Lượm choàng tỉnh thấy hai má mình ướt đầm nước mắt.
"… Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải mất nhiều
tháng nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn cướp
nước bán nước, mới giải phóng được TỔ QUỐC, giải phóng thành phố
thân yêu của chúng ta… Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ
mệnh lớn lao này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành
cho bằng được…".
Lời khuyên dặn hôm nào của ông trước giờ ra trận lúc này lại vang
vọng trong trí nhớ Lượm, với một ý nghĩa mới mẻ khác thường; giúp
nó bình tâm trở lại nâng đỡ nó trong cuộc chiến đấu không đồng đội,
không người hướng dẫn, chỉ huy.
Nó giục giã thôi thúc Lượm gắng gỏi làm tốt những việc mà chính
nó tự đề ra.
Việc quan trọng nhất là hàng ngày nó cùng với các bạn trong đội,
kiếm nước trong đổ vào các ống bơ của các anh bị giam trong hai dãy
"ca-sô âm phủ" thòng xuống. Xe nước vừa về là bọn trẻ đã có mặt
quanh hố nước để giành múc nước trong nhưng vì tranh giành quá hỗn
loạn nên dù nước múc được trước cũng đục ngầu, khăng khẳng mùi
bùn, mùi rác. Dù chính hàng ngày đều phải uống thứ nước đó, có khi
còn đục bẩn hơn, nhưng phải rót cho các anh, Lượm và các bạn đều
thấy khổ tâm.
Muốn kiếm được nước trong, nhất thiết phải đi làm cỏ-vê. Lượm
bàn với các bạn, chọn ra bốn đứa cùng với Lượm nữa là năm, sức vóc
hơn cả, tìm cách chen bừa vào các toán tù đang sắp hàng trên sân lao,
đợi xe các công sở đến chở đi. Nhưng lần nào Lượm và các bạn cũng bị
gạt lại. Các công sở không chịu nhận tù con nít đi làm cỏ-vê.
***
Một buổi sáng tù đi làm cỏ-vê đã vãn hết, trong sân lao chỉ còn lại
tù con nít, mấy người già yếu, vài anh tù mới vào hôm qua, chưa có
công sở nào lấy đi làm.
Không có việc gì, tù con nít, người già yếu kéo ra đứng chen chúc
sau khuôn cửa sắt đóng chặt của lớp tường trong, nhìn ra cổng chính.
Trên nóc cổng chính có cây cột cờ ngắn, ngã chếch ra đường.
Buổi sáng, một tiểu đội lính ngục do viên đội hoặc tên cai điều
khiển, súng vác vai, hô ắc-ê đi qua hai cánh cổng chính mở rộng tập
họp thành hàng ngang trên đường, làm lễ kéo cờ. Những người tù
không được đi làm cỏ-vê thường đứng chực ở đây, chờ bọn lính mở
cổng ra kéo cờ, sẽ nhìn khúc đường phố lác đác có người qua lại, dù chỉ
mươi phút. Bọn tù con nít bị giam giữ lâu ngày giữa hai lớp tường cao
vòi vọi nhìn ra đường phố với ánh mắt háo hức, thèm khát trông thật
tội nghiệp!
Sáng nào có Một Điếu đứng trong sân nhìn ra, viên đội, tên cai điều
khiến lính làm lễ kéo cờ rất hùng dũng, oai vệ. Tiếng hô "Gác- đờ-bu!
Pờ-rê-dăng-tê! Ứ!" nghe rất dõng dạc, đứng tận sân lao bên trong cũng
nghe tiếng. Nhưng sáng nào vắng mặt Một Điếu, bọn lính ngục đều làm
quấy quá cho xong chuyện. Chúng kéo ra chỉ bốn năm đứa như đi dạo
mát, súng vác ngả nghiêng. Chúng kéo phăng cờ lên, không hô hiếc gì
hết, rồi đi sang bên kia lề đường hút thuốc, ăn quà. Sáng hôm đó, Mệ-
Lai-tàn-tật điều khiển việc kéo cờ. Mệ-Lai-tàn-tật giao cho một tên kéo
cờ, còn hắn và những tên kia xúm lại quanh mấy gánh hàng quà, bánh
canh, xôi bắp, bún bò… nói cười toe toét.
Lá cờ tam tài vừa kéo lên lưng chừng cột, anh tù điên đứng sát bên
Lượm, hai tay nắm chấn song sắt cửa lay lay, rồi bất ngờ kêu toáng lên:
- Ông Một Điếu ơi là ông Một Điếu ơi! Ông ra mà coi quân lính của
ông kéo cờ Đại Pháp mà như kéo tù vô xà lim! Không Pờ-rê-dăng-tê,
không ứ, không ó cứt chi hết a!
Tụi lính ngục hoảng hồn, đang nhai xôi phải nhổ xôi, dụi thuốc, vứt
tô bún đang ăn dở, chạy vội sang đường tập họp, và kéo cờ thật nhanh
lên ngọn. Mệ-Lai-tàn-tật vừa sợ vừa cáu.
- Tổ cha thằng điên! - Hắn chửi và cúi nhặt nửa viên gạch, thẳng tay
nhắm đầu anh tù điên mà ném.
Viên gạch va vào chấn song kêu "coong!" và dội bật trở ra. Vừa lúc
đó Một Điếu từ trong nhà đi ra, hỏi:
- Cái gì? Cái gì?
Anh tù điên ôm đầu mếu máo, lu loa nói với Một Điếu bằng thứ
tiếng Tây bồi hổ lốn quen thuộc của anh:
- Mông dạch nằng! Luỷ - Anh chỉ vào Mệ-Lai - kéo lơ đờ-ra-pô
phăng-xe - anh làm điệu bộ kéo cờ - còn luỷ kéo pờ-ri-son-ni-ê vô xà
lim. Nông gác-đờ-bu, nông Pờ-rê-dăng-tê, nông ứ! - Anh chụp tay
Lượm làm điệu bộ kéo tù - Moa ráp-po mông dạch-nằng - Luỷ lăng-xê
moa viên gạch - anh chỉ viên gạch - moa cát-xê la-tết - Anh ôm đầu
nhăn nhó khóc hu hu như bị viên gạch ném trúng đầu.
Một Điếu nhận ra Lượm, liền hỏi:
- Bé con, đúng như vậy không?
- Thưa ông quan hai, đúng như vậy!
Một Điếu quay lại nhìn Mệ- Lai đang đứng chết điếng, mặt cắt
không còn giọt máu.
- Đồ con lợn! - Một Điếu gầm lên. Hắn bước lại giật phắt cái lon cai
trên ống tay áo Mệ-Lai-tàn-tật, vung roi quất tới tấp lên vai, lên lưng.
Vừa quất vừa chửi:
- Đồ súc vật nhơ bẩn! Đồ súc vật nhơ bẩn!
Mệ-Lai-tàn-tật cứ phải đứng gác- đờ- bu mà chịu đòn, miệng lắp
bắp van lạy:
- Mông dạch-nằng! Pạc-đon-nê moa!…
Nếu lúc đó không có một chiếc xe Jeep phanh rít đỗ xịch trước cổng
lao, thì chắc viên cai ngục này sẽ bị đánh cho đến kỳ ngã gục. Chiếc xe
do một tên lính da đen lái. Hai tên Pháp xuống xe, bước qua cổng lao,
tên lính đeo tiểu liên "mát" và viên đội đeo súng lục. Chúng chào Một
Điếu và đưa giấy tờ gì đó, Lượm tò mò lắng nghe viên đội Tây báo cáo
với Một Điếu. Nó được biết chúng ở một công sở có tên là Poste
Militaire (bưu điện quân sự), cần xin ba người làm cỏ-vê.
Viên quản người Việt, phó đề lao, mở cánh cửa sắt bước vào, chọn
ba người tù lớn tuổi, dẫn ra ngoài cho viên đội Tây. Viên đội hỏi:
- Trong ba người, có người nào biết tiếng Pháp không?
Viên quản hỏi lại, cả ba lắc đầu.
Lượm liên thò cánh tay qua cổng sắt, nói to:
- Thưa ông đội, tôi biết tiếng Pháp!
- Mày nói tiếng Pháp khá không? - Viên đội bước đến gần Lượm hỏi.
- Tôi nói không được đúng mẹo lắm.
Viên đội nhún vai:
- Thế là mày hơn tao. Tao không biết một tiếng Việt nào.
Cánh cửa sắt mở ra. Viên đội gạt lại một trong ba người và kéo
Lượm thay vào đó. Y quay lại hỏi viên quản phó đề lao:
- Ông đồng ý chứ?
- Đồng ý - Viên quản cười, bắt tay viên đội.
- Chúng ta đi thôi! - Viên đội hất đầu rất điệu với Lượm và chỉ ra xe.
Sự may mắn quá bất ngờ làm cho Lượm vui mừng đến nghẹn thở.
Nó chỉ kịp quay lại ngoắc ngoắc tay với các bạn đứng chen chúc đằng
sau cánh cửa sắt và đi gần như chạy ra chỗ chiếc xe Jeep đang đỗ. Nó
thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Nó lo sợ viên đội tây,
thằng Một Điếu và cả tụi lính ngục nữa sẽ đổi ý, giữ nó lại vì chúng chợt
nhớ ra: thằng tù con nít này đã từng hai lần liều lĩnh vượt tù…
3.
Sở Poste Militaire (gọi tắt là sở Pốt) đóng ở dãy nhà một tầng còn
sót lại trong khu vực Trung bộ phủ cũ. Hầu hết những ngôi nhà kiên cố
trong khu vực đã bị quân ta đánh sập thành những đống gạch vụn,
trước khi rút khỏi Huế.
Đằng sau sở Pốt, cách một khu vườn rộng mọc lút cỏ dại, là ngôi
nhà hai tầng rộng thênh thang của một công sở khác cũng của bọn nhà
binh Pháp, có tên là Coopérative Militaire (cửa hàng nhu yếu phẩm
quân đội). Sở này cũng có một toán tù lao Thừa Phủ hàng ngày đến làm
cỏ-vê. Toán tù gọi tắt công sở này là sở "Cốp".
Ở sở Pốt chỉ có thư từ, giấy má, những gói bưu phẩm lớn nhỏ xếp
thành dãy trên các giá gỗ kê dọc sát tường. Trong khi đó bên sở Cốp,
các gian buồng chất cao đến trần nhà những hòm đồ hộp, bánh kẹo,
rượu, thuốc lá và nhiều hàng hoá vật dụng khác trông đến ngốt cả mắt.
Xe ô tô lớn nhỏ ra vào rầm rập suốt ngày, mua hàng, chở hàng đến
nhập kho… Công việc chính của toán tù làm cỏ-vê ở sở Cốp là xếp hàng
hoá lên xe, chuyển hàng hoá trên xe xếp vào các kho.
Làm cỏ-vê sở Cốp hết sức nặng nhọc và thường xảy ra tai nạn. Vì
các hòm hàng hoá nặng hàng tạ, hàng nửa tạ, chỉ cần sơ ý một chút là
hòm rơi, lăn đè nát tay, nát chân. Nhưng đó chưa phải là điều khổ sở
nhất của anh em tù.
Hôm đầu tiên bước vào sở làm cả toán tù hoa mắt vì của ngon vật lạ
xếp như núi quanh mình. Anh nào cũng hí hửng, chuyến này chắc vớ
bở. Họ hy vọng sẽ lấy cắp được đồ hộp, bánh kẹo. Nhưng chỉ sau một
ngày họ đã biết mình lầm. Bọn Tây làm ở sở "Cốp" đều là tụi ác ôn, cô
hồn, đánh đập tù tàn bạo không thua gì những tụi chuyên nghề tra tấn
ở các Sở mật thám An ninh. Hung dữ nhất là một tên đội Tây, anh em
tù gọi là Đội-lùn. Đội-lùn người thấp nhưng rất to ngang nên ngó gần
như vuông. Mặt hắn tròn to như cái đĩa tây, bóng loáng, râu ria cạo
nhẵn thín, cặp mắt của loài thú dữ ăn thịt người. Hắn có sức khoẻ
khủng khiếp của tên đô vật hoặc cử tạ hạng nặng. Một lần hắn bắt gặp
một người tù ăn mấy miếng bánh bích quy rơi ra từ cái hòm vỡ. Hắn
lẳng lặng túm hai cổ chân anh ta, nhấc bổng lên như nhấc con gà, dộng
đầu anh vào cái hòm gỗ, máu mồm, máu mũi anh ộc ra như xối, mấy
miếng bánh vừa nuốt trào ra miệng cùng với máu.
Mỗi buổi chiều, trước khi lên ô tô về lao, hắn bắt tù xếp hàng ngang,
cởi hết quần áo để kiểm soát. Chỉ cần tìm thấy một miếng bánh, một cái
kẹo, hắn cũng đánh cho máu chảy tràn mặt.
Đi làm cả tháng trời mà chưa người tù nào ăn cắp nổi cái kẹo. Chân
giẫm xéo lên đồ hộp, bánh, kẹo, trong lúc thắt ruột thắt gan vì đói, quả
là một cực hình.
