
Đèn thương ai đèn tắt?
Nước thương ai nước rặc về Đông?(1)
Gái có chồng còn thương nhớ,
Trai có vợ còn nhớ thương,
Nằm trên giường còn thương nhớ,
Rớt xuống đất còn nhớ thương.

1 Nước rặc là nước cạn xuống, nước ròng. Về Đông là chảy ra biển Đông.

Đóng tía song song là gì? Là ba cái đầu ông Táo
chăng? Trai gái đều nhớ thương nó, khi nằm trên giường
và khi nó rớt xuống đất vẫn nhặt lên, tâng tiu.

Đáp: Hột cơm.
Cơm thân thiết với người như máu với thịt, là lẽ sống.
Vì muốn cơm dư dả, người xưa đã chấp nhận thử thách
ở miền đất mới với bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm.

SƠNNAM
ĐẤT

GIA ĐỊNH
XƯA

BƯỚC ĐẦU
LẬP NGHIỆP

61

TRONG PHỦ BIÊN TẠP LỤC, LÊ QUÝ ĐÔN
CÒN gợi lại kiểu làm ăn buổi đầu của những người từ
miền Trung vào khẩn hoang. Người giàu ở theo từng địa
phương hoặc bốn, năm mươi nhà hoặc hai, ba mươi nhà;
mỗi nhà điền nô có đến năm, sáu mươi người, trâu bò
đến ba, bốn trăm con, cày bừa cấy gặt, rộn ràng không
rỗi, hàng năm đến tháng mười một, mười hai thường giã
thành gạo, bán lấy tiền ăn Tết chạp. Từ tháng Giêng trở
đi là không làm công việc xay giã nữa. Bình thời chỉ
đem gạo ra Phú Xuân để đổi lấy hàng Bắc, lụa lãnh trừu
đoạn, quần áo tốt đẹp, ít có vải bô. Đất ấy có nhiều ngòi
lạch, đường nước như mắc cửi, không tiện đi bộ. Người
buôn có chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ để đi
thông các kinh. Từ cửa biển đến đầu nguồn đi sáu, bảy

SƠNNAM ngày, hết thảy là đồng ruộng, nhìn thấy bát ngát, rộng
phẳng như vậy rất hợp với việc trồng lúa, trồng nếp tẻ,
ĐẤT gạo đều trắng dẻo.
GIA ĐỊNH
Ông còn nói thêm: Gia Định rất nhiều cau.
XƯA Đoạn ghi lại ngắn gọn này cho ta thấy cách khai
thác, khu vực canh tác, cách lưu thông hàng hóa sản
xuất được. Đó là cách khai thác theo kiểu điền chủ lớn,
kiểu nông trại, theo lối quang canh.
Khu vực mà ông quan sát được mô tả là ăn thông
ra Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại, đất rừng rậm
được dọn bằng phẳng, có nhiều rạch nhỏ phải đem theo
xuồng mới đi lại được. Ta đoán là vùng Cần Đước, Rạch
Kiến, vùng Gò Công, quanh chợ Mỹ Tho. Vùng Cai Lậy
mà Gia Định Thành Thông Chí gọi là Ba Lai Bắc, là
vùng khá trù mật về nông nghiệp và buôn bán, chiếm vị
trí chiến lược quan trọng đến mức đô đốc Trấn của Tây
Sơn phải huy động dân binh để đào kinh tắt, cắt ngang
vào năm 1785, nối ngọn Rạch Chanh đến ngọn Rạch
Ba Rài (viết là Ba Lai) nay là kinh Bà Bèo.
Trâu bò nhiều ba, bốn trăm con có lẽ là quá đáng,
không thể quản lý nổi - trâu bò thường mắc bịnh toi, vả
lại số điền nô để có năm, sáu mươi người; không cần
thiết cho việc canh tác, trừ phi nuôi trâu bò để bán lại.
Số điền chủ tập trung từ hai đến năm mươi người không
quá đáng, nếu ta hiểu đó là một khu vực lớn như một
huyện ngày nay.
Nên giải thích rõ hai chữ “điền nô”: đây không phải
là chế độ nô lệ theo nghĩa cổ điển, mà là những người “ở

bạn” (như bạn chèo ghe, bạn ghe chài), một hình thức 63
làm mướn dài hạn. Chế độ “ở bạn” vẫn còn duy trì cho
đến khi Pháp đến và còn kéo dài ở các tỉnh miền Tây
sau này cho đến trước năm 1945, như bóng với hình của
chế độ điền chủ lớn. Người ở bạn làm việc theo kiểu cố
nông. Trường hợp ở bạn để trừ nợ cũ thì gọi là “ở đợ”.
Thời hạn ở bạn được quy định theo thời vụ đồng áng,
từ lúc sa mưa bắt đầu cày cấy vào tháng Tư âm lịch cho
đến lúc gặt, hái, xay, giã vào dịp Tết. Điền chủ đã tính
toán kỹ, nếu mướn người ở bạn cả năm chỉ thêm tốn
tiền vì những tháng sau mùa gặt, trời chưa mưa, công
việc rất ít, chỉ cần vài gia nhân cũng đủ. Trong những
tháng làm mùa, người ở bạn phải thức khuya dậy sớm,
đến nhà chủ ăn cơm rồi nhận việc cày ruộng, phát cỏ,
gieo mạ, trưa lại về ăn cơm của chủ, nghỉ ngơi đến xế
lại ra làm việc vặt vãnh như tu bổ ghe xuồng, nông cụ
cho tới cơm chiều rồi về. Người ở bạn được trả công
bằng tiền mặt và một số lúa cho vợ con ăn, ngoài ra
thêm chút ít quần áo, trầu cau, thuốc hút. Đã vô ở bạn
rồi, không được tự ý nghỉ việc hoặc sang làm cho chủ
khác. Nhiều người nghèo thích ở bạn, vì tuy cực thân
nhưng nhẹ đối phó với quan làng về thuế thân, khỏi
vay nợ vụn vặt, khỏi lo mùa màng thất bát. Ngược lại,
thường mang tệ cờ bạc rượu chè, nhiều khi do điền chủ
bày ra, lắm người ở bạn phải vay thêm nợ mới.

Về canh tác, ta sớm biết thích nghi với thời tiết, thổ
nhưỡng, tùy theo đất mà cày hoặc không cày. Từ xưa,
đã có những vùng làm ruộng cày và những vùng chỉ

SƠNNAM phát cỏ rồi cấy, chớ không cần cày. Vùng gần Sài Gòn,
Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Soài Rạp phải cày trâu.
ĐẤT Hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu nhờ đất mới, làm
GIA ĐỊNH theo lối phát cỏ rồi cấy, thu hoạch nhiều.

XƯA Ở buổi đầu, giao thông và thương mại mang nét đặc
biệt: lúa gạo tập trung về Chợ Gạo, Định Tường (vì đó
mới có tên Chợ Gạo) để ghe từ miền Trung theo đường
biển vào ăn lúa dễ dàng hơn.

Lúc bấy giờ làm ăn theo lối quảng canh vì đất còn
rộng, không cơ giới mà chỉ dùng sức người là chính.
Một năm làm ruộng một mùa, không bón phân, cũng
không tận dụng đất, nơi nào thuận thì làm, không thuận
(đất thấp hoặc quá cao) thì chừa ra, trong thửa ruộng bỏ
hoang từng lõm, cũng không cào mặt ruộng cho bằng.
Tới mùa gặt, thấy thất bát thì bỏ luôn vì mướn người
gặt thêm lỗ vốn. Bỏ công đi mót lúa thì được quá ít, kẻ
nghèo chờ ngày làm mướn, tiền công cao hơn.

Đất còn hoang hóa, ít người ở nên cá sinh sôi nảy
nở rất nhiều, ăn không hết, bắt làm khô, làm mắm để
dành ăn những lúc thời vụ mùa màng, không rảnh đi
bắt. Gặp vũng nước xa nhà, dù sẵn nhiều cá to nhung
nhúc cũng không đi bắt vì tính toán lời lỗ, vì tát vũng,
mang cá về, sở phí còn cao hơn tiền cá. Tóm lại, buổi
đầu đất rộng, người thưa, thiếu lao động, tiền công cao,
làm ăn phải tính toán.

Thời xưa, điền chủ lớn không chỉ làm giàu nhờ bóc
lột lao động của đám bạn ở mướn mà còn thâu huê lợi
rất lớn bằng cách cho vay nặng lãi hoặc bỏ tiền chờ cầm

cố đất. Khi con nợ không trả nổi, họ đoạt đất một cách 65
hợp pháp, đây là kiểu kinh doanh đã có từ trước của điền
chủ ở miền Trung, mang theo vào Nam, sanh ra nhiều
kiện tụng rắc rối, dai dẳng ở nông thôn.

Không phải ở đâu cũng thuận lợi như những vùng
kể trên. Phía Hà Tiên, ven biển Vịnh Xiêm La, việc
khẩn hoang làm ruộng thì phát triển ở vùng gần chợ
Rạch Giá và Cà Mau. Chung quanh chợ Hà Tiên, đất
xấu, mãi tới đời Gia Long, dân còn phải dời chỗ ở vì
khó làm ruộng được. Vùng này, ngày xưa, sống nhờ lúa
gạo của hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên (nay là Cà
Mau) cấp dưỡng. Trong dịp họa bài thơ của Mạc Thiên
Tứ, bài Lộc Trĩ thôn cư (làng ở mũi Nai), Nguyễn Cư
Trinh đặt câu thơ đáng chú ý:

Cánh vô tô thuế hưu nhàn sự
Thái bán nhân xưng cận bách linh.

