ương. Theo như lời các cụ truyền lại: đây là hòn đá Đức Thánh Trần đã mài thanh bảo
kiếm để chém đầu tên giặc Phạm Nhan. Sử có chép: sau khi đánh bại đại quân của
Tàu, có một tên tướng giặc bị bắt, quân ta đem ra chém đầu, nhưng chém đầu này nó
mọc đầu khác vì giặc có yêu thuật. Quân lính thấy thế thì hoảng sợ. Đức Thành Trần
mới mài thanh bảo kiếm rồi chém Phạm Nhan. Chỉ một lần, Phạm Nhan không thể
mọc đầu. Cụ tổ nhà ta vốn theo hầu đức Thánh Trần đánh giặc có nhiều công trạng
nên được giao cho giữ hòn đá mài. Chính hòn đá trong nhà mình là hòn đá đó. Về hòn
đá chỉ có một ít người của dòng chính được biết đến, không ai được nói ra ngoài.
Những năm chạy loạn ông mang hòn đá đi theo không rời. Đời trước nói sao đời sau
nghe vậy coi như vật gia bảo linh thiêng. Khi thấy mình đã yếu, bố cháu bảo dù gì thì
con cũng phải tìm cho được ông chú... Cháu muốn đi tìm ngay người chú vào lúc đó,
nhưng bố cháu bệnh nặng chẳng thể đi, ít lâu sau bố cháu mất. Cháu loay hoay với
việc kiếm sống. Chẳng có nghề gì, với ít ruộng và một lao động thật khó để giải
quyết, lúc ấy có một người trong làng làm nghề mài dao kéo, mỗi ngày từ quê ra thị
xã, tối về cũng kiến đủ ăn, có sẵn hòn đá mài, cháu nghĩ sao mình lại không có thể
làm việc này, thế là cháu theo chân người bạn... Mãi tới tận bây giờ cháu mới đi tìm
ông chú, mà cũng tại hòn đá. Chắc cụ sẽ nghĩ: sao lại không nghĩ đến lời dặn của bố
và ông chú? Cháu cũng không biết nữa. Nhưng lên tới đây, tìm ra nơi ông chú ở thì
ông đã đi rồi... rồi cũng không biết có tìm ra không.
- Gặp được ông chú, tìm thấy phần kia của hòn đá mà gắn lại, biết đâu đời cậu sẽ thay
đổi?
- Cụ tin thế sao?
- Những câu chuyện như: mẹ Âu Cơ đẻ một trăm trứng, Rồng vàng xuất hiện, rùa
thiêng trả kiếm... những cái đó có tin được không. Tôi nghĩ: người kể ra những
chuyện đó, lúc kể hẳn là có một mong ước: mình là anh em cùng mẹ đừng giết nhau,
kiếm đã trả rồi không còn chiến tranh giết chóc, mọi người được sống trong hòa bình.
Cũngnhư hòn đá thiêng của nhà cậu... có khi những điều nói về nó không thật, nhưng
nó được truyền từ đời này sang đời khác là có thật, chính sự truyền lại đó mang một ý
nghĩa. Riêng tôi, tôi cũng có những điều để tin... Nhưng, tạnh mưa rồi, mình đi thôi.
Ba người trở ra, mặt đê đầy những nước, trời mù đục, ba người cùng bước không nói
một lời.
Bỗng người thanh niên reo lên:
- Chắc bến đò kia rồi.
Cụ già đưa tay lên che tầm mắt:
- Có cái quán phải không? Hy vọng bến đò.
Khi ba người tới gần quán, nơi con đường đất từ ngôi làng mé bên này đê có một toán
người đang đi tới, họ lên đê đi về phía ngôi quán lá. Toán người mặc đồng phục
nhưng không được chỉnh tề, người đội mũ, người không, người đeo súng trên vai, kẻ
cầm súng nơi tay, họ đi cách nhau không đều vẻ nhàn hạ. Tới trước quán nước toán
người dừng lại, ba người đi vòng vào phía sau. Một người cao, trắng tiến tới cửa quán
lấy tay đập lên tấm phên che trước cửa. Lúc sau một người đàn bà lớn tuổi đẩy tấm
phên cho rộng ra rồi bước ra ngoài. Người cao trắng nói vu vơ:
- Mấy người ở đây đâu rồi?
Người đàn bà tay vừa vấn tóc vừa nói:
- Tôi không rõ.
Tiếng cười khô nhạt, người đàn ông tay vỗ đều đều lên tấm phên nói:
- Bà không rõ thì ai rõ? Họ đi đâu?
- Đi đâu, khách qua đường thấy quán thì dừng chân, làm sao tôi biết họ đi đâu.
- Họ ở đây, uống rượu, nói cười rổn rảng...
Người đàn bà đẩy hết tấm phên ra khỏi khung cửa, cầm cái chổi cúi người xuống quét
mấy vũng nước đọng. Người đàn ông im lặng đi vào trong quán một lúc rồi trở ra.
Người đàn bà vừa quét nước vừa nói:
- Anh coi kỹ cái gậm giường chưa...
Người đàn ông bước trở lại đường cũ đưa tay ra dấu cho cả toán cùng rời đi. Người
đàn bà đứng thẳng người nói:
- Có rượu đó mấy anh uống đã rồi hãy đi.
Lên tới giữa đê, một người trong toán dơ cao cây súng bắn một loạt đạn lên trời.
Tiếng nổ khô xé rách không gian yên tĩnh. Người thanh niên ngơ ngác. Ông già đứng
im như trời trồng. Người mặc áo lính nhìn theo ngơ ngác. Cho đến khi toán người đi
khuất ba người vẫn còn đứng trên mặt đê. Tiếng cười của người đàn bà nơi cửa quán
như kéo ba người trở lại với thực tại. Cụ già chỉ tay lên trời:
- Họ bắn trời.
Người thanh niên bước về phía cửa quán:
- Bắn trời. Cụ nói gì nghe ghê quá. Bắn được trời thì bao nhiêu người đã bắn rồi. Có
khi cháu cũng bắn một phát. Người ta nói bắn như vậy là bắn chỉ thiên, bắn thị uy...
- Mời mấy ông vào sơi nước.
Giọng người đàn bà ngọt ngào dễ nghe. Người mặc đồ lính:
- Nghe bà nói có rượu mà sao lại mời uống nước?
Ông cụ và người thanh niên cùng cười thành tiếng. Người đàn bà nói:
- Dạ, có nước có rượu, uống gì cũng có...
Ba người cùng bước vào quán và ngồi xuống cái ghế dài để trước một cái bàn nhỏ
trên có mấy lọ kẹo, thuốc lào, lạc rang... Ông cụ nói:
- Bà cho chúng tôi mấy bát nước thôi, rượu với chè gì... Chúng tôi tưởng đây là bến
đò.
- Có thuyền tất có bến thôi. Đưa mắt nhìn xuống sông, nước vẫn lặng lờ và hình như
đã dâng cao hơn ngày hôm qua. Cụ già nói:
- Thế ở đây có đò dọc không bà?
- Ở đây không có, phải xuống dưới ngã ba, nhưng trời mưa lớn nước đang cao e cũng
khó. Bè chắc có nhiều, họ đưa tre lứa với gỗ theo nước xuống mạn dưới, nước càng
cao càng dễ đi. Hôm qua cũng có mấy người ghé đây trên đường tìm bến đò. Buổi
chiều họ mua rượu uống trò chuyện tới khuya, rồi chẳng hiểu sao đêm tối như thế mà
kéo nhau đi, không biết có người nào lăn xuống sông không? Trời thật ác...
Ông già cúi người lấy một chiếc dép lên:
- Bà có con dao nào sắc cho tôi mượn một chút.
- Cụ cắt gì?
- Một cái quai dép nó đứt.
- Quai dép đứt thì phải khâu lại mới đi được chứ sao lại cắt?
- Dạ không sao, vì nó có tới hai quai, một quai đủ về tới nhà rồi, để có vướng bực
mình...
Người đàn bà lúi húi mãi dưới gậm bàn mới lấy lên được một cái lưỡi lê. Người thanh
niên kêu lên thành tiếng:
- Sao bà có cái của này?
- Có ông khách qua đường tặng cho. Cái lưỡi lê này sắc lắm cụ cầm kéo không đứt
tay như chơi. Mấy tay cửu vạn từng năn nỉ mua tôi không bán, để nó trên bàn người ta
thấy cũng trợn... Nó không bao giờ rỉ, mài sơ là sắc, dùng được cả hai lưỡi, lưỡi dao
trông vậy mà rất cứng, chưa bao giờ bị mẻ...
- Thế bà giữ nó làm gì?
- Tôi để nơi đầu giường, đêm hôm khuya khoắt ở nơi vắng vẻ thế này anh tính...
Người thanh niên cầm lấy lưỡi lê giúp ông cụ cắt bỏ cái quai dép đứt. Ông cụ đưa tay
thử độ sắc của lưỡi lê rồi nói:
- Bén thật, nặng thế này chắc là bằng thép ròng chứ không phải chơi.
Người thanh niên lật lên lật xuống rồi để lưỡi lê lên mặt bàn, kéo tay ông cụ đứng lên:
- Uống nước rồi mình đi thôi...
Ba người ra khỏi quán đi tiếp về phía bến đò ở dưới ngã ba sông, người thanh niên
nói:
- Cụ tưởng tượng xem: với cái lưỡi lê đó mà đâm vào bụng? Cháu đã từng bán một
lưỡi lê như thế cho người ta.
- Cái lưỡi lê vừa rồi?
- Không, một lưỡi lê chắc cũng được đúc cùng một khuôn như thế. Người mua của
cháu lưỡi lê đó đã chết...
- Sao mua lưỡi lê của cậu mà chết?
- Ông ta dùng lưỡi lê mua được để tự mổ bụng mình, ông ấy tự tử trời ạ...
13.
Cháu đi mài dao, mài kéo nhưng cũng có bán mấy thứ dao thông dụng. Một phần là
những dao cất từ một lò rèn cháu quen, còn là những dao cũ cháu mua của những
người bán đồng nát. Mua dao cũ con thì mất chuôi, con thì mẻ lưỡi, con thì trơ cùn.
Qua tay cháu trau chuốt: làm chuôi, bào mài cho ngon lành rồi bán, như vậy được tiền
hơn. Một hôm cháu mua được một cái lưỡi lê. Nhìn nó đã thấy ghê. Hãy tưởng tượng
gắn nó vào đầu súng, xông lên và đâm... người ta gọi là đánh cận chiến, giáp lá cà...
Cháu treo nó đầu bộ ngựa của cháu cùng bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác mà chẳng thấy
ai hỏi đến. Có người bảo: thứ này của quân đội ai dám dùng. Nhưng mua rồi biết làm
sao. Một hôm cháu đang mài dao có một người đàn ông đã lớn tuổi, người cao lớn
khỏe mạnh rút cái lưỡi lê ra ngắm nghía. Ông ta hỏi cháu: kiến cái này ở đâu ra vậy?
Câu hỏi làm cho cháu hơi lo. Lưỡi lê là một thứ quân dụng mà. Cháu bảo mua của
mấy bà ve chai. Ông ta bảo: Trước kia tôi cũng có một cái, nhưng thứ đó tròn không
có lưỡi, chú có bán không? Nghe tới đó cháu thấy nhẹ cả mình, bao lâu rồi không ai
hỏi tới nay có người hỏi mua ai mà không mừng, lại nữa giữ nó cháu cũng sợ. Sau khi
nói giá, người đàn ông bảo cháu: được rồi, chú mài lại cả hai lưỡi và o cho cái mũi nó
thật sắc cho tôi. Cháu làm theo lời ông ta. Vừa liếc vào đá lửa đã tóe ra, lưỡi lê thì
nóng rẫy, điều mà những lần mài trước cháu không thấy. Người đàn ông nói: thép của
họ tốt thật, nó mà đâm tới thì ngọt phải biết, cứ là chết không kịp ngáp. Bụng cháu
thấy xốn xang tự hỏi: ông ta mua cái này làm gì không biết. Ông ta đếm tiền trả, tay
cầm lưỡi lê có vẻ hài lòng, lúc sau nghĩ sao ông ta bảo cháu: để đồ nghề vào gần cửa
rồi theo tôi lên đây tôi cho coi cái này. Cháu bước theo. Trong căn gác nhỏ ông treo
trên tường rất nhiều thứ cháu chưa từng bao giờ thấy: cái rìu, cái quắm, cái phảng...
dao thì đủ loại, đủ kiểu dáng. Từ những con dao bổ cau của những bà cụ tới con dao
cạo râu xưa có hình cái chìa khóa, có cả những con dao sau này nhập từ Thái, Liên
Xô, Nhật... Nghĩa là một bộ sưu tập. Nhưng bên cạnh những vật sắc để dùng trong đời
sống còn có những hung khí chỉ để dùng trong chiến tranh, hay dùng để giết người.
Ông ta nói với cháu: tôi tìm một thanh kiếm Nhật mà mãi không ra. Hồi Nhật nó sang
đây đứa nào cũng có đeo kiếm, chẳng lẽ nó không bỏ lại một thanh kiếm nào? Nhìn
lên tường, qua những gì treo trên đó người ta thấy rõ ông là một người theo nghiệp
võ, chắc là đã có cấp bậc cao... Ít lâu sau cháu mua được một thanh kiếm Nhật của
một người bới rác. Người bới rác nói với cháu: cái vỏ kiếm hư mất rồi, thanh kiếm
này chắc là của một võ sĩ Nhật. Cháu vội vàng trở lại nhà người đàn ông mua lưỡi lê
hôm trước. Khi cầm thanh kiếm đứng trước cửa nhà, một người đàn bà từ trong đi ra,
cháu chưa kịp lên tiếng thì người đàn bà đã nói trước: anh mang cái này tới bán phải
không? Cháu ngạc nhiên: dạ, có ông gì ở trên gác hôm trước dặn cháu… Người đàn
bà nhìn cháu từ đầu đến chân, nhìn vào thanh kiếm với đôi mắt hung dữ: dao…
kiếm... lão ấy chết rồi, mang xuống âm phủ mà bán cho lão ấy. Cháu sợ đến phát run
lên lùi dần rồi đi mau. Nên lúc nãy thấy cái lưỡi lê cháu lạnh toát cả người. Nghe
người đàn bà nói cháu cũng bán tín bán nghi, biết đâu ông ta còn sống nhưng người
đàn bà này không muốn ông mua những thứ ông đã mua, hoặc là vợ chồng mỗi người
một ý... chuyện tiền bạc chẳng hạn. Cháu quanh quẩn nơi nhà người đàn ông, rồi cháu
hỏi một người bán hàng gần đó, người đó bảo: ông ấy mổ bụng bằng lưỡi lê chết rồi.
Sao lại là cái lưỡi lê, tại sao ông ta lại tự tử? Chính cái hôm mài lưỡi lê lần chót, hòn
đá như đã báo hiệu cho cháu thấy chuyện chẳng lành, cũng như con dao phay hôm
trước. Cho nên cháu đã hỏi cụ: có ma không? Người đàn ông đã dùng lưỡi lê tự tử...
Người bán hàng kể cho cháu nghe: lên cái gác riêng của ông ấy sợ lắm, toàn những
dao, dựa, giáo, mác, cung kiếm. Không biết ông ấy nhặt ở đâu mà lắm thứ thế... Ở
dưới những ngăn tủ còn lắm thứ khiếp hơn: những vỏ đạn, đầu đạn, mìn, bẫy... Ai
không biết ông ấy kể cho nghe: bắn thế nào, nổ thế nào, nếu trúng thì chết thế nào...
mấy cái của ấy giữ làm gì không biết. Đã có lần bà vợ vơ những thứ đó định vứt đi,
ông ấy về kịp, vợ chồng một phen chiến tranh. Ông ấy cả đời phục vụ trong quân ngũ,
hết mặt trận này tới mặt trận khác đi miết cho tới lúc hưu. Ông bà ấy có hai người con
trai nhưng dạy không được, cha con gặp nhau là to tiếng nên chúng đi cả rồi. Hai vợ
chồng sống với nhau nhưng mỗi người một cõi, bà ấy lo buôn bán làm ăn, ông ấy thì
suốt ngày ở trên cái gác nhỏ, chỉ thỉnh thoảng mới nghe tiếng nói tiếng cười khi gặp
những đồng đội cũ. Mỗi ngày về sau người ta thấy ông ấy lầm lì hơn, ít nói hơn, cuối
cùng ông ấy mổ bụng tự tử. Ông ấy chết một đêm, một ngày bà vợ mới biết. Khiếp
quá...
Câu chuyện về cái lưỡi lê hết đã lâu nhưng không thấy ai lên tiếng. Ba người vẫn
cùng bước đi. Bỗng ông cụ lên tiếng:
- Thế thanh kiếm Nhật đâu?
- Bị giật mất. Chắc có thêm người chết.
- Cậu nói gì lạ, ai giật?
- Sau hôm đến nhà ông mua lưỡi lê về cháu bần thần cả người và nhớ lại: khi mài lưỡi
lê vào hòn đá, lưỡi lê đã nóng lên. Với thanh kiếm cháu không dám mài, cháu lấy vải
quấn hết cái lưỡi kiếm lại. Có người hỏi nhưng cháu không cho coi. Cháu nói để chơi.
Một hôm có người mới thoáng nhìn đã thấy chân quê với vẻ khờ khạo đứng ngắm
nhìn và mân mê chuôi kiếm. Người đó hỏi cháu: nó là dao gì mà lại dài và cong vậy?
Cháu nói: đó là kiếm của binh sỹ Nhật. Người đó lại hỏi: thế nó dùng để làm gì? Cháu
bảo: để đâm chém người, chứ ai lại dùng kiếm để thái thịt? Người nhà quê ấy nhăn
mặt rồi trợn mắt nhìn cháu: anh bán cả những thứ như thế này à? Cháu hoảng quá vội
giải thích: không phải thế, bây giờ giết nhau đâu người ta còn dùng cung với kiếm
nữa, người dùng súng, dùng bom. Cái này người ta dùng để trang trí nhà cửa cho vui,
cho lạ thôi, nghĩa là nó là thứ đồ chơi. Ai lại đi buôn bán thứ hung khí giết người. Lúc
sau, có lẽ vì tò mò người đó năn nỉ cháu cởi lớp vải quấn ra cho anh ta coi cái lưỡi nó
ra làm sao. Thấy anh ta có vẻ thật thà nên cháu mở lớp vải quấn quanh ra cho anh ta
coi. Ngắm nghía một lúc anh ta bảo: thứ này dùng chặt cây chuối, thái cây chuối cho
lợn ăn thì tốt lắm. Chợt một người ở đâu chạy tới giật ngay lấy thanh kiếm trong tay
người nhà quê rồi chạy... Quá bất ngờ, cháu vội lao người chạy theo miệng kêu lớn:
cướp, cướp, cứu tôi với... Người giật thanh kiếm là một người trẻ, khỏe, chạy rất
nhanh, anh ta vừa chạy vừa khua thanh kiếm trên đầu, miệng la lớn: giết giết, tao giết
hết bọn bay, giết... tao giết... Anh ta chạy và cháu đuổi theo vẫn kêu: cướp cướp...
những người chung quanh nghe tiếng kêu thì giạt ra đứng nhìn người thanh niên chạy
qua. Cháu chẳng thấy có ai định cản anh ta hay bắt anh ta... Chạy qua bao nhiêu con
đường, vượt qua bao nhiêu đám đông mà cháu tưởng như chạy qua giữa đồng vắng ở
nơi âm phủ không chừng. Cháu chỉ nghe thấy tiếng mình kêu mà chẳng thế nào bắt
kịp người thanh niên chạy phía trước với thanh kiếm vẫn khua lên. Chạy như thế khá
lâu, mỗi lúc cháu một chạy chậm lại vì mệt, không còn sức nữa, người thanh niên thì
như chạy mỗi lúc một nhanh hơn và cho tới lúc cháu mất hút anh ta trong đám đông.
Cháu cố gắng lùng kiếm mãi nhưng vô vọng. Thanh kiếm Nhật đã mất đi như thế.
Cháu không tiếc vì mất mà cháu lo. Khi trở lại chỗ để đồ nghề, người nhà quê vẫn còn
ngồi đó. Anh ta bảo: coi giúp đồ nghề sợ có người nào lấy mất. Kể lại chuyện rượt
đuổi cho người nhà quê nghe, anh ta cứ há hốc miệng ra rồi bảo: phải tìm cho ra chứ,
rồi nó đi giết người thì làm sao? Cháu giải thích thế nào người nhà quê cũng không
chịu mà đòi cháu và anh ta cùng đi kiếm cho ra thanh kiếm, anh ta to tiếng và suýt
đánh cháu. Cháu tức quá bảo: thì chính anh cầm thanh kiếm mà để cho nó giật mất
chứ đâu phải tôi, chính tại anh mà tôi mất thanh kiếm. Anh ta cũng gào lên: thế không
đi tìm để cho nó đi giết người sao? Cháu cũng điên: giết bao nhiêu người là chuyện
của nó không liên can gì tới tôi... Người nhà quê tức giận tột độ với đôi mắt trợn lên,
anh ta đứng im một lúc như lấy lại bình tĩnh, anh ta chỉ tay vào mặt cháu bảo: thật
không phải giống người. Anh ta bỏ đi. Câu nói của người nhà quê vang mãi trong đầu
cháu: thật không phải giống người.
14.
Đứng giữa ngã tư, người đàn ông trung niên tóc bạc nhìn mông về chân trời. Từ phía
chân núi có một người đi tới. Những bước đi đều và chắc. Tới ngã tư người đàn ông
ngừng lại. Người tóc bạc nhìn người vừa tới nói:
- Tôi đang chờ có ai để hỏi đường.
- Anh hai đi đâu?
- Tôi tìm bến sông...
- Sao lại bến sông, tôi ra bến xe, người ta chỉ tôi cứ đi thẳng đây thôi.
Vừa nói người đàn ông còn trẻ vắt chiếc khăn quàng lên cổ rồi bước tới. Người tóc
bạc ngăn lại:
- Đi thẳng, đúng rồi, nhưng con đường ra quốc lộ đã bị ngập sâu không thể tới bến xe
được. Cả thung lũng nước đang dâng cao bởi thế tôi mới hỏi anh đường ra bến sông.
Người quấn chiếc khăn quàng ngừng lại phân vân:
- Bến sông ở đâu nhỉ, tôi chưa nghe nói...
- Hay là đi ngược lên...
- Ngược lên? Ngược lên để vào trại Z?
- Không, tôi nghĩ tới con đường ra bến sông... phải tìm được người mà hỏi đường mới
xong.
Cả hai cùng im lặng. Người trẻ để chiếc giỏ cói xuống và ngồi lên một ụ đất mướt cỏ.
Người lớn tuổi tóc bạc cũng ngồi xuống bên quay sang nói với người trẻ:
- Anh ở trong trại Z ra?
Người trẻ nhìn lên khuôn mặt đầy những nếp nhăn của người đối diện và bóng tối
trong đôi mắt. Người trẻ hơi gật đầu trong khi lấy chiếc khăn quấn cổ ra lau mặt:
- Anh cũng từng ở trong đó ra?
Cái miệng hơi móm của người tóc bạc phác một nụ cười nhẹ nhàng:
- Không. Tôi cũng từng ở trong một trại như thế nhưng không phải ở đây. Tôi lên đây
tìm ông già.
- Ông già anh?
- Không. Không phải ông ở trong đó. Ông ra ngoài này từ những thập niên trước. Ông
thoát ly đi tập kết. Khu trại ngày nay khi đó là một nông trường mà ông là những
người khai hoang. Sau đó ít năm ông mất. Sau này, khi tôi về nhà. Bà già tôi nói tôi
phải ra tìm ông vì lúc còn sống ông đã nói với người đồng chí mong ước này. Đúng
như lời kể lại, theo những ghi nhận tôi đã tìm ra nơi này. Xưa kia đây là nông trường
Ngày Mai. Nông trường nay đã giải thể và trở thành trại Z. Ông già tôi chết và chắc
được chôn trong vùng này. Thung lũng thì rộng, đồi núi kế tiếp nhau, những người
ngày xưa ở đây đều đã đi khỏi cả. Người cũ không còn ai để hỏi. Những người giữ
trại họ có chỉ ra ngoài sườn đồi, phía sau trại, nhưng đó là những nấm mộ sau này, khi
lập trại Z.
Những lời kể ngắn gọn. Hai người nhìn nhau im lặng. Chợt người tóc bạc đứng bật
dậy:
- Đi thôi, phải tìm đường chứ ngồi đây cho tới bao giờ?
Người trẻ đứng lên theo khoác cái bị cói lên vai. Hai người đi ngược lên phía núi. Đi
được một quãng, như không thể dằn được, người trẻ nói:
- Anh ở mất bao lâu?
- Những năm ấy thực không có gì đáng nói. Với tôi những ngày sau đó mới hãi hùng.
Có lẽ một ngày là trăm năm... Bây giờ khi trở về chắc anh không còn phải sống như
tôi đã sống, thời gian có làm cho những khó khăn biến dạng đi... Trong trại hay ngoài
trại thực ra vẫn ở trong một trại duy nhất.
15.
(Những chuyến đi không biết nơi tới. Những thùng xe tải kín bưng. Những toa xe lửa
bít bùng, không ghế chật cứng người. Mùi nồng chua của những bộ quần áo cũ đẫm
mồ hôi. Những di chuyển trong đêm tối. Những khuôn mặt không tên. Những miệng
không phải để nói. Chân không dùng để đi. Mắt để nhìn những khoảng ngắn tù túng
không hình ảnh. Một ngọn cây, một bóng lá, một dòng nước chỉ có trong tưởng tượng.
Ở nơi nào con người không có thời gian không có không gian sống? Sinh vật là tôi đó
đã tồn tại không phải là sống hay chết. Những gì đã diễn ra trong suốt cái bao lâu ấy
là gì? Tôi không nhớ và tôi cũng không muốn nhớ... Trở về. Cái tôi riêng biệt, cái tôi
phải sống thì tôi không thể quên. Khuôn mặt của mẹ. Khuôn mặt người hàng xóm.
