The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by mydung8506, 2022-04-06 09:13:22

SỬ 3

SỬ 3

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ

Và những chiến thắng
mang tính bước ngoặt

N
X
B
T
R

G
R
O
U
P
6

k
hi



Cuộc kháng chiến
chống Mĩ

Và những chiến thắng mang tính bước ngoặt

NXB TRẺ GROUP 6

I. LỜI MỞ ĐẦU

Xuyên suốt gần tám thập kỉ trong lịch sử nước nhà , đồng bào

ta đã cùng nhau đi qua một chặng đường khó khăn, chông gai
và tận cùng gian khổ . Vượt mọi trùng khơi , băng qua bao núi
bom và biển súng , dân tộc Việt vẫn luôn chiến đấu hết mình
với niềm khát khao rực cháy cho một lý tưởng cao quý mang
tên “ hòa bình “.Song , như một quy luật tất yếu và bất di bất
dịch , tất cả những điều tốt đẹp nhất chỉ có được khi ta chịu trả
giá cho những nỗi đau vĩ đại. Từng tấc đất , từng dòng sông ,
từng con đường bằng phẳng mà ta tiếp bước như ngày hôm nay
chính là khối tải sản vô giá mà thế hệ trẻ đã được kế thừa từ ông
cha mình. Điều đó có được là nhờ những máu xương , mồ hôi
và nước mắt của biết bao con người sẵn sàng đánh đổi mạng
sống của mình cho sự nghiệp lớn lao của tổ quốc. Đứng trước
cương vị là người con Việt Nam nói chung , cũng như một phần
của chồi non tương lai đất nước nói riêng , nhà xuất bản tin rằng
niềm vinh hạnh lớn lao nhất của chúng tôi và các bạn chính là
được sống trong sự tự do và vinh quang của dân tộc. Vì lẽ đó ,
trách nhiệm mà ta cần gánh vác trên vai chính là sống làm sao
cho xứng , cho khỏi phí hoài từng khoảnh khắc , cho không hổ
thẹn với vinh quang ấy.

“Lịch sử chỉ được phép gác lại , chứ không được phép quên”

Mỗi khi nói về chiến thắng, ta vẫn chỉ biết nói với nhau về
những lời lẽ mọi người từng nghe mấy chục năm trước. Phần vì
lời lẽ ấy gợi cho ta cái gì đó rất sinh động, cái gì đó rất riêng
của dân tộc , như những mảnh kí ức tế bào tồn tại để hướng con
người ta về cội nguồn. Phần nữa vì ta chưa nhận thức được tầm
quan trọng của lịch sử , về sự có mặt của quá khứ trong hiện tại.
Vì những lý do trên , cuốn sách này có mặt như lời nhắc nhở tất
cả chúng ta về với những năm tháng hào hùng , để không bao
giờ ta quên đi những giá trị thật chân thực của quá khứ - gốc rễ
của hiện tại.

Trong ấn bản lần này của NXB trẻ “ Group 6”, bạn đọc sẽ nhận
được một vé du hành về thời kháng chiến chống Mĩ (1954-1975) ,
khi đất nước ta còn đang cùng nhau sống trong thời kì mà theo
như liệt sĩ Đặng Thùy Trâm từng nhận định :
“ Việt Nam này hoa chiến công , hoa anh hùng vẫn đua nhau
nở nhưng hoa ấy bằng máu xương , bằng cả cuộc đời thanh
xuân của bao nhiêu người”.
Nếu cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong lại tìm ra
được những thiết tha cao đẹp và cả những giá trị của những gian
lao ta đã , đang và sẽ trải qua trong tương lai của mình thì tức là
sự hi sinh của những người ngã xuống đã có thêm một ý nghĩa
chân chính.

Thân gửi bạn , tập thể Group 6.

NXB
GROUP 6

MỤC
LỤC

Lời mở đầu………………………………………………
Phong trào Đồng Khởi (1959-1960)…………………….
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)
.………………………………………………….............
Hiệp định Paris (1973)………………………………….
Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975)………………………...
Phần đọc thêm…………………………………………...

