Chiến Dịch
Tánh Linh & Hoài Ðức
Sau khi chiếm miền Nam, CS cho sáp nhập 3 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và Bình Tuy thành
tỉnh Thuận Hải. Cuối năm 1991, tỉnh Thuận Hải được tách làm đôi thành hai tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận.
Tỉnh Bình Thuận có diện tích là 7992 km2. Dân số gồm 1 176 900 người (theo thống kê năm 2010).
Tỉnh Bình Thuận có 10 đơn vị hành chính là thành phố Phan Thiết (tỉnh lỵ), thị xã La-Gi (xem Hình
1) với 8 huyện là Tánh Linh, Ðức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình,
Tuy Phong và huyện đảo Phú Quý (cù lao Thu). Thành phố Phan Thiết cách Sài Gòn khoảng 200
km.
Tỉnh có bờ biển dài 192 km kéo dài từ mũi đá Chẹt, giáp Cà Ná của tỉnh Ninh Thuận đến bãi bồi
Bình Châu của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Phía bắc và đông-bắc giáp tỉnh Ninh Thuận. Phía tây-bắc
giáp tỉnh Lâm Ðồng. Phía tây giáp tỉnh Ðồng Nai. Phía tây-nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (xem
Sơ đồ 1).
Ðịa hình tỉnh Bình Thuận có thể phân chia thành bốn dạng chính (xem Sơ đồ 2) :
1) Ðồi cát và cát ven biển
2) Ðồng bằng phù sa. Chiến dịch Tánh Linh - Hoài Ðức đã xảy ra trong vùng thung lũng sông
La Ngà với cao độ trung bình 90-120 m.
3) Ðồi gò
4) Núi thấp.
Khí hậu gồm có 2 mùa. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau. Tháng chạp thỉnh thoảng có sương và lạnh. Mùa hè và mùa thu có nhiều gió nồm, nhiều mưa to
nhưng chóng tạnh. Ðông và xuân có gió đông-bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25.4ºC -
27.2ºC. Ðộ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 79-80%.
Tỉnh Bình Thuận có 7 sông chính là sông Lòng Sông, sông Lũy, sông Cái, sông Cà Ty, sông Phan,
sông Dinh và sông La Ngà. Ngoại trừ sông La Ngà dài nhất (272 km), các sông khác đều ngắn và
dốc.
Ðất Bình Thuận xưa thuộc nước Nhật Nam, một trong 9 quận của Giao Chỉ bộ (năm 111 TCN) đời
Tây Hán; sau là đất của Chiêm Thành. Cuộc Nam tiến của Việt Nam khiến Chiêm Thành mất dần
đất đai.
Năm 1653, Chúa Nguyễn Phúc Tần đánh lấy đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), chỉ còn để lại
mảnh đất phía tây cho Chiêm Thành. Năm 1692, Chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn phần đất còn lại
và lập nên trấn Thuận Thành. Năm 1697, lập Bình Thuận phủ, lấy đất phía tây Phan Lang lập hai
huyện An Phước và Hòa Ða. Sau đó phủ được đổi thành dinh. Năm 1808, dinh được đổi thành trấn.
Năm 1832, vua Minh Mạng cho đổi trấn thành tỉnh. Tỉnh Bình Thuận được giao cho quan tuần phủ
Thuận Khánh kiêm nhiệm luôn tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1883, hiệp ước Harman cắt Bình Thuận nhập vào thuộc địa Nam Kỳ của Pháp. Năm 1884,
Bình Thuận được trả lại cho Trung Kỳ. Năm 1888, vua Ðồng Khánh chuyển phủ Ninh Thuận vào
Khánh Hòa. Năm 1900, vua Thành Thái đặt huyện Tuy Lý và lấy huyện Tánh Linh trước thuộc
Ðồng Nai Thượng sáp nhập vào Bình Thuận.
Ngày 22/10/1956, chính phủ VNCH ban hành sắc luật SL.143-NV thay đổi tên và địa giới các tỉnh.
Một phần của hai tỉnh Ðồng Nai Thượng1 và Bình Thuận được sáp nhập lại để thành lập tỉnh Bình
Tuy. Tỉnh gồm có 3 quận là Tánh Linh, Hoài Ðức (Võ Ðắt) và Châu Thành (Hàm Tân). Bình Tuy
phía bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía nam là biển Nam Hải (Biển
Đông), phía tây giáp với hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy. Diện tích 3 560 km2. Tỉnh lỵ là Hàm
Tân gần bờ biển phía nam, cách Sài Gòn 183 km về hướng đông (xem Sơ đồ 3).
Tánh Linh từ tiếng Chàm “Play T’nao Linh” có nghĩa là bàu nước thiêng do thung lũng sông La
Ngà và hồ Biển Lạc là vùng trủng có núi non bao bọc. Mùa mưa thường trong các tháng 8-10 khiến
nước lũ tràn ngập khắp nơi như một bàu nước thiêng theo tín ngưỡng của dân tộc Chàm. Ngày xưa,
Tánh Linh là một khu rừng rậm với nhiều thú dữ thuộc huyện Tuy Ðịnh. Năm 1854, huyện Tuy
Ðịnh được đổi thành huyện Tuy Lý thuộc phủ Hàm Thuận. Năm Thành Thái thứ 13 (1901), huyện
Tánh Linh được thành lập và gồm hai tổng là Cam Thắng và Ngân Chữ. Năm Thành Thái thứ 16
(1904), tổng Nông Tang của huyện Tuy Lý được sáp nhập vào Tánh Linh. Huyện Tánh Linh lúc
bấy giờ khá rộng, bao gồm cả các vùng Dran, Blao, Di Linh và trực thuộc phủ Hàm Thuận, tỉnh
Bình Thuận. Năm Khải Ðịnh thứ 5 (1920), chánh quyền thuộc địa mới tách vùng đất cao nguyên
này ra khỏi huyện Tánh Linh để tái lập tỉnh Ðồng Nai Thượng. Năm 1958-59, chính phủ Ngô Ðình
Diệm đưa khoảng 20000 dân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị và Thừa Thiên vào
Tánh Linh, lập nên các khu dinh điền Bắc Núi, Tề Lễ, Ða Prim, Mê Pu, Sùng Nhơn, Gia An, Võ
Xu, Khắc Cầu (Tà Pao)2. Cũng chính tại đây, ông Ngô Ðình Nhu3 đã bí mật gặp gở Phạm Hùng4 để
bàn về chuyện hiệp thương, thống nhất đất nước năm 19625.
Quận Hoài Ðức phía nam giáp xã Gia Ray, phía bắc và tây giáp quận Ðịnh Quán của tỉnh Long
Khánh, phía đông là quận Tánh Linh. Quận lỵ là xã Võ Ðắt nơi đặt bộ chỉ huy chi khu, nằm trên
một vùng đất cao. Quận có khoảng 30000 dân, đa số là dân Quảng Bình, Quảng Ngãi và người
Thượng.
Có 2 tỉnh lộ đi qua Võ Ðắt. TL-334 theo hướng bắc nam và TL-333 chạy sang phía đông-bắc. Tỉnh
lộ 334 ra khỏi Võ Ðắt theo hướng đông-bắc khoảng 7 km dẫn đến Võ Xu. Tiếp tục theo tỉnh lộ này
thêm khoảng 2 km sẽ đi đến khu dinh điền Dak Ménou bị bỏ hoang. Xa hơn nữa là khu vực có tên
là Mê Pu. Ðoạn này của tỉnh lộ được bao bọc bởi rừng già. Nếu tiếp tục đi sẽ gặp tỉnh lộ 336 từ
1 Ngày 1/11/1899, Toàn quyền Paul Doumer ký nghị định thành lập tỉnh Ðồng Nai Thượng (tỉnh lỵ là Djiring)
và hai trạm hành chính (poste administratif) tại Tánh Linh và cao nguyên Lang Bian. Riêng tỉnh Ðồng Nai
Thượng bao gồm vùng Tuyên Ðức, Lâm Ðồng và quận Ðịnh Quán. Năm Thành Thái thứ 17 (1905), bãi bỏ
tỉnh Ðồng Nai Thượng, đất đai được sáp nhập vào tỉnh Bình Thuận. Ngày 6/1/1916, Toàn quyền R Rourne ký
nghị định thành lập tỉnh Lang Bian gồm vùng núi thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Ðồng Nai, Bình
Phước ngày hôm nay. Ngày 31/10/1920, Toàn quyền M Long ký nghị định thành lập thị xã Ðà Lạt. Phần đất
còn lại của tỉnh Lang Bian một lần nữa trở thành tỉnh Ðồng Nai Thượng. Tỉnh gồm có ba quận là Djiring,
B’lao và Dran-Fyan. Tổng thống Ngô Ðình Diệm ký nghị định số 170-NV ngày 19/5/1958 đổi tên tỉnh Ðồng
Nai Thượng thành tỉnh Lâm Ðồng với tỉnh lỵ là Bảo Lộc.
2 B.T., Vì sao gọi là Tánh Linh; http:// www.binhthuantoday.com /modules.php?name=News&file=article&
sid=6505, 17/1/2008.
3 Trên danh nghĩa, ông Ngô Đình Nhu (1910-1963) là cố vấn chính trị cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thực
tế, ông được xem là người khởi xướng mọi chủ trương chính sách của nền đệ nhất Cộng Hòa.
4 Lúc bấy giờ, Phạm Hùng (1912-1988) là Phó Thủ tướng của chính quyền CSBV.
5 Minh Võ, Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (Kết); http:// www.danchimviet.com /php /modu-les.php?
name=News&file=article&sid=3943; 23/3/2008.
Tánh Linh chạy ngược lên, dưới chân dãy núi B’Nom Pang Kô với cao độ 1015 m. Tuy nhiên cầu
bắc ngang sông La Ngà khi ra khỏi Võ Xu đã bị phá sập. Tỉnh lộ 336 tiếp tục chạy dọc theo chân
dãy núi khoảng 15-16 km để nối vào quốc lộ 20. Giữa tỉnh lộ này là ranh giới 2 quận Bảo Lộc (tỉnh
Lâm Ðồng) và quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy). Những dãy núi bên phải tỉnh lộ 336 là mật khu Ara
Salour của CS. Tại ngã ba (QL-20 và TL-336), rẽ trái sẽ trở lại Ðịnh Quán, rẽ phải đi Bảo Lộc (xem
Sơ đồ 4).
Ra khỏi Võ Xu ở phía nam là tỉnh lộ 335. Theo tỉnh lộ này đi khoảng 8-9 km về phía đông-nam sẽ
đến ấp Lạc Hóa, đi thêm 2 km nữa sẽ đến quận lỵ Tánh Linh (xã Lạc Tánh). Ðoạn tỉnh lộ này chạy
dọc theo núi Cà Tong (506 m) và hồ Biển Lạc, thông thương với sông La Ngà qua một nhánh nhỏ
là sông Lăng Quăng (xem Sơ đồ 5-9).
Tỉnh lộ 333 đi ngang qua Võ Ðắt. Phía nam tỉnh lộ này nối với cầu Gia Huynh, bắc qua suối Gia
Huynh, ranh giới thiên nhiên giữa 2 quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy) ở phía bắc và quận Xuân Lộc
(tỉnh Long Khánh) ở phía nam. Ðoạn tỉnh lộ này cũng có nhiều cống bắc qua các suối và được bao
bọc bởi rừng thưa. Ðoạn tỉnh lộ 333 ở phía bắc Võ Ðắt bị gián đoạn bởi một vùng đầm lầy do sông
La Ngà tạo ra. Cách Võ Ðắt khoảng 6 km về phía tây-bắc, phía bên kia sông La Ngà là 3 ấp Lộc
Lâm, Phúc Lâm và Trà Cổ. Tại đây tỉnh lộ 333 tiếp tục đi ra quốc lộ 20. Tại ngã tư (QL-20 và TL-
333), nếu rẽ trái sẽ trở lại quận Ðịnh Quán (tỉnh Long Khánh), rẽ phải đi xã Phương Lâm, quận Bảo
Lộc (tỉnh Lâm Ðồng). Nếu đi thẳng sẽ gặp sông Ðồng Nai trên phía bắc. Phía bên kia sông là vùng
đất mang tên Cát Tiên với địa danh đã một thời nổi tiếng là Bàu Sấu, nơi sinh sống của loài cá sấu
nước ngọt (Crocodylus siamensis).
1. DIỄN TIẾN
Theo tin tức tình báo thì Bộ TTM và BTL quân đoàn III đã có được những dấu hiệu báo trước đợt
tấn công của CS. Quân đội CSBV dùng sư đoàn 7 tân lập gồm 3 trung đoàn 46, 33 và 8127 để tấn
công 2 tỉnh Bình Tuy và Long Khánh. Gọi là sư đoàn 7 vì lúc ban đầu do địch quân giấu kín danh
hiệu nên phải đặt tên theo quân khu 7 của VC, nơi sư đoàn đang hoạt động. Về sau phối kiểm được
là sư đoàn 68, 9.
Lúc ban đầu không có một đơn vị chủ lực quân nào của QLVNCH trú đóng trong khu vực này. Lực
lượng phòng thủ diện địa của tỉnh Bình Tuy gồm có 4 tiểu đoàn ÐPQ và 8 đại đội ÐPQ biệt lập,
một số trung đội nghĩa quân. Hai tỉnh lộ chính 333 và 335 để thông thương giữa hai quận Tánh
6 Trung đoàn 4 được thành lập ngày 3/2/1965 tại chiến khu Đ, gồm 3 tiểu đoàn BB và các đại đội trợ chiến
ĐKZ, cối, 12.8 ly, công binh, thông tin, trinh sát, vận tải, quân y và các cơ quan trực thuộc trung
đoàn.
7 Trung đoàn 812 được thành lập ngày 19/5/1974, gồm 3 tiểu đoàn BB, 1 tiểu đoàn pháo binh và 1 phân đội
đặc công.
8 Sư đoàn 6 được thành lập vào tháng chạp năm 1965 và chiến đấu tại Tây nguyên. Giải thể trong mùa thu
năm 1966. Giữa tháng 4/1968, sư đoàn 325C từ Bắc xâm nhập vào Nam và chiến đấu tại Tây nguyên, được
mang phiên hiệu sư đoàn 6 để ngụy trang. Mùa khô năm 1968, sư đoàn 6 giải thể lần thứ nhì. Chấp hành nghị
quyết của hội nghị lần thứ 21 ban chấp hành Trung ương đảng về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất
nước, tháng 10/1973, Quân ủy Trung ương và Bộ quốc phòng quân đội CSBV đề nghị Bộ Chính trị cho thành
lập các quân đoàn chủ lực tại Nam bộ và cực nam Trung bộ. Ngày 20/7/1974, Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Trung ương cục công bố quyết định thành lập quân đoàn 4 tại chiến khu Dương Minh Châu. Tháng
11/1974, sư đoàn 6 được tái lập và là thành phần của quân đoàn 4, được BTL Miền giao nhiệm vụ phối hợp
với trung đoàn 812 hay trung đoàn Sông Mao của quân khu 6 tiêu diệt hai chi khu Tánh Linh và Hoài Đức.
Sau đó tấn công các căn cứ 1-5 dọc theo QL-1, chuẩn bị cho quân đoàn đánh Xuân Lộc. Sau năm 1975, sư
đoàn giải thể lần thứ ba. Lúc mới thành lập, Tư lệnh sư đoàn là Đặng Văn Sỹ (Hai Sỹ), Chính ủy là Nguyễn
Đăng Mai (Bảy Mai). BTL sư đoàn đặt tại căn cứ La Ngà. Trước khi trận đánh bắt đầu, BTL sư đoàn dời về
đóng tại rừng Trảng Táo (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai).
9 Colonel W E Le Gro, Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, trang 135-136; U.S. Government Printing
Office, Washington, D.C., 1985.
Linh và Hoài Ðức được các đồn bót do ÐPQ&NQ bảo vệ an ninh. Dân chúng chỉ sống tập trung
dọc theo hai bên các tỉnh lộ này. Phần lớn các xã ấp khác trong vùng đã bị bỏ hoang.
Chi khu trưởng chi khu Hoài Ðức là Thiếu tá Xinh. Chi khu có một đơn vị cơ hữu là tiểu đoàn 344
ÐPQ với bộ chỉ huy tiểu đoàn như sau10 (xem Sơ đồ 6-7) :
TÐT : Thiếu tá Trần Phụng Tư (khóa 2 Ðồng Ðế)
TÐP : Ðại úy Lê Phi Ô (khóa 15 TBB/TÐ)
ÐÐT/ÐÐ 1 : Ðại úy Trương Kim (khóa 21 TBB/TÐ)
ÐÐT/ÐÐ 2 : Trung úy Thời (khóa 2/68 TBB/TÐ)
ÐÐT/ÐÐ 3 : Trung úy Lưu Ðức Thắng (khóa 24 TVBQG/VN)
ÐÐT/ÐÐ 4 : Ðại úy Nguyễn Châu Luyện (khóa 22 TBB/TÐ)
ÐÐT/ÐÐ CH&YT : Trung úy Hy.
Ngoài ra còn có các đơn vị khác như11 :
Ðại đội 512 Trinh sát tỉnh12 (ÐÐT là Trung úy Lê Minh Ðường) đóng tại phi trường ở
phía tây chi khu
Phân đội thám thính xa (2 chiếc V-100)
Trung đội pháo binh thuộc tiểu đoàn 183 PB của sư đoàn 18 BB tăng phái
4 trung đội nghĩa quân
Chi CSQG Hoài Ðức.
Phân bố lực lượng lúc ban đầu13 :
Ðại đội 4/344 đóng tại ấp Chánh Ðức thuộc xã Võ Xu.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn 344 ÐPQ cùng với đại đội chỉ huy & yểm trợ và đại đội 3/344
đóng tại Võ Xu.
Ðại đội 1/344 đóng tại ấp Chánh Tâm 3.
Ðại đội 2/344 đóng tại ấp Chánh Tâm 1.
Tại phía bắc, Ðại úy Lê Phi Ô, TÐP chỉ huy hai đại đội 3, 4 và thành phần còn lại của đại đội
CH&YT trong khi ở phía nam, Thiếu tá Trần Phụng Tư, TÐT chỉ huy bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai
đại đội 1 và 2.
Khoảng 2 tuần trước khi bị tấn công, chi khu Tánh Linh được tăng cường tiểu đoàn 335 ÐPQ của
tỉnh Long An (TÐT là Thiếu tá Hoàng) và bốn đại đội 700, 710, 720, 878 ÐPQ biệt lập, nguyên
trước đây là các đại đội dân sự chiến đấu được biến cải thành ÐPQ. Ðại đội 700 tại xã Duy Cần.
Ðại đội 710 tại núi Gian, cạnh tỉnh lộ 336. Ðại đội 720 và một trung đội pháo binh 105 ly tại đồi Lồ
Ồ. Ðại đội 878 đóng ngay trong chi khu, ở ngay dưới chân đồi Lồ Ồ. BCH tiểu đoàn 335 ÐPQ đặt
tại bãi đáp trực thăng phía trước và cách cổng chính của chi khu độ 30 m, cách chợ 60 m (xem Sơ
đồ 8-9).
Ngoài ra còn có các đơn vị khác14 :
Phân đội thám thính xa (2 chiếc V-100)
3 trung đội nghĩa quân
Một trung đội pháo binh 105 ly của tiểu đoàn 183 Pháo binh thuộc sư đoàn 18 BB tăng phái
Chi CSQG Tánh Linh.
Chi khu trưởng chi khu Tánh Linh là Thiếu tá Lê Kim Lai, khóa 13 TBB/TÐ.
10 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 8/2/2007.
11 Tài liệu đã dẫn trên.
12 Tiểu khu Bình Tuy có hai đại đội trinh sát, trinh sát 1 là đại đội 513 và trinh sát 2 là đại đội 512.
13 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 8/2/2007.
14 Tài liệu đã dẫn trên.
Từ khoảng năm 1965, chỉ còn một đường duy nhất để liên lạc, tiếp tế với quận lỵ Tánh Linh đi qua
Võ Xu. Tỉnh lộ 335, đoạn phía nam Tánh Linh nối liền với QL-1 hoàn toàn mất an ninh (xem Sơ đồ
10).
Mỗi chi khu đều có một phi đạo ngắn có khả năng tiếp nhận phi cơ thám thính L-19 và vận tải cơ
hạng nhẹ C-7 Caribou. Phi đạo Hoài Ðức đã có từ chiến tranh Việt Pháp trong khi phi đạo tại Tánh
Linh được thiết lập bởi sư đoàn 10 (tiền thân của sư đoàn 18 BB) trong cuộc hành quân Dân Sinh
năm 1965.
