Mơ toàn nhân loại an hoà, Công bằng, bác ái, nhà nhà ấm no. Tình thương dâng ngát muôn hoa, Hoà đồng Sắc Tộc, Mầu Da, Giống Nòi. Sid Goldstein Freedom Park , Thị xã Westminster, Quận Orange, Nam California, Liên Bang Hoa Kỳ. Ngày 27 tháng 4 năm 2003. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Cảm tác nhân dự Lễ Khánh thành Tượng đài Chiến sĩ Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh cho Tự do Dân chủ Nhân quyền của Dân tộc Việt Nam từ trước 30-4-1975. Trong hình từ trái qua phải: Nguyễn-huy Hùng (K1), Lê Như Hùng (K14) tác giả bài hát Võ bi hành khúc của Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam.
Bài Phụng họa vận của Cụ HẢO-TÂM về bài thơ “ANH HÙNG TỬ KHÍ HÙNG BẤT TỬ” Tên thật là Trần Thiện Tâm cựu Trung Tá Ngành Hành chánh Tài chánh QLVNCH, 83 tuổi vào năm 2003, em ruột của Nữ sĩ VÂN NƯƠNG (goá phụ của cố Đại sứ Lê Ngọc Chấn chết trong trại tù tập trung của Việt Cộng) ĐẠO LÀM NGƯỜI Câu thơ tri kỷ hợp hoà Trao nhau tâm huyết ngày già lạc hoan. o-o-o Ngàn năm máu đỏ da vàng Trăn năm tô đậm thêm trang sử mừng Biết bao nghiã sĩ oai hùng Nặng tình Dân Nước thách cùng nhân gian Quản chi lội suối băng ngàn Tên bay đạn vụt nguy nan cõi đời… o-o-o Thanh bình ước tạo khắp nơi Kề vai sát cánh với người niềm chung Quyết tâm nhất chí anh hùng Ấy là chính khí phải cùng say mơ Văn minh lễ sống dung hoà Thương Yêu kiến tạo mọi nhà đều no… o-o-o Dối gian giết tróc ba hoa Kia Cộng đó Thánh Nồi da xáo Nòi !!! HẢO-TÂM, Virginia, ngày 4 tháng 5 năm 2003. 1991 TÂN MÙI, HOÀI CỐ NHÂN Thượng Tọa Thanh Long(*) đã mãn phần, Khuôn Thiền Giác Ngạn vắng Hiền quân. Bốn Mùa khổ hạnh xây công đức, Tám Tiết tu thân diệt Lục Trần.
Dứt kiếp luân hồi về cõi Phật, Lià thân cát bụi hết trầm luân. Danh thơm Ðạo đức lưu muôn thuở, Gương sáng Từ bi rạng Thế nhân. Mùa Thu Tân Mùi 1991, Phường 10, quận Phú Nhuận, Saigon. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG (*) Thượng Tọa Thích Thanh Long, trước 30-4-1975 là Giám đốc Nha Tuyên úy Phật Giáo QLVNCH. Ngài thân quen với tác giả Nguyễn-Huy Hùng từ hồi còn làm Tuyên úy tại Bộ Tư lệnh Ðịa phương quân và Nghiã quân từ năm 1965 đến 1967. Ngài cũng phải đi cải tạo 12 năm, giữa năm 1987 mới được tha về cư trú tại Chùa Giác Ngạn do chính Ngài đã có công xây dựng lên từ trước năm 1975. Sau bao năm tháng tù đầy, Ngài suy yếu bệnh hoạn đến khoảng giữa tháng 10 năm Tân Mùi 1991 thì qua đời, nhục thể được hoả táng ngày 20 tháng 10 năm Tân Mùi 1991 và lưu tại tháp thờ xây ngay trong phiá phải sân Chùa Giác Ngạn. 1979 KỶ MÙI TÂN LẬP, ÐỊA NGỤC TRẦN GIAN Nắng hạn khô da nứt nẻ đồng, Mưa nguồn lũ cuốn, khổ bần nông. Cầm hơi lao động, lưng ca sắn, Khắc phục bệnh thời, nắm lá xông. Hung hãn, Cai tù hăm hở nạt, Hững hờ, Cải tạo lạnh lùng trông. Rừng hoang đất sỏi, chen vồng miá, Núi trọc hầm vôi, đá chất chồng. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Hè 1979, Phân trại K5, trại Tân Lập. Tỉnh Vĩnh Phú, Bắc phần Việt Nam. TRUYỆN THĂM NUÔI Gặp nhau bốn mắt tròn xoe, Máu dồn tê mặt, lệ nhoè khoé mi. Nghẹn ngào chẳng biết nói gì, Không gian trùm phủ mây chì, gió Ðông. Vươn tay tính nắm tay chồng, Bàn tre ngăn cách, đành trông ngậm ngùi.
Oai phong Cán bộ rung đùi, Mặt vênh lên giọng nhắc lời Nội quy. “LẾU” ai vi phạm, tức thì, Chồng vào kỷ “NUẬT”, Vợ về cấm thăm. Vợ chồng đưa mắt hiểu ngầm, Ngập ngừng hỏi truyện những năm vắng nhà. Truyện sinh sống tháng ngày qua, Truyện con thay đổi học xa, học gần(*). Truyện bè bạn, họ hàng thân, Truyện đời đổi mới cận lân thế nào? Xa xôi bóng gió đổi trao, Mập mờ tiếng lóng xen vào báo tin. Hiểu ra thời thế đảo điên, Vợ, Con, tủi cực triền miên tháng ngày. Xót xa nuốt lệ bó tay, Gượng khuyên lao động hăng say với người. Từ rày vạn dặm xa xôi, Gửi quà Bưu kiện tiếp bồi cũng xong. Cần luôn can đảm vững lòng, Giữ gìn sức khoẻ đợi trông ngày về. Hạn thăm mươi phút vừa kề, Cán hô : “Ra NÃNH quà, về khẩn trương!” Chia tay chồng vợ luyến thương, Vội vàng ôm đại giữa đường, hôn nhau. Cán trông hờ hững hối mau, Rõ nòi Cộng sản, biết đâu… nghiã tình!!! MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Mùa Ðông 1979, Phân trại K5, trại Tân lập, Vĩnh Phú. (*) Hỏi mánh xem có ai vượt biên trốn được ra nước ngoài không? 1967 ĐINH MÙI, ƯỚC VỌNG ĐẦU NĂM CỦA LÍNH Tết đến năm nay thật đẹp Trời, Cúc Mai rộ nở ánh vàng tươi. Quân Dân cầu nguyện Thanh bình sớm, Nam Bắc hiệp thương quyết dựng thời.
Dân chủ Nhân quyền cho mọi giới, Tự do Bình đẳng khắp nơi nơi. Quê hương biến đổi lan tràn phước, Đất nước vượng cường đại chúng vui. Saigon, Tết Đinh Mùi 1967. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG. 1955 ẤT MÙI MIỀN NAM TRƯNG CẦU DÂN Ý Đất Việt từ khi bị cắt hai (1), Miền Nam xuất hiện lắm anh tài. Hiệp nhau thành lập Phong trào mới, CÁCH MẠNG QUỐC GIA đổi thế thời. TRƯNG CẦU DÂN Ý(2) thay Vua cũ(3), Đưa Thủ Tướng(4) lên để thế ngôi. Dựng nước CỘNG HOÀ như Mỹ quốc, Toàn dân ghi nhớ ơn muôn đời (5). Saigon, 23 tháng 10 năm 1955. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG (Lúc đó tác giả đang là Thiếu Tá Trưởng Phòng MMTU tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, được chiến hữu Truyền Tin các cấp thuộc các đơn vị Trung Ương bầu làm Chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia của Binh chủng Truyền Tin.) Ghi chú: (1).- Hiệp định Genève ký ngày 21-7-1954 chia đất nước Việt Nam thành 2 miền Nam Bắc tại Vĩ tuyến 17 dọc theo sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị.
Miền Bắc thuộc quyền cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam với tên là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Phạm văn Đồng làm Thủ Tướng. Miền Nam thuộc quyền quản trị của Chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng và ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng. Lúc đó Quốc gia Việt Nam còn là thành viên của Liên Bang Đông Dương gồm Việt, Miên, Lào do nước Pháp cai trị. (2).-Đây là mấy câu hát rao giảng trên các đài phát thanh Quốc gia trên toàn miền Nam Việt Nam về ngày trưng cầu dân ý, tác giả không nhớ toàn bài: “23 tháng 10 là ngày trưng cầu dân ý, 23 tháng 10 là ngày phá tan ngai vàng. Đứng lên toàn quốc, viết trang sử mới….” (3).- Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam lúc đó là cựu Hoàng Bảo Đại, tên húy là Nguyễn Vĩnh Thụy. (4).-Thủ tướng Ngô Đình Diệm do Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ Tướng vào ngày 16-6-1954với toàn quyền quyết định mọi việc Quốc gia không phải tham khảo ý kiến Quốc trưởng trước như các Thủ Tướng tiền nhiệm. Nhưng mãi đến ngày 7-7-1954 ông Ngô Đình Diệm mới trình diện Chính phủ và chính thức thực thi quyền Thủ Tướng.