II. NỘI DUNG

“một thế hệ ngoảnh mặt với lịch sử là
một thế hệ không có quá khứ và cũng

không có tương lai”
ROBERT.A.HEINLEIN

I. PHONG TRÀO
ĐỒNG KHỞI

7

1954-1975

I. HOÀN CẢNH:

Từ 1957-59, Ngô Đình Diệm ban hành chính sách
“tố cộng, diệt cộng”, tăng cường khủng bố phong trào
đấu tranh của quần chúng với luật 10/59, đặt cộng sản
ngoài vòng pháp luật, lê máy chém khắp miền Nam
làm lực lượng cách mạng tổn thất nặng nề, làm cho mâu
thuẫn giữa mọi tầng lớp nhân dân miền Nam với đế quốc
Mĩ và chính quyền Sài Gòn ngày càng sâu sắc và tất
yếu dẫn đến phong trào đấu tranh quần chúng. Chính vì
thế cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đòi hỏi
có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt
qua khó khăn thử thách.

Vào thời điểm này, chế độ XHCN ở miền Bắc được
củng cố, vì vậy đóng góp to lớn về vật chất và tinh thần
cho cách mạng miền Nam.

Tháng 1/1959, Hội nghị trung ương đảng lần 15
✓ Quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực
cách mạng đánh đổ chính quyền Mĩ- Diệm. Hội nghị
nhấn mạnh: ngoài con đường dùng bạo lực cách mạng,
nhân dân miền Nam không có con đường nào khác. Và đây
cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến “Đồng Khởi”.
✓ Phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là: Khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là
chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang.

Ý nghĩa: Nghị quyết 15 của Đảng đã đáp ứng kịp thời nguyện
vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cách mạng, trở thành kim
chỉ nam soi sáng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta.

8

PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI

II. Diễn biến:

Phong trào diễn ra từ chỗ lẻ tẻ ở từng địa phương như cuộc
nổi dậy ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bắc Ái (Ninh Thuận) tháng 2/1959,
Trà Bồng (Quảng Ngãi) tháng 8/1959,... đã lan ra khắp miền Nam thành
cao trào cách mạng, tiêu biểu là ở Bến Tre.

17/1/1960, “Đồng khởi” nổ ra ở ba xã điểm là Định Thủy,
Bình Khánh và Phước Hiệp thuộc huyện Mỏ Cày, rồi sau đó nhanh chóng
lan ra toàn tỉnh Bến Tre (huyện Giồng Trôm, Thạnh Phú, Ba Tri, Châu
Thành, Bình Định), phá vỡ từng mảng lớn chính quyền của địch. Hàng vạn
nhân dân xuống đường, vũ trang giáo mác, nổi trống mõ, truy quét các tổ
chức kìm kẹp địch. Quần chúng nhân dân ta diệt đồn, giải tán các trụ sở
hội đồng xã, các tổ chức tay sai của địch.

Phong trào “Đồng khởi” nhanh chóng lan ra khắp các tỉnh
Nam Bộ như Tây Ninh, Mĩ Tho, Trà Vinh,..., Tây nguyên và một số nơi ở
Trung Bộ.

20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam thành lập.

III. Kết quả:

Chỉ trong tuần lễ đầu “Đồng khởi”, nhân dân 47 xã đã đồng
loạt nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng 150 ấp, bức rút
47 dồn bốt, diệt hơn 300 tên.

Các thôn xã được giải phóng mở đại hội nhân dân, lập tòa án
trừng trị những tên nợ máu, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân
cày nghèo, thanh niên nô nức gia nhập lực lượng vũ trang

Phong trào lan ra các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên, Trung Bộ.
Tính đến cuối năm 1960, ta đã làm chủ 600/129 xã ở Nam Bộ, 904/3829
thôn ở vùng núi các tỉnh Trung Bộ, 3200/5721 thôn ở Tây Nguyên.

9

1954-1975

IV. Ý nghĩa:

Nhận xét:
✓ Phong trào “Đồng khởi” diễn ra trên một vùng rộng lớn, chủ yếu là ở

nông thôn, sử dụng lực lượng chính trị quần chúng là chủ yếu.
✓ “Đồng khởi” đã diễn ra khi lực lượng địch còn rất mạnh, hầu như

không có thời cơ khách quan thuận lợi nào cho chúng ta.
✓ Thực chất phong trào là những cuộc khởi nghĩa từng phần ở nông

thôn miền Nam chống chế độ chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ - Diệm.

10

Bạn có biết ?

VÌ SAO NÓI PHONG TRÀO “ĐỒNG KHỞI” LÀ MỐC
ĐÁNH DẤU BƯỚC PHÁT TRIỂN NHẢY VỌT CỦA
CÁCH MẠNG MIỀN NAM?