Đội-lùn có con chó béc-giê to bằng con bê nhỡ, lông xám như lông
chó sói và cũng thấp lùn như hắn. Hắn gọi con chó là Rếch. Con Rếch
không rời hắn một bước và là một tên tay sai vô cùng đắc lực trong
việc hành hạ, đôn đốc, kiểm soát tù nhân. Đứng từ xa, Đội-lùn nhìn
thấy một anh tù nào đó trốn việc, làm việc uể oải, hoặc lấy cắp một thứ
gì đó, hắn chỉ cần chỉ tay huýt lên một tiếng là con Rếch lao vút, xô ngã
anh ta xuống đất và cắn xé tả tơi. Có anh tù khiếp đảm con chó đến
phát điên.
Sở Pốt cũng như sở Cốp, quan và lính làm việc đều là bọn Pháp,
không có tên lính nguỵ nào. Nhưng bọn sở Pốt, tuy là lính tráng nhưng
đều có dáng công chức bộ diện tử tế, lịch sự. Chúng không chửi mắng,
đánh đập tù ngay cả tên lính gác cũng vậy, mặc dù tên này có bản mặt
của tên găng-tơ giải nghệ. Hắn nói với Lượm:
- Tao không thích đối xử với mày như bọn kia - Hắn hất hàm trỏ
sang bọn sở Cốp - Làm xong công việc tụi mày có thể được nghỉ ngơi.
Chỉ yêu cầu tụi mày không được tìm cách chạy trốn. Nếu chúng mày
chạy trốn, tao buộc cái này phải lên tiếng - Hắn vỗ vỗ bàn tay lông lá
vào báng khẩu tiểu liên "mát" nhún vai nói thêm - Đừng làm cho nó
phải nổi giận!
Lượm phiên dịch lại cho hai người lớn tuổi cùng đi làm với nó.
Tên đội đến lấy tù đi làm tên là Buy-va, phụ trách văn thư của sở.
Hắn giao việc hàng ngày cho ba người tù. Hai người lớn gánh nước
ngoài bến sông Hương đổ đầy hai cái bể xi măng phía sau khu nhà bếp.
Lượm quét tước làm vệ sinh khu nhà ở, nhà làm việc và thông ngôn.
Giám đốc sở tên là I-tai, đóng lon quan hai.
Quan hai I-tai đã đứng tuổi, người cao, gầy, lưng gù gù, đầu hói, đeo
kính cận. I-tai có dáng dấp ông giáo trường làng hơn là sĩ quan quân
đội viễn chinh. Y có vợ người Việt, một mụ me Tây béo phục phịch. Hai
vợ chồng ở một gian phòng lớn cuối dãy nhà làm việc.
Hôm đầu tiên đến sở, quan hai I-tai hỏi Lượm:
- Tại sao em bị bắt?
- Người ta tình nghi tôi là liên lạc của Việt Minh… Nhưng không
phải.
I-tai nhún vai:
- Nếu đúng là liên lạc của Việt Minh cũng không sao. Ở Pháp, trong
trận đại chiến vừa qua, cũng có nhiều thiếu niên lứa tuổi em là liên lạc
của quân du kích.
Buổi trưa, y cho ba người tù một ổ mì lớn. Và cũng trong ngày hôm
đó, ba người tìm được trong đống rác sau khu nhà bếp, ba cái thùng vỏ
đồ hộp, đựng nước sông Hương mang về nhà lao.
4
Hai người tù cùng đi làm cỏ-vê với Lượm, một người tên Tụng, một
người tên Bện. Tụng trạc ngoài năm mươi tuổi, Bện mới xấp xỉ ba
mươi. Anh Bện là ngư dân, sinh ra và lớn lên trên mặt nước đầm
Chuồn, một đầm nước mặn lớn nối liền với phá Tam Giang. Người ta
gọi anh là dân thuỷ điện. Anh có gương mặt thật thà chất phác, hiền
lành. Nửa người trên của anh Bện vạm vỡ không chút cân xứng với
nửa người dưới, nhìn giống như hai mảnh thân thể của hai người chắp
vào nhau. Riêng hai bàn tay anh to lớn một cách kỳ dị, đen đúa, nứt nẻ,
sần sùi những lớp chai dày cộp, các đầu ngón tay mòn vẹt như bị mài.
Anh cho biết, mới bảy tám tuổi, ngày nào anh cũng phải ngâm mình
dưới nước dùng mười ngón tay moi cát, rong thành rãnh dài, để bắt
tôm rằn, tôm sú.
Thoạt nhìn cũng đoán biết anh cả đời chỉ quen sống trên thuyền,
trên mặt nước. Anh đi trên mặt đất vụng về, lạch bạch như con vịt. Cả
con người anh lúc nào cũng bốc lên mùi tanh tanh, mùi tôm cá, mùi
lưới ướt, mùi lòng thuyền…
- Anh có phải du kích không? - Lượm hỏi.
- Không. Tui chỉ chở thuyền cho các eng bộ đội địa phương huyện
qua phá Tam Giang. Trong vùng có đứa chỉ điểm, báo cho Tây. Rứa là
lính Tây đi ca-nô lùng vây bắt tui đang làm nghề giữa phá. Tụi hắn
quăng lựu đạn vô đò tui, rứa là cả đò, cả lưới, cả đồ nghề làm ăn chìm
hết!… Chừ họ có thả tui về thì cũng chết đói thôi chú ạ. Còn đồ nghề mô
nữa mà làm ăn… - Anh nói, mặt buồn thiu nước mắt rơm rớm…
Nhìn anh, Lượm thấy thương cũng muốn khóc theo. Nó nói:
- Cần cóc chi anh! Tụi hắn mà thả anh về, anh trốn luôn lên núi đi
Vệ Quốc Đoàn, đánh chết cha tụi hắn đi! Chưa chừng anh em mình lại
gặp nhau trên đó cũng nên.
- E rồi cũng phải đến nước đó thôi chú em ạ - Anh nói mà mặt vẫn
rầu rầu.
Lượm nảy ra ý muốn được giúp đỡ, bênh vực, che chở anh, như với
tụi thằng Thúi, Ngạnh, Lanh… Nó thấy anh ta tuy lớn tuổi, to xác, mà
còn khờ khạo hơn cả mấy đứa đó, thân tù đi làm cỏ-vê mà anh siêng
năng như làm việc nhà. Đặt đòn gánh lên vai là anh chúi mặt, chúi mũi,
gánh hết chuyến nước này tiếp chuyến nước khác. Gánh nào hai thùng
nước cũng đầy ắp. Gánh suốt buổi sáng, anh không nghỉ lấy một lần.
Trong lúc đó lão Tụng chỉ gánh hai thùng lưng lẻo; và anh gánh được
ba chuyến, lão Tụng mới gánh được một chuyến. Nhưng anh không hề
chút so bì. Thấy vậy, Lượm nổi cáu:
- Răng anh dại rứa? Việc chi mà anh phải nai lưng ra làm lấy một
mình? Để tui nói với thằng đội Tây, chia đều công việc, mỗi người gánh
một bể.
- Thôi chú ạ, người ta yếu, mình mạnh đỡ đần nhau.
- Yếu! - Lượm dằn giọng, bĩu môi.
Với lão Tụng, không hiểu sao, ngay hôm đầu tiên Lượm đã thấy
ghét cay ghét đắng. Tuy ngoài năm mươi tuổi lão Tụng còn khá lực
lưỡng, nhưng lão cứ giả vờ giả vịt như ốm yếu lắm.
Khuôn mặt lão choắt, hai tai như tai chuột, vành tai mỏng lét gần
sát vào da đầu, cặp mắt hùm hụp hay lấm lét nhìn trộm. Toàn bộ con
người lão từ vẻ mặt giọng nói, điệu bộ, dáng đi, toát ra một vẻ gì vừa ti
tiện, vừa xảo quyệt.
Sau một ngày cùng đi làm với lão, Lượm thấy ghét lão hơn. Hễ cứ
nhìn mặt lão là Lượm thấy nổi khùng, muốn gây lộn, đập lộn. Nhưng nó
biết nếu đập lộn, nó sẽ bị cho nhừ đòn. Vì đằng sau cái vẻ lụ khụ của lão
là một sức khoẻ đáng sợ. Có hôm, nó bắt gặp chỉ với hai tay và đầu gối,
lão đã uốn một thanh sắt to bằng ngón chân cái.
Mỗi lần tụi Tây gọi lão đến để sai lão việc gì, lão dạ một tiếng thật
to, ba chân bốn cẳng chạy lại trước tiên, chắp tay, cúi đầu, hai đầu gối
hơi khuỵ xuống, miệng chúm chím cười ruồi… "Chỉ cần chắp thêm vô
chỗ xương cụt của lão ta một cái đuôi, ngúc ngoắc, ngúc ngoắc, là thành
con chó chầu trước mặt chủ!". Lượm vừa thông ngôn, vừa tức tối nhìn
dáng bộ lão và nghĩ vậy.
Hễ tụi Tây vứt một mẩu bánh, một cái tàn thuốc lá, lão nhào tới vồ
chụp vội như sợ Lượm và anh Bện tranh mất. Chộp được, lão thổi thổi
qua, đưa lên miệng.
Lượm nổi điên, quát:
- Ông làm cái chi rứa? Có đói chết cũng phải giữ thể diện không Tây
họ khinh cho chứ?
Lão vênh mặt lên, mắt gườm gườm nhìn Lượm:
- Người mô lanh tay thì người nớ được! Đ… mạ nó chớ! - Lão vừa
tóp tép nhai vừa chửi đổng - Đã mang cái thân thằng tù còn nói phét
nói lác! Thể với chẳng diện!
Lượm giận run người. Nó chỉ muốn quật cái giẻ lau nhà đang cầm
trong tay vào mặt lão. Phải cố hết sức nó mới ghìm lại được. Nó nhổ
một bãi nước miếng xuống đất, lấy chân chà đi chà lại, rồi quay mặt đi.
Trưa hôm đó Lượm hỏi anh Bện:
- Anh có biết thằng cha đó làm chi mà bị bắt không?
- Nghe mô làm Việt Minh xã…
- Đời mô Việt Minh lại có thứ người như hắn! - Lượm kêu lên, giận
dữ như có ai ném rác vào mặt - Nhất định tui phải hỏi cho ra thằng cha
nớ làm chi?
Buổi trưa tụi Tây trong sở xuống ăn trưa ở gian nhà lớn nằm trong
dãy nhà ngang. Tụi hắn ăn xong Lượm phải quét nhà, dọn bát đĩa đem
xuống nhà bếp, lau sạch bàn ghế.
Dù đói mềm người, cả mấy tháng liền không ngửi thấy mùi thịt,
nhưng lúc dọn bàn Lượm đã trút tất cả thức ăn thừa, thịt, cá và những
mẩu bánh vụn vào cái xô rồi xách đổ hắt xuống cống ngay trước mặt
tụi Tây. Chúng nhìn Lượm và không khỏi ngạc nhiên.
Hôm đó, chúng ăn xong, Lượm còn mải bận lau sàn nhà toà nhà
chính, lão Tụng liền chạy vào, trút tất cả thức ăn thừa vào cái thùng vỏ
đồ hộp của lão. Lão còn dùng ngón tay vét các đĩa thức ăn, rồi đưa
ngón tay lên mút. Lão hí hửng xách lon thức ăn thừa đi ra gốc cây giữa
sân, sửa soạn ngồi đánh chén. Bọn Tây ngồi uống cà phê, hút thuốc
trước hiên nhà, chỉ trỏ lão Tụng cười hô hố. Lượm đứng trên bậc tam
cấp dãy nhà chính, nhìn ra, giận tím mặt. Nó lẳng lặng xách cái xô nước
rác lau nhà, đi ra gốc cây lão Tụng đang ngồi. Bất ngờ nó trút cả xô
nước đen ngòm vào cái lon thức ăn thừa, làm lão Tụng không kịp trở
tay.
- Ui chao! - Lão Tụng kêu thét lên, cặp mắt trợn ngược như bất
thình lình bị bóp cổ. Lão trừng trừng nhìn cái lon lớn thức ăn thừa, đen
ngòm nước rác, khuôn mặt choắt rúm ró, nghiến răng kèn kẹt. Lão
nhảy chồm vào Lượm, định đè ngửa mà bóp cổ.
Lượm phản ứng rất nhanh, quật luôn cái bao tải lau nhà vào trúng
giữa mặt lão. Cái khố tải ướt sũng nước, vấn tròn quanh mặt lão. Lượm
nhảy lùi ra xa, nhặt một hòn gạch vỡ, đứng thủ thế.
Lão Tụng giật cái khố tải ướt ra khỏi mặt. Nước bẩn chảy ròng ròng
trên tóc, trên hai má, trên miệng, trên cằm lão. Lão vừa dụi mắt, vừa
khạc nhổ, miệng sùi bọt mép gầm gừ điên dại.
- Tổ cha mi! Tau mà không giết mi, tau không kể làm người!
Không cần nể nang gì nữa, Lượm chửi lại:
- Mi là đồ chó chết! Mi có muốn vỡ tan óc chó mi ra thì cứ đến đây!
Tau còn nhỏ nhưng loại người như mi tau đã đập bể óc khối thằng!
Lão Tụng cúi chụp một thanh sắt rỉ nằm lăn lóc gần đó. Nếu thằng
lính gác không kịp thời chạy đến thì chắc đã xảy ra đổ máu.
- Chuyện gì thế? - Thằng lính gác hỏi, trán cau lại, hết nhìn Lượm lại
nhìn lão Tụng.