Ðể chuẩn bị cho chiến dịch thu đông 1974-1975, quân khu 6 CS được lệnh thành lập trung đoàn
81215. Một sĩ quan cao cấp thuộc BTL quân khu 6 CS viết16 :
“Ngày 19 tháng 5 năm 1974, Trung đoàn 812 được thành lập, là nắm đấm của chủ lực Quân
khu, đáp ứng yêu cầu chính trị địa phương. Cơ quan Quân khu quán triệt tình hình nhiệm
vụ cho cán bộ trung, cao cấp và tập huấn quân sự cho cán bộ tiểu đoàn, Trung đoàn 812 về
tác chiến hiệp đồng binh chủng qui mô cấp trung đoàn. Trần Thọ và tôi phụ trách lớp tập
huấn. Tôi đem theo những học hỏi được ở H14 về tổ chức chiến đấu trung đoàn ta tập kích
tiểu đoàn, chiến đoàn địch, tấn công chi khu quân sự địch. Học viên tiếp thu tốt các vấn đề
cơ bản, cần thiết cho chiến đấu đến. Ðiều thú vị là dù có thay đổi tên gọi trong các giả định
của tập bài, nhưng ai mà không đoán được ‘chi khu Suối Vàng’ là chi khu Tánh Linh, một
trong hai chi khu ở địa bàn trọng điểm. Bảo đảm kỹ luật bảo mật, tất cả cứ coi chi khu Suối
Vàng là một chi khu nào đó trong hay ngoài Quân khu là được”.
Giữa tháng 11/1974, các xã ấp thuộc chi khu Hoài Ðức đồng loạt bị quân CS tấn công. Tiểu khu
quyết định rút tiểu đoàn 344 (-) đang hoạt động tại xã Võ Xu trở về phòng thủ chi khu.
Do yêu cầu viện binh của Trung tá Nguyễn Văn Sĩ, XLTV chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu
trưởng tiểu khu Bình Tuy, Trung tướng Dư Quốc Ðống, Tư lệnh quân đoàn III đưa liên đoàn 7
BÐQ (Liên đoàn trưởng là Ðại tá Nguyễn Kim Tây, khóa 10 TVBQG/VN) đang đóng quân tại An
Lộc đến giải tỏa áp lực địch từ Giá Ray, tỉnh Long Khánh đến Gia Huynh, tỉnh Bình Tuy. Một đơn
vị pháo binh của sư đoàn 18 BB được tăng phái cho BÐQ. Khi liên đoàn 7 BÐQ vào vùng hành
quân thì hai đại đội thuộc tiểu đoàn 344 ÐPQ do Thiếu tá Tư chỉ huy đang hoạt động gần Gia
Huynh được đặt dưới sự điều động của liên đoàn này.
Có lẽ nên mở một dấu ngoặt ở đây để nói về một vài sự kiện có liên quan đến trận chiến thầm lặng
tại Tánh Linh và Hoài Ðức. Trước khi bắt đầu giai đoạn 1 của trận đánh, một tổ phục kích đêm của
đại đội 2/344 ÐPQ đã bắn bị thương và bắt sống một VC tại một vị trí không xa bộ chỉ huy nhẹ của
tiểu đoàn. Vì chỉ mang súng AK nên tù binh này được giao cho ban 2 của chi khu Hoài Ðức và sau
15 Nằm trong công tác chuẩn bị lực lượng quân sự cho mùa khô 1974-1975, tháng 5 năm 1974, BTL Miền của
CS ra lệnh cho quân khu 6 ghép các tiểu đoàn bộ binh 15, 186, 840 và các đại đội pháo, thông tin, v.v. thành
trung đoàn 812, với chiến trường hoạt động chủ yếu là hai tỉnh Bình Tuy và Bình Thuận (Thượng tướng Trần
Văn Trà, Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, trang 634-635; nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 2005). Ban
chỉ huy của trung đoàn đặt tại cao điểm 332, đầu nguồn sông Dinh thuộc huyện Tánh Linh (Ðại tá Nguyễn
Văn Chiến và nhiều người khác biên soạn, Lịch Sử Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Tỉnh Bình Thuận (1945-
2000), trang 478; nxb QĐND, Hà Nội, 2003) và gồm có :
TrÐT : Phạm Ty, Tỉnh đội phó Bình Thuận
Chính ủy : Võ Ðức Nhi, Phó Chủ nhiệm chính trị quân khu 6
TrÐP : Nguyễn Văn Bổng, Trưởng ban đặc công quân khu 6
Phó Chính ủy : Phạm Văn Tý, Phó ban tổ chức quân khu 6
TMT : Nguyễn Hiệp
Chủ nhiệm chính trị : Trương Văn Ngộ
Chủ nhiệm hậu cần : Nguyễn Phước.
Trung đoàn 812 đã được Việt Minh thành lập vào giữa tháng 7 năm 1950 tại mật khu Lê Hồng Phong
thuộc tỉnh Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp. Trung đoàn được giải thể vào đầu năm 1952 (Thiếu
tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký, trang 128 & 150; nxb QĐND, Hà Nội, 2003).
16 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký, trang 460-483; nxb QĐND, Hà Nội, 2003.
đó được giải giao về phòng 2 tiểu khu và sau cùng là phòng 2 của quân đoàn III17. Cán binh này
thực ra tên là Thuyết và là tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 33, sư đoàn 6 CS đi
thực địa có mang theo sổ tay công tác18. Cũng trong khoảng thời gian này, một tiểu đội phó của tiểu
đoàn 200C đặc công về hồi chánh tại Tánh Linh. Do trả lời không mạch lạc khi bị hỏi cung, giống
như một kẻ bị bệnh tâm thần (có thể thật hoặc giả vờ), cán binh này được chi khu giải giao về tỉnh
và cho hưởng qui chế của một hồi chánh viên19. CS cho rằng kế hoạch của họ đã bị tiết lộ qua hai
sự kiện trên20 (5). Thực tế, tiểu khu Bình Tuy đã thông báo VC sắp đánh Tánh Linh và Hoài Ðức cả
tháng trước. Ðó cũng là lý do khiến BTL quân đoàn III đưa liên đoàn 7 BÐQ đến hành quân chung
quanh khu vực cầu Gia Huynh21.
Các hoạt động quân sự của cả hai bên khiến dân chúng đoán biết tình hình nghiêm trọng sắp bắt đầu
nên lũ lượt kéo nhau di tản khỏi Hoài Ðức bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có, kể cả đi bộ.
Ngày 9/12/1974, tiểu đoàn 200C đặc công và một đại đội thuộc trung đoàn 812, được sự yểm trợ
của tiểu đoàn 130 pháo binh tấn công vị trí trung đội pháo binh trên núi Lồ Ồ cũng như các làng
dọc theo tỉnh lộ 335 từ Tánh Linh đi về Võ Xu, cách quận lỵ Hoài Ðức (Võ Ðắt) khoảng 16 cây số.
Trong khi đó, đại đội 5 đặc công thuộc trung đoàn 812 đánh núi Gian. VC chiếm được đồi Lồ Ồ
cùng với hai đại bác 105 ly do đại đội 720 ÐPQ biệt lập (ÐÐT là Ðại úy Tòng) bảo vệ. QLVNCH
phản công nhưng chỉ chiếm lại được núi Gian. Sự kiện đồi Lồ Ồ bị mất quá nhanh chóng khiến Ðại
úy Tòng bị an ninh quân đội điều tra sau trận đánh. Sau năm 1975, Ðại úy Tòng vẫn phải vào trại
cải tạo tập trung. Ông được trả tự do và mất trong một tai nạn giao thông tại Biên Hòa vào khoảng
giữa thập niên 8022. Diễn tiến trận đánh theo tài liệu của CS cũng không cho thấy một bằng chứng
nào về nội công, ngoại kích. Có lẽ yếu tố bất ngờ và nhanh chóng là do địch quân đánh đặc công.
Ngày 17/12, trung đoàn 812 CSBV chiếm xã Duy Cần trên tỉnh lộ 335 từ Tánh Linh đi Võ Xu (xem
Sơ đồ 10).
Trong suốt hai ngày 23 và 24, quân đội CSBV pháo kích hơn 3000 đạn các loại vào quận lỵ và liên
tục tấn công. Ðúng ngày giáng sinh năm 1974, CS chiếm được quận lỵ sau 5 đợt xung phong biển
người23. Thiếu tá Hoàng, TÐT tiểu đoàn 335 ÐPQ bị VC bắt giữ.
Tài liệu của CS đã ghi lại chi tiết trận đánh chi khu Tánh Linh24 :
“Tánh Linh là một huyện trung du, địa bàn phần lớn là núi rừng bao bọc, có biển Lạc rộng
hàng chục km, là rừng tán lá dễ ém quân bí mật. Có Lạc Tánh là vùng châu thổ sông La
Ngà, địa hình trống trải, có nhiều sông suối, có hệ thống giao thông xuyên suốt cả huyện
nên việc chuyển quân và cơ giới đều thuận lợi. Chi khu Tánh Linh có dân cư tập trung
nhưng chiều ngang hẹp, nằm ở khu thung lũng giữa núi Cà Ton và Ðồi Gian; có núi Lồ Ồ
che chắn nên có thể bao bọc phòng thủ khá tốt. Núi Lồ Ồ là một cao điểm khống chế lợi hại
để bảo vệ chi khu, do đại đội bảo an 878 cùng với các lực lượng khác đóng giữ, có quân số
rất đông, vũ khí hiện đại. Ðiều kiện và phương tiện chiến đấu và hỏa lực địch rất mạnh.
Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy mặt trận đã lên phương án bố trí lực lượng E814, D đặc
công 200C, C88 bộ đội tỉnh, C431 bộ đội địa phương huyện và các đội công tác tập trung
cùng tham gia chiến dịch. Toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân đã hăng hái, phấn khởi nhận
nhiệm với với mục tiêu ‘Toàn dân hãy đoàn kết cùng lực lượng vũ trang cách mạng nổi dậy
bao vây tiêu diệt địch, truy lùng tề điệp, ác ôn ngoan cố, phá tan bộ máy tề ngụy, giành
17 Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 14/4/2007.
18 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước.
19 Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 14/4/2007.
20 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước.
21 Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 14/4/2007.
22 Tài liệu đã dẫn trên.
23 Colonel W E Le Gro, Vietnam from Cease-Fire to Capitulation. Sách đã dẫn trước.
24 TQ, Tánh Linh Ngày ấy - Bây giờ; http:// www.tanhlinh.com /modules.php?name=Newsop=viewst&sid=
249, 18/3/2007.
chánh quyền về tay nhân dân, phá banh ấp chiến lược [sic], tự do trở về xóm làng cũ, xây
dựng cuộc sống mới thật sự độc lập tự do. Binh lính sĩ quan hãy mau giao đồn, nạp súng
cho Cách mạng sẽ được bảo tồn tính mạng’. 2 giờ 35’ sáng ngày 10/12/1974, đội đặc công
200C nổ mìn mở màng [sic] trận đánh tiêu diệt cao điểm núi Lồ Ồ. Tiếp theo, các hỏa lực
đồng loạt sung [sic] trận. Ta đã làm chủ các điểm cao như khu A bộ binh, diệt hoàn toàn
c878 và tiếp tục quét sạch địch ra khỏi khu B. Sau 4 giờ chiến đấu ác liệt, d200C đã làm
chủ và bàn giao lại cho c1/d15 trụ giữ Lồ Ồ, dùng hỏa lực tấn công chi khu Tánh Linh.
Những ngày tiếp theo, d15 kiên cường giữ vững các cao điểm, chịu đựng bom, pháo ác liệt,
vừa bắn trả máy bay địch, vừa đánh bại các trận phản kích của địch, 4 giờ sáng ngày 10/12,
ta làm chủ trận địa đồi Giang. Ngày 10/12, ta chiếm các đồn bót ở các phân chi khu Huy
Lễ, Hiếu Tín, Xã Dú, Quang [sic] Hà. Ðến ngày 14/12, ta tiêu diệt đồn Duy Cần. Ngày
17/12, ta làm chủ Gia An. 23 giờ ngày 23/12, sau 20 phút bắn cấp tập vào chi khu, lực
lượng 812 và 200C bắt đầu tấn công vào chi khu Tánh Linh. Trận đánh diễn ra rất ác liệt.
Ðịch bên trong, bên ngoài phản kích và chống cự dai dẳng. Ðến gần trưa ngày 24, ta mới
quét sạch hoàn toàn địch và thu dọn chiến trường. Các lực lượng còn lại tiếp tục truy lùng
và đánh địch ở các ấp Quang [sic] Hà, ấp Chàm, Nùng. Trưa 24/12, c37 bảo an của địch ở
đồi Giang tháo chạy. Sáng 25/12/1974, toàn huyện Tánh Linh không còn bóng giặc, Tánh
Linh đã hoàn toàn giải phóng. Lực lượng ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt trên
1000 tên địch, trong đó có 1 d, 3 c bảo an, 1 b pháo 105, 2 b thám kích và cảnh sát, 8 b dân
vệ, số khác tan rã hoàn toàn thu trên 1000 súng các loại, phá hủy 2 pháo 105, nhiều súng
cối, trung liên, đại liên, 2 xe bọc thép, bắn cháy 1 trực thăng và bắn bị thương nhiều chiếc
khác”.
Trong khi tấn công Tánh Linh thì quân CS cũng đồng thời bao vây Hoài Ðức. CS đã ghi lại những
gì xảy ra tại Hoài Ðức25 :
“Ðến [giờ] G, Tiểu đoàn 18 kéo về, Tiểu đoàn 20 đánh 20 phút rất giòn giã, địch tê liệt
hoàn toàn nhưng rồi Tiểu đoàn 20 cũng ra, tất cả về vị trí tập kết trong căn cứ, đến sáng
mới báo cáo. Vì vậy trong đêm, chiến dịch, Sở Chỉ huy không nắm được tình hình. Ðịch
không bị thiệt hại mấy, chỉ nằm im trong công sự. Tiểu đoàn 19 đặc công diệt hết trung đội
bảo an đóng giữ núi Bảo Ðại, thu vũ khí, chiến lợi phẩm rồi cũng rút. Sáng địch đưa một
đại đội lên chốt lại dễ dàng; đồi Bảo Ðại là một cao điểm khống chế một khu vực rộng
xung quanh rất lợi hại mà ta cũng bỏ luôn! Ðại đội 21 trinh sát sư đoàn diệt tiểu đội bảo an
trên đỉnh núi Dinh xong cũng bỏ về. Núi Dinh cách Chi khu Hoài Ðức hơn năm cây số,
địch không kịp lên chiếm lại. Sở Chỉ huy lệnh Ðại đội 21 lên chiếm lại được, giữ đến ngày
Sư đoàn 6 về lại miền Ðông Nam Bộ mới giao lại cho đại đội trinh sát Trung đoàn 812. Chi
khu Hoài Ðức, đồi Bảo Ðại, thị trấn Võ Ðắt không bị uy hiếp gì, thế trận không khác trước
tấn công, vậy là xóa bàn làm lại”.
Khoảng hai ngày sau khi chiếm được Tánh Linh, quân CS bắt đầu pháo kích chi khu Hoài Ðức với
cường độ càng ngày càng tăng. Vòng đai phòng thủ chi khu, với diện tích chỉ bằng một sân đá bóng
phải chịu đựng mỗi ngày từ 200 đến 500 đạn pháo kích. Con số thương vong của lực lượng phòng
thủ do đó ngày một tăng cao26 .
Tại phía nam, Thiếu tá Tư đã nhiều lần thoát chết trước các đợt tấn công biển người của địch quân.
Dưới áp lực quá mạnh, cuối cùng tiểu khu ra lệnh cho ông tìm cách đoạn chiến để lui quân về tăng
cường cho lực lượng phòng thủ chi khu.
Khi Thiếu tá Tư cùng với BCH tiểu đoàn hướng dẫn đơn vị về đến được bên ngoài vòng đai phòng
thủ chi khu thì quân số chỉ còn khoảng phân nửa. Vì tình hình nghiêm trọng nên thay vì đổi quân
giữa trong và ngoài thì Thiếu tá Tư vào chi khu thay thế cho Ðại úy Ô, trở ra ngoài điều động hai
đại đội từ Gia Huynh trở về. Ðại đội 1/344 giữ khu chợ, phía đông-nam và cách chi khu khoảng
300m. Ðại đội 2/344 chịu trách nhiệm khu vực bệnh xá của quận, mặt trước chi khu, cách khoảng
25 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước.
26 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 8/2/2007.
100 m, bảo vệ kho nhiên liệu và bãi đáp trực thăng. Ðại đội 512 Trinh sát tỉnh cũng bị tổn thất
khoảng 1/3 quân số và lui về giữ khu vực bến xe, cách chi khu khoảng 300 m. Hai tuyến bạn và
địch có nơi chỉ cách nhau khoảng 100 m.
Sau khi nhận được lệnh của chi khu cho nới rộng vòng đai phòng thủ hầu làm giảm áp lực địch
đồng thời để chi khu phối trí lại lực lượng và tu sửa hệ thống công sự phòng thủ, bị hư hại đáng kể
vì pháo kích của địch, Ðại úy Ô ra lệnh cho đại đội 1/344 tấn công về hướng đông trong khi chính
ông cùng với đại đội 2/344 đánh ra phía bắc. Tiến được khoảng 1 cây số thì đại đội 1/344 bị địch
quân chặn lại. Ðại đội 2/344 sử dụng tối đa lựu đạn đánh suốt đêm để diệt chốt địch. Trời vừa sáng
thì sử dụng đại bác 57 ly không giật tiêu diệt những chốt còn lại. Ðến trưa thì ÐPQ đã chiếm lại
được đồi Bảo Ðại. Ðồi này trước đây do một trung đội nghĩa quân giữ nhưng đã bị Cộng quân
chiếm (xem Sơ đồ 5 và Hình 2-3).
Sau khi chiếm được đồi Bảo Ðại, Ðại úy Ô tung quân rộng ra để đề phòng các cuộc tấn công của
CS mà ông nghĩ là thế nào cũng xảy ra. Tình hình đêm đầu tiên khá yên tỉnh. Khuya đêm thứ nhì,
địch quân pháo kích đồi Bảo Ðại một cách dữ dội. Ðến sáng thì địch quân đã bao vây cả ba mặt
bắc, tây và nam. Quân phòng thủ xin yểm trợ pháo binh nhưng chỉ được khoảng 10 đạn đại bác 105
ly thì hết cấp số đạn trong ngày. Súng cối 81 ly được sử dụng nhưng không mấy hiệu quả.
Ðến 8 giờ tối thì khoảng hai đại đội VC bắt đầu tấn công lên đồi. Ðại úy Ô kêu gọi yểm trợ trực tiếp
pháo binh sư đoàn 18 BB đang tăng phái cho liên đoàn 7 BÐQ (Pháo đội trưởng Nguyễn Hữu Nhân
cũng là anh vợ của Ðại úy Ô). Pháo binh yểm trợ đúng lúc đã gây cho địch quân nhiều thiệt hại. Lợi
dụng tình trạng rối loạn của địch quân, Ðại úy Ô ra lệnh tràn lên đánh cận chiến với địch để thoát
khỏi vòng vây. VC tan rã hàng ngũ bỏ chạy, không kịp mang theo các cán binh bị thương vong.
ÐPQ có 2 binh sĩ bị tử trận, 5 người khác bị thương.
Ðại úy Ô được lệnh chỉ huy hai đại đội 1/344 (30 người) và 2/344 (43 người) lui lại phụ trách
phòng thủ sát hàng rào bên ngoài của chi khu.
Hai ngày sau, VC pháo kích và tấn công hướng của đại đội trinh sát tỉnh, khu chợ và nhà thờ. Ðến
trưa cùng ngày thì có tin Trung úy Ðường, ÐÐT trinh sát tử trận, liên lạc với đại đội trinh sát bị cắt
đứt.
Trong khi đang giải tỏa khoảng đường từ chân núi Chứa Chan đến cầu Gia Huynh thì tiểu đoàn 32
BÐQ đã rơi vào ổ phục kích của VC và bị thiệt hại nặng. Sau đó liên đoàn được rút đi do nhu cầu
tăng phái cho vùng 2 chiến thuật. Tin tức này khiến những binh sĩ trú phòng tại chi khu Hoài Ðức
hoang mang, giao động. Ðạn dược gần cạn, không tản thương được trong khi BÐQ rút đi thì VC sẽ
được tăng cường thêm quân số đang bao vây.