Vì “Đồng khởi” đã đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến công. Từ thế đấu tranh chính trị chủ yếu, ta tiến lên
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên chiến tranh cách mạng. Đập tan từng mảng chính quyền
địch ở nông thôn, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào
“Đồng khởi” đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân của Mĩ, làm
lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Nó chứng tỏ rằng
chiến lược “chiến tranh đơn phương” đang được Mĩ sử dụng để đàn áp
cách mạng Việt Nam đã hoàn toàn phá sản. Phong trào “Đồng khởi” đã
khẳng định sự độc lập tự chủ của Đảng trong việc vạch ra đường lối
cách mạng bạo lực là hết sức sáng suốt, kịp thời phù hợp với yêu cầu
lịch sử và nguyện vọng của quần chúng. Trong và sau “Đồng khởi”, lực
lượng cách mạng miền Nam trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng của
phong trào mở ra vùng giải phóng lớn, liên hoàn, dẫn đến sự thành lập
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20/12/1960 do
luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất
cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và nhân
dân yêu nước đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và đoàn
Ngô Đình Diệm.

11

PHONG TRÀO XÔ VIẾT – NGHỆ TĨNH
NGỌN LỬA THIÊNG

DẪN ĐẦU CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

Liên hệ với Xô Viết Nghệ Tĩnh:

Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh: đã làm cho hệ thống chính quyền thực
dân, phong kiến bị tê liệt ở nhiều thôn xã. Nhiều lí trưởng, chánh tổng
bỏ trốn.

Phong trào “Đông Khởi” năm 1960: quần chúng nổi dậy giải tán chính
quyền địch, thành lập Ủy ban nhân dân tự quản, thành lập lực lượng vũ
trang.
=> Điểm giống nhau cơ bản nhất trong kết quả của phong trào “Đồng
khởi” (1959-1960) và phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) là
đều giải tán chính quyền địch ở một số địa phương.

12

II. CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI
DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968

13

1954-1975

I. HOÀN CẢNH:

Sau thất bại của hai cuộc phản công mùa khô
1965 - 1966 và 1966 - 1967 đã đặt Mỹ Ngụy trước
những khó khăn vì đã sử dụng một lực lượng quân
lớn với vũ khí, trang thiết bị hiện đại song cuộc
chiến tranh vẫn không đạt mục tiêu. Bên cạnh đó
1968, bước vào năm bầu cử Tổng thống các phe
phái trong nội bộ nước Mỹ lục đục, chia rẽ.

Nhờ có sự phối hợp đấu tranh trên ba mặt
trận
quân sự - chính trị - ngoại giao đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho cách mạng tiếp tục tiến
lên giành những thắng lợi mới. Trên cơ sở nhận
định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho cách
mạng sau hai mùa khô, Trung ương đảng ta tại Hội
nghị Bộ chính trị (12-1967) và Hội nghị toàn thể
Ban chấp hành lần thứ 14 (tháng 1-1968) đi đến
quyết định lịch sử:

“Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kì mới -
thời kì giành thắng lợi quyết định”.
Nghị quyết còn chỉ rõ:
“Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn
nhất của toàn đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến
tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương
pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định.”

Chủ trương của ta về cuộc “tổng công kích - tổng khởi nghĩa”
được mở đầu bằng những trận đánh bất ngờ, lấy trọng tâm là các đô thị,
trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân, là lúc địch có nhiều sơ hở chủ quan nhất,
nhằm tiêu diệt một bộ phận quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạng vào
chính quyền và quân đội Sài Gòn. Với mục đích giành chính quyền về tay
nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về.

14

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN

II. DIỄN BIẾN:

Ngày 31/1/1968, quân Giải phóng bất ngờ mở cuộc tập kích
chiến lược vào hầu khắp các đô thị, thành phố toàn miền Nam, mở đầu
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Cuộc tổng tiến công được diễn ra qua 3 đợt: từ đêm 30-1 đến
ngày 25-2; 5-5 đến 15-6; 17-8 đến 30-9-1968 với quy mô rộng lớn.

+ Đợt 1: Quân dân ta đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37
tỉnh, 4 đô thị lớn, 64 quận lị, ở hầu hết các “ấp chiến lược”, các vùng
nông thôn. Đánh vào tất cả cơ quan đầu não của địch, như ở Sài Gòn:
Tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất…
Quân ta đã loại bỏ khỏi vòng chiến đấu 150 000 lính địch, phá hủy một
khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng.

+ Đợt 2 và đợt 3: Địch phản công mạnh, lực lượng còn đông
(hơn nửa triệu quân Mĩ và đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn) nên ta
gặp nhiều khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng chiếm giữ trong đợt 1 bị
đẩy khỏi thành phố.