Lượm chỉ vào lão Tụng, trả lời:
- Lợi dụng lúc tôi vắng mặt, hắn đã lẻn vào phòng ăn, làm bẩn đồ
đạc với những ngón tay dơ bẩn của hắn. Hắn còn định giết tôi với
thanh sắt cầm trong tay kia.
Lão Tụng quỳ sụp xuống, vái lấy vái để thằng Tây. Lão chỉ vào
Lượm, gào lên:
- Bẩm quan lớn, thằng nớ là Việt Minh đầu sỏ. Hắn chỉ rình để giết
các quan lớn. Xin quan lớn giết chết hắn đi mà trừ hậu hoạ…
Nhìn dáng điệu của lão lúc này, Lượm tin chắc rằng nếu thằng lính
gác chĩa khẩu tiểu liên vào ngực mình mà những cả băng đạn, lão sẽ
nhảy dựng lên vì vui thích hả hê. Nhưng lão quên phứt là thằng Tây
không biết tiếng Việt. Hắn chỉ vào lão đang quỳ mọp, hỏi Lượm:
- Hắn nói cái gì?
- Hắn tố cáo với anh tôi là Việt Minh. Tôi không phải Việt Minh, ông
quan hai giám đốc nói rằng, nếu là Việt Minh cũng không sao, vì trong
đại chiến vừa qua có rất nhiều thiếu niên Pháp đã làm liên lạc cho quân
đội kháng chiến. Còn hắn, hắn tự nhận hắn chỉ là một thằng điên bẩn
thỉu.
Thằng lính Tây quay sang hỏi lão Tụng:
- Tu es un sale fou? - Mày là một thằng điên nhơ bẩn?
Lão Tụng nghe tiếng phu, tưởng là phu phen, liền gật lấy gật để:
- Dạ bẩm quan lớn tôi là phu, tôi là phu, còn thằng nớ mới đúng là
Việt Minh!
Thằng lính gác vung cây roi cặc bò quất lên lưng lão một roi rớm
máu, nhún vai nói:
- Với bọn điên thì phải trả lời bằng roi!
5.
Chỉ sau hai tuần lễ đi làm cỏ-vê, Lượm đã gây được tín nhiệm với
hầu hết bọn Tây ở sở Pốt, từ tên giám đốc sở cho đến tên lính gác. Nó
quét và lau nhà thật sạch, cửa kính cửa chớp được lau chùi sáng
choang. Có hai khuôn kính ở phòng làm việc bị vỡ, nó đề nghị với viên
đội văn phòng, lấy hai tấm kính ở một cánh cửa hỏng dựng trong kho,
thay vào, viên đội nói:
- Phải chờ thuê thợ lắp kính.
- Tôi có thể làm được.
Lượm khéo léo dùng mũi dao cạy lớp ma- tít, lấy ra hai tấm kính
nguyên. Nó đem lắp vào hai khuôn kính vỡ, dùng những chiếc đinh nhỏ
đóng giữ tấm kính và trát ma- tít. Viên đội trưởng nhìn Lượm thay
kính, gật đầu khen:
- Tốt! Rất tốt!
Trưa hôm đó, hắn cho Lượm một ổ mì lớn. Nó không ăn mà gói ổ
mì lại, cất vào bị cói.
- Sao mày không ăn?
- Tôi mang về cho các bạn tôi trong tù. ở trong đó, chúng nó đói
lắm.
Viên đội bước đến, nâng cằm Lượm lên, nhìn sâu vào mắt nó, nhún
vai, rồi im lặng bỏ đi. Thái độ khó hiểu của viên đội làm nó bồn chồn, lo
lắng. Hắn tin mình hơn hay hắn bắt đầu chú ý nghi ngờ? Nhưng rồi nó
quyết định: Mặc dù thế nào cũng không để tụi hắn khinh mình. Chắc tụi
hắn biết thừa mình là Vệ Quốc Đoàn.
Một trong những công việc hàng ngày của viên đội là đóng dấu bưu
điện vào các phong thư. Lượm bắt gặp nhiều lần hắn nhìn những đống
thư để đầy trên bàn, nhún vai chán nản. Lượm lân la, chỉ đống thư nói:
- Ông hướng dẫn tôi cách làm, tôi có thể giúp đỡ ông.
Viên đội bằng lòng. Vài buổi đầu nó đóng dấu còn lóng ngóng và
chậm. Nhưng đến hôm thứ ba, nó đã đóng thành thạo và nhanh không
thua gì tên đội.
Trên các ngăn giá gỗ chạy dọc theo tường, xếp đầy hàng nghìn gói
bưu phẩm lớn nhỏ, bao bì bằng vải thô các- tông. Mỗi buổi sáng vào
quét dọn, Lượm tẩn mẩn đọc địa chỉ ghi trên bưu phẩm: Paris, Nixơ,
Boóc- đô, Mác- xây, Tunisie, Marốc, Ôrăng… gần như đủ mặt các địa
danh quen thuộc mà trước đây Lượm đã học về địa lý nước Pháp và
các nước thuộc địa Pháp. Nhiều gói bưu phẩm để quá lâu không có
người nhận (những tên lính viễn chinh này chắc đã chết trận). Vỏ bọc
bị rách, đồ vật bên trong rơi ra. Có nhiều thứ rất hấp dẫn: cá hộp, thịt
hộp, sữa hộp, bích quy, socola, kẹo, thuốc viên, thuốc tiêm v.v… Lượm
chỉ thoáng nhìn, nước bọt đã ứa đầy miệng, nhức nhối các chân răng.
Kềm giữ được không lấy cắp là cả một thử thách lớn. Và lấy cắp cũng
không phải là chuyện khó lắm. Lượm đã nhiều lần nghĩ đến. Chỉ cần
bọn Tây ngó lơ đi một chút, nó sẽ chuồi một vài thứ vào cái khố tải lau
nhà, rồi đàng hoàng xách ra ngoài, đi qua ngay trước mặt bọn chúng.
Nhưng nghĩ lại thật kỹ, cái khả năng bị chúng phát hiện không phải
không có. Và như vậy thật nhục nhã ê chề. Điều quan trọng hơn nữa
mọi dự tính về kế hoạch sắp tới sẽ hỏng bét…
Mỗi ngày đi ra sông giặt khố tải lau nhà, xách nước (với thằng lính
gác xách súng kèm theo sau lưng) Lượm nhìn sang bên kia bờ là chợ
Đông Ba, nhìn xuống phía dưới là Đập Đá, nhìn lại phía sau là con
đường Chợ Cống, Đất Mới, ăn thông ra cánh đồng Đường Ngang, An
Cựu… Kế hoạch ấy cứ lớn dần mãi lên trong đầu nó. Nhớ đến hai lần
vượt tù thất bại trước đây, không lúc nào nó không tự nhủ: "Lần này
phải chuẩn bị thật chắc chắn, không thể liều mạng như hai lần trước.
Lần này mà thất bại, vào nằm "ca-sô âm phủ" là cái chắc!"
Từ ngày được đi làm cỏ-vê ở sở Pốt, Lượm rất ít ngủ. Nằm trên nền
xi- măng lạnh, ôm lưng các bạn, nhiều đêm nó trằn trọc, thao thức đến
tận khuya, rất khuya… Nó nghiền ngẫm từng bước kế hoạch mà nó
phác đi, phác lại nhiều lần trong đầu. Bước thứ nhất nó cho là bước
khó nhất là gây được lòng tin với bọn Pháp ở sở, để chúng lơi lỏng dần
việc kiểm soát, canh gác.
Những công việc chúng giao hàng ngày, Lượm làm rất chu đáo,
vượt cả mức yêu cầu của chúng. Đồ đạc rơi ra từ các gói bưu phẩm, lúc
quét dọn, dù có mặt chúng hay không có nó đều nhặt để lên giá, với
thái độ hết sức dửng dưng. Có lần nó nhặt được tờ giấy bạc một trăm
dưới gầm bàn. Nó đưa cho viên đội:
- Tôi đoán tiền của ông đánh rơi.
Nếu không có mặt tên lính gác, Lượm không bao giờ bước chân ra
gần cổng. Cần ra bến sông gánh nước, giặt khố tải lau nhà, nó đều nói
với tên lính gác:
- Anh đưa tôi ra bờ sông.
- Mày cứ đi đi.
- Tôi là tù. Tôi không muốn đi đâu một mình không có người canh
gác. Họ có thể nghi ngờ tôi, và chính anh cũng sẽ bị ông giám đốc quở
phạt.
- Tao tưởng mày thích đi một mình hơn. Như vậy mày có thể dễ
dàng chạy trốn - Tên lính gác trả lời giọng lấp lửng.
- Chạy trốn? Tôi có là điên! Chỉ nay mai, tôi sẽ được thả ra, trở về
nhà tôi lại đi học. Hơn nữa, tôi biết anh là một thiện xạ, tôi không muốn
ăn đạn của anh.
Thằng lính gác gật gù:
- Mày là một thằng bé hết sức khôn ngoan.
- Đúng hơn, tôi là một đứa trẻ nhút nhát.
Tất cả những việc làm của Lượm đều không lọt qua mắt viên đội
Buy-va. Hắn báo cáo thường xuyên với viên quan hai giám đốc sở.
Lượm biết vậy vì thái độ của viên quan hai I-tai đối với toán tù tự
nhiên đổi khác. Buồng làm việc của hắn gần cuối dãy nhà, trong hai
tuần đầu hắn ra lệnh cho toán tù không được bén mảng đến gần. Việc
quét dọn buồng này do một tên lính da đen ở một trại lính gần đó, vài
ngày một lần đến quét dọn rồi về.
Một buổi sáng, hắn gọi Lượm vào phòng, và bảo:
- Bắt đầu từ hôm nay, em có nhiệm vụ quét dọn làm vệ sinh phòng
làm việc của tôi. Hết giờ làm việc, em vào đóng các cửa sổ, cửa chính.
Tất cả những đồ đạc trong phòng tuyệt đối em không được đụng đến.
Em hãy gắng làm cho tốt, bao giờ ra tù, tôi sẽ tuyển dụng em vào làm
lon-ton cho sở.
- Cám ơn ông trung uý, tôi hứa sẽ hết sức cố gắng để ông vui lòng -
Lượm lễ phép trả lời.
Lượm đưa mắt nhìn bao quát gian phòng để ước tính công việc
hằng ngày phải làm. Gian phòng có bốn cửa sổ, hai đằng trước, hai
đằng sau. Một cửa chính và một cửa ngách đóng chặt. Lượm đoán cửa
này ăn thông sang buồng của vợ chồng hắn. Hai cửa sổ mở ra vườn
sau, luôn luôn đóng chặt. Gian phòng khá rộng nhưng đồ đạc không
nhiều. Một bàn giấy lớn, mấy cái ghế tựa, hai giá gỗ xếp đầy tài liệu.
Cách bàn mấy bước là một tủ gỗ lim lớn, kê gần sát tường, chùm chìa
khoá treo lủng lẳng ở ổ khoá. Mắt Lượm bỗng chạm phải một vật treo
vào cái móc sắt đóng trên tường, giữa bàn làm việc và cái tủ. Cổ nó tự
nhiên nghẹn lại một cách thật khó hiểu. Đó là một cái thắt lưng Mỹ có
những hàng lỗ bọc đồng, đeo trĩu xuống một khẩu súng lục và bốn
băng đạn đựng trong bao da. Thoáng nhìn Lượm đã biết đó là khẩu
"côn đu", bắn cùng cỡ đạn tiểu liên tôm-xông. Tất cả, từ cái thắt lưng,
bao da, những băng đạn, khẩu súng, đều mới tinh. Chuôi báng súng và
khúc nòng súng thò ra ngoài bao, nước thép xanh biếc. Chỗ tay cầm
bằng nhựa cứng màu nâu khía hình quả trám cũng sáng lên lấp lánh
như mời mọc nó: "Hãy cầm lấy!" Như nhìn phải một vật làm mình chói
mắt, Lượm lướt vội mắt sang chỗ khác. Nó nói nhanh cốt để che giấu
nỗi hồi hộp của mình:
- Thưa ông quan hai. Mỗi ngày chỉ cần một giờ là tôi có thể làm
xong hết công việc ông giao.
- Rất tốt! - Viên quan hai I-tai gật đầu. Cặp mắt màu đồng thau của
hắn nhìn Lượm với vẻ khá hiền từ. Không hiểu sao lúc này Lượm càng
tin chắc hắn là một ông giáo trường làng ở một vùng miền núi nước
Pháp, chuyên dạy môn địa lý hoặc lịch sử gì đó, vào thẳng quân đội và
đóng luôn lon quan hai. Việc súng đạn chắc hắn chưa tinh tường. Có
thể hắn chưa bắn phát súng nào cũng nên.
"Không hiểu khẩu súng lục này từ trước đến giờ vẫn treo nguyên ở
đó, hay chỉ treo trong giờ làm việc? Hết giờ làm việc hắn đeo vào người
hay bỏ vào tủ khoá lại?" Nỗi thắc mắc này cứ cộm lên như hòn sỏi
trong đầu Lượm, suốt cả ngày hôm đó. Lạy trời hắn vẫn cứ treo nguyên
ở đó từ trước đến nay! Nó lẩm bẩm khấn thầm.