Khuôn mặt những người bạn. Những khuôn mặt tượng vô hồn nhưng biết nói tiếng
nói của im lặng, tiếng nói bằng những hình ảnh. Có lẽ là một địa ngục khác hay là
một vực thẳm khác của tàn bạo và dày đọa? Mà chắc đâu địa ngục như thế? Nhưng ai
dựng lên địa ngục? Có kẻ nào lại dựng lên một địa ngục cho chính mình? Kẻ canh giữ
địa ngục có khác những kẻ ở trong địa ngục. Kẻ mắc tội, kẻ phải tù. Những địa ngục
đã được nói đến, được biết tới không phải là địa ngục của tôi. Đó là địa ngục của kẻ
khác. Còn với tôi, tôi phải sống với địa ngục của tôi. Vì tôi muốn tồn tại. Tồn tại trước
đã... Những đoạn phim ngắn quay chậm. Ta đó ư? Vợ ta bế con đó ư? Cái giếng nào
đó? Trong khu phố có bao nhiêu cái giếng. Với đồ đạc trong cái túi nhỏ đeo trên vai
bước ra cửa: viên gạch đỏ bung lên chưa kịp gắn xuống. Vợ ta đó. Nhà ta đó. Bao
nhiêu những khúc phim ngắn ta không thể xóa đi khỏi trí nhớ. Ngày về, viên gạch đã
vỡ ra, kiếm đâu một viên gạch để gắn vào đó? Tiếng rít của những chiếc bánh sắt
chạy hết tốc độ trên những đường ray đã rỉ sét. Tiếng loa không ngừng những tiếng
la... Ở một tầng địa ngục này chuyển sang một tầng địa ngục khác. Một địa ngục thực
tại của một địa ngục quá khứ...)
16.
... Bà cụ đến bên thềm giếng nói: Chị đã ôm đứa bé rồi nhảy xuống cái giếng này... Bà
cụ run rẩy với đôi tay giữ lấy thành giếng, nhiều miếng vôi đã vỡ, mấy viên gạch nâu
rêu mốc. Người đàn ông lắng nghe trong lơ đãng. Anh ta ngửa mặt lên nhìn bầu trời
xanh trong phẳng lặng thật cao. Ngọn dưa với mấy tàu lá như mũi mác nhọn hoắt đâm
thẳng lên nền trời. Mái tóc dài xõa sau gáy những sợi bạc pha màu tro. Gió thổi nhẹ
làm những sợi tóc lay động, như cỏ khô trên một tấm mồ hoang trong mùa hạn cháy.
Người đàn ông quay nhìn bà cụ, bước tới gần miệng giếng, tay bỏ rơi chiếc bị cói và
chỉ tay xuống giếng: Ở đây? Tiếng nói ngắn, khô. Bà cụ nhìn lên đôi mắt hoảng hốt.
Đôi mắt người đàn ông như lồi ra. Bà cụ gật đầu. Cơ thể người đàn ông run lên, hai
chân khuỵu xuống rồi cố gắng lết tới, hai tay cố bám vào thành giếng, nhô người lên,
vươn cổ nhìn xuống đáy giếng sâu phía dưới, có một vệt sáng hắt lên loang loáng trên
khuôn mặt nhăn nhúm: Em ơi... em ơi... con ơi... con ơi... trời ơi... Tiếng kêu vang
động, xoáy buốt như cơn lốc ùa vào không gian yên tĩnh. Bà cụ ngã bệt xuống đất.
Tiếng kêu khô lại, thống thiết rồi tắt ngay. Sự im lặng lạnh giá đau buốt... Hai bàn tay
xanh gầy không còn sức bám vào thành giếng, thân người tiều tụy dần dần tụt xuống
như một đống bùn nhão. Người đàn ông dang tay cố lấy thành giếng, mặt ngửa lên
trời, mắt nhìn láo liên, miệng mấp máy liên hồi như giếng sâu đã nuốt đi tất cả tiếng
kêu gào và miệng giếng như đã ngậm lại tất cả tiếng nói của người trở về... Miệng
người đàn ông vẫn mấp máy, đôi tay vun lên loạn xạ. Không còn một âm thanh nào,
một tiếng nói nào... Đôi mắt người đàn ông dại đi vô hồn. Nhớt rãi tứa ra nơi hai khóe
miệng... Bà cụ nhìn lên: bầu trời xanh cao trong vắt...
17.
Con đường đưa lên cổng trại đã hiện ra trước mắt. Người trẻ nhìn người tóc bạc.
Người tóc bạc mỉm cười vẻ cam chịu. Một toán người đang từ con đường nhỏ đi lên.
Một bà già, một cô gái, hai thanh niên thấp nhỏ, rớt lại phía sau một bé trai gầy ốm,
bụng ỏng, da vàng, khuôn mặt già khô, kẻ mang người vác, hẳn đây là những cư dân
trong vùng. Người đàn ông tóc bạc lên tiếng hỏi:
- Cụ ơi, chỉ giúp cho cháu đường ra bến sông...
Bà cụ dừng lại lặng im một lúc rồi mới trả lời như cố gắng để hiểu những âm thanh
nghe được:
- Đi theo tôi...
Toán người đi trước, hai người đàn ông lặng lẽ theo sau. Không một lời trao đổi. Tới
chỗ ngã ba, bà cụ già ngừng lại, chỉ tay về phía trước:
- Đi thẳng đây tới bến sông.
- Cám ơn cụ.
Chưa kịp nghe hết lời cám ơn bà cụ và toán người đã rẽ vào con đường nhỏ phía tay
trái, đằng xa, thấp thoáng sau những ngọn cây mấy mái nhà nhỏ. Người trẻ tuổi thốt
thành lời:
- Về nhà.
Người tóc bạc nhìn sang người bạn đồng hành:
- Về nhà?
- Tôi nói về toán người chúng ta vừa gặp. Họ trở về nhà với con đường quen thuộc.
Tôi với anh cùng tìm đường trở về, nhưng sự trở về của anh khác với chuyến trở về
của tôi: những gì đang đợi?
Tiếng thở dài nghe lạnh buốt. Hai người cất bước mà trước mặt là một con đường
thẳng. Người tóc bạc quay lại nhìn quãng đường phía sau:
- Từ đây đi ngược lên là trở lại trại Z. Nếu biết trước mình đi ngay từ đầu có khi đã tới
bến sông. Cái cổng trại xa hút thế kia...
Người trẻ như nghe thấy tiếng ai nói trong đầu: đã ra khỏi cổng thì đừng nhìn lại nếu
không muốn trở lại đó. Đi và không nhìn lại. Người thanh niên với những bước đi dài
hơn, nhanh hơn...
18.
Từ đâu? Câu chuyện bắt đầu từ đâu? Tại sao lại như thế? Tại sao hàng triệu người nối
nhau bước chân vào những nơi giam hãm? Tội gì? Mình có tội ư? Tiếng kẻng khua.
Những củ sắn. Những đêm tối. Những ngày nắng lửa. Những đêm lạnh cóng run rẩy.
Phảng phất những mảng nhỏ sáng tối nhòe nhoẹt. Những vạt màu chàm. Màu trắng
nhoa nhuếch. Tiếng giọt nước rơi chậm đều trên tấm tôn han rỉ. Những chuyển đổi
không ngừng. Đây là đâu? Vẫn là đất quê hương mình đó chứ? Không lẽ? Không nhìn
để khỏi trở lại nơi ấy. Những người nơi khác cũng giống như thế? Những nơi khác.
những tên gọi khác. Trở về. Chuyến đi ngày nào còn ghi khắc...
Tiếng bước chân, tiếng mở khóa, tiếng cửa sắt kêu nghiến, tiếng xích sắt va đập vào
nhau. Không khí khô đặc lặng câm. Từng bóng người rời khỏi những khuôn cửa sắt.
Từng bước chân thoát nhanh khỏi những hành lang mờ tối. Nền xi măng cứng nham
nhở. Những nét mặt như tượng đá. Hình như không có một cử động nào. Hình như
hơi thở cũng được giữ lại...
Khoảng sân rộng, ánh sáng ngọn đèn vàng nhòe nhoẹt làm cho những khuôn mặt như
giống nhau với chiều ánh sáng, chẳng thể phân biệt ai già, ai trẻ, ai trắng ai đen. Tất
cả chỉ có một màu và những độ đậm nhạt khác nhau của ánh sáng...
Một giọng nói khô lạnh cất lên:
- Nguyễn Văn K... Nguyễn Văn X... ra ngoài, mang theo đồ...
Câu nói như ngắn lại. Đám đông lặng câm như bắt đầu cựa quậy. Vài bóng người di
chuyển, ít tiếng nói không rõ, rì rào những âm thanh côn trùng. Không nghe thấy một
lời trao đổi. Mấy bóng người di chuyển chậm chạp với bị cói trên tay... Tiếng cửa sắt
rú buốt, tiếng xích sắt va đập, tiếng khóa... Những bước chân xa dần rồi mất hút.
Những con mắt nào nhìn ra cửa theo những gót chân khuất ngoài hành lang. Ở xa, nơi
cuối dãy nhà là khoảng sân xi măng. Bao nhiêu mắt đã nhìn và cố gắng ghi nhớ: mấy
bóng người đã đi qua, ngoài những K. những X. là những ai đó đã từng gặp chưa hay
chưa bao giờ gặp? Một giọng nói rõ, tỉnh táo: Chuyển trại, sắp thêm đợt mới.
Những tiếng động vang lên trên những hành lang trong khoảng thời gian ngắn rồi lặng
im trở lại. Nghe như có tiếng một cành khô rơi gãy trên một mái tôn nào. Tất cả như
khóa chặt, như vùi sâu, như hàn kín...
Trong khoảng sân xi măng từng người một lặng lẽ tập trung, người trước người sau
lần lượt xếp thành hàng. Đêm và những ngọn đèn vàng từ trên cao chiếu xuống. Trên
mái nhà, trên những ban công những bóng đen với súng chỉa xuống. Tiếng ho vang
lên từ một người tượng nào?
- Nguyễn Văn K.
- Có mặt.
- Tên cha tên mẹ?
- Nguyện Văn Q. Trần Thị L.
- Lê Văn Đ.
- Có mặt. Cha vô danh. Mẹ Nguyễn Thị B.
- Đặng Đình H.
- Có mặt. Cha vô danh, mẹ vô danh...
Tiếng gọi tên khô lạnh. Những giọng nói khác nhau. Có nhiều Nguyễn Văn Ba,
Nguyễn Văn Tư... Thêm tên cha mẹ như một xác minh. Người ta phát hiện ra trong
đám có cả trường hợp hai anh em ruột cùng đang ở đây. Có những người cha vô danh
và những bà mẹ vô danh...
Khoảng sân đặc kín người. Có mấy tiếng ho. Có tiếng động như một cái lon sắt rơi
xuống mặt sân cứng. Những người mặc đồng phục vây quanh không nghe một tiếng
người.
Người đứng trên cao gọi tên với cuốn sổ cầm tay sau cùng đi xuống chỉ tay đếm từng
hàng người, rồi những chiếc còng được mang tới, hai người chung một còng. Tiếng
sắt, tiếng khóa liên tiếp vang lên. Người cầm cuốn sổ trở lại chỗ cũ, trong yên lặng
tiếng nói vang lên rõ từng tiếng:
- Có ai hỏi gì không?
- Thưa cán bộ...
Một giọng nói yếu và hiền vang lên từ phía góc sân. Có một vài cái đầu động đậy như
muốn nhìn về phía tiếng nói:
- Cái gì?
Im lặng một lúc, một cơn ho từ đâu đó.
- Tôi chưa có còng.
Người cầm cuốn sổ đi xuống, mấy người mặc đồng phục chụm đầu vào nhau. trong
đám người nghe như có tiếng cười ở chỗ nào đó.
- Yên lặng. Trật tự.
Tôi chưa có còng. Tôi không có còng. Tôi mất còng. Mọi người đều có còng sao mình
lại không có còng. Lẻ loi quá, không có tình bầy đàn. Tôi không có còng, tôi không ở
trong đám đông này, tôi bị gạt ra, loại ra khỏi đám đông này. Tôi phải có còng. Tôi ở
trong đám đông này. Tiềm thức hoang dã bầy đàn? Tôi chưa có còng? Sao thế. Bao
nhiêu nhà máy sản xuất súng đạn, bom mìn, xích còng đã được xây dựng? Phải xây
thêm bao nhiêu nữa, sản xuất thêm bao nhiêu nữa cho ai cũng có còng? Chưa hay là
không nhận ra một cái còng hay nhiều còng đã được đeo lên người, từ chân tới tay, từ
đầu tới cổ. Bao nhiêu cái ách đã khoác lên vai như những con trâu con bò đang phải
bước đi trên ruộng bùn lầy lội với cái cày nặng kéo theo. Tôi chưa có còng. Và khi
nào: Chúng tôi chưa có còng? Cho tới lúc ai cũng có một cái còng, khi đó còng để
làm gì? Một vật trang sức?
Lần lượt từng hai người chung nhau một cái còng kẻ tay trái, người tay phải bước lên
xe. Thế là hai con người bổng trở thành cai tù của nhau. Một thằng muốn bỏ chạy ư?
Làm sao chạy, cả hai cùng lòng chạy, nhưng kẻ cao người thấp, kẻ chân ngắn, người
chân dài? Đâu phải chỉ những cái còng không bao giờ bị rỉ sét? Còn bao nhiêu sợi dây
thừng, bao nhiêu sợi dây điện không hư được dùng để trói kẻ này với kẻ khác, thành
một dây, thành một chùm.
Từng hai người một chung một còng bước lên rồi cùng ngồi xuống, sát bên nhau. Tất
cả lặng lẽ, trận tự. Những cánh cửa sắt trên xe đóng lại. Sát cửa, hai người đồng phục
súng cầm tay ngồi ngoài cùng với đôi mắt như không động đậy và da mặt khô cứng.
Tấm bạt nhựa kéo lên phủ kín. Kẻ không có còng lặng lẽ và chậm một mình bước lên
xe sau chót. Tiếng còi ré lên, đoàn xe nổ máy rời khu trại lao vào đêm tối...
19.
Nền trời phẳng một màu xám nặng, bưng bít, ở cuối chân nước trời như một bức
tường. Người tóc bạc giọng buồn nản:
- Không biết có thuyền không?
Người ít tuổi quấn lại chiếc khăn lên cổ nhìn mông về chân trời không một vệt sáng:
- Mong sao sớm về tới nhà...
Hai người bước đi im lặng. Trời câm. Người trẻ tuổi chốc lại ngửa cổ nhìn lên trời.
Người tóc bạc bước đều đầu hơi cúi. Người trẻ nói:
- Từ hồi đó tới nay anh sống ra sao?
Người lớn tuổi vẫn bước đều, đầu cúi:
- Người ta sao mình vậy. Nhưng đâu phải là sống nữa... Thật chẳng ra thế nào.
Những bước chân... vô hồn. Những tiếng nói rời rạc. Tới ngã ba họ rẽ về hướng nam,
sau một đoạn đường ngắn người trẻ nhìn thấy có mấy người đi phía trước.
- Anh có thấy mấy người đi phía trước kia không?
Người lớn tuổi ngừng lại nhìn chăm chú:
- Ba người.
Sau một quãng dài hai người bắt kịp toán ba người đi phía trước ông già thấy hai
người đi chậm lại một chút rồi lên tiếng:
- Hai anh đi tìm bến sông phải không?
Người trung niên tóc bạc giọng mau mắn:
- Vâng, thế còn cụ và hai anh?
- Chúng tôi cũng đang tìm bến sông đây, bão lụt gì lạ quá. Trời thật ác. Anh ở trong
Nam ra?
- Dạ vâng.
- Anh đi du lịch à?
Người trung niên cười thành tiếng:
- Dạ không. Có chút việc trên này chứ đâu có du diếc gì...
Năm người cùng bước đi, những trao đổi về chuyến tìm đường ở nơi đất lạ, về thời
tiết, về sông nước. Người trẻ có chiếc khăn quấn trên cổ quay sang phía ông cụ:
- Bến sông cụ đã tới bao giờ chưa?
- Tôi ở dưới xuôi lên, đâu phải người trong vùng, nào có biết gì đâu. Đi tìm, người ta
chỉ đường cứ thế đi thôi... Lạ nước lạ cái, gặp bão lụt... Cũng chẳng biết có phải con
đường này đưa tới bến sống không nữa, chẳng sao, mình tìm rồi cũng ra.
Người thanh niên gúc gúc cái đầu:
- Có khi nào mình tìm mãi mà không ra?
Ông già cười sảng khoái:
- Có chứ, thế mới thú chứ. Tìm cái gì ra cái ấy có khi cũng chán,
- Vậy có cái gì mà cụ tìm mãi vẫn chưa ra...
Ông cụ à lên một tiếng rồi im.
Toán người tiếp tục bước, ông già nói:
- Đê này chạy dọc theo dòng sông, như vậy tất phải có bến. Nhưng nó nằm chỗ nào
thì phải đi tới. Có sông phải có bến, không có bến... phải có cầu...
Người trung niên vắt cái khăn lên vai, đôi mắt mệt nhọc nhìn về phía trước. người
thanh niên bỗng reo lên:
- Có một cái quán, chắc lần này thì tới bến rồi.
Mọi người nhìn chăm chú và những bước chân như dài và đều hơn. Ông già nói:
- Có bến còn phải chờ thuyền.
Người trung niên tóc bạc nói:
- Người ta cho cháu biết: mưa và lũ lớn thế này, xuôi dòng đa phần là bè, nước lớn bè
dễ đi. Trên thượng nguồn dân buôn tre nứa, gỗ họ đã chuẩn bị từ trước chỉ chờ nước
lớn là xuôi... Một chuyến gỗ quý có khi ăn cả năm không hết...
20.
Quán lá ở bến sông chật những người chờ thuyền xuôi. Họ từ nhiều con đường tìm
tới. Có những người biết rõ bến sông, họ đi và tới, có những lạ phải lần mò tìm đường
mới tới được. Có những người sống tại đây, nhưng có việc không thể chờ nước rút, có
những người không sống ở đây muốn sớm trở về nhà. Tất cả họ thành những người
đồng hành. Những cơn mưa từ ngày này sang ngày khác giữ đám người lại trong chờ
đợi. Những ngôi quán dọc đường cái quan, những cái quán ở bến xe, bến sông thường
có dạng giống nhau, một bà già hay một cô gái nào đó, hoặc một người đàn ông lớn
tuổi. Quán thường bán trà là chính thêm vào đó vài thứ lặt vặt như kẹo, bánh và
những thứ quà rẻ tiền...
Quán nơi nến sông này cũng do một bà cụ bán, bà ngồi sau một cái bàn thấp, phía
trước có một băng ghế dài cùng ít cái ghế đẩu nhỏ. Bà cụ chủ quán nhìn ra ngoài trời,
ngoài đó mưa đều hạt vẫn không ngớt:
- Điệu này mưa chưa biết tới bao giờ mới dứt hạt, nước còn lên, đường tắc còn lâu,
dân sông nước được nhờ...
Giọng nói đều đều như chỉ để nói vậy thôi. Ông già ngồi nơi đầu chiếc ghế dài quay
sang nói với người trẻ có quấn chiếc khăn trên cổ, giọng nhỏ đủ cho hai người nghe:
- Anh ở trong trại Z ra?
Người trẻ hơi gật đầu trong khi nhìn ra trời mưa ngoài cửa.
Giọng ông già như nhỏ hơn:
- Có mấy người đợt này?
Người trẻ giơ lên một ngón tay chỏ. Ông cụ có vẻ hơi ngạc nhiên:
- Một mình anh?... phải lâu mới hết. Người trẻ kéo chiếc khăn ra khỏi cổ gấp lại rồi
dùng lau mặt trước khi vắt cái khăn lên vai. Ông cụ lấy một điếu thuốc châm hút thở
khói ra mù mịt.
Ông già nhìn bà cụ bán quán nói:
- Gần đây có ngôi chùa nào không cụ?
- Có nhưng hơi xa. Cụ muốn cầu tạnh mưa à?
- Nếu cầu được thì cũng nên cầu. Hình như ở trên này cũng ít chùa...
- Tại cụ không để ý thôi, lại nữa cái thì bị bom, cái thì bị đốt, cái bị phá, cái đem dùng
làm nhà kho, trụ sở cơ quan... Tượng thì chẻ làm củi, nơi nào tử tế thì bỏ xuống giếng
xuống ao... Làng nào mà không có chùa. Thế cụ đi tìm chùa à?
- Dạ không...
- Hay cụ định đi ở chùa?
- Tôi làm gì có căn tu mà ở chùa, chẳng là có người quen bảo tôi nếu lên trên này thì
ghé nhà chơi, nhà họ ở gần chỗ Vô Phật Tự.
- À vậy thì tôi biết, nhưng người ở đây thì quen gọi đó là chùa Chuông.
- Chùa nào mà không có chuông. Nhưng sao lại gọi là Vô Phật Tự, chùa không có
Phật thực sao?
Bà chủ quán giọng dứt khoát:
- Có đấy.
Người thanh niên chen vào:
- Có đấy là sao? Chùa không có Phật? Chùa không có Phật thì thờ gì?
- Thờ Phật. Vậy cậu bảo chùa thờ gì, thờ cậu à?
Ông già cười một cách khoái trá, tiếng cười như vang động cả một vùng yên ắng. Sau
khi cười ông già gúc gúc cái đầu:
- Thờ Phật mà không có Phật.
Người thanh niên đứng lên:
- Chùa không có Phật có còn là chùa không?
Mọi người trong quán đều ồ lên cười. Cụ già nói thủng thẳng:
- Thế Phật không có chùa thì có là Phật không?
- Tôi có thấy một ông Phật không có chùa.
Người trung niên nói một cách từ tốn. Người thanh niên nhìn người trung niên nói:
- Chùa không có Phật, bây giờ tới Phật không có chùa. Tôi chẳng hiểu gì cả.
Người tóc bạc giọng chậm rãi:
- Sự tích như thế này: một người giàu có lại thêm có miếng ruộng lớn muốn làm một
ngôi chùa trên đó, không rõ nguyên do việc này. Chùa phải xây lớn, vì thế Phật cũng
phải lớn, không lẽ chùa lớn mà Phật nhỏ. Người lo xây chùa cho nhà giàu kia mới nói
với người bỏ tiền là muốn vậy phải đúc tượng trước khi xây chùa. Công việc được
khởi đầu, kẻ thì lo đào ao đắp nền, người thì lo đắp tượng. Làm xong tượng, tường
khuôn viên mới xây nửa chừng thì chiến sự lan đến mỗi lúc một ác liệt. Việc xây chùa
phải ngưng lại. Nhưng những quãng thời gian im tiếng súng thường không được lâu.
Vì thế việc xây chùa coi như phải ngừng. Rồi chiến tranh ác liệt, cả một vùng rộng
lớn trở thành chiến địa. Dân chúng trong vùng lần lượt kéo nhau bỏ đi để lại ruộng đất
hoang hóa. Ngôi chùa nằm ngay trong vùng tranh chấp. Giữa cánh đồng bỏ hoang:
tượng Phật, mấy bức tường khuôn viên xây dở dang, mấy đống cát, mấy đống đá,
những chồng gạch cao trở thành những công sự, nơi ẩn lấp mà bên nào cũng muốn
chiếm giữ trong khi giao chiến. Họ lần lượt thay nhau, người trong bắn ra, người
ngoài bắn vào, dần dần những bức tường sụp đổ, những đống gạch đá mỗi lúc một
thấp dần, và ở đó hẳn nhiên có những người đã đổ máu, chẳng bên nào không có. Khi
cuộc chiến tàn, dân chúng trong vùng trở về, họ thấy pho tượng trắng vẫn đứng trên
cánh đồng không có một vết đạn. Không lẽ đạn có mắt mà tránh? Không lẽ hai bên đã
thỏa thuận không bắn vào pho tượng? Hay pho tượng đã có phép thiêng tránh được
đạn? Người dân bảo nhau: Phật này thiêng. Người xây chùa không thấy trở lại. Dân
chúng trong vùng thì nghèo, họ sống trong những mái nhà tranh, lo ăn còn vất vả đâu
có thể nghĩ tới việc xây tiếp ngôi chùa. Nhưng cũng từ đó mỗi khi người dân đi ngang
qua, hay đi làm đồng gần đó bao giờ cũng kính cẩn ngả nón hoặc ngừng lại ít phút
chấp tay khấn vái... Sau đó người ta kể với nhau về người này được Phật giúp, người
khác được Phật cứu. Câu chuyện cứ thế lan truyền. Người tới lễ Phật mỗi lúc một
đông, nhiều người ở những vùng xa cũng tới cầu phước. Thế là dưới chân tượng Phật,
giữa cánh đồng xuất hiện một bàn thờ với lư hương lúc nào nhang đèn cũng nghi
ngút. Chùa chưa được xây nên không có tên gọi. Cũng không biết từ đâu người ta gọi
đó là Phật Cô Đơn. Khi nói người ta bảo: đi lễ Phật Cô Đơn, cũng như đi lễ chùa...
Nói tới Phật Cô Đơn ở miền nam thì ai cũng biết... Sau này vào những ngày rằm
mồng một số người đi lễ rất đông.
Những người ngồi trong quán im lặng lắng nghe. Nhưng nét mặt mỗi người một khác.
Những mường tượng riêng về hình ảnh một pho tượng Phật đứng giữa cánh đồng
mênh mông từ những ngày chiến tranh cho tới nay. Giọng cụ già vang lên:
- Phật không cần chùa...
Bà cụ bán quán nói:
- Bao nhiêu năm rồi tôi chẳng được nhìn mặt một ông Phật nào. Mới đây nghe nói ở
mạn dưới người ta mới đào được bao nhiêu là Phật lớn nhỏ...
Người thanh niên nói:
- Sao cụ không xuống khênh về một ông mà nhìn mặt.
- Cái cậu này...
- ... Ý cháu muốn nói, mang về thờ nơi chùa không Phật.
- Đã là chùa không Phật, nay lại mang Phật về, thật chẳng ra làm sao...
Mọi phá lên cười. Bà bán quán cũng cười một cách thoải mái. Bà bán quán nói:
- Chùa không Phật như vậy đâu đã hết chuyện, còn cái chuông đá ở chùa đó. Cho nên
tôi đã bảo, cái chùa này dân ở đây gọi là chùa Chuông đâu có chữ nghĩa để gọi một
cách khó khăn nào là tự, nào là vô...