Suốt trong thời gian sau đó, Cộng quân nhiều lần tấn công chi khu, cả ban ngày lẫn ban đêm. Nhiều
lần cắt đôi hệ thống phòng thủ nhưng cuối cùng đều bị tiểu đoàn 344 ÐPQ phản công chiếm lại.
Trước tình hình nguy ngập, sư đoàn 18 BB (Tư lệnh sư đoàn là Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo, khóa 10
TVBQG/VN) được lệnh hành quân giải tỏa chi khu Hoài Ðức. Sư đoàn 18 đưa trung đoàn 52 BB
vào vùng hành quân (TrÐT là Ðại tá Ngô Kỳ Dũng, khóa 13 TVBQG/VN). Mặt trận bùng nổ dữ
dội tại Gia Ray. Sau đó, QLVNCH đẩy lui địch quân lên đến cầu Gia Huynh, cách quận lỵ Hoài
Ðức khoảng 16 km. Trung đoàn 33 CSBV dùng chốt kiền27 giữ vững trận địa. Hệ thống chốt kiền
rất khó đánh, tương tự như các chốt của CS tại Tàu Ô trong chiến trận mùa hè đỏ lửa năm 197228.
27 Chốt kiền theo thuật ngữ của quân đội CSBV là chốt điểm kết hợp với vận động tiến công. Chiến thuật do
Ðàm Văn Ngụy (1928- ), TrÐT trung đoàn 174, sử dụng trong trận đánh tại Hú Mường (Thượng Lào) năm
1960, tại Ðak Tô năm 1967 và Tây Ninh - Dầu Tiếng năm 1968. Sau đó được áp dụng tại Tàu Ô, tỉnh Bình
Long năm 1972, khi Ðàm Văn Ngụy trở thành sư đoàn trưởng sư đoàn 7 (Thượng tướng Hoàng Cầm, Chặng
đường Mười Nghìn Ngày, trang 305-312, nxb QĐND, Hà Nội, 2001). Tuy nhiên vì chủ nghĩa CS quan niệm
cách mạng tiến công nên hình thức chốt phòng thủ có tính cách thụ động, không được công nhận. Quân đội
Mục đích quân CS cố thủ tại đây là để ngăn cản lực lượng giải tỏa, nhất là yểm trợ hỏa lực của
QLVNCH cho quận lỵ Hoài Ðức. Tầm tác xạ các đại bác 105 ly và 155 ly của QLVNCH lần lượt là
11.2 km và 14.6 km, đều ngắn hơn khoảng cách Gia Huynh - Hoài Ðức.
BTL sư đoàn 18 BB một mặt tìm phương cách tiêu diệt chốt tại cầu Gia Huynh ở phía nam với
trung đoàn 52, mặt khác tổ chức hành quân với trung đoàn 43 (TrÐT là Ðại tá Lê Xuân Hiếu, khóa
10 TVBQG/VN) để giải tỏa áp lực địch từ phía bắc. Tiểu đoàn 1/43 được trực thăng vận xuống phía
tây của quận lỵ. Tiểu đoàn 2/43 (TÐT là Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, khóa 13 TBB/TÐ) do trở ngại
khi vượt sông La Ngà nên được trực thăng vận đổ xuống phía bắc quận Hoài Ðức. Một căn cứ hỏa
lực với 4 đại bác 155 ly và 12 đại bác 105 ly, được thiết lập tại xã Trà Cổ (nay thuộc huyện Tân
Phú, tỉnh Ðồng Nai) để yểm trợ cuộc hành quân tại đây (xem Sơ đồ 11).
Cuộc hành quân giải tỏa chi khu Hoài Ðức từ hướng bắc gặp khó khăn ngay từ ban đầu do địa thế
thiên nhiên, yểm trợ không vận và hỏa lực mạnh của địch. TÐT tiểu đoàn 2/43 mô tả29 :
“Sông La Ngà không lớn, đoạn được chọn để vượt sông rộng lối một trăm mét, có thể lội
qua được. Chỗ sâu nhất cũng chỉ ngập đến ngang cổ. Nước sông trong suốt, có thể nhìn
thấu đáy. Giòng nước chảy từ từ, rất thuận lợi cho việc vượt sông. Ðoạn này theo hướng
Bắc - Nam. Hai bên bờ sông cây cối um tùm. Bên này sông là đầm lầy. Bên kia sông là
cánh đồng ruộng lúa phì nhiêu trải dài đến xã Võ Xu. Ðồng lúa đã gặt xong, chỉ còn trơ gốc
rạ vàng úa.
Khi toán tiền quân bắt đầu cuộc vượt sông thì súng địch đủ loại từ bên kia bờ thi nhau
nổ dồn dập. Sĩ quan Tiền sát viên Tiểu đoàn liền gọi pháo binh bắn đáp lễ. Nhưng đạn pháo
đã không làm giảm được cường độ phản ứng của địch. Chúng núp sâu trong những hầm hố
kiên cố. Trong cuộc chạm súng ngắn ngủi này, quân bạn chịu một số thiệt hại. Nhưng rất
may mắn, không ai bị tử vong. Sau khi quan sát địa thế và ước lượng tình hình địch, vị Tiểu
đoàn trưởng thấy không thể liều lĩnh cho Tiểu đoàn tiếp tục cuộc vượt sông. Ông báo cáo
lên trên và chờ đợi. Sau đó không lâu, Tiểu đoàn được lệnh lui quân về tuyến sau để sẵn
sàng trực thăng vận.
Nhưng vấn đề trực thăng vận nằm ngoài kế hoạch của cuộc hành quân. Việc điều động
đã gặp trở ngại. Tiểu đoàn trở lại điểm xuất phát ở ấp Trà Cổ, sắp toán để chuẩn bị trực
thăng vận. Lối 11 giờ, đoàn trực thăng đến. Nhưng chỉ có thể bốc mỗi lần một Ðại đội. Ðại
đội 2 của Trung úy Võ Văn Mười30 nhảy trước, tiếp theo là Ðại đội 3 của Trung úy Nguyễn
Tri Hùng31, và Bộ chỉ huy nhẹ Tiểu đoàn của Ðại úy Phạm Ðình Huệ32. Khi mới bốc được
một nửa Tiểu đoàn thì cuộc chuyển quân tạm ngưng. Trực thăng đi lấy nhiên liệu hay nghỉ
trưa? Ðại úy Huệ cùng hai Ðại đội nằm chơ vơ giữa cánh đồng lúa trống trải, là những tấm
bia rất tốt cho cộng quân nả pháo hay tấn công biển người. Tiền sát viên pháo binh phải
điều động nhiều dàn pháo tác xạ làm hàng rào hỏa lực cản để bảo vệ cho quân bạn. Lối 2
giờ chiều, đoàn trực thăng vận trở lại để bốc nốt các Ðại đội còn lại của Tiểu đoàn”.
Một khi đội hình đầy đủ thì cuộc tấn công bắt đầu. TÐT tiểu đoàn 2/43 viết tiếp33 :
“Lối 3 giờ chiều. Tiểu đoàn hoàn tất cuộc trực thăng vận. Tiểu đoàn trưởng cho mở đội
hình tiến chiếm mục tiêu. Quan niệm hành quân của Tiểu đoàn là xử dụng tối đa bom đạn
để tiết kiệm xương máu của quân sĩ. Những phi tuần F5E, khu trục cánh quạt và pháo binh
thay nhau trút bom đạn lên mục tiêu. Nhưng khi bộ binh tiến vào, sức kháng cự của địch
CSBV chính thức chỉ có “chốt chặn” được định nghĩa là dùng một bộ phận lực lượng chiếm vị trí (khu vực)
có lợi, tạo thành điểm tựa phòng ngự để chặn đánh địch, chia cắt và phá thế trận, buộc chúng sa vào tình thế
không lợi, tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu tiến công, hoặc giữ vững khu vực phòng ngự (Thượng tướng
Phùng Quang Thanh & nhiều người khác, Từ Ðiển Bách Khoa Quân Sự Việt Nam, trang 248; nxb QĐND,
Hà Nội, 2004).
28 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo ngày 29/12/2006.
29 Bảo Ðịnh, Võ Ðắc Trong Biển Lửa, KBC Hải Ngoại, trang 30-31, số 4, ngày 15 tháng 11, 2006, California.
30 Trung úy Võ Văn Mười tốt nghiệp khóa 26 Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam.
31 Trung úy Nguyễn Tri Hùng tốt nghiệp khóa 24 TVBQG/VN.
32 Ðại úy Phạm Ðình Huệ tốt nghiệp khóa 23 TVBQG/VN.
33 Bảo Ðịnh, Võ Ðắc Trong Biển Lửa, KBC Hải Ngoại. Tài liệu đã dẫn trước, trang 34-37.
vẫn rất mạnh. Hầu như bom đạn đã không có ảnh hưởng mấy. Chúng ra sức chống trả. Mãi
đến chiếu tối, Tiểu đoàn cũng chỉ bám được bờ làng, và không thể tiến xa hơn được nữa”.
Trận đánh tiếp tục sang ngày thứ nhì34 :
“Ngày N+2: Tiểu đoàn được lệnh rút về tuyến sau. Vùng đất tranh chấp trở thành vùng
oanh kích tự do. Từ sáng sớm đến chiều tối, những phi tuần phản lực F5E, bán phản lực
A37, và phi cơ cánh quạt cất cánh từ ba phi trường: Biên Hòa, Cần Thơ và Phan Rang đã
thay nhau trút bom lên đầu giặc. Võ Ðắc đã trở thành biển lửa.
Những trận phi pháo liên tục đã làm cho giặc cộng không được một phút giây nghỉ ngơi,
đã tạo tâm lý hoang mang sợ hãi trong hàng ngũ cán binh của chúng. Vì bản năng sinh tồn,
chúng chỉ còn cách trốn chui, trốn nhủi, để giữ mạng sống; hoặc tìm kế thoát thân, tránh xa
vùng lửa đạn. Ðiều thuận lợi cho quân bạn là tất cả dân làng đã tìm cách tản cư ngay từ
những ngày đầu khi Việt Cộng vừa đánh chiếm. Họ tập trung về khu vực gần Quận, chạy ra
Ngã ba Ông Ðồn, hoặc vượt sông La Ngà chạy qua bên kia Ðịnh Quán.
Vùng chiến sự bây giờ là nhà hoang vườn trống. Việt Cộng đã phá nhà dân để lấy cột
kèo hoặc những bộ ván gỗ làm nóc hầm. Chúng làm những công sự chiến đấu và phòng thủ
rất kiên cố. Hệ thống giao thông hào chằng chịt như mạng nhện. Có lẽ chúng định cố thủ
lâu dài. Cả trung đoàn 33 cộng sản chiếm cứ và giữ chặt xã Võ Ðắc. Khu vực phía đông là
cánh đồng mía cao quá đầu người, rộng mênh mông; hướng bắc là rừng nên rất tiện lợi cho
việc chuyển quân và tiếp tế của chúng”.
Tiểu đoàn 2/43 đổi chiến thuật, đánh đêm35 :
“Trước khi trời tối, ngay trong lúc máy bay còn đang vần vũ trong bầu trời, và pháo binh
rót những tràng đạn tới tấp lên mục tiêu thì Tiểu đoàn đã từ từ trở lại chiếm bờ làng, chuẩn
bị cho cuộc tấn công đêm. Khi màng đêm buông xuống là lúc Tiểu đoàn bắt đầu xung trận
để dứt điểm.
...
Pháo binh vẫn tiếp tục bắn, nhưng đã chuyển xạ xa dần theo nhịp độ tiến quân. Tiểu đoàn
tấn công bằng ba mũi chính, theo phương giác nhất định. Ðoàn quân lần mò đi trong bóng
đêm. Con đường ngang đi vào làng mà từ hai ngày trước, Tiểu đoàn đã đổ nhiều xương
máu, nhưng cũng chỉ bám được một bên đường, có lúc lại bị địch giành lại. Nhưng bây giờ
thì hầm hố ngổn ngang, cây cối đổ xiêu vẹo. Mùi tử khí xông lên nồng nặc.
...
Ðúng 5 giờ sáng, Tiểu đoàn đã tiến đến vòng đai phòng thủ của Quận. Ðợi đến lúc trời sáng
hẵn, một toán quân của Chi khu mở cổng ra bắt tay chúng tôi.
...
Khi Võ Ðắc đã được tái chiếm, Tiểu đoàn liền đổi hướng về hướng Bắc, truy kích địch ở xã
Sùng Nhơn và Võ Su. Nhưng đám giặc ở đây đã hoàn toàn mất tinh thần, chỉ đụng trận năm
ba phút là tìm cách bỏ chạy. Chúng rút trở về rừng sâu”.
Trong khi trận đánh diễn ra ở phía bắc thì tại phía nam, sư đoàn 18 BB tìm cách phá chốt địch để
tiến lên quận. BTL sư đoàn đã ra lệnh cho trung đoàn 52 (TrÐT là Ðại tá Ngô Kỳ Dũng, khóa 13
TVBQG/VN) đang đánh chốt gần cầu Gia Huynh lui về phía sau khoảng 400 m rồi dùng hỏa lực
của 4 đại bác 155 ly và 18 đại bác 105 ly pháo dập mục tiêu. Sử dụng đạn xuyên phá (delay) với
mục tiêu là hầm hố phòng thủ của địch. Ðây là cách đánh tốt nhất để phá chốt vận động tiến công,
tránh được nhiều tổn thất về nhân mạng cho phía tấn công. Sau đợt pháo tập, trung đoàn 52 chia
làm hai cánh, một tiểu đoàn tấn công thẳng qua tuyến địch trong khi tiểu đoàn còn lại đánh bọc
ngang hông.
Ðồng lúc đó, BTL sư đoàn tổ chức trực thăng vận một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 52 đổ xuống
đoạn giữa của tỉnh lộ 333 để đánh về phía nam, bắt tay với cánh quân đang từ phía nam tiến lên, sau
khi thanh toán chiến trường chung quanh cầu Gia Huynh (xem Sơ đồ 12-13).
34 Bảo Ðịnh, Võ Ðắc Trong Biển Lửa, KBC Hải Ngoại. Tài liệu đã dẫn trước, trang 34-37.
35 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
Khi hai cánh quân gặp được nhau thì cùng tiến về phía bắc, kết hợp với trung đoàn 43 giải tỏa áp
lực địch chung quanh quận lỵ Hoài Ðức.
Trong hoàn cảnh bi đát, quân tiếp viện của sư đoàn 18 đến như một cứu tinh. TÐT tiểu đoàn 2/43,
chỉ huy đơn vị đầu tiên vào giải tỏa chi khu Hoài Ðức ngày 4/1/1975, đã ghi lại giây phút cảm động
này36 :
“Quân trú phòng như đàn ong vỡ tổ. Những tiếng reo hò mừng vui của quân dân Hoài Ðức
làm vang dội cả một góc trời. Lực lượng địch đang bao vây quận bỗng ngớ ngẩn, mất tinh
thần. Chúng nhìn trước ngó sau, chưa biết phải phản ứng như thế nào. Bỏ vị trí chạy, sẽ bị
kỷ luật quân đội, kỷ luật đảng. Nằm lại chịu chết ? Không đành. Bọn cán binh cộng sản rất
hoang mang và sợ hãi. Tinh thần xao động và sa sút. Chúng sợ ngoài đánh vào, trong đánh
ra. Nằm ở giữa thì chỉ có chết ! Sau một lúc giao động, cộng quân lại bắt đầu pháo. Nhưng
những trái pháo bây giờ không còn ‘dọa nạt’ được ai. Tinh thần của quân trú phòng đang
lên cao ! Họ có thể đùa giỡn giữa những trận mưa pháo vu vơ !”.
Sau chiến tranh, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, lúc bấy giờ là Tư lệnh quân khu 6 VC đã kể
lại chiến công tưởng tượng khi đánh chiếm được chi khu Hoài Đức, được báo chí CS tóm tắt lại
như sau37 :
“Đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên được Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ
đội ta tấn công chi khu Hoài Đức. “Để chuẩn bị cho việc “nhổ cái đinh Hoài Đức”, tôi đã ra
lệnh cho các đơn vị chủ lực trong Khu phối hợp với bộ đội địa phương và nhân dân “bóc
vỏ” diệt gọn các cứ điểm nhỏ xung quanh chi khu. Lúc 3 giờ sáng ngày 20-3-1975, sau gần
một giờ pháo bắn chuẩn bị, công binh, đặc công mở cửa, các mũi tiến công mau chóng thọc
sâu vào sở chỉ huy chi khu. Đến 6 giờ sáng, ta làm chủ đại bộ phận chi khu, tiếp tục diệt các
ổ đề kháng và tàn quân còn chống cự. Cùng ngày ta giải phóng hết các ấp chiến lược thuộc
huyện Hoài Đức. Sáng sớm ngày 20-3-1975, địch đổ quân hòng chiếm lại chi khu, nhưng
đã bị bộ đội ta tiêu diệt, số còn lại chạy tán loạn về phía Đồng Nai” - Thượng tướng
Nguyễn Trọng Xuyên kể lại rành rọt như trận đánh mới diễn ra trong ngày hôm qua”.
Sau khi hoàn thành công tác, tiểu đoàn 2/43 rời vùng hành quân. Tiểu đoàn 3/43 (TÐT là Thiếu tá
Nguyễn Văn Dư) đến đóng quân cạnh phi trường Hoài Ðức.
Tiểu đoàn 344 ÐPQ được tiểu đoàn 369 ÐPQ thay thế để trở về tỉnh lỵ tái trang bị và bổ sung quân
số38.
Ngày 13/1/1975, Ðại tá Trần Bá Thành đang là TrÐT trung đoàn 48, sư đoàn 18 BB được đề cử giữ
chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng tiểu khu Bình Tuy.
Tình hình nghiêm trọng khi một vùng đất rộng lớn không xa thủ đô Sài Gòn, rơi vào tay đối phương
khiến Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa mới nhậm chức Tư lệnh quân đoàn III, muốn thực hiện
một chiến công ngoạn mục. Chiến công dựng cờ của ông tại Ðak Tô - Tân Cảnh năm 1972 vẫn còn
vang dội. Bây giờ ông muốn lập lại một chiến công tương tự tại Tánh Linh.
Một buổi họp được tổ chức để thảo luận tìm phương cách thực hiện công tác vừa nói. Thành phần
tham dự gồm39, 40 :
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh quân đoàn III), chủ tọa
Thiếu tướng Lê Minh Ðảo (Tư lệnh sư đoàn 18 BB)
Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính (Tư lệnh sư đoàn 3 KQ)
36 Bảo Ðịnh, Võ Ðắc Trong Biển Lửa, KBC Hải Ngoại. Tài liệu đã dẫn trước, trang 34-37.
37 Đỗ Phủ, Mở cửa vào giải phóng Sài Gòn; http:// baobinhduong.vn /mo-cua-vao-giai-phong-sai-gon-
a5033.html, 28/11/2016.
38 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
39 Ðiện thoại viễn liên với cựu Ðại tá Trần Bá Thành ngày 12/1/2007.
40 Thư riêng của cựu Ðại tá Trần Bá Thành gửi cho tác giả ngày 18/1/2007.
Ðại tá Lê Ðặc Công (Trưởng Phòng 2 quân đoàn III)
Ðại tá Trần Bá Thành (Tiểu khu trưởng tiểu khu Bình Tuy).
Kết thúc buổi họp, Trung tướng Toàn quyết định cho trinh sát nhảy vào Tánh Linh để thực hiện
chiến dịch dựng cờ ! Cuộc hành quân trực thăng vận được yểm trợ bởi phi đoàn 221 trực thăng từ
phi trường Biên Hòa. Phi đoàn trưởng phi đoàn 221 là Trung tá Trọng (ông đã bị CS ám hại chết
trong trại tù cải tạo trên miền Bắc). Do không đủ phi công trực thăng vũ trang, phi đoàn được tăng
phái 2 trực thăng vũ trang từ phi đoàn 223 trực thăng (PÐT là Trung tá Phan Văn Luân). Số phi cơ
trực thăng tham dự cuộc hành quân do đó gồm tất cả 19 chiếc41 :
8 trực thăng vũ trang (6 chiếc của phi đoàn 221 và 2 chiếc của phi đoàn 223)
6 trực thăng chở quân
3 trực thăng chỉ huy và kiểm soát C&C (1 chiếc dành cho phi đoàn, 1 dành cho sư đoàn
và 1 của quân đoàn)
2 trực thăng tìm kiếm và cấp cứu S&R.