Sáng hôm sau, Lượm vào quét dọn phòng làm việc của viên quan
hai. Ngay lúc hắn vừa mở cửa phòng, Lượm liếc nhanh lên tường. Khẩu
súng vẫn treo nguyên ở đó. Một nỗi vui mừng vô cớ ập đến, tràn ngập
cả lòng nó. Không nén nổi, nó vừa lau sàn nhà vừa khe khẽ hát: "Đoàn
Vệ Quốc Quân một lần ra đi…" Nó không hát thành lời mà chỉ ngân nga
âm điệu.
Viên quan hai bước vào phòng, hỏi:
- Bé con! Có điều gì vui thích mà em hát hỏng thế?
Lượm giật mình lúng túng đáp:
- Chiều qua, tôi được tin là trong một hai tuần nữa tôi sẽ được ra tù.
Tôi sẽ được gặp mẹ tôi. Và có thể được ông tuyển dụng vào làm việc ở
sở như ông đã hứa.
Lau xong cửa kính và cửa chớp đằng trước, Lượm làm như vô tình
mở hai cửa sổ trông ra vườn để lau chùi. Đóng chặt lâu ngày, các quả
bàng cửa và chốt sắt đều han rỉ, nó phải nghiến răng, ráng hết sức để
vặn. Viên quan hai đang ngồi cắm cúi viết trước bàn ngẩng lên nói:
- Thôi! Thôi! Hai cửa sổ ấy không cần mở.
- Nhưng thưa ông, bụi bám đầy cả cửa chớp lẫn cửa kính. Nếu
không mở ra, không thể lau sạch được.
- Thế thì lau xong em phải đóng ngay lại, và vặn chốt thật cẩn thận -
Hắn đưa tay ra hiệu vặn chốt cửa.
- Vâng, thưa ông trung uý.
Lau dọn xong trong phòng, Lượm xách xô nước và giẻ lau ra lau
hành lang. Nó liếc nhìn vào, thấy viên quan hai đến kiểm tra lại các
chốt cửa và thử vặn cho thật chặt hơn. Lượm biết hai cửa sổ này mở ra
khu vườn sau um tùm cây cối và hoang vắng. Chúng lo sợ Việt Minh
đột nhập vào phòng qua cửa sổ.
Năm buổi sáng liền, sau khi Lượm làm vệ sinh xong, đi ra khỏi
phòng, viên quan hai giám đốc sở đều đi đến kiểm tra lại các chốt cửa.
Việc này làm Lượm rất đỗi lo ngại. Nó vụt hiểu ra, đằng sau cái vẻ hiền
lành "ông giáo làng" của hắn là bản lĩnh một tên giặc cáo già, luôn luôn
cảnh giác, đa nghi, không thể dễ dàng bị đánh lừa. Nó tự nhủ: "Đối với
hắn, mình phải hết sức thận trọng, khôn khéo mới được".
Mỗi buổi sáng vào quét dọn, làm vệ sinh, dù có mặt hắn hay không,
Lượm đều giả bộ hoàn toàn tập trung vào công việc, không nhìn ngó
vào bất cứ một đồ vật gì bày biện trong phòng. Riêng khẩu súng "côn
mười hai" treo trên tường là vật hấp dẫn nhất đối với nó, nhưng nó
vẫn hết sức tránh không nhìn qua lấy một lần, coi như không có nó!
Tuy vậy, chỉ cần bước chân đến cửa phòng là Lượm có ngay cảm giác
nó vẫn còn treo nguyên đó. Một sợi tơ nhện kéo từ cái thắt lưng, chỗ
gần bao da, lên đến nóc tủ. Một con nhện nhỏ đi đi lại lại trên sợi tơ. Nó
là vật đánh dấu, báo cho Lượm biết khẩu súng không hề di chuyển. Nó
nhìn con nhện với ánh mắt thật trìu mến. Nó thầm gọi đùa con nhện là
"Chú lính gác kho vũ khí đạn của ta".
6.
Buổi chiều, đúng bốn giờ rưỡi, viên đội văn phòng, tên lính gác và
tên lính lái xe da đen lại chở ba người tù trở về lao Thừa Phủ.
Ba người tù và tên lính ngồi ở băng sau. Mỗi người tù đều ôm trong
lòng một cái vỏ đồ hộp lớn đựng đầy nước sông Hương, trong leo lẻo.
Người nào cũng cố hết sức giữ cho nước sóng rất ít ra ngoài. Mỗi lần xe
xóc, nước sóng chảy tong tỏng xuống sàn xe, Lượm xuýt xoa như bị đứt
tay chảy máu.
Lượm chỉ có thùng nước, nhưng anh Bện và lão Tụng có thêm vài
cái vỏ đồ hộp đựng thức ăn thừa, bánh mì vụn. Chính Lượm đã trút
thức ăn này cho hai người. Riêng nó không bao giờ đụng đến mặc dầu
nó cũng thèm rệu nước miếng. Do anh Bện mà Lượm thay đổi ý kiến,
không đổ thức ăn xuống cống như trước, mà gom lại trút cho hai
người. Mỗi lần Lượm xách xô thức ăn thừa đi đổ, anh Bện nhìn theo, im
lặng, không nói gì, nhưng ánh mắt anh lộ vẻ thèm khát ghê gớm. Lượm
thấy thương anh quá. Từ hôm đó, Lượm thôi không dồn rác bẩn đổ lẫn
vào xô. Nó đem trút thức ăn thừa vào mấy cái lon vỏ đồ hộp của anh,
nói:
- Anh chia cho lão Tụng một ít.
Anh Bện và lão Tụng mừng rỡ, ăn dè, để dành phần cho bữa cơm
chiều. Sau cái hôm đụng độ, Lượm và lão Tụng hầu như không nhìn
mặt nhau, không nói với nhau một tiếng. Khi cần thông ngôn lại, Lượm
chỉ nói trống không:
- Họ bảo hôm nay chặt hạ cái cây ở đầu nhà. Họ dặn cẩn thận không
được làm hỏng mái ngói.
- Họ dặn dọn sạch cỏ trước sân và lối đi vào nhà chính, v.v…
Tuy không nhìn mặt, nhưng Lượm biết cặp mắt hùm hụp xảo quyệt
của lão Tụng vẫn không thôi gầm ghè nhìn trộm Lượm.
Không một việc làm, cử chỉ nào của Lượm lọt khỏi mắt lão. Nó tin
rằng, lão chỉ chờ cơ hội để tố giác mình với tụi Tây. Lượm lo lắng và
uất ức nghĩ bụng: "Không khéo mình không chết vì tụi Tây mà chết vì
tay cái thằng mạt kiếp này!"
Tự mình và nhờ các bạn trong đội điều tra, Lượm được biết trước
kia lão Tụng làm cán bộ kinh tài trong Uỷ ban hành chính kháng chiến
xã. Tây càn đến xã, lão ra đầu thú. Lão lập công với Tây bằng cách chỉ
hầm bí mật chôn giấu vũ khí, tiền bạc, tài liệu của du kích và Uỷ ban xã.
Nhưng tất cả những thứ này đã được chuyển đi trước đó một hôm mà
lão không biết. Thế là bọn Tây bắt luôn lão, tống lao Thừa Phủ.
Biết được lai lịch lão Tụng, Lượm càng lo ngại hơn. Nó nghĩ cách
thay một người tù khác. Nhưng viên đội văn phòng không đồng ý. Hắn
không muốn thay người mà hắn không biết rõ. Và hình như hắn khoái
cái việc đụng độ giữa hai tên tù già, tù con nít. "Chúng đánh nhau, thù
hằn nhau, tự chúng sẽ dò xét tố giác lẫn nhau" - tên thực dân cáo già
này nghĩ như vậy.
Riêng lão Tụng, với giác quan trời phú của giống chó săn, lão đánh
hơi thấy Lượm rất rõ. Lão biết, tuy là con nít, nhưng thằng nớ - chỉ
Lượm - là loại Việt Minh có sạn có sỏi không đầu! Có thể nó đang mưu
mô làm một việc chi nguy hiểm, như trốn tù, ném lựu đạn, ăn cắp súng
đạn, tài liệu của Tây, chẳng hạn. "Nếu mình gắng công theo dõi" - lão
nghĩ bụng - "phát hiện được, báo kịp thời cho Tây, thì có thể lấy lại
được lòng tin của cơ Sở mật thám Pháp. Họ sẽ thả mình ra và chưa
chừng được trọng dụng cũng nên". Ý nghĩ đó đã thôi thúc lão không
phút nào lơi mắt rình rập Lượm.
7.
Mỗi buổi chiều đi làm về, bước qua cổng lao, Lượm đã nhìn thấy
các bạn đứng chen chúc nhau sau cánh cửa sát lớp tường trong, hong
hóng nhìn ra. Tất cả đều reo lên:
- Anh Lượm về!
Lượm cười với các bạn và thấy mũi mình cay cay. "Tụi hắn mong
mình hơn cả mong mạ về chợ", nó nghĩ vậy.
Nhìn những khuôn mặt xanh xao, cáu ghét, lấm lem, những cẳng
tay, cẳng chân khẳng khiu lở láy, những bộ quần áo rách như tổ đỉa
xông mùi thối khắm của các bạn, Lượm cảm thấy bứt rứt, xấu hổ. Vì
trong lúc đó mình được tắm táp thoả thê, áo quần được giặt sạch (giặt
xong mặc luôn vô người), trở về lao, tóc tai áo quần còn ướt rượt,
thoáng mùi nước sông… Nó cứ có cảm giác mình ăn tranh hết phần của
các bạn, trong lúc các bạn đói khát mềm người!…
Thằng Thúi, thằng Ngạnh cậy mình thân thiết hơn đứng chen sát
bên Lượm. Chúng sờ tóc, sờ áo quần Lượm, xuýt xoa:
- Anh được tắm sướng chưa nì! Tóc với áo quần anh còn ướt ri, mát
rười rượi nì!…
Nghe chúng nói, Lượm rơm rớm nước mắt, nghĩ bụng:
"Nếu bắt mình phải chịu một trận roi da như trận của Một Điếu bữa
mới vô lao, mà tụi hắn được ra sông tắm một trận thoả thê, thì nhất
định mình sẽ nghiến răng, đưa lưng ra mà chịu…".
Lượm ngồi quây quần với các bạn dưới gốc cây cơm nguội xác xơ
giữa sân lao. Nó kể cho các bạn nghe quang cảnh phố xá, những công
việc hàng ngày ở sở Pốt… Và nghe các bạn kể chuyện xảy ra trong ngày
ở lao.
- Ở "ca-sô âm phủ" đêm qua tụi hắn mang đi mất năm người.
- Băng Lép-sẹo sắp tan đến nơi rồi, tụi hắn đập lộn nhau…
Thằng Thúi rụt rè hỏi:
- Anh Lượm nì… ở sở anh làm có cái chi ăn được không?
- Toàn thơ từ giấy má… gọi là sở "Bưu điện quân sự" mà lại.
- Rứa răng chiều mô cũng thấy anh Bện với ông Tụng xách về hai ba
lon đồ ăn?
- Đồ ăn dư của tụi Tây tau trút cho đó. Tau chuyên môn dọn bàn,
rửa bát đĩa… Họ ăn thì được, nhưng mình là Vệ Quốc Đoàn ăn rứa, Tây
hắn khinh cho.
- Phải đó anh ạ - Ngạnh nói chen vào - Đói chết thì thôi chớ ăn đồ
dư của Tây nhục nhã ê chề lắm.
- Ở sở tau làm thì không có chi, nhưng sát ngay đằng sau là sở
"Cốp", cửa hàng cung cấp đồ ăn cho tụi sĩ quan Tây. Đồ hộp, kẹo, bánh,
rượu các loại, chất từng kho, cao như núi… Các anh làm bên đó đạp lên
đồ ăn mà đành chịu, không lấy cắp nổi cái kẹo.
- Tại răng rứa?
- Thằng Tây Lùn coi kho dữ hơn cọp. Hắn mà bắt được ăn cắp, chỉ
cái kẹo thôi, cũng chết với hắn ngay. Hắn tóm hai cổ chân xách ngược
lên như xách con gà, rồi dỗ đầu xuống đất cho đến lúc trào máu với đồ
ăn lấy cắp ra miệng mới thôi. Các anh bên đó nhiều lần bàn với tau, các
anh lấy cắp giấu ra vườn, còn tau mang về lao. Đồ lấy được chia hai.
Nhưng tau cứ nghĩ làm như rứa mình hoá ra thằng ăn cắp, nên tau từ
chối.
Thằng Lanh nói:
- Ăn cắp của Tây để nuôi Việt Minh thì có chi là xấu? Các anh lớn
chẳng dạy tụi mình lấy súng giặc "Giết giặc" là chi?
- Ừ, mi nói có lý. Rứa tau sẽ tìm cách lấy một bữa bánh bích quy về
cho tụi bay ăn đã đời. Sáng ni tau nhìn qua bên đó thấy hai thằng Tây
bưng ra cả một thùng bánh bích quy vụn, để dưới thềm cửa ra vào cho
con chó béc-giê của tụi hắn ăn. Nhưng con chó chỉ ngửi qua rồi bỏ đi.
Anh em tù đi qua đi về ngó thùng bánh mà nuốt nước miếng ừng ực.
Nhưng đụng vô là chết với tụi hắn ngay. Trưa mai, chờ tụi hắn đóng
cửa vô nhà ngủ hết, tau sẽ mò qua xúc trộm một xô về đãi tụi bay.
