The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-09-30 00:48:16

Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

***Tài liệu sưu tầm***

**** CẢNH SÁT QUỐC GIA VNCH ****

Republic of Vietnam
National Police



Lịch Sử Ngành Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

- ​Tài liệu sưu tầm quá trình Lực lượng CSQG VNCH.

Nói đến Ngành Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, nhiều người chỉ hiểu về những người chỉ có Nhiệm Vụ Giữ
Gìn An Ninh Trật Tự, hoặc Điều Hòa Lưu Thông ở khắp các Thành Phố, Thôn Xóm...
Không nhiều tài liệu ghi lại những Danh Xưng, Tổ Chức theo từng Giai Đoạn đổi thay của Lịch Sử: Từ Thời Pháp
Thuộc, đến Thời Đệ I Cộng Hòa và Đệ II Cộng Hòa... Với sự trợ giúp của Quý Niên Trưởng --Những Bậc Tiền Bối
trong Ngành Cảnh Sát Quốc Gia như: Đàm Trung Mộc, Lê Sơn Thanh, Trần Trần Trọng Sanh, Thành Phước Thành,
Ðặng Văn Minh v.v...

A- Giai Đoạn 1: Thời Kỳ Phôi Thai.

Sau 19/12/1946, Pháp đã chiếm lại một số lãnh thổ trên các Miền Bắc, Trung và Nam đặt lại nền đô hộ trên các phần
đất chiếm lại của Việt Minh. Tại các địa phương đó, Pháp đã trao lại cho các Chính Khách thân với họ để lập nền
Hành Chánh địa phương.

Ngày 5/3/1947 Pháp cử Nghị Sĩ Emile Bollaert sang làm Cao Ủy Pháp tại Việt Nam. Một Ủy Ban Lâm Thời được
thành lập tại Huế. Tại Bắc Phần, Pháp cho thành lập Ủy Ban Lâm Thời Hành Chánh và Xã Hội. Tại Miền Nam, Bác
Sĩ Nguyễn Văn Thinh được Hội Ðồng Tư Vấn Nam Kỳ cử ra thành lập Chính Phủ Nam Kỳ. Tại mỗi địa phương đều
thành lập lấy Cơ Quan An Ninh riêng để giữ gìn an ninh và trật tự cho chính quyền địa phương và bảo vệ phần nào
dân chúng trở về sau cuộc chiến.

Về phía người Pháp, lập lại nền đô hộ với Sở Liêm Phóng Liên Bang và Địa Phương, có thẩm quyền và quyền hạn
trên cả các Cơ Quan An Ninh địa phương.

Sau khi Pháp chiếm lại toàn ven lãnh thổ, họ cho thành lập những Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời, với các tên gọi
như: Hội Ðồng Chấp Chánh Lâm thời ở Trung Phần, Hội Ðồng An Dân ở Bắc Phần và Chính Phủ Nam Kỳ ở Nam
Phần.

Các S​ ở Công An được thành lập ở Hà Nội, Huế và Sai Gòn. Ở mỗi thị xã có một Ty Cảnh Sát, nhân viên là cựu công
chức thuộc các Ngành An Ninh Pháp hoặc các Ngạch Hành Chánh hay Chuyên Môn trước năm 1945, và có một số
được tuyển dụng tạm thời. Lương bổng do địa phương đài thọ. Chưa có hệ thống từ Trung Ương.

Năm​ 1948,​ Hàng Ðế Bảo Ðại đứng ra điểu đình với Bollaert để thành lập một Chính Phủ Lâm Thời và giao cho Thiếu
Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng. Sắc Lệnh Số 48/SG ngày 18/2/1948 tổ chức các Cơ Quan trực thuộc Thứ
Trưởng Nội Vụ, trong đó có một “Ty Giám Ðốc Cảnh Sát và Mật Thám Quốc Gia”.

Thi hành Thỏa Ước Việt - Pháp ngày 8/3/1949, công bố tại Điện Elysée, liên quan đến chủ quyền Việt Nam, một số
bộ phận thuộc các Sở An Ninh Pháp bắt đầu chuyển giao cho chính phủ Việt Nam, nhưng công tác Tình Báo Chống
Cộng vẫn do Sở Liên Phóng của Pháp đảm trách.

B- Giai Đoạn 2: Thời Kỳ Tổ Chức Có Hệ Thống.

Nghị Ðịnh Số 59/BNV ngày 24/4/1950​ của Thủ Tướng, quy định việc tổ chức Ngành Công An và Cảnh Sát Quốc Gia.
Một Nha Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Ðược thành lập tại Trung Ương. Mỗi phần có một Sở Cảnh Sát Công An: Hà Nội,
Huế và Saigòn. Một tỉnh có một Ty Công An, mỗi thị xã có một Ty Cảnh Sát. Về hành chánh và lương bổng trực
thuộc địa phương, còn chuyên môn trực thuộc Trung Ương. Ở mỗi quận thuộc tỉnh có một Chi Công An.

Ngày 14/6/1950 Sở Liêm Phóng và Cảnh Sát Pháp tại Hà Nội được chuyển giao cho phủ Thủ Hiến Bắc Việt. Tháng
7/1951, tại Miền Trung, Thủ Hiến Trần Văn Lý cho thành lập Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần.

Sắc Lệnh Số 81/CA ngày 29/11/1951 thiết lập các Ngạch Cảnh Sát và Công An, ấn định thể thức tuyển dụng,
ngạch trật, chỉ số long.v.v… Trong năm 1952 có 2 lần nhập Ngạch Cảnh Sát Công An cho nhân viên tùng sự tại các
nơi. Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Công An trong thời kỳ này là Tổng Kiểm Tra Mai Hữu Xuân.

Ngày 23/6/1954 Ông Ngô đình Diệm về nước lập Chính Phủ với tư cách Thủ Tướng do Quốc Trưởng Bảo Ðại chỉ
định. Nền Hành Chánh, Quân Sự và Cảnh Sát Công An tại Bắc Phần và các tỉnh Bắc Trung Phần đều triệt thoái vào
Nam, từ Vĩ Tuyến 17 trở xuống.

Ngày 7/10/1954 các Cơ Quan An Ninh Pháp hoàn tất việc chuyển giao Cảnh Sát Công An cho Việt Nam. Thời kỳ
này, Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Công An là Lai Văn Sang, thuộc Lực Lượng Bình Xuyên đảm trách.

Sắc Lệnh Số 120/CV ngày 25/10/1954 thiết lập các Ngạch Điều Khiển và cải tổ Ngành Cảnh Sát Công An.

Tổng Nha Cảnh Sát Công An, gồm có các Sở: Hành Chánh, Tư Pháp, Cảnh Sát Ðặc Biệt... Sở do Chánh Sở điều
khiển. Sở chia ra phòng do Chủ Sự điều khiển.

Tại các Nha Phần, có các Phòng: Tình báo tổng quát, tình báo đặc biệt, hành chánh, kế toán, căn cước, tư pháp...
do một Chủ Sự điều khiển. Các Chi ở Quận không thay đổi.

Ngày 26/3/1955, vào thời kỳ Bình Xuyên lộng quyền ở Sai Gòn, Nha Cảnh Sát Ðô Thành được thành lập, chỉ thuộc
quyền Ðô Trưởng mà không thuộc quyền Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Công An Lai Văn Sang. Sau những gây rối do
Công An Xung Phong của Bình Xuyên tạo ra, gặp sự phản công của quân đội ở 3 mặt cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên
Ðường thuộc Xóm Củi và Phú Lâm, Lai Văn Sang được thay thế bởi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Lễ do Nghị Định ngày
24/4/1955 của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Trong Nghị Định này, cũng giải tán Công An Xung Phong. Sau đó, Giám
Ðốc Cảnh Sát Công An Nam Phần Nguyễn Văn Tôn cũng bị thay thế bởi Trung Tá Trần Vĩnh Ðắt. Trụ Sở Tổng Nha
tạm di chuyển về bên hông Nha Cảnh Sát Ðô Thành đường Trần Hưng Ðạo.

Ngày 29/4/1955, một Hội Ðồng Nhân Dân Cách Mạng được thành lập, từ đó đưa tới “Việc Trất Phế Bảo Ðạ”i, và Ông
Ngô Ðình Diệm “được ủy nhiệm làm” Thủ Tướng để thành lập Chính Phủ mới. Sau những đợt di cư vào Nam, các
Phòng, Sở của Nha Miền Bắc đều sung vào các Phòng mới thành lập, riêng nhân viên Cảnh Sát Công An các Ty
Miền Bắc và các tỉnh Bắc Trung Phần đều sung vào Phòng Ðiều Tra Ðặc Biệt. Sau đó Tổng Nha được dời về bout
Catinat (gần bưu điện) và có thêm một vị Phó Tổng Giám Ðốc --ông Nguyễn Văn Hướng, nguyên là Giám Ðốc Công
An Bắc Phần. Tổng Nha Cảnh Sát và Công An trực thuộc Bộ Nội Vụ, do ông Bùi Văn Thinh làm Bộ Trưởng.

Cấp chỉ huy của các Nha lúc bay giờ là:

-Nha Cảnh Sát và Công An Nam Phần, ông Trần Bá Thành làm Giám Ðốc.

-Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần, ông Nguyễn Chữ làm Giám Ðốc.

-Nha Cảnh Sát và Công An Cao Nguyên, ông Nguyễn Văn Hay làm Giám Ðốc.

-Nha Cảnh Sát Ðô Thành, ông Trần Văn Tư làm Giám Ðốc.

Ngày 28/5/1955, Ðại Sứ Hoa Kỳ Freiderick Rheinardt trình ủy nhiệm thư, đánh dấu giai đoạn chuyển hướng nền
Hành Chánh, nói chung, và Ngành Cảnh Sát Công An Việt Nam. Trong chiều hướng canh tân, chính phủ nhờ Phái
Bộ Hoa Kỳ phụ giúp việc huấn luyện Cảnh Sát Công An.

-Ngày ​24/10/1956​, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thay cựu Hoàng Bảo Ðại trong chức vụ Quốc Trưởng. Tổng Thống
ký Sắc Lệnh Số 147/a/TTP chia Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần ra làm 2: Nha Cao Nguyên và Nha Trung
Nguyên --Nha Cảnh Sát Công An Cao Nguyên và Nha Cảnh Sát Công An Trung Nguyên Trung Phần.

Tại Tổng Nha có Sở Trung Ương Tình Báo, phòng Tư Pháp, Phòng Hành Chánh, phòng Ngoại Kiều, phòng Nhân
Viên và phòng Kế Toán.

Ngày 8/12/1956, Ðại Tá Phạm Văn Chiểu thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Lễ.

Ngày 6​ /6/1960, bắt đầu phát thẻ căn cước bọc nhựa cho dân chúng Ðô Thành do Cảnh Sát Công An đảm trách.

Vào thời kỳ này, Ngành Cảnh Sát Công An có các Trung Tâm Huấn Luyện:

-Trung tâm huấn luyện Trung Cấp, thuộc Tổng Nha.

-Trung tâm huấn luyện Sơ Cấp tại Vũng Tàu.

-Trung tâm huấn luyện Tam Hiệp (Biên Hòa).

Ngày 13/11/1961, Ðại Tá Nguyễn Văn Y được cử làm Tổng Giám Ðốc thay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là. Dưới thời
Ðại Tá Y nhiều thay đổi quan trọng trong Ngành Cảnh Sát Công An Việt Nam. Ngoài những nhiệm vụ thường lệ, còn
có thêm một Cơ Quan Tình Báo khác, đó là Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo.

Theo Sắc Lệnh Số 146/NV ngày 27/6/1962, Ngành Cảnh Sát và Công An được hợp nhất và cải tổ thành Cảnh Sát
Quốc Gia. Ở​ Tỉnh không còn Ty Công An và Ty Cảnh Sát; chỉ có một Ty Cảnh Sát Quốc Gia mà thôi. Hành chánh,
lương bổng, tiếp liệu, chuyên môn... trực thuộc Tổng Nha. Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia gồm nhiều Sở, nằm trong 3
Khối chính: Khối Cảnh Sát Ðặc Biệt, Khối Tư Pháp và Khối Hành Chánh. Mỗi Khối do một Phụ Tá Tổng Giám Ðốc
điều khiển. Cũng trong dịp cải tổ này, một số Phòng được nâng lên thành Sở và Ban được nâng lên thành Phòng:

- Khối Cảnh Sát Ðặc Biệt: Nghiệp vụ về Tình Báo và Phản Tình Báo, để ngăn ngừa và đối phó với những hoạt động
xâm nhập và phá hoại của Cộng Sản kể cả lo việc huấn luyện chuyên môn cho nhân viên như: Tình Báo căn bản,
Tình Báo và Phản Tình Báo cao cấp, Cán Bộ Điều Khiển, Cán Bộ Sưu (Truy) Tầm v.v…

- Khối Tư Pháp: Cấp phát Căn Cước, Tổng Văn Khố, Giảo Nghiệm, Cảnh Sát Hành Chánh, điều tra Tư Pháp và
Ngoại Kiều.