(Không phải đóng tô thuế, ai nấy đều thanh nhàn
Người ở nơi đây đều gần trăm tuổi).

Không đóng tô thuế nghĩa là người dân ở đây không
phải đóng thuế điền cho Nhà nước. Lối kinh doanh của
Mạc Cửu với con là Mạc Thiên Tứ là thu mua gạo trong
nội địa bán ra nước ngoài, huê lợi lớn hơn thuế điền,
nếu có đặt ra. Đất không chịu thuế, đó là để khích lệ
nông dân vùng đất xấu.

Trong tình hình mới khai thác, ngoài những xã thôn
sớm định hình, nhà Nguyễn cho tổ chức những nhóm
nhỏ gọi là phường, trại, nậu... có vị trí như thôn, xã.

SƠNNAM Nhiều thôn xã họp lại thành tổng. Các phường, trại, nậu
hợp lại thành thuộc, với viên cai thuộc đứng đầu lo thâu
ĐẤT lúa, thâu thuế. Chế độ “thuộc” được áp dụng những
GIA ĐỊNH nơi hẻo lánh như rừng núi, bờ biển với những nghề bắt
cá, đốn củi, săn bắn, ăn ong, bứt mây rừng khai thác
XƯA dầu chai trét ghe. Ngày nay khó tìm được dấu vết các
thuộc hồi thế kỷ XVIII, họa chăng còn tên đất Thuộc
Nhiêu (phải chăng ông cai thuộc tên Nhiêu?) ở Định
Tường; thuộc này có lẽ cai quản những người làm cá
ở Đồng Tháp Mười. Trại cá ở Gò Công, Ba Tri cá,
Ba Tri trại ở Bến Tre. Trong ngôn ngữ dân gian, còn
từ “đầu nậu” chỉ người đứng ra thâu mua cá, kiểu cai
thầu, đại lý.

Chế độ “thuộc” không kéo dài quá bảy năm, sau đó
trở thành thôn xã bình thường.

*
**

Về vị trí tương đối chính xác của những thôn xóm
đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở hai bờ
sông Tiền và sông Hậu, ta có thể căn cứ vào những nơi
đóng quân thời các chúa Nguyễn, so sánh với những
tên ghi trong sách sử mà tìm ra như: vàm Rạch Ông
Chưởng, Tân Châu, Chợ Thủ (Chiến Sai), Cù lao Tân
Dinh (Bà Lúa), Sa Đéc, Vũng Liêm, Láng Thé, Trà
Ôn, Tiểu Cần (Cần Chông), Bắc Trang. Một số vị trí
khác vì phiên âm không rõ, chúng tôi tìm không ra
như Phiếm Bái (Vàm Thuận Vàm Nao?), Cù lao Dao

Chiên (Cù lao Giêng?). Vị trí Cường Uy (Long Hậu) 67
dễ xác nhận. Hồng Ngự (Đồng Tháp) là do đội Hùng
Ngự, nói trại ra.

Năm 1741, từ hữu ngạn sông Tiền qua miền Đông,
chúa Nguyễn đặt chín kho để thu thuế. Kho Tân Thạnh,
Cảnh Dương, Thiên Mụ ở phía đông ngã ba Nhà Bè.
Kho Tam Lạch ở Mỹ Tho. Kho Ba Canh ở Cao Lãnh.
Kho Gian Thảo ở Cầu Kho (Sài Gòn). Kho Hoàng Lạp
có lẽ ở Biên Hòa để thâu sáp ong. Hai kho Qui An và
Qui Hóa chúng tôi không rõ ở đâu. Về sau điều chỉnh
lại, toàn Nam Bộ có ba kho: Tân An, Định Viễn và một
kho gọi là Trường Tân An, có lẽ ở vùng Bến Tre ngày
nay (Vì trước đây Bến Tre là tổng Tân An). Lúa thuế
thâu được ở Nam Bộ, ghe chở về Nguyệt Biều (Huế)
và Yên Trạch (Quảng Bình).

Trước khởi nghĩa Tây Sơn, Sài Gòn - Bến Nghé là
hành dinh lớn về quân sự. Để bảo vệ, có lũy Bán Bích
do Nguyễn Cửu Đàm đốc suất xây dựng, ăn từ Bà Hom
tới ngọn rạch Thị Nghè. Lũy Hoa Phong bảo vệ phía
rạch Tham Lương được xây do sáng kiến của Nguyễn
Hữu Cảnh. Từ Bến Nghé dễ liên lạc lên Biên Hòa hoặc
xuống Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, sông Tiền rồi sông
Hậu. Ở vịnh Xiêm La, Hà Tiên và Rạch Giá khó thành
cảng lớn vì biển cạn, thiếu nguồn hàng, lúc trước sung
túc nhờ xuất khẩu hàng của Campuchia. Vịnh này lại
không ở trên con đường thuận lợi từ Mã Lai qua Hồng
Kông, Trung Hoa, Nhật Bản, Mỹ Tho thì xa biển, cửa
Đại khó vào vì bãi bùn.

SƠNNAM Cảng Hà Tiên thời họ Mạc bị giặc Xiêm tàn phá,
không khôi phục được vì thiếu cơ sở kinh tế. Cù lao Phố
ĐẤT cũng lần hồi mất vị trí vì gạo ở đồng bằng sông Cửu
GIA ĐỊNH Long ngày càng nhiều, đưa theo đường sông từ đồng
bằng lên Bến Nghé gần hơn, đi ngược lên Biên Hòa rồi
XƯA trở xuống sông Lòng Tàu thì không hợp lý.

Thế mạnh của Bến Nghé tăng thêm khi Nguyễn
Cửu Đàm đốc suất đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch
Cát và Rạch Lò Gốm. Ngày xưa thuế thâu được ở chợ
Rạch Cát, ở bến đò Quan Đế (nay là Đình Ông ở Bình
Đông), ở chợ Phú Lâm, ở Chợ Quán, ở Bình An (vùng
chợ Hòa Bình) khá nhiều, chứng tỏ rạch vàm Bến Nghé
khá thông thương và tấp nập. Chợ Tân Kiểng cũng sung
túc, ngày Tết có du tiên, từ trước năm 1770. Chợ Phú
Thọ (gọi chợ Nguyễn Thực) do Nguyễn Văn Thực lập
năm 1727. Chợ Điều Khiển đánh dấu dinh quan Điều
Khiển, lập năm 1731. Chợ Bến Sỏi ở ngã ba rạch Bến
Nghé và sông Bến Nghé.

*
**

Gia Định chịu đựng hai mươi lăm năm chiến tranh
ròng rã vì chuyện “Gia Long tẩu quốc” rồi “Gia Long
phục quốc”. Những chữ này do bầy tôi của triều Nguyễn
sau này đặt ra kể chuyện Gia Long bị quân đội Tây Sơn
đánh đuổi rồi rước Pháp trở về xâm chiếm Gia Định.

Mười ba năm làm bãi chiến trường, từ miền Cần Giờ
đến tận Cà Mau, U Minh, các đảo trên vịnh Xiêm La.

Mười hai năm tiếp theo, bị vơ vét nhân, vật, tài lực 69
để Nguyễn Ánh chiếm lại xứ Huế.

Nguyễn Huệ đích thân vào Gia Định bốn lần. Lần
đầu để truy nã, một lúc giết hai chúa là Thái thượng
vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn
Phúc Dương, kiểm soát toàn bộ đất đai miền Gia Định.
Hai lần sau, giành lại vùng Bến Nghé, đánh tan rã quân
đội mà Nguyễn Ánh vừa tổ chức lại được. Lần sau chót,
đánh quân xâm lược Xiêm ở Rạch Gầm.

Xin tạm ghi:
Nguyễn Huệ vào Gia Định, 1777.
Nguyễn Ánh chiếm lại, 1778-1781.
Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ hai, 1782.
Nguyễn Ánh chiếm lại, 1782.
Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ ba, 1783.
Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm.
Nguyễn Huệ vào đánh Rạch Gầm, 1785.
Nguyễn Ánh chiếm Bến Nghé, 1787.

Xem đó, ta thấy sinh hoạt của dân bị xáo trộn, thời
gian tạm ổn là vài tháng, đôi năm, chưa hẳn là yên tịnh:
nào mộ lính, nào thu lương, nào gián điệp tình báo, thanh
trừng lẫn nhau ở thôn quê khi quân sĩ hai bên chạy tản
lạc, với đám thương binh không người săn sóc. Bị truy
đuổi, lắm lúc Nguyễn Ánh và tướng sĩ phải giả làm
thường dân, len lỏi vào xóm. Chiến thuyền của Chúa ra
tận những hòn đảo cực Tây, giữa vời vịnh Xiêm La: hòn
Cổ Tron (Poulo Dama), hòn Thổ Châu (Poulo Panjang)
ăn ốc biển, củ chuối rừng mà sống, đào giếng trên sườn

SƠNNAM đảo tìm nước ngọt. Rải rác cũng còn một số giai thoại
về chuyện “Gia Long tẩu quốc” ở miền Nam, tận các
ĐẤT hải đảo: Giếng ngự, bãi ngự, mũi Ông Đội, ấp Tây Sơn,
GIA ĐỊNH xóm Cạnh Đền. Quân sĩ của Tây Sơn và Nguyễn Ánh
rượt bắt nhau đến U Minh Thượng, U Minh Hạ, tận
XƯA rạch Thầy Quơn (sử ghi Sài Quang), rạch Gò Quao,
cửa sông Cái Lớn.