Cuộc hành quân trực thăng vận được chia làm hai đợt (xem Sơ đồ 14) :
Ðợt đầu gồm có 4 trực thăng vũ trang, yểm trợ cho 3 trực thăng đổ quân. Ba trực thăng
này chuyên chở ba toán gồm 15 quân nhân thuộc đại đội trinh sát 43 (ÐÐT là Ðại úy
Trần Văn Tỷ, khóa 23 TVBQG/VN) của trung đoàn 43, sư đoàn 18 BB cùng với 3
chuyên viên quay phim, mang theo cờ và biểu ngữ. Liên toán trưởng ba toán trinh sát là
Trung úy Nguyễn Văn Trí (khóa 26 TVBQG/VN). Tiểu khu Bình Tuy biệt phái một hạ
sĩ quan người Thượng tên Ðồng Cột theo dẫn đường. Ba trực thăng này chỉ đáp xuống
đổ quân rồi bay ra. Các toán trinh sát có nhiệm vụ vào Tánh Linh, gom dân chúng địa
phương lại, dựng cờ, treo biểu ngữ, chứng tỏ QLVNCH đã chiếm lại Tánh Linh rồi
quay phim.
Ðợt hai cũng gồm 4 trực thăng vũ trang và 3 trực thăng chuyển quân. Theo kế hoạch
hành quân thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các toán trinh sát và nhân viên kỹ thuật
tháp tùng sẽ tìm một địa điểm thích hợp và an toàn, dùng biểu tín hiệu gọi các trực
thăng thuộc đợt 2 đến bốc về.
Cuộc hành quân được khai diễn ngày 9/2/1975. Các phi hành đoàn đến họp tại dinh tỉnh trưởng
Long Khánh để nhận những chỉ thị cuối cùng và nghe thuyết trình về tin tức tình báo. Ðược biết có
sự hiện diện của phòng không địch trong vùng hành quân. Các toán trinh sát đang hành quân tại Võ
Ðắt thì được trực thăng đến bốc về để chuẩn bị nhảy vào Tánh Linh42 .
Khoảng 11 giờ trưa, trực thăng cất quân từ bãi đáp trong khuôn viên của dinh tỉnh trưởng Long
Khánh, bay đến ngã ba Hàm Tân thì giảm cao độ, bay sát ngọn cây vào Tánh Linh. Các trực thăng
vũ trang vừa bắt đầu tác xạ dọn bãi thì địch quân phản pháo ngay tức khắc, từ dưới đất cũng như
trên các ngọn đồi kế cận. Yếu tố bất ngờ không còn nữa hay đã mất từ đầu ? Vị trí đổ quân chỉ cách
chợ Tánh Linh khoảng 50 mét. Ngay khi đổ quân, một trực thăng vũ trang của phi đoàn 223 (Phi
công trưởng là Thiếu tá Phan Minh Nhựt, phi công phụ là Trung úy Trần Minh Mẫn) bị trúng đạn
phòng không phải đáp khẩn cấp. Một trực thăng thứ nhì cũng của phi đoàn 223 (hai phi công là
Trung úy Trần Hồng Minh và Trung úy Thái Ngọc Thành) đã đáp ngay bên cạnh, cứu thoát được
hai nhân viên phi hành bị thương (gồm nhân viên cơ phi và xạ thủ Nguyễn Văn Bê, Huỳnh Thành
Ngọc). Trực thăng phải cất cánh ngay vì hỏa lực địch cũng như tưởng lầm hai phi công đã chết và
cũng vì đạn dược, rocket còn trong trực thăng đang cháy nổ.
Thiếu tá Nhựt và Trung úy Mẫn, nhờ một phép lạ đã hồi tỉnh và thoát ra khỏi trực thăng trước khi
phát nổ. Bằng hai con đường khác nhau, hai vị sĩ quan này đã băng rừng và về đến được căn cứ 5
bốn ngày sau đó.
41 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tá Phan Minh Nhựt ngày 10/4/2007.
42 Ðiện thoại viễn liên với cựu Trung úy Nguyễn Văn Trí ngày 30/4/2007.
Ðợt trực thăng thứ 2 vào vùng theo kế hoạch nhưng không cứu được các toán trinh sát vì hỏa lực
mạnh mẽ của địch quân. Một trực thăng vũ trang mà phi công trưởng là Ðại úy Trịnh Minh Nhựt
(con trai của cố Trung tướng Trịnh Minh Thế và cũng là con rể của Trung tướng Phạm Xuân Chiểu)
bị trúng đạn, nổ tung. Tất cả phi hành đoàn được xem như tử nạn.
Trong khi đó, các toán trinh sát bị quân CS đóng chung quanh vị trí đổ quân tấn công. Tuy nhiên
các binh sĩ trinh sát sử dụng M-72 bắn trả khiến quân CS chưa dám xung phong. Lợi dụng tình thế
này, các toán trinh sát rút ra và nhanh chóng di chuyển về hướng nam. Quân CS truy đuổi ráo riết,
nhiều lần bao vây nhưng đều bị trinh sát dùng lựu đạn gây thêm nhiều tổn thất. Một thượng liên
RPD đã bị trinh sát chiếm được và giao cho nhân viên quay phim giữ trên đường rút lui.
Ngày thứ nhì, các toán trinh sát di chuyển lên núi và tiếp tục giữ hướng cũ. Ngày thứ ba, các toán
xuống núi, lần theo đường mòn của xe be kéo gỗ. Nhiều lần dùng kính chiếu gọi cấp cứu khi thấy
phi cơ nhưng không được đáp ứng. Vì quá mệt mõi, hết đạn dược, nước và thực phẩm cũng không
còn nên các toán đồng ý chia làm hai. Một do Trung úy Trí gồm những người còn khỏe sẽ tiếp tục
cuộc hành trình. Nhóm còn lại gồm những quân nhân đã bị kiệt sức, do Thiếu úy Bảo chỉ huy, tìm
cách lẫn trốn trong rừng. Trung úy Trí ra lệnh vứt bỏ vũ khí, sử dụng lựu đạn với hai lý do43 :
Vứt bỏ súng vì đã hết đạn, sẽ nhẹ nhàng hơn khi di chuyển.
Mua thời gian vượt thoát vì VC mãi lo thu nhặt các vũ khí do trinh sát vứt bỏ lại.
Sau cùng, một phi cơ L-19 đã nhìn thấy toán trinh sát đang di chuyển và lắc cánh báo hiệu dấu hiệu
nhận bạn. Khoảng hai giờ sau, các trực thăng đến bốc toán này đưa trở về Long Khánh. Trung úy
Trí tiếp tục theo trực thăng cùng với đại đội (-) trở lại nhưng không tìm được những quân nhân đã
ẩn núp trong rừng. Tuy nhiên sau đó những người thất lạc cũng tìm về được căn cứ 3. Tất cả 18
người đều trở về an toàn. Chỉ riêng TS I Ðồng Cột bị mất tích. Tất cả các quân nhân trinh sát tham
dự cuộc hành quân được thăng một cấp, ngoại trừ Trung úy Trí vì vừa mới được thăng cấp đương
nhiên sau 12 tháng phục vụ tại đơn vị.
CS đã ghi lại chi tiết cuộc hành quân trên như sau, dĩ nhiên là hoàn toàn do tưởng tượng ra44 :
“Ðịch đã mất cả tỉnh Phước Long, chắc chắn không có khả năng tái chiếm. Núi Bà Ðen Tây
Ninh gần Miền địch cũng khó lòng giành lại. Tánh Linh tuy xa xôi nhưng có thể là nơi địch
có thể gỡ gạc bằng đổ bộ đường không lớn cỡ lữ đoàn, bất ngờ nhảy xuống chiếm chi khu
rồi nống ra tái chiếm toàn huyện, điều này rất có thể xảy ra. Nhận định như vậy, chúng tôi
có kế hoạch chống tái chiếm Tánh Linh, nhanh chóng triển khai thế chiến đấu hiệp đồng
hỏa lực giữa tiểu đoàn 15 và 130 sẵn sàng đánh địch khi chúng bắt đầu đổ quân. Gần Tết
Nguyên Ðán, Quân khu gọi tôi về báo cáo tình hình và giao nhiệm vụ đợt chiến đấu mới. Ở
Tánh Linh, ngày giáp Tết 29 âm lịch tức ngày 9 tháng 2 năm 1975, lúc 10 giờ, địch không
oanh tạc trước như thường lệ, chỉ dùng L19 quần bắn rốc két bình thường rồi đột ngột có
mấy tốp trực thăng đổ một đại đội [sic] biệt kích xuống gần chi khu Tánh Linh, tên đại đội
trưởng [sic] dẫn một tiểu đội xông vào đồn, định kéo lá cờ ba que lên đánh đòn tâm lý, báo
hiệu đã chiếm được chi khu, gây hứng khởi cho bọn đổ tiếp sau. Nhưng tên đại đội trưởng
bị bắn gục trên rào, cả tiểu đội biệt kích bị diệt sạch; hỏa lực ta trùm lên đại đội vừa đổ
quân; bộ binh từ nhiều hướng đến đánh mạnh; cả đại đội [sic] địch bị xóa sổ, bốn [sic] trực
thăng bị bắn rơi, mấy chiếc khác bị thương. Qua máy bộ đàm, ta nghe có tiếng một tên địch
nào đó gọi hốt hoảng:
- Dừng lại ngay, không được đổ quân tiếp, số mới đổ bị diệt hết rồi!
Ðịch chịu mất một đại đội [sic]. Cuộc đổ bộ đường không lớn bất ngờ tái chiếm Tánh Linh
thất bại. Vùng giải phóng được giữ vững, bà con ăn một cái Tết chiến thắng tự do đầy hân
hoan, phấn khởi”.
43 Thượng tá Hồ Sơn Ðài, Chủ biên, Những Trận Ðánh Của Lực Lượng Vũ Trang Quân Khu 7 - Tập III
(1969-1975), trang 466-469; nxb QĐND, Hà Nội, 2002.
44 Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 14/4/2007.
Một tài liệu khác cũng của CS đã ghi lại những chuẩn bị phòng thủ chống trực thăng vận tại Tánh
Linh45 (xem Sơ đồ 14) :
“Ðể bảo vệ vùng giải phóng, chống địch đổ quân bằng trực thăng để tái chiếm chi khu Tánh
Linh; cấp trên đã điều động Tiểu đoàn 15 Trung đoàn 812, 1 đại đội Tiểu đoàn 130 của
Quân khu 6, 2 khẩu đội súng thượng liên Trường Quân chính Quân khu và Ðại đội 422 bộ
đội địa phương Tánh Linh, chiếm lĩnh các điểm cao, các vị trí có lợi chung quanh chi khu
sẵn sàng tiêu diệt địch đổ bộ bằng đường không. Lực lượng chiến đấu được tổ chức cụ thể:
Tiểu đoàn 15 bố trí Ðại đội 1 chiếm dãy đồi chân núi Cà Toòng ở Hiếu Tín, Ðại đội 2
chiếm giữ cao điểm Lồ Ồ, Ðại đội 3 chiếm đồi xã Dú, Ðại đội hỏa lực, Tiểu đoàn 130
chiếm đồi Quan Hà, Ðại đội 422 bố trí tiếp nối theo đại đội hỏa lực. Ðại đội 88 địa phương
Bình Tuy chiếm đồi Cà Toòng đông Gia An và xã Gia An, cụm súng thượng liên phòng
không chiếm đồi Giang. Nhiệm vụ các đơn vị phải xây dựng công sự vững chắc, dùng hỏa
lực bắn máy bay trực thăng không cho địch đổ bộ tự do xuống chi khu, sân bay và các bãi
đổ bộ khác trong khu vực đơn vị mình, đồng thời tiêu diệt quân địch đã đổ xuống trước,
bọn đang triển khai đánh chiếm các mục tiêu của ta. Ngoài ra các đơn vị sẵn sàng lực lượng
chi viện cho đơn vị bạn đánh địch trong khu vực. Chỉ huy lực lượng phòng thủ là đồng chí
Nguyễn Văn Bổng, Trung đoàn phó Trung đoàn 812, chỉ huy phó là đồng chí Trần Việt
Tân, Tỉnh đội phó Bình Tuy”.
Trận đánh chống trực thăng vận cũng đã được ghi tiếp46 :
“Chiều ngày 31 tháng 1 năm 1975 các lực lượng đều có mặt tại vị trí qui định, hoàn thành
công sự sẵn sàng chiến đấu. Ngày 4 tháng 12 [sic] tức 29 Tết Nguyên đán, vào lúc 7 giờ 45
phút sau khi cho pháo 175 mm từ ngã ba Ông Ðồn bắn vào Gia An và Lồ Ồ cùng máy bay
trinh sát khu vực Tánh Linh, địch sử dụng 2 chiến trực thăng đến bắn hỏa tiển và đại liên
xuống xung quanh chi khu để chuẩn bị đổ quân. Sau 5 phút bắn phá chuẩn bị, một tốp máy
bay trực thăng 4 chiếc đổ 1 trung đội xuống đồng ruộng bên suối Cát, cách chi khu 100 mét
về hướng bắc. Lực lượng ta nổ súng đồng loạt đều khắp, diệt tại chỗ nhiều tên, một số chạy
về hướng chi khu có mang theo một lá cờ ba que. Sau 3 phút địch cho 2 tốp 6 chiếc trực
thăng đổ 2 trung đội xuống, tiếp tục tiến vào xóm nhà dân [phía] tây [cách] chi khu 100
mét, một mũi ngược suối Cát vào xóm dân đông [cách] chi khu 200 mét.
Ngay từ khi bắt đầu nổ súng ta đã bắn cháy 2 trực thăng rơi tại chỗ, bắn bị thương 1
chiếc. 8 giờ 10 phút quân địch đến trước trận địa Ðại đội 2 Tiểu đoàn 15 ở đồi Lồ Ồ và bị
đánh bất ngờ từ nhiều hướng. Mũi đánh vào chi khu để cắm cờ khi đến bìa sân bay chỉ còn
3 tên, bị hỏa lực Ðại đội 2 bắn chặn diệt luôn tên đại đội trưởng, toàn bộ trung đội địch bị
diệt. Hai trung đội đổ sau của địch bám vào xóm nhà ở chợ dựa vào nhau để chống trả lại
ta. Lúc này trinh sát kỹ thuật ta bắt được tin địch ‘tạm dừng’ cùng lúc cụm súng thượng liên
bắn cháy thêm 1 trực thăng rơi tại đồi Ông Cảnh cách phía tây trận địa 1,5 ki-lô-mét. Nhận
định địch bị thất bại không đổ thêm quân, ta nhanh chóng tổ chức lực lượng vận động bao
vây, tiêu diệt bọn địch còn lại. Ðại đội 2 và 3 Tiểu đoàn 15 đánh từ trên đồi xuống xóm.
Ðại đội hỏa lực cho một mũi vận động, Ðại đội 422 có 2 trung đội từ đồi Quan Hà đánh vào
xóm Chàm thẳng xuống suối Cát. Bị đánh vào sườn trái, địch tháo chạy về hướng đồi
Giang và bị diệt thêm một số. Ðến 9 giờ số địch sống sót chạy về tây chân núi Ông và về
Hoài Ðức. Trận đánh kết thúc, ta thu vũ khí, trở lại vị trí tiếp tục củng cố công sự ngụy
trang sẵn sàng chiến đấu tiếp. Kết quả sau hơn 1 giờ chiến đấu ta đã diệt 2 trung đội địch,
thu 8 súng, bắn rơi tại chỗ 4 máy bay trực thăng, bắn bị thương một số chiếc khác. Lực
lượng ta và nhân dân an toàn”.
Hai chi tiết chủ yếu mà các tài liệu của CS đã ghi nhận sai lầm là cuộc hành quân trực thăng vận chỉ
đổ xuống Tánh Linh tất cả 19 người, kể cả 3 chuyên viên quay phim. Tất cả đã trở về an toàn ngoại
trừ một quân nhân người Thượng được ghi nhận mất tích47. Số trực thăng bị bắn rơi là 2 chiếc48 chứ
45 Thượng tá Hồ Sơn Ðài, Chủ biên, Những Trận Ðánh Của Lực Lượng Vũ Trang Quân Khu 7 - Tập III
(1969-1975). Sách đã dẫn trước.
46 Sách đã dẫn trên.
47 Ðiện thoại viễn liên với cựu Trung úy Nguyễn Văn Trí ngày 30/4/2007.
không phải 3 hay 4 (Tài liệu của CS ghi đã bắn rơi 4 trực thăng nhưng trong bản đồ kèm theo lại chỉ
đánh dấu có 3 vị trí) 49, xem Sơ đồ 14.
Ðầu tháng 3/1975, quân CS trở lại bao vây quận lỵ Hoài Ðức. Một BCH chiến dịch đợt 2 được CS
thành lập gồm50 :
Chỉ huy trưởng : Bùi Văn Mỳ, Phó Tư lệnh quân khu 6
Chính ủy : Lê Khắc Thành, Bí thư tỉnh ủy Bình Tuy
Phó Chủ nhiệm chính trị : Phạm Hoài Chương
Chỉ huy phó : Nguyễn Thanh Ðức, Tỉnh đội trưởng và Võ Như Loan, chính trị viên tỉnh đội
Bình Tuy.
Lúc này, chi khu do tiểu đoàn 369 ÐPQ (TÐT là Thiếu tá Khanh) phòng thủ. Bên ngoài có tiểu
đoàn 3/43 thuộc sư đoàn 18 BB, đóng tại phi trường L-19 ở phía tây chi khu.
Tiểu đoàn 344 ÐPQ đang nghỉ dưỡng quân tại Bình Tuy với BCH gồm51 :
TÐT : Ðại úy Lê Phi Ô
TÐP : Ðại úy Trương Kim xltv
ÐÐT/ÐÐ 1 : Ðại úy Trương Kim
ÐÐT/ÐÐ 2 : Trung úy Quảng
ÐÐT/ÐÐ 3 : Trung úy Vương
ÐÐT/ÐÐ 4 : Ðại úy Nguyễn Châu Luyện
ÐÐT/ÐÐ CH&YT : Trung úy Hy.
được lệnh chuẩn bị để được trực thăng vận đến Hoài Ðức tăng cường cho lực lượng phòng thủ tại
đây. Tiểu đoàn được chuyển vận đến xã Gia Ray. Từ đây được trực thăng vận đổ quân xuống ấp
Chánh Tâm 3 (xem Sơ đồ 5 & 12).
Hai ngày đầu tiến quân chỉ chạm địch lẻ tẻ. TÐT cho bung rộng đội hình, phái các toán lục soát
cũng như đặt nhiều tiền đồn bên ngoài cách xa vị trí đóng quân vì đoán biết địch quân đang cố gắng
điều nghiên, thăm dò.
Tám giờ tối ngày thứ ba của cuộc hành quân, tiểu đoàn được lệnh rút bỏ các nơi đóng quân, trở về
chi khu, càng gần càng tốt. Ngày hôm sau, tiểu đoàn nhận được tin xã Gia Ray đã bị Cộng quân
chiếm giữ52.
Sáng ngày thứ tư, tiểu đoàn chạm địch khi đang tiến quân về phía bắc. Ðịch quân có khoảng một
trung đội đang từ một đồi đá, cao độ khoảng 40 m, tác xạ xuống (xem Sơ đồ 11). TÐT ra lệnh tấn
công chiếm ngọn đồi từ ba hướng tây, đông và nam. Hướng bắc dành cho hỏa tập tiên liệu. Ðịch
quân chống trả yếu ớt nên tiểu đoàn chiếm được mục tiêu một cách nhanh chóng.
Ngày thứ năm, tiểu đoàn được tin địch quân pháo kích chi khu một cách dữ dội. Ðến chiều thì bộ
binh địchbắt đầu tấn công. Các liên lạc truyền tin bị gián đoạn. Tiểu đoàn bị pháo cùng trong ngày
nhưng chỉ bị thiệt hại nhẹ.
48 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tá Phan Minh Nhựt ngày 10/4/2007.
49 Ðại tá Nguyễn Văn Chiến và nhiều người khác biên soạn, Lịch Sử Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Tỉnh
Bình Thuận (1945-2000), trang 492; nxb QĐND, Hà Nội, 2003.
50 Thiếu tướng, PGS, TS Trịnh Vương Hồng và nhiều người khác, Lịch Sử Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam
(1944-1975), trang 701; nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
51 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
52 Tài liệu đã dẫn trên.
Sáng ngày thứ sáu, quân CS tấn công chi khu và tiểu đoàn 3/43 thuộc sư đoàn 18 BB đóng ở bên
ngoài. Ðến gần trưa thì qua đài tiếp vận đặt trên núi Chứa Chan, tiểu đoàn nhận được lệnh của tiểu
khu phải khẩn cấp đến cứu viện chi khu, sắp bị địch quân tràn ngập.