(5).- Kể từ sau ngày VIỆT NAM CỘNG HOÀ ra đời 26-10-1956, nghi thức chào cờ chính thức được quy định là sau khi hát bài Quốc Ca “TIẾNG GỌI CÔNG DÂN” thì phải hát bài “SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG”. Bài hát này do nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Bích sáng tác (ông đã qua đời vào năm 2001) và đã tìm thấy trong các Website sau đây: http://vinhdanhquanlucvietnamconghoa.blogspot.com/2009/04/suy-ton-ngotong-thong.html http://www.dutule.com/D_1-2_2-111_4-1912_5-4_6-6_17-34_14-2/ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc_B%C3%ADch_(nh%E1%BA%A1c_s% C4%A9) SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG Ai bao năm từng lê gót nơi quê người Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do Người cương quyết chống cộng Bài phong kiến bóc lột Diệt thực dân đang giắt reo tàn phá Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Xin thượng đế ban phước lành cho người
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống Chung đắp say nền thống nhất sơn hà Dấu triện (seal) của Phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Hoà. 1943 QÚY MÙI TUỔI TRẺ VIỆT NAM DẤN THÂN Phe Trục(1) tung hoành khắp Á Âu, Diệt Phong đả Thực(2) trên toàn cầu. Cứu dân nhược tiểu qua nô lệ, Độc lập Tự do khỏi cúi đầu. Thuộc địa tiêu tùng toàn Thế giới, Nhân quyền lan toả cả Năm Châu. Việt Nam tuổi trẻ mau đoàn kết, Quang phục quê hương vững mạnh giầu. Lạng Sơn, Tết Qúy Mùi 1943. NGUYỄN-HUY HÙNG (Hướng đạo sinh VOI HOẠT BÁT). (1).- Phe Trục trong Thế giới Đại Chiến Hai gồm ĐỨC và Ý ở bên Âu Châu và NHẬT ở bên Á Đông. (2).-Tiêu diệt Phong Kiến Trung Hoa và đả phá Thực Dân: Anh, Pháp, Nga, TâyBan-Nha, Hà-Lan …
ƯỚC MƠ TUỔI THƠ Thiếu niên tuổi mới qua mười, Nhập đoàn Hướng Đạo, học, chơi thỏa tình. Thiên nhiên bao quát đẹp xinh, Muôn loài sinh động, chuyển mình thời gian. Xuân sang nhựa sống dâng tràn, Hè về hoa nở, rừng chan chứa mầu. Thu qua lá chuyển sang nâu, Đón mùa Đông lạnh mây sầu lê thê. Đường dài sải bước mải mê, Luyện rèn Trí Đức, xây quê mạnh giầu. Nề chi sương gió, biển dâu, Noi gương Tiên Tổ, mưu cầu Tự do. Cho Dân sung túc ấm no, Thanh bình, Độc lập, ước mơ đạt thành. Tết Quý Mùi (5 tháng 2 năm 1943) Chùa Tiên, phố Thổ, Lạng Sơn. VOI HOẠT BÁT NGUYỄN-HUY HÙNG “Một ngày là Hướng Đạo Sinh, Cả đời là Hướng Đạo Sinh” (Scout one day, Scout for life) Noel 1970, Trại Trưởng Voi Hoạt Bát (Đại Tá Nguyễn-Huy Hùng) tại Trại Họp Bạn Đội Trưởng Thiếu Nhi Quân Đội trong rừng Chí Linh, Vũng Tầu.
TRƯỜNG ĐỜI VỚI NHỮNG MÙA THU KHÓ QUÊN Chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng Hoà Thề trọn đời hy sinh dấn thân vì Quốc gia Dân tộc Việt Nam. THU ẤT MÙI 2015, NIỀM RIÊNG. Thu sang rừng lá thay mầu, Suối trong rỉ rả khe sâu nhạc buồn. Nắng chiều rọi bóng cô đơn, Nao nao tim thắt từng cơn nỗi nhà. Quê hương dưới ách Quỷ Ma, Độc tài chuyên chính ba hoa lộng quyền. Buôn dân bán nước tổ tiên, Gian tham bóc lột dân hiền khổ đau. Thiếu ăn thiếu thuốc cơ cầu, Ngày đêm lam lũ hơn trâu kéo cầy. Bạo quyền tham nhũng phây phây, Lập bè kết đảng đọa đầy lương dân. Đua nhau hưởng thú hồng trần, Ngày đêm hoan lạc phù vân sang giầu. Học đòi nếp sống Nga Tầu, Thực dân Phong kiến, cưỡi đầu dân đen. Quốc dân đâu vắng người hiền, Sao không vùng dậy đứng liền bên nhau?
Quyết tâm bền chí đương đầu, Dẹp bầy lang sói tóm thâu sơn hà. Dựng nền Dân chủ Tự do, Cho toàn dân sống ấm no thanh bình??? KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Little Saigon, Quận Cam, Nam California, Mùa Thu 2015. THU ĐINH HỢI 1947, THÁNG 8-1945 CÁCH MẠNG HAY QUỐC NẠN??? Cách mạng Bốn Lăm (1945) tạo đổi đời, Cương thường đảo lộn khắp nơi nơi. Cha Con Ông Cháu thành đồng chí, Già Trẻ Thầy Trò chung thứ ngôi. Thế giới đại đồng không Tổ quốc, Công Nông chuyên chính chẳng tình người. Chiến tranh Quốc Cộng tràn oan nghiệt, Cộng đảng tàn hung hại giống nòi. Ngã Tư Vọng, Bạch Mai Hà Nội, Tết Trung Thu 1947. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Lúc dó tác giả là thư ký của Ban Chỉ huy Đại đội 4 Vệ binh Bắc Kỳ đồn trú tại Ngã Tư Vọng, Bạch Mai thành phố Hà Nội. THU GIÁP NGỌ 1954, NIỀM ĐAU ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA HAI Tháng Bẩy Năm Tư (7-1954) thật nghiệt oan, Giơ-Neo (Genève) thế giới họp bàn tròn.
Chia đôi đất Việt nơi Bến Hải, Nam Bắc đôi đường, bao oán than. -oOoTriệu người bỏ Bắc chạy vào Nam, Xa lánh Cộng quân Hồ tặc(1) tham, Cướp đất giết người xây dựng Đảng. Tam Vô(2) chuyên chính chẳng ai ham. Saigon, Thủ đô chính phủ Quốc gia Việt Nam Tết Trung Thu 1954. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG. Lúc đó Tác giả đang là Thiếu Tá phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ghi chú: -(1)Theo Hiệp định Genève quy định thì đất nước Việt Nam bị chia thành 2 nước Bắc Việt và Nam Việt do 2 chính phủ theo 2 chế độ chính trị khác nhau quản trị. Miền Bắc dưới quyền thống trị của Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà. Miền Nam thuộc quyền quản trị độc lập của chính phủ Quốc gia Việt Nam do Cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng. Người dân nào đang cư ngụ tại miền Bắc Vĩ tuyến 17 không muốn sống dưới chế độ hà khắc độc tài chuyên chính đảng trị của Hồ Chí Minh thì được quyền tự do di chuyển vào miền Nam sinh sống lập nghiệp và được chính quyền Pháp thi hành Hiệp định Genève cung cấp phương tiện chuyển vận rời miền Bắc vào miền Nam trong vòng 300 ngày kể từ ngày Hiệp định ký kết là 21-7-1954. Các Cán binh Việt Cộng đang hoạt động tại miền Nam Vĩ tuyến 17 bắt buộc phải di chuyển hết ra miền Bắc, nhưng chỉ một số ít rút đi theo quy định của Hiệp định còn một số lớn được lệnh của Hồ Chí Minh cải danh thành thường dân ở lại miền Nam hoạt động bí mật. -(2) Đảng Cộng sản Việt Nam là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản do Liên Xô Nga lãnh đạo theo thể chế chính trị chủ trương TAM VÔ (Vô gia đình, Vô Tổ quốc, Vô Tôn giáo) Anh em bốn bể một nhà. THU BÍNH THÂN 1956, MIỀN NAM VUI HƯỞNG THU THANH BÌNH Không gian bàng bạc ánh trăng mơ, Vạn vật mênh mông ảo ảnh mờ.
Đèn giấy long lanh vờn bóng nguyệt, Sáo diều vi vút thả hồn thơ. Bánh chay lài toả hương dìu dịu, Trà mạn sen dâng ý dật dờ. Thấp thoáng quân cù (1) quay tán gió, Dập dìu trai gái hát bông lơ (2). Saigon, Thủ đô nước VIỆT NAM CỘNG HÒA Tết Trung Thu 1956 MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Không có Tổng tuyển cử thống nhất 2 miền Nam Bắc như quy định bởi Hiệp định Genève 1954, Chính phủ Quốc gia miền Nam thay đổi chế độ thành VIỆT NAM CỘNG HOÀ theo mô thức chính trị của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Lúc đó tác giả là Thiếu Tá làm việc tại Bộ Chỉ huy Viễn thông thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Ghi chú: -(1) những hình người bằng giấy trong đèn Trung Thu, ngoài Bắc gọi là “đèn kéo quân”, trong Nam gọi là “đèn cù”. -(2) ngoài Bắc có lệ “hát trống quân” đối đáp giữa trai và gái vào dịp Tết Trung Thu. Hình ảnh Dẫy nhà chính của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại vùng Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Gia Định.