Quân đội hai bên không thể sản xuất được. Những
con kinh, con rạch, cửa biển, chợ phố có vai trò chiến
lược đều bị ảnh hưởng nặng: Ngã tư Bình Điền, Bà Cụm,
Bến Lức, Rạch Chanh (Tân An), Cai Lậy, vàm Ba Rài,
Trà Ôn, Măng Thít, Sa Đéc.

Trong lúc xáo trộn, nhiều gia đình Thiên Chúa giáo
đã ẩn thân, giữ đạo, góp phần khai khẩn ở Mặc Bắc,
ven sông Hậu (1778) và cũng năm này họ đạo Cù lao
Giêng thành hình. Năm sau, nhiều gia đình Thiên Chúa
giáo từ An Hòa (Long Xuyên) và Ô Môn đến rạch Bò
Ót khẩn hoang.

Từ năm 1799, Nguyễn Ánh tổ chức lại việc cai trị
đất Gia Định, chia làm ba dinh: Trấn Biên (vùng Biên
Hòa), Phiên Trấn (Gia Định và Định Tường) và Long
Hồ (Vĩnh Long và An Giang), chỉnh đốn thuế điền,
tích trữ lương thực để chống lại Tây Sơn. Vùng Ba
Giồng nhiều lúa gạo và là vị trí chiến lược nên trước
gọi là đạo, sau nâng lên làm dinh: dinh Trường Đồn,
đến năm 1781 đổi là dinh Trấn Định. Đáng chú ý: Vựa
lúa lớn Gò Công - Chợ Gạo là địa bàn cát cứ của Võ

Tánh, trước không theo phe nào, tới giờ chót thấy thế 71
cờ chuyển, bèn đem quân theo Nguyễn Ánh.

Trong lúc Nguyễn Huệ bận việc lớn là đánh Phú
Xuân, tiến ra Thăng Long tiêu diệt tập đoàn phong kiến
Lê - Trịnh, thống nhất lãnh thổ, thì đất Gia Định giao
phó cho Nguyễn Lữ, một người không sáng kiến, thiếu
năng lực. Bọn phong kiến xâm lược Xiêm tàn phá, cướp
bóc đến nỗi sứ thần của Gia Long cũng phải ghi lại và
than thở. Từ Rạch Giá qua Cần Thơ, Trà Ôn, Măng Thít
khoảng 40.000 quân Xiêm chiếm đóng, cướp bóc, sau
mới bị đạo quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh
tan ở Rạch Gầm.

Khi đứng vững được ở Gia Định, Nguyễn Ánh, với
sự ủng hộ của một số điền chủ phất lên trong buổi đầu
khai hoang, dùng nơi đây làm bàn đạp tiến quân ra Bắc.
Vì vậy mà khi tạo lập cơ nghiệp, vua tôi nhà Nguyễn
mới gọi đất này là đất “hưng long” của triều đại Nguyễn
Ánh. Trong thực tế, Nguyễn Ánh ra sức củng cố về quân
sự và chánh trị, vơ vét vùng Gia Định gây thực lực để
đánh nhau với Tây Sơn.

Thành Gia Định có tám góc, nhờ người Pháp vẽ
đồ án, như kiểu kinh đô với gác Triều Dương làm nơi
ngự triều, nhà sứ quán ở ngoại thành để đón sứ thần
các nước (về sau, Nguyễn Ánh mới dời kinh đô về Phú
Xuân). Thành bắt đầu xây năm 1790, quy mô khá lớn
để đề phòng sự phản công của Tây Sơn. Có tài liệu ghi
rằng Nguyễn Ánh đã trưng dụng đến 30.000 dân phu
và lính, lại ra lịnh đuổi đây để lấy đất xây thành, khiến

SƠNNAM một số quan và dân phải dỡ nhà. Dân Bến Nghé toan
nổi lên đòi bắt hai tên Pháp vẽ đồ án là Olivier và le
ĐẤT Brun. Nhiều cận thần của Nguyễn Ánh ghét đạo, giám
GIA ĐỊNH mục Bá Đa Lộc đành nhờ sự che chở của Nguyễn Ánh
với hai trăm tên lính bảo vệ thường trực. Bá Đa Lộc lại
XƯA đem hai người Pháp nói trên vào ở trong dinh mình, đề
phòng bị ám sát.

Bề ngoài, Nguyễn Ánh thực hiện chính sách yên dân,
đặt một kiểu thùng thơ dân ý để những người gặp chuyện
oan ức có chỗ kêu nài nhưng trong thực tế, Nguyễn Ánh
bày ra nhiều cách bóc lột và “mua bán công lý” như ai
có tội thì cho chuộc bằng tiền, muốn được kiện thì nộp
tiền cho quan v.v...

Ngoài việc nhờ bọn đánh thuê Pháp huấn luyện quân
sĩ, Nguyễn Ánh còn thâu góp lúa gạo, cau khô chở nhiều
chuyến đi Ma Cao, Phi Luật Tân, Mã Lai, đảo Pinăng,
đến các thị trấn ở bờ biển Ấn Độ để mua súng nhỏ, thuốc
súng, chì, đinh, sắt. Hai tên Barixi và Đayô lãnh trách
nhiệm đi mua bán vì chúng rành thủ tục giao thiệp với
thương gia và nhà cầm quyền Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Anh. Nguyễn Ánh ao ước mua được chừng 20.000
súng cầm tay - có lẽ đó là con số của đội quân chủ lực
- có tài liệu xác nhận, trong một chuyến đi, Barixi đã
mua được 3.000 khẩu. Cũng có tài liệu cho biết Đayô
có lần đưa hai tàu đi Ma Cao, chở 3.900 tạ gạo để bán
lấy tiền sắm vũ khí.

Lúc đó tàu buôn của Tây phương và Trung Hoa đã
tấp nập đến Sài Gòn để mua gạo và những sản vật như

ngà voi, sừng tê giác, sa nhân, đậu khấu của Campuchia. 73
Nhà Nguyễn chủ trương giảm thuế nhập cảng, dành ưu
tiên mua gạo cho tàu nào đem sắt, gang, kẽm, lưu huỳnh
đến. Nguyễn Ánh bắt một nửa tráng đinh vào lính, gọi là
phủ binh, vừa luyện tập võ nghệ, vừa làm ruộng. Chánh
sách đồn điền lại thi hành tích cực, nòng cốt là quân đội
với thí điểm thành lập ở vùng Vàm Cỏ (Gò Công). Các
cơ quan chính quyền, bất luận hành chánh hay quân sự,
đều phải mộ dân lập đồn điền. Người nào làm ruộng
năng suất cao, đóng thuế nhiều thì miễn đi lính, miễn
làm xâu trong một năm. Việc nông nghiệp giao cho các
quan điền tuấn có năng lực đảm nhận (Trịnh Hoài Đức,
Ngô Nhơn Tịnh, Ngô Tùng Châu...)

Ngoài việc đóng thuế, người dân phải nạp thêm lúa
thị túc, căn cứ vào bộ đinh. Nguyễn Ánh lại vơ vét bằng
cách thâu thuế ruộng trước một năm. Trong hai năm
1795 - 1796, lúa gạo Gia Định chở ra Diên Khánh (Nha
Trang) để tích trữ, làm căn cứ hậu cần.

SƠNNAM

ĐẤT
GIA ĐỊNH

XƯA

KHAI KHẨN
PHÍA TÂY NAM

75

TRONG TÌNH HÌNH NAM BỘ XƯA, SUỐT BA
mươi năm mà không gặp chiến tranh là điều chỉ xảy ra
một lần, từ khi Gia Long lên ngôi đến cuộc khởi binh
của Lê Văn Khôi năm 1833, và cũng năm ấy, giặc Xiêm
đã đánh chiếm chợ Hà Tiên, chợ Châu Đốc gây tàn phá
khủng khiếp, tràn đến Vàm Nao nhưng đã bị ngăn chặn
và truy nã.

Ba mươi năm yên lành ấy giúp ổn định những nơi
đã định cư trước và mở mang thêm đất mới. Trước kia,
trong buổi đầu, người khẩn hoang chuộng những vùng
gần sông Vàm Cỏ (Gò Công), gần vàm sông Tiền (Bến
Tre, Mỹ Tho) để tiện liên lạc với Bến Nghé - Sài Gòn
hay miền Trung. Khi những vùng nói trên đã đông người
ở, người dân mạnh dạn đi qua bên hữu ngạn sông Tiền,

SƠNNAM qua hai bờ sông Hậu và tiến tới tận bờ biển vịnh Xiêm
La, đến các đảo phía Tây Nam.
ĐẤT
GIA ĐỊNH Miền đất phía Tây lúc đầu gộp vào một đơn vị hành
chính rộng lớn: trấn Vĩnh Thanh. Trấn này ăn từ biên
XƯA giới Campuchia, theo sông Tiền, gồm cả tỉnh Bến Tre,
bọc qua vịnh Xiêm La. Thóc lúa của dân Hà Tiên, Kiên
Giang đóng thuế cũng đưa về trấn này. Về danh nghĩa,
lỵ sở của trấn ở chợ Vĩnh Long nhưng mọi hoạt động
quân sự tập trung ở tận Châu Đốc.