- Khối Hành Chánh: Nhân Viên, Kế Toán, Tiếp Liệu, Truyền Tin, Nội Dịch và Huấn Luyện.

Ngày 2/7/1963 bảy (7) Nha Cảnh Sát Quốc Gia được tổ chức lại: Nha Trung Phần (Huế), Nha Nam Trung Nguyên
Trung Phần (Nha Trang), Nha Cao Nguyên (Ðà Lạt và Ban Mê Thuộc), Nha Miền Ðông Nam Phần (Biên Hòa), Nha
Tiền Giang (Mỹ Tho), Nha Hậu Giang (Cần Thơ) và Nha Ðô Thành Sai Gòn.

Ðầu năm 1964​, do Sắt Luật SL4/QP Ngành Hiến Binh Việt Nam được giải tán và sau đó một phần nhân viên được
chuyển qua Cảnh Sát Quốc Gia. Ở các Tỉnh Miền Nam, số Cảnh Sát hương thôn, Cảnh Sát Thị xã (ngoại ngạch)
cũng được chuyển ngạch Cảnh Sát Quốc Gia.
Sắc Lệnh Số 19/NV ngày 27/1/1965​, qui định việc thành lập Đoàn Cảnh Sát Dã Chiến tại Tổng Nha. Sau đó, do Sắc
Lệnh Số 42/NV ngày 17/7/1965, quy định tại Tổng Nha có thêm Khối Yểm Trợ, gồm có Lực Lượng Cảnh Sát Dã
Chiến và Giang Cảnh. Một Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến được thành lập tại Ðà Lạt.
Vào khoảng tháng 7 năm 1965, sau khi can thiệp và được Chính Phủ cho được Miễn Động Viên, Tổng Nha được
tuyển dụng những nhân viên có bằng cấp Tú Tài trở lên được theo học các Khóa Sĩ Quan Cảnh Sát để thành những
cấp chỉ huy tương lai. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập để đào tạo những người này thành những
Biên Tập Viên (có Tú Tài II) và Thẩm Sát Viên (có Tú Tài I) và phải qua một kỳ thi tuyển. Cho đến ngày 12/3/1966,
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia mới được hợp thức hóa bằng Nghị Ðịnh Số 416/NÐ/NV. Thời gian học của các Sĩ
Quan này là 1 năm. Khóa 1 Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia khai giảng ngày 1/3/1966 tại Trai Lê văn Duyệt, trong khu
Biệt Khu Thủ Ðô Sai Gòn. Viện Trưởng Học Viện đầu tiên là Quận Trưởng Cảnh Sát Ðàm Trung Mộc (mất ngày
28/12/1982, nhằm ngày 14 tháng11 Năm Nhâm Tuất tại “Trại Tù Cải Tạo” Hà Sơn Bình, Bắc Việt). Sau đó. Học Viện
Cảnh Sát Quốc Gia được dời về trụ sở mới ở Thủ Ðức vào đầu năm 1969.

C- Giai Đoạn 3: Thời Kỳ Phát Triển.

Cuối năm 1966, Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia dự trù tăng từ 22.000 người lên 72.000 người. Theo đó, Tổng Nha
tuyển dụng thêm một số nhân viên ngoại ngạch, gọi là Cảnh Sát Viên Phù Động Đồng Hóa Công Nhật, luơng bổng
do viện trợ Hoa Kỳ đài thọ.
Sắc Lệnh Số 160/SL/AN ngày 30/10/1967 và được bổ túc bởi Sắc Lệnh Số 26/SL/NV ngày 12/3/1969 lại cải tổ
Ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Các Sở thuộc Khối Hành Chánh được chia ra thành Khối Nhân Huấn và Khối Hành
Chánh. Hai Khối này, một lần nữa sắp xếp lại thành Khối Huấn Luyện và Khối Quản Trị.
Trong thời kỳ này, Tổng Nha thay đổi danh xưng của Khối Yểm Trợ thành Khối Hành Quân, thêm Nha An Ninh Cảnh
Lực và Trung Tâm Bình Ðịnh và Phát Triển. Bảy (7) Nha Cảnh Sát trước đây được xếp lại thành bốn (4) theo các
Vùng Chiến Thuật và Nha Ðô Thành Sai Gòn.

Sắc Lệnh Số 17A/TT/SL ngày 1/3/1971 thành lập Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia thay Tổng Nha trước đây và các
hệ thống trực thuộc như sau:

-Bộ Tư Lệnh.
-Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Khu I, II, III, IV và Thủ Ðô.
-Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia của Tỉnh, Thành Phố biệt lập (như Ðà Nẵng, Vũng Tàu...) hay các Quận ở Thủ Ðô.
-Bộ Chỉ Huy Quận của các Tỉnh hay các Thành Phố biệt lập.
-Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia ở Xã hay Phường ở Thủ Ðô.
Sắc Lệnh Số 59/SL/NV ngày 22/6/1971, ấn định cấp bậc, chỉ số lương, cấp hiệu nhân viên các cấp của Lực Lượng
Cảnh Sát Quốc Gia giống như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm có:
-Cảnh Sát Viên
-Trung Sĩ, Thượng Sĩ Cảnh Sát.
-Thiếu Úy, Trung Úy, Ðại Úy Cảnh Sát.
-Thiếu Tá, Trung Tá, Ðại Tá Cảnh Sát.
-Chuẩn Tướng, Thiếu Tướng, Trung Tướng Cảnh Sát.
Mỗi cấp có nhiều bậc, để được cứu xét trong mỗi kỳ thăng thưởng hàng năm hay đặc biệt (đặc cách vì chiến công).
Việc cải chuyển từ Ngạch Trật cũ ấn định bởi Sắc Lệnh 81/CA ngày 19/11/1971 qua cấp bậc mới cho Nhân Viên
Cảnh Sát Quốc Gia và cho Nhân Viên Biệt Phái được thực hiện từ tháng 7 năm 1971.
Ngày 1/6 hàng năm được ấn định là Ngày Truyền Thống Cảnh Sát Quốc Gia từ năm 1971.
Nhân số Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã tăng đến 135.000 người vào năm 1975 để đáp ứng với nhu cầu của việc
Việt Nam hóa chiến tranh chống với Cộng Sản Bắc Việt
-SOURCE:h​ ttp://saigonecho.info/main/giadinhcsqg/canhsu/27983-lch-s-nganh-cnh-sat-quc-gia-vnch.html

Dưới thời Pháp – Nhật đô hộ Việt Nam, họ đã dùng bộ máy an ninh, Phòng Nhì (Deuxième
Bureau de l’État-major général, Deuxième Bureau) là cơ quan tình báo quốc phòng của Pháp ở
Việt Nam, Sở Liêm Phóng Đông Dương hay Sở Mật Thám Đông Dương (Sûreté général
indochinoise) là một cơ quan tình báo, mật thám và an ninh của chính quyền Liên Bang Đông
Dương, hoạt động từ năm 1917 đến hết thời Pháp thuộc. Hiến Binh Nhật (憲兵隊) là đội quân
cảnh của Nhật hoạt động từ 1881-1945. Lực lượng giống Công an của thực dân Pháp có
nguồn gốc từ „Gendarmerie“ có nghĩa là “người được vũ trang”. Đây là một lực lượng quân sự
hay bán quân sự, có nhiệm vụ như cảnh sát thi hành công vụ. Những cơ quan trên cai trị ở Việt
Nam không tôn trọng luật pháp thường lộng hành bắt người, đánh đập:

Hà Nam danh giá nhất ông cò

Trông thấy ai ai chẳng dám ho

Trần Tú Xương

Bởi lý do trên người dân có thành kiến với Cảnh sát giống như hiện nay dưới chế độ CSVN.
Cảnh sát, Công an thi hành nhiệm vụ lập lại cách hành xử tàn bạo, bất công như thời Tây.
Dùng quyền lực, thủ đoạn và vũ khí áp chế, hà hiếp dân lành, tiêu diệt những những cá nhân
hay tổ chức bất đồng chính kiến dám lên tiếng cho công lý, Công an tiếp tay với bọn côn đồ đàn
áp và tước đọat những quyền lợi căn bản của con người. Đời sống đạo đức xã hội suy đồi,
người dân thấp cổ bé miệng chịu thiệt thòi trong mọi lãnh vực, cán bộ lớn, nhỏ đều lợi dụng
quyền lực tham nhũng hối lộ để ăn trên ngồi trước, công lý và tình người bị lãng quên.

Trên thế giới mỗi quốc gia đều có Cảnh sát bảo vệ luật pháp, trật tự anh ninh xã hội. Tại miền
Nam Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975, từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ngày 24.10.1956 Ngô
Ðình Diệm thay cựu Hoàng Bảo Ðại trong chức vụ Quốc Trưởng, rồi được bầu làm T.Thống, ký
sắc lệnh chia Nha Cảnh Sát và Công An Trung phần ra làm 2: Nha Cao nguyên và Nha Trung
nguyên. Tại Tổng Nha có Sở Trung Ương Tình báo, phòng Tư pháp, phòng Hành chánh,
phòng Ngoại kiều, phòng Nhân viên và phòng Kế toán giữ vai trò quan trọng và hoạt động phối
hợp chặt chẽ với Quân Đội VNCH (chuyển đổi từ thực dân sang chế độ VNCH vì thiếu nhân sự
phải lưu dụng nhân viên của thời Pháp thuộc, nên không tránh được những khuyết điểm của
một thời!).

Ngày 06.6.1960, bắt đầu làm thẻ căn cước bọc nhựa cho dân chúng, thời kỳ này ngành Cảnh
Sát Công An (CSCA) có các trung tâm:

-Trung tâm huấn luyện Trung cấp, thuộc Tổng Nha.

-Trung tâm huấn luyện Sơ cấp tại Rạch Dừa Vũng Tàu.

-Trung tâm huấn luyện Tam Hiệp (Biên Hòa).

Ngày 13.11.1961 trong ngành CSCA có thêm cơ quan Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình báo.
Ngày 27.6.1962 ngành CS và CA hợp nhất và cải tổ thành Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG). Ở
Tỉnh không còn Ty Công An và Ty Cảnh Sát; chỉ có một Ty CSQG. Hành chánh, lương bổng,
tiếp liệu, chuyên môn… trực thuộc Tổng Nha. Tổng Nha CSQG gồm nhiều Sở, nằm trong 3
khối chính: khối CS Ðặc Biệt, khối Tư pháp và khối Hành chánh. Mỗi khối do một phụ tá Tổng
giám đốc điều khiển. Cũng trong dịp cải tổ này, một số Phòng được nâng lên thành Sở và Ban
được nâng lên thành Phòng:

Khối CS Ðặc Biệt:​ chuyên về tình báo và phản tình báo, để ngăn ngừa và đối phó với những
hoạt động xâm nhập và phá hoại của cộng sản kể cả lo việc huấn luyện chuyên môn cho nhân
viên như: tình báo căn bản, tình báo và phản tình báo cao cấp, Cán Bộ Điều Khiển, Cán Bộ
Sưu (Truy) Tầm v.v…

Khối Tư Pháp​: Cấp phát căn cước, Tổng văn khố, Giảo nghiệm, CS Hành chánh, điều tra Tư
pháp và Ngoại kiều.

Khối Hành Chánh:​ Nhân viên, Kế toán, Tiếp liệu, Truyền tin, Nội dịch và Huấn luyện.

-Ngày 2.7.1963 bảy (7) Nha CSQG được tổ chức lại: Nha Trung Phần (Huế), Nha Trung
nguyên Trung phần (Nha Trang), Nha Cao nguyên (Ðà Lạt và Ban Mê Thuộc), Nha Miền Ðông

Nam Phần (Biên Hòa), Nha Tiền Giang (Mỹ Tho), Nha Hậu Giang (Cần Thơ) và Nha Ðô Thành
Sài Gòn.

-Năm 1964 ngành Hiến Binh giải tán, một phần nhân viên được chuyển qua CSQG, Cảnh Sát
Hương Thôn, Cảnh Sát Thị Xã (ngoại ngạch) cũng được chuyển ngạch sang.

-Ngày 27.1.1965, qui định việc thành lập đoàn Cảnh Sát Dã Chiến (CSDC) tại Tổng Nha.

-Ngày 17.7.1965 có thêm Khối Yểm Trợ, gồm có Cảnh Sát Dã Chiến và Giang Cảnh. Trung tâm
huấn luyện CS Dã Chiến được thành lập tại Ðà Lạt. CSDC là thành viên chính yếu trong chiến
dịch Phượng Hoàng. CSDC phối trí hoạt động từ thành thị cho tới nông thôn có hai biệt đoàn:

– Biệt Ðoàn 5 CSDC có 12 đại đội tác chiến, được phối trí hoạt động trong khắp các quận của
đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Ðịnh.