Bà bán quán ngừng lại lấy thuốc cho một người khách bà nói tiếp:
- Chùa nào mà không có chuông, người ta gọi chùa Chuông có lẽ vì cái chuông đặc
biệt của chùa này: nó là chuông đá mà người mình ngày xưa đã khiêng ở tận bên Tàu
về. Tôi, chính tay tôi hồi nhỏ đã được sờ lên cái chuông đá đó. Muốn đánh chuông
phải có mấy người cùng nhau đu một cái chày bằng cả một thân cây lớn. Chày va vào
rốn chuông nhưng phải ít giây sau mình mới nghe thấy tiếng ngân vang của nó. Người
ta bảo tiếng chuông ấy vang tận bên Tàu, nơi đã làm ra cái chuông người dân vẫn
nghe được tiếng chuông đá. Nguyên chuông này ở một cái chùa bên Tàu, cái hồi vua
Nam đánh đuổi Tàu, giặc thua bỏ chạy thoát thân, khiến dân Tàu sống ở vũng biên
giới Lưỡng Quãng với ta kinh hồn khiếp đảm. Già trẻ lớn bé kéo nhau chạy sâu vào
nội địa nhiều dặm. Cả vùng biên giới không một bóng người. Quân Nam tràn sang
thấy gì lấy đó, từ con chó, con mèo bắt được cũng không tha. Có toán quân tới sau
chẳng có gì để lấy làm chiến lợi phẩm, họ tìm kiếm lục lọi nhưng vô ích, sau họ thấy
trong ngôi chùa còn một cái chuông lớn, họ tưởng chuông đồng nên hè nhau khiêng
về... Khi đứng bên chiếc chuông đá to lớn, tôi lấy làm lạ là: làm cách nào những
người lính ấy có thể mang được quả chuông ấy về đây... Hay đó chỉ là tưởng tượng
chứ thực sự quả chuông là của người mình làm từ lâu mà không ai biết? Tôi nghe
người ta nói: Lúc ấy quân ta khiêng về đưa mãi vào tận phía nam, mà nơi đến là Phú
Xuân, nhưng đám lính ở Thanh Nghệ không chịu, toán lính đàng trong không đủ sức
khiêng cái chuông đi tiếp nên phải bỏ lại ở bên này đèo Tam Điệp. Thế là quả chuông
nằm lại đó. Vua Tàu thua trận lòng vẫn căm giận và mưu ngày xâm lăng nên sau đó
đòi vua ta trả chuông như một cái cớ. Để tránh binh đao, lại biết nước mình nhỏ, sức
yếu, để tỏ lòng hòa hiếu vua ta đã khôn ngoan nhún người bằng tìm người giả đóng
vai vua sang triều cống, hơn thế còn xin làm con rể và xin cái chuông làm của hồi
môn. Vì thế vua tàu không đòi chuông và bỏ cuộc xâm lăng. Nhưng đến vua triều sau
khi cử quan sang xin phong vương, vua Tàu lại làm khó: phải mang trả chuông đã lấy
năm xưa. Vua ta phải đôn đốc binh lính đưa chuông sang Tàu, nhưng chỉ tới vùng đất
này thì bỏ lại... Thế rồi sau này lại có vua Tàu khác đòi chuông. Vua ta bực tức vì biết
đó chỉ là cái cớ gây khó khăn. Trong lúc mất bình tĩnh vua ta bảo: sang mà lấy. Thế là
vua Tàu ra lệnh cho binh lính tràn qua nói là: để dạy cho một bài học... Tôi kể không
biết có đúng không. Nghe sao kể vậy, lại nữa tôi là đàn bà quê mùa, không được đi
học nên có khi nghe chuyện cũng không thủng, và nhớ cũng không rõ nhưng đại để là
như thế... Sau này tôi thấy có một toán người Tàu tới chùa để coi cái chuông đá. Họ
mang theo nhiều dụng cụ lạ lắm. Cán bộ bảo những chuyên gia tới khảo sát cái
chuông trước khi đưa chuông về Tàu. Họ chụp ảnh, họ đo trên đo dưới, họ còn tính
cân nữa nhưng không làm sao nhâng lên được. Họ đánh chuông từ nhiều chỗ có ghi
âm và quay phim. Nghe nói Tàu sẽ mang chuông đi, có nhiều người phản đối, họ nói
chuông ở đây từ lâu rồi, lấy đâu bằng cớ mà nhận. Nhưng cũng có người bảo: quý báu
gì quả chuông đá đó, muốn có người mình dư sức làm cả trăm quả như chơi. Nhưng
cho tới nay quả chuông vẫn ở đó. Sau tôi có theo nhiều người lên lễ và coi chuông thì
thấy chuông bị sứt mất một miếng ở dưới mép, còn hai rốn chuông thì bị khoan mất,
hai lỗ khoan đối diện nhau nắm tay bỏ vào được. Bây giờ đánh chuông, chuông không
còn kêu nữa. Có người bảo: chủ ý là bọn Tàu nó không muốn cho chuông kêu, nó chỉ
yểm chuông thôi chứ hơi đâu mà nó khiêng cái cục đá ấy về Tàu làm gì cho mệt. Có
người thì bảo Tàu nó thâm lắm, để cái chuông đó để sau này còn lấy cớ làm khó, hoặc
xâm chiếm nước ta. Nó cứ vu cho mình là sang bên lấy chuông, lấn đất, nó to mạnh
thì nó cần gì lẽ phải. Những chuyện tôi nói các ông đã nghe bao giờ chưa?
Bà bán quán ngừng lại uống một ngụm nước. Người thanh niên đứng lên nói:
- Chuông mà đánh không kêu thì có còn là chuông không? Đập phứt nó đi cho rồi,
như thế là hết rắc rối.
Ông già giơ tay lên như một cử chỉ can ngăn:
- Thế không được, biết đâu có người... làm cho nó kêu được...
Về cái chuông đá người nói thế này, người nói thế khác, có điều chỉ có mình bà bán
quán nói là mình đã thấy, đã sờ lên chuông. Người đàn ông trẻ có chiếc khăn quấn nơi
cổ nói:
- Tôi hỏi: Có Vô Phật Tự và quả chuông đá hay không?
Những người trong quán mỗi người nói một tiếng làm cho không khí ồn ào hẳn lên.
Có một người đàn ông nói lớn át cả những tiếng bàn tán:
- Tôi có nghe chuyện một cái chuông câm...
- Cái chuông đá không kêu nữa thì thành chuông câm cứ gì?
- Không phải...
Ông già nói chen vào:
- Tôi định lên chùa Chuông đây, trăm nghe không bằng mắt thấy. Có ai đi không? Tôi
tính kiếm một cục đất sét lên nhét vào hai lỗ khoan của bọn Tàu. Chưa chừng khi ấy
đánh chuông, chuông kêu làm váng óc cả thiên hạ cũng không chừng... Biết đâu được.
Bà bán quán nhìn ra trời mưa:
- Mưa gió thế này có phải tội mà đi. Chuông kêu hay không có chết ai đâu?
- Tôi có nghe chuyện một quả chuông câm.
- Nhưng chuông có điếc không? Bởi vì câm với điếc thường đi đôi với nhau. Câm mà
không điếc thì khốn khổ lắm.
- Người ta kể rằng: có một ngôi chùa kia đúc một quả chuông lớn, quả chuông đúc
xong đánh không có tiếng. Những người thợ đúc tính nấu nó ra đúc lại, nhà sư trụ trì
ngăn lại và bảo họ đúc một quả chuông khác. Quả chuông này đúc xong tiếng chuông
rất tốt. Ngôi chùa treo hai cái chuông lên gác tam quan. Những người đến chùa được
hướng dẫn: ai câm và điếc thì đánh quả chuông không tiếng. Còn người bình thường
thì đánh quả chuông tiếng tốt. Những người tới chùa ai cũng hài lòng, những người
câm và điếc rất thích tới chùa để đánh chuông... Một lần có người không câm điếc
nhất định đòi đánh chuông không có tiếng. Vị sư chiều lòng,. người này đánh chuông
xong đi xuống. Vị sư mới hỏi: Phật tử nghe thấy tiếng chuông thế nào? Người đó bình
thản nói: tiếng chuông ngân vang thật là tuyệt diệu, nhưng tiếng chuông đó chỉ có
mình tôi nghe thấy. Vị sư trù trì liền lên gác chuông lấy chày đánh quả chuông không
có tiếng. Đánh mãi vị sư cũng không nghe thấy tiếng chuông Vị sư trở xuống, cởi bỏ
áo tu hành và rời khỏi chùa. Ít lâu sau những người tới lễ chùa, đánh vào quả chuông
nào cũng nghe có tiếng chuông ngân vang không khác gì nhau... Mọi người cho đấy là
điều lạ...
21.
Cơn mưa ngớt hạt dần dần rồi tạnh hẳn, bầu trời sáng hơn, gió thổi nhẹ. Mấy người
ngồi trong quán quá lâu đã thấy tù cẳng nên kéo nhau ra ngoài trời. Người thanh niên
mặc đồ lính bước ra phía xa làm mấy động tác thư giãn. Một bên là mặt nước mênh
mông, một bên những làng xóm xa xa ướt át... Người thanh niên hét lên một tiếng lớn
kinh động rồi nhảy người vào thế đi một bài quyền...
- Hay, hay, thủ kín, công nhuyễn...
Nghe nói người thanh niên ngừng lại nhìn về phía người trung niên tóc bạc:
- Thủ với công gì, bài quyền tôi học của cha tôi hồi nhỏ...
Mấy người ở trong quán đã ra ngoài hết. Một thanh niên nói:
- Nơi này dùng luyện tập võ nghệ thì thật tuyệt, chẳng ai nhòm ngó...
- Ý cậu nói: luyện tập để làm giặc à?
Người đàn ông trung niên tóc bạc cười khà:
- Thời nào thì được chứ bây giờ nho nhoe là chết tươi. Làm giặc mà trông vào mấy
đường quyền cước à? Xưa rồi ông cố nội ạ?
- Ủa thế luyện võ nghệ để rèn luyện cơ thể, để phòng thân không được sao?
Người thanh niên nói với vẻ phấn khởi làm những người chung quanh im lặng, người
trung niên tóc bạc nhìn người thanh niên với vẻ thân ái:
- Thế cậu đã có khi nào học võ chưa?
- Có, lúc ở trong quân ngũ.
Mọi người ồ lên cười. Người thanh niên cũng cười. Người trung niên vỗ vai người trẻ:
- Đúng rồi, nhưng nhiều loại võ lắm... Để ca tụng một người nào đó hồi xưa người ta
thường nói: ông ấy văn võ song toàn. Có văn nhưng phải có võ nữa. Văn không chưa
đủ...
- Đúng rồi, vì thế tôi có nghe kể là ông Chu Văn An có được một môn sinh khuyên đi
học võ.
- Anh nói Chu Văn An nào?
- Cả nước Nam này người ta nói tới ông Chu Văn An được thờ ở Văn Miếu nơi đất
Thăng Long, có một Chu Văn An ấy thôi chứ làm gì có một Chu Văn An nào khác?
Chu Văn An, một đại nho gia đã từng dâng Thất – trảm – sớ, từng bỏ quan về dạy
học, học trò thì có người làm tới tể tướng.
Người thanh niên rụt rè hỏi:
- Nhưng Thất – trảm – sớ là gì vậy?
- Sớ đòi vua chém bảy tên quan hại nước hại dân.
- Trời ơi, bảy tên bị chết chém, khiếp quá.
Những người chung quanh cười ồ, một người nói:
- Vua có chém đâu mà chết, vì thế Chu Văn An mới cởi áo từ quan. Ông là tiến sĩ, có
đức độ, học trò có nhiều người làm quan to trong triều, lúc chết vua cho thờ trong Văn
Miếu cùng với Khổng Tử và các bậc tiên hiền.
- Những tiên hiền nào vậy? Có ông nào ở làng tôi không?
Một giọng hào hứng:
- Nhưng ở làng nào mới được chứ?
- Làng tôi nổi tiếng lắm, đó là làng Giã La. Cái tên làng đã vào trong ca dao: Bơi
Đăm, rước Giá hội Thày. Vui thì vui thật chẳng tày Giã La.
Cả đám cười vang như chưa bao giờ được cười như thế. Một giọng hào hứng khác
vang lên:
- Có đấy, Giã La tiếng tăm lừng lẫy như vậy tất phải có tiên hiền thôi. Anh mau về
kêu cả làng ra Văn Miếu ở Thăng Long mà khiêng tiên hiền về không bọn khác nó
khiêng mất thì chết...
Khi những tràng cười đã dứt, một người nói:
- Tôi được nghe kể như thế này: Sau khi từ quan về nhà dạy học. Một hôm Chu Văn
An đang ngồi trong lớp thì có một thanh niên bước vào thi lễ. Chu Văn An hỏi: có
việc gì? Anh ta lễ phép thưa: xin thầy cho nhập môn theo học. Chu Văn An chỉ sang
bên có sẵn thư án và bút mực và nói: Anh hãy làm cho ta một bài văn xem sức học tới
đâu. Người thanh niên vòng tay thi lễ và nói: xin cho phép tiểu sinh đi một bài quyền
thầy coi. Chu Văn An sửng người ngạc nhiên thì người thanh niên đã nhảy ra sân
ngay trước lớp học và bắt đầu đi một bài quyền: dáng điệu nhanh nhẹn, thanh thoát,
chân tay thuần thục nhuần nguyễn, khi tiến tới khi lui về nhịp nhàng, khi sang phải lúc
sang trái liên tục biến hóa... Đám học trò trong lớp đứng cả dậy, rời chỗ tạo thành một
vòng tròn quanh người thanh niên. Khi bài quyền vừa dứt, mọi người vỗ tay tán
thưởng. Nơi cửa Khổng sân Trình bỗng mất ngay đi vẻ trang nghiêm thường ngày.
Người thanh niên bước tới trước mặt Chu Văn An cúi đầu thi lễ: Liệu tiểu sinh có
xứng để làm học trò của thầy? Chu Văn An nói: Ai đã chỉ anh tới đây xin học? Không
lẽ người ta lại lầm từ một lớp học văn sang một lớp học võ? Người thanh niên khoanh
tay trước ngực lễ phép thưa: thưa Thầy, con lớn lên ở nơi thôn ổ, xa kinh thành. Nơi
quê chỉ họa hoằn mới có người biết đôi ba chữ. Nhưng để khỏi chết oan ức vì thú dữ
và bọn côn đồ thì người nào cũng học lấy vài miếng võ phòng thân. Lại nữa: ông cha
bảo: không có sức khỏe làm sao chống được giặc Nguyên Mông. Ở xa con nghe nói
Thầy đã dâng sớ đòi chém bảy tên nịnh thần lừa vua, hại nước. Con thấy đó là thầy
mình mà tới xin thụ giáo. Trong ngụ ý con lại nghĩ: khi dâng sớ hỏi tội bọn quyền
gian sao thầy không dâng thêm một thanh gươm?
Sau đó, theo như kể lại Chu Văn An đã đóng cửa lớp học. Có người lại nói: đám môn
sinh bỗng nhiên bỏ học, kẻ về quê đi cày người theo học võ trong rừng khiến Chu
Văn An chẳng còn ai để dạy nên lui về Chí Linh rồi chết ở đó...
Người thanh niên nói:
- Ngày xưa sao nhiều người không làm quan mà đi dạy học thế không biết, mà chẳng
nghe nói gì về học nghề?
Người trung niên tóc bạc:
- Có học nghề đấy chứ, chính Chu Văn An cũng học nghề làm quan đó thôi. Mình
không làm quan nữa thì dạy người khác làm quan. Cả một đời đi học cốt ở làm quan
mà sống. Không đi làm quan lấy gì ăn? Đi học, chỉ có ba chữ giắt lưng, không hạnh
thông trên đường hoa hoạn sinh ra bất mãn, thế là họ làm thơ, làm phú... Nho sĩ của
ta, những người theo đảng của Khổng Khâu luôn luôn tuân thủ tam cương, ngũ
thường, và những điều răn dạy khác như tiên học lễ hậu học văn, tôi trung không thờ
hai vua... Can gián, dâng sớ, làm bản điều trần, viết kiến nghị đi ở ẩn... là những hành
động cao nhất nho sĩ của ta còn để lại. Mấy ngàn năm không thấy một nho sĩ nào cầm
gươm bước lên chín bậc mà lôi cổ những tên hôn quân, bạo chúa khỏi ngai vàng.
Ngược lại, rất nhiều kẻ có học để lại tên tuổi ở cương vị là những bầy tôi trung thành,
nhiều chữ, lắm thơ phú. Kẻ có học những bầy tôi trung thành, nhiều chữ, lắm thơ phú.
Kẻ có học trước sao sau vậy cứ cầm lấy bút, hoặc mở miệng ra là: Khổng tử viết,
Mạnh tử viết, Mao tử viết, Mã khắc tử viết...
Một người nói:
- Sự nghiệp... Chu Văn An để lại trong lịch sử là gì? Là bản Thất trảm sớ nhưng vua
không dùng. Dạy được nhiều học giỏi để làm quan. Ông có xây dựng được một
trường học nào không? Không, ông có tác phẩm học thuật nào xuất sắc không?
Không, chỉ còn ít bài thơ chữ Hán. Có đào được một con kinh nào không? Không.
Còn con cháu ông? Không nghe nhắc đến. Một người được nói tới nhiều thế mà sao
con cháu nhiều đời lại không có tiếng tăm gì? Không lẽ ông dạy thiên hạ học mà lại
không dạy con cháu mình?
Một người nói:
- Tôi có biết một người họ Chu, người họ Chu này làm nghề đóng cối xay lúa. Tôi hỏi
về tổ tiên của anh ta. Anh ta bảo: dòng họ anh không có gia phả. Anh biết rõ từ đời
ông nội, một ít điều về tổ tiên trước đó do ông nội kể. Nghề của anh do cha truyền con
nối không rõ tổ là ai. Tôi hỏi thế trong dòng họ anh có ai học hành, đỗ đạt làm quan
hay dạy học không? Anh ta nói không nghe nói. Nhưng về chữ nghĩa thì anh ta gật gù
nói với tôi: chữ nghĩa ư, có đấy, ông tôi thường mở lịch Tàu ra coi ngày cho người ta
làm nhà, cưới hỏi. Cha tôi biết chữ để ký tên vào văn tự. Tôi cũng biết viết tên mình.
Người ta gọi tôi là Chu Phó Cối, đó là tên người ta đặt cho tôi chứ không phải tên thật
của tôi. Tôi được ông nội đặt cho là Chu Đức Bành. Chả là thế này: đêm tôi lọt lòng
mẹ, ông tôi ngủ nằm mơ thấy gặp ông Bành Tổ, thế là ông tôi đặt tên tôi là Bành. Sau
có người bảo tôi: sao không đặt là Chu Bành Tổ nghe có phải oai phong lẫm liệt
không? Nhưng lúc nhỏ ở trong nhà có có ai gọi tôi là Bành là Biếc gì đâu, mọi người
gọi tôi là thằng Bòi. Khi lớn, theo nghề đóng cối từ làng này sang làng khác người ta
gọi tôi là phó cối, chắc cũng như phó cạo, phó đục, phó thường dân... Có người biết
tôi họ Chu liền gọi là Chu Phó Cối rồi cười. Trong đời đi đóng cối xay tôi có nhớ một
người. Ông ta làm nghề bán niêu đất, nồi đất. Ông ta bảo: nghề của anh có ích cho
đời, quý lắm. Chỉ với mấy cái dăm tre, ít đất sét với bàn tay khéo léo mà làm thành cái
cối, biến hạt thóc thành hạt gạo. Đâu phải ai cũng làm được... Nghe nói vậy tôi thích
lắm. Người có ích cho đời mà, thật nở gan nở ruột. Ông ta hỏi: vậy tổ nghề cối xay là
ai anh biết không? Tôi lắc đầu nói không biết. Người bán nồi niêu có vẻ không bằng
lòng nói: nghề phải có tổ, người phải có tông, vậy anh họ gì. Tôi nói tôi họ Chu.
Người bán nồi niêu hơi sững lại có vẻ ngạc nhiên hỏi: Vậy anh cùng họ với Chu Văn
An à? Tôi nói: tôi không rõ, vậy ông Chu Văn An là tổ nghề đóng cối xay lúa sao?
Ông bán nồi niêu đầy vẻ thất vọng: Không phải, chắc anh họ Chu khác không phải
cùng họ với Chu Văn An. Bởi không lẽ hậu duệ của một đại nho gia mà con cháu lại
làm nghề đóng cối xay...
Mấy người đứng nghe câu chuyện kẻ nói thế này, kẻ nói thế khác. Người thanh niên
nói với ông già:
- Học tới tiến sĩ đâu phải chơi. Nhưng nếu có người dạy cho cháu nghề đóng cối xay
nữa?
Ông già và người thanh niên trở vào quán. Cơn mưa đổ xuống như trút, những người
còn ở ngoài chạy ùa ra cả vào trong quán. Bà bán quán nói:
- Mưa kiểu này nước còn lên, chưa biết tới bao giờ đường mới hết tắc. Chết cả thôi,
trời ác thật.
Người thanh niên nhìn bà bán quán:
- Vậy liệu có thuyền không?
- Chẳng biết được, mưa lớn họ cũng sợ, phải dứt mưa mới hy vọng.
Ông già mỉm cười nhìn người thanh niên. Người thanh niên đưa mắt nhìn những
người chung quanh: Người trung niên tóc bạc đang cầm một đầu chiếc khăn quàng
của người trẻ. Một người ngồi dựa lưng vào vách, đầu gối để cao, chiếc mũ đậy lên
mặt. Mỗi người một góc... Những khuôn mặt vừa quen vừa lạ. Người thanh niên nói:
- Kỳ thật, sao lại hẹn với nhau ở đây?
- Hẹn? Ai hẹn ai? Mỗi người đi một đường, mỗi người tới một nơi...
- Vậy mà chưa chừng sau này có lúc gặp nhau cũng có...
Ở một góc quán, giọng ai kể thơ Nam bộ vang lên:
- Dầu đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ
Dầu đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình
.............
Sáng chi sàm nịnh theo đời
Nay vinh mai nhục...
Người thanh niên quay sang ông già:
- Thơ ai cụ biết không?
- Thơ cụ Đồ Chiểu chứ ai nữa.
- Ông già khóc mẹ tới mù mắt phải không? Đã mù rồi sao còn ham làm thơ chi không
biết... Sau này không nghe nói có ai khóc mẹ tới mù nữa nhỉ, chỉ thấy nói những bà
mẹ khóc con.
- Bây giờ không phải là thời con khóc mẹ nữa mà là thời mẹ khóc con, vợ khóc
chồng... Bây giờ ít ai mù mắt nhưng nhiều kẻ mù đầu. Thiếu gì kẻ mù vì khóc, nhưng
khóc người dưng nên chỉ mù đầu thôi...
- Cụ nói gì cháu chẳng hiểu...
Cụ già lặng im. Bỗng có tiếng người nói lớn ở ngoài:
- Có bè lớn...
Ông già và người thanh niên đứng ngay dậy, mấy người khác túa ra khỏi quán, những
con mắt hướng cả về bến sông. Rất xa, phía thượng lưu một bè gỗ lớn đang lao theo
dòng chảy. Mưa mù mịt, chiếc bè như nhòe đi...
Màn mưa dày từ trong nhìn ra chỉ thấy một màu trắng đục. Người thanh niên đứng tựa
nơi cửa quán nước nói bâng quơ:
- Chẳng hy vọng.
Bầu trời tối dần đi.
Từ màn mưa hai bóng người xuất hiện nơi cửa quán. Những con mắt ngạc nhiên nhìn
cả ra cửa: một người đàn bà và một bé gái đứng run rẩy, nước đẫm trên người đang
chảy xuống thành vũng dưới chân. Bà bán quán chạy ra:
- Trời ơi, sao thế này...
Người đàn bà một tay vuốt mặt, một tay giữ lấy tay đứa bé giọng run rẩy:
- Dạ trời mưa...
- Ai chẳng biết trời mưa... vào đây... vào đây cho khuất gió...
Người đàn bà ngập ngừng dùng cả hai tay vuốt từ đầu tới người đứa bé cho nước chảy
xuống chân rồi tự tay vuốt nước trên người mình. Sau khi vắt khô chiếc khăn mặt nhỏ,
người đàn bà dắt đứa nhỏ vào một góc quán. Bà bán quán nói:
- Giờ này mà mẹ con chị còn làm gì ở ngoài mưa?
- Dạ đi về quê nhưng bị đắm đò...
- Đắm đò sao tới đây được?
- Dạ nhờ mấy anh đi bè vớt... Mưa to, gió lớn, nước chảy xiết... mấy anh ấy sợ nguy
hiểm không cho theo bè bắt phải lên bờ...
Bà bán quán rót một bát nước nóng đưa cho người phụ nữ. Chị ta ngập ngừng:
- Dạ, cháu không còn tiền... đồ đạc nước cuốn mất cả...
- Trời ơi, bát nước đáng mấy vạn... còn người là phúc rồi, tôi đãi mẹ con chị có được
không. Tội quá đi mất.
Người phụ nữ khóc nấc run cả người trong khi đưa tay đỡ lấy bát nước. Đứa nhỏ vẫn
còn run rẩy vì lạnh đứng nép vào người mẹ. Những mắt nhìn ái ngại.
Bà bán quán hỏi:
- Thế quê chị ở tận đâu?
- Dạ dưới xuôi...
Người phụ nữ bưng bát nước uống một ngụm rồi đưa cho đứa con, giọng chị nghẹn
ngào đầy nước mắt:
- Chẳng là vợ chồng cháu nghèo quá có người tới nhận đứa con gái lớn đây đưa lên
trên này giúp việc nhà, người ta trả trước cho một ít tiền, ai ngờ họ đem bán cháu sang
bên kia...
Bà bán quán lớn tiếng:
- Hóa ra chị mang con đi bán, trời đất...
Chẳng có một tiếng động, người phụ nữ òa khóc hai tay bưng lấy mặt.
- Tội cho con bà ơi, con mình đẻ ra sao mà ăn thịt nó được... Nhờ trời may sao khi
bọn buôn người đẻ ra sao mà ăn thịt nó được... Nhờ trời may sao khi bọn buôn người
đưa cháu vượt biên thì chuyện vỡ, biên phòng giữ được cháu và nhắn lên đưa con về...
Bà bán quán miệng vẫn còn mở như định nói tiếp nhưng bỗng khựng lại nhìn người
phụ nữ với vẻ dịu dàng hơn. Có một giọng nói đều khàn khàn:
- Chị là đại phúc đó, tôi nghe nhiều rồi, cả ngàn người bị bán đi chứ ít đâu, coi như
chết... cái thời chi lạ...
Tiếng mưa đổ sối sả trên mái quán, tiếng gió rít, thỉnh thoảng tiếng sấm và chớp giật
sáng lên trong giây phút. Những người trong quán như thu nhỏ mình lại. Không một
tiếng nói. Đêm sâu dần...
22.
Bầu trời đục nhờ nhờ như liền với mặt nước mênh mông. Ánh sáng mặt trời không đủ
sức thoát ra khỏi những lớp mây nặng và thấp. Nước đã mấp mé mặt đê...
Đám người trong quán nước theo nhau bước ra ngoài, đứng trên đê nhìn mặt nước trải
rộng trước mặt. Những bước chân di động chậm, rời rã. Không bóng dáng một con
thuyền, một bè gỗ lớn xuất hiện, hình như sức nước đẩy bè gỗ trôi nhanh một cách
khác thường, thoát cái đã mất dấu khiến cho người ta tưởng nó đã bị con nước nuốt
mất không xa ở phía trước.
Bà chủ quán từ phía trong đi ra, hai tay vấn cao mớ tóc bạc. Bỗng bà kêu lên hốt
hoảng:
- Nhìn kìa, có phải một chiếc thuyền đang trôi không?,,, Giời ơi... người đâu cả rồi mà
chỉ thấy chiếc thuyền không?