TÐT lập kế hoạch hành quân với hai cánh quân A và B. Cánh A do TÐT chỉ huy gồm đại đội
CH&YT và hai đại đội 2, 3 tiến dọc phía bên phải của tỉnh lộ 333 để đánh vào mặt nam của chi
khu. Cánh B do TÐP chỉ huy gồm hai đại đội 1 và 4 tiến quân bên phía trái TL-333 với mục tiêu là
vườn cao su nhỏ cạnh phi trường L-19 để bắt tay với tiểu đoàn 3/43 (xem Sơ đồ 6).
Cuộc hành quân đã được chính TÐT/TÐ/344/ÐPQ ghi lại53 :
“Cánh B phải đội pháo địch và phá chốt địch rất gay go, đến 8 giờ tối thì bắt tay được với
bạn. Cánh A dàn quân xong, một đại đội vượt suối chiếm bờ phía Bắc và dàn quân chờ, đại
đội tiếp theo bắt đầu vượt suối và dàn quân hàng ngang với đại đội trước bên phải.
BCH/TÐ 344/ÐP và ÐÐ/Chỉ-huy& Yểm-trợ giữ mặt sau ... Theo kế hoạch thì sau khi dàn
quân xong, TÐ 344/ÐP và TÐ 3/43BB cùng tiến về chi khu đánh vào sau lưng địch để giải
vây cho chi khu ... chốt địch dày đặc nên khó tiến nhanh được ... Ðến hừng sáng thì kho
xăng của CK bốc cháy dữ dội, những phuy xăng 200 lít bay bổng lên trời và nổ bung thành
trái cầu lửa phủ chụp xuống ... bỗng nhiên tiếg súng từ chi khu thưa dần và chỉ còn lẻ tẻ, vì
mất hẵn liên lạc nên tôi không biết tình trạng CK lúc đó như thế nào !
Trước mặt chúng tôi độ vài trăm thước là cả một Trung đoàn địch mỗi 10 thước tiến tới
là phải đào một hố cá nhân để tránh pháo, VC dùng cả súng phòng không 37 ly bắn vào đội
hình của ta. Tôi chận một toán người chạy loạn lại gồm một chị và hai đàn ông thì một
người là một anh Nghĩa-quân tôi biết mặt, anh ta là nhân viên truyền tin của chi khu mới
hay CK đã bị địch tràn ngập lúc gần sáng, Thiếu tá Xinh CK trưởng đã thoát được ra ngoài.
Tôi cố gắng liên lạc với Th/tá Xinh, với Th/tá Khanh TÐT TÐ369/ÐP (phòng thủ bên trong
CK) và cả trung đội Pháo binh tất cả đều im lặng vô tuyến. Lại chận được vài người lính áo
quần tả tơi nhưng vẫn còn súng đạn, trong đó có Thượng sĩ Hóa thuộc ban 2 CK, anh Hóa
mếu máo : ‘Hết rồi Ðại úy ơi ... hết rồi ...’. Chi khu đã mất, bạn bè tôi ... những người đã
quen biết và cũng đã cùng nhau chiến đấu bây giờ họ ra sao ? ! Tôi nghe tim mình nhói lên
(đó là ngày 20/3/75)”.
Cánh A của tiểu đoàn 344 ÐPQ trở lại đồi đá, tổ chức phòng thủ. Năm giờ chiều, ÐPQ chận được
một số dân chúng chạy trốn nay định trở về nhà. VC gửi một thư tay với nét chữ nguệch ngoạc, sai
chính tả kêu gọi tiểu đoàn đầu hàng.
Không liên lạc được cánh B, TÐT tiểu đoàn 344 nhanh chóng thảo kế hoạch hành quân khác trước
tình hình xấu. Một tiểu đội tình nguyện ở lại vị trí đóng quân tạm để lừa địch, đồng thời gài mìn tự
động chung quanh vị trí đóng quân. Tất cả đơn vị còn lại băng rừng hướng về phía quận lỵ. Giữa
khuya, địch quân bao vây và tấn công đúng theo kế hoạch lừa địch. Tiểu đội ÐPQ đã nhanh chóng
rời khỏi vị trí sau khi tác xạ và cho nổ các mìn tự động. Một trận chiến xảy ra trên ngọn đồi giữa
các mũi tấn công của quân CS, bắn lẫn nhau vì đêm tối.
Ngày thứ bảy, tiểu đoàn vẫn còn nán lại vị trí của đêm qua với hy vọng đón được những quân nhân
của cánh B bị thất lạc. Một số dân chúng chạy loạn cho biết quận lỵ đã rơi vào tay địch quân.
Tiểu đoàn 344/ÐPQ di chuyển suốt đêm theo hướng tây để đánh lạc hướng địch quân. Sáng ngày
hôm sau, khi đến gần sông La Ngà thì TÐT cho lệnh đổi hướng xuống phía nam. Sau khi vượt qua
TL-333 thì dừng lại bên một ngọn suối để tạm nghỉ ngơi, ăn uống. Ðoàn quân và dân đi tiếp đến
chiều thì gặp đường rày xe lửa qua ga Trảng Táo54 đã bỏ hoang. Sau đó không lâu đã đụng độ với
địch quân. TÐT ra lệnh đánh tràn qua quân địch và thuận đường rút lui.
53 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
54 Nhà ga Gia Huynh thuộc hệ thống thiết lộ xuyên Việt, dân địa phương gọi là ga Trảng Táo (Thư riêng của
cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 7/3/2007) (xem Sơ đồ 15). Ngày 30/10/1963, VC phục kích đoàn
xe lửa từ Sài Gòn ra và phá hoại đoạn đường sắt đi qua Trảng Táo, tỉnh Long Khánh đến Hòa Trịnh, tỉnh
Ngày thứ chín, TÐT quyết định di chuyển về hướng căn cứ 2 của tỉnh Long Khánh vì căn cứ 6 còn
quá xa. Tuy nhiên đoạn đường khoảng 20 cây số còn lại không dễ dàng. TÐT/TÐ344/ÐPQ ghi
tiếp55 :
“Trong tình trạng di tản chiến thuật có cả đồng bào đi theo như thế này ... hơn nữa đạn
dược thiếu hụt trầm trọng, không có yểm trợ, không có quân bạn và xung quanh chúng tôi
toàn là rừng tiếp rừng nếu không thoát ra khỏi đây thật nhanh mà phải tiếp tục giao chiến
với địch thì chúng tôi sẽ hết đạn.
Tôi chia toán quân cản hậu thành nhiều tổ tam tam chế, gom góp lựu đạn của các quân
nhân khác để cho các tổ tam này xử dụng ... vì lựu đạn làm cho địch khó phát hiện ra ta và
chỉ bắn khi bất khả kháng và thật chắc ăn mới bắn hoặc khi địch quân quá gần. Tôi chưa
bao giờ tham dự trận đánh nào kiểu này cả vì trong khi địch bắn xối xả thì ta chỉ nổ súng lẻ
tẻ theo lối bắn tỉa (sniper) nhưng lại gây nhiều thiệt hại cho chúng làm bọn chúng phải chùn
bước và thừa những lúc như vậy chúng tôi chia nhau từng toán tiếp tục lui dần.
Chúng tôi tiếp tục đánh kiểu này làm Việt-cộng không đoán được đội hình và hướng đi
như thế nào. Chúng bắt đầu pháo. Trong rừng bị pháo rất nguy hiểm vì đạn có thể chạm vào
nhánh cây và nổ chụp từ trên cao xuống. Nhưng chúng quả tình không biết rõ hướng di
chuyển của chúng tôi nên chỉ đoán mò mà bắn chận ... đạn nổ rải rác cách chúng tôi cả trăm
mét.
Lũ Việt-cộng bắt đầu khựng lại, đêm trước bị chúng tôi đánh bất ngờ ... suốt ngày hôm
nay bọn chúng định hốt gọn chúng tôi nhưng lại bị thương vong rất nhiều vì lựu đạn mà
không nhìn thấy lính đâu cả ! Lựu đạn sau khi rút chốt và buông thìa cho nó kích hỏa phải 6
hoặc 7 giây sau mới phát nổ. Chúng tôi buông thìa và đếm thầm đến tiếng thứ 2 hoặc 3 mới
ném nên lựu đạn vừa chạm đất hoặc chưa kịp chạm đất thì phát nổ, và cái màn bắn tỉa bá
phát bá trúng này có lẽ làm chúng phải chùn bước”.
Chiến thuật trên khiến cánh A đến được căn cứ 256 vào ngày thứ 10 của cuộc vượt thoát (xem Sơ đồ
15). Người lính ÐPQ của QLVNCH đến giờ phút chót vẫn chứng tỏ được lòng kiên định của mình.
Trận đánh tại chi khu đã được tài liệu của CS ghi lại57 :
“Ðịch còn đông (chúng không biết gì về Buôn Ma Thuột và việc địch chạy khỏi Tây
Nguyên, chúng tôi cũng chỉ mới biết tin sốt dẽo đó từ điện của Quân khu gửi đến khi trưa),
ngoan cố bám công sự, lô cốt, hầm ngầm, cơ giới chống trả quyết liệt. Ta đã chiếm được
khu thông tin, khu cảnh sát dã chiến, tiếp tục tấn công chi đội bọc thép 909 và trận địa pháo
105. Anh Ba Mỳ cho lực lượng dự bị vào chiến đấu, được tăng sức mạnh, các mũi nhanh
chóng chia cắt địch, tảo trừ, diệt, bắt nốt số còn cố thủ trong các hầm ngầm, ụ súng. 6 giờ
40 ngày 20 tháng 3, 1975, 812 đã làm chủ chi khu, cờ Mặt trận phấp phới trên nóc nhà
thông tin chi khu Hoài Ðức. Khai thác tù binh biết tiểu đoàn 3/43 cùng bọn tàn binh 334,
336, bảo an dân vệ các nơi tập trung cụm tại trận địa dã chiến đồi Su, ta cho hai pháo 105
trong chi khu bắn gần trăm quả vào đồi Su, sát thương một số địch, chúng rất hoảng sợ nằm
im trong công sự. Hai ngày 20 và 21 tháng 3, địch oanh tạc 10 phi vụ vào chi khu và thị
trấn Võ Ðắc nhưng không gây thiệt hại gì về người. Các lực lượng địa phương tấn công giải
phóng các xã Sùng Nhơn, Nghị Ðức, Chính Ðức. Trong ngày 20 và 21 giải phóng nốt các
xã Võ Xu, Trà Tân 1, 2, 3. 3 giờ ngày 22 tháng 3, 812 đánh diệt đồi Su, sau đợt pháo cấp
Ninh Thuận. Ðoạn đường sắt này do đó đã bị bỏ hoang kể từ đó (Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường
Chiến Ðấu - Hồi Ký, trang 332-334, nxb QĐND, Hà Nội, 2003). Tuy nhiên trên thực tế không đúng như vậy.
Giao thông đường sắt vẫn không bị gián đoạn. Ngày 13/5/1965, trong một buổi tiếp kiến đại sứ Úc-Ðại-Lợi
tại VN, ông Phạm Minh Ðường, Giám đốc Sở Hỏa xa và Cấp thủy thuộc Bộ Công chánh VNCH cho biết,
thiết lộ xuyên Việt chỉ tạm thời bị gián đoạn ở vai vị trí; khoảng giữa Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) - Qui Nhơn
(tỉnh Bình Ðịnh) và Bồng Sơn (tỉnh Bình Ðịnh) - Ðà Nẵng, vì có 4 cầu bị hư hại.
55 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
56 QLVNCH có nhiều căn cứ trấn đóng dọc theo QL-1. Căn cứ 1 tại Núi Le cách căn cứ 2 khoảng 9 cây số về
phía đông (xem Sơ đồ 4). Vị trí các căn cứ 2 đến 10 được ghi trong Sơ đồ 14. Lúc bấy giờ căn cứ 1 đã bị địch
quân chiếm. Căn cứ 2 có khoảng 10000 dân sống chung quanh và do một tiểu đoàn (-) ÐPQ thuộc tiểu khu
Long Khánh trấn giữ (Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 7/3/2007).
57 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước, trang 460-483.
tập, bộ binh xung phong vào đội hình địch, chúng chống trả yếu ớt, lớp chết, lớp hàng, tháo
chạy tán loạn. 6 giờ ngày 22 chiếm xong đồi Su; tuy đóng dã chiến nhưng đã ở cả tháng,
mùa khô đất cứng nên công sự xây đấp công phu mà tinh thần địch bạc nhược, 812 mới
đánh chiếm nhanh chóng dễ dàng như vậy, ta chẳng thương vong gì. Trong ngày tổng truy
quét tàn quân, bắt thêm 200 tù binh, thu thêm 200 súng có cả cối 81, đại liên. Số cắt rừng
nhắm đường 1 tẩu thoát về Bình Tuy cũng bị các cơ quan trong căn cứ, cả nhân viên hộ lý,
cấp dưỡng cũng bắt được tù binh, tất cả trên trăm tên, lấy được đại liên, cối, máy thông tin.
Chiều 22 tháng 3, toàn huyện Hoài Ðức không còn bóng địch. Cùng ngày, đại đội 3/840
phát triển xuống nam cầu Gia Huynh liên lạc được một đơn vị của Sư đoàn 6 Quân khu 7
cũng mới giải phóng thị xã Gia Ray và chi khu An Lộc lưu vong trên lộ 3”.
2. HẬU QUẢ
Sau chiến tranh, CS tổng kết, đợt 158 :
“Kết quả, từ 10 tháng 12 năm 1974 đến 10 tháng 1 năm 1975: tác chiến 609 trận lớn nhỏ,
diệt làm bị thương 1.489 tên, bắt 295, làm rã 380, thu 1.031 súng các loại có năm pháo 105
(nhưng đều phá hủy) thu một trọng liên 12 ly 7, một cối 81, 17 đại liên, 36 máy thông tin,
12 xe quân sự, rất nhiều chiến lợi phẩm khác, bắn rơi 13 máy bay, bắn bị thương 10 chiếc,
phá hủy 37 xe quân sự có bốn xe tăng; phá hủy nhiều nhà cửa kho tàng, đạn dược, xăng
dầu; diệt một chi khu; giải phóng toàn huyện Tánh Linh. Riêng 812, 200C và các lực lượng
địa phương diệt 1.113 địch, bắt 280, thu 1.00 súng, 12 xe quân sự, bắn rơi tám máy bay,
bắn bị thiuơng bốn chiếc, phá hủy ba xe bọc thép, hai pháo 105. Ðợt 1 chiến dịch đạt 50
phần trăm yêu cầu nhưng đã căng kềm được một bộ phận lớn chủ lực địch, phối hợp tốt với
chiến dịch đường 14 - Phước Long của Miền”.
Và đợt 2 chiến dịch Tánh Linh - Hoài Ðức59 :
“Kết quả đợt 2, trong thời điểm thuận lợi chung, với lực lượng ít hơn nhiều so với đợt 1, dù
địch vẫn còn ngoan cố chống trả quyết liệt nhưng các đơn vị Quân khu và địa phương đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng huyện Hoài Ðức trong 7 ngày, diệt, bắt, làm tan rã
2.500 địch, có tiểu đoàn 3/43/sư đoàn 18, các tiểu đoàn 334, 336 và đại đội 720 bảo an, hai
trung đội pháo 105, hơn chục xe cơ giới thiết giáp, trên 1.000 súng các loại, chưa kể 1.400
súng thu thêm sau đó và tàn quân ra nạp. Mở ra một vùng giải phóng rộng lớn, kể cả Tánh
Linh là hơn 6 vạn dân, đạt yêu cầu diệt địch, bồi dưỡng ta, giải phóng và giữ dân giữ đất,
kết thúc thắng lợi chiến dịch Hoài Ðức - Tánh Linh. Góp phần xứng đáng vào cục diện
mới, chia cắt Quân khu 2 và Quân khu 3 địch, tạo điều kiện cho các hướng áp sát tấn công
Sài Gòn, huy động nhiều nhân tài vật lực phục vụ phía trước. Bộ đội Quân khu 6 nâng cao
một bước trình độ tác chiến lớn trong thời cơ chiến lược mới”.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 344 ÐPQ ghi nhận60 :
Cánh A còn lại 200 binh sĩ và 20 thân nhân, gia đình binh sĩ
Ðại đội 4/344 thuộc cánh B còn 15 người về đến căn cứ 5
Ðại đội 1/344 cũng thuộc cánh B lui binh theo tiểu đoàn 3/43 còn 36 người và được trực
thăng bốc giữa rừng đưa về Long Khánh (xem Sơ đồ 4).
Thiếu tá Xinh, CKT thoát được ra đến QL-1
Tiểu đoàn 369/ÐPQ, đơn vị trấn giữ chi khu Hoài Ðức chỉ còn lại 99 quân nhân kể cả TÐT.
Một điểm cần lưu ý là Trung tướng Nguyễn Văn Toàn đã thay thế Trung tướng Dư Quốc Ðống
trong chức vụ tư lệnh quân đoàn III sau khi trận đánh tại Phước Long kết thúc (6/1/1975). Do
58 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước, trang 460-483.
59 Sách đã dẫn trên, trang 460-483.
60 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
không đủ quân số, Tướng Toàn phải áp dụng phòng thủ lưu động với sư đoàn 18 BB là lực lượng
trừ bị của quân đoàn. Gọi là trừ bị nhưng sư đoàn 18 vẫn đụng độ thường xuyên với quân CS61.
3. NHẬN XÉT
Tháng 4 năm 1974, Quân ủy trung ương CSBV đã triệu tập một hội nghị gồm các cán bộ cao cấp để
nghiên cứu nghị quyết hội nghị lần thứ 21 của ban chấp hành Trung ương Ðảng và nghị quyết của
Quân ủy Trung ương (tháng 3/1974), nhận định tình hình và đề ra khả năng phát triển chiến tranh
tại miền Nam.
Bộ Tổng tư lệnh quân đội CSBV được lệnh soạn thảo kế hoạch chiến lược được gọi là “Phương
hướng tác chiến 1973-1975”. Ðến tháng 9, bản dự thảo “Ðề cương nghiên cứu kế hoạch giành
thắng lợi ở miền Nam” được hoàn tất, tổng hợp ý kiến của các nhân vật cao cấp thuộc bộ quốc
phòng, bộ TTM, tổng cục chính trị, tổng cục hậu cần và đại diện từ các chiến trường như Trần Hữu
Dực (mặt trận Trị - Thiên), Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Quân khu 5), Nguyễn Văn Linh, Trần
Văn Trà, Trần Nam Trung, Hoàng Văn Thái, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Minh Ðường (mặt trận B2),
v.v. Cũng trong dịp này Bộ chính trị chính thức chấp thuận việc thành lập các quân đoàn đã được
xúc tiến từ trước62.
Trong phần diễn tiến trên, người ta đã biết qua sự hiện diện của hai trung đoàn 274 và 812 theo tin
tức tình báo của Mỹ63 hay E211 và nhiều trung đoàn khác theo tin tức tình báo của QLVNCH64
hoặc trung đoàn 33 theo ký ức của người trong cuộc65. Thế thì sự thật như thế nào?
Ðể thành lập các quân đoàn thì phải kiện toàn các sư đoàn đã có hay thành lập các sư đoàn mới.
Trong điều kiện như vậy, quân khu 7 của CS đã cho thành lập sư đoàn 6, sư đoàn đầu tiên của quân
khu vào tháng 11 năm 1974. Ðây là một sư đoàn trừ vì chỉ có hai trung đoàn 4 và 33, 4 tiểu đoàn
trợ chiến và 3 tiểu đoàn đặc công66.
Âm mưu đánh chiếm Tánh Linh và Hoài Ðức nằm trong kế hoạch tiến công mùa khô 1974-1975
của CS. Nên biết thêm rằng lúc bấy giờ CS chỉ nêu chỉ tiêu thực hiện nghị quyết tháng 10/1974 để
đánh chiếm miền Nam trong vòng hai năm 1975-1976. Kế hoạch thời cơ chỉ được đặt ra sau khi họ
chiếm được Ban Mê Thuột.