Để khẩn vùng đất phía Tây Nam, người Việt dựa
vào những điểm tựa là những điểm khẩn hoang đã thành
công từ trước như Bến Tre (đã trở nên trù phú), khu vực
chợ Vĩnh Long, vùng chợ Sa Đéc (đông đúc nhờ dịch vụ
buôn bán với Campuchia), vùng Cù lao Ông Chưởng,
chợ Thủ, Chiến Sai (khẩn hoang từ năm 1700).

“Cù lao Ông Chưởng” là tên gọi để nhớ Chưởng Cơ
Nguyễn Hữu Cảnh, con của Nguyễn Hữu Dật, mang quân
từ Bình Khang (Nha Trang) vào Nam Bộ đánh giặc từ
thời đầu của chúa Nguyễn, khi rút quân về nhuốm bịnh
tại một cù lao gần Vàm Nao, và dừng quân ở đó, về gần
Mỹ Tho thì mất, đem về quàn ở Biên Hòa, sau này còn
mộ và đền thờ. Cù lao đó sau dân gọi là Cù lao Ông
Chưởng. Những người ở Long Xuyên (tỉnh lỵ An Giang
ngày nay) ở theo rạch Ông Chưởng còn được gọi là dân
“hai huyện”. Hai huyện là huyện Phước Long và huyện
Tân Bình đến đây làm ăn trong đợt đầu tiên chăng?

Khi hai bên bờ sông Hậu có đông người Việt đến ở
làm ăn, các võ tướng họ Tống được phái vô đây trấn thủ.

Đó là Tống Phước Hiệp từng làm lưu thủ dinh Long Hồ 77
(1738), Tống Phước Hòa, làm cai cơ đạo Đông Khẩu (Sa
Đéc), Tống Phước Thiêm, lưu ngụ ở An Giang làm cai
cơ... Họ là những người gốc Thanh Hóa như các chúa
Nguyễn, xưa đã cùng với Nguyễn Hoàng Nam tiến vào
Thuận Hóa từ buổi đầu.

Phía hữu ngạn sông Tiền sớm trở nên sung túc, dân
tiếp tục khai khẩn vàm rạch nhỏ, cù lao. Đời Gia Long,
từ biên giới xuống Cái Tàu Thượng lần hồi thành lập
được tổng Vĩnh Trinh với hai mươi chín thôn. Vùng Sa
Đéc tiếp nối theo đến Cái Vồn, với hai mươi hai thôn,
trở thành tổng Vĩnh Trung.

Cù lao Giêng không rộng cho lắm nhưng sanh kế dễ
dàng, quy tụ được bốn thôn. Cù lao Đài, quê bà Vĩnh
Tế (vợ Thoại Ngọc Hầu) cũng gồm năm thôn.

Phía sông Tiền, theo rạch Sa Đéc, phong cảnh xinh
đẹp, đất tốt, vườn cây ăn trái và đồng ruộng phì nhiêu.
Trong Gia Định Thành Thông Chí, Trịnh Hoài Đức
ca ngợi không tiếc lời khung cảnh bãi sông mát mẻ,
chim cò bay lượn. Vài con rạch “sông sâu nước chảy”,
không tù đọng, nối liền sông Tiền qua sông Hậu, chịu
ảnh hưởng nước lớn nước ròng cả hai phía, ghe xuồng
qua lại thuận lợi quanh năm: rạch Sa Đéc, rạch Nha
Mân, Cái Tàu Hạ, hoặc rạch Lấp Vò, rạch Lai Vung,
Long Hậu.

Đây là vùng làm ruộng từ xưa đã đạt năng suất cao.
Tuy trù phú, nhiều dân cư, nhưng sách đời trước mô tả
ruộng hoang còn nhiều, nhà ở bờ sông rạch, theo mô

SƠNNAM hình “trước vườn, sau ruộng” (tiền viên, hậu điền), sau
ruộng lúa còn vùng ngập lụt, huê lợi chánh là cá tôm
ĐẤT và tre rừng, chưa làm ruộng sạ vì lúa sạ (lúa nổi) chưa
GIA ĐỊNH du nhập.

XƯA Hồi đầu thế kỷ trước, phía sông Hậu, từ Châu Đốc
xuống Năng Gù (phía Bắc chợ Long Xuyên ngày nay)
dân cư thưa thớt. Sông cái chảy thẳng, không quanh co,
thiếu điều kiện cho phù sa lắng đọng, không tạo được
giồng cao như sông Tiền. Chỉ có mấy khu vực cao ráo
được ưu đãi chút ít: chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái Dầu...
ở trên vành của cái lòng chảo to lớn, bên kia vành là
đồi núi ven vịnh Xiêm La (Ba Hòn, vùng núi vôi Kiên
Lương ngày nay). Tuy vậy, lòng chảo vẫn lôi cuốn một
số người đến định cư, ở trên sàn nhà, làm hoa màu phụ
khi trời sa mưa (đậu, bắp), khai thác cá tại Láng Linh,
nhưng vẫn sống nghèo, qua ngày.

Vùng Châu Đốc, đầu tiên là khu vực quân sự, triều
đình đặt làm một đạo, để ngừa những cuộc xâm lăng
của quân Xiêm từ Campuchia đổ xuống. Khi an ninh đã
tốt hơn, triều đình khuyến khích dân đến khai khẩn, đặt
chức quản đạo, gọi khu vực này “Châu Đốc tân cương”,
nằm trong địa phận trấn Vĩnh Thanh.

*
**

Đào kinh từ hữu ngạn sông Hậu qua vịnh Xiêm La
là cần thiết để mở mang ruộng vườn, khuyến khích dân
khẩn hoang.

Không có kinh, vào mùa lụt, đồng bào quen dùng 79
xuồng nhỏ, thuyền to để vượt cánh đồng vì nước có thể
sâu hơn ba mét, gặp nơi cạn thì tránh né hoặc lội xuống
mà đẩy. Vào mùa hạn, phải tiếp vận từng chặng đường.
Gặp nơi quá cạn thì dùng trâu để kéo loại cộ nhỏ.

Vài con rạch thiên nhiên có thể giúp di chuyển quân
đội, điều mà quân sĩ của Tây Sơn cũng như của Nguyễn
Ánh biết rất rõ. Từ cửa biển Rạch Giá muốn qua sông
Hậu, đã có sông Cái Lớn hoặc sông Cái Bé để trổ ra
rạch Cần Thơ, theo đường Ba Láng rồi Cái Răng, nhưng
khoảng giữa lại rất phức tạp. Mùa mưa, nước tràn vào
trũng, ghe thuyền có thể lướt trên cỏ, trên bông súng
mà đi, giữa biển nước mênh mông, phải tìm vài cây cổ
thụ làm mục tiêu định hướng. Mùa hạn, bùn khô cứng,
không đi được. Từ Long Xuyên có thể đến Rạch Giá
theo con rạch thiên nhiên, qua núi Sập, nhưng tình trạng
cũng như trên.

Năm 1817, theo lịnh triều đình, Nguyễn Văn Thoại
đốc suất đào kinh Thoại Hà (kinh núi Sập) ăn đến cảng
Rạch Giá, công việc không khó vì chỉ đào ở khoảng
giữa, nơi đất bùn, nối ngọn hai con rạch, sau này cho
đào thêm vùng đất thấp, sát chân núi Ba Thê, nối qua
núi Sập. Kinh này đưa nước sông Hậu mùa lũ lụt thoát
mau ra biển, tạo điều kiện cho dân khai khẩn hai bên
bờ kinh, mở đường giao thông chở hàng hóa (vẫn còn
áp dụng trong thời Pháp thuộc).

Công trình quan trọng là kinh Vĩnh Tế, cùng một
chức năng như kinh Thoại Hà là đưa nước sông Hậu mùa

SƠNNAM lũ lụt ra vịnh Xiêm La, nhưng về phía Bắc, sát biên giới.
Kinh này đào năm năm ròng (1819-1824) mới xong vì
ĐẤT qua vùng núi.
GIA ĐỊNH
Để thưởng công người đốc suất, triều đình cho lấy
XƯA tên Nguyễn Văn Thoại để đặt cho con kinh thứ nhất
(Thoại Hà) và tên vợ ông đặt cho con kinh thứ hai (Vĩnh
Tế). Trong việc đào kinh Vĩnh Tế, sức khỏe người dân
phu - kể cả phụ nữ - không được bảo đảm; đồng không
mông quạnh, ăn uống thiếu thốn, người chết vì bệnh quá
cao. Cũng có người chết vì bị sấu ăn thịt. Triều đình
phải ra lịnh cải táng, đem chôn tập trung bên sườn núi
Sam, lập đàn cúng tế để giải oan.