THU ẤT MÃO 1976, TRẮNG ÐÊM TRÊN ÐẤT MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Sàn tre vật vã ẩm ê, Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm. Lao sao chuột rúc bên thềm, Rì rầm suối đổ, cú chêm nhịp buồn. Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn, Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song. Nhớ con thương vợ não lòng, Chợ đời bạc bẽo long đong một mình. Thời gian hờ hững vô tình, Không gian khoả lấp bao hình thân thương. Bắc, Nam, chung cảnh đoạn trường, Lương dân cùng khốn, quê hương tan tành. Tung hoành Cộng đảng gian manh, Bầy trò giai cấp đấu tranh hại đời. Oán than dâng thấu tận Trời, Ông Cao Xanh hỡi! Nỡ ngồi làm ngơ? Họa Hồng Thủy đến bao giờ? Mới cho dân Việt thấy bờ Tự do !!! Phân trại K lò gạch, Liên Trại 1, Xã Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Đây là đêm đầu tiên Tác giả cùng một số bạn đồng cấp bậc Đại Tá nguyên thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam chống Cộng sản xâm lăng, bị bắt tập trung đưa ra miền Bắc tới Liên trại 1 do Quân đội nhân dân Cộng sản quản lý tại xã Việt Cường Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn giam cầm lao động khổ sai cải tạo tư tưởng sau ngày Quốc hận 30-4-1975 cả nước đắm chìm dưới sự thống trị của đảng Việt Cộng và bạo quyền Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. THU KỶ MÙI 1980, GÓI ƯU TƯ TÙ CẢI TẠO GIỮA RỪNG SÂU Gió đưa nhẹ lá vàng rơi, Nghiêng nghiêng nắng ngả bóng trời vào Thu. Lom khom ven núi đoàn Tù, Khua dao, múa cuốc, ngất ngư vạn sầu.
Gió sương hun bạc mái đầu, Rừng hoang ngăn lối, thấy đâu đường về. Âm thầm ngày tháng lê thê, Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù. Xuyên trời vụt bóng chim cu, Làm sao gửi gói ưu tư nghẹn ngào !!! K2, Trại Thanh Phong giữa lòng dải Trường Sơn, Huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá Trung Việt. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Tác giả cùng nhiều chiến hữu đồng tù bị đưa từ trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú Bắc Việt vào đây tiếp tục cải tạo, sau biến cố quân Trung Cộng đánh chiếm mấy tỉnh miền biên giới Việt Nam –Trung Hoa vào đầu năm 1979 để cho bè lũ Việt Cộng một bài học, vì đã thi hành lệnh Liên Xô Nga đem quân sang đất Cao Miên lật đổ chính quyền Cộng sản đàn em của Trung Cộng. THU NHÂM THÂN 1992, THOÁT ÁCH KỀM KẸP BẠO TÀN VÔ NHÂN ĐẠO CỦA BÈ ĐẢNG VIỆT CỘNG Bỏ nước ra đi dạ vấn vương, Cộng nô kỳ thị phải lên đường. Thương Dân lận đận đầy oan nghiệt, Xót Bạn lao đao nặng đoạn trường. Hạnh phúc Tự do hừng Thế giới, Khổ đau kềm kẹp phủ Quê hương. Lưu vong quyết tạo thời cơ mới, Trở lại cùng Dân diệt bạo cường. Vào Thu Nhâm Thân, bình minh ngày 5-8-1992. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Tác giả và toàn gia đình gồm Vợ các Con các Cháu lên phi cơ Hàng không Dân dụng Việt Nam rời phi trường Tân Sơn Nhất Saigon vào lúc 8 giờ sáng ngày 5-8- 1992 đi Thái Lan, để hoàn tất các thủ tục nhập cảnh và chuyển đổi máy bay đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ theo Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation) H.O. 10 để xây dựng cuộc đời mới hoàn toàn Tự do Hạnh phúc của người công dân Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Gia đình đã đến phi trường Cedar Rapids Tiểu Bang IOWA lúc 21 giờ tối ngày 7-8-1992.
THU ĐINH SỬU 1998 HÂN HOAN TIẾP NHẬN CUỘC ĐỔI ĐỜI Rừng lá thay mầu Thu bước sang, Mừng đời tỵ nạn lật thêm trang. Hân hoan tuyên thệ thành dân Mỹ, Quê mới tương lại rực rỡ vàng. Los Angeles Nam California Hoa Kỳ, vào Thu 1998 KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Sau 5 năm sống trên đất Hoa Kỳ với tư cách Thưòng trú nhân tỵ nạn chính trị tại khu Little Saigon Nam California, tác giả đã dự thi được chấm đậu và tuyên thệ trở thành Công dân Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ tại Los Angeles vào mùa Thu 1998. Hình chụp tháng 8-1998 tại Fountain Valley Nam California Hoa Kỳ. Nguyễn-Huy Hùng và Phu nhân.
THU ĐINH HỢI 2008 VIỄN XỨ XƯỚNG HỌA THƠ MÙA THU Bài xướng của Tôn Thất Xứng NHỚ THU XƯA Thu đến cho ta những chạnh lòng Trăng buồn nhớ nước thuở xưa trong Vườn sau tuyết nhuốm hoa màu trắng Ngõ trước sương pha lá đỏ hồng Cõi Bắc: Tàu Mao xâm lấn đất Bờ Nam: Hồ cộng đọa đày dân Bao giờ thu được như xưa để Tôi, Bác chung vui chén rượu nồng ./. TÔN THẤT XỨNG Montreal, mùa Thu năm 2008 Bài họa của Khiết Châu Nguyễn-Huy Hùng. DƯ ÂM THU Mấy chục Thu qua vẫn vững lòng, Tiếp tay gạn nước đục nên trong. Cụng ly tâm sự bên hàng trúc, Cạn chén ưu tư cạnh khóm hồng. Đoàn kết tạo thời xoay vận nước, Nắm tay lập thế cứu lương dân Dẹp tan bầy quỷ vong nô Cộng, Việt tộc chia nhau tách rượu nồng. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Nam California, chiều thu 21 Nov 2008. Bài họa của Trần Dzoãn Thường THU 2008 Mỗi độ thu về mỗi mủi lòng Nhà tan nước mất tâm nào trong Trông lên chức sắc sợ xanh mặt Ngó xuống dân đen ứa máu hồng
Độc lập như mèo: dấu hiến đất * Tự do dâng biển: có đau không Trời cao biển rộng nào đâu thấu Bụng dạ vui chi mà rượu nồng./. DZOÃN THƯỜNG, Pasadena 22-11-2008 *Ngạn ngữ: Dấu như mèo dấu c.. Bài họa của Sói Biển Nguyễn Minh Châu NỖI LÒNG MÙA THU Thu mang đến ta nỗi buồn lòng Thương nhà nhớ nước mỏi mòn trông Thu nơi đây bình minh sương trắng Thu quê nhà luôn có nắng hồng . Mùa Thu chết lá rụng về đất Rời cõi trần người sẽ về đâu? Mong ngày nào trở về quê để Gởi tro tàn nơi đất ấm nồng! -oOoThu đây rất đẹp mà xứ lạ Cảnh Thu nhà vương vấn hồn ta. NGUYỄN MINH CHÂU, TĐ3 Sói biển THU NHÂM THÌN 2012 ĐẬP TAN VÒNG OAN NGHIỆT Bốn Lăm (1945), dân Việt nhằm cung hạn, Tháng Tám, giặc Hồ “kách mệnh” (*) Thu. Đất nước đắm chìm trong máu lửa, Không theo Cộng sản, nhập lao tù!!! Nào ai dũng sĩ thương nòi giống, Đoàn kết vùng lên diệt giặc thù. Loại bọn vong nô ngu Việt Cộng, Phục hưng đất nước mạnh thiên thu. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Little Saigon, Nam California Hoa Kỳ, 10-10-2012. (*) “kách mệnh” là danh từ CÁCH MẠNG mà đại chúng được nghe phát ra từ miệng của gian tặc hồchíminh tại Hà Nội vào tháng 8-1945 tại vườn hoa Ba Đình trong buổi Lễ Tuyên ngôn Độc Lập do Việt Cộng tổ chức.
Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương. THƠ XUÂN NHỮNG NĂM CON NGỰA 2014, GIÁP NGỌ HY VỌNG NGỰA VỀ DÂN VIỆT THẮNG Mong rằng “MÃ ĐÁO sẽ THÀNH CÔNG”, Quét sạch CỘNG NÔ hết XÍCH GÔNG. Nhất quyết vùng lên hưng phục quốc, Dẹp tan Việt Cộng giữ non sông. Trẻ già Nam Nữ cùng chung sức, Mọi giới Sĩ Nông quyết một lòng. Gầy dựng quê hương giầu vững mạnh, Phát huy đạo đức giống Tiên Rồng. CUNG HẠN TUỔI ĐỜI 85. Tháng Hai CANH NGỌ năm Ba mươi, Cha Mẹ đưa Ta nhập cuộc đời. Thế sự thăng trầm nhiều trắc trở, Tình trường chuyển biến lắm buồn vui.
Thanh thời lo diệt bầy nô Cộng, Tuổi hạc long đong đất nước người. Dân Việt vẫn còn trong khổ lụy, Phận riêng khắc khoải chẳng sao nguôi. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Đón mừng Tết Giáp Ngọ 31-1-2014. Hemet, Nam California Hoa Kỳ. 2002, NHÂM NGỌ XUÂN VÙNG LÊN Phần tư thế kỷ đã trôi qua, Nam Bắc đôi nơi họp một nhà. Khói lửa tương tàn thôi giáng họa. Đói nghèo tham nhũng lại bùng ra, Nhân dân gian khổ xây giềng mối, Việt Cộng chuyên quyền phá Quốc gia. Con cháu Tiên Rồng dòng bất khuất, Vùng lên quét sạch lũ gian tà. -oOoCùng nhau dựng lại sơn hà, Trồng cây Dân chủ reo hoa Nhân quyền. Công bằng Bác ái làm nền, Phát huy Nam Nữ bình quyền tự do. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Little Saigon, Nam California. Xuân Nhâm Ngọ, ngày 1-2-2002. 1990, CANH NGỌ TUỔI ĐỜI 61 TỰ TRÀO CANH NGỌ duổi dong đã giáp vòng, Sáu mươi mốt tuổi vẫn long đong. Mười lăm năm Thiếu nương Thầy Mẹ, Bốn sáu mùa Trung trải đoạn trường. Dũng cảm tạo thời xây nghiệp lớn, Trớ trêu mệnh định rã như không.
