Đêm Hoang Tưởng
Cung Tích Biền
vietmessenger.com
Từ lúc viết xong truyện Thừa Dư, từ năm 1991 cho đến 2005--
khoảng cách 14 năm--nhà văn Cung Tích Biền chỉ viết thêm được
một truyện mới là Đêm Hoang Tưởng, đã đăng trên Hợp Lưu.
"Đạo là con đường.
Con đường vẫn đi, có phải đường là Đạo."
C.T.B
I
Phùng, tác người to lớn, da ngăm đen, tóc rễ tre, mắt một mí, bắp
thịt cuồn cuộn, nom như một tượng đồng đen. Gia đình khá giả
nhưng cha mất sớm, mẹ đi bước nữa. Phùng được người chú đem
về nuôi, cho ăn học đàng hoàng. Năm Phùng mười lăm tuổi, người
chú không may bị tai nạn chết, Phùng bắt đầu lêu lổng. Hai mươi
tuổi đã bất mãn, khinh đời, lại muốn làm anh hùng cái thế. Cha
Phùng thuở xưa là một võ sĩ, người cao to như vượn gấu, cuộc
sống khá giang hồ; sau này Phùng lưu lạc nay đây mai đó với một
sức khỏe hơn người, đô con như một lực sĩ.
Thuở Phùng còn bé, một thầy bói thấy tướng lạ, bảo với mọi người:
"Thằng bé này bị phá tướng vì hai con mắt ti hí, lại lé, một âm một
dương. Khuôn mặt này, dáng người này, nếu có được một đôi mắt
to tròn, quang minh, sau này có thể làm đến tướng." Về sau Phùng
cũng làm đến tướng, có hàng đàn em út để sai khiến, nhưng là
tướng cướp. Tướng cướp lừng danh một thời, được em út tôn là
Đại ca.
Đứng trên mỏm đá cao chỗ lưng đèo, chiều sương núi. Đại ca nghe
như buốt nơi bả vai; một vết thương khá sâu, bị đâm bằng một lưỡi
dao lê, cách đây vài hôm từ một gã đầu gấu bảo vệ toán người đào
đãi vàng trên đường chuyển vàng về xuôi. Đây là lần thất trận đầu
tiên có vấy máu trong đời Đại ca.
Thấy đàn anh bị thương nặng bọn đàn em lo lắng. Đại ca mắng:
"Không có gì quan trọng. Tao đã từng trút khỏi cái người phàm phu
này vài lít máu chẳng hề đi đong. Hãy bình tĩnh, tin vào thủ lĩnh là
tao đây; chúng ta mần ăn cú này trót lọt, ngon xơi là về xuôi tha hồ
ăn chơi. Phải có vàng, thật nhiều vàng."
Đại ca nâng ống nhòm quan sát vùng núi non. Chiều tà.
Phía tây, rừng cây khô trọc, những mảng xanh đã chết tự bao giờ,
sườn núi dựng trơ màu đất, chỉ đá tảng khe nguồn khô khốc bày
lòng ruột sỏi đỏ như máu. Trước khi dân đào đãi vàng tới đây, bọn
buôn gỗ đã cưa ngang rừng, tàn phá cây cối không nương tay.
Đằng đông, con sông dài cắt ngang một thung lũng nhỏ, thảo
nguyên hoang dã; ven sông những bờ lau trắng; một vài xóm nhà
thưa thớt vườn tược, tường vôi, mái ngói. Tất cả chìm trong màn
sương núi. Nhưng màn sương quá mỏng, quang cảnh đã bày ra
một mặt đất bị đào ngang bới dọc, những đường hầm cong queo,
những đường hình chữ chi, những hố tròn sâu như lòng giếng. Nó
chằng chịt, khắp ruộng đồng, tận trong xóm làng. Dân đào vàng đã
cày xới cả mả mồ. Đất mẹ, trở thành một khuôn mặt rỗ đậu mùa.
Tất cà tím ngắt, rợn lòng.
Nhưng cái thế giới hoang phế buồn bã ấy bỗng quyến rũ cái nhìn
tham lam hoang mị của Đại ca. Hắn thấy đâu cũng là vàng, giữa
nước non vàng. Hắn mê mẩn tê dại, quên cả vết thương trầm trọng
đang rỉ máu nơi vai. "Vào hàng đá nghỉ tạm, chờ bọn người xuống
Hòn Dừng. Bọn này chắc có tí chút đó." Đại ca ra lệnh.
Bọn họ trước đây gồm tám người, nay phân tán còn một bộ ba.
Dưới quyền Đại ca có Nhị và Tam ca. Đại ca mang án tù mười hai
năm. Bị giam cầm ba năm thì trốn trại tù. Nhị ca cũng là một tội
phạm vừa mãn tù mấy tháng nay. Tam ca khả ái hơn, "con nhà" có
học, cũng từng phạm tội; hôm ra tòa, tòa xét còn non trẻ, chưa
thành tích mấy chỗ du côn giang hồ, chỉ dại dột theo đóm ăn tàn,
tòa cho Tam ca hai năm tù treo. Về nhà Tam ca không chịu được
tính khắc nghiệt của bố cùng sự nuông chiều chả để ý gì tâm lý của
con trai của mẹ, Tam ca bỏ nhà theo Đại ca. Nhất định tự lập, nhất
định thử lửa cái chí bình sinh của mình.
Đại ca thường đùa với Tam ca: "Mẹ kiếp, đã tù còn treo, làm thằng
trai trẻ tốn một sợi dây thừng. Này hảo bằng hữu, vậy đệ cột sợi
dây vào đâu để treo cái án tù?" Tam ca cười trả lời: "Treo vô chỗ
cần cổ bố em."
Nghề nghiệp bọn Tam ca là chặn dân đào đãi vàng trên đường về
để cướp. Đây là một việc làm cực kỳ nguy hiểm, lại dễ vào nhà đá,
nhưng bọn chúng cho rằng con đường ngắn nhất để vơ của, là tức
tốc đổ máu tức tốc thu vàng tiền.
Từ nhiều năm nay cả một vùng bao la từ rừng núi đến trung du
miền Quảng nam, Trung bộ – đất của tháp Hời, tượng đá xưa kia –
đã xảy ra một hiện tượng ma mị, đáng kinh dị, là đâu cũng có vàng.
Có nơi vàng trồi lên cả mặt đất. Như cơ thể con người dị ứng với
vật thể lạ; lòng đất nơi đây dường như không chịu được cái sự để
vàng trong bụng mình.
Dân bản địa bao đời lam lũ làm ăn trên nương rẫy khô cằn, nay
trong đêm trăng lạnh lẽo bỗng thấy sáng rực hai bờ sông cát những
giải vàng lấp lánh, rất nhiều vàng vụn lẫn trong bùn cát. Người ta
bàng hoàng ngơ ngác. Khó tin vào mắt mình. Nhưng rõ là những bãi
sông vàng. Vậy là bỏ ruộng nương cùng nhau hàng đoàn lớn bé trẻ
già ra sông đãi lọc vàng từ cát.
Lại đào vào lòng đất. Lúc đầu một vài lỗ như lỗ huyệt. Sau, thành
hào lũy. Ban đầu dân quê mùa bản địa mang vàng vụn đi bán; sau,
có dân chuyên nghiệp từ tứ phương tới lập lò biến chế, tinh lọc vàng
từ các tạp chất. Con sông tinh khiết bao đời đã ô uế đủ loại chất thải
của người. Dòng sông mùa cạn đục ngầu hóa chất, có cả chất cực
độc cyanua. Trân bò uống phải, lăn ra chết. Trẻ em tắm phải, mù
mắt.
Nhiều nơi không phải công đào bới. Cúi lượm là có vàng. Một sớm
mai ra vườn đào cái lỗ đất trồng cây bỗng nghe đầu lưỡi cuốc một
tiếng cụp. Vàng. Cục vàng ròng to bằng cái triện son. Thỉnh thoảng
trẻ chăn trâu cũng lượm được những cục vàng nho nhỏ ném nhau
chơi trước khi bàng hoàng cất giấu.
Vàng đã trở thành một điều thiêng, làm người người mơ hoang,
nhìn đâu cũng tưởng: "Dưới ấy có vàng;" kể cả dưới bàn thờ,
giường ngủ, trong lòng ngôi mộ ông cố nội, giữa miếu thành hoàng,
nơi gốc cây xanh em đang hái trái.
Từ đấy, trong mênh mông rừng núi vang vọng tiếng người, tiếng
cuốc xẻng, cả tiếng máy xe đang đào ủi. Dân giang hồ tứ chiếng đổ
về nhung nhúc. Xóm làng như trẩy hội. Lều trại mọc lên như nấm.
Đầu làng chị nhà quê mở quán cà phê, cặp với anh thành phố mới
mẻ nhập cái máy điện, thêm cái trò mục văn minh phim Hồng kông,
hát karaoke, uống rượu tây; gà gáy sáng vẫn sáng choang ánh đèn
cho những canh bài, những cuộc tình vội phía chái hè, dưới liếp lều
căng tạm. Tiền bạc sáng lòa, vùi lấp trí óc người thôn dã; những
chân tay chuyên cày sâu cuốc bẩm trở nên bất ngờ biếng nhác, đi
rong rong ăn ké, chờ vàng nổi của rơi.
Vườn tược, đồi gò, nghĩa địa, cả những khu đất thừa của cơ quan,
sân vận động, cũng khó thể lọt khỏi đôi mắt bọn khai thác vàng. Với
cái giá thầu cao chưa từng mơ thấy, người ta đành lòng cho phép
bọn lạ lẫm không bảo chứng, được tự do thăm dò, đào bới. Đó đây
mộ chí khói nhang, do thanh toán nhau, do cực nhọc mà chết, hay
khi quá mừng vui gặp phải một hầm vàng mà đứt đoạn gân máu,
mà hui nhị tì bất ngờ.
Trong khói núi chiều xanh người ta mộng mị, nhà nhà hoang mơ; cõi
thánh địa của huyền hóa, áp phe, tin đồn, dao búa, cúng lạy, chửa
hoang; sáng nghèo trưa bỗng hóa giàu; sáng tươi vui ra đi, chiều
đưa xác ma trở về. Niềm vui, âu lo, hạnh phúc, tai họa, thật khó
phân ranh. Một cuộc địa chấn đảo lộn tận cùng thể xác tâm linh từ
xó bếp tới bàn thờ.
Về mặt tâm lý, dân bản địa rất sợ nhặt được vàng cục, vàng khối.
Cho rằng của phù vân, vàng linh của đất đai Hời. Trúng cú lớn quá,
phát tài nhanh vù thì chẳng sống yên với đời. Sẽ chết bất ngờ, mọi
cách. Chuyện kể về sự vụ này khá nhiều.
Một anh hãy còn trai trẻ, hôm đào đất đắp nền nhà vớ phải một cục
vàng to như ổ bánh mì. Không tin điều dị đoan, anh ta tươi cười
mang khối vàng nhặt được ra thành phố, bán được vô số tiền; mua
cả xe tải vật dụng từ ti vi máy hát, cái tủ, bộ xa lông; lại mua thưởng
mình một chiếc xe Dream cáu cạnh; ăn chơi mấy hôm rồi tự lái xe
về.
Trên đường về anh ta rất khôn ngoan, không hề uống một cốc bia
rượu; vậy mà tới chỗ ngã tư giao nhau giữa con đường nhựa và
đường xe lửa, cái chắn báo có tàu đang chạy qua, cái đèn báo ngọn
đỏ chạch nằm tòng teng trên cây ba-ri-e, anh chẳng thấy, chiếc tàu
to đùng giữa ban ngày ban mặt cũng bị ma che, anh phóng Dream
tốc độ James Dean, tông gãy cây chắn, xấn ngay bon vào lòng con
khủng long phom phom. Chết tốt. Tàu đường sắt kéo xác anh đi
mấy chục mét, lúc thịt xương anh thành bột, hết khả năng kéo mới
thôi. Chiều hôm, cả làng ngơ ngác gáy lạnh.
Một chị đi tưng trong nắng chiều quàng xiêng bỗng nhặt được khối
vàng khoảng mươi ký, tích tắc đứng ngây người như ma trồng, tích
tắc chị la bớ làng bớ xóm ôi. Ôm cục vàng chạy về nhà, chị ngồi
thất thần như quỷ đớp hồn, chờ đêm lên chị âm thầm mang cục
vàng đặt lại chỗ cũ. Chị thắp một đám nhang khói van vái, rồi sụp
lạy, cầu mong đất đai có hồn thiêng hãy bỏ qua sự vụ cho chị. Chị
thề cùng trăng gíó cỏ cây thổ địa thành hoàng ếch nhái là chị không
hề có lòng tham, chỉ tình cờ, nay của đất chị trả về cho đất.