Bài văn tế, không biết do ai soạn, những câu mô tả
thảm cảnh người đào kinh:

Lúc sanh khi lớn khôn tường
Là trai hay gái khó tường họ tên!
Hiền hoặc dữ, hư nên nào rõ,
Cha anh đâu, còn có cháu con?
... Than ôi! ai cũng người ta,
Mà sao người lại thân ra thế này!

Sứ triều Nguyễn ghi rõ bài văn tế đó là “Thừa đế
lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh”, nghĩa là thừa lệnh
vua mà làm.

Đào kinh xong, lại đắp đường ngắn, nối liền núi
Sam ra Châu Đốc, tương đối rộng, ngựa xe qua lại dễ
dàng, cao khoảng ba mét, đề phòng nước lụt. Đào xong
Nguyễn Văn Thoại cho dựng bia Châu Đốc tân lộ kiều
lương (1828). Qua lời văn trên bia, ta biết được rằng

trước đó, mùa nước lụt, muốn đi từ chợ Châu Đốc vào 81
núi Sam (năm ki-lô-mét) phải đi đò chèo; nhờ lộ mới
đắp hai bên có trồng cây, để ban đêm nhìn tàn cây mà đi.

Sau khi đào kinh, kế hoạch xây dựng “Châu Đốc tân
cương” được xúc tiến mạnh mẽ, làm thêm con lộ bao
quanh núi (thật ra là đồi) trên giấy tờ gọi là xa lộ (dân
gọi nôm na là bờ, đầu đường gọi là đầu bờ). Từ bờ kinh,
người khẩn hoang xẻ thêm nhiều rạch ngắn, gọi là “cựa
gà” để đưa hoa màu từ ruộng xa ra bờ kinh.

Năm 1821, vua Minh Mạng truyền cho Nguyễn Văn
Thoại: “Châu Đốc là vùng xung yếu, phải khéo léo trong
mọi trường hợp, trấn an phủ dụ dân địa phương. Trước
hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm
cho số dân đinh và số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng
đất ngày càng khai khẩn thêm”.

Trên nguyên tắc, người khẩn hoang được miễn thuế
ba năm đầu nhưng dân chúng đến ít, sống ẩn lậu ở vùng
đồi núi (Bảy Núi) không muốn tập họp qua sự kiểm
soát của triều đình. Chín năm sau, vùng Châu Đốc mới
thành lập được 41 làng lớn nhỏ, dân đinh chỉ có hơn
800 người (bình quân mỗi làng 20 dân đinh). Quan Tổng
trấn thành Gia Định tâu xin Minh Mạng cho miễn thuế,
được chuẩn y ngay vì vùng này nằm trong kế hoạch an
ninh quốc phòng.

Đầu thế kỷ trước, đã nhiều lần quân Xiêm xâm
lăng nước ta, Hà Tiên, Châu Đốc là những vùng bị
thiệt hại trước tiên và nặng nhất. Năm 1833, giặc Xiêm
xâm lăng, tàn phá dọc kinh Vĩnh Tế, luôn cả phía Tân

SƠNNAM Châu... nhưng điều đáng khâm phục là chỉ bốn năm
sau, năm 1838, đã chính thức thành lập hàng chục xã
ĐẤT rải rác từ núi Sam, dọc hai bờ kinh qua phía Hà Tiên:
GIA ĐỊNH Vĩnh Tế, Nhơn Hòa, An Quý, Thân Nhơn, Vĩnh Bảo,
Long Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc... Ngoài chút ít ruộng
XƯA lúa ở bờ kinh, đồng bào xin trưng khẩn “vu đậu thổ”
tức là đất làm rẫy gần chân núi. Rồi tai họa lại xảy
đến. Bốn năm sau, năm 1842, giặc Xiêm với lực lượng
hùng hậu lại cướp phá đảo Phú Quốc, chiếm Hà Tiên,
tràn vào kinh Vĩnh Tế đến Hậu Giang nhưng bị quân
ta chặn lại, đánh lui.

Vùng Châu Đốc, kinh Vĩnh Tế đúng là vùng biên
cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại
xâm, nhưng người khẩn hoang đã kiên trì bám đất không
rời, tinh thần yêu nước, cần cù bộc lộ rõ ràng. Mỗi người
dân khẩn hoang quả là một lính thú vô danh nơi chân
trời góc biển.

Phía Nam kinh Vĩnh Tế, nhờ những người ở tiền
đồn đứng mũi chịu sào, mà có lá chắn để xây dựng
trên vùng phì nhiêu hơn. Càng đi xuống phía vàm sông
Hậu (Long Xuyên, Cần Thơ) thì càng nhẹ về lũ lụt,
đất giồng ven sông, rạch với mực nước không sai biệt
nhiều giữa hai mùa đã sớm trở thành vườn cây ăn trái,
bãi sông tràn đầy hoa màu. Người ở khu vực này đạt
mức sống tương đối cao so với vùng khác, ổn định, có
điều kiện học hành. Gia Định Thành Thông Chí, soạn
vào cuối đời Gia Long, trong danh mục thôn xã, tuyệt
nhiên không ghi lại làng nào ở vùng “Châu Đốc tân

cương” nhưng đã xác nhận từ biên giới đến biển chỉ 83
thành lập vỏn vẹn được một huyện, huyện Vĩnh Định
với hai mươi bảy thôn, suốt theo hữu ngạn Hậu Giang,
với lời giải thích “Huyện Vĩnh Định địa giới tuy rộng
nhưng dân chưa đông nên chưa chia ra thành tổng”.
Một huyện mà chỉ có hai mươi bảy thôn thì quá ít, nếu
so với những huyện đương thời là huyện Tân An (tỉnh
Bến Tre ngày nay) có 135 thôn trại, huyện Kiến Hòa
với 151 thôn ấp.

Khi Lê Văn Duyệt chết, Gia Định thành chia ra làm
sáu tỉnh (Lục Tỉnh). Vùng Châu Đốc trở thành huyện
Tây Xuyên, phía Bảy Núi thành lập huyện Hà Dương,
tất cả thuộc tỉnh An Giang. Đó là năm 1832.

Dọc biên giới còn nhiều khó khăn nhưng đã thêm
dân, thêm nhiều xã. Ta có lý do để tin rằng số người tăng
lên ở biên giới, gồm một số dân đồn điền là tù phạm
do triều đình đưa đến để bổ sung. Bấy giờ người dân
bình thường, kể cả dân lậu, có thể tìm những vùng đất
tốt hơn ở gần biển, không lũ lụt để khai khẩn như vùng
Cái Răng (Cần Thơ) hoặc phía Sa Đéc, ở Nha Mân, Cái
Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ, Tòng Sơn hoặc theo rạch vào
vùng Nước Xoáy.

Ven vịnh Xiêm La, sử liệu ghi thời Mạc Cửu, thành
lập được bảy xã trong đó có bốn xã là Hà Tiên, Phú
Quốc, Rạch Giá, Cà Mau. Dân cư vùng này buổi đầu
còn khá phức tạp, người Xiêm, người Chà Và có mặt
với tổ chức xã, thôn và đội riêng biệt. Đảo Phú Quốc
đông dân hơn vùng đất liền quanh chợ Hà Tiên. Cả khu

SƠNNAM vực nay là tỉnh Minh Hải,(1) đời Gia Long gồm hai tổng:
quanh chợ Bạc Liêu và Cà Mau là tổng Tân Thủy với
ĐẤT 23 xã, vùng Mũi Cà Mau và U Minh hạ nằm trong tổng
GIA ĐỊNH Quảng Xuyên với 9 xã chưa thật định hình (gọi là thôn,
nậu, khai thác sáp ong).
XƯA
Vùng Kiên Giang (kể từ khu vực nhà máy xi măng
Kiên Lương đến tận ranh tỉnh Minh Hải ngày nay) lúc
đó gồm vỏn vẹn mười một xã.

Nêu những con số này để thấy đời Gia Long - Minh
Mạng, dân ta quá ít, dọc theo vịnh Xiêm La trở qua
sông Hậu, còn đất hoang với rừng tràm mênh mông.
Đảo Phú Quốc đông đúc, phần lớn gồm dân chài lưới.
Vùng Rạch Giá - Cà Mau chỉ quy tụ dân cư ở chợ nhỏ,
ở vài giồng thấp với phù sa chịu ảnh hưởng nước mặn.
Hình thức “nậu, thuộc” từ thời các chúa Nguyễn hãy
còn rơi rớt: các thuộc như Minh Hương thuộc, Hòa
Thạnh thuộc, Đường Nhân thuộc... gồm những Hoa
kiều, có lẽ tập họp theo ngành nghề, các nậu Hoàng
Lạp, Phú Thạnh...

Nói đến việc khai hoang ở Gia Định xưa, không thể
không kể đến vai trò của các đồn điền dưới triều Nguyễn.
Trong cuốn Tìm Hiểu Chế Độ Ruộng Đất Việt Nam Nửa
Đầu Thế Kỷ XIX, Vũ Huy Phúc nêu rõ: “Trong số 25
quyết định về tổ chức khai hoang từ 1802 đến 1855 thì
có 16 quyết định về miền Nam, hai ở miền Bắc, một ở
kinh kỳ và sáu có ý nghĩa toàn quốc”). Xem đó, ta thấy

1 Nay là tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu. (BTV)

nhà Nguyễn dành ưu tiên cho việc khẩn hoang ở miền 85
Nam như thế nào.