Ngày đêm nhẫn nại gầy công đức, Con Cháu ngàn sau hưởng phước ròng. -oOoMỗi năm xuân đến mắt thêm loà, Sương gió cuộc đời khắc nếp da. Thời tiết tới kỳ mầm nẩy lá, Thiên nhiên biến hoá búp đương hoa. Vòng xoay năm tháng mơ dang dở, Luân chuyển đêm ngày mộng lướt qua. Vạn vật chuyển mình hừng khí thế, Sáu mươi mốt tuổi hẳn chưa già! MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Phú Nhuận, ngày 21-1-1990 (Giao thừa năm Canh Ngọ) Ghi chú: Đúng ngày cuối năm âm lịch Kỷ Tỵ, gia đình tác giả Nguyễn-Huy Hùng nhận được Hộ Chiếu do Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam cấp cho đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ. Nhận được Hộ chiếu rồi, còn phải chờ Ðại diện Hoa Kỳ tại Saigon gọi đến phỏng vấn để xét và quyết định có chấp thuận cho đi hay không. Hình chụp sáng Mồng Một Tết MẬU THÌN 1988 tại nhà riêng, Quận Phú Nhuận, thành phố Saigon. Gia đình hội ngộ đông đủ lần đầu tiên sau 13 năm Trưởng Gia đình phải đi tù tập trung cải tạo trên cả 3 miền đất nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam chuyên chính độc đảng bạo tàn sau ngày Quốc hận 30-4-1975.
THÔNG GIA CHÚC TẾT CANH NGỌ 1990 Saigon đón Tết nhớ phương xa, Rộn ước mau mau họp một nhà. Long Mã tinh thần hy vọng lớn, Bên nhau cất chén chúc vinh hoa. Ngày 23 tháng Chạp Quý Tỵ tiễn ông Táo. MAI THẠCH LÝ THÁI VƯỢNG (trước 30-4-1975 làm Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ, sau 30-4-75 đi tù cải tạo 12 năm) Hình chụp Xmas 1992 tại Santa Ana, Nam California, Hoa Kỳ Thông gia đằng trai LÝ THÁI VƯƠNG và Phu nhân (bên Trái) Thông gia đằng gái NGUYỄN-HUY HÙNG và Phu nhân (bên phải). Mậu Tùng Nguyễn-Huy Hùng cảm họa 3 đề khác nhau: TÌNH Đẹt đùng pháo nổ khắp gần xa, Canh Ngọ hân hoan phước đến nhà. Nâng chén hồng đào mừng Lý-Nguyễn, Xuân sang hạnh phúc ngát hương hoa.
NHÀ Ngày giờ đoàn tụ chẳng còn xa, Con Cháu chờ mong đợi trước nhà. Hy vọng đang theo Canh Ngọ đến, Đất Trời rực rỡ ánh muôn hoa. NƯỚC Quãng đường gai góc đã rời xa, Mai, Cúc, Hường, Lan ngát mọi nhà, Mã đáo công thành Canh Ngọ báo, Tự do Dân chủ rộ mùa hoa. Phú Nhuận, ngày 20-1-1990 cuối năm Quý Tỵ MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG 1978, MẬU NGỌ XUÂN TÙ KHÔNG ÁN Núi đá rừng chồi đất Tổ đây, Bao năm Cách mạng vẫn như vầy. Xóm làng xơ xác dân nghèo đói, Đồng ruộng khô cằn thú lất lây. Triền núi cheo leo khu cải tạo, Ven sông thưa thớt xóm dân gầy. Đón Xuân ra sức trồng khoai sắn, Mừng Tết còng lưng ép miá cây (1). K1, Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG (1)Tù ép miá để cất rượu cho Trại trao đổi với Hợp tác xã lấy thịt heo cho cán bộ và tù ăn Tết. 1966, BÍNH NGỌ XUÂN MIỀN NAM NHIỄU NHƯƠNG CHÍNH TRỊ Xuân về rực rỡ nở muôn hoa, Đón Tết loay hoay sửa soạn nhà. Đối lập quậy đòi Hiến pháp mới, Chính quyền chấp nhận bỏ JUNTA (1).
Bỏ luôn mô thức Cộng Hoà Mỹ, Chuyển hướng theo khuôn nước Pháp già. Hy vọng đây là phương sách tốt, Quê hương bình ổn hơn năm qua. -oOo_ Quân Dân đoàn kết cùng xây dựng, ĐỆ NHỊ CỘNG HOÀ quyết phải ra. Tân Sơn Nhất, Saigon, Tết Bính Ngọ, MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG (1)Sau cách mạng 1-11-1963 Hội đồng Quân nhân Cách mạng đã trao cho dân sự điều hành đất nước để thành lập chính thể mới nhưng không thành công, Hội đồng Quân nhân Cách mạng lại phải nhận trách nhiệm điều hành đất nước theo phương thức JUNTA chính quyền gồm có Hội đồng Lãnh đạo Quốc gia và Hội đồng Hành pháp Trung Ương, với sự yểm trợ của một đảng chính trị lớn tại miền Nam, nhưng vì Đảng này lợi dụng vị thế đó để thao túng cài người của mình vào các cơ quan chính quyền Trung Ương và Điạ phương Tỉnh Quận để điều hành đất nước theo ý mình nên bị các đảng chính trị khác chống đối xuống đường liên tục đòi Hội đồng Quân nhân Cách mạng phải soạn thảo Hiến pháp quy định mô thức chế độ chính trị mới thay cho Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hoà theo mô thức Hoa Kỳ đã bị hủy bỏ ngay từ sau ngày Cách mạng 1-11-1963 thành công. 1954, GIÁP NGỌ XUÂN ƯU TƯ Chiến trận lan tràn khắp đó đây, Quê hương khói lửa ngút trời mây. Mai Đào bung cánh chờ Xuân đến, Sông núi phơi mình hứng đạn bay. Dân chúng bồn chồn chờ đón Tết, Quân binh lo lắng súng cằm tay. Giơ-Neo hội nghị tìm phương án, Giải pháp hoà bình… dứt họa tai./. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Saigon, Tết Giáp Ngọ, 3 tháng 2-1954 Ghi chú bổ túc cuối năm 2013. Kể từ đầu năm 1950, Việt Minh được Trung Cộng và Liên Sô Nga yểm trợ tổ chức trang bị huấn luyện thành lập các Đại đơn vị cấp
Sư đoàn tại miền biên giới Việt Nam-Trung Hoa. Đến đầu năm 1953, lại tăng cường thêm cố vấn, vũ khí và nhân công ồ ạt đánh chiếm vùng Sơn La, Lai Châu, vây hãm khu chiến lòng chảo Điện Biên Phủ do Pháp thiếp lập, và tất cả các mặt trận khác trên toàn cõi Đông Dương. Pháp không được Mỹ hỗ trợ nên thất thế. Tại chính quốc Pháp các chính phủ bị liên tiếp thay thế vì sự đòi hỏi của dân chúng ép phải tìm giải pháp hoà giải với Việt Cộng để chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Ngày 4 tháng 8 năm 1953, Liên Xô đề nghị triệu tập một Hội nghị Ngũ Cường, có Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tham dự, để giải quyết các tranh chấp tại Á Châu vào cuối tháng 9-1953. Ngày 8 tháng 10 năm 1953 Chu Ân Lai tuyên bố Trung quốc muốn đóng góp vào việc củng cố nền hoà bình ở Viễn Đông và trên Thế giới. Ngày 27-10-1953 Thủ tướng Laniel tuyên bố Pháp sẵn sàng nắm mọi cơ hội tìm Hoà bình cho Đông Dương, Quốc hội Pháp biểu quyết ủng hộ việc tìm một giải pháp chính trị qua thương thuyết. Ngày 29-11-1953, Tướng Navarre Toàn quyền Đông Dương và Tướng Cogny Tư lệnh quân Pháp tại Bắc Việt đến thăm Khu chiến lòng chảo Điện Biên Phủ và chỉ định Đại tá Christian De Castries làm Tư lệnh Điện Biên Phủ. Đồng thời tại Oslo Thụy Điển, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Expressen của Norway, là sẵn sàng cứu xét mọi đề nghị của Pháp, nhưng chỉ thương thuyết với Pháp (có ý nói là không thương thuyết với Chính quyền Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Đại đang làm Quốc Trưởng). Ngày 6-12-1953 tại Thái Nguyên, Bộ Chính trị Đảng Lao Động VN và các chuyên gia Trung Cộng đồng ý đánh Điện Biên Phủ, và ngày 10-12-1953 ra lệnh cho 2 Đại đoàn 304 và 316 cùng với 1 Trung đoàn của vùng châu thổ sông Hồng Hà, tiến về Điện Biên Phủ. Ngày 1-12-1953, khi gặp ông Heath Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam thì Bảo Đại có ý không chịu để Pháp thương thuyết với Việt Minh. Nhưng đến ngày 11-12- 1953, Bảo Đại lại yêu cầu Thủ tướng Nguyễn văn Tâm từ chức để giao cho Hoàng thân Bửu Lộc thành lập chính phủ đoàn kết quốc gia để có thể thương thuyết với Pháp và nói truyện với Hồ Chí Minh về hy vọng hoà bình. Chính phủ Bửu Lộc được thành lập xong vào ngày 11-1-1954 và nhiệm chức vào ngày 16-1- 1954. Ngày 14-12-1953, Hồ Chí Minh tuyên bố nhận lời thương thuyết với Pháp. Ngày 26-12-1953, Liên Xô đề nghị họp Tứ Cướng tại Berlin (Đức) vào ngày 25-1- 1954, đề nghị này được chấp thuận, và Tứ Cường đã họp đúng ngày đó và kéo dài tới ngày 18-2-1954. Trong dịp này, Molotov của Nga đề nghị họp Ngũ Cường