– Biệt Ðoàn 222 CSDC là biệt đoàn tổng trừ bị của Bộ Tư Lệnh CSQG, sẵn sàng tăng cường
yểm trợ hoạt động cho tất cả các Bộ Chỉ Huy CSQG trên 4 vùng chiến thuật.

Từ năm 1969 trở về sau, do nhu cầu yểm trợ chiến dịch Phượng Hoàng, CSDC ở các tỉnh trên
toàn quốc được thành lập. Mỗi tỉnh và thị xã biệt lập có một đại đội CSDC. Các trung đội được
đưa xuống hoạt động ở khắp các quận hành chánh của tỉnh. Mỗi quận được bố trí một trung đội
CSDC, vai trò của sĩ quan trung đội trưởng, không những am tường về luật pháp mà còn phải
biết chỉ huy như một sĩ quan bộ binh.

Tại Sài Gòn còn có đội Cảnh sát bài trừ du đảng, tệ đoan xã hội, từng bắt các tên trùm du đảng
khét tiếng như: Đại Cathay, Điền Khắc Kim… bảo vệ đời sống an bình cho người dân. Ngược
lại sau 1975 một tướng Công An “chống lưng” cho ông trùm xả hội đen Năm Cam! vụ án Năm
Cam nổi tiếng nhiều người có quyền bị liên lụy.

Thành lập Học Viện CSQG

Học Viện CSQG thành lập ngày 12.3.1966
tuyển dụng sĩ quan đào tạo những khóa Biên Tập Viên (Tú Tài II) và Thẩm Sát Viên (Tú Tài I)
và phải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học tại Học Viện là 1 năm. Khóa 1 Sĩ quan CSQG khai
giảng tháng 3.1966 tại trại Lê văn Duyệt, trong khu Biệt Khu Thủ Ðô Sài Gòn. Viện Trưởng đầu
tiên là quận trưởng Cảnh sát Ðàm Trung Mộc (mất ngày 28.12.1982, tại “trại tù cải tạo” Hà Sơn
Bình). Trước khi trút hơi thở cuối cùng trong trại tù cải tạo, ông không bỏ chạy: “Tôi trót sinh ra
là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam và ước nguyện được chết trên quê hương Việt
Nam. Trước sau, tôi không bao giờ tìm đường thoát thân ra nước ngoài”. Là một Sĩ quann
CSQG bậc thầy được Sĩ quan đàn em kính yêu.

Năm 1969 Học Viện CSQG dời về Thủ Ðức (trên đồi Tăng Nhơn Phú). Đến năm 1972 Học Viện
đào tạo khóa 6 BTV (Biên Tập Viên) và khóa 6 TSV (Thẩm Sát Viên).

Sau khoá 4/72 tuyển Sĩ quan CSQG từ 4 vùng chiến thuật có Tú Tài II trở lên phải thi qua các
trung tâm: Đà Nẵng, Nha Trang và Học Viện CSQG ở Thủ Đức. Thí sinh dự thi trên 3 hay 4000
người, nhưng chỉ nhận 400 hay 250 người (khóa 8 nhận ½ tân tuyển và ½ đặc biệt là nhân viên
cảnh sát cơ hữu) phải đầy đủ sức khỏe và cao từ 1m65. (bài thi trên giấy có cắt phách, qua các
đề thi về Sử, văn chương có tính cách lý luận về đạo đức cũng như luật pháp, thí dụ: „bạn nghĩ
gì về tự do như một dòng nước vở bờ“, bài dịch từ Việt ngữ sang Anh ngữ: „ra khơi của Đoàn
Văn Cừ“)…​

Về lý lịch điều tra rất cẩn thận, tránh trường hợp như Nguyễn Minh Triết khóa I. HVCS, bị phát
hiện thân cộng, ông trốn vào bưng hoạt động cho Cộng sản và trở thành Chủ Tịch nước
CSVN.(ông Trương Công Cảnh cựu thiếu tá CSQG là bạn cùng khóa với ông Triết, ngày ông
Triết đến California mời ông Cảnh tới dự tiệc, sau đó ông Cảnh bị Hội Đồng Hương Quảng
Nam- Đà Nẵng tẩy chay phải sống cô đơn với tuổi già)!. Thời gian dự bị Sinh viên sĩ quan phải
thụ huấn tại Trung Tâm Cán Bộ Hóa Công Chức (rừng Chí Linh Vũng tàu) và T.Tâm huấn luyện

CS căn bản Rạch Dừa Vũng Tàu, thời gian 3 tháng, học căn bản quân sự như: tập thao diễn cơ
bản, tập bắn, tháo ráp vũ khí, điạ hình… đến T.Tâm Vạn Kiếp „bò hỏa lực“ đi đoạn đường chiến
binh, rèn luyện tính can đảm…tập điều khiển giao thông…Sau đó được gắn Alpha trở về HVCS
Thủ Đức học tiếp 10 tháng chuyên môn

1/Giai đoạn I Trung Tâm Huấn luyện Rạch Dừa về quân sự:

Chiến Thuật: Tác chiến theo đội hình, Kỹ thuật vượt sông, Phục Kích, Phản phục kích, Ngụy
trang,…

Địa Hình: Sử dụng địa bàn, bản đồ quân sự, di hành ngày và đêm,…

Cơ Bản Thao Diễn: Diễn hành đều bước theo đội hình, Nghi thức chào kính bằng tay hoặc có
súng,…

Tiến Dưới Hỏa Lực

Vượt Đoạn Đường Chiến Binh

Vũ Khí và Tác Xạ các loại súng: súng lục, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên.

Tản thương và cứu thương

Võ Thuật (Tae Kwon Do căn bản)

2) Giai Đoạn II về Luật và chuyên môn các ngành

Các SVSQ sẽ được huấn luyện về Luật học và các phần vụ chuyên môn của người cảnh sát,
gồm có các môn:

Hình Sự Tố Tụng

Hình Luật Đặc Biệt

Dân Luật

Dân Sự Tố Tụng

Cảnh Sát Tư Pháp: Các phương pháp điều tra, lập biên bản, thẩm vấn,…

Cảnh Sát Hành Chánh: Phương pháp sưu tra hành chánh, điều tra hành chánh,…

Cảnh Sát Công Lộ (Điều hòa lưu thông)

Cảnh Sát Khoa Học: Phương pháp giảo nghiệm (lấy dấu tay, thu thập tang vật, xét nghiệm mẫu
tang vật,…)

Cảnh Sát Đặc Biệt (An Ninh Tình Báo)

Căn Cước & Văn Khố

Trấn Áp Bạo Động (Dẹp biểu tình)

Kỹ Thuật Tuần Tiểu (Tuần Cảnh), Hành Quân Cảnh Sát

Lãnh Đạo Chỉ Huy, Giao tế dân sự….

Về trình độ học vấn căn bản Tú Tài II nhưng thực tế Sinh Viên Sĩ Quan tân tuyển bằng cấp cao
hơn đã tốt nghiệp cử nhân luật, cao học hay các chứng chỉ Đại Học, nhưng ra trường cấp bậc
Thiếu úy, giống như các trường Sĩ quan: Không quân, Hải quân, Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, tuổi trẻ
làm việc hăng say đúng với tình thần „​Công-Minh-Liêm-Chính“​ .​ Quyết tâm thề nguyện:

-Tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc, sẵn sàng hy sinh cho Dân Tộc

-Cương quyết thi hành luật pháp Quốc Gia

-Quyết tâm bảo vệ tài sản của Đồng Bào

-Luôn nêu cao Danh Dự và Trách Nhiệm của CSQG.

-Lấy Công, Minh, Liêm, Chính làm phương châm trong mọi hoạt động.

Ngoài ra một sự thay đổi đáng kể trong ngành CSQG là từ năm 1972 Sĩ quan trẻ ra trường từ
Học Viện CSQG mang cấp bậc Thiếu úy là những sĩ quan Cảnh Sát đa năng đa hiệu với bầu
nhiệt huyết của tuổi trẻ, thanh liêm có thể làm những cột trụ thi hành luật tốt đẹp hơn một tương
lai nhiều hy vọng, Nhưng đau buồn ngôi nhà Việt Nam bị sụp đổ sau 30/4/1975. Học Viện hàng
năm có nhiều khóa tu nghiệp chuyên môn. Viện trưởng Đại Tá Đàm Trung Mộc về bộ tư lệnh
CSQG, Trung tá Trần Minh Công có bằng cao học kinh tế thay thế (sau lên Đại tá) làm Viện
trưởng, Trung Tá Phạm Công Bạch cữ nhân luật Viện phó, Thiếu tá Ngô Bá Phước, Liên Đoàn
Trưởng sinh viên SQ và Thiếu tá Quách Trung Chánh Liên Đoàn Phó (đã qua đời trong trại tù
cải tạo.) Học Viện CSQG huấn luyện sĩ quan tới khóa 10 và 11 chưa ra trường thì tan hàng rả
đám (30.4.1975), Khóa đầu tiên và duy nhất có 50 nữ sĩ quan, người có cấp bậc cao nhất là nữ
Thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy đội trưởng tình báo „Biệt Đội Thiên Nga“ thuộc Khối Đặc Biệt. Mời
độc giả đọc về ngành Đặc Biệt http://bit.ly/108cofN

Thời Kỳ Phát Triển.

Cuối năm 1966, Lực lượng CSQG tăng từ 22.000
người lên 72.000 người. Tổng Nha tuyển dụng thêm một số nhân viên ngoại ngạch. Năm 1969
cải tổ ngành CSQG, các Sở thuộc khối Hành Chánh được chia ra thành: khối Nhân Huấn và
khối Hành Chánh. Hai khối này sắp xếp lại thành khối Huấn Luyện và khối Quản Trị.

Trong thời kỳ này, Tổng Nha thay đổi danh xưng của khối Yểm Trợ thành khối Hành Quân,
thêm Nha An Ninh Cảnh Lực và Trung Tâm Bình Ðịnh và Phát Triển. Bảy (7) Nha Cảnh Sát
trước đây xếp lại thành 4 Vùng Chiến Thuật và Nha Ðô Thành Sài Gòn.

Ngày 01.3.1971 thành lập Bộ Tư Lệnh CSQG thay Tổng Nha trước đây, không còn danh xưng
Ty hay Chi cảnh sát mà theo hệ thống như sau:

-Bộ Tư Lệnh CSQG ở 258 đường Võ Tánh, quận Nhì có 6 khối là: Khối đặc biệt; Khối tư pháp;
Khối hành quân; Khối tiếp vận; Khối huấn luyện; Khối nhân viên… và một số đơn vị biệt lập
khác.

-Bộ tư lệnh CSQG chỉ huy từ trung ương tới địa phương.

-Bộ Chỉ Huy CSQG Khu I, II, III, IV và Thủ Ðô.

-Bộ Chỉ Huy CSQG Tỉnh, Thành phố biệt lập (như Ðà Nẵng, Vũng Tàu…) hay các Quận ở Thủ
Ðô.

-Bộ Chỉ Huy Quận của các Tỉnh hay các Thành phố biệt lập.

-Cuộc CSQG ở Xã, Phường, thành phố.

Ngày 22.6.1971 ấn định cấp bậc, chỉ số lương, cấp hiệu nhân viên các cấp của Lực Lượng
CSQG giống như QLVNCH. (chỉ số lương rất phức tạp theo các bậc như: thượng hạng, ngoại
hạng, ngoại ngạch, chánh ngạch, lương công nhật…)

Ngày 01.3.1972 chuyển cấp bậc Biên Tập Viên CSQG mang cấp Đại úy, Thảm Sát Viên nang
Thiếu uý, các cấp Quận Trưởng CSQG sang cấp Tá, (bông mai trên nền vải nhung màu xanh
lục ở cầu vai áo).

Ngày CSQG đầu tiên được tổ chức là ngày 01.6.1972, khác với ngày Quân Lực VNCH là 19/6,
cảnh phục áo sơ mi trắng ngắn tay, quần màu xám. Năm 1973 thì cảnh phục đổi toàn màu xám,
CSDC thì hoa màu đất. Để đáp ứng với nhu cầu Việt Nam hóa chiến tranh, nhiều Sĩ quan quân
đội chuyển sang CSQG, họ có cấp bậc cao, nhiều chiến công, giữ những chức vụ cao, nhưng
khó khăn khi thi hành cảnh vụ chuyên môn. Sĩ quan tốt nghiệp từ Học Viện gặp trở ngại làm
việc với cấp chỉ huy „võ biền“ như vậy. Quân Đội „thì hành trước khiếu nại sau“,​ nhưng CSQG
ngược lại luật pháp phải công minh, làm đúng luật không thể bắt người tra tấn trái phép „bắt
người dễ, thả người khó“, ​muốn giam giữ tội phạm, xét nhà phải có trác của tòa án. Cảnh sát
VNCH rất uyển chuyển và nhân đạo trong việc thi hành luật pháp, người dân phải được bảo vệ
và luôn tôn trọng đạo đức, không thể xảy ra việc khốn nạn như thời Pháp thuộc bắt người đánh
đập, tra tấn dã man, ép cung ​„không có, đánh cho có“!