Trong tất cả các thành phố ở miền Nam bị các lực lượng vũ
trang tiến công và quần chúng nổi dậy, thì ở hai thành phố lớn là Sài Gòn
và Huế, cuộc tổng tiến công và nổi dậy được diễn ra mạnh mẽ nhất.

Hạn chế lớn nhất của quân ta là chủ quan trong việc đánh giá
cao lực lượng mình, đánh giá thấp lực lượng địch và do tư tưởng nóng
vội muốn giành thắng lợi lớn, kết thúc nhanh chiến tranh; chỉ đạo lại
thiếu chủ động, không kịp thời điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố
sau đợt 1 về giữ vùng nông thôn của ta để bảo toàn và củng cố lực lượng.

15

1954-1975

III. Ý NGHĨA:

Dù có những hạn chế
và tổn thất trong quá trình,
cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân năm
1968 có ảnh hưởng vô cùng
to lớn đối với việc giành lại
độc lập, làm lung lay ý chí
xâm lược của Mĩ.
✓ Buộc Mĩ phải “Phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược, thừa bại thất bại của

“Chiến tranh cục bộ”.
✓ Chiến tranh phá hoại miền Bắc đã được chấm dứt không điều kiện.
✓ Mĩ chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt

Nam.
✓ Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng

chiến chống Mĩ, cứu nước.

16

III. HIỆP ĐỊNH PARIS NĂM
1973

17

1954-1975

I. Hoàn cảnh:

Do liên tiếp bị thất bại nặng nề về quân sự và để giành thắng lợi
trong cuộc tranh cử tổng thống vào đầu tháng 11-1972, Ních xơn dùng thủ
đoạn lùi bước trong thương lượng với ta ở Pari và xuống thang chiến tranh

phá hoại miền Bắc.

Để ép ta nhân nhượng, kí một hiệp định do Mĩ đưa ra, Ních xơn
âm mưu giành một thắng lợi quân sự quyết định. Cuộc tập kích máy bay
chiến lược B52 vào Hà Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm
1972 là nhằm mục đích đó. Nhưng quân dân hai miền Bắc-Nam giành được
nhiều thắng lợi trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao,... đặc biệt là
trận “Điện Biên Phủ trên không” (Chiến dịch Linebacker II). Thất bại của
Mĩ trên chiến trường đã quyết định thất bại của chúng trên bàn thương lượng.

Hiệp định Pari được kí tắt ngày 23-1-1973 giữa đại diện hai
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kì và kí chính thức ngày 27-
1-1973 giữa bốn Bộ trưởng đại diện cho các Chính phủ tham dự Hội nghị
(Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hoa Kì, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Việt
Nam cộng hòa). Hiệp định có hiệu lực từ ngày kí chính thức.

18

HIỆP ĐỊNH

Nội dung cơ bản:

✓ Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn
trọng độc lập, chủ quyền thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam.

✓ Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và

quân đồng minh, hủy bỏ các căn
cứ quân sự Mĩ, cam kết

không tiếp tục can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam. P

A✓ Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt

Nam và Đông Dương. R
✓ Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng I

tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.

✓ Hai bên ngừng bắn ở miền Nam lúc 24 giờ ngày 27-01-1973 và Hoa Kì

cam kết chấm dứt mọi hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam.

✓ Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai

quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

✓ Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Ý nghĩa lịch sử!

Đối với nước ta, khi thành công buộc Mĩ phải kí vào Hiệp định này
đồng nghĩa với việc nhân dân Việt Nam đã hoàn thành “đánh cho Mĩ
cút”. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân
dân ta trên cả hai miền đất nước. Nó mở ra bước ngoặt mới cho cách
mạng Việt Nam, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, rút quân về nước tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân
ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Còn ở trên thế giới, hành động này đã cổ vũ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới và góp phần làm sụp đổ chế độ thực dân kiểu mới.

19

So sánh với Hiệp
định Geneve?

Bản đồ Đông Dương
tháng 7/1954

Về hoàn cảnh kí kết: 20
- Giống nhau: đều được kí kết sau khi quân đội và
nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi
quyết định trên mặt trận quân sự, đập tan những cố
gắng cao nhất của quân xâm lược.
- Khác nhau:
✓ Hiệp định Giơnevơ 1954 được kí kết giữa
nhiều bên khác nhau, có sự chi phối của các
nước lớn.
✓ Hiệp định Pari được kí kết giữa bốn bên tham
gia đàm phán.