(thêm Trung Cộng) để giải quyết tất cả các vấn đề trên Thế giới. Hoa Thịnh Đốn, Tứ Cường đồng ý mời Trung Cộng tham dự Hội nghị Genève, khai mạc ngày 26- 4-1954 để bàn cả vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Ngày 13-3-1954, sau 3 tháng vây hãm, theo chỉ thị của Cố vấn Trung Cộng, Việt Minh bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ, chiếm căn cứ hoả lực Béatrice. Ngày 14-3-1954, Pháp thả Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù xuống tăng cường Điện Biên Phủ. Ngày 15-3-1975, Việt Minh chiếm căn cứ hoả lực Gabrielle. Ngày 20-3-1975, Tướng Paul Ely Tổng tham mưu trưởng Pháp qua Hoa Thịnh Đốn xin tiếp viện không hiệu quả. Ngày 28-3-1954, phi trường Điện Biên Phủ ngưng hoạt động vì bị Việt Minh khống chế bằng pháo binh do Trung Cộng viện trợ chỉ huy. Ngày 30- 3-1954, Điện Biên Phủ bị tấn công lần thứ hai và kéo dài cho đến ngày 24-4- 1954. Ngày 3-4-1954, thêm 1 Tiểu đoàn Nhẩy dù Pháp nhẩy xuống tăng cường Điện Biên Phủ. Chủ nhật 4-4-1954, Tổng Thống Eisenhower quyềt định dứt khoát không can thiệp vào chiến tranh Đông Dương. Ngày 7-4-1954, Pháp thả thêm Tiểu đoàn 2 Nhẩy dù xuống tăng viện Điện Biên Phủ. Ngày 15-4-1954, Đại tá De Castries tư lệnh căn cứ Điện Biên Phủ được thăng cấp Thiếu Tướng. Ngày 25-4-1954, Hoa Kỳ chính thức từ chối lời yêu cầu can thiệp vào Đông Dương của Pháp. Ngày 26-4-1954, tại Genève khai mạc Hội nghị về Triều Tiên và Đông Dương, phái đoàn Trung Cộng do Chu Ân Lai cầm đầu gồm 200 người gồm toàn nhân vật quan trọng thuộc quân đội, An ninh tình báo, và ngoại giao. Ngày 1-5-1954, Võ Nguyên Giáp cho lệnh tấn công đợt 3 vào Điện Biên Phủ cho tới ngày 7-5-1954. Ngày 2-5-1954, Mỹ, Britain và Pháp đồng ý công thức Hội nghi do Liên Xô đề nghị, sẽ có 9 phe tham dự, kể cả Việt Minh và Quốc gia Việt Nam. Ngày 4-5-1954, phái đoàn Phạm văn Đồng và phái đoàn Nguyễn Quốc Định sau thay bởi Trần văn Đỗ đến Genève. Ngày 6-5-1954, Đồi A-1 Điện Biên Phủ bị Trung đoàn 174/316 tràn ngập. nhiều căn cứ và khu trung tâm Điện Biên Phủ lọt vào tay Việt Cộng. Ngày 7-5- 1954 Genève nhận được tin Điện Biên Phủ thất thủ. Ngày 8-5-1954 khai mạc Hội nghi Genève vào lúc 2200 giờ và tiếp tục cho đến không giờ ngày 21-7-1954 kết thúc bằng ký bản Hiệp Ước Đình Chiến chia hai nuớc Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chế độ chính trị khác nhau và ranh giới là sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị nằm trên Vĩ Tuyến 17.
1942, NHÂM NGỌ XUÂN ƯỚC MƠ TUỔI THƠ Thiếu niên tuổi mới qua mười, Nhập đoàn Hướng Đạo, học, chơi thoả tình. Thiên nhiên bao quát đẹp xinh, Muôn loài sinh động, chuyển mình thời gian. Xuân sang nhựa sống dâng tràn, Hè về hoa nở, rừng chan chứa mầu. Thu qua lá chuyển sang nâu, Đón mùa Đông lạnh mưa sầu lê thê. Đường dài sải bước mải mê, Quyết tâm rèn luyện yêu quê yêu người. Ngày đêm tập giúp ích đời, Xin nơi giầu có giúp nơi khốn cùng. Noi gương nghiã sĩ anh hùng, Đấu tranh giành lại non sông Tiên Rồng. Họp ba miền Bắc Nam Trung, Phục hưng Độc lập Công bằng Tự do. Nơi nơi sung túc ấm no, Thanh bình, Dân chủ, ước mơ đạt thành./. Chùa Tiên, phố Thổ, Lạng Sơn, Tết Nhâm Ngọ, 15-2-1942. Hướng đạo sinh Nguyễn-Huy Hùng, Tên Rừng là Voi Hoạt Bát. Một Kỷ niệm thích thú, Phu nhân NGUYỄN-HUY HÙNG bế cậu con Trai được sanh ra trong năm Giáp Ngọ 1954 (cùng tuổi Ngọ của Bố Canh Ngọ 1930).
Rắn có tới 200 loại khác nhau tại vùng rừng Amazone. THƠ XUÂN NHỮNG NĂM RẮN (TỴ) 2013 – Quý Tỵ DÒNG TÂM SỰ TẾT Rồng đi Rắn đến cảnh xoay vần, Vong quốc quê người tái lập thân. Mượn Tết gửi sang lời chúc thọ, Cháu con vinh hiển rạng danh phần. Thương dân tranh đấu phải đi đầu, Diệt bọn vong nô lệ thuộc Tầu. Tái tạo công bằng, hưng chánh đạo, Toàn dân hoan hỉ sống bên nhau. Việt Cộng tam vô sống lố lăng, Chuyên quyền tham nhũng phá non sông. Trẻ già đoàn kết ra tay diệt, Dựng lại uy danh giống Lạc Hồng. Toàn dân chung sức lái con tầu, Sắc tộc hợp đoàn sát cánh nhau. Bảo vệ non sông hải phận Việt, Cờ vàng chính nghiã rạng năm Châu. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Little Saigon Nam California, Tết Quý Tỵ Ngày 10 Feb 2013.
2001, Tân Tỵ XUÂN ƯỚC MONG ĐẦU THIÊN NIÊN KỶ Rồng Rắn mở màn Thiên kỷ Ba, Đào Mai đua nở nắng chan hoà. Gia đình đoàn tụ chờ Xuân đến, Đoàn thể quây quần đợi Tết qua. Xứ Mỹ chứa chan hương hạnh phúc, Quê Nam cuồn cuộn bóng tà ma. Anh hùng cứu nước còn đơn chiếc, Hào kiệt vì Dân được mấy nhà! o-o-o Bao giờ Hào kiệt mới ra? Tiếp tay tranh đấu để mà cứu Dân. Cho nòi giống hết phong trần, Thoát tay Cộng đảng bất nhân bạo tàn! KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Fountain Valley, Nam California, Tết Tân Tỵ, 2001 Các bài họa của thân hữu: 1.- Giáo sư Ảo Giản Phan Ngô Hoan hỷ đón mừng Thiên kỷ Ba, Vòng tay mở rộng để cầu hoà. Quên thù, bỏ oán, theo đường mới, Cứu nước, thương nòi, giải nạn qua. Đất khách dễ mê lòng chiến sĩ, Tình nhà khó chống lực tà ma. Bại, Thành, ai luận Anh Hùng kệ, Quyết xuất, hy sinh cứu nước nhà. o-o-o Đã là Hào kiệt phải ra, Trùm chăn như thế ai mà cứu Dân? Dấn thân, chi sợ phong trần, Nêu cao hai chữ Nghiã Nhân diệt tàn. Pasadena, Nam California
2.- Trung Tướng Vĩnh Lộc Thiên kỷ Hai rồi đã đến Ba, Đâu đâu chẳng thấy đặng an hoà. Gia đình không những chờ Xuăn đến, Nước Tổ còn thêm vướng can qua. Mỹ quốc có chi mà hạnh phúc, Nam bang còn lại vẫn phong ba. Thế nước đàn bà xông trận tuyến, Chờ chi Hào kiệt vướng chân ra. Houston, Texas 3.- Đại Tá Bùi Hữu Đặng (Hành chánh Tài chánh) VẬN NƯỚC ĐẾN RỒI Thìn, Tỵ, mở màn Thiên kỷ Ba, Cúc, Lan chào đón nắng Xuân hoà. Gia đình xum họp vui đời mới, Đoàn thể hợp quần hưởng Tết Ta. Đất Việt chứa chan hương hạnh phúc, Trời Nam rực rỡ ánh dương sa. Anh hùng phục quốc liều thân xác (*), Hào kiệt vì Dân đã đứng ra. Vận nước đến hồi hưng phục thịnh, Toàn dân đoàn kết diệt qủy ma. o-o-o Đời Ta, Thời thế, cam chuốc hận, Đời Trẻ, tương lai hưởng An hoà. Garden Grove, Nam California (*) Lý Tống là một trong những Anh Hùng cứu quốc. Lái máy bay từ Thái Lan xâm nhập Saigon rải truyền đơn, vào ngày Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton thăm Hà Nội
1977, Đinh Tỵ XUÂN TÙ BIỆT XỨ NƠI ĐẤT BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ Muỗi vắt họp bầy vui đón Xuân, Đầm lầy khe úng điả bâu chân. Tù đua sản xuất nâng thành tích, Cán thúc ghi công xét định phần. Đôi mẩu ngựa già xào muối hột, Vài khoanh măng đắng nấu xương gân. Đồng bào đâu thấy lòng nham hiểm, Thế giới nào hay dạ bất nhân. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG K1, Liên trại 1, xã Việt Cường (Yên Bái) Tết Đinh Tỵ 1977. 1965, Ất Tỵ XUÂN CẢI CÁCH HẬU CÁCH MẠNG 1-11-1963 Miền Nam sôi động sửa sang nhà, Loại tệ “Gia Đình Trị” quốc gia. Sự nghiệp dòng Ngô mờ tan biến, Công danh Tướng Tá rực đầy hoa. Quốc dân thôi thúc thêm Dân chủ, Quân đội hoan nghênh đổi Cộng Hoà. Đoàn kết Sĩ phu cùng góp sức, Đồng tâm Trí thức quyết tham gia. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Phú Nhuận, Gia Định Xuân Ất Tỵ 1965. 1953, Qúy Tỵ XUÂN MỪNG HỘI NGỘ Quảng Yên rực rỡ ánh vinh sang, Phố biển dềnh dang những quán hàng. Bà Cháu Mẹ Con mừng hội ngộ, Xóm giềng thân hữu chúc an khang.