Trước khi ra trường từ Học Viện SVSQ đi thực tập ở các cuộc CSQG ở Sài Gòn, đi thăm khám

Chí Hòa thấy nỗi khổ của tù nhân. Một Sĩ quan đại diện

pháp luật thi hành luật pháp Quốc Gia, nếu không có lương tâm thêm một vài câu trong bản

cung hại người có thể ở tù nhiều năm! Người CSQG được đào tạo “hãy gieo hạt giống tốt vào

tâm mình“.​ Đó là hạt giống của sự mẫu mực, Công-Minh-Liêm-Chính.

Nhân viên Cảnh sát thi hành công vụ, khi phải nổ súng không nhất thiết phải bắn chết đối
tượng, chỉ bắn chỉ thiên để trấn áp, nếu hung thủ nguy hiểm có thể bắn vào chân tay để triệt hạ
mà thôi.

Trường hợp Tướng Nguyễn Ngọc Loan (là Tướng từ quân đội sang Cảnh sát) bắn tù-binh
Nguyễn Văn Lốp trên đường phố, bị phóng viên Eddie Adams đoạt giải Pulitzer 1969 chụp hình
đưa ra công luận thế giới, cuộc đời của ông thân-bại danh-liệt và qua đời ở Mỹ.

– Tướng Nguyễn Ngọc Loan cầm súng ru lô bắn vào đầu Bảy Lốp vào sáng ngày mồng hai Tết
Mậu Thân 1968, tức ngày 31-1-1968. bị Eddie Adams chụp đưa ra thế giới…

Theo một số nguồn tin thì vào lúc 4g30 sáng hôm đó, Bảy Lốp chỉ huy một đơn vị đặc công VC
tấn công trại Phù Đổng của binh chủng Thiết Giáp ở Gò Vấp. Sau khi kiểm soát được trại lính,
Bảy Lốp bắt giữ gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn và bắt Tr/Tá phải chỉ dẫn cách sử dụng các xe
tăng còn để lại trong trại. Tr/Tá Tuấn từ chối, thế là Bảy Lốp giết chết toàn thể gia đình ông, cả
bà mẹ già 80 tuổi. Chỉ có một bé trai 10 tuổi tuy bị thương nặng nhưng được cứu sống.

Cuộc chiếm chấm dứt, phóng viên Eddie Adams sau một thời gian dài suy nghĩ đã chia xẻ khi
tướng Loan qua đời, ngày 14 tháng 7 năm 1998 vì bệnh ung thư tại Burke, Virginia, ngoại ô của
Washington D.C. Eddie Adams gửi lời viếng và bày tỏ sự ân hận vì những tác động của bức
ảnh lên cuộc sống của tướng Loan sau này:

“Người này là một anh hùng. Ông ấy chiến đấu cho cuộc chiến của chúng ta, không phải cuộc
chiến của họ. Vậy mà mọi điều nhục nhã lại đổ trên đầu con người này. Nước Mỹ đáng lẽ phải
tiếc thương ông ta. Tôi rất tiếc là đã để cho ông ta ra đi như thế này, trong khi người ta không
hề biết một chút gì về ông ta cả.”

“Bức ảnh thực sự làm đảo lộn cuộc sống của ông ta. Ông không bao giờ đổ lỗi cho tôi. Ông nói
với tôi nếu tôi không chụp bức ảnh này, thì người khác cũng sẽ chụp thôi, nhưng tôi đã cảm
thấy áy náy trước ông và gia đình ông trong một thời gian dài. Tôi đã giữ liên lạc với ông ta. Lần
cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau là cách đây khoảng sáu tháng, khi bệnh tình của ông
đã rất nặng rồi. Khi hay tin ông mất, tôi gửi hoa chia buồn và xin lỗivới những giọt nước mắt
trong mắt tôi.”. N​ hận xét của phóng viên Eddie Adams là một nhận xét cá nhân nhưng rất khách
quan và công bằng nên được nhiều người cả Việt lẫn ngọai quốc đồng cảm.

Học Viện CS thành lập từ năm 1966 tới 1975 trong
vòng 9 năm đào tạo chưa đủ các cấp chỉ huy thi hành luật pháp phục vụ Quốc Gia, quân số
ngành CSQG 130.000 người. Chỉ huy cao cấp nhất của Bộ Tư Lệnh CSQG, là Thiếu tướng
Nguyễn Khắc Bình và Viện trưởng CSQG Đại Tá Trần Minh Công (hai người nầy đều bỏ nhiệm
sở trước 30.4.1975). Chuẩn Tướng phó tư lệnh Bùi Văn Nhu tử thủ (bị chết trong trại tù), các
chức vụ cao cấp trong ngành CSQG từ trung ương đều là những người từ Quân Đội chuyển
sang…Chỉ huy 4 Quân Khu cấp bậc cao nhất là Đại tá, tỉnh cấp Trung hay Thiếu tá, Sĩ quan
Cảnh sát làm việc trong văn phòng, không đứng gác đường như hiện nay ở Việt Nam…( Năm
2014 CSVN có đến 200 Tướng Công an, cao cấp nhất 1 Đại tướng Bộ trưởng và 5 Thượng
tướng là Thứ trưởng và nhiều Trung,Thiếu tướng, Đại tá… Theo dư luận Tướng Công An nhiều
như sao trên trời, nhưng không soi sáng được vùng trời đen tối tệ nạn xã hội như: cướp giựt,
giết người tại các thành phố, nhưng biểu tình chống Tàu xâm lăng biển đảo của Việt Nam thì từ
hang cùng ngõ hẹp đều có Công an sẵn sàng đàn áp…. )

Cộng sản thù ghét chiến dịch Phượng Hoàng, kế hoạch phân ô từng bắt đám cộng sản nằm
vùng, cơ sở hạ tầng, điệp viên cao cấp nguy hiểm như: Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng…
trường hợp Phạm Xuân Ẩn. Cảnh Sát Đặc Biệt theo dõi biết ông Ẩn là điệp viên CS nằm vùng,
nhưng cơ quan CIA không cho phép bắt, vì Y cộng tác với họ (điệp viên nhị trùng). Sau năm
1975 cộng sản thăng Thiếu tướng cho ông Ẩn để trả ơn có công làm „khuyển mã“, làm tướng
không có quân, còn bị cô lập không được tiếp xúc với phóng viên nước ngoài! ở nhà nuôi chim
cho đến lúc qua đời trong quên lãng.

Sau 30.4.1975 tại Cần Thơ cộng sản tử hình những người không chịu bỏ súng đầu hàng như:
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng Chương Thiện và Trung tá Võ Văn Đường chỉ huy trưởng
CSQG, Đại uý Lê Văn Bé thám sát…. Sĩ quan cảnh sát dù mới ra trường phải gở lịch ít nhất 3
năm, ngành Đặc Biệt tình báo thì lâu hơn 7 năm, cựu Thiếu tá Tổng Hội trưởng Phan Tấn Ngưu
khoá I BTV năm 1966 (9 năm công vụ) phải ở tù 17, sau 20 năm được đoàn tụ gia đình năm

1995 tại California và nhiều Sĩ quan khác cùng số phận tù đày gian khổ, đói rét, thiếu thốn đủ
thứ và tinh thần luôn luôn bị đe dọa, một số chiến hữu Cảnh sát đã ra đi vĩnh viễn, một số may
mắn hơn sau khi ra tù, vượt biên tìm đến bến bờ tự do, hiện đang định cư ở nhiều nước trên
thế giới.

Một số đông sau cùng đi theo diện H.O.
(Humanitarian Operation) đến định cư rải rác trên các Tiểu bang của Hoa Kỳ. Con cháu của
CSQG cũng như Quân đội, Công chức của VNCH không bị phân biệt lý lịch là “Ngụy quân,
Ngụỵ quyền“ theo học các trường đại học nổi tiếng Mỹ thành đạt trên mọi lãnh vực. Gia đình
CSQG định cư đời sống ổn định, đến năm 2000 thì thành lập Tổng Hội CSQG, cũng như các
Liên Hội CSQG khắp nơi trên thế giới, tạo sức mạnh cho cộng đồng người Việt hải ngoại hầu
hổ trợ cho sự đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ tại Việt Nam, để các nhà đấu tranh dân chủ trong
nước có thêm niềm tin và sức mạnh đương đầu với tập đoàn CSVN „hèn với giặc ác với dân“.
Tổng Hội CSQG minh xác rằng: „​Tổng Hội không phải là một Bộ Tư Lệnh CSQG lưu vong và
hoàn toàn không có mục đích trở về để đóng một vai trò nào trong chính quyền mai hậu..“
Trong tình thần tương thân tương trợ, hàng năm tham gia „ĐẠI NHẠC HỘI CÁM ƠN ANH“ với
các Hội Đoàn thiện nguyện, Hội HO, các Liên Hội Cựu Chiến Sĩ với sự hổ trợ của Trung tâm ca
nhạc ASIA, Đài SBTN… tổ chức gây qũy gởi về trợ giúp Thương Phế Binh VN bị bỏ quên,
sống trong xã hội thiếu tình người, với tấm thân tàn phế phải lê lết trên khắp đầu đường xó
chợ…!
Hơn một thập niên gia đình CSQG sinh hoạt tổ chức Tết, phát phần thưởng cho con cháu học
giỏi, tưởng niệm chiến hữu CSQG đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ luật pháp Quốc Gia và
qua đời trong trại tù từ Nam ra Bắc, hình ảnh hào hùng nhất của cố Trung Tá Nguyễn Văn Long
Chánh Sở Tư Pháp Vùng I (Đà Nẵng) không đầu hàng giặc tự tử sáng 30.4.1975 dưới tượng
đài Chiến Sĩ trước Quốc Hội VNCH (nay là hát thành phố Sài Gòn mời xem tiểu sử cố Trung tá

Long). Cảnh sát VNCH đã viết lên những trang sử hào hùng bằng máu và nước mắt để chống
Cộng sản. Tổng Hội CSQG hàng năm phát hành Đặc San Phượng Hoàng Xuân, nhiều hình
ảnh sinh hoạt, bài vở phong phú „​ôn cố tri tân“​ nối lại niềm tin với chiến hữu khắp nơi trong tinh
thần đoàn kết và chia xẻ buồn vui cuộc đời viễn xứ. (theo tin trong Đặc San Phượng Hoàng
chiến hữu Thái Văn Hòa đang thực hiện cuốn „Cảnh Sử“ vậy chúng ta đón chờ, để biết thêm về
ngành CSQG/ VNCH).

Trước 1975 hai nhạc sĩ nổi danh đã phục vụ trong ngành CSQG:

Lê Minh Bằng là một nhóm nhạc thành lập năm 1966 và hoạt động đến năm 1975, tên ghép
của các nhạc sĩ: Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng, LÊ MINH BẰNG là bút hiệu chung dùng trong
những ca khúc do họ cùng sáng tác.1/ Minh Kỳ (1930-1976) sinh tại Nha Trang thuộc dòng dõi
hoàng tộc, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, có vai vế ngang hàng với vua Bảo Đại và phục vụ
trong ngành CSQG với cấp bậc đại úy. Sau 1975 bị tập trung cải tạo (An Dưỡng) và qua đời
trong tù ngày 21.8.1975. trong đêm do biến cố nào đó? có thể bị ném lựa đạn vào dãy nhà số 3
tập trung khoảng 80 SQCSQG nhiều người chết và bị thương trong đó có NS Minh Kỳ!2/ Nhạc
sĩ Y Vân tên thật Trần Tấn Hậu phục vụ trong ngành CSQG. Sau 1975 ông không còn cảm
hứng sáng tác! ông qua đời năm 1993 tại Sài Gòn.

Thân chúc các bạn một thời ở Học Viện CSQG Thủ Đức luôn bình an, sức khoẻ dồi dào, con
cháu thành công trên mọi lãnh vực. Xin đốt nén nhang lòng tưởng niệm những người đã nằm
xuống trong cuộc chiến cũng như trong các trại tập trung cải tạo của CSVN ./.
Học Viện CSQG THỦ ĐỨC

http://hocviencsqg.com/

Danh sách các SQCSQG chết trong tù:

http://bit.ly/1Ls5rRu

Nguyễn Quý Đại tham khảo và biên soạn

Chú thích cuối năm 1974 CSQG thăng cấp bậc cho 5 ông Đại tá thâm niên lên chuẩn tướng
Chuẩn tướng Bùi Văn Nhu (khối huấn luyện) chết trong trại tập trung ngoài Bắc

Chuẩn tướng Huỳnh Thới Tây (khối đặc biệt) từ 1975 sang Mỹ không biết ở đâu?