Lại một ông luống tuổi, khá sành đời, nổi tiếng chúa đểu khắp vùng,
chiều hôm đi thơ thẩn sang thăm đứa cháu nội; đường quê khập
khễnh trượt té úp mặt trên đường; hai mắt trổ đom đóm vàng tanh;
lúc lom khom bò dậy sao ông lại thấy chỗ cục đá bật ra một cục
vàng bự quá thể. Nghĩ rằng trả vàng này lại cho đất đai vô tri thì vô
lý quá; giữ lại làm của anh chúa đểu lại sợ tai vạ; trời muốn anh
chầu trời thì trốn lên sao Hỏa anh cũng phải ăn cơm trời; cho nên
trong đêm âm hao bóng núi anh nảy ra sáng kiến là chặt đục khối
vàng ra nhiều cục nho nhỏ, như gói xôi cái bánh; anh giữ một ít làm
của dưỡng già, còn bao nhiêu mang tặng kẻ thân quen mỗi người
một ít, gọi là xả xui; chia đều cái chết; mỗi người chết một chút –
nếu quả thực cục vàng Hời là bản sao của thần chết.
II
Bọn tam ca làm ăn cũng khá trong nghề cướp cạn. Chúng thuộc
hạng người thà đổ máu tức thì để có cái ăn chứ không chịu đổ mồ
hôi dằn dai trong công việc lương thiện. Chúng đứng ngoài cái
trường phái "lao động là vinh quang." Kiểm điểm trên thế giới thấy
rõ bọn này không là thiểu số.
Mà vàng chẳng để chúng yên thân. Lúc ra thành phố bán được
vàng, là ăn nhậu, bài bạc, động đĩ, tự thiêu trong cái túi hoang lạc.
Đâu lại vào đó. Chỉ bọn gái đĩ bia ôm hưởng được những phát tiền
boa điên khùng, và bọn lái vàng đã ăn chặn đuôi đầu. Mấy bộ cốt
khỉ lại trở về những quãng đường hiểm để tiếp tục nghề cướp cạn.
Về mặt nghề nghiệp, bọn tam ca rất tài tình. Phục kích kín đáo chỗ
hiểm, tấn công thần tốc, thu nhanh biến lẹ; luôn đoán trúng phóc
trong đám đông đang di chuyển ai là người hộ tống, là chủ, là người
giấu vàng, ngay chị đàn bà giấu vàng chỗ cửa mình. Lần nào phục
kích chúng cũng thu ít nhiều.
Chỉ một lần chúng tấn công nhầm vào hai ông cháu một thôn dân ăn
vận đàng hoàng; đánh gục, chúng lục soát khắp người nạn nhân mà
chẳng vơ được chút vàng nào ngoài màu vàng của cứt nạn nhân vãi
ra khi bị đánh bất ngờ, đang mỏm cửa tử.
Chúng liên miên thắng trận, chỉ hôm kia bị thua tan tác trước một
đoàn đào vàng được hộ tống quá hùng cường, có cả lựu đạn, súng
săn, dao mác nhọn, có thể đâm thủng da heo rừng.
Bây giờ bọn tam ca đã vào trong một hang đá, cửa hang quay ra
đường đi chính của đèo. Trong hang có đầy rác rưởi của bọn tới
trước bỏ lại, những vỏ lon bia, đồ hộp, giày hư vớ thủng, xú cheng
đồ lót, những áo mưa sau khi hành lạc, những bó nhang muỗi, cả
những loại nhang thơm dành cho việc khấn vái dâng hiến niềm tin
cho thần linh. Mùi ẩm tanh pha mùi rừng núi lan tỏa.
Bọn chúng nằm ngang dọc, phạch trần ngực áo tu rượu đế, nghe
nhạc qua máy cát xét. Tam ca vốn có suy tư cuộc chiến tí chút, mở
máy, máy phun ra từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi. Đại
ca phẹt một bãi nước bọt, nổi cáu rủa đổng mẹ kiếp, đời nó toàn bộ
ỉa đái lên cái thân phận rách nát của tao chớ vỗ về cái chi. Tam ca
phân giải đây là nhạc sĩ nói ví mà Đại ca. Đại ca mắng: "Dẹp, tao
bảo dẹp. Lấy dao cạo râu tới cạo lông ngực cho tao xem nào."
Đại ca nhìn lung ra xa, nghe nhức buốt chỗ bả vai thương tích, máu
đỏ thấm cả ra lớp vải băng một màu xôi gấc. Bỗng hắn nghiêng
người, lắng nghe, rồi lớn tiếng:
"Chúng nó sắp tới rồi, kia kìa."
Xa xa một toán người đổ xuống lưng chừng con đèo thấp. Những
âm thanh hỗn tạp đưa lại rì rầm như cơn mưa xa đầm đầm đổ tới.
Đại ca nâng ống nhòm theo dõi. Một đám sinh vật màu chàm di
chuyển mệt mỏi, áo quần lem luốc; mang, cõng, vác, khiêng đủ thứ
vật dụng lỉnh kỉnh. Đây là một toán làm ăn lớn, thu hoạch khá, đang
rời trại, về nghỉ. Trước và sau có bọn trai trẻ lực lưỡng hộ tống. Có
cả xe honda chạy chậm, cẩn thận dò xét.
Đại ca cố quan sát trong bọn tải vàng xuôi con dốc mòn, đứa nào
mang súng hoặc lựu đạn. Nếu đoàn người này không trang bị súng
đạn thì bọn đại ca thừa sức chơi gọn.
Trận chiến đã thực sự xảy ra trên lưng đèo. Dân săn vàng không
bất ngờ khi bị cướp đường; như rớt xuống nước phải gắng bơi, họ
sẳn sàng cuộc đao búa; luôn coi vàng quý hơn máu châu thân, đứa
này đi đong đứa kia tiếp tục tử chiến, miễn sao mang được của máu
nước mắt về đến nhà.
Vàng được cất giấu mọi nơi có thể; ngụy trang đủ kiểu, có khi nấu
thành thỏi nhỏ, nuốt vô bụng, về nơi an toàn mà ỉa ra, chảy máu
trôn mà vui.
Bọn tam ca lúc này không cần hội họp phân công phối trí, chỉ tức
khắc tự động vào cuộc, yểm trợ nhau tàn sát theo thói quen trận
mạc; nhanh nhẹn hâm sôi bầu nhiệt huyết, vực ngay dậy nỗi thèm
vàng đang rổn rảng reo vang trong não bộ; chai lỳ trước tiếng khóc
than; nhứt mực xem máu người đổ ra như máu gà vịt lúc đánh tiết
canh cho một trận mây mưa tao phùng.
Phải diệt gọn, thu nhanh biến lẹ. Tức khắc đoán ngay chóc đứa nào
đang giữ vàng trong bọn để dứt ngay đứa đó. Giới hạn tối thiểu sự
phạng lầm hơn bỏ sót, vừa mất sức lại lắm khi vong mạng vì đối
phương say máu lúc mạng sống tơ mành treo tòng teng chổ cửa tử.
Trận chiến trên lưng đèo diễn ra ác liệt. Thuở Tề Thiên đấu với
Thiên thần, trận địa nhuốm màu lãng mạn, ít ngổn ngang máu thịt,
vì cả hai dùng nhiều bùa phép, mỹ thuật hóa đựơc chỗ tang thương,
mã hóa phần nào sự thắng thua. Tiểu thuyết mà. Giữa đỉnh đèo này
bọn dân dã không có phép thuật, chúng sử dụng bất cứ gì có thể
gây máu để tự vệ.
Dao mác, gậy gộc, đòn gánh, đá cục, nồi niêu xoong chảo, kể cả
răng trong mồm khi cần cắn vật nhau quay cuồng. Vũ khí thô sơ,
không hiệu lực tàn sát hàng loạt nhưng tạo ra đủ loại vết thương
man dã kỳ cục. Bị phạng vào gáy một cái cán cuốc mà về sau tê liệt
tứ chi, hoặc man man mát mát thương nhớ nhà thương điên Biên
Hòa suốt đời. Đã có đứa nhiều năm sau thân tàn ma dại, thầm trách
số mệnh sao không cho đi đong ngay nơi chân trời cuối bến thuở
giang hồ.
Bọn tam ca đục thẳng vào giữa đám người nơi có hai gã thanh niên
tạo thế yểm trợ nhau di chuyển chậm, có thể đó là hai gã giữ vàng,
tránh đụng độ. Đánh một lúc Đại ca nhận thấy trong đám hộ tống có
mặt Gấu Chúa, một cựu thù khi còn ở chung trại tù năm xưa. Trên
khuôn mặt Gấu Chúa hãy còn loang lỗ đen trắng một mảng sẹo,
hậu quả một ca nước sôi do Đại ca tạt thẳng vào.
Chợt thấy Đại ca, Gấu Chúa mặt sẹo nhìn căm thù, nhưng hắn chơi
sang, vừa đánh vừa tách Đại ca ra khỏi đám đông. Thanh toán tay
đôi cho hả dạ. Những đứa con ngoan của luật giang hồ. Đại ca
thuộc loại sức mạnh phi thường, nhưng đang thương tích. Hắn chọi
mỗi lúc một yếu dần. Gấu Chúa bất ngờ quật ngã Đại ca, đè mũi
dao nhọn vào cần cổ đối phương, nói rành mạch:
- Mày bị hỏng một tay, vậy tao cũng chơi một tay, nửa thành công
lực thôi. Nào gắng lên chớ. Hãy cắt tiết nhau cho sòng phẳng.
Đoàn người thoát dần xuống chân đèo. Bọn Nhị và Tam ca quần
theo để cướp cho được vàng. Trên lưng đèo, in nền trời chiều thẩm
mây bay là hình hai gã giang hồ thanh toán nhau.
Màu chảy xối xả từ vai cổ mặt xuống ngực. Đại ca quay cuồng. Một
loáng hắn thấy thế gian rực sáng, một thứ ánh sáng mê hoặc của
ma men say đắm, hoa lá cỏ cây nạm vàng, sườn non sông nước bờ
lau thung lũng đầu lâu sọ khỉ dòi bọ, cả hơi thở âm thanh ánh sáng
đã rực rỡ hóa vàng, vàng tênh mùa cúng cô hồn tháng bảy. Rồi tất
cả tím thẩm. Đại ca sức tàn gượng dậy, cảm nhận cái sắt lạnh một
lưỡi dao bén nhọn kè vào cổ mình. Văng vẳng giọng Gấu Chúa:
- Tao tha cho mày.
- Hãy giết tao đi. Gấu Chúa, tao không van xin.
- Được. Vậy muốn cỡ nào?
- Tùy mày. Nhưng phải gọn. Tao không muốn thở dây dưa.
Gấu Chúa thọc thẳng lưỡi dao vào cần cổ Đại ca, ngoáy mạnh một
cái, kỹ thuật dứt khí quản cổ gà khi cắt tiết, là xong. Nghẻo. Hắn đặt
cái dao nằm cạnh Đại ca. Cởi áo khoác đắp lên thi hài kẻ đã bị
chính hắn thịt.
Bọn Nhị, Tam ca lúc quay lại đã xông vào trực chiến. Gấu Chúa
phán:
- Lui ra. Chúng mày không phải là đối thủ của tao. Lại không nợ nần
gì nhau. Hãy chôn cất đàn anh cho tử tế. Sau này phải lo lắng chu
đáo con cái đàn anh chúng mày.
Gấu Chúa lững thững xuống núi, cùng lúc nhận ra máu me đẫm
người, năm sáu vết đâm khá sâu, không hứa hẹn sau này sức lực
phục hồi bình thường.
III
Bọn đàn em cùng khiêng xác đàn anh về ngôi làng trong thung lũng.
Núi trời đêm. Sông lạnh. Sao Hôm lẻ loi một góc trời.
Nhị ca nhìn mông lung nói:
- Cõi trời đất này vô duyên bỏ mẹ. Muốn chửi cha cái đời.