Lăng xăng bầy trẻ khoe áo mới, Lặng lẽ giàn hoa trổ cánh vàng. Dân chúng tưng bừng vui đón Tết, Quân binh hoan hỉ đàn ca vang. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Phố Tranh, Quảng Yên, Tết Quý Tỵ, 14-2-1953 1941, Tân Tỵ XUÂN BUỒN VẮNG CHA Xuân đến gia đình vắng bóng Cha, Buồn thiu vẫn phải sửa sang nhà. Mẹ lo chợ búa mua đồ cúng, Con dọn ban thờ trang trí hoa. Tục lệ lưu truyền không thể bỏ, Văn minh chuyển biến phải hài hoà. Cha theo Phục Quốc ra biên ải, (*) Con thức hằng đêm đếm ngày qua. NGUYỄN-HUY HÙNG Chùa Tiên, phố Thổ, Lạng Sơn, Tết Tân Tỵ, 27-1-1941. Ghi chú: (*) Đêm Chủ nhật 22-9-1940, Sư đoàn 5 của quân đội Nhật do Trung Tướng Nakamura chỉ huy, vượt biên giới Ải Nam quan, tấn công các vị trí quân Pháp tại Lạng Sơn và Đồng Đăng. Ngày 23-9-1940 chiến lũy Đồng Đăng thất thủ. Ngày 24-9-1940 quân Pháp tại thị xã Lạng Sơn đầu hàng. Lực lượng KIẾN QUỐC QUÂN của ông Trần Trung Lập được Kỳ Ngoại Hầu Cường Để được quân Nhật hỗ trợ, kêu gọi thanh niên Việt Nam tham gia để lập chính quyền quản trị Lạng Sơn thay thế Thực dân Pháp. Thân phụ của tác giả là ông Nguyễn-Huy Trình đã cùng nhiều người dân Lạng Sơn khác hưởng ứng gia nhập đoàn Kiến Quốc Quân (sau này thường gọi là Phục Quốc Quân Lạng Sơn). Nhưng sau đó, vào ngày 15-10-1940, Nhật và Pháp ký thoả ước, Sư đoàn 5 của Nhật sẽ rút khỏi Lạng Sơn để chuyển qua cảng Hải Phòng. Vì thế Kiến Quốc Quân không còn được yểm trợ nữa, nên vào ngày 17-11-1940, phải bỏ thị xã Lạng Sơn giắt nhau chạy sang Quảng Châu bên Tầu lưu vong. Một số do ông Hoàng Lương và Lương văn Ý chỉ huy rút đi ngay. Còn một số do các ông Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm chỉ huy, tình nguyện ở lại lập chiến khu kháng Pháp, trong đó có Cha của tác giả.
Đến ngày 28, 29-11-1940, quân Pháp tái chiếm Lạng Sơn và Đồng Đăng, nhóm này mới rút ra khỏi thị xã Lạng Sơn vào lúc 2 giờ sáng đêm 27 rạng sáng 28-11-1940 để vào chiến khu. Cả đêm hai Cha Con không ngủ nằm hàn huyên dặn dò mọi việc gia đình, đến lúc 2 giớ sáng có người tới gõ cổng gọi đi. Tác giả tiễn chân Cha ra tận cổng, xin Cha cho đi theo nhưng không được chấp nhận, đành phải ở lại nhà với Mẹ và 2 người em. Sau đó ít lâu thì chiến khu của Kiến Quốc Quân bị quân Pháp vây hãm và tàn sát. Một số bị chết, một số bị bắt giam rồi bị đưa ra toà án binh của Pháp xét xử và lãnh án tử hình. Mọi người đã bị xử bắn cùng lượt với ông Trần Trung Lập thủ lãnh vào ngày 28-12-1940. Không biết cha của tác giả chết trong hoàn cảnh nào, vì không có mặt trong những nhóm trở về nước vào cuối năm 1945. Hình HÒN VỌNG PHU trên đỉnh núi Tam Thanh tại Thị Xã Lạng Sơn. Cảnh sông Kỳ Cùng khúc chẩy xuyên qua Thị Xã Lạng Sơn, ở khoảng Phố Thổ phía Nam thành phố bên bờ trái dòng sông nơi có Ga Xe Hỏa và Mai Pha bên bờ phải dòng sông nơi có sân bay dùng chung cho cả máy bay Quân sự lẫn Dân sự.
THƠ XUÂN NHỮNG NĂM RỒNG TRIỆU ĐOÁ HỒNG DÂNG QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG Dâng tổ Rồng Tiên triệu đoá hồng, Cõi Trời Tổ thấy Việt Nam không? Đêm ngày vất vả trong nghèo đói, Năm tháng đọa đầy giữa bất công. Việt Cộng bạo tàn lo rút riả, Lương dân yếu thế chịu long đong. Bốn phương Nghiã sĩ đang vùng dậy, Xin Tổ linh thiêng độ vững lòng. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Nhớ ngày Giỗ Tổ HÙNG VƯƠNG 10 tháng 3 Âm lịch Little Saigon, Nam California, Hoa Kỳ.
http://www.hoivanhoavn.org.uk/ Ngày giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là "Lễ hội Đền Hùng" là một ngày lễ trọng đại của Việt Nam. Lễ được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc nhằm mục đích tưởng nhớ đến công ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước. Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là thủy tổ người Việt , phụ mẫu của các Vua Hùng. Thời kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Chính thời kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền thống yêu nước. Ngày nay nhân dân ta lấy
ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ tổ và cùng nhau về thăm đền Hùng để tửơng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày giỗ tổ Hùng Vương đã được công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam thể hiện rõ đạo lý "uống nước nhớ nguồn" hay "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" như một tinh thần văn hóa Việt Nam . Trong dân gian có lưu truyền câu ca dao nhắc nhở nhau về Ngày Giỗ Tổ: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba." (Phỏng theo Bách Khoa Toàn thư Wikipedia) 1. Con Rồng Cháu Tiên: Theo truyền thuyết, người Việt xuất hiện khoảng 5000 năm trước. Ông Lạc Long Quân, thuộc dòng dõi Rồng, lấy bà Âu Cơ, thuộc dòng dõi Tiên, đẻ được 100 người con trong cùng một bọc. Khi họ trưởng thành, 50 người con theo mẹ lên núi và 50 người con theo cha xuống vùng đồng bằng gần biển sinh sống. Mổi năm họ đoàn tụ với nhau một lần. Vì sự tích đó, người Việt được gọi là dòng giống Tiên Rồng. Sách sử cũng chép rằng ông Lạc Long Quân thuộc dòng họ Hồng Bàng, là dòng họ đầu tiên ngự trị nước Việt Nam. Dragon and Fairy Legend: According to legend, the first Vietnamese existed about 5000 years ago. Lac Long Quan, from the Hong Bang lineage, a man descended from dragons, married Au Co, a woman whose ancestors were fairies. Au Co gave birth to 100 children in one pouch. When the children grew up, 50 of them followed their mother to settle in the mountains, and the other 50 children followed their father to lowlands near the sea. Every year they see each other once. This story explains why history books typically refer to the original Vietnamese desendents as Dragon-Fairy or Hong Bang.