Tiếng bà vang lên trong không khí im lặng. Không một lời đáp. Những con mắt đang
chú mục vào chiếc thuyền đang vật vã trên mặt sóng với con nước hung hãn. Bà bán
quán nhìn trời, nhìn mặt nước sông, nhìn từng nét mặt bơ phờ... Có tiếng ai đó rời rạc,
ngắt quãng:
- Lênh đênh qua cửa Thần Phù
... thì nổi ... thì chìm...
GIA ĐỊNH 1994
KẺ KHẮC MẶT QUỶ
I.
Ở Lý Ô có dòng họ Đồng làm nghề chạm khắc nổi tiếng một vùng, nhưng có ai hỏi
Đồng Cát Sỹ, người trưởng họ về nguồn gốc của nghề, ông cũng không tường tận.
Ông bảo: thoạt kỳ thủy đâu như các cụ tổ nhà chúng tôi làm nghề đẽo cày, cuốc, đóng
bàn ghế. Ở nhà thờ họ hiện còn một cái hương án, một cái ngai thờ của một cụ tổ làm
ra coi như gia bảo lâu đời nhất... Nghề này đâu có bí truyền hay sách vở gì, chỉ là cầm
tay chỉ việc, cha truyền con nối. Trong các cụ tổ cũng có nhiều người đi học, nhưng
chẳng thấy nói đỗ đạt gì, lại nữa trong số còn có cụ đã từng đi ăn cướp vậy mà sau
theo nghề cũng trở thành một tay thợ cả tiếng tăm... Cứ như thế hết đời này sang đời
khác. Nhưng không phải ai trong dòng họ cũng theo nghề.
Đồng Cát Sỹ sinh được bốn người con trai. Ngay từ nhỏ ông đã cho các con đi học
chữ. Ông bảo: làm nghề gì đi nữa thì ít ra cũng phải biết viết tên mình, đọc được cái
văn tự. Người con cả là Đồng Hạo Thiên được cha gửi qua học chữ bên nhà họ Danh,
một dòng họ có năm đời tiến sĩ, nổi tiếng khoa bảng một vùng. Hạo Thiên thông
minh, học đâu nhớ đó, được thầy yêu. Có lần thầy đồ nói với Đồng Cát Sỹ chắc đến
đời con ông thì họ Đồng có người làm quan. Năm 18 tuổi Hạo Thiên thi đỗ đầu xứ,
hay chữ nức tiếng trong vùng. Nhưng đột nhiên Hạo Thiên khăn gói trở về nhà, bỏ
đường khoa hoạn. Ông bố sửng sốt, thầy đồ ngạc nhiên, gặng hỏi lý do, Hạo Thiên
thưa: Con chịu ơn thầy đã khai trí cho. Học chữ, hiểu được nghĩa sách để sống cho
phải đạo làm người, cái học cốt là ở đó. Đi học đâu phải là để đậu Tú tài, Cử nhân,
Tiến sĩ... mà ra làm quan có được nhiều bổng lộc. Bon chen chốn quan trường có lẽ
không hợp với người vốn sinh sống ở nơi thôn ổ...Thầy đồ mỉm cười nhìn người môn
sinh hiếm có trong đời dạy học của mình. Đi học mà chỉ nghĩ đến đỗ đạt, làm quan để
sống sung sướng, thực tủi cho đèn sách, chữ nghĩa. Thầy đồ nói: Thầy mong con sống
được như con muốn.
Hạo Thiên trở về sống bên cha già, cởi bỏ áo dài làm bạn với cái cưa cái đục. Thỉnh
thoảng có bạn đồng môn tới chơi, Hạo Thiên pha trà ngồi nói chuyện kinh sách một
cách hào hứng, có khi cùng nhau xướng họa thơ phú. Có ai nhắc đến chuyện thi cử,
con đường khoa hoạn chàng chỉ lặng lẽ mỉm cười. Đồng Cát Sỹ thấy tay nghề của con
cả tiến bộ từng ngày, cái vốn chữ nghĩa hình như cũng là cái vốn tay nghề của Hạo
Thiên. Sau một thời gian Hạo Thiên được giao tạc những pho tượng nhỏ, như tượng la
hán... Với những tượng này người thợ được tự do nhiều hơn, ít phải tuân thủ những
qui định nghiêm ngặt. Qua tay Đồng Hạo Thiên, Di Lặc như mập mạp hơn đôi mắt to
hơn, hai tai dài hơn nhưng tươi cười và thanh thoát hiền hòa. Tượng Tuyết Sơn gầy gò
xương sát da mà thần thái mạnh mẽ, trầm mặc mà thoát tục. Đồng Cát Sỹ nói với con
trai mình: con đã nối được nghiệp cha, chắc chắn con sẽ hơn cha, con làm cho thân gỗ
có thần sắc.
Người con thứ hai của Đồng Cát Sỹ ra đời khi gia đình đã đủ ăn, ông đặt tên con là
Bái Nhật, người con thứ này chỉ nhìn gương mặt không thôi đã thấy vẻ chân chất,
thực thà. Khi được đi học chữ anh ta rất khổ sở, học mãi mà không được bao nhiêu,
chỉ mới viết được tên mình đã lấy làm hài lòng. Bái Nhật nói với cha: nhìn vào trang
sách là con thấy chóng mặt, học chữ thực cực hơn đi cày. Người cha nhìn con với vẻ
khoan dung độ lượng và cho anh thôi học ở nhà lấy nghê nông làm căn bản. Bao
nhiêu việc nặng nhọc trong nhà một mình Bái Nhật vui vẻ đảm đương, chẳng ai phải
mó tay vào. Mỗi lần thấy Bái Nhật cầm tới cái cưa cái đục thì Cát Sỹ vội lên tiếng bảo
anh ta bỏ xuống vì đã có lần anh ta ngứa ngáy tay chân làm hỏng một pho tượng đã
gần hoàn chỉnh: con đụng vào cái gì thì chỉ thành củi đun thôi.
Đồng Tuệ Nhân, người con thứ ba của Đồng Cát Sỹ, rất ham học nhưng tối dạ. Ngay
từ những ngày đầu anh ta đã nhận ra thế, nhưng anh ta nói với cha một cách cương
quyết: người thông minh chỉ học một lần là nhớ, con tối dạ thì học ba bốn lần phải
thuộc. Những nỗ lực không ngừng của những ngày đầu kết quả phần nào, nhưng càng
học lên anh ta càng nhận ra rằng: giỏi chữ không phải ai cũng có được. Thấy con cố
gắng thức khuya dậy sớm đèn sách miệt mài cha nhiệt tình khuyến khích những mong
con đạt được ước nguyện. Sau bao cố gắng hao công tốn sức anh ta nhận thấy mình
không thể lập thân bằng con đường khoa cử. Tuệ Nhân từ biệt thầy học trở về nói với
cha: sức người có hạn phải không cha? Chữ nghĩa không có duyên nợ với con thì
đành chịu chứ biết làm sao? Nhiều ngày buồn chán anh ta lấy rượu giải khuây. Một
buổi sáng, trong tuần trà sớm mai Tuệ Nhân nói với cha: con nghĩ kỹ rồi, người ta
phần lớn đi học là để thi đỗ làm quan, để được vinh hoa phú quý, sống sung sướng, vợ
đẹp con khôn. Nhưng bổng lộc triều đình thực ra đâu được bao nhiêu, cứ nhìn đời
sống những vị quan thanh liêm thì rõ. Muốn giàu có, nhà cao cửa rộng, quần là áo lụa,
châu báu đầy người thì phải đục khoét dân đen. Như thế thì tệ quá. Thánh hiền có chỗ
nào dạy vậy đâu. Phú quý sinh lễ nghĩa, phi thương bất phú, những câu ấy người ta
nói nhiều rồi, chắc không sai? Con tính: đi buôn có lẽ hợp với con hơn. Đi buôn kiếm
tiền, những đồng tiền của mình kiếm được là do công khó mua tận gốc bán tận ngọn,
sòng phẳng, thuận mua vừa bán, không lừa gạt, dối trá, giữ tín nhiệm, như thế đi buôn
làm giàu là hơn. Người cha nghe con nói thì yên lòng. Bàn tay còn có ngón dài ngón
ngắn, sinh con ra mỗi đứa có con đường của nó biết làm sao được. Cát Sỹ dồn được ít
vốn cho con khởi nghiệp. Thức khuya dậy sớm, vén khéo, tiết kiệm, giữ lời hứa,
chẳng bao lâu Tuệ Nhân đã dần dần gây được sản nghiệp, việc buôn bán mỗi ngày
một thịnh vượng. Thỉnh thoảng Tuệ Nhân cũng có lúc thong thả nhưng tuyệt nhiên
không bao giờ đụng vào cái cưa cái đục, có chăng là đứng trước những khúc gỗ,
những pho tượng anh thường có lời phẩm bình: Làm sao mà trên thực tế có một vị Di
Lặc mập như thế này được. Với những khúc gỗ lớn do các chùa đưa đến để làm
tượng, anh ta liên tưởng tới những cánh rừng và từ đó nảy sinh ý định đi buôn gỗ, tre
nứa... những thứ bán cho người ta làm nhà cửa. Anh ta nói với cha: chưa chừng con
mua được nhiều gỗ quý thì nhiều nơi sẽ làm tượng, nhà ta sẽ có nhiều việc làm, dân
gian có nhiều tượng. Sao con không nghe nói có một vị la hán nào xuất thân từ đám
thương lái nhỉ? Người cha nhẹ nhàng nói với con: bố có nghe sự tích một tay đồ tể bỏ
đao xuống làm việc thiện sau thành Phật. Chắc những người đi buôn kiếm tiền không
chịu ngừng kiếm tiền để đi tu nên chưa ai thành Phật cả. Thế khi nào thì con định
ngừng đi buôn kiếm tiền? Người con có vẻ ngượng thẹn một cách chân thật. Ông bố
cười: ham lợi, có lẽ vì thế không có vị la hán nào xuất thân từ đám con buôn. Người ta
còn buôn thần bán thánh kia mà.
Mạnh Tông là con út của nhà họ Đồng, Đồng Cát Sỹ đã lấy tên một giống tre đặt tên
cho con mình với một mong ước như thánh hiền đã từng nói về tre: tiết trực, tâm hư.
Từ nhỏ Mạnh Tông đã có phong cách một tay tài tử: mắt sáng, môi đỏ, da trắng,
những ngón tay búp măng thuôn thả. Bà mẹ bảo: nó mà là con gái thì bố tha hồ uống
rượu... Khi người anh cả không đi học nữa trở về nhà thì Mạnh Tông quanh quẩn bên
anh, theo anh đọc sách, theo anh học nghề, nghe anh nói chuyện, nghe lỏm những
buổi đàm đạo của anh với bạn học. Điều gì không rõ thì hỏi, chỉ nghe, nhìn. Bố bảo
Mạnh Tông đi học, chàng lần khân và thưa: xin cho con học anh con trước đã. Đồng
Cát Sỹ cũng không ép con. Có thì giờ Mạnh Tông học thổi sáo trúc với một cụ già
trong làng, chàng còn mê hát chèo, hát xẩm. Nghe ở đâu trong vùng có phường hát về
là chàng rủ đám bạn cùng đi, mỗi lần như thế chàng lại thuộc một vài bài hát mới để
ngâm nga khi làm việc.
Với đôi tay khéo léo, con mắt quan sát tinh tường, chẳng bao lâu Mạnh Tông đã là
một tay chạm khắc có nghề vững. Chàng đã có thể thực hiện những họa tiết sắc sảo
tinh vi trên những nếp áo, chóp mũ... Nhưng khốn nỗi chính tài hoa sắc sảo của mình
khiến cho nó lạc lõng khi đi với những chi tiết do người khác thực hiện, Không là một
tổng thể, có những pho tượng chân tay mặt mũi đi một đường, trang phục đi một nẻo.
Cái chân chất mộc mạc khó đi với cái tinh xảo tài hoa. Đồng Hạo Thiên và cha nhận
ra điều đó.
Năm Mạnh Tông 17 tuổi, sư thầy chùa Mai Tụng tới mời Đồng Cát Sỹ lên chùa về
việc tạc mấy pho tượng Phật. Vị sư già nói:
- Từ nhiều năm nay thiện nam tín nữ ở vùng tôi đã cùng nhau quyên góp để đúc một
pho tượng đồng, phường đúc đã khởi công, nhưng cả ba lần rót đồng vào khuôn mà
không thành. Lần đầu: một nửa mặt và một bên vai bị khuyết, lần thứ hai: thiếu hẳn
một tay, lần thứ ba: mũi và tai không ra hình dạng... Chúng tôi đã thiết đàn cầu kinh
nhưng không linh ứng. Có người bảo: trong cúng dường có của bất chính, có người
bảo tại mấy cân vàng quan tri huyện bỏ vào là mồ hôi nước mắt dân lành. Đám
phường đúc sợ không làm tiếp, những phương đúc khác nghe nói lại cũng không dám
nhận làm... Không lẽ chùa không có Phật. Tôi nhờ ông mang công đức giúp cho. Cái
khối đồng mình hãy để đó sau này sẽ đúc chuông. Dân làng nay đã lên rừng đốn được
gỗ quý, cho xuôi theo sông cái về. Xin ông tính cho.
Đồng Cát Sỹ nhận lời đưa thợ lên chùa Mai Tụng. Cây gỗ quý lớn ngoài sức tưởng
tượng của ông. Sư thầy nói:
- Mang được cây gỗ về tới đây bốn người đã chết vì ngã nước độc. Công đức ấy chùa
sẽ ghi ơn. Pho tượng Thích Ca là chính, còn là những tượng la hán và còn lại sẻ ra
khắc bộ Thập Điện Diêm Cung. Ông thấy thế nào?
Đồng Cát Sỹ thấy công trình lớn quá có vẻ lo. Sư thầy nói tiếp:
- Cả vùng này chỉ có gia đình cụ là theo nghề của tổ tiên đạt đến cái tinh xảo, cụ hãy
hết sức giúp cho nhà chùa. Một tháng không xong thì một năm...
Với cái thước trên tay, Đồng Cát Sỹ tính toán, phân ra từng phần gỗ rồi cho thợ bắt
tay vào việc. Mái chùa Mai Tụng từ đó vang lên những âm thanh đều đều của cưa của
đục, suốt từ sớm mai tới khi chuông thu không hòa vào không trung bao la.
Đồng Cát Sỹ và người con cả dành hết tâm trí cho pho tượng Thích Ca, Mạnh Tông
phụ giúp những việc lặt vặt. Thấy còn những tượng nhỏ khác, Mạnh Tông xin cha cho
mình làm một pho tượng La hán. Mạnh Tông nói:
- Có sẵn mẫu, cha cho con thử tay nghề...
Thấy cha ngần ngại, Đồng Hạo Thiên nói vào:
- Con thấy chú út tay nghề đã khá, lại thêm có cha con mình ở đây để mắt thường
xuyên cha còn lo gì...
Đồng Cát Sỹ giọng điềm đạm:
- Tay nghề của thằng út thì có chỗ còn hơn cả cha và anh, nhưng nó còn trẻ, lòng chưa
tĩnh. Chỉ cần một đường nét nhỏ đủ làm cho thần sắc pho tượng thay đổi. Như con đã
thấy: chỉ cần lượn mỏng hơn, hay để dày đã làm thay đổi cái nhìn của một đôi mắt...
Được, cha để út làm, nhưng trước hết con hãy tĩnh tâm, con hãy nhớ nằm lòng điều
cha đã nói với các con: người ta thờ cái đẹp, cái thiện.
Mạnh Tông hớn hở với công việc mới. Trước hết chàng quan sát pho tượng la hán đã
bị hư hỏng nay làm lại, pho tượng là một vị già cởi trần, tay chống một cái gậy, thắt
lưng đeo một cái giỏ tre, rõ ràng là một ông già đi bắt cá, người gầy nhưng khỏe
mạnh. Mạnh Tông hỏi cha:
- Hành trạng của vị La hán này là như thế nào?
- Ở các chùa luôn luôn có những pho tượng La hán, thường là 18 vị, mỗi người mỗi
nghề, và mỗi người một con đường tu tập, hành đạo để cuối cùng thành Phật. Nên
chúng ta thấy trong Thập Bát La Hán có vị gầy, quần áo rách rưới như kẻ ăn xin, có
người vác cần câu, có người đánh dậm, có người chăn nai... Hành trạng của vị La hán
này như thế nào cha không rõ, có lẽ phần lớn người dân quê mình đều thế, các vị sư
chắc am tường. Nhưng có một điều chắc chắn là: các vị ấy trước hết là những con
người thường sau đó dốc tâm làm điều thiện mà thành Phật. Ai dốc lòng tu đều đi tới
đó... Nhưng người hiền dốc lòng tu đâu có nhiều... Bố nhắc lại với con: mặt các pho
tượng thờ bao giờ cũng phải tuân thủ một điều căn bản: thượng bi hạ hỷ.
Từ một thân gỗ, Mạnh Tông đã phác xong những nét lớn cho toàn thể pho tượng, tỷ lệ
cân xứng từng phần đã hình thành nhưng chỉ tới đó chàng ngừng lại. Pho tượng cũ đã
hư hỏng nhiều chỗ, cái giải lưng đã gẫy không biết dài ngắn thế nào, một bên tai đã
sứt, một bên mặt mối ăn nham nhở không còn mũi và mắt. Chưa dám trực tiếp hình
thành đường nét ngay trên thân gỗ, Mạnh Tông cẩn thận dùng bút giấy phác thảo
trước. Tôn trọng giữ nguyên những nét có sẵn, nhưng với óc sáng tạo, Mạnh Tông
cũng có chút thêm bớt. Nhìn ngắm phác thảo, Mạnh Tông rất hài lòng. Chẳng đưa cho
Đồng Hạo Thiên coi. Người anh cả hết sức ngạc nhiên thấy em mình còn có tài vẽ,
đặc biệt là vẻ linh hoạt của nét bút. Hai anh em mang tấm phác thảo trình cha. Đồng
Cát Sỹ mới nhìn thoáng thì vui mừng, nhưng sau khi ngắm kỹ ông hơi chau mày:
- Nét mặt, tất cả là nét mặt, sắc sảo quá, tinh ranh quá, người quá... Những điều này
không nên có nơi tượng thờ. Thượng bi hạ hỷ, con nhớ lời cha không? Con nhìn
những tượng thờ trong chùa xem, ngay cả tượng Ác Lai, rồi tượng ông Thiện. Ác mà
không phải ác. Có cái dũng mãnh, nghiêm trang mà vẫn khoan hòa, có cái tươi tắn mà
không ham hố, có cái gì không phải vui mà không phải buồn... Thiện nhưng đầy uy
dũng.
Nhìn vào những nét phác thảo của mình, Mạnh Tông nhận ra những điều cha nói.
Không biết phải mô tả thế nào nhưng chắc chắn không có được cái dáng vẻ của một vị
La Hán ngồi nơi bệ thờ chốn thiền môn.
Mấy ngày liên tiếp ngồi trước pho tượng cũ với bút và giấy trên tay chàng vẫn không
sao phác họa được một vị La hán phải có. Sự gắng sức không thành khiến chàng bực
dọc bụng nóng như lửa đốt, và có những gương mặt được phác thảo bỗng trở thành
hung dữ, ác độc khác thường... Mạnh Tông mạnh tay vò hết, xé nhỏ không để cho cha
và anh thấy. Nhiều ngày liên tiếp Mạnh Tông không thiết nhìn đến công việc còn dở
dang của mình. Chàng rong chơi trong vùng cho khuây khỏa, hy vọng lòng mình
được thanh thản, chiều lại ngồi trên bờ đê cao, gió lộng chàng lấy cây sáo trúc ra thổi,
âm thanh dìu dặt và vẻ vắng lặng của đồng quê làm cho chàng thấy dễ chịu hơn. Một
hôm Đồng Cát Sỹ nói với Mạnh Tông:
- Pho tượng La hán con hãy để đó đã. Mình bắt tay vào bộ tranh khắc Thập Điệm
Diêm Cung. Cái này có thể thích hợp với con. Ở đây chỉ có quỷ, kẻ ác, nhân vật nhỏ
và cảnh rộng khiến con dễ làm hơn.
Hai bên tả hữu của chùa Mai Tụng cũng giống như nhiều ngôi chùa khác là cảnh Thập
Điện Diêm Cung, mỗi bên vách chùa có năm cảnh, mỗi cảnh như một câu chuyện kể
về sinh hoạt nơi Diêm Cung. Mô tả cảnh địa ngục không biết do ai và từ đời nào
nhưng nói chung những tranh khắc, hoặc tranh vẽ, có nơi là tượng được bài trí thường
gần giống nhau, dù cách diễn tả thì mỗi nơi một khác, tùy theo óc tưởng tượng và tài
năng thực hiện của người thợ. Thập Điện Diêm Cung là một bộ tranh khắc nổi, đã
được tô sơn nhưng lâu ngày mối mọt đã làm hư hỏng gần hết.
Bắt tay vào việc mới nhưng đầu óc Mạnh Tông vẫn không quên đi pho tượng La hán
còn dở dang. Chỉ qua vài ngày cảnh đầu tiên của địa ngục đã hiện ra: những tội nhân
đang được lùa qua một cây cầu cao, dưới sông là rắn rết, ba ba thuồng luồng. Hai đầu
cầu quỷ đầu trâu mặt ngựa, có người đang bị dí dao vào lưng, có người đang rớt
xuống sông, có người đang bị rắn quấn, có người bị quỷ thọc giáo vào bụng đổ ruột
máu me tuôn chảy... Đồng Hạo Thiên nói với em:
- Nét khắc họa của chú linh hoạt khác thường...
Người cha nói:
- Chắc quỷ thật mặt mày cũng không thể hung ác dữ tợn hơn. Trông mà khiếp quá.
Sư thầy bảo:
- Mắt cháu đã nhìn thấy địa ngục chưa?
Một cụ già chân chất gật gù cái đầu:
- Trông thấy cảnh địa ngục như thế này người ta sợ mà không làm ác... Nhìn xong có
khi quên ngay.
Rồi tới cảnh leo cột lửa, người bị xé xác, moi ruột, người bị chó ngao cắp ngang cổ,
đám đông chen lấn ăn cháo lú. Mạnh Tông nói với cha:
- Làm sao người ta biết được cảnh địa ngục? Đã có ai từ địa ngục trở về?
Đồng Cát Sỹ cười ngất:
- Địa ngục ư? Nó ở ngay trần gian này. Người ta đã chẳng nói: địa ngục trần gian.
Những cảnh mô tả địa ngục kia đã xảy ra trên đời, hoặc do những kẻ ác tâm nghĩ ra,
hoặc có người tưởng tượng ra, kể ra, viết ra...
Đồng Cát Sỹ giữ lấy vai người con út:
- Cha thấy con khắc mặt quỷ mỗi lúc một ác hơn, hung dữ hơn...
Đồng Mạnh Tông thừ người ra không biết trả lời sao. Đồng Hạo Thiên sau khi hoàn
tất tượng Thích Ca, rồi tượng La hán đã phụ với Mạnh Tông làm bộ tranh khắc. Mạnh
Tông nói:
- Chắc Diêm Vương phải khác quỷ, khác những kẻ có tội, anh làm hộ em đi, em
không mường tượng được con người ấy như thế nào.
- Mình dựa vào mẫu tranh cũ đó. Mặt phương phi, vẻ nghiêm trang đường bệ, trán
rộng, râu dài, quần áo chỉnh tề. Phải thế không. Diêm chúa thì phải khác chứ.
- Anh muốn nói, vua thì phải khác? Nhưng vua của quỷ thì cũng là quỷ chứ khác sao
được. Vua của quỷ phải tàn ác hơn chúng quỷ, có thế mới sai khiến được chúng quỷ.
Không lẽ lại còn có quỷ hiền, quỷ ác. Người ta thường nói tới những minh quân, Em
thấy hiếm lắm. Đã là tay không mà lập nghiệp thì không thể can vào việc giết người,
không một ai tự nhiên mà lên làm vua, ngay cả những tên vui ai cũng biết là ác nhưng
lúc nào nói thì tên này cũng chỉ nói nhân nghĩa, nhưng làm nhân nghĩa mới là chính
chứ, nói nhân nghĩa dễ quá mà. Phải mưu mô quỷ quyệt, phải giết người mới có thể
làm vua được. Để giữ ngôi vua người ta phải giết kẻ chống mình, kẻ muốn làm vua
thay mình, giết bầy tôi giỏi hơn mình, có khi giết cả cha mẹ anh em để được làm vua,
để giữ ngôi vua. Anh đọc sách nhiều không thấy điều đó sao? Cảnh địa ngục chẳng
qua cũng chỉ là cảnh trần thế, có điều người ta làm với mục đích khuyến thiện, răn
con người không nên làm ác. Đó là cảnh thực chẳng ai tưởng tượng ra được... Răn
không nên làm điều ác, nhưng còn khuyến thiện. Cực lạc sao không được nói đến?
Không được mô tả? Phải chăng ở trần thế người ta không có kinh nghiệm cực lạc mà
chỉ có kinh nghiệm địa ngục?
Mạnh tông hoàn thành mười cảnh địa ngục thì Hạo Thiên cũng đã xong những phần
việc khác: mười vị Diêm Chúa. Mạnh Tông nhìn kỹ, so sánh từng ông thì thấy những
đường nét khắc của anh khác hẳn mình, nhưng có điều, Diêm Chúa chắc chỉ có một
nhưng sao những khác biệt hiện ra nơi mỗi nét mặt, không ông nào giống hẳn ông
nào. Mặt nào cũng vuông vức, lông mày thanh nhã, mắt nhìn nghiêm khắc, dáng vẻ
oai vệ. Mạnh Tông nói với anh:
- Sao Diêm Vương không giống nhau, không lẽ có tập đoàn Diêm Vương?
- Có một Diêm Vương thôi, nhưng lúc thế này lúc thế khác. Chứ Diêm Vương mà
kiểu anh hùng cát cứ người ta chịu gì thấu.
Hạo Thiên cười phá lên khi đứng nhìn cảnh cuối cùng ở địa ngục: người ta đứng chờ
ăn cháo lú, ở bên này sông xô đẩy chen lấn nhau, mặt mày đau khổ. Qua bên kia sao
mặt mày vui sướng, khoa chân múa tay...
Mạnh Tông nói:
- Sao anh lại cười? Có kẻ thiếu chân thiếu tay?
- Cái cảnh ăn cháo lú này thú quá. Chỉ ăn có một bát cháo mà đã thay đổi thế kia, nếu
giúp hết cả nồi thì chắc là tuyệt diệu lắm...
- Thì xuống địa ngục lại.
- Sao chú nói thế?
- Vì mắc tội tham lam, không đúng sao?