Bọn chúng hạ thủ lĩnh trên một bãi cỏ đầu làng. Tam ca chỉnh tề tâm
sự:
- Nhị ca ạ. Đại ca anh hùng nay đã tiêu tán đường. Chúng ta nguyện
sẽ có ngày rửa thù. Nhưng một ngày không thể không có vua. Em
giờ đây nhứt trí nhiệt liệt tôn anh làm Tân Đại ca.
Nhị ca nhổ tọet bãi nước bọt, thịnh nộ:
- Chưa tống táng thủ lĩnh, cái xác còn chình ình trên mặt đất đã lo
bề chia ngôi. Đù má mày.
Trăng lên cao. Âm dương trở lạnh.
Bọn chúng mong nghe một tiếng chào, mong thấy một bóng đèn
một tiếng chó sủa. Nhưng tịnh không. Làng không có ai không còn
ai. Như vừa bị tiêu diệt chiều xưa. Rải rác đó đây chuồng trại không
súc vật. Xác mèo chó đã thành xương xẩu nơi xưa kia bếp hồng.
Một ngôi đình làng còn trơ một mái xiêu, mái kia sụp xuống mặt hồ
nước, chẳng vuông tròn của bọn khai thác vàng bỏ lại. Nhận ra mùi
xác người, một vài con quạ đêm bay tới. Chúng kêu mừng hạnh
phúc kiểu quạ. Nhị ca buồn bã nói:
- Tưởng xóm người hóa ra đây là xóm ma. Có là ma quỷ cũng cho
ta một lời chào. Sao tịch lặng đến rợn người thế này.
Tam ca nói:
- Chọc ma quỷ cho quỷ ma thức dậy đi. Chứ không được chào hỏi,
không chửi bới buồn bỏ mẹ.
Bọn chúng nằm trên cỏ lạnh nhìn trăng khuya. Tiếng thác đổ từ xa
đưa lại. Trong lòng núi bí ẩn trên kia có con sông Tiên. Khác với tất
cả sông quê nhà miền Xứ Quảng, thường là phát đi từ núi tây để đổ
ra biển đông . Sông Tiên chảy ngược về hướng tây, dọc trong lòng
núi liền núi; thoạt nhìn ta có cảm tưởng sông Tiên có sức chảy
ngược từ thấp lên cao. Một con sông dị thường. Một chạy trốn đồng
bằng. Nhưng sông Tiên là cánh tay chuyển nước về miền thung lũng
xa xôi trong núi thẳm. Là ân nhân mở đường, để sơn cước nhớ
trung du.
Nơi đây là Phương Đông mặt tiền trái đất, trong chiều tà thế kỷ. Xưa
kia, nơi thi hài Đại ca đang chễm trệ bên cạnh Nhị Tam ca này, hẳn
phải có một ngôi làng sầm uất thân thương, nay mới là tro tàn bếp
lạnh; đó đây là di chỉ chìm, mồ mả nổi. Mặt đất bao quanh Đại ca là
những xương mất thịt, những thịt không máu hồn, những hồn không
chỗ đậu. Dưới trăng lạnh hay trong ánh dương chói lòa ngày qua, là
kia kìa, cái cánh cửa vào nhà không em bé, hương án tổ tiên nhện
giăng đầy, nơi mẹ xưa kia ngồi dệt vải là đây xác mèo chó xương
đen.
Một xóm làng chết trong tịch mịch mà lòng sâu của đất bị đào ngang
bới dọc. Sông Tiên, con sông kinh lịch chảy bạt ngàn, không quay
về Đông, nó đưa tiếng hát qua thung lũng này, nó thả hồn vào khóm
lau bờ trúc, trải lòng thiên nhiên trong lòng người. Bản hùng ca đã
bặt im. Tất cả trôi giạt, hóa đá trên một tinh thần thấp thỏm bình an.
Một đất Mẹ rùng mình đẩy vàng trồi lên. Ma động. Hoang hóa.
Mộng mị. Bọn loạn tâm cùn thức ra công đào bới khắp cùng. Một
bọn Sĩ ngơ ngác, bất lực. Một bọn điên kinh hoàng cảnh ngộ, minh
triết hí lộng, gọi hồn đất đá; những tưởng, đá mới vẹn linh hồn, đất
là nhân danh vĩnh cửu.
Có thể nào một cái sống đã không chốn nương thân, lại khi chết
chẳng nơi chôn vùi. Không một lối đi nơi này. Chẳng đường về nơi
đây. Mọi hiện thực như là vô định – sau một lưu đày đã định. Đạo là
con đường, con đường anh đi, có phải là Đạo.
Giữa đêm. Bọn Nhị ca tha thẩn đi quanh quẩn trong làng ma. Chợt
thấy một khu vườn um tùm, một ngôi nhà lớn bên trong; nơi góc
vườn một cây gòn rừng cao vút, cành nhánh ngang phè như gã
khổng lồ đứng dang tay ngăn mây bay. Ngay cổng vào một tấm
bảng lớn, với những dòng chữ cảnh báo:
"Nơi đây trước kia là ngôi nhà thờ của một tộc họ lớn. Mấy năm
trước con cháu nghĩ rằng dưới lòng đất nhà thờ có vàng, nên đồng
tâm khai quật. Đào tất tả ngoài vườn, đào xuyên dưới nền nhà, có
thu được ít vàng. Con cháu lại gây nhau, ly tán.
Khách tham quan nên coi chừng, nhà tạm tạm còn đứng dưới trời
mây nhưng sụp đổ gây thương tích bất cứ lúc nào."
Cách đó không xa, một căn nhà khác, đứng cheo leo dưới bóng
trăng. Chung quanh là hào sâu nước đọng. Nó như một ngôi đền
trên mặt hồ. Lại có một tấm bảng thông báo:
"Đinh Phiên bán căn nhà này năm chục cây vàng, mang cả gia đình
vào cao nguyên lập nghiệp. Bọn khai thác vàng đo la bàn, ngắm
phong thủy, đã tính toán nếu phá căn nhà để khai quật sẽ thu hơn
trăm ký vàng. Lãi chán. Chúng đào xới mấy tháng ròng. Lạ thay,
đào ngoài vườn thì không sao, nhưng động một nhát cuốc vào nền
nhà thờ Tộc, thì tức tốc có đứa lăn đùng ra chết.
Ba lần xâm phạm ba đứa vong mạng. Chúng bèn lập đàn cúng tế,
yểm bùa nhưng đâu vào đó, có đào là có chết. Chúng đành thua
thiệt bỏ đi. Vườn nay thành hồ nước trăng soi, mà ngôi nhà còn
nguyên. Có người cho rằng đây là nhà trên hồ, rất hiếm nơi mạn
ngược; mai kia có thể là thắng cảnh thu hút khách du lịch."
Về khuya, trăng giải lụa trên xác người Đại ca. Đầu thôn cuối xóm
vẫn một bãi tịch mịch, thênh thang những âm hưởng chịu tang,
mênh mông bi tích.
Bọn chúng khiêng đàn anh ra bìa làng. Đã thấy trăng chênh chếch
phía núi. Gió xao xác như nghìn nghìn âm binh sắp về đây mở hội.
"Vong hồn, hãy mời ta cốc rượu. Sỏi đá, hãy cựa mình đi. Sao thê
thiết quá vầy." Nhị ca than thở.
Tam ca đặt thủ lĩnh lên một tảng đá bằng phẳng, lấy nước rửa mình
mẩy máu me, lại vốc nước sông trăng uống ực.
Rồi như huyền hoặc xảy ra. Núi màu chàm trong đêm sương về
sáng. Gíó ngan ngát như mang hơi mưa từ xa mùa đông.Không
gian bỗng đượm mùi hương lạ; mùi phấn son, bùn lầy, mùi hoa dại,
lá khô; mùi thịt xương cũ. Quả thật đâu đây là một mùi thiên địa,
tổng kết giữa chết thật sống hờ; ngây ngây. Nó như tri hô xa vắng
của vong hồn, âm vang chết, là thách thức, cổ lục, của một bình
minh đêm; lênh láng, tê dại.
Nhị Tam ca bất giác lâm vào cơn hiu hiu, khi đôi tay vẫn sờ nắm một
cách vô thức lên cái cần cổ thủ lĩnh máu cục đọng đen từ chiều.
Bỗng như có động vang từ rừng núi. Một làn hương đưa một bước
chân người.
Một lão tiên ông tóc trắng râu bạc mấy chòm xuất hiện, là đà như có
như không. Lão ông từ tốn bảo Nhị ca:
"Hãy tìm nơi chôn thủ lĩnh các người đi. Đừng để thân xác lâu ngày
trên mặt đất, dù trong lăng tẩm, là không nên."
Nhị ca trả lời:
- Không thể chôn nơi đất chết này.
Lão ông dạy:
"Nơi đâu cũng là đất Mẹ. Một cái xác phải được trả về lòng Mẹ êm
ấm mới thuận đạo người. Mẹ rộng lòng tha thứ, kể cả thủ lĩnh các
ngươi. Không nên để cái xác phàm lâu dài trên mặt đất."
Tam ca sừng sộ:
- Khế lão nói vậy là trật rồi. Đời có lỗi. Đại ca tôi không hề có tội.
Lão ông cười hiền hòa:
"Ta không tranh biện lỗi phải cùng các người. Có những thân phận
lịch sử bây giờ chưa nhận định lỗi phải, huống gì nhân thân hạn hữu
các người."
Nhị ca ngơ ngác:
- Chúng tôi là bọn du côn du đãng, khế lão nói chuyện trên trời dưới
đất làm chi vậy.
Lão ông bỗng phất tay áo. Một cây trượng như gậy vươn cao làm
hiệu. Tức thì bùn lầy cát bụi quá khứ vị lai cỏ cây diều quạ xương gà
lông chó đều biến thành những khối sáng lòa. Vàng đầy trên mặt
đất. Vàng bay la đà, vũ múa như công như bướm. Lại tỏa mùi
hương ngất ngây; phát ra tiếng đàn tiếng sáo. Rì rào. Tỉ tê. Ngọt.
Bén. Làm gỏi tâm linh bọn Nhị ca.
Lão ông nghiêm giọng bảo:
"Các người hãy nhặt lấy vàng mà đi đi; cho thỏa."
Trong cơn mê động Nhị ca vuốt tay lên những khối vàng óng ánh,
nghi ngút thì thầm:
- Đại ca ôi em sẽ dệt cho Đại ca một cái hoàng bào tuyền bằng sợi
vàng. Sẽ đúc một cái quan tài vàng ròng mà tống táng Đại ca. Sẽ
làm một cái tượng đài cao ngất trời mây tưởng niệm Cái Đức du
côn anh hùng đầu đảng của Đại ca.
Lão ông mắng:
"Chớ thánh dại thần điêu. Chớ nên chôn châu báu theo người như
bọn vua chúa đã làm. Sẽ sinh ra điều ác, nảy lòng tham. Kẻ hậu thế
phải tội quật mồ, vơ vét châu báu, còn hài cốt các Người sau đó
vung vãi như xương cốt súc vật chim ngàn."
Bọn cướp cạn nghe lời phán dạy bỗng kinh hoàng van nài:
- Vì quen thói du côn chúng con trót dại, xin tiên sinh chỉ giáo.
"Ta không phải là tiên sinh của các ngươi, theo nghĩa thông thường.
Ta là Tiền nhân. Trong xác thân du côn du kề các người đã có một
phần xác mỗi phần hồn của ta. Trong bình sinh gieo rắc, Ta và các
người, các người cũng là Ta. Hãy nghe đây, mau rời bỏ mê cuồng,
hãy nhặt lấy vàng rồi cút đi. Hãy trả lại quê hương này cuộc bình
yên."
Bọn Nhị ca cuống quít nhặt vàng. Lại điên dại hỏi theo cái vi mạch
tham lam hằng có:
- Tiền nhân ôi kính thưa! Có tài biến hóa làm vầy sao Tiền nhân
không biến quách cái giải cát đất cỗi cằn cháy nắng mưa dầm hình
chữ S này thành một khối vàng ròng. Một cái chữ S vĩ đại từ Nam
Quan chí mũi Cà Mau rừng vàng, biển cũng vàng mẹ nó luôn chớ
biển bạc mần chi, cho con cháu nhờ.
Bây giờ thì lão ông đã biến mất, nhưng giọng rao truyền ấm áp còn
vọng lại từ đèo cao, nơi ban chiều thế gian đã vầy cuộc truy đuổi
chém giết máu, vì vàng:
"Một phần xác và hồn của Ta hãy nghe đây.