Trong kế hoạch hai năm vừa nói, Tây Ninh, Tánh Linh - Võ Ðắt, Phước Long, Dầu Tiếng - Bàu
Ðồn - Truông Mít đều là những mục tiêu của khu vực Ðông Nam Bộ nhằm bao vây Sài Gòn. Riêng
Tánh Linh - Võ Ðắt nhằm chia cắt lãnh thổ hai quân khu 2 và 3 của VNCH, nếu thắng sẽ uy hiếp
luôn Xuân Lộc, nhằm tấn công thủ đô từ hướng đông67.
TÐT tiểu đoàn 2/43 đã đánh giá đúng tầm quan trọng của khu vực và mục tiêu của đối phương khi
viết68 :
“Cuối tháng 12 năm 1974, sau khi tấn chiếm thành công quận Tánh Linh, một quận hẻo
lánh, xa xôi của tỉnh Bình Tuy, cộng quân dồn hết nỗ lực quyết dứt điểm quận Hoài Ðức.
Nếu làm chủ được Hoài Ðức, chúng có thể uy hiếp QL1 vùng Ngã Ba Ông Ðồn, và QL20,
đường đi Ðà Lạt vùng cây số 125” (xem Sơ đồ 3).
61 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 21/2/2007.
62 Thiếu tướng, PGS, TS Trịnh Vương Hồng và nhiều người khác, Lịch Sử Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam
(1944-1975), trang 701; nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
63 Colonel W E Le Gro, Vietnam from Cease-Fire to Capitulation. Sách đã dẫn trước.
64 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 8/2/2007.
65 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo ngày 29/12/2006.
66 Thiếu tướng, PGS, TS Trịnh Vương Hồng và nhiều người khác, Lịch Sử Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam
(1944-1975). Sách đã dẫn trước.
67 Sách đã dẫn trên.
68 Bảo Ðịnh, Võ Ðắc Trong Biển Lửa, KBC Hải Ngoại. Tài liệu đã dẫn trước, trang 34-37.
Tài liệu của quân khu 7 CS ghi lại69 :
“Ðêm 9 rạng ngày 10 tháng 12 năm 1975 [sic], chiến dịch Hoài Ðức - Tánh Linh của Quân
Khu 7 và Quân khu 6 mở màn, bắt đầu đợt 1 hoạt động mùa khô của 2 quân khu, phối hợp
với mặt trận chính trên đường 14 - Phước Long. Mục tiêu của chiến dịch là giải phóng hoàn
toàn hai huyện Hoài Ðức - Tánh Linh, mở rộng vùng giải phóng, cắt đứt đường 20, quốc lộ
1 (đoạn Ngã Ba Ông Ðồn - Ngã Ba Hàm Tân) chia cắt quân khu 2, quân khu 3 ngụy. Lực
lượng được sử dụng gồm Sư đoàn 6 (thiếu), với các trung đoàn 4, 33; các tiểu đoàn đặc
công 18, 19, 20; 2 tiểu đoàn pháo mặt đất và cao xạ; hai đại đội pháo 85 và ÐKZ; trung
đoàn 812 và tiểu đoàn đặc công 200c Quân khu 6, bộ đội địa phương Bình Tuy. Qua 3 đợt
chiến đấu, đến giữa tháng 1 năm 1975, ta loại khỏi vòng chiến 2.300 tên địch, diệt 48 đồn
bót (có 1 chi khu), giải phóng huyện Tánh Linh, 4 xã huyện Hoài Ðức, nối liền vùng giải
phóng Bà Rịa - Long Khánh với Khu 6 và Miền, uy hiếp thị xã Long Khánh từ hướng Bắc.
Tuy không dứt điểm được Võ Ðắc, chiến dịch đã kềm chân sư đoàn 18 ngụy và liên đoàn
biệt động quân 7, thu hút địch và hỗ trợ tốt cho mặt trận đường 14 - Phước Long”.
Một sĩ quan CS cao cấp thuộc BTL quân khu 6 của CS bổ túc thêm70 :
“Theo lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, cuối năm 1974, Sư đoàn 6 của Quân khu 7 được điều ra
phối hợp với khu 6. Sư đoàn 6 có nhiệm vụ tiêu diệt chi khu Hoài Ðức. Trung đoàn 812 của
Khu 6, Tiểu đoàn đặc công 200c tiêu diệt chi khu Tánh Linh, giải phóng huyện Tánh Linh.
Qua ba ngày đêm tiến công, Khu 6 tiêu diệt được cứ điểm trên đỉnh núi Lồ Ô [sic], tiêu diệt
chi khu Tánh Linh và giải phóng toàn huyện Tánh Linh, Sư đoàn 6 đánh đi đánh lại vẫn
không tiêu diệt được chi khu Hoài Ðức. Theo lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn 6 giao
chi khu Hoài Ðức lại cho Khu 6 đánh, còn Sư đoàn 6 rút về lại Quân khu 7”.
Tư lệnh mặt trận B2 cho biết thực lực của hai quân khu 6 và 7 của CS lúc bấy giờ71 :
“Trong khi đó đồng chí Sáu Phục tức Ðại tá Nguyễn Trọng Xuyên - Tư lệnh Quân khu 6 rất
lo lắng với nhiệm vụ nặng nề giải phóng từ tỉnh Bình Tuy đến Di Linh, Ðà Lạt và các tỉnh
ven biển thuộc quân khu mình. Sở dĩ như vậy vì ở quân khu này là nơi ta có rất nhiều khó
khăn về mọi mặt. Lực lượng quần chúng có tổ chức chưa đủ mạnh và lực lượng vũ trang thì
bộ đội địa phương còn nhỏ bé, du kích không nhiều, lực lượng chủ lực chỉ vỏn vẹn một
Trung đoàn 812. Sự cân nhắc thận trọng sức lực của mình trước nhiệm vụ lớn lao như vậy
hoàn toàn phù hợp với tinh thần trách nhiệm của một cán bộ có kinh nghiệm chiến đấu thực
tế. Thay mặt Bộ Tư lệnh Miền tôi đã phân tách tình hình chung trên toàn chiến trường, các
yếu tố thuận lợi trong giai đoạn chiến lược này sẽ tạo ra sức mạnh rất lớn cho quân khu
hoàn thành nhiệm vụ. Với sự phối hợp của các lực lượng bạn, quân và dân trong quân khu,
Trung đoàn 812 chủ lực, sẽ đóng góp xứng đáng chiến công của mình, sẽ giành thắng lợi to
lớn như các chiến trường khác. Ðồng chí yên tâm, hứa cố gắng tối đa nhưng tôi cảm thấy ở
đồng chí vẫn còn nhiều lo lắng. Mặc dù vậy tôi biết rằng đồng chí sẽ hoàn thành nhiệm vụ
vì tin ở trên, tin ở sự nỗ lực chung của toàn chiến trường trong giai đoạn quan trọng này.
Quân khu 7 do đồng chí Ðại tá Lê Văn Ngọc - Tư lệnh và đồng chí Ðặng Ngọc Sĩ - phó tư
lệnh quân khu kiêm sư trưởng Sư đoàn 6 có mặt ở Miền để nhận nhiệm vụ. Các đồng chí
trình bày về sự yếu kém của sư đoàn thiếu của mình, yêu cầu Miền bổ sung gấp về quân số
và trang bị nhưng hứa chắc vượt mọi khó khăn để thực hiện đúng kế hoạch. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của quân khu là phối hợp với Trung đoàn 812 của Quân khu 6 nhanh chóng quét
sạch địch ở khu vực Tánh Linh, Võ Ðắc thuộc tỉnh Bình Tuy để thành bàn đạp thuận lợi
cho Quân đoàn 4 tiến công Xuân Lộc và Biên Hòa, Sài Gòn, cắt đứt cho được đường số 1
69 Ðại tá TS. Hồ Sơn Ðài, Chủ biên, 60 Năm Lực Lượng Vũ Trang Quân Khu 7 (1945-2005), trang 158-161;
nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
70 Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Chiến Trường Khu 6 Mùa Xuân 1975, trang 761-763; Ðại Thắng
Mùa Xuân 1975 Qua Những Trang Hồi Ký, Ðại tá Phạm Quang Ðịnh, Ðại tá Phạm Bá Toàn, Thượng tá
Nguyễn Ðức Hùng & Ðại tá Nguyễn Duy Tường; nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
71 Thượng tướng Trần Văn Trà, Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, trang 735-736; nxb QĐND, Hà Nội,
2005.
từ Xuân Lộc đến Rừng Lá để cô lập Sài Gòn với ven biển miền Trung, đường 15 Sài Gòn -
Vũng Tàu và tham gia tiến công địch với Quân đoàn 4”.
Chính ủy quân khu 6 của CS cũng xác nhận72 :
“Phấn khởi hạ quyết tâm, nhưng nhìn vào thực lực, chúng tôi cũng có phần lo ngại. Sau đợt
hoạt động vừa qua của các đơn vị chủ công, nhất là Trung đoàn 812 và tiểu đoàn đặc công
200C bị hao nhiều chưa kịp bổ sung. Bộ đội địa phương cũng chưa được củng cố. Bình
Thuận giữ được tiểu đoàn 481, nhưng cũng thiếu quân số. Còn các tỉnh khác số quân chiến
đấu của mỗi đại đội chỉ còn trên dưới 25 người. Một số huyện có trung đội, nhưng quân số
cao nhất cũng chỉ 15 người”.
Một sĩ quan cao cấp khác của CS cho rằng Núi Bà Ðen, Tánh Linh - Hoài Ðức chỉ là hai mũi phụ.
Phước Long mới là điểm chủ yếu73 :
“Tôi là người trực tiếp chỉ huy trận đánh chiếm núi Bà Ðen ở Tây Ninh, một trung tâm viễn
thông chiến lược quốc tế [sic], thu tin mã thám và là điểm chỉ đường cho B52 cùng các loại
máy bay hiện đại. Ðồng thời, lực lượng do tôi chỉ huy còn thu hút hỏa lực đối phương là Lữ
đoàn Biệt kích dù 81 và hai phần ba phi cơ chiến đấu F5E Vùng 3 chiến thuật; kiềm chế Sư
đoàn 25 bộ binh; phối hợp cùng cánh quân anh Năm Ngà74 đang đánh Tánh Linh, Võ Ðắc
với Sư đoàn 18 của địch; ngăn chận không cho các lực lượng đối phương yểm trợ Phước
Long - trận địa của Quân đoàn 4 do anh Hoàng Cầm chỉ huy”.
Trên phương diện chiến thuật và chiến dịch, QLVNCH đã bẻ gãy chiến dịch Tánh Linh - Hoài Ðức
bởi những ưu điểm sau75, 76 :
Linh hoạt thay đổi chiến thuật để luôn luôn giữ thế chủ động, đánh vào chỗ địch không
ngờ (hành quân chiếm ấp Trà Cổ của trung đoàn 43, sư đoàn 18 BB).
Sử dụng tối đa pháo binh cơ hữu để yểm trợ bộ binh mà điển hình là chiến thuật diệt
chốt bằng cách lui quân để tạo khoảng cách an toàn và tác xạ đạn nổ chậm để phá hầm
hố, giao thông hào của địch gần cầu Gia Huynh.
Khéo léo sử dụng trực thăng trong hoàn cảnh Việt Nam hóa chiến tranh. Chỉ có trong
tay 4-6 trực thăng nhưng cũng đã đổ quân thành công cả 2 tiểu đoàn 1/43 và 2/43 theo
kế hoạch.
Trực thăng vận một tiểu đoàn 2/52 BB đổ xuống khoảng giữa của TL-333 hầu thu ngắn
thời gian tiến quân của các đơn vị, từ hướng bắc xuống cũng như từ phía nam lên. Nếu
không thực hiện như vậy thì việc giải tỏa TL-333 sẽ kéo dài, ít nhất phải mất thêm vài
ngày nữa mới đến được chi khu. Yếu tố thời gian lúc bấy giờ rất quan trọng.
Tinh thần chiến đấu cao độ của lực lượng diện địa mà điển hình là ÐPQ&NQ chi khu
Hoài Ðức, đã cố gắng cầm cự cho đến khi được chủ lực quân đến giải tỏa. Thời gian 33
ngày, vừa chịu đựng cường độ pháo kích dữ dội, có lúc không thua gì tại chiến trường
An Lộc năm 1972, vừa phải cố gắng đẩy lui từng đợt tấn công của địch trong khi đạn
dược cạn dần, thương binh không được tản thương, đã ghi một điểm son nữa cho lực
lượng diện địa QLVNCH trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến. Ngoài ra cũng nên
biết thêm rằng nếu chi khu rơi vào tay địch thì cuộc hành quân giải tỏa sẽ khó khăn hơn
nhiều.
Tiểu đoàn 344 ÐPQ được thành lập năm 1972 từ ba đại đội ÐPQ Hoài Ðức và hai đại
đội 181 và 184 An Ninh Thiết Lộ khi tiểu đoàn ANTL giải tán. Trong số vũ khí của hai
đại đội ANTL có 32 khẩu đại liên .30 cùng đạn dược được gửi tại kho của chi khu Hoài
72 Lê Văn Hiền, Vùng Ðất Kiên Trung, trang 318; nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
73 Thiếu tướng Trần Văn Danh, trang 85-87; Phan Hoàng, phỏng vấn Tướng Lĩnh Việt Nam, Tập 1-2-3 (tái
bản), nxb Trẻ, 2000.
74 Năm Ngà là Trung tướng Nguyễn Minh Châu (1921-1999), lúc bấy giờ là TMT/BTL quân giải phóng miền
Nam (VC). Sau năm 1975, ông làm Tư lệnh quân khu 7. Năm 1986, ông được thăng thượng tướng.
75 Tài liệu riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 8/2/2007.
76 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo ngày 29/12/2006.
Ðức. Những khẩu đại liên này đã giúp cho lực lượng phòng thủ bẻ gãy các đợt xung
phong biển người của CS.
Những ưu điểm trên đã khiến CS không thực hiện được mục tiêu của chiến dịch Tánh Linh - Hoài
Ðức mặc dù đã đưa vào trận đánh hầu hết lực lượng chủ lực của cả hai quân khu 6 và 7. Một tài liệu
của quân khu 7 CS đã xác nhận77 :
“Nhìn lại cao điểm 1 tuy chưa hoàn toàn đạt chỉ tiêu nhưng đã tạo được thế thuận lợi mới
cho chiến trường78 để quân dân ta bước vào cao điểm 2 (bắt đầu từ đêm 20 rạng 21 tháng
12 năm 1974)”.
Tài liệu quân sử của CS viết79 :
“Sau ba ngày đánh bên ngoài, tiến hành vây ép đến 2 giờ 15 phút ngày 3 tháng 1 năm 1975,
ta nổ súng công kích chi khu [Hoài Ðức], các mũi đặc công thực hành đột phá nhưng không
thành công, hỏa lực áp chế kém hiệu quả. Sau 10 ngày tấn công liên tục nhưng không thành
công, ta thương vong ngày một nhiều, mặt khác địch tăng cường lực lượng lớn đến phòng
thủ cả bên trong và bên ngoài, các loại máy bay, pháo địch bắn phá điên cuồng gây cho ta
thêm nhiều khó khăn. Trước tình hình trên Bộ Chỉ huy Miền cho kết thúc chiến dịch”.
Sau chiến tranh, CS đã tổng kết đợt 1 của chiến dịch Tánh Linh - Hoài Ðức như sau80 :
“Ở đây địch chỉ chi viện thăm dò từ nhỏ đến lớn. Ðiều đáng tiếc là đã không ăn chi khu
Hoài Ðức, chiến dịch cũng không uy hiếp nặng chi khu, cũng không tập trung cả Trung
đoàn 4, Trung đoàn 33 để có sức diệt tiểu đoàn và chiến đoàn địch. Sau khi mất chi khu
Tánh Linh, địch sợ mất luôn chi khu Hoài Ðức nên đã đưa lực lượng viện lên đến 1 liên
đoàn 7 biệt động quân, một chiến đoàn 48/sư đoàn 18, một trung đoàn 5 thiết giáp mà ta
cũng chỉ có một mình Trung đoàn 33 đương đầu; dù rất giỏi, rất oanh liệt, Trung đoàn 33
cũng không tạo được trận tiêu diệt lớn, vang dội được, chỉ diệt đại đội, đánh thiệt hại hai
đại đội, tiểu đoàn địch mà thôi. Ðợt 1 chiến dịch ở hướng chủ yếu và lộ 381 bị sượng nặng,
lực lượng sử dụng phân tán, dù có gỡ gần hết nông thôn Hoài Ðức thì sau khi Sư đoàn 6 rút
về miền Ðông, 812 cũng chỉ giữ được Tánh Linh, địch lại nối thông lộ 3 và khôi phục toàn
bộ nông thôn Hoài Ðức.
Trong hội nghị Ðảng ủy chiến dịch kiểm điểm 10 ngày thực hiện nhiệm vụ có nói đến
đánh giá địch cao, khi bị lộ kế hoạch, địch tăng cường lực lượng đối phó gắt gao thì chuyển
sang nhẹ đánh điểm, nặng đánh viện; tất nhiên hồi ấy cũng có đề ra nhiệm vụ quyết tâm
tiêu diệt chi khu Tánh Linh rồi tập trung lực lượng diệt luôn chi khu Hoài Ðức để kết thúc
chiến dịch nhưng cũng không có làm gì có thể gọi là nặng đánh viện.
Ở Tánh Linh do không chốt giữ Ðồi Giang, địch chiếm lại, Ðại đội 5 đánh lần hai không
dứt điểm. Tuy vậy, nhờ chiếm giữ Lồ Ồ, ta cũng bắn phá sát thươntg uy hiếp nặng chi khu.
Nhưng ở đây, 812 cũng lại quay sang phá ấp mở nông thôn một thời gian dài gần nửa
tháng. Ðến 23 tháng 12 mới tập trung toàn lực 812 và 200C đánh dứt điểm chi khu. Ngày
24, diệt và làm tan rã hoàn toàn tiểu đoàn 335 bảo an và các chốt còn lại. Ngày 25, giải
phóng toàn huyện với hơn 3 vạn dân. Tiểu đoàn 15 ở lại giữ vùng giải phóng Tánh Linh,
Trung đoàn 812 thiếu và 200C tập trung sang Hoài Ðức. Chỉ sau mất Tánh Linh một ngày,
thấy nguy cơ mất Hoài Ðức, từ 26 tháng 12, địch bỏ lộ 3, chuyển hướng giải tỏa, chi viện
77 Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Chiến Trường Khu 6 Mùa Xuân 1975. Sách đã dẫn trước, trang 761-
763.
78 Thuận lợi mới theo CS là : Giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh, bốn xã huyện Hoài Ðức; Tây Ninh
đánh 65 trận, diệt, bắt trên 900 tên, chiếm núi Bà Ðen; ở ven đô Sài Gòn, ta giải phóng thêm 30 xã, 37 ấp; các
tỉnh khác đều đang chuyển thế mạnh. Ðặc biệt Quân đoàn 4 chủ lực Miền đã giải phóng 100 ki-lô-mét đường
14, tạo điều kiện chuẩn bị giải phóng tỉnh Phước Long (Ðại tá Trần Phấn Chấn, Chủ biên, Lịch Sử Công Tác
Ðảng, Công Tác Chính Trị Lực Lượng Vũ Trang Quân Khu 7 (1945-2000) Tập 2 .1954-1975., phụ chú 1,
trang 349; nxb QĐND, Hà Nội, 2004).
79 Ðại tá Nguyễn Văn Chiến và nhiều người khác biên soạn, Lịch Sử Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Tỉnh
Bình Thuận (1945-2000), trang 492; nxb QĐND, Hà Nội, 2003.
80 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước, trang 460-483.