Dragon et Légende féerique: Selon la légende, les premiers Vietnamiens sont apparus il y a environ 5000 ans. Lac Long Quan, un homme descendant de dragons, se maria à Au Co, une femme dont les ancêtres étaient des fées. Au Co donna naissance à 100 enfants en une seule fois. Quand les enfants eurent grandi, 50 d'entre eux suivirent leur mère pour s'installer dans les montagnes, et les 50 autres suivirent leur père dans les basses terres près de la mer. Ils ne se virent qu’une fois l’an. Pour cette histoire, les Vietnamiens s’appellent le Dragon-Fée. Les livres d'histoire nous apprennent que la famille Vietnamienne Hông Bang fut la première à dominer le pays. 2. Vua Hùng Vương Lập Quốc: Lạc Long Quân lấy tên nước là Văn Lang và phong con trưởng làm vua, hiệu là Hùng Vương. Con trai của vua gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mị Nương. Trong thế kỷ qua, người Việt đào được nhiều trống đồng thời cổ xưa có khắc hình chim Lạc, chim Hồng, nên người Việt còn gọi nhau là dòng giống Lạc Hồng. Mặt trên của trống đồng King Hung Vuong established the country: Lac Long Quan named the country Van Lang and put his eldest son on the throne as King Hung Vuong. The sons of the king were given the title Quan Lang, and the daughters were called My
Nuong. During the last century, the Vietnamese have dug up many ancient copper drums with Lac birds and Hồng birds engraved on them. This is why Vietnamese also call themselves the Lạc Hồng. Le Roi Hung Vuong fonda le pays: Lac Long Quân nomma le pays Van Lang et mis son fils le plus âgé sur le trône comme roi Hung Vuong. Les fils du roi reçurent le titre de Lang Quan et les filles furent appelées My Nuong. Au cours du dernier siècle, les Vietnamiens ont déterré de nombreux tambours en cuivre antique portant des gravures d’oiseaux Lac et d’oiseaux Hông. C'est pourquoi les Vietnamiens s’appellent aussi le Hông Lac. NHÂM THÌN 2012 XUÂN VÙNG LÊN Ba mươi năm lẻ đã trôi qua, Nước hết phân đôi họp một nhà. Khói lửa tương tàn thôi giáng họa, Đói nghèo tham nhũng lại bùng ra. Nhân dân gian khổ xây giềng mối, Việt Cộng chuyên quyền phá quốc gia. Con cháu Tiên Rồng dòng bất khuất, Vùng lên quét sạch lũ gian tà. -oOoCùng nhau dựng lại Sơn Hà, Trồng cây Dân chủ, reo hoa Nhân quyền. Công bằng Bác ái làm nền, Phát huy Nam Nữ Bình quyền Tự do. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Little Saigon Nam California, Hoa Kỳ. Tết Nhâm Thìn 23-1-2012 CANH THÌN 2000 XUÂN LẠI VỀ Xuân lại về đây bên trúc mai, Lưu vong tỵ nạn dạ u hoài. Đêm ngày tưởng nhớ quê hương cũ, Năm tháng trông chờ cảnh thái lai.
Dân Việt đắm chìm trong bể khổ, Cộng quân phè phỡn chốn quyền oai. Nào ai Dũng sĩ thương nòi giống, Đoàn kết vùng lên diệt độc tài. o-o-o Đoàn kết vùng lên diệt độc tài, Cho Dân tộc Việt có tương lai. Tự do chung sức xây đời mới, Dân chủ, Nhân quyền vẹn cả hai. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Fountain Valley, quận Orange, Tết Canh Thìn, ngày 5-2-2000 (tác giả đang làm Chủ tịch Khu Hội cựu tù nhân chính trị Nam California) Hình chụp Lễ tưởng nhớ THÁNG TƯ ĐEN do Ủy Ban Bảo vệ Chính nghĩa Quốc gia Nam California tổ chức vào ngày 30-4-1999 tại Moran St. Westminster Nam Califonia. Trong hình, ngồi tại hàng ghế đầu từ trái qua phải: PHẠM VĂN THUẦN Chủ tịch Khu hội Cựu Tù nhân Chính trị Los Angeles, NGUYỄN-HUY HÙNG ChỦ tịch Khu hội Cựu Tù nhân Chính trị Nam California, Vợ Chồng Hoàng Thân Ban Đại diện Hoàng tộc dòng họ Nguyễn (không nhớ tên), 4 người kế theo là các Chức sắc Lãnh đạo Ban Đại diện Hội đồng Liên Tôn Nam California.
Các bài họa của thân hữu: 1.- Giáo sư Ảo Giản Phan Ngô Năm mới Canh Thìn phải có mai, Lưu vong vẫn nhớ Tết hoài hoài. Mai là biểu tượng cho ngày Tết, Thơ ấy huyền ngôn của thái lai. Nhân loại đang chờ Thiên kỷ mới, Quốc dân mong đợi bậc quyền oai. Tình hình sôi sục gần bùng nổ, Chắc chắn tiêu ma lũ độc tài. o-o-o Chắc chắn tiêu ma lũ độc tài, Vậy nên phải tính đến tương lai. Là sao tránh được cơn lưu huyết, Đả phá, dựng xây vẹn cả hai. PHAN NGÔ Pasadena, Nam California 2.- Trung Tướng Vĩnh Lộc Xuân về ló dạng chói ngày mai, Vận hội Thiên niên niệm nhớ hoài. Đã qua cảnh tượng Trời bi đát, Sắp đến sắc mầu Đất thái lai. Dân tộc qua nguy thì tất biến, Quân thù xuống tận phải đền oai. Dũng sĩ sao bằng tay nắm lại, Chung sức cùng nhau, đó mới tài. VĨNH LỘC, Houston, Texas. MẬU THÌN 1988 XUÂN HOÁN VỊ Xuân đến đem Ta khỏi trại tù, Giã từ lang sói chốn âm u. Cú, diều, khỉ đột tha hồ hú, Suối, thác, mưa rừng mặc sức ru.
Thoát cảnh chim lồng đầy tử khí, Nhập khung ốc đảo đặc quân thù. Tương lai mờ mịt đời vô vọng, Hiện tại dật dờ kiếp mộng du. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Phú Nhuận, Saigon, Tết Mậu Thìn. Cái Tết đầu tiên đoàn tụ bên gia đình sau 13 cái Tết sống cô đơn trong các trại tập trung cải tạo của Việt Cộng trên cả 3 miền đất nước Việt Nam. BÍNH THÌN 1976 XUÂN ĐỔI ĐỜI Nước mất còn chi Tết với Xuân, Nhà tan, tổ vỡ, đọa đầy thân. Nghe tràng pháo nổ lòng tan nát, Ngó cánh mai rơi não bí vần. Kẻ thắng cuồng vui cười hể hả, Người thua chua xót hận phân vân. Chim lồng cá chậu âm thầm chịu, Tà chính Trời cao sẽ định phân. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Trại Suối Máu, Biên Hoà, Tết Bính Thìn. GIÁP THÌN 1964 XUÂN HẬU CÁCH MẠNG 1-11-1963 Cúc Mai rộ nở đón Xuân sang, Pháo nổ rền vang khắp xóm làng. Phật giáo vượng thời mừng đón Tết, Kiêu binh cách mạng nếm vinh sang. Thành công lãnh đạo giành nhau ghế, Ngơ ngác quân dân nản ngỡ ngàng (1). Đất nước nhiễu nhương không quốc sách (2), Đồng minh thao túng thật bàng hoàng!!! MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Phú Nhuận, Gia Định, Xuân Giáp Thìn 1964.
(1) bản thân tác giả không tham gia nhóm đảo chính nên bị cất chức Cục phó Cục Truyền Tin tại Bộ Tổng Tham Mưu, đưa sang Nha Tổng Thanh Tra Bộ Quốc Phòng ngồi chơi xơi nước chờ lệnh đưa đi đơn vị tác chiến. (2)Hội đồng Tướng Lãnh đảo chính ra quyết định hủy bỏ Quốc sách Ấp Chiến lược của thời Đệ Nhất Cộng hoà đang góp phần cô lập tiêu diệt Việt Cộng xâm lăng miền Nam Việt Nam rất hữu hiệu. NHÂM THÌN 1952 XUÂN HÂN HOAN Nhà nhà tấp nập đón Xuân sang, Bến Nghé miền Nam nắng dịu dàng. Thiên hạ tưng bừng mua sắm Tết, Riêng ta mừng rỡ Vợ bầu mang. Cầu Trời Phật độ cho trai quý, Xin Tổ Tiên thương đạt mộng vàng. Tết đến Trẻ Già vui họp mặt, Chúc nhau Phước, Lộc, Thọ, Vinh, Khang. NGUYỄN-HUY HÙNG Tết Nhâm Thìn, 27-1-1952, 33 Arras, Quận 2, Saigon. (tác giả mới được đặc cách thăng cấp Đại Úy cùng một số sĩ quan khác nhân dịp đón Xuân Nhâm Thìn tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN) Hình gia đình chụp trong cư xá Sĩ Quan Bộ Tổng Tham Mưu, Phu nhân NGUYỄN-HUY HÙNG mang bầu cô gái út sẽ ra đời ngày 26-9-1965.
THƠ XUÂN CÁC NĂM MÃO 2011, TÂN MÃO XUÂN TRÀN ĐẦY HY VỌNG MỚI Canh Dần hung hãn ngợp thiên tai, Tân Mão hiền lương thoáng vượng thời. Xuân mới tràn đầy hy vọng mới, Cộng quân tan rã Dân thay ngôi. Nhân quyền Dân chủ Tự do thịnh, Hạnh phúc Công bằng Nhịp sống vui. Già trẻ gái trai mau sát cánh, Viết trang sử mới rạng muôn đời. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG (K1) Nam California, Tết Tân Mão 3 Feb. 2011 Bài họa của Tôn Thất Xứng NĂM MỚI ĐUỔI CỌP ĐÓN MÈO Đuổi Cọp bất lương, hết họa tai, Đón Mèo thiện ý, thuận thiên thời. Mừng Xuân dân tộc ba Kỳ nguyện: Diệt cộng Hồ gian chiếm lại ngôi.