" Chớ đắm mình trong điệp điệp mơ hoang rừng vàng biển bạc. Chớ
lênh đênh theo khí chất mong đạt giàu sang qua ngõ tắt. Hãy rời
khỏi nơi nương náu ngủ ru trùng trùng hứa hảo, hẹn bừa, những
điều hiện thực không thể. Hãy bừng sáng một thể linh tiên niệm.
Hiểu Núi sông và giữ lấy Tự nhiên.
"Sống như lũ chúng mày là phá nát giang sơn này rồi. Đã kim loại
hóa từng phần những tương lai, hy vọng, niềm tin của bao nhiêu
người. Giả thử từ Nam Quan tới mũi Cà Mau, từ biển Đông con dã
tràng xe cát cho chí Trường Sơn mông muội bỗng một sớm nọ biến
thành một khối vàng ròng hình chữ S – lấp lánh tận giải ngân hà, độ
sâu cắm tận lòng đất – thì các người sẽ ra làm sao?
"Ngày ấy là chấm hết toàn bộ cốt căn bản địa tổ tiên giống nòi, kèm
theo cái bất đắc kỳ tử của chú ong mật con bướm vàng. Sẽ là cuộc
tiêu trừ sự sống triệt để. Có thể thế ư. Hình chữ S này là đời đời của
Đất, chỉ là Đất. Khô xảm, ngập lũ, trăn trở, chờ trông hóa đá, vẫn
hoài hoài rực rỡ Đất.
"Đây là nơi của tanh thơm mùi bùn, mùi sỏi máu, của đậm đà khổ
đau hạnh phúc; của ríu rít chia lìa hạnh ngộ; nơi cây trái mọc xanh
con chim hót; chỗ róc rách con cá lội; con vi trùng đương nhiên tự
do mình mẩy; cỏ dại núp bóng nhau; nơi người có thể giết người;
nhưng beo cọp âu yếm liếm cọp beo.
"Nếu nghìn triệu thước đất Mê Linh chí Gia Định này biến thành
vàng ròng một giải, chúng mày sẽ đi về đâu? Phải hóa đá mới tồn
tại. Sẽ là những hình nhân vàng vô tri, ăn uống nói năng hội nghị
làm tình trên một địa đàng vàng được sao?
"Khó thể toàn bộ giang sơn là một tổng thể kim loại. Còn nơi nào cái
lỗ chôn nhau cắt rún. Tìm đâu cát bụi mơ mòng. Đâu nơi sở trụ một
linh hồn cần nương náu quê hương. Mơ hảo. Khó thể một dân tộc,
thể chế, đất đai, một sớm mai vui mừng đã kim loại hóa toàn phần."
Nhị ca trở mình hỏi Tam ca:
- Mày vừa nghe thấy gì? Tao nghe gió nổi.
Tam ca nói:
- Hình như đêm qua làng này trẩy hội. Nửa khuya đèn đuốc lập lòe.
Lúc về sáng thánh đường kéo chuông vang động. Mà sao là chuông
báo tử?
Trời sáng tỏ. Một trận gió lớn thổi tung những bụi mù trong nắng.
Bọn cướp đường choàng dậy ngó quanh. Không Tiền nhân. Chẳng
có xác Đại ca nào đây. Không có núi không có sông. Không nhìn ra
mặt núi sông. Không một mảy may vàng.
Chỉ quanh đây những luống cày, màu đất vàng khô. Một chị vải thô
chân đất đem mong chờ đến cho một ai đó trên những luống cày.
Một thằng bé truồng cười trong nắng.
Bến Nghé, Sàigòn 1993
Kỷ Niệm Cùng Nguyễn Thụy
Long
Cung Tích Biền
vietmessenger.com
I
Khởi đầu truyện Kiều, Nguyễn Du có hai từ Trăm năm // trăm năm
trong cõi người ta. Đây là thời gian vòng rào. Đời người ít ai ra khỏi.
Mẹ sinh đỏ hỏn. Nằm xuống, đất ăn hết trọi máu thịt. Chừa lại
xương. Nhờ vậy, con cháu sau này muốn cải táng mồ mả ông cố
nội, may mà còn cái Để-Mà-Hốt. Hốt cốt.
Vì sao Đất chừa lại xương. Đất chê cứng? Như ta ăn xí quách chỉ
gặm phần thịt? Không phải. Đây là Đạo của Trời [thiên đạo] muốn
lưu lại cái dấu vết, mà đánh dấu phế hưng, thành hoại – do chính là
cái mùi vị, cái màu sắc trần gian trong tháng ngày lưu ngụ ấy – kể
cả dấu vết con khủng long hay một bạo chúa.
Kinh Thi cùng có hai từ Bách tuế. Bách tuế quy vu kỳ thất //Trăm
năm rồi cũng về nhà. Đi đi về về. Có khác, là mình ra đi kiếp này,
kiếp sau cũng là mình, nhưng Một Dạng khác trở về. /Kiếp sau xin
chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Kiếp sau? tôi
cây thông đứng – tôi người lá reo.
Nguyễn Thụy Long qua đời đúng tuổi 71. Vậy là 71 năm trong cõi
người ta, lưu lạc trong cái đời vừa cà chớn mà lắm bầm dập, bây
giờ Long may mắn Trở Về. Hãy bình yên đi con, Mẹ đây.
°°
Chết? chuyện cũng bình thường. Ai cũng lận sẵn trong đời mình
một cái chết như cái ví đựng tiền. Như sau một cơn say, trong lơ
mơ ta nằm ngủ, rồi ngủ luôn. Nhưng sao mỗi lần nghe tin một người
thân quen vội bỏ đi ta ngậm ngùi.
Căn nhà Nguyễn Thụy Long, nơi đang quàn cái “va li gỗ có người
ngủ ở trỏng”, mấy mươi năm ủ dột. Mưa có rơi thì rơi…thẳng xuống
nền nhà. Mấy tháng nay vợ con có chút tiền sửa sang lại khang
trang, tường màu xanh nhạt, trần nhà thoáng rộng, cửa ngõ đẹp ra.
Thì Long bỏ đi.
Anh này chừng như kỵ cái nhà cao cửa rộng, không ưa cái sự thảnh
thơi giàu có, ghét cái bàn viết có trải cái khăn bàn tươm tất. Thằng
chả cực khổ long đong suốt một đời. Sống qua hai chế độ, đều đi tù.
Quốc gia bắt khơi khơi, giam gần một năm rồi thả. Xã hội chủ nghĩa
bắt giam kỹ lưỡng. Khi bước vào cổng tù với 60 ký lô tay chơn mặt
mũi. Ra tù còn 39 ký xương.
II
Tôi quen Nguyễn Thụy Long từ văn phòng báo Sống của Nhà văn
Chu Tử, một nhật báo rất nhiều độc giả, quy tụ nhiều nhà văn nhà
báo tầm cỡ, khuynh hướng chống Cộng, thời Đệ Nhị Cộng Hòa [Đệ
Nhất là thời Tổng thống Ngô Đình Diệm 1955-1963]. Thời gian sau,
báo Sống bị… chết, do thủ tướng Trần văn Hương đóng cửa. Chu
Tử tiếp tục chủ trương tuần báo Đời, rồi nhật báo Sóng Thần, do
nhà văn Trùng Dương đứng tên Chủ nhiệm.
Tuần báo Đời do Họa sĩ Đằng Giao trình bày bìa lẫn ruột. Phụ trách
tòa soạn là Nhà thơ Đỗ Quý Toàn. Ông này đặc biệt thông minh, dí
dỏm; quen nhau từ bao đời tôi chỉ thấy Đỗ Quý Toàn cười thân
thiện, chưa một sự cau có giận dỗi ai.
Suốt trong thời gian tuần báo Đời hiện hữu, từ số đầu tới số tắt thở,
đều có truyện của tôi và Nguyễn Thụy Long đi song song. Tôi có
những truyện dài Luống Cải Vàng, Bến Dòng Nước Biếc, Bến Mưa
Ngâu, thì Long có Ruồi Xanh v..v..Văn phòng hai chúng tôi hoàn
toàn khác nhau. Có lẽ, do chính chỗ này mà ông Chu Tử muốn duy
trì hai đặc trưng trên báo của mình.
°°
Người Bắc, tôi nói bà con di cư 54 [xin lỗi, ví von hơi cờ bạc một
chút là Bắc chín nút] hầu hết là những con người của văn hóa, của
lịch sự, tế nhị, biết giữ niềm riêng tự trong đáy lòng. Nguyễn Thụy
Long thì ruột ngựa, có chi nói huỵch toẹt ra, như chị hàng xóm nam
bộ.
Sáng, đến cà phê trước tòa báo, có tiền trong túi là Long khoe ngay,
rồi bao ăn uống. Viết xong bài trả nợ cho báo, thì lái xe cùng nhau đi
gặp công chúa Tây Vực [hai mẹ con nhà này đẹp hết sẩy, mẹ gần
bốn mươi, con gái mười chín, đều là Nàng Kiều. Con ôm một
chàng, mẹ nựng một lão].
Khi Long rỗng túi thì biết ngay: “Mẹ, con mụ vợ lột ráo rồi, Biền đãi
tôi nghe, cho mượn thêm mấy chục.”
Có lẽ, từ cái tính tình này mà đời Nguyễn Thụy Long trải qua gai
góc gì thì anh viết ngay, kể ra như nhật ký đời mình. Cách kể
chuyện của Long thật tình, bộc trực, không văn hoa rào đón. Anh
như sống qua, viết vội. Không nuôi chất liệu cho nó chín, biến dạng,
đến huyền, hư, để có một loại ngôn ngữ ngoài-xác-chữ, đa nghĩa,
cấu trúc truyện nhiều tầng.
Nhưng chính từ cái dễ tính trong cách viết, tận dụng nguyên liệu thô
này, truyện của Nguyễn Thụy Long có một độ hấp dẫn khác, trực
tiếp, ngay cái Bây giờ.
Văn của Long nóng, thực, keo đặc chất oan trái đời thường. Mà đời
thường, giữa cái xứ Rồng cũng biết mần tình. Mụ Tiên quỷ quái
mang tính trăn rắn chỉ đẻ ra toàn là trứng. Cái hoang mơ hoang
đàng hoang mị hoang mang đã bàng bạc rắc gieo từ đầu nguồn Sử
Việt. Cái xứ này, xã hội này, trải qua bất cứ một thứ chủ nghĩa
huyênh hoang cứt đái nào, dân đen của đời thường cũng chỉ là phận
con lừa, kiếp tì nô.
III
Một chút đời tư. Vợ đầu của Nguyễn Thụy Long là người con gái
nuôi của nhà văn Chu Tử. Ông có hai cô gái nuôi, đều dễ nhìn.
Người thứ hai là vợ Nhà thơ Phan Nhự Thức, chủ tịch Hội đồng tỉnh
Quảng Ngãi.
Sau 1975 hai người này đều mất vợ. Cả hai đều khổ cực và chết
thảm. Phan Nhự Thức 8 năm học tập về được bảo lãnh đi Mỹ,
nhưng cái giấy ra trại cán bộ ác nhơn để ngày 30-2, trong khi tháng
Hai dù năm nhuận cũng chỉ có 29 ngày. Bọn Mỹ nó cũng ngu, cứng
nhắc chỗ không đáng, thiếu cảm thông. Bọn Mỹ khùng, có thể đào
một con đường để cứu một con chó, mà bỏ lại môt con người trên
bãi cháy, không lối thoát.
Thức bị bỏ lại. Thức chết vì ung thư cần cổ. Chết mau như quả
chín, có mấy ngày đã đầy sâu trong ruột mềm. Sống giữa thành phố
đẹp-nhất-tên-người, mà anh chết trong một căn nhà lá, nhà không
điện, con trai duy nhất mới bảy tuổi ngu ngơ, bè bạn hùn nhau mua
quan tài.
Theo Nguyễn Thụy Long thì người vợ đầu bỏ anh, anh bị lấy nhà, và
“Nàng đuổi tớ đi.” Long có người vợ thứ hai, thêm hai cô con gái.
Hai đời vợ, chỉ bốn cô con gái. Các cháu này rất ngoan. Long nói:
“Thế nào ông cũng kiếm một thằng cu. Lấy vài chục mụ vợ để lại
một Cái Cu ông cũng tìm.”