Hai anh em ôm nhau cười ngất. Bộ tranh làm xong đã được đưa qua cho đám thợ sơn
làm tiếp. Những người tới lễ chùa thấy bộ tranh dù đang làm ai cũng lắc đầu lè lưỡi.
Cảnh địa ngục đầu rơi máu chảy, mổ bụng phanh thây, voi dày ngựa xé, cưa người rút
lưỡi... Nhiều đứa bé ôm chặt lấy người lớn khóc thét vì sợ. Hạo Thiên nói:
- Chú sinh ra là để khắc mặt quỷ.
II.
Công trình làm tượng của cha con họ Đồng coi như đã đi tới chỗ hoàn tất. Đồng Cát
Sỹ chau chuốt lại toàn bộ các pho tượng rồi giao cho đám thợ lo sơn son, thếp vàng.
Hạo Thiên được cha giao hoàn tất pho tượng la hán mà Mạnh Tông đã làm được một
phần. Mạnh Tông không vui nói với anh:
- Thế này thì không biết tới bao giờ em mới có dịp làm một pho tượng thờ.
Hạo Thiên ái ngại nhìn em:
- Thì em cũng đã làm gần như hầu hết bộ Thập Điện Diêm Cung rồi đó thôi.
- Có ai thờ quỷ đâu...
Hạo Thiên an ủi em:
- Rồi cũng tới lúc em làm những tượng khác.
Sự thầy chùa Mai Tụng hết sức vui mừng thấy công việc tạc tượng đã viên mãn.
Nhưng trong chùa còn một khúc gỗ nữa chưa dùng đến, sư thầy nói với Đồng Cát Sỹ:
- Còn một khúc gỗ, tôi muốn ông làm cho một pho nữa.
Đồng Cát nhìn sư thầy:
- Còn thiếu tượng gì ạ?
Sư thầy ngần ngại một lúc mới nói:
- Các tượng trên chùa đã đủ, còn dư lại khúc gỗ, tôi muốn làm thêm tượng vị để hậu
tại chùa, ông thấy có được không?
- Tức người đã dựng lên chùa này?
- Không phải vậy, nhưng công cũng lớn lắm. Không có vị này có khi chùa đã bị phá
đi rồi... Vào cái thời đói kém, khói lửa can qua và dịch bệnh cách đây mấy chục năm,
nay những người lớn tuổi còn sống chắc không thể quên được. Cướp của giết người
diễn ra giữa ban ngày ban mặt. Một đêm nghe tiếng người kêu rên ngoài cửa tam
quan, sư thầy của chúng tôi thức dậy ra ngoài thì thấy một thanh niên máu me đầm đìa
đang nằm bất tỉnh. Sư thầy sai chúng tôi mang vào chùa cứu chữa. Giữa đêm có toán
người mang hung khí xông vào chùa hỏi: có người nào bị thương chạy vào chùa
không? Sư thầy ra bảo: không có ai. Toán người tin lời sư thầy mà không lục soát, họ
bỏ đi. Sau chúng tôi thắc mắc, sư thầy bảo: kẻ tu hành không nói dối nhưng vì tính
mạng một kẻ bị thương nặng mà ta phải nói thế, để rồi sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành, kẻ
có tội ta không che chở. Mấy ngày sau người thanh niên bình phục dần, thầy của
chúng tôi chưa kịp hỏi căn nguyên thì kẻ kia đã thừa đêm tối trốn đi. Chúng tôi nói
với thầy: chắc đó là kẻ xấu... Thầy chúng tôi bảo: cứu người là luật của đạo, trừng
phạt kẻ có tội là luật của đời. Câu chuyện trôi qua cùng thời gian... Loạn lạc tiếp diễn,
triều đình suy tàn thêm... Vùng này xuất hiện một đám giặc lớn, đầu đảng đóng quân
trên núi. Mới đầu chúng cướp của người giàu chia cho kẻ nghèo, dân lành nức lòng
qui phục... Khi hết kẻ giàu thì ai có gì chúng cướp cái đó, bắt dân phục dịch, bắt dân
nộp lương thực cho chúng. Chúng cho quân ngó vào từng củ khoai, buồng chuối, từng
con gà con chó. Chúng phá đình, phá miếu và làm nhiều việc tàn ác... Riêng chùa Mai
Tụng chúng không đụng đến. Một hôm tên đầu đảng xuất hiện: đó chính là kẻ chùa
chúng tôi đã cứu sống năm xưa. Chùa chúng tôi không hề hấn gì đã đành, chúng tôi
còn nhận được đủ thứ, mà thực ra là của chúng đi ăn cướp được, trong đó có đồ thờ
quý giá, và cả Phật ở những chùa khác, chuông mõ cũng rất nhiều...
Nhưng sự việc cũng không được bao lâu, hình như cái xấu thì không bền. Thời gian
sau tên đầu đảng chết, đám bộ hạ tranh nhau quyền, xâu xé nhau làm cho đảng cướp
tan dần. Có người nói: tên đầu đảng chết rồi mà còn bị mổ bụng moi ruột. Có một tên
tâm phúc, chắc là kẻ có lòng vốn chịu ơn của hắn mang một ít vàng bạc tới cúng cho
chùa và xin cho chủ cũ được thờ nơi nhà hậu. Người này còn để lại một bức chân
dung vẽ tuyệt khéo, một sấp những thơ văn mà hắn nói là của những danh sỹ đã ca
tụng ân nhân của hắn lúc thịnh trời. Sau sấp thơ văn này đâu mất chỉ còn tấm chân
dung, có điều sau đó cũng không thấy người này trở lại và cũng không có ai tới thờ
cúng gì...
Sư thầy ngừng kể rồi dẫn cha con Đồng Cát Sỹ xuống nhà hậu ở phía sau chùa. Nhà
hậu xây đâu lưng lại với chính điện ngó ra một khoảng sân rộng có trồng mấy khóm
ngô đồng. Trong nhà ngoài tượng Địa Tạng còn có tượng những vị sư từng trụ trì tại
đây đã viên tịch, cạnh đó có bàn thờ riêng trên có tâm chân dung vẽ một mặt người
với đôi mắt sâu hoắm. Sư thầy nói:
- Đó là người để hậu mà tôi vừa nói tới.
Nhìn tấm chân dung ai cũng nhận ra nét vẽ sinh động, nhất là cái thần toát ra từ đôi
mắt, lại thêm một gương mặt mà người ta ít thấy ở người thường. Đồng Cát Sỹ nhìn
bức chân dung rồi lơ đãng nhìn chung quanh, dáng vẻ như không mặn mà với đề nghị
của sư thầy:
- Cũng khó vì đây là tượng một người thường, lại chỉ có chân dung nhìn từ một mặt
duy nhất...
Ý Đồng Cát Sỹ không muốn nhận làm. Nhưng sư thầy như không hiểu ý đó.
- Mình chỉ cần lấy cái tiền diện thôi, còn những mặt khác mình chế như tượng La hán
chẳng hạn. Bức vẽ chân dung là đủ rồi.
Đồng Cát Sỹ nói với hai con:
- Sư thầy đã nhờ thì cha con mình nhận. Cha giao cho hai con đó. Có lẽ mình chỉ làm
bán thân thôi.
- Sao lại không làm như những tượng khác?
Đồng Cát Sỹ ngập ngừng không nói. Sư thầy tiếp lời:
- Mình làm như tượng La hán, hoặc như mấy vị sư tổ...
- Thầy muốn thế... nhưng có lẽ nên theo quy cách của tượng thần, hay thành hoàng thì
hợp lẽ hơn...
Trong thâm tâm Đồng Cát Sỹ không muốn nhận làm pho tượng vì những điều đã
được nghe, một kẻ cướp dù có công với chùa thì vẫn là một kẻ cướp. Nhưng vị nể sư
thầy mà Đồng Cát Sỹ không nói ra. Giao công việc cho con xong Đồng Cát Sỹ lên
đường trở về quê.
Khúc gỗ còn lại trong chùa được mang ra, Hạo Thiên tính toán rồi khởi đầu công
việc. Mạnh Tông nói với anh:
- Sao cha lại nói: làm tượng này như tượng thần hoặc như Thành Hoàng là thế nào?
Em thấy làm như mấy vị La hán này hoặc như tượng mấy cao tăng đã viên tịch cũng
được chứ sao? Mình không cho ông ta ngồi trên tòa sen, hoặc cưỡi rồng là phải phép
rồi...
Hạo Thiên mỉm cười:
- Em còn trẻ, anh cũng còn trẻ chắc bọn mình chưa hiểu hết điều cha muốn nói. Tốt
nhất là cha dặn sao thì mình làm vậy. Theo như chỗ anh biết thì mỗi loại tượng có
những quy định riêng. Cứ đâu xa như chúng ta thường làm cửa võng thì rõ: đền chùa,
đình miếu thì rồng đủ cả râu, vảy, móng, nhưng làm cho tư gia thì chúng ta đâu có
làm như thế. Có những quy định bất thành văn mà trong mỗi nghề đều có. La hán
không thể như Phật Thích Ca. Tượng vua không thể giống tượng quan. Những quy
định không phải chỉ ở áo mũ, hia, hốt mà ngay cả trong tạo hình. Một vị La hán có thể
dơ tay cao, cười miệng rộng. Nhưng Phật Tam Thế thì không như vậy được. Không
phải chỉ ở nét mặt mà còn cả trong dáng ngồi, cách để tay...
Ở nước ta chỉ có Phật là được làm tượng nhiều. Các đình miếu thờ thần hoàng cũng
hiếm khi có tượng mà thường chỉ có bài vị và ngai thờ như một hình thức vọng tưởng,
cũng có khi người ta thờ một vật. Ở Kinh Bắc có đền thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dong
ở bên hồ Dạ Trạch do ông Chu Mạnh Trinh dựng lên. Sau khi ông Chu Mạnh Trinh
qua đời dân ở đó lập bàn thờ ông ngay nơi đền thờ Chử Đồng Tử với Tiên Dong, trên
bàn thờ có một cây bàn đáy, vật mà lúc sinh thời ông Chu thường mang bên mình khi
vui chơi với đám ả đào. Trong trường hợp này người ta gọi việc thờ ông Chu là thờ
thần hộ.
Thần hộ được hưởng theo sự cúng tế của dân cho thần chính. Còn các chùa đều có
nhà hậu để thờ những vị sư trụ trì đã viên tịch, và thờ theo những người có công với
chùa, hoặc góp công đức cho chùa về sau. Những người lập tự thường không có con
cái nối dõi, phải nhờ nhà chùa hương khói sau khi qua đời.
- Kẻ ác, có nhiều tiền của cũng được thờ trong chùa sao?
Hạo Thiên nhìn em:
- Cũng khó để định thế nào là ác, thế nào là thiện. Cửa chùa rộng mở cho mọi người,
anh nghĩ thế...
Công việc đang dở dang thì Đồng Cát Sỹ lâm bệnh gọi Hạo Thiên về, việc làm tượng
một mình Mạnh Tông đảm đương. Trước khi về Hạo Thiên căn dặn em:
- Nhớ lời cha dặn, sau nữa theo sát tấm chân dung là được.
Mạnh Tông lấy làm thích thú với công việc, hoàn toàn độc lập không bị lệ thuộc vào
cha và anh nữa. Mạnh Tông mải miết với những đường chạm bay bướm, những nét
khắc tinh xảo. Dần dần pho tượng thành hình. Nhìn đi nhìn lại giữa tấm chân dung và
khuôn mặt tượng, Mạnh Tông tự bằng lòng. Lại nữa, nét khắc họa rõ ràng dứt khoát
càng làm cho tượng giống và sinh động hơn. Chàng nhủ thầm: một tên đầu đảng chứ
đâu phải tay thường. Chàng có lúc quên đi những phép tắc bất thành văn cũng như lời
căn dặn của cha.
Giao pho tượng cho đám thợ sơn rồi Mạnh Tông xếp đồ nghề để trở về nhà. Sự thầy
vui mừng thấy pho tượng đã xong. Sư thầy nói với Mạnh Tông:
- Anh về thưa với thân sinh giúp nhà chùa: khi nào làm lễ an vị tượng sẽ cho người
sang mời.
Các tượng mới do cha con Đồng Cát Sỹ làm đều đã được sơn son thếp vàng và để tại
nhà đại bái, chính từ đây sẽ tiến hành lễ an vị nơi thượng điện. Trước khi đám thợ sơn
rời chùa, sư thầy xuống coi thợ đánh bóng tượng. Tượng Thích Ca là tượng lớn nhất,
tượng tạc Thích Ca ngồi trên tòa sen uy nghi, nhưng từ bi với mắt nhìn đầy trắc ẩn.
Tượng La hán mỗi tượng một kiểu nhưng đều toát ra vẻ nhân từ thoát tục ở nụ cười
ánh mắt. Riêng bộ tranh chạm khắc Thập Điện Diêm Cung thì quả tình thấy cảnh địa
ngục thực kinh hãi... Nhìn sang pho tượng người để hậu do Mạnh Tông hoàn tất sư
thầy phải khâm phục sự tinh xảo hiện rõ từ trên những nếp áo tới những hoa văn trang
trí. So sánh mặt tượng chân dung vẽ không khác nhau, có thể nói giống như tạc, hơn
thế, còn có vẻ sống động hơn.
Ngắm kỹ, sư thầy thấy như mặt tượng thay đổi, môi như cử động, đôi mắt như trợn
lên hung dữ, trên vầng trán rộng đôi sừng mọc lên từ từ... Sư thầy vội nhắm mắt lại
rồi lại mở ra: không có gì khác. Lúc sau nhìn lại mặt tượng sư thầy lại thấy như mặt
tượng có gì rung động, môi hé ra với đôi răng nanh, mắt long lanh như đổ lửa, tưởng
như tượng sắp thét lên và lao tới ôm lấy sư thầy... Sư thầy nói với một đệ tử đi bên:
- Nhìn xem giữa tấm chân dung và tượng có giống nhau không?
- Dạ quá giống, nét chạm khắc còn sinh động bội phần nữa.
Mấy người chung quanh đều tấm tắc khen pho tượng và ca ngợi người thợ khắc có
đôi tay tuyệt giỏi và mắt nhìn chính xác. Nhìn lại pho tượng, sư thầy không thấy có gì
khác thường, nhưng cứ mỗi lần nhìn lâu, chăm chú thì sư thầy lại thấy khác, nét mặt
bỗng nhiên chuyển đổi. Mỗi lần như thế sư thầy lại thấy một khuôn mặt khác lạ hiện
ra. Khi thì mặt đen, khi mặt đỏ, khi nhắm mắt, khi mọc sừng hai bên, khi mọc một
sừng ở ngay giữa đôi mày, lúc há miệng, có lúc hé môi, có lúc như thấy tiếng cười
độc ác, có khi là tiếng gầm rú của ác thú. Mặt tượng đã không còn là mặt một người
nhất định. Không lẽ người thợ đã yểm bùa thiêng vào pho tượng? Từ đó Sư thầy
không còn dám nhìn mặt pho tượng lâu, sư thầy sai lấy một vuông vải đỏ phủ lên mặt
tượng rồi vội vã lên chính điện bắt đầu một khóa lễ ngoài thông lệ. Tiếng chuông,
tiếng mõ vang lên nhưng nghe sao náo động bất an. ... Các đệ tử ngơ ngác nhìn nhau
không hiểu nguyên cớ. Mọi người sợ hãi khi thấy chim đậu trên những ngọn cây bay
lên như vỡ tổ, con bay đi, con bay lại đâm vào nhau rơi xuống như mưa với những
tiếng kêu thảm não...
Vừa lành Cát Sỹ được sư thầy chùa Mai Tụng cho người tới rước lên nhân lễ an vị các
tượng thì vui vẻ đi ngay. Trong khung cảnh yên tĩnh của nơi cổ tự không bợn chút bụi
trần Cát Sỹ thấy lòng êm ả. Nâng chén trà thanh khiết với hương sen thơm nhẹ nhàng
Đồng Cát Sỹ nghe sư thầy nói về ngôi cổ tự và những lời ca tụng tay nghề đối với cha
con nhà họ Đồng. Sư thầy dẫn Đồng Cát Sỹ lên chùa coi các bệ tượng đã sẵn sàng cho
lễ an vị. Sau đó hai người xuống nhà đại bái, nơi để các tượng đã hoàn thành mà từ đó
được cung nghinh lên chính điện. Các pho tượng rực rỡ vàng son, mỗi tượng đầu đều
phủ một tấm vải đỏ. Theo nghi lễ, sau khi tượng an vị nơi cố định tấm vải đỏ mới
được lấy đi.
Đồng Cát Sỹ nhẹ nhàng vén từng tấm vải che từng pho tượng lên coi lại. Khi nhìn vào
mặt pho tượng do Mạnh Tông làm thì Cát Sỹ sững người và bỏ ngay tấm vải che lại.
Sư thầy nhìn Cát Sỹ:
- Tay nghề con út ông thực không ai bằng, ông thấy pho tượng thế nào, giống như in
với tấm chân dung.
Vừa nói vị sư thầy vừa lấy hẳn tấm vải đỏ ra tay, vừa ngắm nghía vừa gật gù:
- Giống, thật giống, ai so sánh cũng thấy vậy, có cái lạ là nhìn lâu vào mặt thì...
Đồng Cát Sỹ nhìn thẳng vào mắt sư thầy:
- Sư thầy thấy sao?
Ngập ngừng một lúc sư thầy mới nói:
- Tôi thấy như tượng biến đổi sắc diện, thay hình đổi dạng... Có lúc như mọc răng
nanh, có lúc mọc sừng, có lúc mắt láo liên, có lúc mặt xanh, có lúc mặt vàng...
Đồng Cát Sỹ nhắm mắt lắng nghe tiếng sư thầy đều đều. Lúc sau ông mở mắt nhìn
thẳng vào mặt pho tượng. Ông nhắm mắt mở mắt nhiều lần cho tới lúc ông không
bình tĩnh được nữa nên chạy ra sân chùa, ông chắp tay vái tứ phương rồi đi về phía
nhà bếp. Sư thầy chăm chú nhìn theo. Chợt Đồng Cát Sỹ trở lên vẻ vội vã, tay cầm
chiếc rìu, ông ta chẳng nói chẳng rằng tiến tới bên pho tượng, tay cầm rìu, đứng
nghiêng một bên đưa tay lên vạt một nhát mạnh vào mặt tượng. Mặt tượng gần như
phẳng và hơi lõm vào. Đồng Cát Sỹ với tiếng nói rõ ràng từng tiếng:
- Ai thờ cái ác, cái hung dữ, cái xấu?
Sư thầy kinh hãi không thốt thành lời. Đồng Cát Sỹ vứt bỏ rìu, bước đi mạnh mẽ dứt
khoát ra khỏi cửa tam quan của chùa Mai Tụng. Sư thầy nhìn chung quanh không thấy
ai vội vàng phủ tấm vải đỏ lên đầu pho tượng rồi tất tả đi về trai phòng.
Chiều hôm ấy khi chuông thu không thả từng tiếng vào không trung, sư thầy không
lên chánh điện với khóa lễ thường lệ, đệ tử xuống trai phòng tìm thì hoảng hốt thấy sư
thầy nằm sấp vắt người nơi bậc cửa ra vào, chân ở ngoài hiên, đầu dấu trong bóng tối,
thân xác đã cứng lạnh.
Trong lễ cung nghinh an vị tượng Phật được tiến hành bình thường nhưng giản dị theo
như ngày giờ đã định trước. Riêng khi đặt pho tượng người để hậu ở nhà thờ phía sau
chùa, vị sư chủ lễ khi cầm tấm vải đỏ phủ trên mặt mới nhấc lên nửa chừng thì ngừng
lại: sao tượng mất mặt? Vị sư phân vân giấy phút rồi thả tay phủ lại tấm vải đỏ lên
đầu tượng như lúc trước...
III.
Từ khi ở chùa Mai Tụng trở về, Đồng Cát Sỹ lòng không vui mỗi khi nhớ tới pho
tượng người để hậu nơi chùa. Không lẽ bàn tay của Mạnh Tông có thể làm cho một
pho tượng biến ảo? Không lẽ vì việc mình không phải: Sao lại làm tượng kẻ không
xứng đáng? Một kẻ xấu thì không thể được làm tượng cho người ta thờ?
Mấy cây gỗ của chùa Trúc Lâm mang lại từ lâu để làm mấy pho tượng Phật vẫn chưa
đụng đến. Hạo Thiên, Mạnh Tông đã mấy lần nhắc đến nhưng Đồng Cát Sỹ vẫn chưa
muốn bắt tay vào. Mạnh Tông nói với cha:
- Làm mãi hoành phi với câu đối... chán quá. Kỳ này cha để cho con được tạc một pho
tượng Phật.
Đồng Cát Sỹ không nói gì. Quả thực là ông phân vân, có nên nói về pho tượng người
để hậu ở chùa Mai Tụng không? Có phải chính vì ám ảnh bởi pho tượng do Mạnh
Tông tạc tượng Phật không?
Vừa lúc đó sư thầy chùa Trúc Lâm tới nói phải ngưng việc tạc tượng. Đồng Cát Sỹ
liên tưởng tới ngay pho tượng người để hậu:
- Thưa sư thầy sao vậy? Thầy không tin nơi nhà chúng con nữa?
Sư thầy sua tay, nụ cười dịu dàng:
- Không phải, không phải vậy. Triều đình mới có lệnh cầm đúc chuông, tạc tượng,
xây chùa... Vua quan không thờ Phật thì hẳn là không muốn dân thờ...
Mấy cây gỗ được mang đi, khi từ biệt sư thầy nói với Đồng Cát Sỹ:
- Tôi lo mang mấy cây gỗ quý này về chùa bảo quản, đến một lúc nào đó, ông hãy tin
tôi... tôi sẽ mời ông lên hẳn trên đó lo việc này. Tôi mong ông bảo trọng sức khỏe.
Mấy ngàn năm rồi người ta vẫn thờ Phật. Phật đâu phải chỉ là tượng gỗ. Phật đâu chỉ
ở chùa?
Thấy không còn cơ hội tạc tượng Phật với đôi bàn tay của mình, Mạnh Tông đi ra đi
vào thơ thẩn. Phần Đồng Hạo Thiên mỗi lúc một ham đọc sách, làm thơ, đi ngao du
cùng đồng bạn ít để mắt tới công việc chạm khắc. Riêng với Mạnh Tông vẫn hy vọng
tới một ngày nào đó, theo như lời cha nói: người tài bao giờ cũng có lúc được dùng.
Vì thế Mạnh Tông vẫn kiên trì rèn luyện tay nghề. Khúc gỗ, tấm ván sau khi qua tay
Mạnh Tông đã trở thành những tác phẩm tuyệt mỹ. Với những mẫu mã có sẵn: long,
ly, quy, phụng, mai, lan, cúc, trúc... Cá vượt vũ môn. Tất cả những ước lệ đó dần dà
làm cho Mạnh Tông cảm thấy chán. Chàng dành nhiều thì giờ dạy cho đám con cháu
trong nhà là chính, chàng muốn chúng vào nghề một cách căn bản. Bao nhiêu thì giờ
còn lại Mạnh Tông dành cho cây sáo trúc, tiếng sáo của chàng mỗi lúc một mượt mà,
mỗi lúc một thanh thoát ngọt ngào hơn. Và thỉnh thoảng chàng cất tiếng hát. ... Các
chàng trai, các cô gái và đám mục đồng mỗi lần thấy chàng ngồi đâu là xúm lại... Có
đêm thanh vắng chợt văng vẳng tiếng trống chèo từ xa, Mạnh Tông thao thức. Có phải
tiếng trống đang réo gọi chàng? Có phải tiếng trống đánh thức một phần con người
Mạnh Tông vẫn dấu kín trong mình, một con người bí ẩn vẫn lẫn khuất trong một
thân xác hiện hữu?
Thấy Mạnh Tông như mỗi lúc một hướng ngoại hơn, tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng hát
như cuốn lấy Mạnh Tông. Hạo Thiên nói với em:
- Người xưa bảo: ở trong sách có mỹ nhân. Không đọc sách đời người mất đi một
nửa.
Những câu hỏi vẫn đến với Mạnh Tông: tại sao anh Hạo Thiên không nghĩ tới việc ra
làm quan? Tại sao anh lại không có vẻ gì mặn mà với lời giới thiệu của thầy học mà
làm rể nhà quan phủ ở Thượng Ngàn? Sao không thấy anh bén mảng tới những nơi
vui chơi giải trí. Mạnh Tông nghe lời anh mà chăm đọc sách hơn, gặp chỗ nào không
hiểu thì hỏi, nhờ sáng dạ nên Mạnh Tông học rất mau giỏi. Chẳng bao lâu Hạo Thiên
thấy em mình đã lầu thông kinh sử. Mạnh Tông chỉ đọc mà không học viết. Hạo
Thiên bảo em:
- Chả cần học viết, đọc người xưa là đủ.
Đọc nhiều, nhớ nhiều, thơ văn xướng họa trong sách chỉ lướt qua đã thuộc, mấy ngàn
câu trong Kinh Thi chàng đọc như nước chảy. Đôi khi Mạnh Tông cũng ứng khẩu làm
một vài bài, nhưng sau đó thường quên ngay, hoặc chỉ nhớ một đôi câu khi có ai hỏi
đến. Bạn của Hạo Thiên ai cũng lấy làm lạ, có người để sẵn bút giấy khi Mạnh Tông
đọc thơ thì ghi ngay lại. Nhưng chỉ sau đó ít ngày nếu có ai đọc cho nghe, có khi
Mạnh Tông hỏi: thơ của ai thế? Trong vô số những thơ mà bạn Hạo Thiên ghi lại của
Mạnh Tông, nhiều người nói tới bài Xuân Tửu:
Nhấp chưa nguôi chén càn khôn tửu
Nhan sắc trần gian nhắm sạch rồi
Đưa mắt trông trời nhìn địa ngục
Thần tiên, yêu quái bỗng xôn xao(2)
Nhiều người khuyên Mạnh Tông học viết chữ nhưng một mực chàng không nghe.
Mạnh Tông nói:
- Anh tôi bảo: tay chú sinh ra để chạm khắc, không phải để cầm bút. Không vượt lên
được cái tầm thường mà cầm tới bút có khi phạm tội ác còn hơn cả quân giết người.
Ngày tháng trôi qua, có một mùa đông khắc nghiệt để sau đó là một mùa xuân dài,
tươi vui, mùa lễ hội bắt đầu. Mạnh Tông lại nôn nao vì những tiếng trống chèo từ xa
vọng về. Phường chèo Nam Hạ về diễn ở một làng bên kia sông. Xưa, ngay từ đêm
đầu tiên đã có mặt Mạnh Tông. Vẫn là những Lưu Bình Dương Lễ với tình bằng hữu
có một không hai. Vẫn là Thị Kính nhẫn nhịn với lòng hiếu sinh. Vẫn là Xúy Vân giả
dại giữa đời đen bạc. Vẫn là tiếng hát xẩm của Thị Phương trên đường lưu lạc... Ban
đêm hòa mình với những vui buồn nơi chiều chèo, ngày lại Mạnh Tông nghêu ngao
hết làn chèo này sang làn chèo khác. Một hôm Mạnh Tông đánh bạo nói với bố:
- Con đi hát chèo được không bố?