Đuổi bọn Tàu Mao ra khỏi nước, Dựng cờ Vàng thắm khắp nơi vui. Tự do, dân chủ, dân quyền trị, Việt sử oai danh vạn vạn đời./. TÔN THẤT XỨNG (K1) Montréal, Xuân Tân Mão Bài họa của Dzoãn Thường TÂN MÃO ĐỔI ĐỜI Mấy chục năm dài những ách tai Bởi chưng cộng sản nghịch cơ thời. Tam vô chủ nghiã thì tay tổ Các Mác, Lê Nin cũng bỏ ngôi. Địa ngục trần gian dân khốn khổ, Thiên đường hạ giới cán mừng vui. Tự do, Độc lập vâng lời chệt!. Tân Mão năm nay ắt đổi đời. DZOÃN THƯỜNG Pasadena, Tết Tân Mão 03-02-2011 1999, KỶ MÃO XUÂN VỮNG NIỀM TIN Thay tiết đổi mùa Xuân lại qua, Không gian ẩn hiện bóng quê nhà. Ngày đêm khắc khoải tình Dân Tộc, Năm tháng bồn chồn nợ Quốc gia. “Ra sức cứu Dân” ghi xuống cốt, “Kiên trì diệt Cộng” khắc trên da. Lưu vong tại thế lâu mà chóng, Phục quốc đường về ngắn chẳng xa. KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Fountain Valley, Tết Kỷ Mão 16-2-1999.
Trong hình, Giáo sư Ảo Giản Phan Ngô (trái) Nguyễn-Huy Hùng (phải). Nhân dịp Công đồng Việt Nam Nam California họp mặt đón Tết Kỷ Mão 1999 tại Westminster, Khu Little Saigon, Nam California. Các bài họa và hoà điệu của thân hữu: 1.- Giáo sư Ảo Giản Phan Ngô Vũ trụ xoay vần ngày tháng qua, Lưu vong tẩu quốc xót tình nhà. Ba lần tù ngục vì Dân tộc, Mấy bận gian truân bởi Quốc gia. Lý tưởng Quốc Dân luôn khắc cốt, Tinh thần phản Cộng mãi ghi da. Kiên trì tranh đấu không ngơi nghỉ, Cách mạnh thành công ắt chẳng xa. ẢO GIẢN PHAN NGÔ Pasadena, đất lưu vong, 15-12-1998. 2.- Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh Đã mấy Xuân rồi những Tết qua, Đào, Mai đua nở, cảnh quê nhà. Niềm thương vương vấn vì Dân tộc, Nỗi nhớ dâng trào vị Quốc gia.
Đất nước ngàn trùng mây khó tới, Non sông vạn dậm gió sao đa. Giòng đời lữ thứ như chong chóng, Mộng ước: Ngày về sẽ chẳng xa. NGUYỄN QUỐC QUỲNH Orlando, Florida 3.- Phạm Hoài Việt Xuân xuân, Tết tết, hững hờ qua, Cố hương thăm thẳm bặt tin nhà. Người đi trĩu nặng tình dân tộc, Kẻ ở đau lòng cảnh phá gia. Nhớ nước niềm đau ghi khắc cốt, Thương nhà tủi hận thấu làn da. Ngắm Xuân chợt thấy lòng phơi phới, Ngày về chiến thắng chẳng còn xa. PHẠM HOÀI VIỆT Southern Texas. 4.- Võ Hữu Quyền Thi Giang (Chủ nhiệm nguyệt san Góp Gió ở Seattle, Washington State). Lần lữa Xuân về Tết lại qua, Quê xưa mờ ảo bặt tăm nhà. Ly hương mang nặng tình Dân tộc, Một gánh sơn hà nợ Quốc gia. Hận nước đồng tâm ghi khắc cốt, Thù nhà ghim chặt trên xương da. Toàn dân trông đợi giờ hưng khởi, Quang phục ngày về chẳng mấy xa. VÕ HỮU QUYỀN THI GIANG Renton, Tiểu Bang Washington.
5.- Mai Thạch Lý Thái Vượng (hoà điệu của thông gia) MỪNG XUÂN KỶ MÃO Hào hùng Xuân ý với tình quê, Nguyện để Cộng đồng hết cách chia. Võ bị bớt đi phường bị thịt, Văn đàn chìm xuống những đàn hề. Đuốc soi phục chính Nam truyền Bắc, Thép luyện trừ gian Đông gọi Tây. Đoàn kết vùng lên thay quốc vận, Vàng căng sọc đỏ rộn đường về. MAI THẠCH LÝ THÁI VƯỢNG Santa Ana, ngày 15-12-1998. 1987 ĐINH MÃO XUÂN TÙ TÚNG Nắng sưởi rừng mai trổ cánh vàng, Trại tù Thủ Đức đón Xuân sang. Nữ Nam đồng cảnh thân đầy đọa, Già trẻ cùng chung phận bẽ bàng. Quốc sách nhục hình không sờn chí, Luật rừng gian khổ vẫn hiên ngang. Mười hai năm hạn, kiên trì đợi, Đại nghiã Vì Dân, dạ vẫn mang. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải, Tết Đinh Mão 1987. 1975 ẤT MÃO XUÂN MÁU LỬA Bắc Việt xua quân xé Hiệp Hoà, Giành dân lấn đất tạo can qua. Đồng Minh (1) phản bội xoa tay chạy, Lãnh tụ hoạt đầu nhấp nhổm ra.
Chính khách thịt xôi khua đục nước, Tiểu nhân đón gió lộ hình ma. Đồng bào đau khổ tan tành của, Chiến sĩ lầm than rã nát nhà. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Tân Sơn Nhứt, Saigon, Tết Ất Mão 1975. Việt Cộng pháo kích bắn hỏa tiễn để đánh chiếm các thành phố Việt Nam Cộng Hòa, dân chúng phải bồng bế nhau chạy di tản về phía Saigon để tránh nạn.
1963 QUÝ MÃO XUÂN NGHỊCH CẢNH Mèo, Hổ giành nhau chốn tịnh thiền, Sói, Lang gây rối cõi thần tiên. Cộng nô len lỏi gây chia rẽ, Phản chiến tung hoành phá kết liên. Chuyên chính độc tài muôn hướng loạn, Tự do Dân chủ mọi phương yên. Xuân về, tiền tuyến quân binh mệt, Tết đến, hậu phương chợ búa phiền. MẬU TÙNG NGUYỄN-HUY HÙNG Cư xá Sĩ quan trại Trần Hưng Đạo, Tết Quý Mão 1963. Đạo hữu Thiên Chúa giáo và Phật Giáo đua nhau xuống đường chống Tổng Thống Ngô Đỉnh Diệm vì áp dụng chính sách Gia đình trị. Một nhóm Tướng Tá do Tướng Dương văn Minh cầm đầu được Hoa Kỳ xúi giục âm mưu đảo chánh, và thực hiện vào ngày 1-11-1963. Ngày 2-11-1963 anh em ông Diệm và Nhu bị thảm sát trong xe bọc thép trên đường dẫn độ từ Nhà Thờ Cha Tam trong Chợ Lớn về Bộ Tồng Tham Mưu tại Tân Sơn Nhất, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hoà. 1951 TÂN MÃO XUÂN TÂY DU Đất Pháp Xuân sang tuyết mịt mờ, Cô phòng lữ khách sưởi hồn thơ. Than reo lách tách lòng ray rứt, Lửa nhẩy bập bùng bóng ngẩn ngơ. Quốc Cộng chiến tranh dân đói khổ, “Nồi da xáo thịt” nước vong nô. Bao giờ hoà hợp xây Dân chủ, Đất nước thanh bình sống Tự do! NGUYỄN-HUY HÙNG Coetquidam, Pháp, Tết Tân Mão 1951.
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG Hình trên chụp năm 1988, sau 13 năm bị đọa đầy trong các tại tập trung cải tạo của Cộng sản Việt Nam. NHỮNG DÒNG KÝ ỨC TÙ Tập thơ của KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG, ghi lại những cảm xúc trong suốt thời gian bị cầm tù tại Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975. Thời gian khổ hạnh này được chia ra: 13 năm lao động khổ sai qua 9 Trại tập trung cải tạo của Ðảng Cộng sản và bạo quyền Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, trên cả 3 miền đất nước, và 4 năm chờ đợi tại Saigon làm thủ tục để được cùng gia đình đi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ theo chương trình nhân đạo (Humanitarian Operation) để xây dựng lại cuộc đời mới trong xã hội Tư bản hoàn toàn Tự do, Dân chủ, Bình quyền. Tập thơ gồm 48 bài, được phân ra thành 6 đoạn với các tiêu đề riêng, dựa theo thời gian lũy tiến bị giam cầm tại mỗi địa phương khác nhau : 1.- Những giây phút ngỡ ngàng chơi vơi không quên được, gồm 6 bài. 2.- Khúc quanh đau thương, gồm 13 bài. 3.- Thê thảm kiếp tù không án, gồm 9 bài. 4.- Kiếp lưu đầy trên đất Bắc Xã hội Chủ nghiã, gồm 6 bài. 5.- Tia sáng cuối đường hầm, gồm 6 bài. 6.- Nhà tù lớn Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, gồm 8 bài.