Tôi bảo Long:
“Bốn cô con gái là hạnh phúc rồi. Thời buổi này con gái giúp đỡ nuôi
nấng cha mẹ, hiếu đạo hơn con trai rất nhiều. Bọn con trai đa phần
là tòng …âm hộ, mà bỏ quên cha mẹ.”
Người vợ thứ ba của Nguyễn Thụy Long chính là người kham khổ
nuôi nấng anh trong những ngày bệnh hoạn cuối đời, là người góa
phụ khăn tang đứng rũ bên quan tài Long, lúc chúng tôi mang vòng
hoa phúng điếu đến. Cháu gái út, và cậu con trai duy nhất, khăn
tang đứng hai bên quan tài cha.
Hình như các cháu chưa hiểu rõ thế nào về cha của mình.
IV
Long với tôi có cái số viết cùng một tờ báo, rất lâu dài. Các tờ, Nghệ
Thuật, Khởi Hành, Sống, Sống Chủ Nhật, Đời, Sóng Thần, Độc Lập,
Đông Phương…
Sàigòn xưa [trước 1975 nay là …xưa rồi], có một cái vui là có
những con đường nhiều nhà in, các tòa soạn báo nằm gần nhau. Có
tòa soạn báo là có quán rượu, quán cà phê. Anh em tạt qua tạt về
cũng tiện, rất gần gũi. Thời này tôi thấy rất hiếm anh em làm văn
nghệ mà viết báo chửi bới nhau, trừ những trường hợp trái cựa về
chính kiến Quốc-Cộng.
Chỉ một quãng đường Phạm Ngũ Lão [nay là khu Tây Ba lô] trước
sau có tòa soạn Văn [Nguyễn Đình Vượng – Trần Phong Giao], tuần
báo Nghệ Thuật, Khởi Hành [hai tờ này do nhà văn Mai Thảo và nhà
thơ Viên Linh đứng đầu], nhật báo Hòa Bình [Linh mục Trần Du].
Nhà báo Đinh Từ Thức cực kỳ nổi tiếng ở báo này qua bút hiệu Sức
Mấy, với mục “phim” hằng ngày, ngay trang nhất.
Trên đường Võ Tánh [nay là Nguyễn Trãi] có nhiều nhà in [có Quế
Sơn Võ Tánh chuyên in tác phẩm Bùi Giáng], nhiều tòa soạn báo kế
cận nhau. Trước kia có nhật báo Tự Do [Phạm Việt Tuyền, Nguyễn
Hoạt, Hà Thượng Nhân…báo này ngưng hoạt động sau khi chế độ
Ngô Đình Diệm sụp đổ 1963], tòa soạn Độc Lập [chủ nhiệm Đinh
văn Phát, Hoàng Châu thư ký tòa soạn, báo này được thủ tướng
Trần Thiện Khiêm ngầm tài trợ] nhật báo Điện Tín [chủ nhiệm Hồng
Sơn Đông cùng nhóm C.S nằm vùng, núp bóng Lực lượng thứ ba
Lý Chánh Trung, Huỳnh Bá Thành…] Nhật Báo Đông Phương [Chủ
nhiệm Bà Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Duy Thái thư ký tòa soạn – báo
này có sự giúp đỡ hữu hảo về tài chánh của tỷ phú Nguyễn Tấn
Đời] nhật báo Sóng Thần [Chu Tử, Trùng Dương - nhưng đóng
phần quyết định mang tính chủ đạo là Nhà báo Uyên Thao] nhật báo
này chống Cộng triệt để.
°°
Làm báo thuở này hàng chóp bu ở trên [chủ nhiệm, thư ký tòa
soạn] thì cực nhọc lắm vì nhiều mặt trực diện phải đối phó [chiến
sự, lập trường chính trị, chính quyền, cộng sản, áp lực của thị
trường báo chí…] Hàng ký giả cũng phải chạy đó đây nhặt quơ tin
tức, nhiều hiểm nguy khi phải lấy tin chiến trận [Tết Mậu thân chẳng
hạn, chết ngay trong lòng phố]. Nhưng làm anh sáng tác văn, phóng
sự, bút ký thì nhàn nhã hơn. Có khi tưởng tượng ra chiến trường.
Vẽ ra ma quái để thêm hấp lực với độc giả.
Sáng ngồi cà phê viết bài. Chừng 11 giờ sáng là hết hạn giao bài
[nhật báo Sài gòn thuở ấy phát hành vào lúc 4 tới 5 giờ chiều, tùy
báo; giờ tan sở cuối ngày là có thể đọc biết tin chính sự, chiến sự
24 giờ qua] Bài vở xong là lai rai thư thả. Cánh văn nghệ không lo
xa. Rảnh rỗi, nhưng không hề ngồi viết tiếp bài dự phòng cho ngày
mai. Mai hẵn hay. Báo Đông Phương có ngay bóng bàn tại lầu 1.
Hòa Bình, Độc Lập thì anh em tụ trên lầu với canh xì phé.
Nguyễn Thụy Long không ham bài bạc. Thỉnh thoảng vớ nửa tháng
lương, ngồi sòng một lúc, là “đ.m cho mượn ít tiền, ông cháy túi rồi.”
Long không sành âm nhạc. Không biết nhảy đầm. Anh lù đù cục
mịch. Ăn mặc đại khái. Nói dùi đục. Lại hay nổi cộc.
Một lần có người bạn cũ viết bài chửi anh. Anh chửi lại tàn khốc.
Chửi không chừa lại một con hẻm để hối hận. Tôi bảo Long nhịn đi.
“Thời buổi nhiễu nhương, lắm bóng tối, sự hiểu lầm là rất thường
xảy ra. Con người phải đường đầu với bao khó khăn tủi hờn, nên
nhạy chuyện chửi bới, một cách xả xú bắp, cũng là lẽ thường Long
ạ.”
Long nói:
“Tôi khác, không có Lão Trang như ông. Nó đục mình mình đục lại.”
Tôi nói thật với Long, là trong vụ này Long cũng có cái sai, cái lỗi.
V
Long có nhiều cái cũng làm tôi bất bình. Thậm chí có lúc Long đã
thiếu cẩn trọng trong hành xử 1 Nhưng tự đầu chí cuối tôi vẫn xem
những điểm “tạm chơi được”, cái tận tụy với nghề nghiệp ở Long,
mà duy trì tình thân lâu dài.
Sống trong một Cõi người mà mỗi bao tử bị xé rách theo từng
miếng ăn, mỗi não thùy thường trực bị bắn phá nghìn tên độc tư
tưởng; một lịch sử trong dặm dài chinh chiến, phân ly, thảm đát; một
xã hội mà hoàn cảnh luôn đóng kín bóng tối của nghi kỵ, hiểu lầm,
hờn oan; những chân chính, sự lương thiện bị bôi bùn; những danh
vị hào nhoáng, rỗng và thối hoắc, trên cái bóng đổ của áp đặt, thời
cơ, lạm quyền; nơi cửa ngõ dễ dãi, lại vừa méo mó, của một lịch sử
bị bách hại muôn chiều, liệu con người có còn là “duy nhân ư tối
linh.”
Hay chỉ là một hình nhân với nhiếu mặt nạ để thay nhau như y
phục?
Tương truyền có một đại thi sĩ, một thời, ông có rất nhiều cái lưỡi
ướp trong tủ lạnh. Mỗi cái lưỡi dùng cho mỗi hoàn cảnh. Ở quán
nước với bè bạn, trong hội nghị ban chấp hành, lúc thân mật cũng
vợ con, ông dùng mỗi nơi mỗi loại lưỡi khác nhau. Trước 1975 và
sau 1975, trong chiến tranh và khi hòa bình, lúc trẻ rồi vế già, lúc
hăng say trung thành với lý tưởng và lúc nhìn lại sai lầm, trong hối
tiếc cuối đời những mảnh di cảo, là tùy vào mỗi cái lưỡi đã được
nhuộm màu khác nhau. Ông này là một thiên tài dùng lưỡi. Ông
dùng cái lưỡi nào cũng đặng bổng lộc, quyến rũ được người.
Sống trong một thời đại mà một con người tài năng phải triệt để hạn
chế, và tùy cơ ứng biến cách phát ngôn của mình. Chỉ vận dụng nó
từ đầu môi chót chót lưỡi đi ra. Không từ não thùy xuống. Chẳng thể
từ trái tim, cõi lòng vọng tới. Một cõi người bị bách hại bởi cái áp lực
từ bên ngoài và cái hèn yếu từ bên trong, ta có nên hờn oán họ? Ta
khinh miệt là ta phạm một sai lầm không hiểu lòng người?
Và ta cũng nên xem lại. Ta hèn tới mức nào. Đã xài bao nhiêu cái
lưỡi, đã trở bộ bao nhiêu thế đứng trong đời. Đã cong lưng bao lần
để lượm từng hạt-cát-cái-sống, khi thần chết, khi hoạn nạn to lớn
bao trùm.
Chỉ còn một xử thế khá tiêu cực. Sống, không cần thương yêu ai
nhưng chẳng nên thù oán ai. Không giúp đỡ được ai, thì chẳng nỡ
hãm hại ai.Vậy tạm đủ.
VI
Nhàn rỗi, kể thêm câu chuyện này để hiểu thêm tính cách Nguyễn
Thụy Long:
Khoảng 1970, trước khi tòa soạn Độc Lập chuyển về đường Võ
Tánh, nó nằm ở 54 Thủ Khoa Huân. Đối diện tòa soạn có quán cà
phê Hoàng Hoa. Nói là cà phê nhưng có đủ loại rượu xịn, món ăn
tây tàu, ca ri ấn độ. Quán chuyên bán ghi nợ. Cuối tháng lĩnh lương
thì trả.
Một hôm tôi và Long ngồi trong quán Hoàng Hoa, trời mưa to. Long
nhìn ra trước tòa soạn thấy một xế bốn bánh màu đen, nằm đưới
mưa trông bóng loáng. Long cảm khái nói:
“Mẹ, trời mưa thế này đi honda chán quá. Tớ mà có được cái xế
đen bóng như thế, trèo vô, đóng cửa cái phụp, lái đi. Quý tộc cùng
mình.
Tôi nhìn cái xế, rồi nhìn Long tôi nói:
“Xe của tao. Mua bán cho.”
Long ngạc nhiên:
“ Hôm trước thấy nó mốc thếch như con chuột chết kia mà.”
Tôi cười bảo:
“ Đúng. Nhưng hôm nay nhờ trời dội nước mưa, nó bóng bẩy, đẹp
ra. Như con gái ở truồng tắm, có khác chi.”
Long vội vã:
“ Bán bao nhiêu?”
“ Tao mua của trung tá Vũ Đình Dậu 250 nghìn. Chán rồi. Bây giờ
bán hai trăm. Thêm tiền mua xế khác.”
Tưởng đùa. Hóa ra Long vọt ngay lên tòa soạn năn nỉ thư ký tòa
soạn Hoàng Châu vay một mớ tiền để ứng trước cho tôi, rồi lấy xe
cho bằng được. Không có bằng lái xe cũng lái cho bằng được. Tôi
chỉ dẫn cách lái chỉ đúng vài tiếng đồng hồ. Chiều hôm Long bắt vợ
con ngồi vào xe. Vợ con run en. Long vi vút ra xa lộ suýt bị xe nhà
binh Mỹ ủi chết cả nhà.
VII
Tính cách của Long cũng dễ gần gũi. Không kiêu kỳ. Những năm đói
khổ, mỗi lẫn Long ghé nhà, vợ tôi thường nấu mấy củ khoai. Long
ăn một củ, nhai cả vỏ khoai. Tôi bảo nhai tiếp vài củ lót dạ để mà
còn uống rượu. Long nói để cho tụi nhỏ nó ăn với.
Tôi không hiểu vì sao vào cái thời khốn nạn, uống toàn cái thứ rượu
dỏm, quốc lủi, rượu cây lý, ông già chống gậy, rượu pha thuốc trừ
sâu, bia lên cơn, cái thứ bia bây giờ nghĩ lại thấy rùng mình [cha Hồ
Thành Đức, họa sĩ có biệt tài kể chuyện tiếu lâm đệ nhất nước, một
dạo mê cái thứ bia lên cơn này lắm] vậy mà bọn tôi không ung thư
gan, không toi cái mạng khi bao tử lúc nào cũng rỗng.