Chuẩn tướng Bảy (Khối hành quân) không biết ở đâu bên Mỹ?

Chuẩn tướng Giàu (?) Chúng tôi khó quên ông ta bắt SVSQ khoá 8 phải ngồi nghe ông
ngưỡng mộ nhân vật ” Vi Tiểu Bảo” trong truyện kiến hiệp Lộc Đĩnh Ký của Kim Dung. Bị ngồi
nghe chuyện tào lao nên phải bỏ ngoài nghe tai, mong hết gìờ ra về, có thằng chủi thề dốt hay
nói chữ nói không đúng chỗ. Ông quên SVSQ phần đông có trình độ Đại học.

Chuẩn tướng Trang Sĩ Tấn (Bộ chỉ huy CSQG Đô Thành Sài Gòn) cũng áo mũ hoa màu đất
xuất hiện ở Houston.

Kính thưa quý Niên Trưởng và quý Chiến Hữu,

Liên quan đến CHƯƠNG 8 SỬ LIỆU CSQG/VNCH,
1- Danh sách các Anh Hùng CSQG tuẫn tiết (29 người )
2- Danh sách Viên Chức, Cán Bộ, Nhân Viên CSQG bị CS hành quyết (112 người )
3- Danh sách các cấp CSQG chết trong các lao tù CS (188 người ) Xin xem Attachment
4- Danh sách các Sĩ Quan CSQG bị CS giam giữ 15,16, 17 năm (34 người ) Xin xem Att.
Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phổ biến danh sách các đơn vị và cá nhân CSQG đã quyết tử
chiến với CS trong những ngày cuối cùng, danh sách được sưu tập trên đây vẫn còn rất nhiều
thiếu sót.
BSL ước mong đuợc Quý Vị dành chút thì giờ xem xét, bổ túc thêm tin tức và vui lòng thông
báo cho BSL những trường hợp mà Quý Vị biết, nhưng không được ghi nhận trong danh sách.
Xin hãy cùng quan tâm đến sự hy sinh của các Anh Hùng, Chiến Sĩ CSQG, những người đã
nằm xuống nhưng thành tích và tinh anh của họ đã làm rạng rỡ màu cờ sắc áo của Lực Luợng
CSQG.
TUN. Tổng Hội CSQG Ban Sử Liệu Thái Văn Hòa

-Source :​https://hoamunich.wordpress.com/2013/04/01/canh-sat-quoc-gia-vnch/

**** ​Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia ****

Biên soạn: NHỮ ĐÌNH TOÁN

Mặc dù, chính phủ quốc gia Việt Nam được hình thành từ năm 1945 sau khi giành lại
độc lập từ thực dân Pháp, nhưng phải đợi đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ngành cảnh
sát và công an mới dần dần được kiện toàn và thống nhất thành lực lượng Cảnh Sát
Quốc Gia. Tuy nhiên, cho đến thập niên 1960, mặc dù đã có nhiều cải tổ nhưng
ngành cảnh sát vẫn chưa có một trường đào tạo sĩ quan. Hầu hết các sĩ quan cơ
hữu đều được tuyển dụng từ thời Pháp thuộc qua các Sở Liêm Phóng hay Mật Thám
Đông Dương chuyển qua.

Quá Trình Thành Lập Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:

Học Viện mới tại Thủ Đức

Cho đến giữa thập niên 1960, trước nhu cầu phát triển của lực lượng Cảnh Sát Quốc
Gia, lần đầu tiên một trường đào tạo sĩ quan cảnh sát đã được thành lập tại miền
Nam Việt Nam. Đó là Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập kể từ đầu năm
1966 nhằm mục đích đào tạo sĩ quan các cấp Biên Tập Viên (BTV) và Thẩm Sát
Viên (TSV) cho ngành CSQG Việt Nam Cộng Hòa.
Trước khi Học Viện CSQG được thành lập, ngành CSQG hầu như chưa có một
trường đào tạo sĩ quan cho lực lượng cảnh sát. Các sĩ quan ngạch Biên Tập Viên và
Thẩm Sát Viên, hoặc cao hơn là ngạch Quận Trưởng Cảnh Sát, thường được tuyển
dụng điền thế, hoặc tùy theo nhu cầu của ngành, rồi sau đó được gởi đi thụ huấn
những khóa chuyên môn một thời gian ngắn tại Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát
Căn Bản/Rạch Dừa hay Trung Tâm Huấn Luyện Trung Cấp tại Tổng Nha CSQG
trước khi được chính thức nhận việc.
Trên phương diện pháp quy, Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia chính thức được thành
lập bởi Nghị Định số 416-NĐ/NV do Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (chức
vụ tương đương Thủ Tướng) ký ngày 12 tháng 3 năm 1966 nhằm mục đích đào tạo
các sĩ quan cho lực lượng CSQG trước nhu cầu mới đó. Khóa 1 (BTV và TSV) là
khóa đầu tiên của HVCSQG khai giảng vào ngày 1 tháng 3, 1966, đã đánh dấu sự ra
đời của Học Viện CSQG, mở đầu cho một sự chuyển mình của ngành với một thế hệ

sĩ quan trẻ có kiến thức, được đào tạo một cách có quy mô, và hoài bão xây dựng
một lực lượng CSQG tân tiến.
Hai cấp sĩ quan Biên Tập Viên và Thẩm Sát Viên do Học Viện CSQG đào tạo là hai
ngạch sĩ quan trung cấp của ngành CSQG chỉ dưới hai cấp Kiểm Tra/Tổng Kiểm Tra
và Quận Trưởng Cảnh Sát. Sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm
1963, hai ngạch sĩ quan cao cấp Kiểm Tra & Tổng Kiểm Tra hầu như không còn ai;
riêng ngạch Quận Trưởng (ngạch sĩ quan cảnh sát có bằng Cử Nhân Luật hoặc
tương đương) chỉ có khoảng vài chục người. Vì vậy các sĩ quan cấp BTV và TSV đã
mặc nhiên trở thành một lực lượng sĩ quan trung cấp nòng cốt của ngành cảnh sát.
Điều kiện để được nhập học các khóa sĩ quan BTV và TSV tại Học Viện CSQG:
Thẩm Sát Viên phải có văn bằng Tú Tài I, Biên Tập Viên phải có văn bằng Tú Tài II;
tất cả phải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học là 9 tháng cho cấp BTV và 6 tháng
cho cấp TSV.

Trường Sở và Tổ Chức:

Trong những năm đầu thành lập, Học Viện CSQG tạm thời tọa lạc bên trong trại Lê
Văn Duyệt thuộc Biệt Khu Thủ Đô Sàigòn. Trường sở là một khu doanh trại cũ do
Biệt Khu Thủ Đô cho mượn tạm gồm những dãy nhà thấp có mái tôn vừa dùng làm
văn phòng, giảng đường, vừa dùng làm chỗ ngủ cho SVSQ,… nên rất thiếu thốn tiện
nghi. Nhiều môn học, các SVSQ phải di chuyển đến nhiều nơi khác để nghe giảng
dạy.

Lễ gắn Alpha Khóa 1 năm 1966 trong Biệt Khu Thủ Đô

Kể từ đầu năm 1969, Học Viện CSQG đã được dời về trụ sở mới nằm trên đồi Tăng
Nhơn Phú gần Trường Bộ Binh Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 20 km. Trường sở
mới được xây cất theo thiết kế của kiến trúc sư Lê Văn Lắm gồm nhiều tòa nhà cao
tầng dùng làm phòng ngủ cho SVSQ, khu hành chánh, giảng đường, thư viện, phạn
xá, xạ trường, cư xá nhân viên, v.v… với đầy đủ mọi tiện nghi tối thiểu cần thiết. Mặc
dù Học Viện CSQG chưa xây cất xong, nhưng Khóa 4 (BTV và TSV) vẫn được đào
tạo tại trường sở mới này trong năm 1969. Đây là Khóa đầu tiên được thụ huấn tại
đây trong khi công việc xây cất Học Viện CSQG vẫn tiếp tục tiến hành nhiều năm
sau mới hoàn tất.
Viện Trưởng là chức vụ chỉ huy Học Viện CSQG tương đương với chức vụ Giám Đốc
Nha có nhiều Sở. Phụ Tá cho Viện Trưởng là các Phó Viện Trưởng và một Ban
Tham Mưu gồm có Giảng Sư Đoàn, Liên Đoàn SVSQ, và các Phòng Học Vụ, Phòng
Hành Chánh, Phòng Tổng Vụ và một số Ban biệt lập khác đảm trách các phần vụ
chuyên môn.
Giảng Sư Đoàn​: được chỉ huy bởi một Trưởng Đoàn Giảng Sư, gồm các giảng sư,
giảng viên, và huấn luyện viên phụ trách giảng dạy theo nội dung chương trình quy
định.
Liên Đoàn Sinh Viên:​ được chỉ huy bởi một Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Sinh Viên
(Sĩ Quan). Liên Đoàn Sinh Viên gồm có nhiều Tiểu Đoàn SVSQ được chỉ huy bởi
những Tiểu Đoàn Trưởng Khóa Sinh. Mỗi Tiểu Đoàn SVSQ lại chia ra làm 2 hoặc 3
Đại Đội do các Đại Đội Trưởng Khóa Sinh chỉ huy; và dưới Đại Đội là cấp Trung Đội
SVSQ do các Trung Đội Trưởng Khóa Sinh chỉ huy.
Liên Đoàn Sinh Viên là đơn vị phụ trách kiểm soát tác phong và kỷ luật các SVSQ
suốt trong thời gian thụ huấn.
Phòng Học Vụ: do một Chủ Sự Phòng chỉ huy, có nhiệm vụ sắp xếp thời khóa biểu
và theo dõi việc thi hành chương trình huấn luyện.
Phòng Hành Chánh:​ do một Chủ Sự Phòng chỉ huy, có nhiệm vụ theo dõi việc tuyển
mộ SVSQ, cung cấp cảnh trang cảnh phục và các nhu cầu tiếp liệu, huấn luyện cho
ban giảng huấn và SVSQ và cả cho nhân viên HVCSQG.
Phòng Tổng Vụ: do một Chủ Sự Phòng chỉ huy, phụ trách các dịch vụ tổng quát cho
HVCSQG (Phòng vệ, Công xa, Tạp dịch, v.v…)
Các Ban biệt lập gồm có: Ban Văn Thư, Ban Tâm Lý Chiến, Thư Viện,…
Kể từ năm 1971, cùng với sự cải tổ của ngành CSQG, Học Viện CSQG cũng được
cải tổ về mặt tổ chức cho phù hợp với tình thế mới. Ngoài các chức vụ Viện Trưởng,
Phó Viện Trưởng, và Liên Đoàn Sinh Viên vẫn giữ nguyên tổ chức như cũ, các
Phòng, Ban khác đã có sự thay đổi. Phòng Hành Chánh đã cải tổ thành Sở Quản Trị
gồm 2 Phòng: Phòng Hành Chánh và Phòng Tiếp Vận. Giảng Sư Đoàn đã bao gồm
cả Phòng Học Vụ. Ngoài ra có thêm một số Phòng biệt lập nguyên là các Ban biệt
lập, gồm có: Phòng Tổng Vụ, Phòng An Ninh Cảnh Lực, Phòng Tâm Lý Chiến, Thư
Viện, Đại Đội Phòng Vệ,…
Vị Viện Trưởng Học Viện CSQG đầu tiên là Quận Trưởng Cảnh Sát Thượng Hạng
Ngoại Hạng Đàm Trung Mộc. Ông cũng là một trong những người có công sáng lập