Một khoảnh khắc im lặng khác thường, Đồng Cát Sỹ nhìn người con út có hai bàn tay
khéo léo. Hát chèo? Sao lại thế?
- Người ta ghét những người theo nghề hát chèo lắm phải không bố? Người ta nói:
xướng ca vô loài, con những người hát chèo còn không được đi thi chứ nói gì tới làm
quan. Còn cha?
2 Thơ N.Đ.Vinh.
Đồng Cát Sỹ phân vân chưa biết trả lời con làm sao. Ông nhớ tới pho tượng ở chùa
Mai Tụng, cái mặt tượng mà ông đã dùng dìu vạt đi. Giọng Đồng Cát Sỹ từ tốn:
- Con thực thích hát chèo sao? Nếu con thích cha cho phép chọn... Nghề chạm khắc
nhà mình...
Đồng Mạnh Tông cắt ngang lời cha:
- Bố ơi, hát chèo đâu có cần đến tay. Anh con bảo: tay con sinh ra là để chạm khắc.
Đồng Cát Sỹ cười ngất:
- Nghĩa là con vừa dùng tay chạm khắc, miệng thì hát chèo, thế còn đôi chân thì dùng
làm gì?
Mạnh Tông cũng cười theo:
- Ý con muốn nói, tới một lúc nào đó, chẳng hạn như khi hơi không còn để hát nữa.
Đồng Cát Sỹ để cho con chọn nghề theo ý muốn, lại nữa, ông cũng đợi ngày tháng sẽ
tới, những trải nghiệm trong cuộc sống sẽ ảnh hưởng tới đôi tay tài hoa của con mình.
Một con người sinh ra đâu phải bỗng nhiên đã có thể hoàn hảo, mỗi kẻ đều phải qua
những nhọc nhằn mới trở thành người.
Thế rồi Mạnh Tông bạo dạn tới tìm ông trùm của phường chèo Nam Hạ. Sau khi nghe
Mạnh Tông nói, ông trùm nhìn chàng từ đầu tới chân rồi gật gù:
- Anh thích nghề hát chèo à?
- Dạ mê hát chèo...
- Mê chưa đủ, dòng họ nhà anh từ xưa tới nay đã có ai là kép chèo, hoặc đào chèo
không?
- Sao lại thế?
- Mấy thứ này là phải có dòng, có máu, có gia phả... Nhưng thế này: anh có biết hát
không?
- Dạ có biết hát...
- Ai dạy anh hát?
- Chỉ nghe hát nhiều mà biết.
Ông trùm vẫn nhìn Mạnh Tông không rời mắt. Có một cô gái người nhỏ nhắn trong
phường chèo tới ngồi bên. Ông trùm quay sang nói với cô gái:
- Tay này muốn bái tổ theo nghề, trông tướng tá cũng được đấy chứ, có chịu nhận làm
đệ tử không?
Cô gái không nói đưa mắt nhìn chàng trai lạ, ông trùm quay sang nói với Mạnh Tông:
- Anh nói biết hát, vậy hát thử nghe.
- Nhưng hát bài nào?
- Anh hát bất cứ bài nào anh biết.
Mạnh Tông nhớ ngay tới giáo đầu của vở Quan Âm Thị Kính mà chàng đã thuộc như
cháo, chàng hắng giọng rồi cất tiếng.
- Ai ơi giữ lấy đạo hiền
Giồng cây lấy đức, xây nền lấy nhân
Đôi chữ Di Đà
Gái trai khỏe mạnh, trẻ già bình an
Lòng thành thắp một nén nhang
Mô Phật, từ đường siêu khổ hải
Ngũ phúc chiếu thuyền lâm
Mở Phật kinh thấy tích Quan Âm
Nhà họ Mãng...
Ông trùm vỗ tay rồi ra dấu cho Mạnh Tông ngưng lại:
- Giáo đầu mà như vậy thì chiến lắm, từ hát vỉa, sang hát cách, tới nói chúc, nghề quá
đi chứ, giọng lại ngọt nữa... Bài khác xem nào:
Mạnh Tông hắng giọng:
- Nam Mô A Di Đà Phật, Phật, Phật, Phật, Phật...
Nam mô bát bộ kim cương
Gãy bốn chân giường chết ổ chó con
Nam Mô Bồ Tát Bồ Hòn
Bao nhiêu vãi trẻ có con kỳ này...
Mạnh Tông vừa xuống giọng ông trùm đã cười lớn, cô gái ngồi bên cũng cười ngặt
nghẽo, mấy người đứng chung quanh vừa cười vừa vỗ tay tán thưởng khiến Mạnh
Tông phấn khởi hẳn lên.
- Anh còn định làm hề nữa à, anh vào vai Thị Kính thử xem, giọng anh giả gái có khi
trong và thanh hơn cả các cô không chừng.
Mạnh Tông bước đi mấy bước nhớ tới cảnh Mãng ông gọi con gái ra và Thị Kính cất
lời:
- Vẳng nghe thấy tiếng cha đòi
Nào gương soi, lược giắt, trâm cài bước ra...
Công cha mẹ càn khôn cao hậu
Chữ lan thù phú tái chi ân
Sinh con ta dưỡng dục sinh thành
Phải lo giả cù lao chi đức...
Con có hiếu đẹp lòng cha mẹ
Trình lạy cho con được ra hầu...
Mạnh Tông ngừng lại, mọi người vỗ tay không ngớt. Ông trùm nói với cô gái ngồi
bên:
- Tiểu Kính Tâm này tuyệt đấy chứ, sao Thị Mầu không hát cho chàng nghe đi...
chàng như khế rụng sân đình, em như gái chửa đi rình của chua...
Cô gái đấm thùm thụp vào lưng ông trùm. Mạnh Tông đoán chừng đó là đào Soan
thường đóng vai Thị Mầu trong tích Quan Âm, nhưng ở ngoài thấy cô khác hẳn với
vai trên chiếu chèo. Mạnh Tông hát hết bài này sang bài khác, từ vỉa nồi niêu tới sa
lệch chênh, từ điệu xuân sang điệu nam, từ ngâm thơ tới nói sử... làn điệu nào chàng
cũng tường. Khi nhập vai nữ giọng ngọt ngào cao thanh, khi riễu cợt khê nồng trần
tục, qua giọng nam thì mạnh mẽ, khúc triết khỏe mạnh, giọng ca lúc nào cũng đầy.
Mạnh Tông nhập phường chèo chẳng mấy ngày đã quen thuộc thân thiết với mọi
người nhờ tính vui vẻ và dễ chan hòa, lời ăn tiếng nói lại dễ nghe, khi nào cũng tao
nhã duyên dáng ý nhị. Trong phường chèo trên hết là ông trùm Phúc, sau đến kép Trụ,
đào Hòe, đào Soan... tất cả không được mười người. Mỗi người mỗi việc, mỗi người
mỗi vai. Đào Soan là người chàng gặp ngay từ buổi đầu, người nhỏ nhắn, không đẹp
một cách khoa trương, mà ngược lại có duyên thầm với vẻ kín đáo khác hẳn với đào
Hòe. Tiếng hát của Soan trong ngọt mà Mạnh Tông đã được nghe nhiều lần mỗi khi
coi phường Nam Hạ diễn trong vùng trước đây. Đào Soan không được coi là đào
chính của phường, nhưng mỗi lần cô sắm vai Thị Mầu thì ai cũng phải công nhận là
đào lẳng có một không hai. Đặc biệt nhất phải kể vai Thị Phương trong tích Trương
Viên, đào Soan như nhập hẳn vào vai người vợ hiền dâu thảo dắt mẹ chồng vượt qua
cảnh loạn ly, quỷ dữ, làm người hát sẩm, tiếng hát đưa nàng đến gặp chồng vẫn thủy
chung một dạ để đôi ngọc lưu ly nhập vào mắt nàng mang lại ánh sáng và hạnh
phúc... Vai diễn chân thật, tiếng hát có lúc uất nghẹn hờn oán, rồi chan hòa âu ca đã
làm bao nhiêu người đàn bà chất phác nơi thôn dã phải nhỏ lệ thương thầm. Hôm đầu
trùm Phúc bảo đào Soan nhận dạy Mạnh Tông, nàng lắc đầu quầy quậy, dù vậy nàng
vẫn cùng kép Trụ, đào Hòe và những người khác giúp Mạnh Tông quen dần với từng
vai diễn. Trong một buổi diễn thử, cũng là tập cho Mạnh Tông. Khi cầm tay chỉ cho
chàng cách diễn múa, đào Hòe giữ chặt lấy, đưa tay lên nhìn rồi nói với mọi người:
tay đẹp hơn tay con gái trời ạ... Đào Hòe cứ giữ chặt lấy tay Mạnh Tông khiến chàng
luống cuống, ngượng nghịu mãi mới dụt được tay về trong khi mặt thì đỏ lên. Đào
Hòe còn trêu thêm: kìa coi có lạ không, má đỏ như cô gái mười tám...
Trong phường chèo kép Trụ ăn ở với đào Hòe như vợ chồng, nhưng hỏi ra thì chưa
phải vợ chồng. Có người nói với chàng: vợ chồng phường chèo mà, tuồng làm sao thì
đời làm vậy. Có ai chỉ sắm một vai thôi đâu: khi Quan Âm, lúc Thị Hến, khi Thị
Mầu... Hành trang của phường chèo chỉ vỏn vẹn có mấy đôi bồ đan bằng tre trong đó
những áo mũ cân đai, chuông mõ, tràng hạt... Mỗi lần từ làng này sang làng khác kẻ
gánh người gồng chẳng mấy khó khăn. Phường chèo sống với nhau như một gia đình,
có tôn ty trật tự riêng của nó, nhưng cũng đầy những xô bồ bát nháo bề bộn như một
đám người thất cơ lỡ vận sống nơi đầu đình góc chợ.
Một tối không diễn, ngồi chơi nơi thềm ngôi đình làng, trùm Phúc nói cho Mạnh
Tông nghe về nghề chèo của mình: Xưa kia phường chèo chỉ đi hát vào mùa nông
thôn vào hội khi ấy là mùa xuân, nông dân không còn việc đồng áng, những người có
nghề hát chèo tụ tập lại với nhau đi lưu diễn, vì thế mới gọi là phường, đến khi vụ lúa
mới bắt đầu thì họ lại trở về làng ra ruộng với cái cuốc con trâu chờ tới mùa xuân năm
sau. Nghề này thường là cha truyền con nối, chẳng có trường nào, lò nào dạy, mỗi
phường thường là một gia đình, một giòng họ, nếu không thì cũng là người trong
làng, trong tổng. Người nào giỏi, có khả năng đứng đầu điều khiển thì làm trùm, sống
lâu lên lão làng, người nào giỏi vào vai chính, người nào kém giữ chân chạy cờ, lính
lệ, nô tì... Một phường chèo nổi tiếng nhờ vào những đào kép chính có nhan sắc, có
giọng hát hay, đặc thù mà những phường khác không có, nhất là những vai hề. Không
tích nào diễn mà không có vai hề, có hề nam và hề nữ. Mụ Đốp vợ anh mõ trong tích
Quan Âm không phải đào nào diễn cũng được. Những tiểu đồng thầy bói, thầy lang,
lão say thì ở tích nào cũng có thể đưa vào để có những tràng cười. Thân trò thì đào
kép chính hay phụ đều như thuộc lòng, vì số tích không nhiều, gần như chẳng có tích
nào mới, lại năm nào cũng diễn, có thể hôm nay diễn mai lại diễn, có tích diễn liên tục
nhiều đêm do dân làng yêu cầu. Nhưng không hẳn chèo chỉ có một mùa hội hè đính
đám, thỉnh thoảng cũng có những người giàu có, hoặc các nhà quan có khao vọng,
thượng thọ cha mẹ cho gọi phường chèo về hát chầu, ông trùm tập hợp đào kép lại đi
diễn dăm ba đêm. Mãi sau này có những khu dân chúng tập trung, dân không sống
bằng nghề nông mới có những gánh chèo thường trực. Từ đó phường chèo thành gánh
chèo và nảy sinh việc đào kép thay đổi gánh, truyện đào kép ghen tuông với nhau,
thay vợ đổi chồng... Các ông trùm thì tìm cách o bế những đào kép chính ăn khách để
thu lợi. Thế là hát chèo thành một cái nghề hẳn hoi, đào kép không còn nghề nông căn
bản nữa. Mỗi gánh chèo thường có những đặc điểm để người ta nhớ như trước đây có
phường chèo Bắc Nhị, gánh này không có đào, chỉ toàn kép đóng giả gái mà lại sắm
vai rất tài tình, tích nào họ diễn cũng được. Trùm Phúc bảo Mạnh Tông:
- Tôi thấy chú giả gái chắc ăn, giọng cao thanh, người nhỏ, da trắng... để rồi coi.
Đang từ cuộc sống lặng lẽ êm đềm bước vào gánh chèo sô bồ chàng thấy một cuộc
sống hoàn toàn khác nhưng cũng đầy hào hứng bất ngờ. Bây giờ chỉ có tiếng trống,
tiếng đàn reo vui mỗi tối. Những y phục rực rỡ, ánh sáng bập bùng như thật như giả,
những son phấn mặn mà quyến rũ, và tiếng cười đùa, tiếng reo hò, tiếng hát vang
vọng....
Mạnh Tông vốn thông minh, chỉ đến đâu nhớ tới đó nên chỉ một thời gian ngắn chàng
đã có thể theo tiếng trống bước ra làm anh lính chạy cờ la thét dẹp đám, rồi làm hề
đồng, làm lính gác, có hôm đào Hòe hóa trai giả gái cho làm tiên nữ. Mạnh Tông trở
thành một cô gái đẹp như ở chốn kinh kỳ với má phấn môi son, mặt trái soan, người
mảnh dẻ, chân tay thon thả... Xuất hiện ít lần mà đã làm nhiều người coi tấm tắc khen
gánh chèo mới có đào đẹp. Họ đâu có biết là trai giả gái. Có lần sau khi đánh phấn
xong, đào Hòe ghé lại gần hôn đánh chụt vào má Mạnh Tông và nói: người đẹp của
tôi ơi... làm cho cả đám phường chèo cười rú lên.
Gánh chèo không bao giờ có thể ở một nơi nào lâu, Mạnh Tông sống như đã quen
thuộc với những di chuyển thường trực. Với Mạnh Tông mỗi đêm diễn vẫn là một hấp
dẫn, háo hức, chàng lẩm nhẩm hát theo những đào kép trên chiếu chèo, chàng quan
sát từng cử chỉ, điệu múa, cách liếc mắt đưa tình, cách chuyển quạt từ tay này sang
tay khác, cách vuốt râu sửa tóc. Đặc biệt chàng thấy đào Soan mỗi lần ra diễn là một
lần khác lạ, mỗi lần như có một đào Soan mới tạo ra những cảnh huống mới. Càng
nhìn, càng nghe, chàng càng thấy cái duyên thầm của đào Soan với sàn diễn. Ở cuộc
sống thường nhật đào Soan lặng lẽ như tự ẩn khuất mình vào một thế giới riêng kín
đáo, giản dị... Nàng vốn người đồng chiêm, cha mẹ mất sớm, ông trùm nhận nuôi như
con cho đi theo gánh chèo. Còn nhỏ đã không được đùm bọc giữa những người máu
mủ ruột thịt, Soan lúc nào cũng thu nhỏ người lại với những lo sợ không rõ ràng. Với
Mạnh Tông chừng như nàng có phần tin cậy hơn. Một lần Mạnh Tông hỏi Soan:
- Em cất giấu kép ở đâu?
Soan cười rúc rúc trong cổ họng, lúc lâu nàng mới nói:
- Kép của em không biết hát chèo, chỉ biết cày ruộng thôi.
Nói xong nàng chạy đi.
Gánh chèo ở Cổ Sơn chỉ mới hai đêm đã thưa người xem, phần nào vì đào Hòe giận
kép Trụ, mỗi người kiếm cớ khác nhau để không diễn, hoặc diễn thì miễn cưỡng. Tất
cả có một cái gì uể oải khiến cho tích diễn không còn sinh động để lôi kéo người xem.
Ông trùm quyết định đưa gánh sang Ô Lâu bên kia sông. Đêm cuối giữa những đồ
đạc ngổn ngang không khí vắng lặng của chùa Cổ Sơn, Mạnh Tông thơ thẩn một
mình và nhớ tới quê nhà. Chợt nghe tiếng gọi, Mạnh Tông nghe có tiếng gọi mình.
Mạnh Tông đi tới góc chùa nơi có ngọn đèn nhỏ, kép Trụ đang nằm bên bàn đèn
thuốc phiên trên chiếc chiếu hoa rách bẩn. Mạnh Tông ngồi ghé xuống bên. Kép trụ
đưa dọc tẩu về phía chàng:
- Làm một điếu.
Mạnh Tông lắc đầu:
- Bố em bảo: trâu cày béo mập, ruộng thẳng cánh còn bay dinh cơ nhà ngang cửa dọc
kềnh càng nhưng có thể chui qua cái lỗ nhỏ xíu của cái tẩu đấy, đừng có đụng đến.
Kép Trụ nhếch mép cười khinh bạc lặng lẽ tiếp tục hút, sau mấy điếu liên tiếp mới bỏ
tẩu xuống, rót nước cho mình và mời Mạnh Tông, đôi mí mắt sùm sụp, giọng nói rã
rượi buồn thảm:
- Đời đào kép nó oan nghiệt lắm chú em ạ. Hãy về nhà đi.
Kép Trụ một tay chống xuống chiếu, một tay như sua chàng đi:
- Vậy sao anh không về nhà?
Kép Trụ lắc đầu nhẹ, giọng nhỏ và thấp:
- Muộn rồi, muộn rồi... chú thì còn kịp. Cái ma lực của đời xướng ca. Chúng ta như
con thiêu thân tìm tới ngọn lửa mà đốt cháy mình...
Kép Trụ nằm co người lại, hình ảnh quen thuộc này chàng đã nhìn thấy nhiều lần: một
xác chết. Nhưng khi đêm tới, và tiếng trống chéo gióng lên, lửa bắt đầu được đốt trên
những ngọn đuốc... kép Trụ đã lại tỉnh như con sáo, giống như kẻ lên đồng, cái xác
chết kia bỗng nhanh nhẹn thay quần áo, làm mặt, đội mũ... và bước ra với vai diễn.
Đam mê, trôi nổi, tạm bợ, không ngày mai, cuộc sống lấy đêm làm ngày, lấy đình
chùa làm nhà ở, lấy quán chợ làm nơi sum họp. Những cô đào, những anh kép chắc
cũng có lúc nghĩ tới ngày mai tới một mái nhà. Có phải họ bị cuốn vào một đam mê
không tên gọi? Hết người này tới người khác hết đời cha tới đời con, hết anh đến em,
có ai thoát ra khỏi cơn xoáy... phường chèo, bao kẻ sống chết với nó như một nghiệp
dĩ chứ không phải là một nghề để mưu sinh.
Sáng hôm sau trên đường qua sông, Mạnh Tông gánh hai bồ nhỏ, ông trùm đi bên vác
mấy thanh kiếm, giáo mác, gậy gộc. Trùm Phúc vừa đi vừa nói:
- Tối nay qua bên toàn những người xem còn lạ, diễn tích Quan Âm Thị Kính tôi giao
cho anh sắm vai Thị Kính, xem bộ đào Hòe không còn muốn diễn nữa rồi.
Mạnh Tông ngạc nhiên đứng lại, đặt đôi bồ xuống ven đường:
- Chết, không được đâu...
- Đừng sợ, thừa sức mà, đào Soan sắm vai Thị Mầu...
Tới đình Ô Lâu, sau khi thu xếp mọi việc xong thì cả gánh nhốn nháo lên vì kép Trụ
ôm bụng lăn lộn rồi sau cùng nằm thẳng đơ ra mà thở như chờ chết, nói không ra
tiếng. Kép Trụ không thể diễn được, Mạnh Tông sắm vai Thiện Sỹ đóng cặp với đào
Hòe sắm vai Thị Kính. Trùm Phúc căn dặn:
- Tối nay phải diễn cho ra trò, cứ như mấy ngày trước thì chết đói cả đám.
Mạnh Tông vào vai Thiện Sỹ chững chạc rõ ra một thư sinh, giọng hát ngọt ngào, đào
Hòe vào vai Thị Kính thương cảm nhưng phong thái như một vị chân tu, đào Soan
lẳng lơ như chưa bao giờ lẳng lơ. Tất cả đã làm cho vở chèo có một sinh khí mới.
Ngay vai thằng Nô, đứa ở trong nhà phú ông đêm nay cũng diễn xuất thần. Tiếng
trống, tiếng vỗ tay rộn rã, những nắm tiền ném lên sàn diễn.
Tiếng trống đã dứt, đám người tan ra nhiều ngã như đàn kiến vỡ tổ với những tiếng
cười nói mỗi lúc một xa dần, đào kép người lo dọn dẹp, kẻ thay trang phục, lau phấn
chùi son... Mạnh Tông bồi hồi với vai Thiện Sỹ lần thứ nhất diễn giữa hai cô đào lâu
năm của gánh nhưng không chút kém cỏi, chàng như đã nhập vào vai ấy từ lâu lắm
rồi. Chàng thừ người đứng khuất vào trong một góc tối. Bỗng chàng giật mình khi
thấy đào Hòe đứng ở bên từ lúc nào chưa thay áo, chỉ mới bỏ cái khăn ra cho mái tóc
chảy dài về phía lưng, nàng hơi mỉm cười với đôi mắt long lanh, Mạnh Tông vừa định
nói thì bàn tay của đào Hòe đã đưa ngay lên trước miệng như ngăn lại rồi nàng đưa
tay ôm lấy ngang người Mạnh Tông, đầu rúc vào ngực... Mạnh Tông luống cuống gỡ
tay đào Hòe rồi quay người thoát ra ngoài chỗ sáng... Qua phút bàng hoàng Mạnh
Tông rảo bước về phía những đào kép đang quây quần ăn cháo khuya. Tiếng ông trùm
Phúc gọi lớn:
- Thiện Sỹ lại dây, còn Tiểu Kính Tâm đâu rồi...
Mọi người nhìn quanh không thấy đào Hòe đâu, có người lên tiếng gọi, lúc sau mới
thấy đào Hòe bước tới lặng lẽ không nói đưa tay nhận lấy bát cháo từ tay trùm Phúc,
kép Trụ đứng ở xa không thấy nhìn lên. Suốt đêm đó Mạnh Tông không sao chợp mắt
được, sớm hôm sau từ tờ mờ chàng đi về phía sông lớn nhảy xuống dòng nước đang
chảy xiết, chàng thả người cho nước đưa đi thật xa rồi mới bơi ngược trở lại. Ngâm
mình cho tới lúc thấy người lạnh cóng chàng mới leo lên bờ đê lấy cây sáo trúc dắt
trong người ra thổi, chàng nhớ tới bờ đê quê mình, những cánh ruộng phẳng, những
ngọn tre cao lắc lư trong gió. Chàng nghĩ tới những pho tượng ở chùa Mai Tụng, mái
nhà mà cha anh mình đang sống với nghề chạm khắc. Rồi chàng nhớ tới những ngày
đầu tiên theo gánh chèo, tới đôi mắt long lanh của đào Hòe... tiếng sáo bỗng như trầm
xuống, bâng khuâng không cớ... Chàng bỏ ống sáo xuống, nhìn sang bên thấy đào
Soan đang nhìn mình. Nàng mỉm cười:
- Anh thổi sáo nữa đi, sao người nhiều tài thế...
Phân vân giây phút Mạnh Tông đưa sáo lên thổi tiếp, tiếng sáo dìu dặt nhẹ nhàng như
vút cao vào không trung. Chàng nhìn dòng sông nước đang suôi chảy, nắng sớm mai
chiếu xuống mặt nước óng ánh như những miếng bạc vỡ, bên kia sông lau trắng ngút
ngàn chạy mãi tới chân dãy núi lam mờ mờ cuối chân trời. Đâu đây một tiếng chim
sâu đơn lẻ, lạc lõng. Đào Soan ngắt một bông cỏ may thả theo hướng gió. Cả hai
người ngồi im không nói. Mạnh Tông nằm dài ra sườn đê, hai tay dang ra mở mắt
nhìn nền trời cao xanh, những vạt mây trắng bay chầm chậm...
Sau khi ăn cơm trưa, ngồi dưới gốc cây đa ven bờ ao sen của đình Ô Lâu, ông trùm
nói với Mạnh Tông:
- Đào Hòe sáng nay đã xin phép về quê vì có tin mẹ đau nặng – ông trùm vẻ ngán
ngẩm – kiểu này chắc không xong rồi phải tìm đường thôi.
Đào Soan ngồi gần bên nói:
- Thì bố để anh Mạnh Tông sắm vai Tiểu Kính Tâm như bố đã cho tập thử đó?
Giọng ông trùm có vẻ dứt khoát:
- Phải đấy, chiều nay mình dượt thêm lần nữa.
Buổi chiều tập lại tích Quan Âm Thị Kính, kép Trụ nói không thành tiếng nên không
thể vào vai, ông trùm vào vai Thiện Sỹ... Tối lại tích Quan Âm Thị Kính được diễn
với một Thị Kính hoàn toàn mới nhưng lại được hoan hô không ngừng. Mạnh Tông
nghiễm nhiên trở thành đào chèo thanh sắc làm ngẩn ngơ bao nhiêu người, trong gánh
có người gọi chàng là cô Mạnh Tông.
Đào Hòe về quê không trở lại sau đó nhắn lên lời chào mọi người, kép Trụ sang diễn
ở gánh khác dưới mạn suôi. Ông trùm Phúc phải cho gánh ngừng ít ngày trong khi đi
gọi thêm đào kép. Một tối không diễn, trùm Phúc nói với Mạnh Tông:
- Liệu chú có quyết đi theo gánh không? Này Soan nó có cảm tình với chú lắm đó. Có
đào thì phải có kép...
Mạnh Tông không nói chỉ mỉm cười nhìn ông. Khi nhắc đến đào Hòe ông Phúc bảo:
- Tôi đã nói rồi, tay Trụ không xứng với nó, thêm nữa nghiện rồi thì đâu có tiền cho
đủ hút, mà cái nàng tiên nâu ấy khi đàn ông đã mắc rồi thì không biết vợ con nữa, chỉ
có con đường giữ vợ là làm cho vợ nghiện luôn mới xong... Đào chèo, cái nghiệp của
nó nặng lắm...