81 Chỉ tỉnh lộ 333.
Hoài Ðức lên đường 20, thay chiến đoàn 43/sư đoàn 18, tăng thêm cho Hoài Ðức một tiểu
đoàn bảo an 336, một đại đội trinh sát tiểu khu Bình Tuy, đổ quân xung quanh chi khu đông
đặc, nâng số quân trong khu vực thị trấn lên trên 3.000 tên. Do vậy, khi 812 và 200C sang
Hoài Ðức, cả Sư đoàn 6 gồm Trung đoàn 4, Trung đoàn 33 cùng tập trung quyết dứt điểm
chi khu Hoài Ðức thì lực lượng hai bên xen kẽ nhau rất đông và phức tạp. Việc đánh hỏa
lực vào chi khu cũng không hiệu quả. Cho đến lúc này, chiến dịch mới dùng pháo 85 nòng
dài bắn trực tiếp vào chi khu, nhưng việc bố trí bắn không thích hợp lại thiếu bảo vệ, đại
đội pháo 85 bị địch phản pháo thương vong nặng, đại đội trưởng hy sinh phải rút ra. Nói
chung hỏa lực ta, cả ÐKZ, cối 120 đều không áp chế được tiền duyên địch nên không hỗ trợ
được cho đặc công và bộ binh mở cửa chiếm đầu cầu. Ngày 1 tháng 1 năm 1975 mới triển
khai tấn công, các lực lượng ta vẫn còn cách rào đồn 400 đến 500 mét, phải bóc vỏ nhiều
địch bên ngoài mới đột phá vào chi khu được. Do địch xen kẽ ta với lực lượng lớn, thường
bắn chéo lướt sườn ngăn chận nên sau hai lần đột phá không thành công, thương vong
nhiều, bộ đội mỏi mệt, tiếp tế khó khăn, Miền kết thúc chiến dịch Hoài Ðức - Tánh Linh,
rút Sư đoàn 6 về miền Ðông làm nhiệm vụ mới, giao cho Quân khu 6 đảm nhận tiếp tục
giải quyết phần còn lại của chiến dịch là tiêu diệt chi khu và giải phóng toàn huyện Hoài
Ðức. Từ đây bắt đầu đợt 2 chiến dịch. Ðịch biết ta ngừng tấn công Hoài Ðức, bung ra phản
kích chiếm lại toàn bộ nông thôn Hoài Ðức, giải tỏa lộ 3, củng cố lực lượng, tăng cường bố
phòng giữ chi khu”.
Một sĩ quan cao cấp thuộc quân khu 6 CS viết về đợt 2 của chiến dịch82 :
“Từ 1 tháng 1 năm 1975 đến 16 tháng 3 năm 1975, Quân khu 6 chuẩn bị đợt hai để hoàn
thành chiến dịch. Ðến giữa tháng 2, địch chiếm lại hết nông thôn Hoài Ðức, có nơi giành đi
giật lại mấy lần nhưng rồi địch cũng chiếm được như xã Võ Xu, cuối tháng 2 nối thông lộ
3. Nhưng sức địch cũng chỉ mức đó, chỉ giữ từ cây cầu Lăng Quăng đến cầu Gia Huynh lộ
3 nối thông với Gia Ray - ngã ba Ông Ðồn lộ 183. Ðến tháng 3 năm 1975, lực lượng địch ở
Hoài Ðức gồm chiến đoàn 43/sư đoàn 18, tiểu đoàn 334 và 336 bảo an, các đại đội trinh sát
của chiến đoàn 43 và tiểu khu Bình Tuy cùng các lực lượng bảo an dân vệ mới khôi phục
lại, tất cả trên 2.500 tên (trừ phòng vệ dân sự). Sau khi Sư đoàn 6 rời địa bàn, cuộc chiến
đấu giữ lộ 3 và chống tái chiếm nông thôn Hoài Ðức của 812 và địa phương diễn ra rất
quyết liệt. Ðại đội 5 trinh sát 812 giữ núi Dinh hơn 2 tháng, ngoan cường đánh bại các đợt
phản kích của địch quyết chiếm lại cao điểm84. Mỗi mét vuông của đỉnh núi Dinh hứng
chịu một quả bom, nhiều quả pháo; cây cối đất đá nát vụng tơi xốp đến cả mét nhưng
thương vong của ta rất ít. Ðại đội 5 cùng Ðại đội 431 Hoài Ðức hoàn thành xuất sắc việc
giữ núi Dinh cho đến ngày 19 tháng 3 kết thúc thắng lợi chiến dịch”.
Tuy nhiên cao điểm 2 của CS không đạt được thành quả nào đáng kể. Ngày 24/1/1975, Thường vụ
Trung ương Cục không báo cáo được gì quan trọng sau một tháng hoạt động. Ðến cuối tháng giêng
năm 1975, hội nghị khu ủy quân khu 7 họp để kiểm điểm, đánh giá tình hình sau hai tháng đầu mùa
khô cũng chỉ đúc kết chung chung : Ở miền đông Nam Bộ, địch đang bước vào thế suy yếu mới về
tinh thần và tổ chức, quân số sa sút, bắt lính khó khăn85. Tổng cục chính trị của quân đội CSBV khi
thẩm định giai đoạn này chỉ cho rằng quân khu 7 duy trì được thế tiến công, giữ vững bàn đạp phía
bắc Sài Gòn; hoàn toàn không nhắc gì đến các hoạt động của quân khu 686. Ðiều này khẳng định sự
yếu kém của hai quân khu 6 và 7 của CS mà Tướng Trần Văn Trà đã xác nhận ở trên.
82 Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký. Sách đã dẫn trước, trang 460-483.
83 Chỉ quốc lộ 1.
84 QLVNCH không đóng giữ núi Dinh. Năm 1971, lữ đoàn 199 của Mỹ khi mở cuộc hành quân vùng Võ Ðắt
và Tánh Linh có đặt một trạm quan sát và liên lạc cấp trung đội nhưng chỉ trong 3, 4 tháng thì rút đi (Thư
riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày 14/4/2007).
85 Ðại tá Trần Phấn Chấn, Chủ biên, Lịch Sử Công Tác Ðảng, Công Tác Chính Trị Lực Lượng Vũ Trang
Quân Khu 7 (1945-2000) - Tập 2 - 1954-1975, trang 349-350; nxb QĐND, Hà Nội, 2004.
86 Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo, Tổng chủ biên, Lịch Sử Công Tác Ðảng Công Tác Chính Trị
Chiến Dịch Trong Kháng Chiến Chống Pháp và Chống Mỹ 1945-1975, trang 584-585; nxb QĐND, Hà Nội,
1998.
Ðiểm sau cùng, như đã đề cập trong phần kết quả, quân đoàn III không còn quân trừ bị khi trận
đánh Phước Long xảy ra. VC tấn công Tánh Linh - Hoài Ðức nhằm mục đích kềm giữ sư đoàn 18
BB mà phần lớn lực lượng đang tăng phái cho sư đoàn 5 BB tại Lai Khê, Bình Dương. Các cấp
lãnh đạo quân đội CS đã nhận xét đúng khi dùng các sư đoàn của quân khu đánh cầm chân
QLVNCH trong khi thành lập các quân đoàn chủ lực. Ðại tướng Võ Nguyên Giáp viết87 :
“Việc xây dựng các ‘quả đấm thép’ trong giai đoạn cuối của chiến tranh, một vấn đề mà tôi
nhiều lần đề xuất sau ngày ký Hiệp định Pari, được xúc tiến mạnh mẽ. Ðược Bộ Chính trị
đồng ý, ngay sau khi hội đủ các điều kiện cần thiết, Bộ Tổng tư lệnh khẩn trương xây dựng
ba quân đoàn chủ lực cơ động: Quân đoàn I mang tên Quyết Thắng thành lập ngày 24-10-
1973, tiếp đó, ngày 17-5-1974, Quân đoàn II (Quân đoàn Hương Giang) và ngày 20-7-
1974, Quân đoàn IV (Quân đoàn Cửu Long) lần lượt ra đời”.
Thiếu tướng Hoàng Cầm, nguyên là Tư lệnh quân đoàn 4 CS nhớ lại88 :
“Từ giữa tháng 10 đến đầu tháng 12 năm 1974, sau khi được bổ sung quân số, vũ khí từ
miền Bắc chi viện vào, toàn Quân đoàn dấy lên phong trào thi đua ‘Quyết Thắng’, tập trung
vào huấn luyện nâng cao trình độ chỉ huy tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng (lấy bộ
binh làm chủ) với quy mô trung đoàn, sư đoàn đến hai, ba sư đoàn, nhằm mục tiêu diệt gọn
từng tiểu đoàn, trung đoàn, chiến đoàn địch, tiến đến đánh quỵ sư đoàn địch; giải phóng chi
khu, quận lỵ, tiến lên giải phóng thị xã, thành phố”.
Không đủ quân chỉ mới là một vấn đề, một sĩ quan cao cấp của QLVNCH đã phân tích thêm89:
“Sự suy giảm khả năng của quân lực Việt Nam [Cộng Hòa] còn do sự triệt thoái của quân
đội Hoa Kỳ và đồng minh nữa. Chưa nói đến số quân hơn 500.000 rút khỏi chiến trường
Việt Nam, mà ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến khối lượng dụng cụ chiến tranh rất lớn và
hầu hết đều là những loại tối tân do hơn 500.000 quân đồng minh sử dụng, đã bị ‘Hiệp định
Paris’ đẩy ra khỏi Việt Nam. Ðó là khối hỏa lực mà quân Cộng sản đã từng khiếp đảm,
bổng dưng không còn nữa! Ðang đánh giặc theo kiểu nhà giàu hay ít ra cũng là dựa hơi nhà
giàu, nay đánh theo kiểu nhà nghèo thì ảnh hưởng đến tinh thần chiến sĩ là điều không sao
tránh khỏi”.
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (1932-2005), nhậm chức Tư lệnh quân đoàn III sau biến cố Phước
Long, có ý kiến hoàn toàn khác biệt với những nhận xét trên khi viết90 :
“Hiện Quân Ðoàn III có 3 sư đoàn Bộ Binh cơ hữu: Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đồn trú ở Bình
Dương về phía Bắc Sài Gòn, Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đóng tại Long Khánh về phía Ðông Bắc,
và Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tại Củ Chi. Lực lượng Tổng Trừ Bị Nhảy Dù, Thủy Quân Lục
Chiến, Biệt Ðộng Quân, đang tăng phái cho Quân Khu I và Quân Khu II. Tin tình báo của
Quân Khu III, Quân Ðoàn III cho biết Cộng Sản đang chuẩn bị một chiến dịch phá hoại lớn
để mở đường cho giai đoạn dứt điểm. Trong giai đoạn phá hoại, Cộng Sản sẽ tung 10 Tiểu
Ðoàn Ðặc Công phối hợp với các đơn vị Chủ Lực, Ðịa Phương, xâm nhập đánh phá, và nếu
có thể chiếm đóng các tỉnh quanh Sài Gòn trong dịp Tết Nguyên Ðán (đầu năm 1975
Dương lịch). Ðồng thời, 2 Sư Ðoàn Cộng Sản Bắc Việt, được tăng cường chiến xa, Pháo
Binh yểm trợ, từ Mõ Vẹt sẽ tiến chiếm Tây Ninh. Với kinh nghiệm chiến thắng Cộng Sản
tại Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Kontum, và tái chiếm Bắc Bình Ðịnh, sau hai tuần nhận lãnh nhiệm
vụ và thảo luận với các Tiểu Khu thuộc Vùng III, Tướng Toàn quyết định các Sư Ðoàn Bộ
Binh phải bàn giao nhiệm vụ diện địa lại cho các Tiểu Khu. Ba Sư Ðoàn 5, 18, 25 Bộ Binh
được rút ra khỏi nhiệm vụ diện địa, nghỉ ngơi, huấn luyện, ăn Tết trước, tập trung sức
mạnh, lưu động tính hoàn toàn, và sẵn sàng cho các trận đánh lớn khi hữu sự tại bất cứ
chiến trường nào.
87 Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Toàn Thắng, trang 122; nxb QĐND, Hà
Nội, 2000.
88 Thượng tướng Hoàng Cầm, Chặng đường Mười Nghìn Ngày, trang 348-349; nxb QĐND, Hà Nội, 2001.
89 Phạm Bá Hoa, Ðôi Dòng Ghi Nhớ, trang 8-210; nxb Ngày Nay, Houston, Texas, 1995.
90 Trung-tướng Nguyễn-Văn-Toàn, Ðại-tá Lê-Bá-Khiếu và Tiến-sĩ Nguyễn-Văn, Những Sự Thật Chiến Tranh
Việt Nam 1954-1975, trang 447-449; tác giả xuất bản, California.
Ðể phá tan giai đoạn phá hoại của địch, Tướng Toàn đã cho trực thăng vận một đơn vị
Trinh Sát nhảy vào quận Tánh Linh, nơi mà Cộng Sản đã tạm chiếm lâu nay để thăm dò
phản ứng địch, đồng thời cũng chuẩn bị sẵn 3 Sư Ðoàn Bộ Binh hoàn toàn lưu động để tiêu
diệt nếu địch tập trung. Cuộc đột kích Quận Tánh Linh thành công, khiến địch phải điều
nghiên lại, và dân chúng Sài Gòn hưởng được một cái Tết Tự Do an lành, nhưng tiếc thay
lại là một cái Tết Tự Do cuối cùng.
Biết bị theo dõi và dòm ngó, Cộng Sản hủy bỏ kế hoạch phá hoại, và tiến hành kế hoạch
đánh chiếm Tây Ninh. Bắc Việt liền tung 2 Sư Ðoàn 3 và 5 mở cuộc tấn công vào Tây Ninh
với sự yểm trợ của chiến xa, hỏa tiễn, pháo binh. Sư Ðoàn 25 Bộ Binh do Tướng Lý Tòng
Bá chỉ huy đang hiện diện trong vùng. Ðể chứng tỏ sức mạnh và lưu động tính của các Sư
Ðoàn của Quân Ðoàn III, Sư Ðoàn 18 Bộ Binh do Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy điều động
từ Long Khánh lên vùng hành quân để cùng Tướng Bá mở cuộc phản công. Hai Tướng Lý
Tòng Bá và Lê Minh Ðảo đã gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng và vũ khí cho địch quân,
giữ vững Thánh Thất Tây Ninh an toàn, và đẩy lui Cộng quân rút chạy về phía Miên, mặc
dù, hai Tướng này phải chiến đấu với những chiến cụ, và vũ khí thô sơ hơn, ít ỏi hơn,
không có không yểm của Hoa Kỳ. Trong hồi ký, Tướng Trần Văn Trà không hề nhắc đến
những thất bại chua cay này. Khác với những lời khoe khoang, thường là khoác lác ở
những trang sách khác, Tướng Trà chỉ viết: Hai Sư Ðoàn Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa
[sic] bị cầm chân vào việc bảo vệ Tây Ninh và vùng Tây Bắc của khu vực này. Tình hình
Quân Khu III trở lại tình trạng lắng dịu. Sài Gòn an tâm. Với sức mạnh và lưu động tính
của các Sư Ðoàn Bộ Binh của Quân Ðoàn III, kèm theo địa thế khó ẩn nấp của Khu Vùng
III Chiến Thuật, Cộng Sản không dám tập trung quân đông đảo để tấn công nếu lực lượng
hai bên không quá chênh lệnh. Cộng Sản đang chờ quân từ Cao Nguyên và Miền Trung
tăng cường vào Vùng III nhiều hơn nữa.
Chẳng may, tình trạng của Vùng I và Vùng II dần dần trở nên tồi tệ”.
Lúc bấy giờ, có lẽ Trung tướng Toàn không biết CS đã thành lập quân đoàn 4 tại phía tây-nam Lộc
Ninh, ngay trong lãnh thổ vùng 3 chiến thuật của ông vào cuối năm 1974. Cuộc hành quân vào
dựng cờ tại Tánh Linh không thành công như ông đã mô tả. Hầu hết các sĩ quan tham dự đều cho
rằng đây là một cuộc hành quân không có giá trị nào về chiến thuật91, 92, 93, 94, 95. Cũng không thấy
ông đề cập đến cuộc hành quân tái chiếm núi Bà Ðen không có kết quả, phải chấm dứt khoảng cuối
tháng giêng năm 1975 và chi khu Trị Tâm (Dầu Tiếng) bị VC chiếm ngày 12/3.
Trở lại với quân khu 6 của CS, qua lời vị tư lệnh quân khu, sau khi xin tăng viện thêm được 200096
quân từ BTL Miền97 :
“Tôi về báo cáo mệnh lệnh với Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu. Bộ Tư lệnh
Quân khu họp soát xét lại tình hình và hạ quyết tâm đánh địch đợt hai, mùa khô 1974-1975
như sau: dùng lực lượng Trung đoàn 812 cùng với lực lượng tỉnh Bình Tuy, nhanh chóng
đánh tiêu diệt chi khu Hoài Ðức trong thời gian ngắn nhất, sau đó chuyển lên hướng Di
Linh, đường 20 để phối hợp với lực lượng chủ lực Miền, giải phóng tỉnh Lâm Ðồng, hướng
phát triển tiếp theo là Ðức Trọng và toàn bộ tỉnh Tuyên Ðức khi thời cơ thuận lợi; các tỉnh
kế tiếp đánh mở rộng địa bàn, nhằm các khu đông dân, các khu lấn chiếm bình định của
địch, mở rộng vùng tranh chấp và vùng giải phóng.
...
91 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo ngày 29/12/2006.
92 Ðiện thoại viễn liên với cựu Ðại tá Trần Bá Thành ngày 12/1/2007.
93 Thư riêng của cựu Ðại tá Trần Bá Thành gửi cho tác giả ngày 18/1/2007.
94 Ðiện thoại viễn liên với cựu Thiếu tá Phan Minh Nhựt ngày 10/4/2007.
95 Ðiện thoại viễn liên với cựu Trung úy Nguyễn Văn Trí ngày 30/4/2007.
96 Một sĩ quan cao cấp thuộc BTL quân khu 6 CS cho rằng BTL Miền chỉ bổ sung 800 tân binh (Thiếu tướng
Phạm Hoài Chương, Ðường Chiến Ðấu - Hồi Ký, trang 461; nxb QĐND, Hà Nội, 2003).
97 Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Chiến Trường Khu 6 Mùa Xuân 1975. Sách đã dẫn trước, trang 761-
763.
Tối 19 tháng 3 năm 1975, nắm vững thời cơ, ta ra lệnh tiến công chi khu Hoài Ðức. Mấy
ngày trước ta đã ‘bóc vỏ’ diệt gọn các cứ điểm nhỏ xung quanh chi khu, nên thực tế chi khu
đã bị bao vây. Lúc 3 giờ sáng ngày 20 tháng 3 năm 1975, sau gần một giờ pháo bắn chuẩn
bị, công binh, đặc công mở cửa, các mũi tiến công nhanh chóng thọc sâu vào sở chỉ huy chi
khu. Ðến 6 giờ sáng, ta làm chủ đại bộ phận chi khu, tiếp tục diệt các ổ đề kháng và tàn
quân còn chống cự. Ðến 6 giờ 40 phút, ta làm chủ hoàn toàn trận địa bắt tù binh, thu vũ khí,
trong đó có hai khẩu pháo 105 ly còn nguyên vẹn. Cùng ngày, ta giải phóng hết các ấp
chiến lược thuộc huyện Hoài Ðức. Sáng sớm ngày 20 tháng 3 năm 1975, địch đổ quân một
tiểu đoàn hòng chiếm lại chi khu. Lực lượng này đã bị quân ta tiêu diệt gọn một đại đội, số
còn lại chạy tán loạn về phía Ðồng Nai”.
Như vậy, quận Hoài Ðức được xem như rơi vào tay CS lần cuối cùng ngày 20/3/1975. Tỉnh Bình
Tuy bị mất ngày 23/4.
Bây giờ thử xét xem Cộng Sản đã làm kế hoạch gì và thực thi như thế nào ? Có tương tự với những
tin tức tình báo mà Tướng Toàn đã đề cập không ?
Kế hoạch chiếm miền Nam trong 2 năm được CS chia ra làm 2 bước. Bước 1 năm 1975 và bước 2
năm 1976. Ở đây chỉ nói đến bước 1 vì có liên quan đến việc điều quân của quân đoàn III
QLVNCH và vì bước 2 đã được CSBV thay thế bằng kế hoạch thời cơ.
Bước 1 nhằm tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp với 4 mục tiêu98 :
1) Ðánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan
trọng quân ngụy (đánh tụt quân số địch xuống một bước có ý nghĩa chiến lược), giải phóng
và làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven Sài Gòn, đồng bằng
Khu 5 và Trị Thiên.
2) Mở thông hành lang chiến lược từ Nam Tây Nguyên xuống miền Ðông Nam Bộ và xuống
ba tỉnh phía nam Khu 5; từ Tây Ninh xuống bắc Sài Gòn; từ Tây Ninh xuống Long An,
xuống phía tây - nam Sài Gòn; từ Kiến Phong, Kiến Tường đến Mỹ Tho; mở căn cứ, bàn
đạp, áp sát các thành phố, thị xã và căn cứ trọng yếu.
3) Phá hủy một bộ phận quan trọng phương tiện chiến tranh, tiềm lực kinh tế, cắt phá giao
thông địch.
4) Xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện cho
bước 2”.
Bước 1 lại chia làm 3 đợt99 :
Ðợt 1: Từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975, là đợt tiến công có mức độ. Hoạt
động chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Ðông Nam Bộ (các chiến trường khác
đang trong mùa mưa).