Thúi nhìn Lượm, ánh mắt hiện vẻ lo sợ. Nó hỏi:
- Liệu có nguy hiểm lắm không anh? Hay thôi, đừng nữa anh ạ. Lỡ
tụi hắn bắt được, dỗ đầu anh xuống đất thì làm răng?
- Thằng Tây lùn dữ nhưng tau không ngại lắm. Trưa mô hắn cũng
say rượu, ngủ như chết. Tau chỉ gờm nhất là con chó, nhưng để tau liệu
coi…
***
Hai hôm trở lại đây, tụi Tây sở Pốt lấy gian nhà kho mọi hôm vẫn
nhốt Lượm, anh Bện và lão Tụng vào buổi trưa, để chứa mấy xe bưu
phẩm vừa từ Pháp gửi sang. Ba người tù chúng cho ra nghỉ trưa trong
khu vườn rộng mệnh mông trước sở. mỗi người tù chiếm bóng một
gốc cây. Tên lính gác đã có vẻ tin họ không bỏ trốn, nên việc canh gác
có phần lơi lỏng dần. Khi Lượm, anh Bện, lão Tụng đã nằm yên vị dưới
bóng mát gốc cây, nhắm mắt ngủ, tên lính gác mò sang bên kia đường
tán tỉnh mấy o bán rượu, thuốc lá, cà phê. Những cái quán này cũng
mới được mở cách đây tuần lễ. Mấy o bán quán son phấn loè loẹt, ăn
mặc hở hang. Họ vừa bán quán vừa làm điếm.
Buổi trưa. Thằng lính gác bỏ đi chừng mươi phút, Lượm đã mở
mắt, ngồi nhổm dậy. Nó nhìn sang hai gốc cây gần đó, lão Tụng và anh
Bện đang há miệng ngáy như sấm. Nó đứng lên, xách cái xô tôn vẫn
đựng nước lau nhà đã được chùi sạch rón ren đi về phía khu vườn ăn
thông sang sở "Cốp". Sở "Cốp" giờ này các cửa đều đóng kín mít. Khi
còn cách ngôi lầu chừng dăm chục thước, nó dừng lại, nép mình sau
gốc mù u, quan sát khu nhà. Toán tù làm cỏ-vê ở sở "Cốp" giờ này bị
nhốt vào dãy nhà kho tít cuối vườn. Xung quanh hoàn toàn yên tĩnh,
không một bóng người. Con chó béc-giê cũng không thấy bóng. Tiếng
ve kêu ran ran trên các tán cây. Thùng đựng bánh bích quy vụn bằng
các- tông vẫn nằm nguyên dưới bậc thềm trước cửa ra vào. Nén hồi
hộp, Lượm xách cái xô chạy băng qua khoảng trống. Nó vục miệng xô
vào thùng bánh vỡ vụn còn khá đầy, một tay lùa dồn bánh vào xô.
Dựng cái xô đứng lên, thấy còn lưng, nó dùng hai tay vốc lấy vốc để, bỏ
thêm vào xô. Gần đầy miệng xô, nó xách chạy vút qua khu vườn nhanh
như tên bắn. Về đến gốc cây, nó quỳ xuống cỏ, thở dốc như vừa chạy
đến chục cây số. Nó bỗng thấy hai mắt mờ đi, cay xè. Đưa tay lên dụi
mắt, nó mới nhận ra cả gương mặt mình như tắm mồ hôi. Vén vạt áo
lên lau mồ hôi, nó bực bội nghĩ: "Chỉ mới lấy cắp ít bánh vụn để tênh
hếch trước thềm nhà, mình còn hoảng sợ đến nước ni! Không biết đến
lúc phải trèo qua cửa sổ lọt vô phòng thằng quan hai I-tai, mình có đủ
gan không?". Bánh bích quy tuy bị vỡ vụn nhưng vẫn còn thơm phức.
Nhưng Lượm gần như không ngửi thấy mùi thơm. Nó trút cả xô bánh
vào cái bao vải bạt đựng thư bị chuột cắn thủng mà nó xin được của
viên đội văn phòng. Nó đem giấu cái bao xuống dưới đống lá rụng cạnh
gốc cây bàng giữa khu vườn.
Nó nhìn sang thấy anh Bện và lão Tụng vẫn há miệng ngáy vang.
Thằng lính gác vẫn còn mải nhậu nhẹt bên dãy quán. Nó lập tức quyết
định phải chạy sang xúc thêm một xô nữa. Nó muốn thử thách mình
xem có đủ gan để làm cái việc thật sự mạo hiểm sắp đến.
Nhưng mới bước được mấy bước, nó đứng chững lại, đắn đo, do
dự. Bản tính liều lĩnh nhưng nó không khỏi chột dạ khi nghĩ đến con
chó béc-giê hung dữ lông xám như lông chó sói. Con quỷ này, Lượm
vẫn ngờ nó đang quanh quẩn đâu đó, nhảy chồm ra lúc nào không biết.
Nó bặm môi giận dữ với chính sự do dự, nhát gan của mình. "Bây giờ
mà mình tháo lui, đến hôm đó mình cũng sẽ tháo lui là cái chắc!". Nó
nghĩ vậy rồi chạy đến chụp cái bao tải ướt lau nhà trải phơi trên cỏ. Nó
vụt nhớ trong trận miễu Đại Càng, các anh ở đội quyết tử mỗi người
mang theo cái bao bố tẩm dầu xăng để chống đàn chó béc-giê đông đến
hàng chục con ở vị trí này.
Tay xách cái xô, tay cầm cái bao tải ướt, Lượm cắm đầu chạy vụt
qua khu vườn, thẳng đến chỗ để thùng bánh vụn, với quyết tâm của
người lính lao lên vị trí xung phong.
Lượm vừa vục miệng xô vào thùng bánh, một tiếng sủa choát tai!
Con béc-giê lông sói chân lùn, to như con bê, từ phía sau bồn hoa, lao
vút tới. Nó xách cái xô vọt chạy. Con béc-giê chồm tới sủa rống đuổi
theo sát gót chân Lượm.
Lượm chưa kịp ngoái đầu lại thì đã nghe: "Bặp!" Nó đứng khựng
như bị lôi giật lại. Bắp chân trái rát bỏng như lửa cháy. Cái miệng rộng
rớt dãi con sói xám ngoạm ngang bắp chân, gầm gừ lôi Lượm trở lại.
Nó muốn vùng vẫy thoát ra nhưng không thoát nổi. Những cái răng
nhọn hoắt cắm sâu vào thịt, nó muốn vùng thoát ra, phải xé tước đôi
bắp thịt. Trong cơn hoảng sợ đến tuyệt vọng, nó bỗng sực nhớ đến cái
bao tải ướt đang cầm trong tay. Nó trùm cái tải lên đầu con chó, rồi
giáng cao cái xô quật "Chát! Chát! " với tất cả nỗi giận dữ điên khùng.
Giống chó dữ rất sợ bị trùm che mắt. Lúc này Lượm mới vụt hiểu tại
sao các anh Quyết tử quân đánh miễu Đại Càng mang báo bố tẩm xăng
để chống chó béc-giê. Con chó hoảng sợ nhả bắp chân nó ra, lắc đầu,
xoay tròn như đèn cù để hất bao tải ra khỏi mặt.
Thoát được hàm răng chó, Lượm vọt chạy về đến chỗ nằm dưới gốc
cây thì ngã khuỵu xuống cỏ. Nó nhìn xuống bắp chân, máu chảy như
tắm. Bắp chân lúc này càng nhức nhối rát bỏng. Nó cởi quần, dùng cỏ
lau sạch máu. Nó nhai đại một nắm ngọn cỏ, đắp trám sâu cái lỗ răng
chó sâu hoắm trên bắp chân để cầm máu. Xé một mảnh giẻ, nó buộc
thật chặt vết thương. Nó nằm vật xuống cỏ, nước mắt bật troà ra ướt
hai gò má. Nó nghiến răng, rên rỉ: "Tau phải giết chết mi! Không giết
chết mi tau không kể làm người!" Nhớ lại cái vẻ hung dữ của con chó
lúc ngoạm vào bắp chân, định lôi kéo mình trở lại chỗ thùng bánh cho
chủ hắn ra đập chết, Lượm giận run người, quên phắt cả đau. Nó vùng
ngồi ngay dậy, đưa ống tay áo lau khô nước mắt. Nó vịn gốc cây đứng
lên, đi cà nhắc về phía cuối vườn. ở đây, nó biết có một cây bòng sai
trĩu quả. Quả bòng lớn bằng trái banh tê- nít, nước quả có vị chua gắt
rúng rắng. Người ta không ăn bòng mà chỉ dùng để gội đầu, hoặc giặt
tẩy quần áo. Nó nhìn lên ngọn cây, quả dày như sao. Biết mình lúc này
không đủ sức trèo lên hái, Lượm nhặt mấy hòn gạch vỡ ném ngược lên
ngọn cây: "Bộp! bộp!" bốn năm quả bòng da xanh bóng rụng xuống cỏ.
Nó nhặt lấy ba quả. Nó nhặt một đoạn dây thép, xâu ba quả bòng thành
một xâu, gác ngang lên hai hòn đá. Nó vun lá khô rụng, giấy vụn, nhen
lửa nướng ba quả bòng. Ruột ba quả bòng kêu xèo xèo. Thứ nước chua
gắt, rúng rắng trong ruột bòng đang sôi. Da ba quả bòng cháy sém màu
than. Nó chạm ngón tay vào, phải rụt ngay lại. Nóng bỏng! Nó trút cả ba
quả bòng vào cái xô, và bọc mỗi quả bằng 1 cái lá bàng rụng để lúc cầm
bớt nóng. Xách cái xô đó chạy băng qua khu vườn mặc cho bắp chân
đau nhói. Con béc-giê lông sói đang nằm cạnh thùng bánh vụn, thè lưỡi
ra thở. Cách khoảng bốn chục thước, Lượm chụp một quả bòng nướng
còn nóng dẫy trong xô, tận sức ném về phía con chó. Quả bòng rơi bịch
trên nền xi- măng, trước mặt con chó. Con chó chồm phắt dậy. Nhìn
thấy Lượm, nó sủa lên một tiếng rung cửa kính, nhe răng, cắm đầu lao
đến. Lượm ném liên tiếp hai quả bòng còn lại, một quả trúng bốp vào
giữa đầu con chó. Bị ném trúng đầu, con chó nổi điên, cắn luôn vào quả
bòng vừa rớt xuống trước mặt. Nó rú lên một tiếng nghe muốn dựng
tóc gáy. Quả bòng dắt chặt vào giữa hai hàm răng nhọn hoắt, như cái
nút đen ngòm, nút mồm nó lại.
Lượm đã chạy về đến gốc cây nghỉ trưa, quẳng cái xô xuống gốc
cây. Nó nhót đến chỗ anh Bện đang ngáy như sấm, nhẹ nhàng nằm
xuống sát bên anh, úp mặt vào lưng anh nhắm mắt cất tiếng ngáy khò
khò như muốn hoà nhịp với tiếng ngáy của anh. Chỉ mấy phút sau, phía
bên sở "Cốp" dậy lên tiếng ồn ào huyên náo tưởng như có người chết,
nhà sập. Tiếng chân chạy, tiếng bọn Tây la hét, tiếng chó lồng lộn, gầm
rít, rên xiết. Bọn Tây ở sở Pốt đang ngủ trưa trong các gian phòng, cũng
phải tỉnh dậy xô cửa chạy ra sân nhớn nhác hỏi nhau:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Tên lính gác đang nhậu ngoài quán rượu, xách súng hộc tốc chạy
vào. Nó mừng rỡ khi thấy ba người tù của nó vẫn nằm ngủ dưới gốc
cây. Thoạt nghe tiếng ồn ào rầm rĩ trong khu vườn, nó tái mặt tưởng
tụi tù bỏ trốn.
Lát sau, thằng Đội-lùn xách khẩu súng các- bin đi sang sở Pốt. Nét
mặt hắn hầm hầm dữ tợn. Đội-lùn hằm hè nói với viên đội văn phòng
sở Pốt:
- Con chó quý của tôi vừa bị một kẻ nào đó ám hại. Tôi chắc là bọn
tù của ông!
Tên lính gác liền đứng nghiêm, nói:
- Có lẽ ông đội nhầm. Ba người tù của tôi nằm kia. Và chưa một
phút nào tôi rời mắt canh gác chúng.
Viên đội văn phòng hỏi vặn lại:
- Tại sao lại không phải bọn tù của ông?
- Bọn chúng đều bị nhốt chặt trong nhà kho có khoá.
- Thế thì có trời biết được - Tên lính gác nhún vai nói.
Anh Bện, lão Tụng, Lượm lúc này đã ngồi hết cả dậy. Anh Bện thấy
thằng Đội-lùn chỉ trỏ về phía mình nói xì xồ với viên quan hai I-tai, mặt
phừng phừng tức tối; anh sợ quá, run cầm cập:
- Chú nghe coi hắn đang nói chi anh em mình mà coi bộ dữ dằn
rứa?
- Bên sở Cốp có chuyện mất mát chi đó. Hắn nghi là mấy người
mình có dính dáng vô. Hắn có tới hỏi chi ta cứ lắc đầu thôi nghe!
Thằng Đội-lùn cùng với viên đội văn phòng, tên lính gác, đi thẳng
đến chỗ ba người. Cả ba liền líu ríu đứng lên.