ra ngôi trường này. Quận Trưởng Đàm Trung Mộc là một trong những cấp chỉ huy
ưu tú của ngành CSQG nổi tiếng cả về tài năng và đức độ. Ông không chỉ là một sĩ
quan nhiều kinh nghiệm trong ngành mà còn là tác gỉa của những bộ sách giáo khoa
có gía trị và nổi tiếng như Hình Sự Tố Tụng, Hình Luật Đặc Biệt, Cảnh Sát Tư Pháp,
v.v.. Những sách này không chỉ dành riêng cho ngành cảnh sát mà còn được nhiều
giới chức ngành tư pháp, tòa án dùng làm tài liệu tham khảo. Mặc dù từng đảm
nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong ngành, nhưng ông lúc nào cũng bình dị, tận
tụy với công vụ, gần gũi với thuộc cấp và nhất là nổi tiếng thanh liêm. Ngoài việc
đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng, Quận Trưởng Đàm Trung Mộc (sau là Đại tá Đàm
Trung Mộc) còn là giảng sư kiêm nhiệm giảng dạy các môn về Luật học và Cảnh sát
tư pháp. Tuy chỉ đảm nhận chức vụ Viện Trưởng Học Viện CSQG từ năm 1966 cho
đến 1970, nhưng hầu hết các khóa sĩ quan tốt nghiệp tại Học Viện CSQG đều hết
lòng kính mến ông và coi ông như một người Thầy, người Cha hơn là một vị chỉ huy
cao cấp trong ngành. Sau ngày 30-4-1975, ông chấp nhận ở lại Việt Nam dù biết
rằng Việt Cộng chắc chắn sẽ không để cho ông yên. Quả nhiên, sau đó, cũng như
bao quân cán chính VNCH khác, ông đã phải chịu cảnh tù đày qua nhiều trại tù cộng
sản và đã chết tại trại tù Hà Sơn Bình, Bắc Việt, ngày 28 tháng 12 năm 1982 (nhằm
ngày 14-11 năm Nhâm Tuất), hưởng thọ 65 tuổi. Trong thời gian qua, các cựu SVSQ
Học Viện CSQG tại hải ngoại đã nhiều lần tổ chức những buổi lễ giỗ tưởng niệm cố
Đại Tá Đàm Trung Mộc rất trọng thể tại San Jose và Little Saigon (Quận Cam),
California, Hoa Kỳ.
Vị Viện Trưởng Học Viện CSQG kế nhiệm và cuối cùng cho đến ngày đau thương
30-4-1975 là Đại Tá Trần Minh Công, ông hiện cư ngụ tại Quận Cam, Nam
California. Ông nguyên là một Quận Trưởng Cảnh Sát trẻ đã kế tục công việc đào
tạo các khóa sĩ quan với nhiều cải cách theo mô hình của một trường huấn luyện sĩ
quan cảnh sát vừa quân sự vừa hành chánh như tại các quốc gia tân tiến.
Từ năm 1966 cho đến 1975, Học Viện CSQG đã trải qua 2 đời Viện Trưởng là Quận
Trưởng (Đại Tá) Đàm Trung Mộc (1966-1970) và Đại Tá Trần Minh Công
(1970-1975); nhưng chức Phó Viện Trưởng đã lần lượt được nhiều niên trưởng trong
ngành đảm nhiệm, theo thứ tự gồm có: Quận Trưởng (Đại tá) Lê Sơn Thanh, Quận
Trưởng Võ Văn Phi, Quận Trưởng Trần Văn Sắt, Trung Tá Trần Minh Công (sau là
Đại Tá Viện Trưởng), và người cuối cùng là Trung Tá Phạm Công Bạch.

Huy hiệu Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:

Cho đến giữa thập niên 1960, trước khi có Học Viện CSQG, ngành Cảnh Sát Quốc
Gia chỉ có một phù hiệu duy nhất của toàn ngành. Đó là hình thanh kiếm và tấm lá
chắn ở trên có chữ “Tổ Quốc” và hình một cuốn sách mở tượng trưng cho Hiến Pháp
được bao quanh bởi hai nhành thiên tuế. Tất cả các hình đều màu trắng trên một cái
nền màu xanh lá cây. Màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, trong sạch; còn màu
xanh tượng trưng cho sự sống, sự phát triển và hy vọng. Thanh kiếm tượng trưng

cho sức mạnh với tinh thần của người hiệp sĩ, còn tấm lá chắn mang ý nghĩa của sự
che chở, bảo vệ. Qua hình ảnh thanh kiếm và tấm là chắn, nhiệm vụ của ngành
CSQG được ví như một người hiệp sĩ trừ gian diệt bạo để bảo vệ Tổ Quốc, chống lại
những sự vi phạm luật pháp mà trên hết là bản Hiến Pháp của quốc gia. Hai nhành
thiên tuế tượng trưng cho sự trong sạch, liêm khiết đúng như phương châm của
ngành là “Công Minh”, “Liêm Chính” có in trên huy hiệu.

Khi Khóa 1 sĩ quan Học Viện CSQG bắt đầu, HVCSQG vẫn chưa có một huy hiệu
riêng. Lúc đầu, các khóa sinh được cấp phát một mẫu huy hiệu tạm dựa trên huy
hiệu của ngành CSQG có in thêm chữ HVCSQG rất thô thiển. Theo gợi ý của Thầy
Viện Trưởng Đàm Trung Mộc và Liên Đoàn Trưởng LĐSV Trần Minh Công lúc bấy
giờ, nhiều SVSQ Khóa 1 đã tham gia nghiên cứu vẽ lại huy hiệu HVCSQG và cuối
cùng mẫu vẽ của SVSQ Nguyễn Tấn Vĩnh đã được lựa chọn làm huy hiệu chính
thức cho HVCSQG cho đến ngày nay.
Cũng giống như huy hiệu CSQG, huy hiệu Học Viện CSQG in trên nền xanh lá cây
đậm với một thanh kiếm và một ngọn lửa đỏ viền vàng được bao quanh bởi hai

nhành dương liễu màu trắng. Ý nghĩa của thanh kiếm và nhành dương liễu trong huy
hiệu của HVCSQG cũng tương tự như ý nghĩa của thanh kiếm và nhành thiên tuế
trong huy hiệu ngành CSQG. Riêng về ngọn lửa đỏ tượng trưng cho sức mạnh và
lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, những sĩ quan tốt nghiệp từ HVCSQG. Ngoài ra, trên
huy hiệu của HVCSQG còn có các chữ Học Viện CSQG ở trên đầu ngọn kiếm và
các chữ “Kỷ Luật”, “Danh Dự” ở hai bên là phương châm của người SVSQ Học Viện
CSQG.
Sự ra đời của huy hiệu Học Viện CSQG vào năm 1966 cùng với huy hiệu của ngành
CSQG đã là nguồn cảm hứng cho các mẫu huy hiệu khác của ngành CSQG ra đời
những năm sau đó.

Chương Trình Huấn Luyện Sĩ Quan HVCSQG:

Trong những năm đầu thập niên 1960 tình hình chiến sự tại Miền Nam Việt Nam
càng ngày càng trở nên sôi động, do đó, trách nhiệm của người cảnh sát cũng đòi
hỏi cần phải tăng cường thêm những nhiệm vụ mới. Trước nhu cầu đó, lực lượng
CSQG không chỉ đảm trách những nhiệm vụ thi hành luật pháp và giữ gìn an ninh
trật tự tại các đô thị, mà còn có thêm trách vụ phối hợp với quân đội và nhiều cơ
quan bạn trong việc bình định tại nông thôn. Do đó, cũng để đáp ứng trước tình hình
mới, quân số lực lượng CSQG đã được bổ xung lên đến trên 100.000. Vì vậy, người
sĩ quan CSQG nói riêng và lực lượng CSQG nói chung, ngoài kiến thức chuyên môn
về luật pháp, còn cần được trang bị thêm những chuyên môn khác trong đó có cả
quân sự.
Để thích ứng trước yêu cầu mới này, chương trình huấn luyện sĩ quan tại Học Viện
CSQG đã bao gồm cả về chuyên môn cảnh sát lẫn quân sự, được chia làm hai giai
đoạn: giai đoạn I gồm 3 tháng huấn luyện quân sự và thời gian còn lại là giai đoạn II
hay giai đoạn huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ cảnh sát kéo dài trong 3 tháng cho
Khóa TSV, hoặc 6 tháng cho Khoá BTV.

1) Giai Đoạn I: Huấn Luyện Quân Sự

Thời gian huấn luyện quân sự lúc đầu chỉ có 3 tháng, nhưng kể từ năm 1972 (bắt
đầu từ Khóa 4/72) đã được tăng lên 6 tháng với sự cố vấn và yểm trợ về mặt kỹ
thuật của Trường Bộ Binh Thủ Đức và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ngoài
những bài học về lý thuyết, các SVSQ còn có những buổi thực tập ngoài các bãi tập
của Trường Bộ Binh Thủ Đức hoặc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đây cũng
là thời gian huấn nhục cho các tân khóa sinh tập làm quen với những chương trình
huấn luyện tại Học Viện CSQG. Sau ba tháng huấn nhục, các khóa sinh sẽ chính
thức được làm lễ gắn an-pha để kể từ đó họ mới chính thức được gọi là các tân Sinh
Viên Sĩ Quan CSQG. Lễ gắn an-pha và lễ mãn khóa là những kỷ niệm đáng ghi nhớ
của người SVSQ. Tại những buổi lễ này, nhiều lần các SVSQ đã vinh dự được đón

tiếp các vị lãnh đạo quốc gia từ Tổng Thống, Thủ Tướng tới vị chỉ huy cao cấp nhất
của ngành là Tư Lệnh CSQG đến chủ tọa và ban hiểu thị.

Về quân sự, các SVSQ sẽ được huấn luyện các môn:
- C​ hiến Thuật: Tác chiến theo đội hình, Kỹ thuật vượt sông, Phục Kích, Phản
phục kích, Ngụy trang,…
-​ ​Địa Hình: Sử dụng địa bàn, bản đồ quân sự, di hành ngày và đêm,...
- C​ ơ Bản Thao Diễn: Diễn hành đều bước theo đội hình, Nghi thức chào kính
bằng tay hoặc có súng,…
-​ ​Tiến Dưới Hỏa Lực
-​ ​Vượt Đoạn Đường Chiến Binh
- V​ ũ Khí và Tác Xạ các loại súng: súng lục, súng trường, súng tiểu liên, súng
trung liên.
-​ ​Tản thương và cứu thương
-​ ​Võ Thuật (Tae Kwon Do căn bản)
-​ ​V.v…

2) G​ iai Đoạn II: Huấn Luyện Chuyên Môn

Các SVSQ sẽ được huấn luyện về Luật học và các phần vụ chuyên môn của người
cảnh sát, gồm có các môn:
-​ ​Hình Sự Tố Tụng
-​ ​Hình Luật Đặc Biệt
-​ ​Dân Luật
-​ ​Dân Sự Tố Tụng
-​ ​Cảnh Sát Tư Pháp: Các phương pháp điều tra, lập biên bản, thẩm vấn,…
- C​ ảnh Sát Hành Chánh: Phương pháp sưu tra hành chánh, điều tra hành
chánh,…
-​ ​Cảnh Sát Công Lộ (Điều hòa lưu thông)
- C​ ảnh Sát Khoa Học: Phương pháp giảo nghiệm (lấy dấu tay, thu thập tang vật,
xét nghiệm mẫu tang vật,…)
-​ ​Cảnh Sát Đặc Biệt (An Ninh Tình Báo)
-​ ​Căn Cước & Văn Khố
-​ ​Trấn Áp Bạo Động (Dẹp biểu tình)
-​ ​Kỹ Thuật Tuần Tiểu (Tuần Cảnh), Hành Quân Cảnh Sát
-​ ​Lãnh Đạo Chỉ Huy, Giao tế dân sự
-​ ​V.v…
Ngoài những buổi học lý thuyết, các SVSQ còn được hướng dẫn đi viếng thăm các
đơn vị bạn trong hoặc ngoài ngành để học hỏi kinh nghiệm hầu ứng dụng sau này.

Thành Phần Giảng Huấn:

Hầu hết các giảng sư, giảng viên, huấn luyện viên là những sĩ quan cơ hữu của Học
Viện CSQG có năng lực và kiến thức chuyên môn về kỹ thuật giảng huấn; một số
khác là các sĩ quan trong ngành có nhiều kinh nghiệm chuyên môn; một số khác nữa
là những giảng sư thỉnh giảng đang là những giáo sư Đại Học hoặc là các sĩ quan
hay viên chức các cơ quan ban, ngành bạn có liên quan. Chẳng hạn như các sĩ
quan Trường Bộ Binh Thủ Đức giảng dạy về Chiến Thuật, Địa Hình. Hay các giáo sư
đại học như Tiến Sĩ Nguyễn Văn Canh (GS Đại Học Luật Khoa Sàigòn), Tiến Sĩ Trần
An Bài (Thẩm Phán) (cả hai hiện cư ngụ tại miền Bắc California) từng là những
giảng sư thỉnh giảng của Học Viện CSQG.