Ông trùm ngửa cổ cạn hết một chén rượu lớn:
- Ngay chính bản thân tôi cũng như đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc đời đào
kép rồi. Thuở còn thanh sắc kẻ đón người đưa, bao người chiều lụy. Nhưng khi hát
không ra tiếng, nhan sắc đã tàn thì nó bi thảm lắm, có chăng thỉnh thoảng người ta nói
lời thương hại: xưa kia... Thanh sắc đã đưa người ta tới bao nhiêu bi kịch, mà bào chỉ
với đào kép thôi đâu? Lúc tôi còn trẻ có kết với đào Hồng, lúc đó tôi hát hay, đẹp trai,
khỏe mạnh, nhưng đâu phải chỉ có một mình đào Hồng đâu? Lúc chúng tôi diễn ở phủ
Lạc Châu, tên tri phủ mê đào Hồng, kêu trùm phường chèo phải đưa đào Hồng vào
trong phủ hát gõ. Cái trò quan gọi đào vào phủ này diễn ra hoài. Tôi biết nếu đào
Hồng vào thì chẳng thoát được tên quan ấy. Tôi ngăn lại. Tên quan cho lính giữ gánh
chèo không cho đi. Tay trùm thuyết phục tôi và đào Hồng để cứu gánh chèo. Tôi đành
buông xuôi. Vào phủ rồi không biết tên quan hăm dọa và dụ dỗ ra sao không rõ, đào
Hồng không về với gánh chèo mà ở lại làm nàng hầu. Phần tôi đã đành, phần nàng sao
tội nghiệp hết sức. Sắc đã tàn, hương đã rữa tên quan mang gả nàng cho một tên đề
lại. Có nhan sắc đâu có sung sướng gì. Lúc tôi đã từng trải tôi mới lấy người vợ sau.
Nàng theo gánh chèo từ nhỏ do tôi dìu dắt, nhưng đến lúc đã đủ lông cánh, lại có nhan
sắc thì không cầm lòng được mà theo lời dụ dỗ của một kép trẻ đang lên. Đời đào kép
là như thế đó.
Phường chèo không có đào trẻ hát hay thì không ai xem, nhưng một khi đào đã nổi
tiếng thì lại khổ vì kép tranh nhau đào, khổ vì gánh khác tìm cách mua chuộc rù quến
đi, nhưng khổ nhất là với những kẻ có tiền, có quyền như mấy tên đầu tỉnh, đầu
huyện, đầu làng, những lãnh chúa... Khi gánh chèo nào có đào xinh đẹp là chúng
nhòm ngó. Khi tới xem diễn là đôi mắt của chúng đã hau háu, rồi sau đó tìm đủ cách
để ít nhất cũng vuốt được má, sờ được mông, để ngủ với đào. Đâu phải những tên đó
không có vợ đẹp, không có hầu non, khi chúng làm quan thì bỗng nhiên chúng trở
thành dâm đãng, tàn ác. Cũng có một vài tên quan chỉ mê đào, say tiếng hát rồi thôi.
Nhưng cũng có tên mê đào mà bỏ cả làm quan, trường hợp này hiếm nhưng cũng đã
có. Hình như đào chèo khi xuất hiện trên sàn diễn có thêm một sức quyến rũ ma quái
nào đó, Họ liếc mắt đưa tình, diễn cảnh âu yếm đã tập luyện, rồi... phấn son, trang
phục, kèn trống... Làm cho người xem muốn được sống như trong cảnh diễn, điều mà
ở cuộc sống họ không được sống. Họ muốn sống với một cảnh mà họ từng mơ ước.
Ông trùm Phúc ngừng lại một chút, rót thêm rượu:
- Anh còn trẻ mới theo gánh chưa thấy được hết thế nào là đời sống phường chèo. Tôi
hỏi thực anh: tại sao anh lại mê chèo? Hay vì một cô đào chèo nào đó hớp hồn anh?
Đào Soan hả, nó đâu phải một cô đào chim sa cá lặn gì... tôi chưa thấy ai đi theo nó
cả.
Mạnh Tông cười thành tiếng. Trùm Phúc nói tiếp:
- Trong đời tôi nhớ một cô đào. Đó là đào Sen. Sen đẹp và hát hay. Trong gánh lúc đó
có tới ba kép cúc cung tận tụy với cô ta. Lẳng lơ, sắc sảo ai gặp cũng tưởng cô ta có
tình ý với mình. Tới làng nào bọn hương lý gọi tới hát là cô đi ngay không bao giờ để
cho gánh gặp khó khăn. Có lần vào hát trong nhà tên lý trưởng, mụ vợ ghen đốt nhà
luôn, đào Sen chạy được về. Có người hỏi: có sao không? Cô ta nói tỉnh queo: mặc tới
bốn cái quần lận... Rồi lên huyện, lên tỉnh các quan đâu tha, nhưng chỉ là mèo vờn
chuột với cô ta thôi. Nhưng sau này nàng lại chịu đi lại với một tên đầu tỉnh. Tôi hỏi:
định làm bà lớn thật à? Đào Sen bảo: hắn già và hôi hám, em muốn xây cho mẹ em
cái nhà ngói và mua mấy sào ruộng. Nhớ lại tôi còn nhớ như in, thảm quá, tôi đâu có
làm được gì. Cô ấy ăn ở với gánh chèo rất tốt, chẳng có nay gánh này mai gánh khác,
lẳng lơ hình như chỉ ở ngoài da cô, người cao số, không chồng con, cho mãi tới khi
lớn tuổi mới rời gánh trở về quê sống với mẹ. Sao những người như thế mà không
được sống sung sướng? Trong tất cả những cô đào mà tôi được biết chỉ có một người
mà cuối đời là có hậu. Trong các phường chèo chẳng ai không nghe danh đào Út Gái.
Út Gái là một đào thương khi sắm những vai bi lụy thì không ai có thể cầm được
nước mắt vì tiếng hát não lòng người. Đào Út Gái không thiếu người đeo đuổi si mê.
Trong số đó có một anh đồ, nhà có của và nền nếp. Anh ta xem đào đào Út Gái diễn
lần đầu đã si mê bỏ cả đường học vấn, bỏ cả gia đình vác thân đi theo gánh chèo. Mới
đầu Út Gái khó chịu, có khi nặng lời nữa, rồi tìm đủ mọi cách xua đuổi, anh ta nhất
định không lùi một bước, gánh đi đâu anh theo đó, không được tới gần thì ở xa xa. Út
Gái khi trở trời trái nắng thì anh ta lại tới hầu hạ, khi Út Gái thất vọng thì anh ta an ủi
vỗ về. Anh ta vui buồn theo với vui buồn của Út Gái. Cuối cùng cảm vì mối tình si,
Út Gái ngả vào lòng anh ta, Út Gái bỏ gánh chèo và lập gia đình với anh ta. Họ sống
sung sướng.
- Nghe rồi cháu cũng muốn lạy tổ mà đi, sao đời đào kép khổ thế mà tổ không động
lòng...
- Tùy thôi, cũng có lúc tôi muốn cho gánh tan hàng, ai về nhà nấy. Nhưng cứ nghĩ ít
lâu lại thấy nhớ, cổ ngứa ngáy muốn hát, chân tay buồn bực muốn múa may... Thế là
thế nào nhỉ? Hay ông tổ của mình đã có một lời nguyền nào chăng?
Vừa nói hết câu trùm Phúc cười khà. Mạnh Tông nói:
- Phường chèo mà cũng có tổ?
- Nghề nào mà không có tổ, ăn mày cũng có tổ nữa. Nghề chèo ở ta thì tổ cũng không
rõ ai, có người nói là người Tàu tên Lý Nguyên Cát, người Tàu này sang dạy cho các
cung nữ của triều đình. Nhưng ở bên Tàu cho tới ngày nay đâu có hát chèo, không lẽ
ông ta nghĩ ra được. Khó tin, chắc tổ chèo phải là một người Việt chứ không thể là
Tàu. Các cụ mình ngày xưa khôn lắm. Có chữ viết mà không dùng. Tàu nó đô hộ thì
dùng chữ Tàu nhưng không nói tiếng Tàu. Có nhiều điều không viết ra, chỉ truyền
miệng, truyền từ đời này sang đời khác. Tích chèo của mình cũng vậy, có ai viết, chép
ra đâu. Nên cũng chẳng thấy tên tuổi người viết, chẳng biết được viết từ thời nào. Cái
thân trò thì ai theo nghề phải thuộc, cứ truyền miệng thế, rồi người diễn tùy tiện thêm
bớt, nhưng hẳn nhiên những cái gì hay thì lưu truyền, cái nào dở thì tự nhiên đào thải,
cũng như ca dao của mình, bao nhiêu bài hát của vùng quan họ cũng thế, những bà mẹ
ru con từ lúc lọt lòng, thế là câu hát điệu ru thấm vào đứa trẻ và lớn lên làm người
Việt Nam. Cho nên các truyện diễn ca của mình, anh thấy đó đều có thể trở thành hát
ru cả, cái thể thơ sáu tám nó mới giản dị làm sao, ai cũng có thể làm rồi từ đó là biến
ra những điệu hát... Tài tình thật.
Hát chèo là của sân tau
Bên Tây chẳng có, bên Tàu cũng không
Tây trắng chúng biết múa mông
Tàu vàng có đĩ đánh bồng múa đao...
Trùm Phúc vào ngay một làn chèo rồi cười khà khà nhừa nhựa chất men. Ông hát rồi
ông múa tay, dần dần tiếng nói không gõ trở thành lảm nhảm tiếng gõ tiếng mất cho
đến khi ngã người xuống chiếu ngủ vùi. Đêm đã khuya, Mạnh Tông nhìn lên bầu trời
sâu thẳm không một vị sao, chợt chàng thấy ánh mắt long lanh của đào Hòe hiện ra.
Chàng đứng lên trở về chỗ nằm của mình.
Gánh chèo Nam Hạ có thêm đào kép mới từ gánh khác qua, Mạnh Tông đóng cặp với
đào Soan rất ăn ý, tiếng nổi khắp vùng đồng chiêm. Dân mê chèo bàn tán về đào Thị
Phương sắm vai Tiểu Kính Tâm, một Mạnh Tông đóng vai Kim Nham, Dương Lễ,
hoặc Lưu Bình. Nhưng có người bảo: tận mắt trông thấy Thị Phương chính là kép
Mạnh Tông giả gái. Hơn thế nữa còn quả quyết Mạnh Tông là chồng đào Soan, người
thường đóng vai Thị Mầu, Thị Hến và cả vai Châu Long, Xúy Vân. Người nói thế
này, người nói thế khác khiến cho nền phường chèo Nam Hạ càng thêm có sức hấp
dẫn đối với người mê chèo. Người ta rủ nhau đi xem chèo nhưng cũng là để đánh
cược xem ai đúng, ai sai. Ban ngày còn có người rình xem mặt Mạnh Tông và đào
Soan. Người ta lẫn lộn giữa đào Soan với kép Mạnh Tông một phần vì Mạnh Tông
khi giả gái đóng vai nữ, rồi có khi đóng vai nam. Từ Ô Lâu gánh Nam Hạ di chuyển
không ngừng, nơi nào cũng được chào đón nồng nhiệt, chẳng đêm nào vắng người
xem, có người mới đêm trước coi ở đình làng, đêm sau lại theo gánh sang làng bên
xem lại. Cuối cùng phường Nam Hạ lên phủ Lạc Quần với dự định sau đó sẽ nghỉ
diễn một thời gian.
Ngay từ đêm đầu tiên phường Nam Hạ đã lôi cuốn một số người xem kỷ lục, nhiều
thanh niên trèo cả lên tường, lên ngọn cây để coi cho bằng được. Người xem đông,
đào kép nức lòng khiến cho tích diễn càng hay, người xem càng nồng nhiệt cổ vũ.
Gánh thành công nhờ tài diễn và tiếng hát của Mạnh Tông kéo theo đào Soan lên hạng
đào chèo có giá. Trùm Phúc nghĩ tới việc cho hai đào kép này thành đôi. Một hôm
ông nói:
- Hai đứa bây cứ vợ chồng hờ mãi à? Thị Phương thì phải có Trương Viên, Dương Lễ
thì phải có Châu Long, Kim Nham thì phải có Xúy Vân. Có đực thì phải có cái...
Cứ mỗi lần nghe trùm Phúc bắt đầu nói như thế thì Mạnh Tông chỉ cười trừ, còn Soan
tìm cách đi chỗ khác. Có lần trùm Phúc lấy giọng nghiêm mà vẫn như đùa:
- Tôi hỏi thực anh, anh là trai hay gái?
Đám đào kép bu quanh cười rộ. Mạnh Tông đỏ mặt, đào Soan ngượng ngùng. Có
người nói: chắc ái nam ái nữ. Hề Đá giọng bông đùa: tôi thấy... Anh ta không nói tiếp
mà diễn ngay một hồi hề câm làm mọi người cười bò lăn bò càng. Một tay chuyên vào
vai chạy cờ, giọng táo tợn: khám đi, không thì tụt quần ra là biết... Mạnh Tông cáu
lên, quát lớn:
- Không đùa nữa...
Thấy mặt Mạnh Tông đỏ gay, lông mày cau lại mọi người vội lảng đi. Trùm Phúc hơi
tủm tỉm cười:
- Mới đùa một chút mà đã cáu lên là thế nào? Vậy sao không chịu lấy vợ?
Mạnh Tông bỏ đi, lúc ra gặp đào Soan, nàng hơi cười vẻ đùa cợt. Mạnh Tông chưa
nguôi cơn bực bội:
- Cười, cười cái gì...
Đi hết một đoạn đường Mạnh Tông mới thấy người dễ chịu. Chợt chàng lại thấy
những người qua đường như chú ý tới mình, chắc họ nhớ mình trong tích diễn. Mạnh
Tông đổi hướng qua con đường vắng. Mạnh Tông nhận ra rằng: mình vẫn chưa hòa
nhập được với đời sống phường chèo, một đời sống đầy buông thả và nhuốm chất phi
luân. Son phấn hào nhoáng, tiếng đàn tiếng hát reo vui, những va chạm chớt nhả,
những cuộc đời thu ngắn trong một đêm diễn, đào kép phải sống với bao nhiêu cuộc
đời khác nhau, nhiều khi đối nghịch nhau về nhân cách, họ cười cợt, họ khóc than
thảm thiết... Cuộc đời, tích diễn, giả và thực, mặt trái và mặt phải... Người ta sống
không lẫn lộn?...
Vào đêm diễn chót ở phủ Lạc Quần, người xem đông không có chỗ chen chân. Tiếng
trống rộn rã hòa lẫn tiếng đàn, tiếng hát, những tràng vỗ tay không ngớt suốt từ màn
giáo đầu cho tới tích diễn kết thúc với tiếng trống vãn chèo. Giữa lúc người xem đang
ùa ra về thì một toán lính phủ ùa vào, đào kép chưa kịp thay quần áo nhốn nháo cả
lên. Trùm Phúc chạy ra, tên Đề lại hỏi:
- Đào Thị Phương đâu, quan phủ gọi.
Trùm Phúc ngỡ ngàng không hiểu, sao lại đào Thị Phương, vai Thị Phương vợ
Trương Viên thì đâu phải một đào sắm vai duy nhất?
- Dạ, chắc trên phủ nhầm, chỉ có Thị Phương vai vợ Trương Viên. Ở gánh chúng tôi
chỉ có đào Soan, đào Lệ, đào Tý.
Nghe đến tên mình, đào Soan rúm người lại, Mạnh Tông thì nhìn nàng lo âu. Lúc bấy
giờ đào kép đang đứng chung quanh theo dõi câu truyện, một tên lính chỉ vào Mạnh
Tông giả gái sắm vai Thị Phương vợ Trương Viên:
- Nó đây này.
Trùm Phúc vội nói:
- Đó không phải đào mà là kép Mạnh Tông đóng giả gái vai Thị Phương.
- À bọn mày định lừa chúng tao phải không? Bắt nó đi.
Không nói thêm gì đám lính ùa tới kéo Mạnh Tông đi, chàng kinh sợ ngã xuống, bọn
lính liền đứa giữ chân, đứa nâng đầu vác lên vai mà khiêng đi... Đào kép chung quanh
cũng như mọi người không hiểu việc gì vội vàng tản đi lo tai bay vạ gió tới với mình.
Mạnh Tông tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong phủ đường của quan đầu tỉnh. Chàng
không hiểu vì sao chàng lại bị bắt dẫn tới đây, có chăng một lầm lộn nào với kẻ tội
phạm giết người nào đó. Chàng lắng nghe có tiếng người: cô đào này đẹp thiệt, sắm
vai sẩm mù đi ăn xin mà vẫn ngon lành... Đẹp thế làm sao qua mắt quan được... Có
nhiều tiếng lao xao lẫn lộn nghe không rõ, chợt có tiếng hỏi lớn: nó tỉnh chưa? ... hình
như chưa... vào xem... Thấy có người bước tới, Mạnh Tông ngồi bật dậy. Tên lính nói
vọng ra:
- Nó tỉnh rồi.
- Vậy dẫn nó lên, quan phủ đợi.
Tên lính giữ lấy cánh tay Mạnh Tông kéo đi. Chàng bước theo ra ngoài. Tới cửa tên
đề lại kèm một bên:
- Muốn sống thì quan bảo gì nghe nấy. Nhớ không?
Đi qua mấy tòa nhà, qua mấy khoảng sân tối họa huần mới thấy một ngọn đèn với ánh
sáng yếu ớt, chỉ có tiếng bước dưới chân của ba người khua động sự im lặng trong khi
phủ quan. Đến một dãy nhà ngang có treo một ngọn đèn lớn ánh sáng chiếu rõ một
cửa vào đang mở, tên lính giữ tay Mạnh Tông lại, tên đề lại cất tiếng:
- Bẩm quan... con đã...
- Cho nó vào...
Tên lính đẩy cho Mạnh Tông bước qua bậc cửa rồi lấy tay kéo hai cánh cửa đóng lại.
Mạnh Tông nghe rõ tiếng chốt cửa.
Đứng giữa một gian phòng đầy ánh sáng, trước mặt là một người đàn ông đã đứng
tuổi, có râu bên mép mặc quần áo lụa đang nửa nằm nửa ngồi trên tràng kỷ. Mạnh
Tông nghĩ: chắc đây là quan phủ. Chàng cũng không biết phải làm sao vì lần đầu tiên
bước tới một nơi như thế, lại không hề được hướng dẫn chút nào, thêm nữa là cảnh
huống chàng đang gặp không biết lành dữ ra sao. Tại sao mình lại bị dẫn tới đây? Tên
quan ngồi thẳng dậy, hai chân thả xuống đôi hài ở dưới nền gạch, đôi mắt hau háu
nhìn Mạnh Tông từ đầu đến chân rồi tủm tỉm cười:
- Đến mà không đàn trống gì hát cho nghe à?
Ông ta muốn nghe mình hát? Mạnh Tông hơi ngạc nhiên:
- Dạ, lính bắt con tới, không nói gì cả, con tưởng...
Mạnh Tông nói với sự yên tâm hơn. Như vậy là không có tội gì. Bỗng giọng tên quan
rành rọt:
- Tại sao tới phủ này hát mà không biết quan là ai? Đến nhà người ta mà không biết
chủ là thế nào? Có biết lỗi đó không?
Mạnh Tông lúng túng, thế là thế nào, phải chăng vì lỗi gánh chèo không trình quan
mà bắt mình phải chịu tội. Mạnh Tông nói:
- Dạ, chúng con có lỗi.
- Biết lỗi vậy là được...
Giọng tên quan nhẹ hẳn đi. Mạnh Tông đứng im, tên quan rời trường kỷ đi một vòng
chung quanh Mạnh Tông ngắm nghía.
- Đẹp, đẹp thật...
Trở lại ngồi nơi trường kỷ, tên quan nói tiếp:
- Vậy bây giờ hãy hát một bài cho ta nghe.
Mạnh Tông lấy lại bình tĩnh và cất tiếng hát:
- Tại sơn chi hổ báo
Chưa gặp thời còn ẩn náu rừng xanh
Tôi Lưu Bình quê ở Bắc Ninh...
Tên quan giơ tay ra dấu cho Mạnh Tông ngừng lại:
- Mày hát được cả giọng nam nữa à?
Mạnh Tông ngạc nhiên:
- Dạ con là kép.
- Mày là kép? Mày định lừa tao à?
- Dạ không, con là kép giả gái đóng vai Thị Phương và nhiều vai nữa như Thị Kính,
Thị Hến và...
- Mày là kép giả gái?
- Dạ vâng,,,
Tên quan vùng đứng dậy khỏi trường kỷ:
- Cởi quần áo ra...
Mạnh Tông kinh hãi nhìn lên, chàng thấy mặt tên quan giống như mặt những tên quỷ
chàng đã khắc trên ván ở chùa Mai Tụng. Mạnh Tông luống cuống nhìn quanh như
tìm đường tháo chạy.
- Mày định chạy à, có mà chạy lên trời con ạ. Cởi quần áo ra.
Mạnh Tông càng luống cuống và không biết làm sao chỉ còn nghe theo như cái máy.
Chàng bỏ bộ quần áo giả gái của vai Thị Phương ra chỉ còn lại cái quần lót. Chàng
vừa đứng ngay thì tên quan lại quát lớn:
- Cởi hết ra...
Mạnh Tông như người mất hồn, cởi bỏ nốt chiếc quần rồi đứng ngay tàn tán, hai tay
bụm lại che hạ bộ như một phản ứng tự nhiên. Tên quan đôi mắt mở lớn nhìn khắp
thân thể chàng. Chợt tên quan ra lệnh:
- Quay đằng sau lại...
Mạnh Tông như một kẻ vô hồn.Chợt chàng thấy những bước chân tiến lại gần từ phía
sau lưng, một bàn tay ướt lạnh để lên vai rồi vuốt suông xuống tới lưng, thân thể
chàng uốn theo và nổi gai khắp người. Một giọng nói lảm nhảm:
- Thị Phương, Thị Kính, Thị Mầu..
Mạnh Tông bị ôm chặt từ phía sau không sao cựa quậy được. Một nỗi kinh hoàng
khác thường ập đến. Chàng cố gắng vùng vẫy nhưng cuối cùng bị đè xuống nền nhà.
Tên quan như con thú điên trên lưng Mạnh Tông.
Tỉnh lại Mạnh Tông thấy mình nằm ven đường cái quan, thân thể trần truồng nhớp
nhúa, quần áo vứt ở bên. Trời chưa sáng, không có một bóng người trên đường. Mạnh
Tông vớ lấy quần áo mặc vào rồi phóng chạy.
Khi nhìn thấy ông trùm Phúc đứng nhìn chàng trân trân, Mạnh Tông hình như chưa
hoàn hồn, chàng nói trong cơn mê loạn:
- Tôi bị... hiếp...
Mạnh Tông co rúm người lại và ngã xuống bất tỉnh một lần nữa. Trùm Phúc như hiểu
ra cơ sự vội vàng bế chàng vào chỗ kín đáo, tắm rửa thay quần áo cho Mạnh Tông.
Khi tỉnh dậy Mạnh Tông định nói nhưng trùm Phúc ra dấu cho chàng im lặng và nằm
yên.
Ngay buổi trưa hôm đó gánh chèo Nam Hạ gồng gánh kéo nhau đi khỏi Lạc Quần.
MạnhTông quyết định đưa đào Soan về quê mình. Trên đường Mạnh Tông nói về gia
đình về nghề chạm khắc mà trước đó chàng đã theo đuổi. Giọng Mạnh Tông như vẫn
ở trong cơn kinh hãi:
- Làm đào chèo không được đâu, đã bao nhiêu người khốn khổ vì nó rồi. Anh mê
chèo, anh cũng muốn sống tới già với chèo nhưng không được, cái này nó oan nghiệt
quá, mình không thể sống với nó... quỷ ở khắp trần gian...
Giữa đường đi ngang qua chùa Mai Tụng. Mạnh Tông nói với Soan:
- Hay quá, không ngờ mình lại đi ngang qua đây, anh muốn chỉ cho em thấy những
tượng mà nhà họ Đồng đã làm.
Hai người bước qua cửa tam quan. Đi hết nửa sân Mạnh Tông gặp một chú tiểu, khi
hỏi thăm mới rõ sư thầy trụ trì trước đây đã qua đời. Trước tam bảo Mạnh Tông và
Soan cùng quỳ xuống, không khí tĩnh lặng, khung cảnh trang nghiêm, những tượng
Phật son thấp vàng rực rỡ, hương trầm phảng phất, Mạnh Tông thấy mình như đang ở
một thế giới khác, thế giới của tĩnh tại và thanh thoát.
Lễ Phật xong Mạnh Tông dẫn Soan đi coi bộ tranh khắc Thập Điện Diêm Cung chạy
theo bức tường quanh chính điện. Mạnh Tông nói rất nhỏ vào tai Soan:
- Anh khắc đấy, đẹp không?
Đi hết một vòng, khi bước xuống sân Soan mới nói:
- Trông khiếp quá anh ơi.
- Là địa ngục mà, toàn quỷ với những kẻ có tội...
- Anh chỉ biết khắc quỷ thôi à?
Mạnh Tông không biết trả lời sao, mãi sau nhớ tới tượng người để hậu thờ ở sau chùa:
- Anh có khắc người nữa...
Hai người đi vòng ra sau chùa để tới nhà hậu. Sau khi quan sát khắp một lượt Mạnh
Tông nhận ra pho tượng mình đã khắc nhưng có điều khác thường: một tấm vải đỏ
phủ lên đầu pho tượng khiến không thể nhìn thấy mặt. Mạnh Tông chỉ cho Soan pho
tượng rồi tiến tới gần để lật tấm vải lên cho Soan nhìn rõ pho tượng mình đã khắc.
Nhưng vừa lật miếng vải Mạnh Tông đã vội buông xuống: tượng không có mặt, tượng
đã bị vạt mất mặt. Mạnh Tông bàng hoàng cầm tay Soan đi vội ra ngoài. Soan hỏi:
- Sao vậy anh?
- Không biết nữa...
Bao nhiêu câu hỏi đến với Mạnh Tông. Ai đã đục bỏ mặt tượng người để hậu? Tại
sao? Tượng không có mặt sao vẫn để trên bệ thờ. Suốt trên đường về nhà pho tượng
mất mặt ám ảnh Mạnh Tông.
IV.