Lực lượng đi khẩn hoang trước hết là binh lính, dưới
hình thức đồn điền.

Lực lượng thứ hai là dân mộ đi làm đồn điền. Năm
1790, Nguyễn Ánh lịnh cho các nha văn võ “mộ người
lập các đội nậu đồn điền”. Việc chia thành đội nậu
cũng giống như tổ chức quân sự, dễ sai khiến. Năm
1791, Nguyễn Ánh lại ra lịnh “Cho các hạng dân và
người Đường cũ, mới ở đạo Long Xuyên, ai muốn làm
đồn điền mà đủ đồ làm ruộng thì nhà nước cho vay...
kẻ nào không muốn làm đồn điền thì bắt phải thụ dịch
tòng chinh để răn kẻ chơi bời lười biếng. Những người
Phiên và người Đường ở hai phủ Ba Thắc và Trà Vinh
cũng cho khẩn đất làm đồn điền”.(1)

Người Phiên nói trên đây là người Khơme và người
Đường là người Hoa.

Những lịnh này cho thấy nhà Nguyễn dùng biện pháp
cưỡng bức các hạng dân, kể cả người Khơme và người
Hoa, phải vào các đồn điền. Sử sách ngày trước cũng
ghi rõ là dân đồn điền thường bỏ trốn đi nhiều, khiến
triều đình phải ra lệ phạt các viên cai trong trường hợp
để dân trốn.

Việc áp dụng chánh sách đồn điền vừa nhằm mục
đích kinh tế vừa nhằm mục tiêu bảo vệ an ninh. Năm

1 Xem Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, trang 128.

SƠNNAM 1810, các đồn điền tập hợp dân mộ cũng được quân sự
hóa. Chiếu dụ của nhà vua nói công khai: “Việc võ bị
ĐẤT ở biên cương không thể thiếu được. Nếu lại điều động
GIA ĐỊNH binh ở nơi khác đến thì không quen phong thổ, quyết
không bằng dân bản địa các ngươi, trước biết rõ tình thế
XƯA biên cương hòa hoãn hay cấp bách thế nào mới có thể
sai phái được. Vậy hạ lịnh số dân phu các phủ huyện...
cùng số dân đồn điền biệt nạp đều lấy một nửa lập làm
hương binh, biên thành đội ngũ, có việc thì làm lính,
không việc thì làm ruộng. Đó là thượng sách để cùng
nhau giữ gìn yên ổn”(1).

Đến năm 1822 ở cả bốn phủ, thành Gia Định có:
Phủ Tân Bình: 3 hiệu 22 trại, với nhân số 150 người.
Phủ Định Viễn: 14 hiệu 142 trại, với nhân số 6.174
người.
Phủ Phước Long: 1 hiệu 4 trại, với nhân số 138
người.
Phủ Kiến An: 8 hiệu 79 trại, với nhân số 2.641 người.
Cộng cả bốn phủ lại là 9.703 người, năm 1.822. Ta
cũng gặp con số năm 1.814 là 9.876 người. Con số xê
xích không bao nhiêu. Nói chung là quá ít, chứng tỏ là
dân không thích vào đồn điền.
Gia Định Thành Thông Chí và Đại Nam Nhất Thống
Chí chỉ ghi lại rằng có lập đồn điền ở một số khu vực,
nhưng khu vực được nói đến lại quá rộng, không thể biết
chính xác địa điểm cũng như quy mô các đồn điền thời

1 Xem Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, trang 93-94.

đó. Theo thống kê trên, ta biết nơi nhiều đồn điền nhất 87
là phủ Định Viễn, bao trùm suốt hữu ngạn sông Tiền tới
biên giới, xuống tận biển, bao gồm các tỉnh An Giang,
Cửu Long, Hậu Giang(1) ngày nay. Thứ nhì là phủ Kiến
An, bao trùm Đồng Tháp Mười.

Đời Thiệu Trị và Tự Đức (thời kỳ đầu) chánh sách
đồn điền bị coi nhẹ. Từ 1850 trở về sau, theo lời đề nghị
của Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Phạm Thế
Hiển... việc mở mang đồn điền mới được khôi phục,
chủ yếu vì tình hình ở biên giới.

Chế độ đồn điền bị hủy bỏ ngay sau khi quân
Pháp đến.

Ta được biết quân sĩ các đồn điền có tham gia đánh
giặc ngay tại Sài Gòn, nhứt là quân ở đồn điền Gia
Thuận, do Trương Định chỉ huy. Quân đồn điền ở Định
Tường cũng lên góp sức.

1 Tỉnh Cửu Long nay là hai tỉnh: Vĩnh Long và Trà Vinh. Tỉnh Hậu
Giang nay là hai tỉnh: Sóc Trăng, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ.
(BTV)

SƠNNAM

ĐẤT
GIA ĐỊNH

XƯA

ĐẤT ĐAI, LÀNG XÃ,
ĐIỀN CHỦ

89

“KHẨN ĐẤT HỒI THỜI MINH MẠNG THẬP
thất”... là câu ngày trước thỉnh thoảng còn nghe người
lớn tuổi nói, có phần khoe khoang, vì ông bà xưa từng
làm điền chủ, được chính thức ghi vào sổ bộ.

Minh Mạng thập thất (năm Minh Mạng thứ mười
bảy, tức năm 1836) là năm triều đình cử Trương Đăng
Quế, Binh bộ Thượng thư, cầm đầu một phái đoàn vào
Gia Định tiến hành đo đạc, lập địa bộ chính thức, ghi
rõ ranh giới, diện tích. Trước đó, diện tích đất đai trong
bộ không ghi rõ cụ thể, đại khái chỉ ghi tên Giáp khẩn
một sở đất ba dây (chữ nho trong văn tự ghi là thằng),
mỗi dây khi cho mướn có thể chia thành từng vạt. Dây
là sợi dây kéo ra để đo đất, thời xưa đo ruộng căn cứ
vào bề dài theo bờ sông rạch. Một dây có diện tích co

giãn từ năm đến mười mẫu ta. Đất càng được nhiều dây
càng tốt vì ăn dài theo bờ sông, dễ chuyên chở lúa, dễ
cho nhơn công lui tới, dễ tiêu tưới, và đất thường cao
ráo. Hãy còn câu ca dao:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh,
Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu?

*
**

SƠNNAM Nên phân biệt địa bộ và điền bộ.
Địa bộ lập ra để xác định sở đất, người đứng tên,
ĐẤT hình dáng, diện tích (lấy mẫu làm đơn vị), ranh giới bốn
GIA ĐỊNH bên. Mỗi khi cần chia đất hoặc mua bán thì căn cứ vào
vị trí và diện tích ấy mà hài thêm chi tiết: bán cho ai,
XƯA ngày nào, bao nhiêu mẫu, ranh giới ra sao...
Điền bộ (nôm na gọi là bộ điền) là sổ kê khai tên
họ từng chủ đất, diện tích, nạp bao nhiêu thuế, loại đất
tốt xấu.
Điền bộ để thu thuế, địa bộ để xác định quyền sở hữu.
Việc làm của phái đoàn Trương Đăng Quế là một
hình thức điều tra cơ bản về ruộng đất của triều đình
đối với vùng đất mới khai phá, tạo cơ sở để thâu thuế,
chống trường hợp ẩn lậu, khai gian trước đây, đồng
thời khám phá vùng đất còn bỏ hoang. Ngày trước,
hương chức ở thôn xã thường che giấu, dành đất tốt
cho bà con thân thích khai thác, chiếm hữu. Nhờ kỳ
đo đạc này mà thuế của triều đình cũng thâu được
nhiều hơn.

Một hậu quả của việc lập địa bộ là triều đình có điều 91
kiện can thiệp vào tình hình sở hữu ruộng đất ở Nam
Kỳ Lục Tỉnh. Cụ thể là áp đặt chế độ công điền, công
thổ vào Nam Kỳ. Ngay sau khi đo đạc xong, năm 1836,
triều đình ban hành 14 điều khoản về ruộng đất thi hành
tức khắc ở Nam Kỳ, trong đó nêu sáu điều quy định lấy
ruộng làm công điền, công thổ, thí dụ:

- Những ruộng đất mà địa bạ ghi là do toàn thôn
cày cấy.

- Những ruộng công tư bị bỏ hoang.
Ngoài ra, còn quy định cụ thể một số đất bị sung
làm công điền, như đất còn thừa sau khi xây thành Phiên
An, đất quanh thành Định Tường v.v...
Năm 1837, Minh Mạng ra lịnh: “Ruộng đất các tỉnh
từ Bình Thuận trở vào Nam, từ trước đến giờ chưa được
khám xét, còn chưa có hạng ruộng đất công, phép chia
ruộng chưa được ban cấp. Nay ruộng đất các tỉnh ấy,
khám đạc đã xong, nên phải thi hành một thể”.
Trong 50 năm đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn tích cực
phát triển công điền, thực tế là một sự tước đoạt ruộng
đất của điền chủ và người khai khẩn. Chế độ tư hữu về
ruộng đất trong bước đầu khẩn hoang đã tạo ra sự hứng
thú cho người khai khẩn. Triều đình phong kiến ra lịnh
lấy một phần ruộng tư (ba phần mười diện tích, nếu là
điền chủ lớn) làm công điền, tức là thuộc quyền sở hữu
của nhà vua, của triều đình.
Về nguyên tắc, công điền để cho người không có
ruộng cày cấy, đóng tô cho làng. Nhưng công điền do

SƠNNAM làng sử dụng, nghĩa là do hương chức, cường hào nắm;
họ phân phát cho tay chân bộ hạ, không nhứt thiết cho
ĐẤT người không có ruộng.
GIA ĐỊNH
Chế độ công điền không làm tăng được năng suất
XƯA vì cày cấy tạm bợ trên thửa ruộng công mà ba năm sau
làng xã lấy lại thì người canh tác thiếu hứng thú để đầu
tư công sức làm thủy lợi, đắp bờ, cải tạo đất.