Thành Quả:

Tính từ ngày thành lập cho đến Tháng Tư Đen 1975, Học Viện CSQG đã huấn luyện
được tổng cộng 6 khóa BTV / TSV theo qui chế cũ và nhiều khóa đào tạo sĩ quan
cấp Thiếu Úy theo qui chế mới. Tổng cộng Học Viện CSQG đã đào tạo được
khoảng 4000 sĩ quan, chưa kể hàng ngàn sĩ quan và hạ sĩ quan tốt nghiệp những
khóa tu nghiệp ngắn hạn và gần một ngàn khóa sinh còn đang thụ huấn dang dở.
Cụ thể như sau:

- Khóa I Sĩ Quan Cảnh Sát (BTV và TSV) đầu tiên của Học Viện Cảnh Sát
Quốc Gia khai giảng chính thức vào ngày 1 tháng 3 năm 1966 dưới sự chủ tọa của
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch UBHPTƯ (chức vụ tương đương Thủ
Tướng). Tuy nhiên, trên thực tế các khóa sinh Khóa I đã được triệu tập nhập học
nhiều đợt sớm hơn từ ngày 28 tháng 1 năm 1966 trong khi chờ đợi văn kiện chính
thức thành lập Học Viện ra đời. Vì vậy thời gian thụ huấn dành cho Khóa I đã phải
kéo dài tới gần 9 tháng cho TSV và gần 1 năm cho BTV, dài hơn qui định gần 3
tháng. Hầu hết các SVSQ Khóa I đều là những nam nữ thanh niên được nhập học
sau khi trúng tuyển qua một kỳ thi tuyển được tổ chức trong năm 1965. Đặc biệt
Khóa I còn là khóa duy nhất có 47 nữ SVSQ (18 nữ BTV và 29 nữ TSV) thụ huấn
trong cùng thời gian, tuy nhiên các nữ SVSQ có được giảm bớt phần huấn luyện
quân sự. Trong suốt thời gian huấn luyện, các sinh viên sĩ quan CSQG – nam cũng
như nữ – phải theo chế độ nội trú giống như mọi quân trường khác.

- Khóa 2 Sĩ Quan HVCSQG (Khóa BTV và TSV), tương tự như Khóa 1, diễn ra
trong năm 1967 với khoảng 400 SVSQ; trong số đó, ngoài một nửa trúng tuyển nhập
học sau một kỳ thi tuyển như Khóa 1; một nửa số còn lại nguyên là các đoàn viên
Thanh Niên Quốc Gia Đoàn (bị giải tán) được nhập học miễn thi.

- Khóa 3 Sĩ Quan HVCSQG (Khóa BTV và TSV) diễn ra trong năm 1968, cũng
gần tương tự như Khóa 2 gồm có 400 SVSQ tân tuyển (200 BTV và 200 TSV) và
khoảng 200 khóa sinh nguyên là những BTV và TSV công nhật hoặc đồng hóa được
nhập học miễn thi và được hưởng chế độ ngoại trú vì Học Viện CSQG tại Trại Lê
Văn Duyệt không có đủ chỗ cho toàn Khóa 600 SVSQ nội trú.

- Các Khóa 4, 5 và 6 (Khóa BTV và TSV) HVCSQG là những Khóa huấn luyện
dành cho các nhân viên cơ hữu trong ngành chuyển ngạch (TSV cải ngạch BTV,
hoặc Phó TSV cải ngạch TSV) hoặc đã trúng tuyển kỳ thi đặc biệt để chuyển và
nhập ngạch. Các Khóa này diễn ra trong các năm 1969 (K.4/BTV và TSV), 1970
(K.5/BTV và TSV), 1971 (K.6/BTV và TSV).
Kể từ năm 1972 sau khi qui chế mới của lực lượng CSQG ra đời và được chính thức
áp dụng trong đó lực lượng CSQG mang cấp hiệu giống như quân đội, việc huấn
luyện sĩ quan ở Học Viện CSQG cũng có sự thay đổi. Các sĩ quan tốt nghiệp sẽ
mang cấp hiệu Thiếu Úy Cảnh Sát thay vì BTV và TSV như trước. Ngoài ra, thời
gian huấn luyện cũng được tăng lên 12 tháng (thay vì 9 tháng), và cuối cùng là 18
tháng.
Cũng từ năm 1972 các Khóa Sĩ Quan theo Quy Chế Mới tại HVCSQG được đánh
theo số thứ tự 4/72, 5/72, 6/72,… cho đến khóa sau cùng là 11/72 (Khóa 10 và 11
chưa tốt nghiệp). Các SVSQ hầu hết là tân tuyển (phải có tối thiểu văn bằng tốt
nghiệp trung học), ngoại trừ một số ít nhân viên cơ hữu có trình độ được trúng tuyển
qua một kỳ thi tuyển.
Ngoài việc huấn luyện đào tạo các sĩ quan, Học Viện CSQG còn có nhiệm vụ huấn
luyện các Khóa Tu Nghiệp chuyên môn như: Khóa Tu Nghiệp Chỉ Huy Trưởng Quận,
Khóa Kỹ Thuật Giảng Huấn, Khóa Chỉ Huy Phượng Hoàng, v.v…

Tổng Kết:

Mặc dù chỉ mới được thành lập chưa tròn mười năm tuổi (1966-1975) nhưng Học
Viện CSQG đã đóng góp một phần đáng kể vào việc xây dựng và phát triển lực
lượng Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Các sĩ quan do Học Viện CSQG
đào tạo với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ đã mang lại một luồng sinh khí mới cho các
đơn vị CSQG trên toàn quốc. Họ đã trở thành một lực lượng nòng cốt mang lại hiệu
quả cao trong những hoạt động của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia. Họ đã đóng góp
một phần không nhỏ trong những chiến công của ngành CSQG. Chính vì những
thành quả ấy, sau ngày 30/4/1975 các cựu SVSQ Học Viện CSQG đã phải trả một
giá khá đắt cho những hoạt động của họ trước đó. Hầu hết các cựu SVSQ đều phải
trải qua nhiều năm trong những trại tù cải tạo của cộng sản: có những thiếu úy mới
tốt nghiệp mà đã ở tù tới 5, 6 năm hay nhiều hơn; một số lớn các sĩ quan xuất thân
từ Học Viện CSQG đã phải chịu một thời gian tù đày cải tạo dài hơn thời gian cảnh
nghiệp của họ, trong số đó, một số đã ở tù đến mười bảy năm (17), thời gian “cải
tạo” dài nhất mà Việt Cộng dành cho các quân cán chính VNCH, [4 trong số này là
các cựu SVSQ khóa 1: Phan Tấn Ngưu, Phan Quang Nghiệp, Phan Hữu Nghi và
Phan Kỷ Niệm]; một số khác đã bỏ mình trong những trại tù khắc nghiệt của cộng
sản.
Ngày nay, ngoài một số còn kẹt tại quê nhà, hoặc đã bỏ mình vì nhiều lý do khác
nhau, phần lớn các cựu SVSQ Học Viện CSQG đã lưu lạc định cư rải rác ở nhiều nơi

trên toàn thế giới. Và vẫn với nhiệt tình của tuổi trẻ như ngày nào, họ đã và đang là
những nhân tố tích cực sinh hoạt trong nhiều hội đoàn ái hữu của lực lượng CSQG
và cộng đồng tại hải ngoại.

Học Viện CSQG tại trại Lê văn Duyệt, trong khu Biệt Khu Thủ Ðô Sài
Gòn.(thành lập ngày 12.3.1966)

The flag of Republic of Vietnam National Police Academy, used since 1966 to 1975 :

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan.Tổng Giám đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Kiêm Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, Đặc ủy Trung

Ương Tình Báo Quốc Gia. đang chủ tọa Lễ gắn Alpha Khóa 1/​ S​ ĩ quan CSQG trong Biệt Khu Thủ Đô năm 1966.

Khóa 1 Sĩ quan CSQG khai giảng tháng 3.1966 tại trại Lê văn Duyệt, trong khu Biệt
Khu Thủ Ðô Sài Gòn.

Khóa 1 Sĩ quan CSQG_1966_Saigon

Khóa 1 Sĩ quan CSQG_1966_Saigon

-VIEW :​Hình ảnh ngày xưa – Cựu SVSQ K1

Học Viện CSQG tại Thủ Đức_Saigon (1969) - Trường Đào Tạo Sĩ Quan CSQG VNCH

-National Police Academy Staff

-VIDEO:S​ YND 16 5 73 THIEU REVIEWS POLICE CADETS​(1​ 5 May 1973) President  

Nguyen  Van  Thieu  of  South  Vietnam  reviewing  police  cadets  at  a  graduation  ceremony  and 
presenting them with awards. 

 

 

-VIDEO :​ H​ ọc Viện CSQG_T​ rường Đào Tạo Sĩ Quan CSQG VNCH.

-VIDEO : ​Học Viện CSQG Hành Khúc 

 
 

 

SVSQ Học Viện CSQG VNCH

Trong tinh thần „​ C​ ông-Minh-Liêm-Chính“​ .​ , người Cảnh Sát Quốc Gia VNCH quyết tâm thề
nguyện:

-Tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc, sẵn sàng hy sinh cho Dân Tộc

-Cương quyết thi hành luật pháp Quốc Gia

-Quyết tâm bảo vệ tài sản của Đồng Bào

-Luôn nêu cao Danh Dự và Trách Nhiệm của CSQG.

-Lấy Công, Minh, Liêm, Chính làm phương châm trong mọi hoạt động.

-VIEW : H​ ình Ảnh CSGG trứơc 1975.​ V​ ietnam.Photograph William Colby Collection.

-VIEW :​ ​Biệt đội tình báo Thiên Nga

KHÓA 15 và 16 BIÊN TẬP VIÊN CSQG RẠCH DỪA

Khóa 15 & 16 BTV/RD là những khóa cùng thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Sơ
Cấp Rạch Dừa ( Vũng Tàu ) do Ông Võ Lương, Quận Trưởng Cảnh Sát, làm Giám
Đốc, sau khi khóa 14BTV/RD mãn khóa ngày 7 tháng 5 năm 1963.
Khóa sinh của 2 khóa BTV/CN trên, cũng như khóa 14/BTV/CN, đều là những thí
sinh phải trải qua các kỳ thi tuyển ( thi viết và vấn đáp ) và phải có văn bằng từ Tú
Tài II trở lên.
Sở dĩ, Tổng Nha Công An Cảnh Sát phải mở thêm 2 kỳ thi tuyển hai khóa trên vì số
lượng BTV/CN của Khóa 14 BTV/RD tốt nghiệp chỉ có 187 người , trong lúc nhu
cầu cần tuyển dụng là 200 người và còn cần nhiều hơn nữa để đáp ứng chủ
trương mới của Ngành CSQG trong việc trẻ trung hóa, lành mạnh hóa Ngành
CSQG, cũng như để đủ nhân sự thay thế các cấp chỉ huy lớn tuổi đến giai đoạn về
hưu.
Khóa 15 & 16 BTV/RD có cùng chương trình và thời gian thụ huấn như khóa 14
BTV/RD, nhưng được sắp xếp học chung với một số Thẩm Sát Viên và Phó Thẩm
Sát Viên và được góp thành Trung Đội. Trung Đội này được gọi là Trung Đội Trung
Cấp trong thời gian thụ huấn ở Rạch Dừa.
Khóa 15BTV/RD gồm có 15 khóa sinh. Một trong các vị chỉ huy của Ngành CSQG
đã theo học Khóa 15 BTV/RD là khóa sinh Nguyễn Kim Phùng, sau khi Ông Phùng
vừa đỗ xong Cử Nhân Luật Khoa. Ông Nguyễn Kim Phùng là Thủ Khoa Khóa 15
BTV/RD và đã được cải ngạch Quận Trưởng Cảnh Sát cuối năm 1964 và là Giảng

Sư Học Viện CSQG từ năm 1966-1968. Từ năm 1968 đến 1971, Quận Trưởng Cảnh
Sát Nguyễn Kim Phùng là Trưởng Ty Cảnh Sát, Chỉ Huy Trưởng CSQG Tỉnh Châu
Đốc. Từ năm 1972 đến 1975, Ông Nguyễn Kim Phùng là Dân Biểu VNCH đơn vị Sa
Đéc. Và cùng trong thời gian này, Thiếu Tá Trần Cảnh Chung, nguyên Chỉ Huy
Trưởng CSQG Tỉnh Long An, cũng đắc cử Dân Biểu VNCH đơn vị Long An.
Riêng Khóa 16 BTV/RD, Khóa sinh Ngô Phi Đạm và trên 10 khóa sinh như Bùi Văn
Minh, Lê Xuân Tảo, Phạm Hữu Trung, Nhất, Nghĩa, Sáng, Thu đã theo học khóa
này. Khóa khai giảng tháng 9 năm 1963 và mãn Khóa giữa tháng 12 năm 1963.
Trong khi khóa này đang học tại Trung Tâm Rạch Dừa thì Cách Mạng ngày 1 tháng

11 năm 1963 xảy ra. Hai vị Giám Đốc và Phó Giám Đốc là Quận Trưởng Cảnh Sát
Võ Lương và Quận Trưởng CS Cao Xuân Hồng được điều chuyển về Nha Hậu
Giang, Cần Thơ để giữ chức vụ Giám Đốc và Phó Giám Đốc Nha.
Khác với Khóa 14 BTV/RD, Khóa 16 BTV/RD không đi thực tập và được phân phối
đi các địa phương và Tổng Nha sau khi mãn khóa.
Năm 1965, dưới thời Trung Tá Phạm Văn Liễu làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, kỳ thi
nhập Ngạch BTV được tổ chức và Khóa 1 Tu Nghiệp 40 BTV Cảnh Sát được mở ra
tại Trung Tâm Huấn Luyện Trung Cấp do Quận Trưởng Cảnh Sát Đàm Trung Mộc
làm Giám Đốc. Sau khóa Tu Nghiệp, 20 người trở về nhiệm sở cũ và 20 người ở lại
để theo học lớp tình báo do Giảng Viên Hoa Kỳ giảng dạy để làm Giảng Viên.
Trong số này, có BTV/CN Ngô Phi Đạm. Trước tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ngô Phi
Đạm được phục vụ tại BCH/CSQG Khu I.
Tóm lại, Khóa 14, 15, 16 BTV/RD là những Khóa BTV của Ngành CSQG được thi
tuyển trong năm 1963 , có trình độ học vấn và được huấn luyện về nghề nghiệp.
Lớp Sĩ Quan trẻ trung này, từ năm 1963 đến năm 1975, đã góp phần tích cực
trong các công tác điều hành, xây dựng và phát triển Ngành CSQG/VNCH.
…………………………………………………..OOO……………………………………………………

-VIEW:​Hình Ảnh Người Cảnh Sát Quốc Gia VNCH

Republic of Vietnam National Police_Photos before 1975.