Về nội dung Hiệp định: 21
- Giống nhau:
✓ Đều công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nước
Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ.
✓ Đều quy định ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh lập lại
hòa bình, quân đội nước ngoài phải rút quân.
- Khác nhau:
✓ Về phạm vi: Hiệp định Giơnevơ là Hiệp định về Đông
Dương. Hiệp định Pari là Hiệp định về Việt Nam.
✓ Về vùng kiểm soát: Hiệp định Giơnevơ quy định các
bên tham chiến thực hiện tập kết, chuyển quân theo 2
khu vực Bắc và Nam vĩ tuyến 17. Hiệp định Pari quy
định quân đội các bên giữ nguyên vị trí.
✓ Thời hạn rút quân đội nước ngoài: Hiệp định Giơnevơ
quy định quân đội Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt
Nam trong 300 ngày. Hiệp định Pari quy định Hoa Kì
rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam trong 60 ngày.

Về ý nghĩa:
- Giống nhau:
✓ Đều phản ánh và ghi nhận những thắng lợi giành được
trên chiến trường.
✓ Đều đưa đến chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình,
đáp ứng nguyện vọng hòa bình của nhân dân thế giới.
✓ Đều tạo ra cơ sở pháp lý để nhân dân Việt Nam tiếp tục
đấu tranh giành thắng lợi cuối cùng.
- Khác nhau:
✓ Hiệp định Giơnevơ, phản ánh chưa đầy đủ thắng lợi
của cách mạng Việt Nam trên chiến trường. So sánh
lực lượng ở miền Nam thay đổi không có lợi cho cách
mạng.
✓ Hiệp định Pari phản ánh đúng thắng lợi của Việt Nam
trên chiến trường. Nhân dân Việt Nam đã căn bản hoàn
thành nhiệm vụ “đánh cho Mĩ cút”. So sánh lực lượng
ở miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng.

IV. CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ
MINH

22

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

I. HOÀN CẢNH:
1. Về phía địch:

Với thắng lợi của Hiệp Định Paris được ký kết năm 1973, đại bộ
phận quân Mỹ đã rút khỏi nước ta, nhưng với âm mưu bá chủ thế giới của
mình Mỹ vẫn giữa lại 2 vạn cố vấn quân sự và lập ra bộ chỉ huy quân sự, kinh
tế tiếp tay cho chính quyền Sài Gòn.

Được sự tiếp tế của Mỹ về quân sự và kinh tế, chính quyền Sài
Gòn ngang nhiên phá hoại nội dung hiệp định Pari, sử dụng nhiều hình thức,
nhiều hành động gây chiến tranh xâm lược.

2. Về phía ta:

Việc ký hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh với Mỹ đã tạo ra cho
nước ta thế chủ động, lợi thế hơn so với Mỹ cũng như chính quyền Sài Gòn,
tạo ra sự thay đổi căn bản về tương quan lực lượng giữa ta và địch.

Trong khi đó ở miền Bắc đã bước đầu xây dựng được cơ sở vật
chất cho XHCN, có tiềm lực kinh tế và chính trị vững mạnh để tiếp tế, cứu trợ
cho miền Nam.

Trước tình hình trên, ta mở chiến dịch trên Đường 14 phước Long.
Thắng lợi vang dội của ta trên Đường 14 Phước Long chứng tỏ lực lượng
của ta lúc bấy giờ hoàn toàn có thể đánh bại được quân đội Sài Gòn và tàn
quân Mỹ để lại. Sự chống cự yếu ớt của quân đội Sài Gòn và sự can thiệp hời
hợt của Mỹ càng cho thấy rõ hơn khả năng chiến thắng của ta.

3. Chủ trương của đảng:

Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh tương quan
lực lượng ở miền Nam có diễn biến thay đổi mau lẹ có lợi cho sự phát triển của
cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn
toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.

Tuy nhiên, nhận thấy hoàn cảnh có lợi cho ta Bộ Chính trị cũng nhấn
mạnh cả năm 1975 là thời cơ và nêu rõ nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975.
Cuộc giải phóng diễn ra phải ít đổ máu, gây ít thiệt hại cho nhân dân.

23

1954-1975

Tuy nhiên, nhận thấy hoàn cảnh có lợi cho ta Bộ Chính trị cũng
nhấn mạnh cả năm 1975 là thời cơ và nêu rõ nếu thời cơ đến vào đầu
hoặc cuối năm 1975 thì nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam
trong năm 1975. Cuộc giải phóng diễn ra phải ít đổ máu, gây ít thiệt hại cho

nhân dân.