Thời xưa dùng nhiều từ cần được xác minh. Đất gồm
hai loại: điền và thổ.

Điền là đất làm ruộng lúa, chia làm hai loại là sơn
điền và thảo điền, tức là đất núi cao ráo với đất thấp
nhiều cỏ. Sơn điền đóng thuế nhẹ hơn là vì đất xấu, thảo
điền đóng thuế cao hơn vì là đất tốt.

Thổ là đất trồng hoa màu, vườn tược. Như tang căn
thổ, đất trồng dâu; viên lang thổ, đất vườn cau, gọi
chung cho vườn cam, quít, dừa, xoài. Lại còn vu đậu
thổ, đất trồng khoai, đậu, rau cải; thanh trúc thổ, đất
trồng tre; dà điệp thổ, đất trồng lá dừa nước, lợp nhà
(chữ da nhưng quen gọi là dà). Thổ trạch là đất nền
nhà, còn gọi là thổ cư.

Khi địa bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh đã hoàn chỉnh, mỗi xã
phải lập bản giống nhau: bản thứ nhứt (bản Giáp) gởi về
Bộ Hộ ở Kinh, bản thứ hai (bản Ất) giữ tại phòng quan
Bố Chánh tại tỉnh và bản thứ ba (bản Bính) giữ tại xã.

Trước khi Pháp đến, điền bộ triều Nguyễn đã tu chỉnh
cả thảy bốn lần, gọi là đại tu điền bộ. Ngày trước, địa
bộ và điền bộ, đều là tượng trưng cho chủ quyền lãnh
thổ. Khi hạ được thành trì thì kẻ thắng trận ra lịnh cho

kẻ đầu hàng phải nộp bộ điền, bộ địa và bộ đinh, lẽ dĩ 93
nhiên kèm theo ấn, triện. Lúc giặc Pháp xâm lược, các
quan đầu tỉnh của ta cố cất giấu, hoặc thiêu hủy sổ bộ,
không cho lọt vào tay giặc.

Trong địa bộ, mọi sở đất đều buộc phải ghi rõ ranh
giới cùng nhiều chỉ dẫn khác để làm chuẩn, thí dụ phía
Bắc giáp ranh đất của tên Giáp, phía Nam giáp con rạch
nhỏ, phía Tây giáp bờ lung sình lầy... Trong sở đất hoặc
trên đất phụ cận, ghi thêm vị trí của chòm mả, cây lâm
vồ, bụi tre, cây kè v.v... để khi tranh chấp, có vật làm
chuẩn mà phân định.

Giáp ranh đất hoang thì ghi “hoang nhàn dư địa”.
Giáp đất có chủ mà vắng mặt năm năm trở lên thì
ghi đất “hoang phế”. Vắng mặt lâu hơn mức ấy thì ghi
“Cửu kinh hoang phế”.

*
**

Xã, thôn là đơn vị cơ sở của xã hội thời trước.
Thường phân biệt xã là làng lớn, thôn là làng nhỏ.
Dân xã, thôn ghi vào bộ đinh là đàn ông, không ghi
đàn bà, trẻ con.
Để thành lập một xã, chỉ cần năm, sáu người dân
đinh - theo nghĩa có vốn, có đất - đứng đơn, bảo đảm
với triều đình về nghĩa vụ thuế đinh, thuế điền. Thời
phong kiến, “tấc đất ngọn rau ơn chúa”, muốn lập làng
phải xin phép vua. Tự dưng mà lập làng, tùy tiện xử
kiện, thâu thuế, đóng mộc... thì ghép vào tội làm loạn.

SƠNNAM Thủ tục xin lập làng vùng đất mới tương đối dễ.
Người giàu, có thế lực đứng ra lập làng, hưởng nhiều
ĐẤT cái lợi: vừa tạo địa vị, vừa bóc lột nhân công dễ dàng,
GIA ĐỊNH ban ơn bố đức cho người đến xin cư ngụ. Khi chết được
dân thờ như tiền hiền, hậu hiền trong đình làng. Khi
XƯA cúng đình, con cháu được quyền ăn một mâm riêng,
sang trọng. Nhằm lúc sa sút cũng được làng nâng đỡ.
Làng mới lập dễ thu hút người nghèo, thất nghiệp, vỡ
nợ ở nơi khác đến. Thông thường thì trong thời gian
đầu, người đứng ra lập làng phải ra tay giúp đỡ những
người mới tới, để lấy tiếng tốt.
Khi lập làng, thường thì vẫn còn vài mươi gia đình
sống ẩn lậu, không ghi tên, nhưng triều đình chỉ cần
biết ranh giới làng, số thuế điền, thuế đinh đã hứa nạp.
Tổng đốc nhận đơn, chuyển xuống cho phủ. Quan phủ
đến nơi, cùng với cai tổng, hương chức của những làng
lân cận. Phải có mặt những người xin khẩn đất để xác
nhận ranh giới từng sở, dân lậu phải có mặt để biết lý
lịch, từng can án, giả mạo tên tuổi chăng. Rồi đo đạc
cho đúng diện tích, phân loại đất tốt xấu.
Sau đó, người xin lập làng được quan phủ cấp cho
con dấu nhỏ, bằng cây (vì vậy, mãi cho đến nay còn
quen gọi con mộc, đúng chữ là mộc ký). Những người
đứng tên lập làng mới, theo lịnh quan phủ, được xóa tên
trong sổ bộ làng cũ. Trong tờ phúc bẩm, các thôn trưởng
lân cận ký tên vào, tránh trường hợp sau này khiếu nại
làng này lấn ranh làng kia.

Hai bản tờ phúc bẩm gởi lên tỉnh, chờ quan chuẩn 95
y, rồi tỉnh trả lại cho phủ một bản. Quan phủ trở lại
làng, xác nhận chánh thức, lập tờ biên bản gọi là án
khám. Trong thủ tục lập làng, ý kiến của quan phủ rất
quan trọng.

Lập làng là một việc tốn kém nhưng hấp dẫn cho giới
phú hào thích kinh doanh, nhờ đó họ mặc nhiên làm thôn
trưởng. Một khi thôn đã lập rồi, ai muốn khẩn đất phải
dâng lễ lộc, bù vào tốn kém ban đầu của viên phú hộ.

Đời Tự Đức, tại Châu Đốc, lập ra làng Châu Quới,
tách từ làng Châu Phú ra. Trong đơn ghi bảy người đứng
tên (hai người là dân đinh cũ của làng Châu Phú, còn
năm người là dân lậu). Đất khẩn buổi đầu có 66 mẫu,
gồm cả điền và thổ. Ruộng khẩn quá ít, còn nhiều khoảnh
gọi là hoang nhàn (chưa khai thác) nhưng phải được các
làng kế cận thỏa thuận nhường cho. Những người đến
sau, phần lớn là dân nghèo, dân lậu, xin khai khẩn vùng
đất gọi là “hoang nhàn dư địa”. Từ đó, mới có tiếng chê
bai những người lang thang đi làm ăn nhiều nơi là kẻ
“hoang đàng chi địa”.

*
**

Việc cai trị làng do hương chức.
Muốn làm hương chức phải hội đủ điều kiện: có đứng
bộ đất, ông cha có của, xuất thân quan lại, đỗ đạt, hoặc
từng đứng ra lập làng. Những người thuộc thành phần
trên chọn lựa lẫn nhau. Đáng chú ý: hương chức làng

SƠNNAM phải chăm sóc việc cúng tế đình thần. Sau này, Pháp
mới tách riêng hương chức làng và hương chức đình.
ĐẤT
GIA ĐỊNH Dân lậu, dân ngụ cư không được can dự. Khi cúng
tế ở đình, miễu, dân lậu phải làm tạp dịch: khiêng bàn
XƯA ghế, bửa củi, xay lúa, giã gạo, không có chỗ ngồi trong
mâm cỗ.

Ở ngoài Bắc, làng có hương ước, có thần tích. Ở
Nam Bộ, sưu tầm lại rất khó khăn, không ai biết đến
hương ước, nhất là những làng mới lập sau này. Bản
hương ước còn tìm thấy được là của làng Minh Hương,
soạn thảo lần đầu năm 1800, Trịnh Hoài Đức duyệt lại,
thêm bớt năm 1821, tới năm 1823 lại thêm vài khoản
mới. Làng này quy tụ những người gốc Hoa (theo nhà
Minh), không theo quy chế người nước ngoài (không gia
nhập các bang) mà sinh hoạt như làng xã Việt Nam. Lời
mở đầu bản hương ước ghi: “Nước có pháp luật, nhà có
châm quy”, một kiểu với bản hương ước của làng Dương
Liễu, ở Sơn Tây, lập năm 1739, đời Lê “Nước có pháp
luật quy định, dân có điều ước riêng...”.