Viên đội văn phòng hỏi Lượm:
- Ông đội bên sở "Coopérative- militaire" ngờ các anh làm hại con
béc-giê quý của ông ấy. Trong ba người trưa nay có ai sang bên đó
không?
Lượm dụi dụi mắt làm như vẫn còn ngái ngủ trả lời:
- Chúng tôi làm sao sang bên đó được? Anh lính gác đâu có cho
chúng tôi rời khỏi gốc cây này một bước.
Tên lính gác nháy mắt với Lượm. Nó hấp háy mắt nhìn lại, giống
như hôm nào hai người nói với nhau: "Mày là một đứa bé hết sức khôn
ngoan! - Tôi là một đứa trẻ nhút nhát thì đúng hơn".
Tên Đội-lùn trợn cặp mắt xanh màu rắn lục nhìn ba người tù như
muốn nhai sống, nuốt tươi họ. Hắn gầm ghè nói:
- Chúng mày liệu hồn! Giống Anamít bẩn thỉu. Tao mà tìm ra đứa
nào, tao sẽ bắn ngay!
Lượm biết tụi Tây sở Pốt không ưa tụi sở Cốp. Bên đó, tụi ấy ăn
uống phè phỡn, làm tụi bên này ghen tức. Bọn sở Pốt có vẻ khoái chí
khi biết con chó dữ như hùm của Đội-lùn bị ám hại. Đội-lùn xách súng
hậm hực trở về.
Sau đó mấy hôm, Lượm được nghe mấy anh tù ở sở Cốp kể lại:
Tiếng kêu rú của con chó làm náo động cả sở. Lúc họ ra khỏi phòng
nhốt thì thấy con chó, miệng ngoạm một cục gì đen đen, rú rít, chạy
quáng quàng quanh khu nàh như đã hoá dại. Đội-lùn và bọn Tây sở
Cốp phải toát mồ hôi mới bắt giữ được con chó. Miệng con chó vẫn bị
trái bòng nướng khoá chặt. Đội-lùn ôm chặt đầu con chó, định bóp nát
quả bòng để lôi ra khỏi hàm răng chó, nhưng hắn bỗng kêu thét rẩy rẩy
tay như cầm phải than đỏ. Bòng nướng giữ sức nóng rất lâu. Hắn phải
dùng kìm mổ kẹp quả bòng mới lôi ra được. Con chó đau đớn đến phát
điên, giẫy giụa, vùng vẫy ghê đến nỗi Đội-lùn phải ngã xiêu ngã sấp. Lợi
con chó bị thứ nước chua gắt nóng bỏng của quả bòng nung chín. Ba
hôm sau, nó rụng hết hai hàm răng cửa và cả bốn cái răng nanh.
Con chó dữ bị nhổ mất răng, mỗi lần há miệng gầm gừ, trông chỉ
thấy toàn lợi, nhìn rất tức cười. "Thằng nào chơi cú thiệt độc!" Họ bình
phẩm như vậy. Lượm vẫn giấu kín không cho các anh tù sở Cốp và cả
anh Bện, lão Tụng biết mình đã chơi cú "độc" đó.
Không còn sợ hàm răng chó nữa, anh em tù làm cỏ-vê sở Cốp, hễ
vắng mặt Đội-lùn là họ lấy cắp bánh kẹo, đồ hộp, ăn thoải mái. Con chó
trông thấy, gầm gừ nhảy chồm đến cắn, họ lập tức đấm, đạp, xô đầu nó
ra như xô cái củ chuối dính vào chân.
8.
Lượm đi làm cỏ-vê sở Pốt đã được hơn 1 tháng. Trong thời gian đó
nó âm thầm nhưng ráo riết chuẩn bị cho cuộc vượt tù lần thứ ba.
Hai tháng trước đó, cái buổi chiều Huế mưa tầm tã, khi hai cánh
cổng gỗ lim niềng sắt lao Thừa Phủ đóng sập lại sau lưng, mọi hy vọng
vượt tù hoàn toàn tắt ngấm trong lòng người Vệ Quốc Quân vừa bước
sang tuổi mười lăm này. Nhưng chợt đến cái buổi sáng hết sức tình cờ
mà Lượm bỗng được ngồi lên xe Jeep phóng vùn vụt trên đường phố,
thấy lại nhà cửa, bóng cây, núi xanh trùng điệp xa xa, mặt nước sông
Hương bồi hổi sóng… thì hy vọng vượt tù lại bừng lên trong lòng
Lượm, mãnh liệt đến nỗi, nó thấy cổ mình nghẹn lại, tim đập thình
thình. Nó tưởng chừng có thể nhảy vọt ra khỏi xe, lao về phía bờ sông,
nhảy ào xuống nước… Cái cảm giác liều lĩnh, mạo hiểm đó cứ lặp đi lặp
lại trong nó rất nhiều buổi sáng về sau. Dần dần Lượm mới trấn tĩnh lại
được. Hai lần vượt tù mạo hiểm trước đây và những ngày sống ở xà
lim lao Thừa Phủ đã nhắc Lượm: "Lần này mà thất bại thì mình sẽ vào
nằm "ca-sô âm phủ". Và một đêm nào đó, bọn giặc sẽ quăng mình lên
xe bịt bùng, chở đến bãi xử bắn, giống như Chỉ huy trưởng mặt trận
khu C, như anh thợ máy đã săn sóc mình ở Ty An ninh…".
Mới tháng trước có một anh tù đi làm cỏ-vê liều mạng vọt ra khỏi
xe chạy trốn. Kết cuộc anh bị bắn gục ở khúc quẹo dốc Nam Giao.
Trong hơn tháng đó, bao nhiêu việc vừa khó khăn, vừa nguy hiểm,
liên tiếp chồng chất lên đôi vai gầy gò niên thiếu của Lượm.
Ban ngày đi làm cỏ-vê Lượm phải chuẩn bị từng li, từng tí cho việc
vượt tù, phải thường xuyên đối phó với những bất trắc xảy ra liên tiếp.
Như buổi chiều xúc trộm bánh bích quy vụn và vặn răng con béc-
giê, chỉ một tí tẹo là Lượm sa vào bẫy không cách gì thoát nỏi. Chiều
hôm đó, lúc ba người sắp leo lên xe về lao, tên Đội-lùn cùng đi với viên
quản sếp Tây lai đen, phó sở Cốp, sang gặp quan hai I-tai.
Chúng yêu cầu được soát đồ đạc của ba người tù sở Pốt, vì chúng
cho biết bị mất một số lượng khá lớn bánh bích quy vụn chúng để phía
ngoài cửa hàng. Và chúng khẳng định tên ăn trộm bánh chính là tên đã
làm hại con chó. Viên quan hai I-tai buộc phải để cho chúng khám. Hắn
ra lệnh cho viên đội văn phòng cho tù về chậm mười lăm phút, đứng
xếp hàng trước sân và để đồ đạc ra trước mặt. Đội-lùn hầm hầm nói:
- Chỉ cần tìm thấy một mẩu bánh trong người tên tù nào, là tôi sẽ
bắn ngay! Tôi sẽ giết hắn như giết một con vật nhơ bẩn!
Nghe nói mà Lượm ớn lạnh khắp người. Cách đó nửa giờ nó đã xúc
một ít bánh gói lại đút vào đáy cái bị cói mà nó thường để những đồ vật
linh tinh nhặt nhạnh được, mang về lao cho các bạn: vỏ chai, vỏ đồ hộp,
những mảnh vải rách, những đoạn dây thép… Nhưng với bản tính thận
trọng của người lính trinh sát, trước khi làm một việc gì cần phải tính
đến trường hợp xấu nhất có thể xảy ra! Đó là bài học, Lượm học được
ngày còn ở Đội. Và nó đã bỏ lại gói bánh, vùi xuống đống lá rụng. Đội-
lùn soát rất kỹ đồ đạc của ba người. Soát không thấy gì, Đội-lùn càng
nổi điên hơn. Hắn cứ lắc đầu nhắc đi, nhắc lại:
- Vô lý! Hết sức vô lý!
Rồi cả bọn đành cúi gằm mặt băng qua khu vườn trở về sở Cốp
trước những nụ cười chế giễu của bọn tây sở Pốt.
Ngồi trên xe về đến cổng nhà lao, nghĩ đến sự việc vừa xảy ra,
người Lượm vẫn còn ớn lạnh. "Nếu mình hấp tấp mang túi bánh về thì
bữa ni khó lòng tránh khỏi ăn đạn!". Nhớ đến vẻ mặt hầm hầm gớm
ghiếc của thằng Đội-lùn, Lượm tin là nó sẽ bắn thật, nếu hắn lục thấy
gói bánh vụn.
Đợi đến ba hôm sau Lượm mới mang tất cả số bánh về chia cho các
bạn.
Mỗi chiều đi làm về, vừa bước chân qua khỏi cánh cửa sắp lớp
tường thứ hai là Lượm phải đối mặt với tụi băng Lép-sẹo. Cái băng trẻ
trộm cắp này vẫn tỏ vẻ kình địch với Lượm ra mặt. Lượm phải củng cố,
điều khiển các bạn trong đội "Thiếu niên chiến đấu lao Thừa Phủ"
chống chọi với bọn chúng. Và đồng thời tổ chức cho đội giúp đỡ các
anh bị giam ở các dãy xà lim, ca-sô. Những ngày chủ nhật không đi làm,
nó mở lớp dạy chữ cho những đứa chưa biết chữ, như đã hứa. Không
có giấy bút, Lượm phải dạy đọc, dạy viết bằng que, bằng gạch vụn, viết
lên đất sân lao, nền ba-ti-măng. Các bạn học rất chăm. Thấm thoắt đã
có đứa chập chững biết đọc, biết viết.
Sức vóc nhỏ yếu lại phải sống lâu ngày trong đói khát, dơ dáy,
nhiều đứa trong đội ngã bệnh. Đứa sốt nóng, đứa ỉa chảy, đứa mụn
nhọt lở loét khắp người. Đứa nào cũng chấy rận như sung, áo quần bốc
mùi tanh lộn mửa. Nhìn cảnh tượng này Lượm khóc dở mếu dở. Nó
muốn ngã quỵ luôn. Nhiều đêm nó nằm giữa các bạn úp mặt vào cánh
tay lặng lẽ khóc thầm. Nó cảm thấy mình trở nên yếu đuối, bất lực đến
phát sợ! Nó chỉ muốn mau mau trốn thoát ra khỏi nơi đây… Nhưng
sáng ra, nhìn những gương mặt xanh xao, võ vàng tội nghiệp, những
ánh mặt trông chờ, tin cậy của các bạn đặt hết vào mình, nó lại thấy can
đảm trở lại. Nó lập tức nhận ra mình không còn cách nào khác là phải
đứng thẳng lên để đương đầu.
Đi làm, Lượm cố gắng mang về nhiều nước sạch hơn. Kiếm được
chút thức ăn gì, nó không đụng đến, mang về cho những đứa bệnh
nặng không ăn cơm tù được. Nó lần lượt bắt các bạn cởi hết áo quần bỏ
vào bị, mang đến sở làm. Nó bỏ áo quần chúng vào cái thùng sắt tây, đổ
đầy nước, đun luộc rận. Rận bị luộc chính, nổi lên đọng thành một lớp
váng trắng đục trên mặt thùng. Nhìn lớp váng rận nó rùng mình. Nó
đem đống áo quần ra sông giặt giũ, phơi ra chỗ nắng. Chiều áo quần
khô, nó lại bỏ bị mang về cho chúng. Vẫn là những bộ áo quần cũ
nhưng được giết hết rận và giặt sạch, chúng mặc vào súng sính, mừng
rỡ như được diện áo quần mới. Chúng cười rạng rỡ, nhìn Lượm với đôi
mắt ngầm ngập biết ơn.
Sau một thời gian đi làm, Lượm phát hiện ra trong nhiều gói bưu
phẩm có các thứ thuốc uống, thuốc tiêm chữa các bệnh thông thường.
Cũng có một số gói bưu phẩm, gia đình của bọn lính viễn chinh gửi cho
chúng các loại thuốc quý. Lượm phải tính đến chuyện lấy cắp thuốc
mang về chữa bệnh cho các bạn. Đó là việc hết sức nguy hiểm, bọn Tây
có thể phát hiện, lão Tụng có thể tố giác. Nhưng nếu không có thuốc,
nhiều đứa bệnh nặng có thể chết. Lượm đành phải liều mạng. Mối lo sợ
nhất của nó không phải là bị chúng đánh đập, mà chúng sẽ đuổi không
cho đi làm. Và như vậy kế hoạch vượt tù sẽ tiêu ma. Lượm chỉ còn biết
trông cậy vào sự thận trọng khôn khéo của mình và sự may rủi của số
phận. Việc lấy cắp không đến nỗi khó lắm, nhưng mang thuốc về lao
mới thật đáng sợ. Tụi Tây có thể bất thần soát đồ đạc. Lượm tính đến
chuyện làm những cái vỏ đồ hộp đựng nước, đựng thức ăn, có hai đáy,
như cách của những chiến sĩ liên lạc, tình báo hoạt động ở nội thành
dùng để chuyển tài liệu, súng đạn. Nó làm thử nhưng không thành
công. Muốn làm được những cái thùng như vậy mà che được mắt giặc,
mắt lão Tụng, thì phải là thợ gò hàn chính hiệu. Nó đào óc nghĩ cách,
cuối cùng nó quyết định giấu vào bên trong mũ rồi đội lên đầu. Thời
gian ngắn ngủi hoạt động tình báo ở Huế vừa qua, Lượm cũng đã có
chút ít kinh nghiệm. Nhiều lúc cách cất giấu tưởng như lộ liễu, sơ hở,
lại bảo đảm an toàn. Nó nhặt được cái mũ phớt cũ nát trong đống rác,
đem giặt sach, dùng một mảnh vải bạt khâu thành cái bo mũ, cốt để riết
chặt vành mũ cho thật vừa sát với đầu.