Ðợt 2, đợt chủ yếu: Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1975, mở tiến công chiến dịch tiến công
quy mô lớn trên chiến trường Tây Nguyên và các chiến dịch phối hợp ở miền Ðông Nam
Bộ, Bắc Khu 5 và Trị Thiên. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục tiến công và nổi dậy,
mở mảng, mở vùng, đánh phá bình định.
Ðợt 3: Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, là đợt phát triển thắng lợi bằng đẩy mạnh hoạt
động ở Trị Thiên và Khu 5, đồng thời tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, sẵn sàng thực
hiện phương án thời cơ [sic].
Bộ TTM quân đội CSBV cũng đã đề nghị về phương hướng chiến lược và nhiệm vụ của từng chiến
trường như sau100 :
98 Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Chiến Trường Khu 6 Mùa Xuân 1975, trang 761-763; Ðại Thắng
Mùa Xuân 1975 Qua Những Trang Hồi Ký, Ðại tá Phạm Quang Ðịnh, Ðại tá Phạm Bá Toàn, Thượng tá
Nguyễn Ðức Hùng & Ðại tá Nguyễn Duy Tường; nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
99 Trung-tướng Nguyễn-Văn-Toàn, Ðại-tá Lê-Bá-Khiếu và Tiến-sĩ Nguyễn-Văn, Những Sự Thật Chiến Tranh
Việt Nam 1954-1975. Sách đã dẫn trước, trang 447-449.
Trị Thiên-Quảng Ðà là chiến trường phối hợp, thu hút căng kéo chủ lực địch, cắt giao thông
trên đường 1, đồng thời đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng ở đồng bằng Trị Thiên và
vùng ven Ðà Nẵng.
Ðồng bằng Khu 5 (chủ yếu ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh) là chiến trường
đánh phá bình định, tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đại bộ phận nông thôn, chia cắt
chiến lược.
Tây Nguyên (trọng điểm Nam Tây Nguyên) là chiến trường chủ yếu của chủ lực, tiêu diệt
lực lượng địch.
Nam Bộ: Ðồng bằng sông Cửu Long và vùng ven Sài Gòn là chiến trường chủ yếu đánh
phá bình định nhằm hình thành thế bao vây cô lập Sài Gòn. Miền Ðông là chiến trường của
chủ lực, nhằm căng kéo, thu hút và tiêu diệt lực lượng địch, mở mảng, mở vùng, giành dân,
mở hành lang Tây Ninh và phối hợp với Khu 8 mở hành lang Kiến Phong - Kiến Tường,
tạo cơ sở bàn đạp áp sát Sài Gòn, Mỹ Tho, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đô thị.
Việc quân đội CSBV đánh chiếm Ban Mê Thuột và những lỗi lầm của hệ thống chỉ huy cao cấp
QLVNCH tiếp theo sau đó khiến kế hoạch 2 năm của CS, chỉ mới thực hiện được một phần của
bước 1, được thay thế ngay bởi kế hoạch thời cơ. Hầu hết đều có thể kiểm chứng được101.
Căn cứ trên kế hoạch 2 năm thì chỉ có một phần nhỏ (Tây Ninh của mục 2, bước 1 và miền Ðông
Nam Bộ tổng quát trong đợt 1) là có liên quan đến những gì Tướng Toàn đã đề cập. Với CS, quân
khu 3 của VNCH nói chung và riêng Sài Gòn chỉ là mục tiêu quan trọng của bước 2 năm 1976.
Chưa nói đến khuyết điểm về chiến thuật (hay phải nói đúng hơn là nghệ thuật chiến dịch) của ông
trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến đã được phê phán102. Ðây phải nói là một khuyết điểm
nữa của QLVNCH. Việc thay thế liên tục và nhanh chóng các chỉ huy cao cấp khi tình hình nghiêm
trọng khiến cấp chỉ huy không nắm vững được tình hình vùng trách nhiệm; điển hình là chức vụ tư
lệnh quân đoàn III, đã được bàn giao từ Trung tướng Nguyễn Văn Minh sang Trung tướng Phạm
Quốc Thuần, đến Trung tướng Dư Quốc Ðống rồi Trung tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ trong một
thời gian ngắn103.
Ðến khi quá muộn, vị tư lệnh quân đoàn III/QLVNCH đã nhận ra rằng104 :
“Tuy nhiên, quân số của địch quá đông ... Về phương diện chiến thuật, chúng ta đã có kế
hoạch đúng, bố phòng quân chận các đường dự trù tiến quân của địch; về khía cạnh quân
số, cán cân chênh lệnh quá rõ rệt, và chúng ta không còn quân trừ bị để tăng cường, nhưng
không thể làm gì hơn được, chỉ còn tin vào tinh thần và kỹ thuật chiến đấu của binh sĩ, đó
là chưa kể, các Quân Ðoàn của Cộng Sản luôn luôn được yểm trợ bởi một lực lượng hùng
hậu Pháo Binh, Tăng T-54, và hệ thống phòng không mạnh mẽ”.
Như vậy lỗi lầm là tại địch chứ không phải tại ta ? Ngoài ra, người ta cũng có thể đặt câu hỏi là tại
sao chỉ xét đơn thuần về mặt chiến thuật trong khi nghệ thuật quân sự còn bao gồm luôn cả nghệ
thuật chiến dịch và chiến lược ? Với chiến thuật người ta chỉ thấy được những trận đánh (battles)
nhưng với nghệ thuật chiến dịch người ta có thể biết chi tiết trên toàn chiến trường (theatre of
operation) và với chiến lược sẽ thấy được toàn cảnh của cuộc chiến tranh (war).
Sự thật, vấn đề quân số áp đảo của CS cũng có lý do của nó. Sau năm 1973, QLVNCH, không được
gia tăng quân số, lại phải điền vào chỗ trống của hơn 1/2 triệu quân Mỹ và đồng minh, phải rút khỏi
100 Ðại tướng Hoàng Văn Thái, Những Năm Tháng Quyết Ðịnh. Sách đã dẫn trước, trang 142-144.
101 Thượng tướng Hoàng Cầm, Chặng đường Mười Nghìn Ngày. Sách đã dẫn trước, trang 397-403.
102 Lý Tòng Bá, Hồi Kí 25 Năm Khói Lửa Của Một Tướng Lãnh Cầm Quân Tại Mặt Trận, trang 204-205; tác
giả xuất bản, California, 1995.
103 Thư riêng của cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo gửi cho tác giả ngày 16/1/2007.
104 Trung-tướng Nguyễn-Văn-Toàn, Ðại-tá Lê-Bá-Khiếu và Tiến-sĩ Nguyễn-Văn, Những Sự Thật Chiến
Tranh Việt Nam 1954-1975. Sách đã dẫn trước, trang 473.
miền Nam theo hiệp định Paris. Tuy nhiên nếu cho đây là nguyên nhân chủ yếu thì bài học lịch sử
đã được lập lại. Sau thất bại tại Ðiện Biên Phủ năm 1954, Ðại tướng Navarre đã viết105:
“Nguyên do đầu tiên là thiếu phương tiện. Lực lượng trên bộ của chúng ta không đủ. Chúng
ta thiếu từ sáu đến tám binh đội cơ động để có thể tiến hành một cuộc hành quân giải vây
có hiệu quả. Ở đây chúng ta phải trả giá vì đã để cho lực lượng Việt Minh qua mặt trong
việc xây dựng một binh đoàn tác chiến trong quá khứ”.
Tương tự như vậy, cái giá mà VNCH phải trả là những quân đoàn được CS thành lập trong năm
1974106.
105 H Navarre, Ðông Dương Hấp Hối, trang 345; dịch giả Phan Thanh Toàn; nxb Công An Nhân Dân, 2004.
106 Quân đoàn 1 hay binh đoàn Quyết Thắng được thành lập ngày 24/10/1973 trên miền Bắc, gồm 3 sư đoàn
BB 308, 312, 320B, sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 45, lữ đoàn công binh
299, trung đoàn thông tin 240, các đơn vị bảo đảm phục vụ và các cơ quan. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn là tư
lênh, Thiếu tướng Lê Quang Hòa là chính ủy. Quân đoàn đóng tại dãy núi Tam Điệp, ranh giới giữa hai tỉnh
Thanh Hóa và Ninh Bình. Quân đoàn 2 hay binh đoàn Hương Giang được thành lập ngày 17/5/1974 tại khu
vực Ba Lòng của tỉnh Quảng Trị, gồm 3 sư đoàn BB 304, 324, 325, sư đoàn phòng không 673, lữ đoàn xe
tăng 203, lữ đoàn pháo binh 164, lữ đoàn công binh 219, trung đoàn thông tin 463, các đơn vị bảo đảm phục
vụ và các cơ quan. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái là tư lênh, Thiếu tướng Lê Linh là chính ủy. Quân Đoàn 4
hay binh đoàn Cửu Long được thành lập ngày 20/7/1974 tại miền đông Nam bộ, gồm 2 sư đoàn BB 7, 9,
trung đoàn pháo binh 24, trung đoàn phòng không 71, trung đoàn đặc công 249, trung đoàn thông tin 69, các
đơn vị binh chủng và các cơ quan. Thiếu tướng Hoàng Cầm là tư lênh, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện là
chính ủy. Quân đoàn đóng quân ngoài vành đai Sài Gòn - Gia Định (Đại tá, PGS. TS. Hồ Khang, Chủ biên,
Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước 1954-1975, Tập VIII, Toàn Thắng (xuất bản lần thứ hai), trang
178-180, nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2016). Thành lập xong, quân đoàn tham dự chiến dịch đường 14 -
Phước Long, đánh chiếm tỉnh Phước Long tháng 1/1975. Sau chiến dịch 275 (trận Ban Mê Thuột), quân đoàn
3 hay binh đoàn Tây nguyên được thành lập ngày 26/3/1975 tại Tây nguyên, gồm 3 sư đoàn BB 10, 316,
320A, 2 trung đoàn pháo binh 40 & 675, 3 trung đoàn phòng không 232, 234, 593, trung đoàn xe tăng 273,
trung đoàn đặc công 198, 2 trung đoàn công binh 7 & 275, trung đoàn thông tin 29, các đơn vị bảo đảm phục
vụ và các cơ quan. Thiếu tướng Vũ Lăng là tư lênh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp là chính ủy (Đại tá, PGS. TS. Hồ
Khang, Chủ biên, Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước 1954-1975, Tập VIII, Toàn Thắng (xuất bản
lần thứ hai). Sách đã dẫn trước, trang 301-302). Ngay sau khi thành lập, quân đoàn hành quân xuống tập kết
tại Củ Chi để tham dự chiến dịch HCM, tấn công căn cứ Đồng Dù. Đầu tháng 4/75, đoàn 232 tương đương
cấp quân đoàn được thành lập cho miền tây Nam Bộ gồm 4 sư đoàn BB 3, 5, 9 và sư đoàn 8 của quân khu 8,
1 tiểu đoàn xe tăng T-54, 1 tiểu đoàn thủy xa PT-85, 1 tiểu đoàn pháo binh 130 mm, 1 tiểu đoàn phòng
không, các đơn vị bảo đảm phục vụ và các cơ quan. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) là tư lệnh,
được. Trung tướng Lê Đức Anh (Sáu Nam) thay thế sau đó. Đoàn 232 tấn công Mộc Hóa và đe dọc đoạn Bến
Lức - Long An của quốc lộ 4, cô lập sự tiếp ứng giữa Sài Gòn với quân đoàn IV/QLVNCH và ngược lại (Đại
tướng Lê Đức Anh, Chúng tôi tiến công giải phóng Sài Gòn từ hướng Tây-Tây Nam (http:// dantri.com.vn
/xa-hoi /chung-toi-tien-cong-giai-phong-sai-gon-tu-huong-tay-tay-nam-1399338213.htm, 30/11/2016).
SƠ ÐỒ 1 : TỈNH BÌNH T
THUẬN (Tỉ lệ 1:300 000)
BIỂN
NAM HẢI
SƠ ÐỒ 2 : ÐỊA THẾ TỈNH BÌNH TUY107 (Không vẽ theo tỉ lệ)
CHÚ GIẢI CAO ÐỘ [m]
107 Nguyễn Mạnh Hùng, Học Ðịa lý 12 bằng Atlas, Ðông Nam Bộ, Tủ Sách Khoa Học VLOS; http://
www.thuvienkhoahoc.com, 13/3/2007.
LONG LÂM ÐỒNG
KHÁNH BÌNH THUẬN
PHƯỚC TUY
SƠ ÐỒ 3 : TỈNH BÌNH TUY
CK
SƠ ÐỒ 4 : VÙNG CHIẾN DỊCH TÁNH
108 Cơ quan Đồ bản Quốc phòng Hoa Kỳ, Công binh, Lục quân, Washington, D.C. ấn h
CK
H LINH - HOÀI ÐỨC108 (Tỉ lệ 1/250 000)
hành 8-1962; An Lộc, Series L509, Sheet NC 48-4, Edition 2-AMS.
cầu La Ngà
vị trí bốc trực thăng
cánh B
1&4 344/ĐPQ
ga GIÁ RAY
ngã ba ÔNG ÐỒN
CC 1
SƠ ÐỒ 5 : VỊ TRÍ VÕ ÐẮT VÀ HAI QUỐC LỘ 1 & 20109 (Tỉ lệ 1/250 000)
109 Cơ quan Đồ bản Quốc phòng, Trung tâm Địa hình ấn hành 4/73, Series 1501, Sheet NC 48-4,
Edition 3.
NQ
ấp TƯ TỀ
19 ĐC
SƠ ÐỒ 6 : QUẬN HOÀI ÐỨC, TỈ
110 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam ấn hành lần thứ hai 6-1973; Tánh Linh, Series L701
CK
18 ĐC
ỈNH BÌNH TUY110 (Tỉ lệ 1/50 000)
14, Sheet 6531 III, Edition 2 AMS.
4/344
3
SƠ ÐỒ 7 : PHỐI TRÍ ÐPQ TẠI VÕ XU T
111 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam ấn hành lần thứ hai 6-1973; Tánh Linh, Series L701
ĐPQ
344 ĐPQ
CH/YT
3/344
TRƯỚC TRẬN ÐÁNH111 (Tỉ lệ 1/50 000)
14, Sheet 6531 III, Edition 2 AMS.
mật khu Ara Salour
CK
2/43
SƠ ÐỒ 8 : QUẬN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH TUY112 (Tỉ lệ 1/250 000)
112 Cơ quan Đồ bản Quốc phòng, Trung tâm Địa hình ấn hành 4/73, Series 1501, Sheet NC 48-4,
Edition 3.
9 - 25/12/1974
812 700 ĐPQ
878 ĐPQ 710 ĐPQ
720 ĐPQ 335 ĐPQ
105mm
200 ĐC
130mm
c
SƠ ÐỒ 9 : TÁNH LINH & VÙNG PHỤ CẬN113 (Tỉ lệ 1/50 000)
113 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam ấn hành lần thứ hai 6-1973; Tánh Linh, Series L7014, Sheet 6531
III, Edition 2 AMS.
344 ĐPQ
2/43 33 6
105mm
V-100
TS
2/43
SƠ ÐỒ 10 : VÕ ÐẮT & VÕ XU114 (Tỉ lệ 1/250 000)
114 Cơ quan Đồ bản Quốc phòng, Trung tâm Địa hình ấn hành 4/73, Series 1501, Sheet NC 48-4,
Edition 3.
18(-) 105mm
18 155mm
2/43 18
1/43 18
SƠ ÐỒ 11 : VÙNG HÀNH QUÂN CỦA SƯ ÐOÀN
18 BB TẠI PHÍA BẮC VÕ ÐẮT115 (Tỉ lệ 1/50 000)
115 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam soạn thảo. In tại liên đội địa hình thuộc cục công binh QLVNCH
tháng 4-1975; Định Quán, Series L7014, Sheet 6431 II, Edition 1 AMS.
đồi đá
1/344 ĐPQ
ĐPQ
Chánh Tâm 3
Chánh Tâm 1 2/344
2/52
1
8
SƠ ÐỒ 12 : ÐOẠN PHÍA BẮC TỈNH LỘ 333116 (Tỉ lệ 1/50 000)
116 Cầu Nín Thở nằm trên TL-333, cách Võ Ðắt khoảng 2 cây số về phía nam, do dân chúng Võ Ðắt đặt
tên. Lý do cầu chỉ dài khoảng 30 m nhưng bề ngang rất hẹp. Xe đò khi chạy ngang qua cầu này phải
chạy thật chậm vì chỉ có hai hàng bánh trong là chạm trên thành ván gỗ của cầu, hai hàng bánh phía
ngoài hoàn toàn lọt khỏi thành cầu. Ðã có nhiều tai nạn xe lọt xuống cầu. VC cũng đã nhiều lần phá sập
nên cầu chỉ được sửa chữa lại một cách sơ sài (Thư riêng của cựu Ðại úy Lê Phi Ô gửi cho tác giả ngày
5/3/2007). Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam ấn hành lần thứ hai 6-1973; Tánh Linh, Series L7014, Sheet
6531 III, Edition 2 AMS.
52 (-) 18 46
7 BĐQ
105mm
mmm
155mm
SƠ ÐỒ 13 : ÐOẠN PHÍA NAM TỈNH LỘ 333117 (Tỉ lệ 1/50 000)
117 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam soạn thảo. In tại liên đội địa hình thuộc cục công binh QLVNCH
tháng 4-1975; Định Quán, Series L7014, Sheet 6431 II, Edition 1 AMS.
88
15 812
1/15 812 422
2/15 812
3/15 812
130
SƠ ÐỒ 14 : HÀNH QUÂN TRỰC THĂNG VẬN VÀO TÁNH LINH118 (Tỉ lệ 1/50 000)
118 Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam ấn hành lần thứ hai 6-1973; Tánh Linh, Series L7014, Sheet 6531
III, Edition 2 AMS.
TRẢNG TÁO ga Gia Huynh
ga Suối Kiết
ga Sông Dinh
ga Sông Phan
344 (-) ĐPQ
CC 2 3 45 6 7 89 CC 10
SƠ ÐỒ 15 : LỘ TRÌNH VƯỢT THOÁT CỦA
TIỂU ÐOÀN 344 (-) ÐPQ119 (Tỉ lệ 1/250 000)
119 Cơ quan Đồ bản Quốc phòng, Trung tâm Địa hình ấn hành 4/73, Series 1501, Sheet NC 48-8,
Edition 3.
HÌNH 1 : THỊ XÃ LAGI120
HÌNH 2 : BÃI BIỂN LAGI
120 Tên cũ là Hàm Tân; http:// www.binhthuan.gov.vn /English /Page /Home.asp?a=808, 19/2/2009.
HÌNH 3 : ÐẬP ÐÁ DỰNG121
HÌNH 4 : NÚI VÕ ÐẮT122
121 Ðập Ðá Dựng được chính phủ VNCH xây dựng năm 1959 trên sông Dinh, quận Hàm Tân để dự trữ
nguồn nước sinh hoạt cho tỉnh lỵ và tưới tiêu cho những cánh đồng vùng Tân Bình, Tân Lý và Tân
Thiện; http:// www.baobinhthuan.com.vn /web /tintuc /default.aspx?cat_id=576&news_id=21443#
content, 12/9 /2009.
122 Ảnh chụp tháng 11/1970 của S Weaver; http:// www.vhpamuseum.org /Places /places.shtml, 4/3
/2009.
HÌNH 5 : ẢNH CHỤP TỪ NÚI VÕ ÐẮT NHÌN VỀ PHÍA BẮC123
HÌNH 6 : TRẠM RA-ÐA124 TRÊN NÚI VÕ ÐẮT
123 Ảnh chụp trên núi Võ Ðắt (đồi Bảo Ðại) vào tháng 11 năm 1970. Lúc bấy giờ trung đội 3, đại đội C
thuộc tiểu đoàn 125 kiểm soát không lưu của quân đội Mỹ có đặt một đài ra-đa để phát giác mỗi khi
VC pháo kích vào các căn cứ của sư đoàn 1 KBKV đồn trú chung quanh (http:// www.vhpa-museum
.org /misc /125atc /125atc.shtml; 17/8/2007).
124 Ra-đa AN/TPN-18 GCA là ra-đa có thể chuyển vận bằng trực thăng, sử dụng trong mọi thời tiết,
thích hợp cho công tác kiểm soát không lưu tại các sân bay dã chiến hay bãi đáp trực thăng. Ra-đa có
tầm hoạt động là 40 hải lý (74 km).