Chức vụ hương thân đặt ra từ lúc Nguyễn Tri Phương
vào lãnh chức kinh lược Nam Kỳ.

Gia Định Thành Thông Chí, hoàn tất vào đầu Minh
Mạng ghi: Mỗi làng có dựng một ngôi đình, tùy làng
cúng tế hàng năm vào tháng Giêng hoặc tháng 8, tháng
9 hoặc vào ba tháng cuối năm. Làng nào có người học
thức thì nhân ngày ấy giảng quốc luật và hương ước,
đồng thời báo cáo về tình hình thâu thuế, bầu cử và bàn
giao giữa hương chức cũ và mới.

Ta nêu câu hỏi: Thời các chúa Nguyễn, ở Nam Bộ 97
đình làng ra sao, có hay chưa có? Chúng tôi chưa thấy
tài liệu nào khẳng định thời xưa, ở Gia Định, hễ lập làng
thì lập đình thần.

Về nguyên tắc, sắc thần do vua phong. Các chúa
Nguyễn không chánh thức thừa nhận vua Lê nên nhiều
đình làng nổi danh ở Nam Bộ phải chờ đến triều Nguyễn
mới nhận được sắc thần. Như trường hợp đền thờ ở Châu
Đốc do Nguyễn Văn Thoại lập, sắc phong Nguyễn Hữu
Cảnh là thượng đẳng thần thôn Châu Phủ (chợ Châu
Đốc) đề ngày 29 tháng Mười Một, năm Tự Đức thứ năm,
1852. Và hai làng Vĩnh Tế, làng Thoại Sơn hãy còn hai
đình làng uy nghi thờ Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn Văn
Thoại) người đã đốc suất đào hai kinh Thoại Hà và Vĩnh
Tế. Sắc ở làng Vĩnh Tế (núi Sam) phong năm 1924, ở
Thoại Sơn (núi Sập) phong năm 1943, vào thời Pháp
thuộc, ở đời Khải Định và Bảo Đại. Có lẽ thời trước
đã nhận sắc nhưng bị mất rồi sau xin lại chăng? Thoại
Ngọc Hầu có con gái (con nuôi) lấy chồng từng là kẻ
tích cực theo Lê Văn Khôi.

Phần lớn sắc thần còn thấy đều phong đời Tự Đức.
Xem Gia Định Thành Thông Chí và Đại Nam Nhứt
Thống Chí, ta gặp chi tiết: Trước kia, thời Nguyễn Văn
Thoại ở Châu Đốc, nơi thờ Nguyễn Hữu Cảnh gọi là từ
(đền). Thần thành hoàng ở vùng Châu Đốc được thờ vào
năm Thiệu Trị thứ tư ở làng Vĩnh Ngươn, năm Tự Đức
thứ ba mới dời tới chợ Châu Đốc. Thần thành hoàng ở
Bến Nghé, thờ tại thôn Khánh Hội, cất năm Gia Long

SƠNNAM thứ sáu (1807). Rõ ràng là đền thờ thành hoàng bổn cảnh
ra đời trễ nãi, sau khi Gia Long về Phú Xuân (1802).
ĐẤT Trước đó, khi mới khai thác, chỉ dựng miễu Hội đồng
GIA ĐỊNH để thờ linh thần trong cảnh thổ, tại làng Tân Triêm. Đại
Nam Nhứt Thống Chí, biên soạn trễ hơn, ghi thêm: miễu
XƯA Hội đồng thờ thượng, trung, hạ tam đẳng âm dương chư
linh thần.

Ở Biên Hòa, khi trước miễu Hội đồng xây dựng ở
góc Tây Bắc, sau dời qua phía Tây.

Có thể kết luận: Trước đời Gia Long, phần lớn
thần được thờ là chư vị linh thần, theo kiểu ở miễu
Hội đồng chớ chưa có sắc Thành hoàng bổn cảnh như
lúc sau, khi mà những công thần nhà Nguyễn được
dành ưu tiên.

*
**

Ở Nam Bộ, gọi điền chủ chớ không gọi địa chủ. Có
hai hạng điền chủ: lớn và nhỏ. Điền chủ nhỏ thường gọi
là chủ điền manh, theo nghĩa mảnh đất nhỏ, manh mún.
Cũng phân biệt chủ đất và chủ ruộng. Chủ đất là người
sở hữu đất hợp pháp, đứng tên trong bộ. Chủ ruộng là
người đang sử dụng, thâu huê lợi trên phần ruộng mặc
dầu không phải là người sở hữu, như trường hợp người
phú nông mướn đất của điền chủ rồi mướn người làm,
thâu huê lợi.

Điền chủ lớn thời nhà Nguyễn nắm đất đai tới
mức nào?

Trước tiên, không nên máy móc căn cứ vào diện tích 99
chiếm hữu mà phân định. Làm chủ 50 mẫu ở Rạch Giá
- Cà Mau chưa chắc đã khá hơn làm chủ 5 mẫu ở vùng
Mỹ Tho - Sa Đéc. Ngay ở Rạch Giá - Cà Mau, cũng
nên tùy vùng mà đánh giá. Có người khẩn nhiều đất mà
không đủ vốn khai thác, tá điền không đến vì đất quá
xấu. Có người ít đất nhưng toàn là vườn cây ăn trái thâu
nhập còn cao hơn người nhiều đất mà chỉ làm ruộng.
Có người ít đất mà nhiều tiền, bên cạnh việc cho mướn
ruộng, còn kinh doanh chủ yếu bằng cho vay nặng lãi.

Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), một điền chủ ở
vùng chợ Sa Đéc, làng Vĩnh Phước, chết để lại một gia
tài như sau:

Ruộng: 75 mẫu.
Nhà: 1 nhà ngói ba căn.
Vàng bạc: 2 đôi xuyến vàng, 7 đôi bông vàng, 10
đôi xuyến vàng (tử kim), 4 bộ ngũ sự (chân đèn, lư
hương...), 10 xâu chuỗi hổ phách, 50 đính bạc (mỗi
đính 10 lượng), 1.000 đồng bạc điếu ngân (bạc con ó
Mê-hi-cô), 15.000 ngàn quan tiền kẽm và một số bạc
con nợ chưa trả.
Một mẫu đất tốt, thời Minh Mạng trị giá khoảng
170 - 180 quan. Người điền chủ này dư sức mua hàng
trăm mẫu đất nhưng rõ là ham dành bạc để cho vay.
Đó là một người điền chủ vùng gần chợ Sa Đéc,
đất tốt dễ làm ăn. Nhưng Sa Đéc cũng không bằng Chợ
Gạo (Mỹ Tho). Huyện Kiến Hòa, từ Chợ Gạo ăn qua
Gò Công, được Trịnh Hoài Đức ca ngợi là “đất ruộng

SƠNNAM phì nhiêu, mênh mông bát ngát, nhiều người lấy việc
canh nông làm gốc, trong nhà lúa gạo đầy vựa, lại có
ĐẤT đức tính trung hậu, cần kiệm, vui làm việc nghĩa, an lạc
GIA ĐỊNH cùng nhau, là nơi có di phong thời cổ vậy”.

XƯA Vùng Chợ Gạo gồm đất giồng Gò Công, thêm một
phần của Long An và ăn gần chợ Mỹ Tho. Vùng này
gạo ngon có tiếng, sản xuất nơi đất giồng, ruộng cày.
Đất vùng này “chắc thịt”, đất “thuộc” (từ thuần thục,
nói trại ra thành thuộc, nói tắt là thuộc”. Về phía Hậu
Giang cũng vậy, gạo Ba Thắc (Bãi Xàu, Sóc Trăng) nổi
danh nhờ ở đất giồng, gần biển.

Vùng Chợ Gạo khẩn hoang rất sớm. Chúng ta còn
được một ít tài liệu cho biết số người khẩn hoang từ đầu
và sự hình thành một số điền chủ ở đây. Những gia đình
“cố cư” (đúng ra là kế cư) hãy còn nhắc nhở việc ông
bà ngày trước từ Quảng Nam vào. Một tài liệu xác nhận
rằng làng Thanh Xuân (vùng Chợ Gạo) do một người
từ làng An Xá, vùng Ba Đèo, Quảng Nam đến đây với
bốn người con trai, một người con gái (còn hai người
con gái ở lại quê nhà) để khai khẩn, lập làng. Đến đây
lúc nào không thấy ghi rõ, chỉ biết là vào năm 1805 con
cháu họp lại để hùn tiền, cho vay lấy lời mà xây cất phủ
thờ cho dòng họ. Văn tự soạn năm 1805 ghi rõ người
đầu tiên của dòng họ vào đây thuộc hàng ông cố nội,
ta đoán vào khoảng đầu thế kỷ XVIII.

Vài tư liệu có hệ thống hơn, liên quan đến gia đình
một điền chủ lớn ở Chợ Gạo, đời Tự Đức là bá hộ Trần
Văn Học. Bá hộ này còn sống đến khi Pháp xâm lược.


Click to View FlipBook Version