Những lúc xe bất thần xóc mạnh, tim nó giật thót vì lo cái mũ có thể
văng khỏi đầu.
Bằng cách đó nó đã lấy cắp mang về lao đủ các loại thuốc: cảm sốt,
ỉa chảy, thuốc mỡ bôi mụn nhọt, viên xuyn-pha-mít, 2 lọ treptômixin,
hai tuýp thuốc ngủ gác-đi-nan và mấy tuýp keo dán gỗ mà lúc lấy vội
nó cứ tưởng là thuốc mỡ. Nhờ có số thuốc lấy cắp này Lượm đã chữa
cho mấy đứa trong đội lành bệnh; trong số này có hai đứa mắc bệnh
cảm sốt rất nặng, và một đứa vết lở ở chân đã nhiễm trùng có dòi…
Số thuốc chưa dùng đến, Lượm giao cho thằng Thúi cất giữ.
9.
Một buổi chiều, Lượm đi làm về vừa bước qua khỏi cổng lao thì
Thúi, Ngạnh, Lanh và các bạn đã xúm lại hồi hộp, mừng rỡ báo tin:
- Thằng Lép-sẹo sắp chết!
Lượm ngạc nhiên:
- Sắp chết à? Có chuyện chi rứa?
- Hắn bị đau kiết ỉa chảy mới hai hôm ni thôi.
- Hắn đi ỉa ra cả mũi, cả máu! - Ngạnh kể lại giọng hả hê - Đáng đời
hắn! Hắn đang nằm bẹp trong ba-ti-măng hai. Trưa nay tụi lính ngục
định lôi hắn vứt lên xe bò chở đến nhà thương nhưng không có tù
người lớn đẩy xe nên còn để lại đó. Chắc sáng mai họ mang đi thôi.
Lượm trao lon nước cho thằng Lanh, nói:
- Mi chia cho anh em. Để tau vô coi hắn đau như răng.
Lanh, Thúi, Ngạnh và các bạn đều nghĩ chắc anh Lượm sẽ vô đập
chết Lép-sẹo để trả thù hai cái răng gẫy dạo nọ. Hắn đang đau, nằm bẹp
như hòn bùn, đập chết dễ ợt.
Cả đội đều mong Lượm đập chết Lép-sẹo mới hả vì chẳng sót đứa
nào trước đây không bị hắn đánh đập, hành hạ. Mà đập chết ngay lúc
này là hay nhất, vì tù người lớn đi làm cỏ-vê các sở chưa về.
Chúng chưa chia nhau nước vội mà xách luôn lon nước đi theo
Lượm vào ba-ti-măng hai. Chúng trù tính hễ anh Lượm xong tới đập
chết Lép-sẹo là chúng nhào vô đập theo tụi đàn em của hắn sướng tay
thì thôi! Lép-sẹo chết, tụi đàn em hắn khác chi rắn mất đầu. Sức mấy
chúng dám đập lại.
Trước thềm ba-ti-măng hai, mấy đứa trong băng Lép-sẹo đang ngồi
cởi áo bắt rận. Thấy cả đội Lượm rùng rùng kéo đến, chúng ôm áo bỏ
chạy tán loạn, vừa chạy vừa la:
- Uơ bay! Uơ bay! Tụi hắn vô đập chết tụi mình đó uơ bay!
Bọn đang ở trong ba-ti-măng nghe tụi ở ngoài la gọi như cháy lao,
hoảng sợ, cuống quýt, nhào ra phía cửa. Ra đến cửa, chúng vấp phải
bọn Lượm đang kéo vào. Chúng nhào trở lại, đứng nép sát vào tường,
run rẩy. Trong ba-ti-măng còn có mấy người tù bệnh và mấy ông già.
Họ cũng quơ vội áo quần, lon nước, lon cơm… chạy cách xa chỗ Lép-
sẹo đang nằm. Họ đoán cái băng thằng "răng sứt" lợi dụng tình thế
thằng đầu đảng "léo đầu" đau sắp chết, kéo vô để thanh toán hắn. Chắc
cả hai băng sẽ đánh nhau to, tránh xa tụi con ranh con lộn ni là hơn cả.
Lượm đi thẳng vô ba-ti-măng, chẳng thèm đưa mắt ngó mấy đứa
trong băng Lép-sẹo đang run rẩy đứng nép xó tường. Một hai thằng
gan góc trong bọn nắm chặt cán dao thủ thế.
Đúng là Lép-sẹo đang nằm bẹp dí trên nền xi- măng, cũng chiếc
quần đùi hai ống vẫn thường vo tròn đến bẹn một cách ngang tàng, lúc
này lầy nhầy một đống phân mũi lẫn với máu, bốc mùi tanh tưởi đến
lộn mửa. Hắn không còn đủ sức đứng dậy mà nằm ỉa luôn ra quần. Mới
đau có hai ngày mà thân hình của hắn sọp hẳn đi, hai má hóp lại, cặp
môi tái nhợt, các đầu ngón tay, ngón chân thịt móp, răn rúm như ngâm
nước quá lâu.
Lượm đứng sững cách Lép-sẹo vài bước, cau trán nhìn hắn. Lép-
sẹo cũng vừa mở bừng mắt, nhìn ngược lên Lượm. Mặc dầu đã quá
yếu, nhưng một tay hắn vẫn cử động khá nhanh, chụp cán con dao găm
giấu dưới lưng. Mặt hắn liền gân lên, môi nhếch ra định cười gằn,
nhưng vì kiệt sức nên không thành tiếng.
Cả con người tên anh chị vị thành niên này, từ nét mặt, ánh nhìn,
cái miệng méo xệch cố nhếch ra một tiếng cười gằn không thành tiếng,
bàn tay run run nắm chặt cán dao găm, đến cả quả tim xuyên ngang
con dao găm xăm trên lồng ngực phanh trần… đều toát lên vẻ liều lĩnh,
gan góc, bất cần đời, sẵn sàng đánh trả dù tuyệt vọng. Lượm và Lép-
sẹo cứ nhìn nhau như thế có đến một phút. Cặp mắt gà chọi của Lép-
sẹo như muốn nói với địch thủ: "Mi cứ việc giết tau đi! Tau không sợ
mô. Đằng nào tau cũng chết!"
Thằng Thúi đứng nép sau lưng Lượm, cũng chăm chăm nhìn Lép-
sẹo. Không hiểu sao người nó run lên. Nó nắm khuỷu tay Lượm, lay lay,
nói thì thào như bị hụt hơi:
- Anh, anh! Hắn đau nặng lắm. Anh đừng đập hắn nữa… Nhớp tay…
Tự nhiên Lượm nổi cáu, quay lại gắt:
- Mi nói chi mà ngu rứa? Cái ve thuốc bột có nắp nhôm tau giao mi
cất bữa tê, mô rồi?
- Đây, tui cất đây - Thúi đưa tay sờ lên ngực áo.
Thúi mặc cái áo nhìn rất tức cười. Cái áo trước đây của nó rách tan,
chỉ còn lại mấy miếng giẻ treo lủng lẳng quanh cái cổ áo. Nó lấy dây
buộc túm mảnh nọ với mảnh kia, nhưng chỉ được vài bữa lại bung ra.
Kể ra nó có thể vứt quách và cởi trần như mấy đứa khác. Hiềm một nỗi
nó còn ít tiền bán kẹo, và những thứ thuốc Lượm lấy cắp về giao cho
nó giữ, không có áo biết cất giấu vào đâu. Lượm thấy vậy liền mang về
cho nó cái bao đựng thư bằng vải bạt bị chuột cắn thủng, nhưng còn
mới. "Mi mượn kim chỉ của mấy cụ, may tạm cái áo mà mặc". Thằng
Thúi sướng rơn. Và nó biến cái bao tải thành cái áo thật đơn giản mà
lại lợi đủ đường. Đáy bao, nó khoét một cái lỗ tròn chính giữa để chui
đầu, hai bên nó khoét một cái lỗ nhỏ hơn để xỏ tay. Cái bao khá dài,
nếu để nguyên thì phải trùm đến kheo chân. Nó cắt ngắn, chỉ phủ quá
mông đít. Mảnh bao thừa, nó cắt ra, mượn kim chỉ may thành một dãy
túi phía bên trong, tha hồ đựng các thứ cần cất giấu. Cái áo bao tải của
nó công dụng không thua mấy cái tủ đựng đồ.
- Đưa chai thuốc đó cho tau - Lượm sai Ngạnh lấy cái ống bơ rửa
sạch và múc một lưng bơ nước trong.
Nhìn thấy những đầu ngón tay ngón chân Lép-sẹo bị móp như
ngâm nước quá lâu, và đống phân lầy nhầy mũi máu dưới đũng quần
hắn, Lượm nhớ ngay đến một anh ở đại đội liên pháo xạ thủ súng mười
hai ly bảy, hồi còn ở mặt trận Huế. Anh này cũng bị bệnh đi ỉa chảy ra
cả mũi máu như hắn. Anh y sĩ ở trạm quân y mặt trận khu C xuống
khám và gọi tên bệnh là "lỵ trực trùng cấp tính". Bệnh này nếu không
có thuốc chữa và chữa không kịp thời, chỉ vài ba hôm là chết. Anh y sĩ
viết tên thuốc vào một mảnh giấy, sai Lượm lấy ngựa phi lên trạm
quân y trung đoàn lĩnh thuốc về. Lượm đọc tên thuốc "Tờréptômixin".
Nó lĩnh hai chai thuốc có nắp nhôm, bên trong đựng chừng một phần
ba lọ bột trắng. Anh y sĩ cạy lớp nắp nhôm, rồi mở nút cao su dốc bột
thuốc cả hai ve vào ca nước, hoà tan, cạy răng đổ cho người bệnh uống.
Anh xạ thủ súng mười hai ly bảy đến chiều cầm đi ỉa và ba hôm sau thì
khỏi bệnh.
Cách đây mấy hôm, trong lúc quét dọn ở sở Pốt, Lượm thấy một gói
bưu phẩm bị chuột cắn thủng nhiều lỗ. Nhìn qua lỗ thủng, nó thấy mấy
chai thuốc có nắp nhôm giống hệt hai chai thuốc đã lĩnh ở trạm quân y
trung đoàn dạo trước. Nó nhìn trước nhìn sau, rồi thò hai ngón tay qua
lỗ thủng, cắp luôn một lọ. Nhìn nhãn hiệu, đúng là lọ Treptômyxin. Nó
giấu chai thuốc vào mũ mang về đưa cho thằng Thúi và dặn: "Thuốc ni
quý lắm, mi giữ cẩn thận kẻo bể".
Thúi sợ ve thuốc vỡ, lấy giẻ bọc lại, buộc chặt và cất vào cái túi
trước ngực. Suốt mấy ngày vừa rồi, cứ thỉnh thoảng nó lại sờ lên ngực
coi ve thuốc còn nằm nguyên đó không.
Thúi móc túi lấy ve thuốc, mở dây buộc, tháo giẻ cuộn, đưa cho
Lượm. Lượm lùa tay vào lưng quần thằng Ngạnh, rút cái đinh hai mươi
phân, mũi được mài sáng giới. Ngạnh bạc mặt, lắp bắp hỏi:
- Anh đâm à?
Lượm bật cười:
- Đâm ai? Đâm mi à?
Lượm dùng cái đầu đinh nhọn cạy nắp nhôm ve thuốc, rồi trả cái
đinh cho Ngạnh nói giỡn:
- Mi mài nhọn đã gớm! Đúng là mũi đinh chiến đấu phục thù của du
kích.
Lượm mở nút cao su, rót nước trong lon cho đầy ve, đậy nút cao su
lại xóc xóc. Bột thuốc hoà tan thành màu trắng sữa.
Lép-sẹo nằm im, mắt không chớp theo dõi từng cử động của địch
thủ, nét mặt căng thẳng, hồi hộp. Nó biết rằng mình hoàn toàn thất thế.
Và nó chắc sắp phải lao vào một trận đấu, mà phần chết đã cầm sẵn
trong tay.
Cái vẻ hung dữ, điên khùng của Lượm lúc túm tóc nó dộng đầu côm
cốp xuống nền xi măng vẫn còn nhức nhối trong trí nhớ hắn như một
vết bỏng không sao lành được. Đến khi thấy Lượm cầm ve thuốc đổ
đầy nước xóc xóc, cặp môi tái nhợt như môi người chết của Lép-sẹo
bỗng run run như sắp oà khóc. Nó vụt hiểu: thằng Vệ Quốc Đoàn nhỏ ni
không định giết mình mà muốn cứu mình. Không biết đó là thuốc gì,
nhưng Lép-sẹo đoán là loại thuốc rất quý có thể chữa cho mình lành
bệnh chết. Lép-sẹo vẫn biết Lượm đi làm cỏ-vê ở một sở Tây có rất
nhiều thứ thuốc. Và vẫn thường lấy cắp mang về chữa bệnh cho tụi ở
đội nó. Cái ve thuỷ tinh trong suốt đựng thứ bột trắng muốt, có nhãn
hiệu rất đẹp dán ở ngoài, rồi hai lớp nắp nhôm, nút cao su đậy kín đã
gây một ấn tượng thật mạnh trong óc Lép-sẹo về giá trị quý báu của
loại thuốc.