-VIEW​ ​: Danh sách các SQ/CSQG chết trong tù

http://bit.ly/1Ls5rRu

-VIEW :N​ gành Cảnh Sát Ðặc Biệt VNCH

-VIEW :G​ ia Đình Khóa 1 Cựu SVSQ Học Viện
CSQG

-VIEW:​Hội Ái Hữu Cựu SVSQ Khóa 3
Học Viện CSQG
-VIEW:​VINH DANH NGÀY TRUYỀN THỐNG CẢNH

SÁT QUỐC GIA

-VIEW :H​ ocvienCSQGVNCH​ Shared publicly
-VIEW:​CHƯƠNG I - SỰ THÀNH LẬP VÀ TỔ CHỨC NGÀNH CSQG
-VIEW:N​ GÀNH ĐẶC BIỆT (Cảnh Sát Đặc Biệt)
-VIEW:K​ HỐI TƯ PHÁP
-VIEW:T​ Ổ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CẢNH-SÁT DÃ-CHIẾN.

Republic of Vietnam
National Police

From Wikipedia.

This article is about the South Vietnamese police.

Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa

Flag of the Republic of Vietnam National
Police

Agency overview

Formed 1962

Dissolved 1975

Jurisdictio National
n

Headquarte Saigon
rs

Motto Tổ quốc (Fatherland), C​ ông
minh (Justice), ​Liêm
chính(​ Integrity)

Employees 130,000 agents (at height in
1973)

Annual 7,000,000 piastres
budget

Agency ● Nguyễn Ngọc Loan​,
executive Director-General of
the National Police

The ​Republic of Vietnam National Police – RVNP (Vietnamese: C​ ảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa)​ ,
Police Nationale de la République du Vietnam or P​ olice Nationale for short (Vietnamese: ​Cảnh sát Quốc
gia – ​CSQG)​ in ​French​, was the official South Vietnamese national police force from 1962 to 1975, operating
closely with the A​ rmy of the Republic of Vietnam​ (ARVN) during the ​Vietnam War.​

History

The Republic of Vietnam National Police was officially created by President N​ gô Đình Diệm's national decree in
June 1962 from a conglomerate of smaller internal security and paramilitary agencies raised by the ​French
Union authorities during the ​First Indochina War between 1946 and 1954. These included the Vietnamese
Sûreté,​ the Saigon Municipal Police, elements of the colonial N​ ational Guard of South Vietnam (French: ​Garde
Nationale du Viet Nam Sud – GNVS, or VBNV in V​ ietnamese​), a rural G​ endarmerief​ orce or 'Civil Guard'
(French: G​ arde Civile)​ , the combat police (French: ​Police de Combat​) and various provincial militia forces made
of irregular auxiliaries (French: ​Supplétifs​). Transferred to South Vietnamese control in 1955, all the
aforementioned security units were integrated in the early 1960s into a new national police force with the
exception of the Civil Guard, which was placed under the Ministry of Defence. The CSQG had an initial strength
of only 16,000 uniformed and plainclothes agents, being essentially an urban constabulary with no rural
Gendarmerie component to counter the threat posed by the increasing ​Viet Cong (VC) insurgency in the
countryside.

The National Police under Diệm

Main article: ​Battle of Saigon (1955)

Even before the official creation of the National Police, President Diệm was quick to employ the security forces
inherited from the French in repressing both internal political dissent and organized crime. Throughout the late
1950s and into 1960, they helped the ​Vietnamese National Army (VNA) in suppressing the ​Hòa Hảo and ​Cao
Đài militant religious and political sects, with approximately 25,000 armed militiamen, and the smaller but better
organized B​ ình Xuyên​ S​ aigon-​ based gangster group.

The final years 1971-75

The CSQG strength peaked in ​February 1971 at 103,859 personnel – including 3,144 female agents, mostly
engaged in clerical work–, 4,450 vehicles and some 830 motorcycles of various types. However, out of this total
only 27,565 officers and enlisted men were of career status, the remainder being on contract, daily paid or
floating assimilated. Plans were drawn late that year to further expand the Police to 124,050 and later to
160,000, though the actual authorized strength in 1973 stood at about 130,000 men and women.

Structure

Subordinated to the South Vietnamese Interior Ministry, all components of the Police system were administered
directly by the CSQG Command at the National Police Headquarters in ​Saigon,​ which also provided technical
or combat support for law-enforcement and other internal security duties throughout the Country. By the late
1960s, the Vietnamese National Police was organized into eight major specialized departments or 'branches',
which were:

● River and Coastal Police
● Traffic Control Police
● Judiciary Police
● Special Police
● Police Medical Service
● Administration Service
● VIP Protection Service
● Field Police

Training facilities

All instruction and management of training facilities fell upon the Personnel and Training Directorate at National
Police headquarters in ​Saigon.​ Recruits first underwent the basic 12-week course, which consisted primarily of
weapons handling, tactics, T​ aekwondo and drill, ministered at the main CSQG Training Centre located at R​ ach
Dua,​ near V​ ũng Tàu.​ After finishing the course, the best-qualified students were selected to be sent for officer
training to the National Police Academy at ​Hoc Viên,​ where they attended advanced instruction programs at all
levels, which comprised:

● Officer promotion courses up to and including the rank of L​ ieutenant-Colonel​;
● Administrative and staff training;
● Senior officer seminars;
● Judicial Police training for officers and NCOs;
● Instructors’ courses at both officer and lower rank levels.
Those recruits with lower qualifications went instead to the Non-commissioned Officer (NCO) School run by the
ARVN at its Combat Training Centre in D​ a Lat,​ co-located to the namesake S​ outh Vietnamese Armed Forces
Military Academy, where they received special training that would enable them to graduate as Police NCOs.

Specialists such as field policemen, patrol boat crewmen, vehicle drivers (this category included ​squad car​,
armoured car and ​Jeep drivers, and m​ otorcyclists)​ , radio operators, medics, mechanics, and clerks were
trained in various other National Police and Armed Forces' schools. More specialized training was also

provided to selected male and female personnel assigned to the other CSQG branches. River and Coastal
Police boat crews were trained at the Marine Police Training Centre co-located at their ​Phu XuanH​ Q, near H​ ué.​
Field Police personnel – including officers and NCOs – underwent eight weeks' of training in paramilitary skills
at the M​ ã Lai Á and ​Phi Luât Tân CSQG training Centres. Instruction covered subjects such as ​jungle warfare,​
intelligence-gathering operations, ​law-enforcement and ​riot control techniques. To upgrade their capabilities,
squads and platoons were returned periodically to these training centers for six weeks of unit refresher training,
but for most CSDC companies and battalions posted in the provinces their refresher course actually took place
at the regional training centers.

Foreign assistance

Additional military "on the job" training was provided to Field Police units in the field by U.S. Mobile Training
Teams or by Australian advisors from the ​Australian Army Training Team Vietnam (AATTV). Selected officer
students were also sent to the R​ oyal Malaysian Police F​ ield Force Special Training Centre (M​ alay​: ​Sekolah
Latihan Pasukan Polis Hutan; SLPPH)​ at ​Kentonmen,​ Ulu Kinta, P​ erak in M​ alaysia to attend advanced
specialized police and instructor's courses; after graduation, some of these new National Police officers upon
returning to S​ outh Vietnam would them be posted as Field Police instructors at the Police training centres to
pass on their skills to CSDC recruits.

List of National Police Director-Generals

● Lại Văn Sang
● Mai Hữu Xuân
● Nguyễn Ngọc Lễ
● Nguyễn Văn Tôn
● Trần Vĩnh Ðắt
● Trần Bá Thành
● Nguyễn Chữ
● Nguyễn Văn Hay
● Trần Văn Tư
● Nguyễn Văn Là
● Nguyễn Ngọc Loan
● Phạm Xuân Chiểu
● Ðàm Trung Mộc
● Nguyễn Văn Y

List of National Police Commanders

● Trần Thanh Phong
● Nguyễn Khắc Bình

Uniforms and insignia

The T​ raffic Control Police agents were given an all-white service uniform consisting of a long-sleeved shirt and
trousers, worn with a matching white peaked cap; the shirt had dark blue removable shoulder boards and
badges and other insignia were in silvered metal.

Field Police troopers were given a black beret, worn French-style pulled to the left with the National Police cap

badge placed above the right eye

A US M-1 Helmet liner painted in shiny black, marked with white-and-red stripes at the sides and the initials

"TC" (Vietnamese: T​ uan Chan – patrol) was worn by National Police constables assigned patrol duties or riot

control in urban areas.

Rank insignia​.

1955–1962 ranks

● Cảnh sát viên – P​ atrolman/​ Patrolwoman
● Thẩm sát viên – I​ nspector
● Biên tập viên – ​Redactor
● Quận trưởng – ​Commissioner
● Kiểm tra – ​Controller
● Tổng kiểm tra – C​ ontroller General

1962–1971 ranks

● Cảnh sát viên – ​Patrolman/​ Patrolwoman
● Phó thẩm sát viên công nhựt – Acting ​Sub-Inspector
● Phó thẩm sát viên – ​Sub-Inspector
● Phó thẩm sát viên thượng hạng – ​Sub-Inspector​ 1st class
● Thẩm sát viên công nhựt – ​Station inspector
● Thẩm sát viên – ​Inspector
● Thẩm sát viên thượng hạng – ​Chief inspector
● Biên tập viên công nhựt – ​Superintendent
● Biên tập viên – ​Chief superintendent
● Biên tập viên thượng hạng – ​Deputy commissioner
● Quận trưởng – ​Commissioner
● Quận trưởng thượng hạng – C​ ommissioner 1st class
● Kiểm tra – ​Director
● Tổng kiểm tra – D​ irector General of Police

1971–1975 ranks

● Cảnh sát viên – ​Patrolman​/Patrolwoman
● Trung sĩ nhất – ​Sergeant First Class
● Thượng sĩ – M​ aster Sergeant
● Thượng sĩ nhất – F​ irst Sergeant
● Thiếu úy – ​Second Lieutenant
● Trung úy​ – ​First Lieutenant
● Đại úy – C​ aptain
● Thiếu tá – ​Major
● Trung tá​ – ​Lieutenant Colonel
● Đại tá – C​ olonel
● Chuẩn tướng – B​ rigadier-General
● Thiếu tướng – ​Major-General
● Trung tướng – L​ ieutenant-General​/Deputy Director-General
● Đại tướng – ​General​/Director-General

Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Quốc Gia

Đô Thành SÀI-GÒN

đường Trần hưng Đạo (quận 2) SÀI-GÒN



Tiểu sử : Cảnh-Sát Dã Chiến VIỆT NAM CỘNG HÒA

National Police Field Force
Cảnh Sát Dã Chiến VNCH

-SOURCE:h​ ttps://canhsatdachien.wordpress.com/tieu-su-canh-sat-da-chien-viet-nam-cong-hoa/
Cảnh Sát Dã Chiến (CSDC) là một lực lượng võ trang thuộc
Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG)
VIỆT NAM CỘNG HÒA (VNCH)


Click to View FlipBook Version