Bây giờ nhiều rượu bổ, đủ loại bia ngon, lại có thể lót dạ dăm bông
xúc xích, vậy mà nhiều anh em lăn đùng quy tiên, phần lớn là đột
quỵ, ung thư cần cổ, gan củ trướng, tiểu đường chuyển qua phá
phách tim mạch. Cha chả là buồn…Phan Nhự Thức, Đinh Hoàng
Sa,Vương Thanh, Trần Hữu Nghiễm, Nghiêu Đề, Chóe, Tôn Thất
Văn, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Phan Thịnh, A Khuê, Nguyễn Thụy
Long…dọc dài những con người tài hoa, thân ái.
Mà còn nữa. Danh sách bọn lũng nát gan phổi cần cổ vì thời thế.
Thời thế nó xúi dại cái thằng người hãy nốc bia – hay cả đời không
một giọt rượu bia cũng ung thư như ai – còn dài dài. Hôm qua Nhà
báo Đặng Ngọc Khoa từ Đà nẳng nhắn tin cho tôi : “ Báo cho anh
Biền biết em có một tin không vui. Em bị K. gan.”
Khoa ơi, làm sao biết lát nữa, hay khuya này, chính anh Biền đây có
thể đột quỵ ngã ra cái rầm. Thăng luôn không kịp cái ngáp sau
cùng.
Đem chuyện chết sống ra giỡn chơi là thất lễ với đấng sinh thành,
vô đạo giữa trời đất. Nhưng nghiêm chỉnh cũng rứa thôi. Cũng chết.
Quen rồi há?
Mỗi ngày, ngồi trước cái máy gõ gõ ba cái chuyện tầm phào gió
chìm mây tan trong trời đất, cứ nghĩ viết chưa xong, có khi mình
chết. Bỏ lại một bầy chữ tội nghiệp, nửa cái truyện dở dang.
Lại có khi nhớ cái lúc mê man, đau đớn sau cuộc giải phẫu khối u,
bác sĩ cắt bỏ đi non thước ruột. Thận Nhiên đến thăm. Nhiên lấy
máy hình nói em chụp anh tấm hình, hình này lạ. Cái người tôi bấy
giờ như một phi hành “da.” Cườm tay tôi mấy sợi dây, nào nối vào
máy theo dõi nhịp tim, cái đo bão hòa oxy, sợi lủng lẳng truyền nước
biển; hai cái ống nhựa thọc vào mũi, ống thọc vào miệng xuống bao
tử, ống xoi ngay vô bụng ngay chỗ mổ để lấy máu thừa sau ca mổ,
một cái ống thọc con cu để lấy nước tiểu, cái nối với trên, cái chảy
quàng ra những cái bịch nhựa trong suốt bên dưới. Màu nhợt của
máu thừa sau khi mổ. Màu trắng đục của mủ ung hôi, Màu vàng
nước tiểu. Trên người tôi dây nhợ như nối từ đó qua đây, từ kiếp
nào sang kiếp này. Nghĩ lại, rùng mình. Mà vui cái vui hoang dại. Mà
rơi lưu lạc trong ngỡ ngàng. Chừng như mình đang ngồi viết đây là
Cái Hoang Liêu bước về từ Cõi chết.
Long cũng có tâm cảm như tôi một thời. Cũng đồng bệnh tiểu
đường, cùng khối u, cùng cầm bút đứng ngay mép bờ tử sinh.
VIII
Nguyễn Thụy Long không phải loại nhà văn đọc nhiều. Kiến văn của
anh có giới hạn. Mấy mươi năm bạn lữ, ngồi trò chuyện với Long,
không cần thiết phải đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, không màng
tới Tô Đông Pha, Lý Hạ, Mạnh Hạo Nhiên, chẳng luận bàn về triết
học, âm nhạc, không phải nhắc tới Marc Chagall, Salvador Dali,
Gauguin, hay Van Gogh, Picasso. Nhưng ngồi bên cốc rượu, ly cà
phê với Long cũng thú vị, vì Long nhiều kinh nghiệm sống.
Anh từng lăn lóc với du côn du kề. Từng uống kinh nước đen thay
nước đun sôi để nguội. Từng bị nhọc nhằn tù tội. Cả gia đình [sau
1975] đã từng sống trong chòi tranh vách lá, giữa một bãi ve chai
hôi thối rác rưởi…Ngay bản thân tôi đã cùng Nguyễn Thụy Long
những ngày đói khó mang cái bị lê lếch lề đường với đủ thứ nghề
tạm bợ mong bầy con có chén cháo qua ngày. Chúng tôi cũng đã
từng xuống tận Cà mau làm công nhân xây trại nuôi heo. “Công
nhân” dành cho các nhà văn ngụy quân ngụy quyền đích thị là anh
thân-ái-cu-li.
Ngần ấy thực tế trong đời người nhà văn, đã cưu mang, đã thường
trực chịu đựng, tôi nghĩ đã hơn nghìn trang chữ chúng ta đọc trong
sách vở. Nghìn lần thiết thực hơn những khổ-đau-trừu-tượng chúng
ta từng dán mặt qua trang chữ lý luận triết học, tuy thâm sâu hoằng
viễn, hay những khung tiểu thuyết rực mà.
IX
Ba năm trước Nhà văn Nguyên Vũ về thăm. Chúng tôi ngồi ở quán
Phú Chiêm, đường Trần Bình Trọng Bình Thạnh, một quán rất đông
khách vì các món đặc sản Quảng Nam. Hôm ấy có Nhà thơ Vương
Tân [Hồ Nam]. Chúng tôi uống cũng quá nhiều. Nhưng lúc chia tay,
Long bảo mình muốn về nhà Biền. Tôi bảo về nhà, sẵn rượu, nốc
thêm nữa có mà toi.
Nào ngờ lần ấy là lần cuối cùng Long đến thăm nhà tôi.
Uống dữ. Chiều tối, thay vì chở Long về nhà Long, tôi tưng tưng,
phổi phèo nó dữ dội, không cho phép ngưng đưa rượu chảy vào cần
cổ. Thế là tôi tức tốc chở Long ngược lại quán Phú Chiêm. Mần tiếp
đợt ba.
Hai cái thân bệnh hoạn chứa máu liều. Hai thằng uống miên man,
tới hơn mười giờ khuya Long bỗng nhiên ngã một cái rầm xuống
đất, nằm bất tĩnh. Cái mặt vừa gầy ốm, vừa đen queo như da con
ếch chiên dòn. Anh Trần Hữu Phú chủ quán nói: “Các thầy ông nào
cũng già cũng bệnh hoạn mà uống kiểu này thì chôn không kịp. Đất
nghĩa địa buổi này giá trên mây.” Phú rất tốt bụng, anh chở Nguyễn
Thụy Long về tận nhà. Tôi ngã xiêu ngã tất hộ tống. Nào ngờ đây là
lần cuối hai đứa tôi cụng ly, từ 10 giờ sáng tới hơn 10 giờ đêm.
Uổng quá, không còn rượu là kể như toi đời.
Sau bửa đó, Long bỏ rượu. Vậy cái điều “Không có rượu thì toi đời”
quả ứng nghiệm chăm phần chăm.
X
Hôm trước Tết này, tôi ghé thăm. Long đã gầy quá đỗi. Nhà nuôi
năm con chó. Chúng đồng ca đón khách vang trời đất. Nhà lại chật
chội, mấy con chó dễ thương cứ quanh quẩn dưới chân, quất quít
Long. Chừng như chúng linh cảm, đánh được mùi của cuộc từ
biệt. Đời thu lại những tiếng sủa. Âm vang đời là những chào đón
đầy than phiền của những con vật nuôi tình nghĩa. Con người nơi
đâu? Con người đã vắng bóng người sau mỗi khung cửa hẹp phận
người.
Long yếu hẳn, nói trong cổ họng. Cứ chờ chó bớt sủa một chút thì
nói. Mà Long lại ham nói. Chừng như mong tâm sự với Biền cho
xong. Rồi: “Tớ đi đây.”
Một chặp, Long đứng dậy khập khiễng bước đi. Đi tiểu. Nhưng bước
không nổi, đành đứng ngay chỗ bậc cửa. Hai cái chân ống sậy, hai
cành tay như que khô run run vịn vào thành cửa. Phịt nước vàng.
Trông như một nhánh trúc gầy biết đái.
XI
Rồi bè bạn cũng đã tới lưa thưa. Những vòng hoa có hàng chữ Chia
Buồn, Kính Viếng. Quan tài Long mở nắp. Một cây gậy chống
nghiêng nắp với thành áo quan. Chắc là Long nằm chờ những cháu
gái thân yêu từ nước ngoài trở về nhìn mặt cha lần cuối.
Quan tài màu đỏ. Những hoa văn rực màu vàng. Hai màu đỏ-vàng
đã đẩy những phận người lênh đênh trên những bờ vực của hiểm
nghèo, khổ đau, tủi nhục, chết chóc trong bao năm.
Thôi, thế là ta thắp nhang. Nói lắp đôi điều tiễn đưa.
Có khóc cũng không cùng.
Lời ngoại chú
1 Sau khi Nguyễn Thụy Long qua đời, các ngành
truyền thông, báo chí trong nước giới hạn việc
loan tin. Tuy nhiên trên báo Công an TPHCM số
1838 đề ngày Thứ Ba 8-9-2009 nơi trang 13 có
một bài viết nhan đề “Vĩnh biệt Loan mắt
nhung.” Bài này ký tên Lê Anh.
Có thể một phần lớn độc giả Damau chưa đọc
bài báo này, tôi xin trích một vài đoạn có liên hệ
đến “dư luận phải trái” về Nguyễn Thụy Long để
quý vị tiện bề tham khảo, nếu thấy cần:
“…Ngoài viết văn ra, Nguyễn Thụy Long còn là
một nhà báo, dưới thời cố Tổng Biên tập Huỳnh
Bá Thành, anh là một trong những cộng tác viên
đặc biệt của Báo Công an Thành phố”…
…“Cách đây khoảng 18 năm, có lần có lần nghe
Huỳnh Bá Thành mô tả Nguyễn Thụy Long ở ao
cá viết lách khó khăn, mắt anh rất yếu, lại quen
viết trên máy đánh chữ, sẵn có chiếc máy đánh
chữ xách tay vừa mới mua được vài tuần lễ,
Trần Tử Văn không nghĩ ngợi liền tặng cho bạn
văn. Nhận được chiếc máy đánh chữ, Nguyễn
Thụy Long mừng lắm…”
Tôi chép những dòng chữ giấy trắng mục đen
trên đây như một tư liệu. Tôi hoàn toàn không
có thẩm quyền và ý kiến gì để xác minh đúng
sai.
Tuy nhiên nghĩ rằng nay Nguyễn Thụy Long vừa
qua đời, những phải trái đời người khó bề dấu
diếm công luận. Cách đây 27 phút [giờ VN là 17
giờ, ngày 18 tháng 9-09] tôi có điện thoại hỏi
Nhà văn Từ Kế Tường, anh có một thời gian lâu
bền là Thư ký tòa soạn báo CA. Nội dung điện
đàm như sau:
- Chào Từ Kế Tường
- Chào anh Biền. Lâu quá . Ông khỏe không.
- Tường ơi cho mình hỏi đôi điều này.
- Chuyện gì vậy anh Biền?
- Mình nghĩ trước đây Tường là Thư ký tòa soạn
Báo CA nên phải hỏi đây. Phải trả lời thật nhé.
Đây có yếu tố một xác minh. Tường có đọc bài
viết về Nguyễn Thụy Long ký tên Lê Anh trên
báo CA không?
- Có.
- Lê Anh là một bút hiệu khác của Đoàn Thạch
Hãn phải không?
- Đúng?
- Tường này, phải trả lời thật nhé. Nguyễn Thụy
Long có là cộng tác viên đặc biệt của báo CA
không?
- Không.
- Chắc không.
- Chắc mà. Vì có như thế thì tôi biết ngay. Là
cộng tác viên thì chúng tôi có lên danh sách rõ
ràng, có những quy chế đối xử, có mức lương
tài trợ mà.
- Vậy sao dựng ra cái tin như thế?
Một phút lương lự Tường trả lời:
- Có lẽ thế này. Lê Anh viết không sai sự thật
lắm. Vì có thể Nguyễn Thụy Long là cộng tác
viên riêng của Huỳnh Bá Thành. Cái này thì
không nằm trong diện chung.