Lượm bước đến gần Lép-sẹo, cúi xuống đưa ve thuốc ra trước mặt
nó, nói với giọng cộc cằn:
- Bỏ tay dao ra! Vệ Quốc Đoàn chúng tau đối với cả tụi Tây, tụi Vê-
giê, lúc thất thế, chúng tau cũng không thèm giết nữa là tụi bay. Bệnh
mi là bệnh chết đó. Mi uống hết ve thuốc ni, may ra lành bệnh.
Lép-sẹo bỏ tay nắm cán dao, cầm lấy ve thuốc. Nó há to miệng, dốc
cạn ve thuốc, nuốt ực. Lượm đổ thêm nước vào ve tráng thêm lần nữa,
đưa cho Lép-sẹo uống tiếp. Lượm nói, không nhìn mặt Lép-sẹo:
- Mi giữ cái ve thuốc không nớ mà làm kỷ niệm.
Lượm quay lại nói với tụi đàn em Lép-sẹo lúc này đang đứng túm
tụm gần cánh cửa sắt, thập thò, lấm lét nhìn vô:
- Tụi bay là đồ không ra chi! Để cho "đại ca" tụi bay nằm trên đống
cứt với máu rứa mà chẳng thèm ngó ngàng đến! Còn đứng trương mắt
ếch ra nhìn cái chi? Đi vô dọn cứt với thay quần áo cho "đại ca" tụi bay
đi chứ?
10.
Trưa hôm sau, hai tên lính ngục xách súng dẫn ba người tù đi vào
ba-ti-măng hai khiêng Lép-sẹo ra xe ba gác. Nếu Lép-sẹo chết thì xe đi
chôn, nếu chưa chết, xe thẳng đến nhà thương, khu dành riêng cho tù
nhân.
Chúng rất ngạc nhiên thấy Lép-sẹo miệng ngậm lệch điếu thuốc lá
quấn bằng giấy báo, đang nhúc nhắc đi lại trong ba-ti-măng. Mặt hắn
tuy còn hốc hác, xanh xao, chân bước còn run rẩy, nhưng rõ ràng hắn
đã lành bệnh. Một tên lính trợn mắt hỏi?
- Cố nội thằng ăn cướp! Mi chưa chết à?
- Dạ, chỉ thèm thuốc thôi. Bác mô có thuốc Cẩm Lệ ngon cho cháu
xin điếu hút chơi. - Lép-sẹo trả lời giọng lễ phép nhưng xấc xược.
- Cố nội mi! Nói năng cho tử tế chứ không thì ăn báng súng đó?
Hai tên lính dẫn ba người tù đi ra. Mặt chúng hằm hằm. Chúng có vẻ
tức tối vì thằng du côn không chết.
Phải công nhận rằng Lép-sẹo mau chóng hồi phục sức khỏe. Chỉ ba
hôm sau hắn đã gần như lành hẳn bệnh.
Có một điều bọn đàn em Lép-sẹo đều nhận thấy là sau trận ốm dậy,
tâm tính của "đại ca" chúng bỗng nhiên thay đổi, rất khó hiểu. Tưởng
chừng như những tính nết quen thuộc của "đại ca" trước đây trong mất
ngày vừa qua, đã theo thứ nước phân màu nhờ nhờ như nước rửa thịt,
trút hết ra ngoài.
Chúng đều nhận thấy "đại ca" Lép-sẹo đối xử với chúng ngày một
lạt lẽo, có phần như muốn tránh xa chúng. Điều làm chúng buồn nhất là
"đại ca" không còn bày đặt và chỉ huy chúng những trò gây gổ, quấy
đảo nhà lao như trước. Cái dáng bộ ngang tàng, ngạo ngược, mà chúng
rất hãnh diện về người thủ lĩnh của chúng bỗng biến mất. Cái miệng
rộng ngoác của "đại ca" không còn thấy cười cợt, nói bông lơn với
chúng mà thường mím chặt lại, nhìn thật dữ. Mặt thì quạu cọ mà lơ
đãng, ngồi với bọn chúng mà mải nghĩ đâu đâu.
Riêng cung cách của "đại ca" đối với tụi băng thằng Lượm-sứt, cũng
thay đổi. Trước đây "đại ca" luôn luôn tìm cách xáp mặt tụi hắn để
chòng ghẹo gây sự và sẵn sàng đập lộn. Nhưng bây giờ như có ý né
tránh chúng. "Tại răng rứa hè?". Bọn đàn em Lép-sẹo bắt đầu xì xầm
bàn tán, hỏi nhau. Chúng thường nhìn trộm "đại ca" dò hỏi, xét đoán,
nhưng không sao hiểu nổi. Còn Lép-sẹo lại như cố tình làm ngơ trước
tiếng xì xào nghi hoặc của bọn đàn em. Có đứa tức mình, dám hỏi thẳng
Lép-sẹo: "Răng đại ca lại đâm ra như rứa?" Lép-sẹo không trả lời. Nó
móc trong túi áo pac- ti- dăng, lấy ra cái ve không thuốc
"Tờréptômixin", để miệng ve kề môi, và thổi lên một tiếng còi chói tai.
Nói chung những kẻ sống cuộc sống mạo hiểm, phi pháp, bấp bênh,
rất sợ phải đơn độc. Được cố kết lại thành băng, thành nhóm, dưới
quyền điều hành của một thủ lĩnh mà họ thần phục, đó là tất cả chỗ
dựa tinh thần của họ.
Lép-sẹo là linh hồn, là sức mạnh chủ yếu, đã tập hợp gắn bó cái
đám trẻ con cù bơ cù bất sống bằng nghề trộm cắp, móc túi, bị vô tù
này lại thằng băng. Sự thay đổi bất ngờ trong tính cách đã làm nên sức
mạnh của Lép-sẹo, làm cho băng có nguy cơ tan rã. Bởi vậy, bọn đàn
em hắn rất hoang mang, lo sợ. Chúng tìm đủ mọi cách để lấy lòng chiều
chuộng "đại ca", hy vọng "đại ca" tính nết trở lại như xưa…
Cái thằng có cục thịt thừa ở đuôi mắt trái là đứa ranh mãnh, táo
tợn, liều lĩnh nhất trong băng. Nó có biệt hiệu là Chồn-hôi. Chồn-hôi là
tay bắt trộm gà khét tiếng cả vùng Đông Ba, Gia Hội. Những hôm trời
mưa, Chồn-hôi đội nón, mang cái tơi lá rộng, dài chấm gót, bên mình
đeo cái bị, đi roỏn các ngả đường. Gà trống, gà mái, gà mẹ, gà con, gặp
phải chồn, cáo còn hòng thoát chứ gặp phải Chồn-hôi là coi như đã vô
nằm trong bị.
Dụng cụ bắt gà của Chồn-hôi là một hòn chì bằng ngón chân cái,
vốn là hòn dây dọi, buộc vào đầu một sợi dây gai xe dài chừng ba mét.
Đầu dây kia buộc vào cổ tay nó. Sợi dây được quấn quanh hòn chì, và
nó nằm gọn trong lòng bàn tay. Gặp gà, nó chỉ hơi cúi người xuống
nhắm chân gà, vung tay tung hòn chì ra. Sợi dây chạm chân gà, sức
nặng của hòn chì xoáy tròn thít chặt chân gà lại. Những con gà to, bới
ăn ở gần nhà, Chồn-hôi nhắm vào giữa cổ, tung hòn chì thít cổ không
cho kêu. Mười con nó bắt không trật một. Tài nghệ bắt gà của Chồn-hôi
rất giống tài nghệ tung giây thòng lọng bắt bò, ngựa của những tay đạo
tặc Nam Mỹ.
Một bữa, Chồn-hôi cười nịnh hỏi Lép-sẹo:
- Đại ca có ưng thời thịt gà béo không?
- Mi làm như đang ở ngoài Đông Ba, Gia Hội không bằng!
- Đông Ba, Gia Hội thì nói làm chi! ở ngay giữa lao Thừa Phủ ni mà
thời thịt gà mạ mỡ lút mề mới khoái tỉ chớ đại ca!
- Cố nội mi! Đừng chọc thèm tao nữa!
- Thì đại ca cứ nói "Mệ ưng thời" cho thằng em Chồn-hôi coi mồ! -
Chồn-hôi vuốt cục thịt thừa ở đuôi mắt cười khẹc khẹc vì thấy mặt đại
ca Lép-sẹo đã tươi lên.
- Ừ, thì mệ ưng đó! Nhưng khi mô thì mệ được thời rứa? - Lép-sẹo
giả giọng các mệ trả lời, và như vậy chứng tỏ trong bụng "đại ca" đã vui
lên.
- Ngay tắp lự đại ca ơi! Đại ca có muốn ngó qua cái mặt con gà mạ
trước khi thằng em hạ sát dâng lên đại ca thời không?
- Mệ ưng cái bụng đó!
Chồn-hôi dắt Lép-sẹo ra vạt cỏ rậm gần sát lớp tường trong, phía
sau dãy ca-sô âm phủ. Nó ngó ngược ngó xuôi xem có tụi lính ngục đi
roỏn trên nóc tường không.
Nó kéo tay Lép-sẹo ngồi thụp xuống, rồi nhẹ nhàng nâng một tảng
cỏ úa kéo lên. Một cái hố khá sâu hiện ra. Dưới đáy nố một con gà mái
hoa mơ nặng ước đến hai kilô, bị trói chặt cả chân, cả cánh, cả mỏ. Con
gà run rẩy giương cặp mắt tròn đen nhìn hai đứa. Chồn-hôi đậy nhanh
miệng hố lại với tảng cỏ úa héo, ngó Lép-sẹo, cười khẹc khẹc đắc chí.
Nó cũng bắt chước giọng các mệ hỏi:
- Mệ đã ưng cái bụng chưa?
- Chớ mi bớp được của ai rứa? - Lép-sẹo nuốt nước miếng hỏi. Nó
nghĩ bụng chắc Chồn-hôi lấy cắp được của một anh tù nào đó được
người nhà tiếp tế.
- Khẹc khẹc khẹc!… Sáng ni thằng em ra đứng xớ rớ gần chỗ cửa
sắt, thì ngó thấy mụ gà mạ hoa mơ nớ từ phía sân ngoài đi qua cửa sắt
đi vô. Mụ định vô mổ mất hột cơm đổ hố nước. Mụ vô phước quá lại
gặp phải đúng đại bợm Chồn-hôi! Rứa là thằng em rút ngay đồ nghề ra.
- Chồn-hôi lôi hòn chì có quấn dây gai xe trong cạp quần chìa ra trước
mặt Lép-sẹo. - Đồ nghề bất ly thân mà đại ca! Khẹc khẹc khẹc!… Thằng
em đứng cách mụ mái mơ ba bước, vung nhẹ tay nghề, rứa là hai chân
mụ ta đã bị trói chặt khừ!
- Cố tổ mi! Con gà nớ là của con vợ thằng Một Điếu đó. Hồi mi chưa
vô đây, có một tay tù ham ăn, dám chộp đại một con gà trống choai
bằng nắm cổ tay lọt vô lao, đã bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè, rồi
hắn cho lính vứt lên xe bò chở đến nhà thương. Khôn hồn thì mi thả ra
ngay!
Một Điếu có mụ vợ me Tây to béo như con trâu chương. Mụ ta nuôi
một đàn gà có đến vài chục con. Sau cái vụ anh tù bắt trộm gà bị mụ xui
Một Điếu bắn nát xương bánh chè, cả nhà lao đều khiếp đảm, xớn rỡn.
Sau đó mỗi lần ngó thấy gà của mụ lọt vào lao là họ vội vàng xua ra.
"Không phải gà mô, quỷ sứ hiện hình đó!" Họ bảo nhau như vậy.
Bởi vậy, Lép-sẹo thấy Chồn-hôi bắt trộm con gà mái nặng trên hai
ký, hỏi không sợ làm sao được! Nhưng Chồn-hôi vẫn cười khẹc khẹc,
nói:
- Chắc thằng cha đó là loại trộm gà hạng bét, bắt gà mà để cho gà
kêu mới phải ăn đạn. Chứ loại bắt gà tài danh như thằng em Chồn-hôi
ni thì sợ chi, đại ca!
- Nhưng đến lúc cái mụ me Tây nớ thấy thiếu gà mới chết cố tổ mi!
- Làm răng mụ ta biết ai bắt trộm? Vô lẽ mụ xui Một Điếu bắt nát
xương bánh chè tất cả tù trong nhà ni à? Miễn là anh em ta giữ mồm
thật kín là được đại ca à.
Trước lý lẽ cứng cỏi của Chồn-hôi, Lép-sẹo xem chừng cũng xuôi
xuôi. Hắn ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Thôi được. Tao không ăn mô, nhưng tao cần con gà nớ có việc. Mi
cứ mần thịt cho tao.
- Đại ca ưng nướng hay ưng luộc?
- Tùy mi. Nhưng làm răng khi chín rồi, gà vẫn còn nguyên cả con. Mi
có ăn thì ăn bộ lòng thôi nghe.