Thấy người con út trở lại nhà họ Đồng ai cũng mừng rỡ. Riêng Mạnh tông khi thấy
cha già nay đã không nói được sau một cơn bệnh ngặt nghèo. Anh Hạo Thiên thì lên
núi đã lâu, có người nói hình như anh đi tu tiên. Đồng Bái Nhật mới lập gia đình ở
chung với cha thay người con trưởng. Đồng Tuệ Nhân buôn bán giàu có nay đã có
dinh cơ riêng. Về nhà Mạnh Tông không nói gì về những ngày theo phường chèo
Mạnh Tông dẫn Soan vào lạy cha, chào các anh các chị trong nhà và xin phép làm lễ
cưới. Trong nhà không ai hỏi, nhưng Tuệ Nhân thì nói với anh Bái Nhật: chắc chú út
mê cô ấy từ trước nên mới theo gánh chèo. Trong nhà dù Hạo Thiên vắng mặt nhưng
những người thợ chạm vẫn làm việc như hồi Mạnh Tông chưa đi. Bái Nhật nói:
- Lúc cha còn nói được, cha bảo: thế nào rồi út nó cũng về. Sau khi cha thoát chết, anh
vẫn lo việc làm cho thợ để trong nhà được vui vẻ với một sinh hoạt không thay đổi,
anh nghĩ điều đó có thể giúp cho cha sớm bình phục đợi ngày em về. Quả như lời cha
nói.
- Anh Hạo Thiên bảo em: tay chú cha mẹ sinh ra là để chạm khắc...
Mạnh Tông soạn lại đồ nghề của mình, ngó mắt vào công việc thường ngày của thợ,
mà thợ trong nhà nào ai khác là những con cháu không bên nội thì bên ngoại, còn thì
người làng, người trong tổng cả. Khi thấy một khúc gỗ ngắn, lớn hơn cái đầu người
thì Mạnh Tông nghĩ tới pho tượng bị mất mặt ở trên chùa Mai Tụng: sao mình lại
không thay bằng một cái đầu mới hay một cái mặt mới?
Ngay hôm đầu tiên cầm cái dùi đục trên tay, sau vài nhát chạm chàng ngẩng mặt lên,
nơi cửa Đồng Cát Sỹ đang nhìn con, chàng vội chạy đến, người cha run rẩy cầm lấy
tay người con út, môi ông mấp máy muốn nói mà không thành lời, nước mắt chảy ràn
rụa xuống hai gò má nhăn nheo. Mạnh Tông cũng khóc theo...
Từ một đào chèo với cuộc sống gần như không nhà, trôi nổi hết nơi này tới nơi khác,
Soan bắt đầu một cuộc sống mới không phải không ngỡ ngàng. Mạnh Tông chỉ cho
vợ từ cái nhỏ nhất trở đi, chẳng bao lâu với thiện chí nàng đã trở thành người nội trợ
tháo vác, hầu cha khuya sớm tận tụy, sống với mọi người chân tình đằm thắm.
Cầm chiếc đục trên tay, trước khúc gỗ ngắn, Mạnh Tông cố nhớ tới mặt pho tượng
của người để hậu ở chùa Mai Tụng nhưng chàng chẳng thể nào nhớ ra được. Những
nét mặt hiện ra lúc thế này, lúc thế khác, lúc thì ác, lúc thì hiền... bao nhiêu nét mặt
hiện ra nhưng chàng thấy đều như không phải...
Chàng lấy giấy bút ra phác thảo, vẽ rồi xóa, xóa rồi vẽ mà cuối cùng chẳng đi tới đâu.
Tại sao mình đã quên đến như thế được. Vẽ mãi cũng chẳng ra đâu với đâu chàng
quay sang vẽ phong cảnh, vẽ chó mèo trong nhà, vẽ chim và những hoa lá trong
vườn... Chàng nhớ tới những ngày giả gái đóng vai Tiểu Kính Tâm, chàng cười thầm
với mình chàng đưa bút vẽ một ni cô, sau mấy nét phác thảo chàng chợt nhận thấy có
nét hao của Soan. Càng vẽ tiếp, chân dung Soan càng đậm nét, chàng hứng thú và tiếp
tục hoàn chỉnh. Chàng quên hẳn pho tượng ở chùa Mai Tụng.
Vẽ hết bức này tới bức khác, mỗi lúc Mạnh tông một thấy nét bút của mình thay đổi,
từ rườm rà tới tinh giản, trong lúc đó chân sung Soan mỗi lúc một đẹp hơn, sinh động
hơn. Sau cùng chàng ngừng lại và gọi vợ tới coi mình vẽ bức cuối cùng chàng còn giữ
lại:
- Có giống em không?
Soan bối rối:
- Anh vẽ em để chờ em chết mà thờ à?
Mạnh Tông phải giải thích nhiều lần, nhìn nét vẽ của chồng Soan thấy mình như đẹp
hơn, duyên dáng hơn. Chàng cất bức tranh đi và nói:
- Anh sẽ khắc tượng em.
Thấy khúc gỗ ngắn còn lăn lóc dưới chân, chàng cầm lên ra sân và vứt nó xuống ao.
Mạnh Tông nhủ thầm: một cái đầu thôi không ư? Không? Trong đầu Mạnh Tông như
một pho tượng ngồi với dáng vẻ riêng của Soan hiện ra: một Soan gần gũi, dịu hiền.
Một buổi sáng vừa thức dậy Mạnh Tông đã thấy anh Hạo Thiên đang tươi cười từ
ngoài ngõ bước qua cổng nhà. Chàng reo lên như một đứa trẻ:
- Anh đi đâu vậy?
- Anh đi tìm chú, nhưng...
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể bắc đi tìm bể đông
Tìm biển đông thấy lông chim nhạn
Anh đi tìm biển cạn thấy đàn chim bay
Tìm em...
Vừa hát Hạo Thiên vừa ôm lấy người em út rồi tiếng cười sảng khoái. Anh em gặp
nhau mừng rỡ khôn xiết, ngôi nhà họ Đồng như ấm hẳn lại với niềm vui sum họp.
Trong bữa cơm sum họp, mấy anh em nhà họ Đồng mãi vui mà đều uống quá chén
cho tới khi ai cũng say khướt. Đồng Bái Nhật nằm ngay nơi chỗ ngồi mà ngũ không
còn biết trời trăng gì. Đồng Tuệ Nhân thì được dịp để huyên thuyên về những chuyến
buôn hàng của mình, nhưng lẫn lộn nơi này với nơi khác, chuyện mới mà thành
chuyện xưa. Mạnh Tông chuếnh choáng hỏi anh:
- Anh đã vào tới cõi Thiên Thai chưa? Có thấy Tiên không?
- Tiên à, chưa thấy… Thế còn chú? Chú đã tới chốn đào tiên và khênh cả một cô tiên
về nhà này rồi còn gì...
- Thế còn anh, cô tiên của anh đâu?
- Có đấy. Tôi lên núi đi mãi, đi mãi tới một nơi sao phong cảnh mới hữu tình làm sao,
tôi có làm mấy bài thơ đấy, rồi tới một nơi tôi chắc là động tiên... Lúc ấy nghe có
tiếng hát, chắc chắn là tiếng hát của một cô tiên... tiếng hát nó hay làm sao... Nhưng
lắng nghe tôi thấy tiếng hát đến ở sau lưng mình, tôi nghĩ chắc các nàng tiên đang ở
ngoài, tôi quay lại, đi mãi chẳng thấy ai, và lúc đó tôi mới nhận ra tiếng hát đó là của
chú, thế có chết không. Tôi vội trở lại đường cũ, nhưng chẳng thấy có con đường nào,
chẳng thấy cửa động đâu mà chỉ thấy rừng cây rậm rạp. Chưa vào thiên thai mà Từ
Thức đã phải trở về trần. Chính là tại chú... Bây giờ chú phải đi tìm cho tôi một cô
tiên để chuộc cái lỗi... Trần gian lạc lối sao mình ở đây...
- Em hát mà sao anh tưởng là tiên nữ được... Không phải thế.
- Đi tìm chú, người ta nói... Nhưng thôi, chú đã hát cho khắp cả bàn dân thiên hạ nghe
rồi, bây giờ chú phải hát, hát cho cả nhà nghe...
- Được quá đi chứ, để em hát hầu cha và các anh...
Mạnh Tông đứng lên nhưng thấy chân mình không vững nữa, đôi chân của chàng như
đã biến đâu mất, chàng lảo đảo đứng mãi không được. Soan chạy đến bên cho chàng
vịn, chàng giữ chặt lấy vai vợ cho khỏi ngã. Hình ảnh đôi mắt long lanh khác lạ của
đào Hòe, hình ảnh tên quan với đôi mắt hau háu, hình ảnh những quỷ dữ dưới Diêm
cung ở chùa Mai Tụng chợt hiện đến. Chàng khoa chân múa tay điên loạn, miệng há
hốc, đôi môi run rẩy mà chẳng ai nghe thấy tiếng nói, tiếng hát nào. Rồi chàng gào lên
và những chuỗi âm thanh không rõ ràng, không tiếng nào ăn với tiếng nào. Cho đến
lúc tiếng hát rõ dần thì nó khê đục và không ai nghe ra làn điệu gì cả... Chàng cố gắn
mấy lần nhưng đều vô vọng, chàng như mất hẳn vẻ bình tĩnh, chàng cố gào lên những
âm thanh hỗn độn, những âm thanh giống như của tên điên đang gào thét kêu la.
Mạnh Tông cứ ú ớ như thế, lưng thì ướt đẫm mồ hôi, lúc sau chàng đứng im như trời
trồng. Soan lay gọi chàng:
- Sao vậy anh?
Nước mắt chảy ròng ròng xuống má, giọng Mạnh Tông như lạc đi:
- Tiếng hát của anh đâu?
Nói vừa hết câu Mạnh Tông ngã vào tay vợ. Men rượu làm cho chàng ngủ vùi. Hạo
Thiên cũng đã say khướt đang ngâm nga một bài thơ nhưng cũng chẳng ai nghe rõ
tiếng nào.
Không ở lại nhà lâu, Hạo Thiên xin phép cha đi xa, nhờ cậy các em trông nom cha
già. Mạnh Tông hỏi:
- Anh đi đâu?
- Anh có hẹn với các đồng bạn, anh lên mạn ngược.
Đồng Tuệ Nhân lo lắng:
- Em nghe nói trên đó hồi sau này nhiều giặc nổi lên, anh tới đó mà làm gì...
Bái Nhật chen vào:
- Như thế thì giặc nó bắt mất tiên rồi còn đâu, nếu không tiên cũng chạy rồi anh cả ạ.
Mấy người cùng phá lên cười. Mạnh Tông không nói gì. Hạo Thiên rời nhà khi chiều
vừa tắt nắng. Mạnh Tông đưa anh cả ra sông chờ đò dọc, hai anh em đều im lặng nhìn
nhau, Hạo Thiên cầm chặt lấy tay em trước khi bước xuống thuyền. Mạnh Tông đứng
nhìn theo cho tới khi con thuyền khuất hẳn mới trở về nhà.
Cuối cùng Mạnh Tông đã tìm được một khúc gỗ như mong đợi. Chàng ngắm nghía và
phác họa trong đầu. Thấy em như có ý tạc tượng thì Tuệ Nhân hỏi ngay:
- Chú định tạc tượng?
- Dạ, sao vậy anh?
- Chú quên là triều đình đã ra lệnh cấm không được tạc tượng à?
- Nhưng chỉ cấm tạc tượng Phật, Thần thôi...
- Thế chú định làm gì với khúc cây tốt như thế này?
- Em định... để làm xong rồi anh sẽ thấy, chắc đẹp lắm đó...
- Đẹp, nhưng liệu có bán được không?
Mạnh Tông giữ cho mình không cười lớn. Trong óc người anh kinh doanh hình như
lúc nào trong đầu cũng là một phép toán, hết cộng trừ đến lời, lỗ, nhiều, ít... Mạnh
Tông nói với anh:
- Trách nào chẳng bao giờ anh chịu làm thơ...
- Sao chú nói vậy?
- Thơ đâu có bán được...
Đồng Tuệ Nhân gúc gúc cái đầu không nói thêm nữa. Mạnh tông trở lại với những
phác thảo, chàng quanh quẩn bên vợ để ngắm nghía, nhìn từ nhiều góc cạnh khác
nhau chàng thấy vợ mình đẹp hơn, xinh hơn khi nhìn kỹ. Khóe miệng tươi nhưng kín
đáo, đôi mày thưa nhạt mà vẫn rõ nét, đôi mắt sâu nhiều tâm sự nhưng trắc ẩn và
khoan dung, nước da trắng mịn, nét thanh tú của sống mũi khiến cho gương mặt lúc
nào cũng đầy ánh sáng... Sau phần tạo dáng toàn thể, Mạnh Tông mang pho tượng
vào gian phòng riêng của ngôi nhà vợ chồng chàng ở. Chàng không muốn ai chú ý tới
việc của mình.
Trông nom ít người thợ trong nhà, khi mùa màng đến Mạnh Tông giúp một tay một
việc đồng áng. Pho tượng được gợi hứng từ những bức chân sung phác thảo người vợ
là một nguồn hạnh phúc vô ngần đối với một người vẫn say mê tin rằng: đôi tay mình
được cha mẹ sinh ra là để chạm khắc. Chàng tiến hành khắc tượng một cách chậm rãi,
cẩn trọng với tất cả tâm hồn.
Có những ngày liên tiếp người trong nhà không thấy bóng Mạnh Tông, chỉ có Soan
biết chồng mình ở đâu.
Soan sinh được đứa con trai đầu lòng. Cả nhà mừng rỡ, thỉnh thoảng nghe tiếng vợ ru
con, Mạnh Tông thoáng nghe như một điệu hát nào đó hết sức quen thuộc, mà mình
đã từng nghe, từng hát. Thấy chồng ngớ ra, vẻ mặt khác thường, Soan hỏi:
- Anh đã quên hết những làn điệu chèo rồi sao?
Mạnh Tông giật mình như vừa ra khỏi cơn mê. Những làn điệu chèo, bài ru con của
những bà mẹ sau lũy tre xanh, nhịp trống quân trong sân đình những đêm trăng sáng,
tiếng hò trên bến sông... Chàng ngồi lắng nghe tiếng Soan hát, giọng ngọt ngào chân
chất, âm vang như quấn quít quanh chiếc võng đong đưa mà Soan đang đẩy qua đẩy
lại cho đứa con vào sâu giấc ngủ...
Soan nói:
- Bao nhiêu làn điệu của chèo, anh nhớ không? Nhưng với em bài nào cũng thành
điệu ru con được cả...
Mạnh Tông nhìn vợ đang cúi xuống đứa con nằm trong võng:
- Xưa anh cũng đã được nghe mẹ hát...
Pho tượng Soan qua những đường chạm khắc của Mạnh tông dần dần thành hình mỗi
lúc một rõ hơn, hằng ngày Mạnh Tông thường tìm cách để ngắm vợ một cách kín đáo
không cho Soan biết. Có những quãng thời gian dài chàng chỉ ngắm vợ rồi ngắm
tượng. Chẳng có gì hối thúc khiến chàng phải vội vã. Tới lúc pho tượng phải thành,
như nơi đến của một người trong cuộc hành trình. Một ngày tới đây chàng sẽ dẫn vợ
vào trong gian nhà vẫn đóng kín cho nàng thấy: khúc gỗ ngày nào đã không còn là
khúc gỗ xù xì tầm thường như bao khúc gỗ khác. Nó không còn là kiếp gỗ. Nó đã
chuyển sinh qua một kiếp sống khác.
Trong những ngày đêm say mê, mải miết bên pho tượng, Mạnh Tông chẳng còn để ý
tới những gì đang xảy ra. Mùa nắng lửa vừa qua, trời đổ mưa như trút không ngừng
hạt, hết ngày này sang ngày khác gần như không lúc nào dứt. Trong mưa, để nói cho
người khác nghe thì phải gào lên. Trời như thấp xuống trong khi nước sông hồ dâng
lên tràn bờ. Có ngày mới giữa trưa mà tưởng như trời đã tối tự bao giờ. Pho tượng đã
hoàn tất, Mạnh Tông ngắm nghía từ góc nhìn này sang góc nhìn khác mãi không biết
chán. Mạnh Tông nóng ruột nhìn trời đất, chỉ mong cho trời quang mây tạnh, chàng
mở toang tất cả các cánh cửa cho ánh sáng chan hòa gian nhà nhỏ, chàng sẽ dắt tay
Soan vào để thấy được công trình của mình.
Tiếng trống hộ đê vẫn vang lên: tai họa đang chờ đợi. Trời mưa như đánh trống, nhiều
người ở vùng trũng lũ lượt kéo nhau lên những vùng cao hơn... Mỗi lúc người chạy đi
một đông. Rồi tin đê vỡ, mọi người bỏ hết của cải mà chạy mong sao thoát thân.
Mạnh Tông nghe tiếng réo gọi hốt hoảng cõng cha già lên vai, Soan bế con nhỏ rồi
cùng nhau chạy theo mọi người... Ai cũng thấy như con nước đang bén gót phía sau
lưng, chẳng ai còn có thì giờ mà ngoảnh cổ nhìn lại. Nước lên cao và nhanh có thể
nhìn thấy được, những bờ ruộng biến mất, rồi tới những mái nhà thấp... qua đêm,
trước mắt mọi người chỉ có nước đục mênh mông cuồn cuộn chảy ra biển, thỉnh
thoảng nhô lên mấy ngọn tre già phơ phất... Những người ở gần quãng đê vỡ khóc
than nói về những thảm khốc ở đó, có những cụ già, những trẻ thơ, những người đàn
bà chậm chân nước đã cuốn đi cùng với nhà cửa, trâu bò... Và đồng ruộng, nương bãi
thì hoa màu rồi đây còn gì để thu hoạch? Người ta chỉ còn biết cầu trời khấn Phật
mong cho con nước sớm qua.
Mưa ngớt dần rồi dứt hạt, trời sáng và xanh trở lại, nước rút nhanh, dân chúng đã đắp
lại quãng đê vỡ. Mọi người dắt díu nhau trở về. Mạnh Tông bàng hoàng nhìn cảnh
làng mạc bị nước tàn phá. Trong khu vườn rộng của nhà chàng chỉ còn lại ngôi từ
đường, ngôi nhà nhỏ của vợ chồng chàng nước đã cuốn trôi, và pho tượng cũng không
thấy dấu vết. Mạnh Tông lòng thắt lại, nhìn vợ không nói thành lời.
Sau mấy ngày đêm lo ổn định chỗ ăn ngủ cho vợ con, Mạnh Tông quyết định men
theo dòng sông với hy vọng tìm thấy pho tượng đá trôi giạt vào đâu đó.
Chàng đi theo hướng nước rút. Những ngày thơ thẩn tìm kiếm vô vọng chàng chỉ
thêm đau lòng với cảnh tang thương bày ra trước mắt của vùng chiêm trũng vốn đã
nghèo khó... Nhưng người ta không bó tay chờ chết. Những con người khốn khổ
không chịu khuất phục, điều mà chắc từ ngàn xưa người đời trước cũng đã từng trải
phấn đấu. Những ngôi nhà sơ sài được dựng lên, người ta dọn đất, đào mương, gieo
hạt, trồng cây... Mỗi bước kiếm tìm của Mạnh Tông là thêm một bước thất vọng.
Nước đã đưa pho tượng tới đâu? Nó đang chìm dưới đáy nước hay đang lênh đênh
trên mặt biển mênh mông?
Khi đi tới ngã ba sông nỗi thất vọng đã thành tuyệt vọng, chàng ngồi bệt xuống bãi
phù sa nhìn mung lung bốn phía. Chợt chàng thấy ở phía xa, trên một gò đất cao có
nhiều người đang tụ tập dưới một tàn cây xanh. Hình như nơi này nước không dâng
tới. Mạnh Tông đi nhanh lên phía gò đất. Một nông dân từ phía trên đi xuống, chàng
hỏi:
- Có chuyện gì ở trên đó thế?
- Chúng tôi dựng đền...
Chưa kịp hỏi thêm người kia đã vội vã đi mất. Khi lên được tới nơi có gốc cây xanh,
Mạnh tông ngạc nhiên sung sướng: pho tượng còn đây. Chàng định chạy tới ôm lấy
pho tượng. Bỗng chàng ngừng lại. Pho tượng ở cách gốc cây khoảng mười bước chân,
được để trên một tảng đá, phía trước tượng để một bát nhang còn mới khói hương
nghi ngút. Chàng tự hỏi: tượng thần. Hay mình lầm. Chàng nhìn những người quanh,
mỗi người một việc với công trình xây cất, những người mới tới thì không ai bảo ai
đều tới trước tượng thắp hương van vái hết sức cung kính. Chàng nhìn kỹ pho tượng
và tin chắc đây là pho tượng mình đã làm. Nhưng tại sao nay tượng lại ở đây, trong
khung cảnh này? Mạnh Tông đến bên một cụ già:
- Thưa cụ, đây là tượng...
Ông cụ nhìn Mạnh Tông, miệng suỵt suỵt ra dấu cho chàng đừng nói tiếp, ông cụ nói
nhỏ cho chàng vừa đủ nghe:
- Phải, đây là tượng Bà Chúa... Bà Chúa Trôi đã cứu người trong trận vỡ đê vừa rồi...
Ông cụ kéo tay chàng đi lui ra phía sông như để tránh cho những điều sắp nói có thể
thành bất kính trước pho tượng.
- Anh ở xa tới nên không rõ, chẳng là thế này: Hôm vỡ đê, nước tràn về vùng chúng
tôi khiếp lắm, cái gì cũng cuốn băng, không có cái gò đất này thì chúng tôi chết sạch
rồi. Những người ở phía trên chết vô kể. Làm sao mà cứu được? Chính mắt tôi nhìn
thấy những cánh tay dơ lên kêu cứu, chính mắt tôi nhìn thấy hai người đang bán trên
một mái lều mà nước đang cuốn đi băng băng... Chúng tôi chỉ biết lạy trời, lạy Phật.
Rồi chúng tôi thấy một pho tượng trôi dạt vào mép nước – ông cụ chỉ xuống đất ngay
chỗ hai người đang đứng – Đây, chính ở chỗ này đây. Chính tay tôi và mấy người
nữa, chúng tôi quăng dây thừng ra kéo vào. Nhưng sao tượng quá nặng, có người nói
chắc tượng đồng, tượng đồng làm sao mà nổi, thật chẳng biết gì cả, khi kéo được đầu
tượng lên thì chúng tôi hiểu vì sao tượng nặng: dưới chân tượng có một cành tay ôm
lấy, cánh tay một cháu nhỏ, chúng tôi vội vàng kéo nhanh, một người lội xuống và bế
cháu trai nhỏ lên bờ, tay cháu vẫn bám chặt lấy chân tượng. Đưa cháu vào lều, thay bỏ
quần áo ướt, một thanh niên vác ngược cháu lên chạy mấy vòng cho nước trong bụng
ọc ra, lau khô rồi chúng tôi người bóp chân, kẻ bóp tay... đứa nhỏ thở rồi khóc, chúng
tôi thì mừng chảy nước mắt. Cháu đã sống. Pho tượng cứu cháu...
Ông cụ kể một cách hối hả như sự việc vừa mới xảy ra đây, Mạnh Tông hồi hộp lắng
nghe câu chuyện. Ông cụ nói tiếp:
- Lúc cháu nhỏ tỉnh rồi, chúng tôi hỏi thì cháu nói: cháu bị nước cuốn đi, bỗng thấy có
vật gì trôi bên cạnh, cháu đưa tay bám lấy, từ đó cháu không biết gì nữa cho tới khi
được cứu sống. Thật là chuyện lạ...
Trở lại trước pho tượng, cụ già giọng kính cẩn:
- Bà Chúa đã cứu người, Bà sẽ phù hộ chúng tôi. Chúng tôi lập đền thờ Bà...
Mạnh Tông nhìn lên: pho tượng mới uy nghi làm sao. Chàng bước tới gần nhìn từng
chi tiết trên mặt, dưới chân, tới những nếp áo... tất cả, chàng không thể lầm: chính là
pho tượng chàng đã khắc. Cụ già nói:
- Khi vớt tượng lên cùng cháu bé, có người nói: Phật Bà Quan Âm. Mới thoạt nhìn
chúng tôi cũng tưởng thế và cho rằng tượng đã trôi từ một ngôi chùa nào đó và định
rước vào chùa làng. Nhưng sau mọi người nhìn kỹ thấy không hoàn toàn đúng, có
những chỗ giống nhưng không phải. Đây là tượng một bà chúa từ trên ngàn theo nước
xuống. Chúng tôi ngay lúc đó đã quyết định lập đền thờ ở chính nơi Bà đã dừng lại.
Sao Bà lại chọn nơi này? Cũng lạ lắm anh ạ, cái gò này với làng chúng tôi là một gò
đất thiêng: đây là Gò Mả Trâu. Chẳng là ngày xưa vùng này còn hoang vu, thú dữ còn
nhiều, các cụ kể lại rằng một đêm cọp về làng, trong làng có một con trâu đã xông ra
đánh nhau với cọp, hai con vật quần nhau suốt đêm. Sáng hôm sau, trước mắt dân
làng: mấy nương ruộng đã trở thành một ao bùn, chẳng còn một ngọn cỏ, con trâu
nằm đè lên xác con cọp mà chết. Nhìn cảnh tượng ai cũng khiếp hãi. Xác cọp được lôi
đi, xác trâu được để nguyên tại chỗ và dân làng làm lễ mai táng cho nó. Nếu không có
con trâu dũng cảm kia thì bao nhiêu người dân đã thiệt mạng? Sau đó người dân cùng
nhau gánh đất đắp mả cho trâu, khi ruộng trũng đắp mãi thành một gò cao, trên giữ gò
để một phiến đá lớn, bên cạnh trồng một gốc đa. Từ đó nơi đây người dân gọi là Gò
Mả Trâu... Cây đa mỗi lúc một cao, tàn lá mỗi lúc một rộng, bóng mát mỗi lúc một
nhiều và trở thành nơi nghỉ chân cho người đi cày đi cấy, cũng như những ai ngang
qua cánh đồng...
Giọng kể của cụ già đầy vẻ tôn kính. Mạnh Tông thắp ba nén hương cắm vào bát
nhang, chàng chắp tay nhìn lên: khói hương bay quyện mờ ảo, pho tượng trước mắt
chàng đã trở thành một pho tượng khác, không còn là tượng đào Soan, không phải
tượng vợ chàng. Chẳng phải tượng người con dâu nhà họ Đồng. Đây là tượng Bà
Chúa Trôi. Bà Chúa đã cứu sống người. Giữa đồng nước mênh mông, pho tượng Bà
Chúa đầy vẻ uy nghi mà vẫn hiền hậu dịu dàng, như từ đó tỏa ra một vùng ánh sáng
lung linh huyền ảo...
Chẳng bao lâu cả vùng đồng chiêm ai cũng biết sự tích pho tượng cứu người. Đền thờ
nơi Gò Mả Trâu lúc nào cũng khói hương nghi ngút. Có những người dân quê nói với
nhau về những điều cầu xin của mình thành sự thật... Đền thờ Bà Chúa Trôi nay vẫn
còn.
Gia Định 1996
… hết …