- Tường à, mình thấy nội dung bài viết của Lê
Anh là có cảm tình và rất trân trọng Nguyễn
Thụy Long. Chỉ có chi tiết này là cần làm rõ mà
thôi…à còn chuyện này, cái máy chữ?
- Ông ơi chuyện này thì tôi không rõ…Lâu quá
rồi…
- Tường hà, anh Trần Tử Văn là sĩ quan công
an? Từng là Phó Tổng biên tập?
- Đúng. Hiện nay cấp bực Thượng tá.
Trong chỗ anh em, Tư Kế Tường một người có
một đời sống rất kín đáo, cẩn trọng. hiền hòa.
Tôi tin những điều Tường trả lời. Nhưng cuối
cuộc đối thoại tôi nói, qua máy:
- Tường ạ, Tường chịu trách nhiệm nội dung
cuộc đối thoại này chứ.
- Đương nhiên. Chúc ông sức khỏe.
- Cảm ơn.
[cúp máy]
Nguyễn Thụy Long ơi, chỉ có vậy Long hà.
Bọn Mầm
Cung Tích Biền
vietmessenger.com
Tặng cháu và con, một Đỏ một Đen
Một buổi chiều, hai chú nhóc Cuội và Cù, học cùng trường cùng lớp,
được thả ra từ một nơi tạm giam. Bọn nhí không may bị giam giữ
qua một đêm vì bị nghi can dính líu một vụ cướp giật. Có cảnh chặn
xe cướp của xảy ra trên đường phố, bọn cướp vội vã khi tẩu thoát
đã đánh rơi gần đó một chiếc đồng hồ loại xịn. Cuội lượm được,
ngắm nghía của rơi một hồi, khen cái đồng hồ đẹp bá chấy, rồi giao
cho Cù. Cuội nói:
- Mày giữ lấy đi.
Cù phân vân:
- Giữ của này không được đâu, hay là mang đến giao cho ông cảnh
sát đang đứng chỗ đầu đường kia.
- Cũng được. Đi nào.
Trên đoạn đường tung tăng đi nộp của rơi hai thằng nhóc bị tra xét
vì trong người chúng có của gian. Giam một đêm, xét thấy hai đứa
còn quá nhỏ, không có cách của bọn chôm chỉa, nên được cho về.
Nhà chức trách có thông báo cho mỗi gia đình đến cổng đồn đón
con.
Con nít không đợi ai được lâu, hai đứa nhỏ đứng chỗ cổng một hồi,
bèn thả bộ trên đường về, rất vui vẻ và xem như không có việc gì
xảy ra, hay ít nữa trong tâm cảm mỗi đứa, cũng có mỗi kỷ niệm
riêng chỗ nhà giam.
Thằng Cuội thấy phòng giam tồi tàn, hôi hám, giường không có
đệm, không quạt máy, không được xem ti vi hay được nghe nhạc,
không được uống một cốc sữa trước khi đi ngủ như ở nhà cha mẹ.
Suốt một đêm Cuội không ngủ được. Da dẻ trắng mượt của nó hiện
ra nhiều đốm đốt của muỗi và những lằn đỏ gần như rỉ máu, vì
ngứa, do cào, gãi.
Thằng Cù thì ngủ ngáy ngon ơ. Ít ra trong phòng giam nó được ngủ
trên một cái giường có lò xo, tuy sét rỉ nhưng điệu nghệ nhún nhảy
lên xuống. Giường trải một chiếc chiếu cói, không có đệm lót, cái
lưng nó cách mặt đất chừng sáu tấc tây - Cù nghĩ - cũng thoáng
mát, ta đây có cái giường nằm. Ớ nhà, cha mẹ nó đi bươn chải
kiếm gạo khuya khoắt mới về, anh em Cù lo tìm cái gì đó ăn qua
loa, tự học bài, rồi ngủ ngáy ngay trên nền nhà bụi bặm không chiếu
trải. Với Cù, đèn phòng giam này tuy tù mù một ngọn tròn vàng
khẹt, qua ánh đèn nhân dạng nào cũng như con bệnh dịch hạch,
nhưng vẫn hơn ở nhà nó. Từ chín giờ đêm tới lúc tờ mờ thức dậy lo
đun bếp là cha mẹ cúp điện hoàn toàn, “Chịu tối chịu nóng chút đi
các con, không đủ tiền trả tiền điện đâu.” Với thằng Cù, bị giam tù, e
sướng.
Hai đứa đi bộ trong nắng nóng một hồi, thằng Cuội trắng nõn, mập
cui, trong máu có chất sữa tươi bôm nho phó mát, nên ra mặt trời
hung hãn là da chảy mỡ. Thằng Cù ốm teo, mùa nghỉ hè từng cuốc
bộ theo cha làm thợ hồ, thằng nhỏ dai sức, có thể cuốc bộ mươi
cây số dưới nắng cháy có dư “khả năng.”
°°°
Một chiếc xế bốn bánh sang trọng trờ tới.
Xe dừng. Cửa mở. Bà mẹ ăn bận sang trọng bước ra khóc òa ôm
Cuội. Người cha ung dung đứng bên cửa xe hút thuốc nhả khói, mặt
khơi khơi, ánh mắt lạnh lùng nhìn hai đứa trẻ. Lúc sắp bước lên xe,
nhìn thằng Cù đứng trơ dưới nắng, Cuội nói với mẹ:
- Mẹ ơi cho Cù về luôn với con.
Bà mẹ nhìn Cù, tuy gầy nhom nhưng thằng nhóc có khuôn mặt
thanh tú, mũi cao, đôi mắt sáng trưng hiền hòa, bà nói với chồng:
- Anh hà hay là cho thằng nhỏ về luôn nhà mình. Hai đứa học cùng
trường chắc nhà cũng gần thôi. Cha mẹ nó sẽ đến nhà mình đón
con sau. Bỏ nó đây một mình tội nghiệp.
Người bố nạt:
- Không nên thừa mứa lòng thương như vậy. Phải cách ly hai đứa
này ra. Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.
- Chúng chỉ nhặt của rơi, thành thật mang đi nộp cho cảnh sát, vậy
là tội lỗi sao?
- Bị giam tù là có sai quấy. Không bàn luận lôi thôi.
- Ông này lạ, tụi nó tù hồi nào ?
- Đã hít một làn không khí chỗ trại giam kể như ở tù rồi.
Cuội năn nỉ:
- Bố ơi trong lớp con chỉ chơi với bạn Cù thôi. Cù học giỏi nhất lớp,
dễ thương nhất lớp.
- Mày im đi được không? Đặt bày “bức xúc” với “cảm tính.”
Bà mẹ thở ra, bảo Cuội: “Con thắt dây an toàn, không là cảnh sát
phạt đó, mày to xác lắm rồi.” Lúc sắp đóng cửa để xe lăn bánh,
thằng Cuội bất ngờ tung cửa xe nhảy xuống đường, chạy một mạch
tới nắm tay thằng Cù, vừa thở vừa nói vội vã:
- Chạy, mày với tớ chạy.
- Chạy đi đâu?
- Thì chạy trước đã.
Hai đứa ranh như chuột, cùng chạy ngược chiều xe, tức thì chun vô
hẻm, tẩu thoát lẹ làng.
°°°
Cảnh nhà thằng Cù quả là một mô-đen thích thú lẫn kinh ngạc đối
với đứa bé mười một tuổi như Cuội. Mái lợp tôn vách ván, có gác
gỗ. Đi trên gác phải cẩn thận kẻo lọt tõm xuống nền nhà vì ván ép
nhiều nơi đã mục nát. Tường nhà thay vì gạch là ván tạp có chỗ
thủng, em thằng Cù ba tuổi có thể qua đó đút cái đầu ra ngoài gió
nắng, cười, rồi chui từ trong nhà ra bãi cỏ phía ngoài không cần đi
ra phía cửa chính.
Nhà có mỗi phòng khách tí tẹo phía trước và căn bếp phía sau. Từ
trên gác xuống đất Cuội không hề thấy có cái phòng ngủ. Cuội nói,
“Cù ơi cả toàn bộ diện tích nhà mày e chừng nhỏ hơn cái phòng
khách nhà tớ.” Cù cười hiền hòa, hắn chưa tin trên thế gian lại có
cái phòng khách nhà nọ lớn hơn cái toàn bộ “ngôi nhà của cha mẹ
mình.”
Cha thằng Cù là một thiên tài trong ứng xử với mọi tình huống vào
thời khó khăn, trong một kiếp người mà như mọi khốn nạn trên thế
gian gom lại cho một. Trong nhà, từ trên gác xuống phòng khách,
nhà bếp, nhà vệ sinh chỉ có hai cái bóng đèn mà tất thảy đầy đủ ánh
sáng. Đầy đủ đây là thấy rõ mặt nhau, thấy cái nồi cái chảo, thấy rõ
ràng cái bàn không lộn với cái ghế; riêng trong dĩa rau có lộn vào
một con sâu, giả dụ nó to bự, thì chẳng tinh mắt nào thấy ra con
sâu vĩ đại qua “ánh sáng đầy đủ” này.
Nghệ thuật nào mà chỉ hai bóng đèn đủ tỏa sáng, ép chế ánh sáng
phải từ bỏ đường thẳng mà hóa ra quanh quẹo? Một bóng tròn
chung cho bếp và nhà vệ sinh. Cù và thằng em khi vào nhà vệ sinh
là đương nhiên được hưởng quyền “tự do không cần đóng cửa.”
Ngồi tầy huầy cu dái từ bên trong nhìn ra ngoài, anh em cười vui
quá đã.
Gác gỗ được đục ra một cái lỗ. Một bóng đèn nê-ông sáu tất từ
dưới nhà xỏ ngược lên, qua cái lỗ, ánh sáng chia hai. Cả trên gác
lẫn dưới nhà đều sáng qua ba tấc đèn nê-ông mỗi nơi. Chỉ hơi dễ
xùng cơ, một chút bất tiện “đột xuất,” nhưng “sự cố” này không trầm
trọng mấy, ở chỗ, là phòng khách thì thuận chiều ánh sáng rọi từ
trên xuống nền nhà, còn trên gác ánh sáng ác nhơn rọi từ dưới sàn
lộn ngược lên, thằng Cù chỉ có thể nằm ngửa trên sàn gỗ nhìn lên
nóc nhà mà học bài.
Bọn nhóc ba anh em thường bị bỏ ở nhà, đứa lớn nhất mới mười
một tuổi. Cha thằng Cù cũng là nhà phát minh ra cái “xe bàn,” có
một bánh xe nhỏ xíu dưới mỗi chân bàn; khi bình thường dùng làm
bàn ăn cơm, khi khách tới thăm là chỗ rót tách trà, khi gió mưa là
“cầu phao” để bọn con nhỏ khỏi chết đuối trong nhà.
Sở dĩ dưới mỗi chân bàn có cái bánh xe nhỏ, là ý cha mong lũ con
được di chuyến thảnh thơi chút đỉnh trong nguy khốn, bồng bềnh lai
rai trên nền nhà lúc mưa lũ như thuyền bè phiêu du ngoài sông
nước.
Mỗi cơn mưa ngập hai đứa em nhỏ thằng Cù ngồi trên xe bàn an
toàn. Cù có thề đẩy bàn di chuyển nhẹ hều trong nước ngập trên
nền nhà, bập bềnh là giày dép, rác, thau nhựa, túi ni lông, có khi cái
áo của cô Tầm trôi từ nhà bên kia qua bên này, cái áo chết nước.
Bọn nhỏ thích ác chiến cái trò ngồi trên xe bàn vui vẻ nhìn ra ngoài
đường hẻm nước ngập chảy cuồn cuộn, người lội bì bõm, xe gắn
máy chạy nước bắn vòi trắng xóa như pháo bông một màu, tùm lum
ra hai bên. Như cánh bướm một loài bướm trắng khổng lồ, có đó,
xẹt cái, rồi tàn mất.
Nền đường phố vùng đất trũng này vài ba năm được công chánh đổ
thêm đất đá, để nâng cao, chống ngập. Nền nhà hai bên đường,
nhất là trong hẻm thấp dần như “tự lún,” để trốn vào lòng địa cầu.
Cha mẹ thằng Cù bao năm không đủ tiền để nâng nền nhà. Nền nhà
bỗng thấp hơn mặt đường chừng bốn tấc, mưa ngập đường ba bốn
tấc nước, cộng thêm nước triều cường, là trong nhà này, nếu bọn
nhỏ không ngự trên ghe bàn, có thể chết nước cái một, tại ngay cái
chỗ được xướng danh là phòng khách.
Mỗi lúc đất trời thịnh nộ, bọn nhỏ nhà này không thích, đúng ra là
không dám, leo lên cái gác nhỏ hẹp bít bùng không trần nhà; anh
em thiếu cha mẹ ôm nhau lúc mưa dội rùng rợn trên mái tôn và gió
giật như ma hú, giọt mưa như giọt quỷ, gió là bọn trấn lột gỡ tung
từng tấm tôn cũ nát; những mảnh tôn bay xẹt tiếng rít thét trong
từng không; lúc ấy thòi lòi một bọn nhóc rách rưới trong cơn rét run
giữa một bầu trời mù đen. Một cõi mù đen thỉnh thoảng bị xé rách
bởi sấm sét chẻ dọc.
°°°
Hôm bọn Cuội và Cù trở lại, bà mẹ Cù nấu sẵn nồi khoai lang. Hai
đứa bóc khoai chấm muối mè. Bị giam qua đêm, đói, Cuội ăn khoai
thấy ngon hơn bôm nho nhà nó.
Hôm ấy bà mẹ Cù bị cảm cúm bỏ việc một ngày. Bà ngồi cạnh hai
đứa trẻ, nghe chúng tâm tình những đối thoại ngây thơ, thẳng ron,
không vướng mắc rào đón gì. Chúng ở ngoài cái thế giới đa đoan,
đầy than vãn và buồn phiền của bà. Bà rất cảm động, cầu mong
bọn nhỏ không phải chịu bao tai ách như thế hệ của bà. Bà cầu trời
chúng phải có tương lai tươi sáng trong một đất nước đã im tiếng
súng, bọn quỷ ma, nhờ trái gió trở trời, có đạo đức hơn một chút,
một xã hội sẽ có thể ngày càng được nâng cao, đời sống vật chất
dư dả và tình người thấm đậm những cưu mang, thương yêu, giúp
đỡ nhau. Cả một đời bà không thể bước ra khỏi nỗi tuyệt vọng, bà
mong bọn nhỏ không thể cắm rễ vào đó mà lớn khôn.
Cù bẻ đôi một củ khoai đưa cho Cuội, nói Cuội hà mày chưa biết cả
việc ăn khoai. Cuội cười nói khoai rất ngon nhưng tao nuốt khoai
sao cứ nghẹn chỗ cần cổ. Cù đi rót một ly nước, nói mày uống phụ
thêm nước cho trơn cái cổ họng.
°°°
Một người đàn ông ngoài tứ tuần trông khắc khổ ốm gầy - chỉ một
bất ngờ đổi đời, đã một thời an-cư-trong-nhà đá, ông đã trở già như
một ông lão bảy mươi - dừng chiếc xe gắn máy cũ xì chỗ cửa nhà.
Ông lui cui lấy sợi xích và cái ống khóa nội địa khóa vành bánh xe
vào cái phụt nhún xe cho chắc ăn. Bọn quái xế lẹ như chớp. Quên
khóa là toi. Chiếc xe hai bánh cà tàng này là cả một gia sản, nó “sản
xuất” ra mọi thứ như gạo, cá, mắm, sách học của thằng Cù, một ổ
bánh mì không thịt cho đứa con gái nhỏ ba tuổi, đơn giản vì nó là
một chiếc xe ôm, là “mũi nhọn” kinh tế gia đình.
Khóa xe xong, ông ôm một bịch bự vào nhà, cười nói hôm nay tổ
đãi, vớ được mấy cuốc xe đường xa bộn tiền, mua cho mẹ con em
mớ gạo, ít thịt, mấy con cá trê này kho mặn kiểu cá kho tộ là “đậm
đà bản sắc.” Ông là một người luôn hài hước.
Cuội ở chơi tới khuya vẫn không chịu về lại nhà cha mẹ. Cha Cù nói
nhẹ nhàng:
- Cuội hà, cháu phải về, bác chở cháu về. Mai mốt sang chơi. Giờ
này cha mẹ cháu ở nhà lo lắng lắm đó.
Cuội buồn rầu ngồi sau yên xe, ôm thắt lưng ông già Cù. Thằng
nhóc nghe mùi mồ hôi, thấy thương, ở nhà bố nó thường dùng dầu
thơm. Cha thằng Cù hỏi số nhà, thằng nhỏ nói bác cứ chạy con chỉ
đường cho, con luôn đi học bằng xe hơi mà.
Thằng nhóc hứng chí tâm sự, xe gắn máy của bác gió lồng lộng mát
hơn ngồi trong xe của ba cháu. Ông già nói, xe nhà cháu có máy
lạnh chớ ? Dạ, nhưng xe hơi bít bùng, không có thoáng gió như ngồi
cái xe hay rùng-mình- vặn-vẹo của bác thế này. Ông già cười, xe cũ
xì mà cháu? Dạ, nó gào thét dữ quá, nhưng nó uốn éo cũng điệu
nghệ.
“Nhà cháu đây, đây” Cuội nói. Ông già Cù dừng xe. Một cánh cổng
lớn, nhà hai tầng, chiếc cổng cũ được xây lại cao to, sang trọng
hơn. Ông ta đứng lặng người. Hóa ra nhà cha mẹ thằng Cuội đang
ở chính là ngôi nhà của hai vợ chồng ông trước kia bị “cách mạng”
tịch thu.
Cuội bấm chuông, cổng mở. Bà mẹ ôm con mừng rối rít quên cả
người đàn ông đưa con mình về còn đứng đấy.
Cha thằng Cù quay đầu xe. Bà mẹ Cuội nghĩ ông ta là một người lái
xe ôm, mang tiền trả, quên cả lý do từ đâu ông ta nhặt được thằng
con cưng nhà mình mang trả. Cuội nói với mẹ, mẹ ơi đây là ba của
bạn Cù. Bà mẹ tỉnh ra, mở lời xin lỗi, “Xin mời, mời bác vào nhà
chút đã, ôi tôi thật là có lỗi.”
Lưỡng lự một vài giây, lúc đầu ông định nhân dịp này vào thăm lại
căn nhà xưa, một phần ruột gan dĩ vãng, một nơi chôn cất một
phần đời cũ, an táng niềm hy vọng một thời, nhưng sau ông nói lời
cảm ơn và rồ máy xe. Một vô hình chặn lại. Một cách ngăn vừa
muộn màng vừa đau đớn trong tâm dạ rao giảng: “Định mệnh đã
sắp xếp.”
Đường phố rất tối. Một ngọn đèn sáu tấc được chẻ ra làm đôi, một
nửa dưới gác thằng Cù đang học bài, nửa trên một chút ánh sáng le
lói dội ngược, tận khuya ông già vẫn một mình ngồi rít thuốc lào.
Khói rất đắng. Mùi nước man rợ đưa lại từ con kinh đen cầu Sạn
cuối đường Bùi Thị Xuân. Ông nhớ mình còn nợ con, đứa con gái
bốn tuổi một cái lồng đèn trung thu, thường ông dùng nan tre đan
ráp lại, rồi bồi giấy màu gom nhặt đâu đó, có khi nó đã an phận là
loài ve chai.
Ông ngồi với khói thuốc đến khi có tiếng gà lạnh lùng về sáng, một
bọn gà thường chờ chết trong một phố phường háu nhậu. Gần
sáng, trăng mười ba Tháng Tám đã mất màu, một cái trăng thiếu
máu bạc phơ, đỉnh trời đêm trải rộng, nhưng dần dà mờ hoang, biến
ra cái hóa kiếp lúc ngày sẽ về.
**
Thời gian trôi khá nhanh qua mười hai con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,
Thìn, Tị,... mỗi năm một con vật hai chân/bốn chân/hoặc không có
chân/bò, bay, chạy, trèo, ngự trong số mạng mỗi con người. Có khi
anh cầm tinh con Trâu ít lanh lẹ bằng anh con Khỉ, anh con Rồng vì
thanh cao mà không có tài lượm nhặt hạt rơi bằng anh con Gà. Bọn
mệnh thần Chuột, Trâu, Cọp, Mèo, Rồng, Rắn,... thay nhau, rượt
nhau, thời gian hóa ra lông, mọc cánh, mọc sừng, hóa ra móng
vuốt, gió mưa, mây và trăng; bọn thằng Cuội-Cù đã có non hai mươi
năm bè bạn thân thiết, một tình bạn nằm ngoài căn gốc của cha
ông, một căn gốc nhục nhằn, bọ sâu đến tổn thương linh hồn.
Cù học sinh xuất sắc được ngay học bổng ra nước ngoài sau khi
vừa xong bậc trung học, Cuội cha mẹ giàu có cho con du đi học
theo đường gia đình tự túc; cả hai đều đỗ tiến sĩ, cả hai đều được
mỗi trường đại học lưu lại làm phụ giảng. Bọn ba mươi tuổi này hãy
còn rất nhiều điều kiện và thời gian học hỏi, nghiên cứu, để hoàn
chỉnh hành trình, đóng góp nhỏ nhoi riêng mình; trí thức, những chỗ
đứng vô danh, nhưng đóng góp là rõ thực.
Trong nhiều thập kỷ, cha mẹ thằng Cù chẳng ai dặn dò ai, nhưng cả
hai đều tuyệt giữ bí mật, không hề tiết lộ tai nạn mất nhà cửa đến
tai bọn nhỏ, cũng như bố mẹ Cuội. Chẳng ai muốn trí nhớ phải quay
lại những điều bất trắc; với họ, ngậm ngùi quá khứ, tiếc rẻ hay đau
xót về sự táng gia bại sản chỉ là sự tự chôn mình.
°°°
Một ngày Xuân, hai thằng tiến sĩ có số tuổi bằng nhau cộng lại là
sáu mươi hai, về thăm quê nhà. Hai thằng trắng bong, mập đẹp, râu
hàm trên rậm rạp được cạo nhẵn, bày ra màu da xanh-chân-râu
như da trời loãng. Chẳng đứa nào cưới vợ. Cuội khoe với bà mẹ
Cù:
- Bác ạ, bao năm cháu vẫn giữ cái bao tiền lì xì Tết của bác đây. Nó
là kỷ niệm quý giá, bất ly thân của cháu.
Cuội móc bóp, tiền trong bao lì xì nhỏ xíu màu đỏ chỉ đúng một
đồng. Một đồng bạc vào thời buổi đón Tết mừng xuân này mua
được một phần bảy ký khoai, giá ngoài quốc doanh; giả dụ một ký
khoai 10 củ giá 7 đồng, thì tiền mừng tuổi này mua gần một củ rưỡi.
Bao lì xì do mẹ thằng Cù chế ra từ một cái bao nhang, một bao
nhang làm được ba cái bao lì xì cho bọn trẻ. Hà tiện đúng “nhân
cách,” thời non sông hòa bình, Bắc-Nam thống nhất.
Cuội mở cái cặp, lấy một tấm hình rất cũ tặng cha thằng Cù:
- Cháu tặng bác tấm hình này. Sao vậy bác?
Ông già thằng Cù bàng hoàng nhìn tấm hình chụp toàn gia đình
trong ngôi nhà cũ của ông, tức là ngôi nhà to lớn cha mẹ tiến sĩ
Thắng đang ở hiện nay. Hai màu trắng đen trong tấm hình đã ố
vàng, hiện ra ông với vợ và hai thằng con trai xinh xắn; hồi này cô
gái út chưa chào đời; phòng khách rộng bàn có bình hoa, trên
tường có bức tranh thiếu nữ, do một họa sĩ bạn tặng cho ông.
Cuội hỏi:
- Sao vậy bác? Trong nhà con lại có hình gia đình bác?
Cuội mơ màng nói, khi mọi người mơ màng nghe:
- Khi cha mẹ cháu tiếp thu nhà mới, trong một kệ nhỏ có tấm hình
này, chừng như ai đã vội vã ra đi, tấm hình ở lại. Sao vậy bác ? Sao
ai đó lại là bác?
Ông già Cù cười hiền hòa, ông nói:
- Cháu nên tặng tấm hình này cho anh tiến sĩ Cù. Tấm hình còn
nguyên đó nhưng những băn khoăn về nó của cháu thì nên như
nắng trong ngày: “Không thể còn chút ánh mặt trời nào trong đêm.”
Sàigòn,
Ngã tư xóm Gà, tháng 10, 2011