Lực lượng tham chiến:
✓ Ta: Các quân đoàn bộ binh 1, 2, 3, 4, 232 (tổng cộng 15 sư đoàn); các

trung, lữ đoàn bộ binh; 4 trung, lữ đoàn tăng - thiết giáp; 6 trung đoàn
đặc công và các đơn vị hỏa lực, kỹ thuật khác. Tổng cộng: 240.000
quân, 400 xe tăng, thiết giáp, 420 pháo…
✓ Địch: 5 sư đoàn bộ binh: 22, 25, 5, 18 và sư đoàn thủy quân lục
chiến; 2 lữ đoàn dù, 1, 4; lữ 3 kỵ binh thiết giáp; 4 liên đoàn biệt
động quân, bảo an và các đơn vị khác. Tổng công: 240.000 quân, 625
tăng, thiết giáp, 400 pháo…

II. Diễn Biến:

Sau thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà
Nẵng, Bộ Trung ương Đảng quyết định mở một cuộc chiến dịch giải
phóng hoàn toàn Miền Nam ngay trong năm 1975.

Trước khi bắt đầu giải phóng Sài Gòn, ta tiến đánh lên Xuân Lộc-
Phan Rang trước, chọc vào khu căn cứ điểm trọng yếu của địch.

Trước việc tuyến phòng thủ bị chọc thủng, nội bộ Mỹ và chính
quyền Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Vào ngày 18-4, tổng thống Mỹ cho di
tản quân Mỹ ra khỏi hết Sài Gòn. Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ
chức Tổng Thống mà Mỹ phong tặng.

24

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Vào hồi 17 giờ ngày 26 tháng 4
quân ta được
lệnh nổ súng bắt đầu chiến dịch, Các
binh đoàn
tham gia chiến dịch trên 5 hướng tiến
công:
➢ Hướng Bắc và Tây Bắc:

Quân đoàn 1 và
Quân đoàn 3

➢ Hướng Đông và Đông Nam:
Quân đoàn 2

và Quân đoàn 4
➢ Hướng Tây và Tây Nam:
Đoàn 232
28/4/1975: Các lực lượng của ta đã phá vỡ các khu phòng thủ

vòng ngoài của đối phương, cắt đứt đường số 4, tăng cường vây ép Sài Gòn
trên các hướng; bao vây, ngăn chặn không cho các Sư đoàn chủ lực của đối
phương co cụm về vùng ven nội thành.

Trong ngày 29/4/1975, ta đã giải phóng Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, Tân An và Vũng Tàu.

Sáng 30/4/1975: Đúng 9 giờ, mũi thọc sâu của Quân đoàn 2
vượt qua cầu Sài Gòn, tiêu diệt ổ đề kháng của đối phương tại Hàng Xanh,
cầu Thị Nghè, tiến vào Dinh Độc Lập.

Vào 10 giờ 15phút ngày 30 tháng 4, đoàn xe tăng của quân giải
phóng thuộc Lữ đòn 203 Quân đoàn 2 húc đổ cổng Dinh Độc Lập.

Khoảnh khắc huy hoàng vào 11 giờ 30 phút, lá cờ tung bay trên
nóc Dinh độc lập, báo hiệu cách mạng mùa xuân toàn thắng.

Ngày 1/5, các tỉnh còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long, một số
đảo xa lần lượt được giải phóng.

25

1954-1975

III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI:

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi nhờ sự lãnh
đạo của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính
trị, quân sự tự lập, đúng đắn, sáng tạo. Đường lối kháng chiến tiến hành
đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam.

Nhân dân ta ở hai miền đất nước, nhất trí đồng lòng, lao
động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam,
xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, thống nhất nước nhà.
Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, đáp ứng kịp thời cuộc
chiến tranh của hai miền.

Cuộc kháng chiến đấu thắng lợi còn nhờ sự phối hợp chiến
đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù
chung của nhân dân ba dân tộc Đông Dương: sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình dân chủ trên thế giới, nhất
là sự giúp sức của Liên Xô, Trung Quốc và những nước xã hội chủ
nghĩa khác, phong trào nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam và các nước khác.

IV. Ý NGHĨA LỊCH SỬ:

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc 21 năm
kháng chiến đấu tranh chống Mỹ và 30 năm đấu tranh giải phóng dân
tộc bảo vệ Tổ quốc từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chấm dứt ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân. Từ đó, hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mở ra kỷ
nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập và thống nhất đi lên
chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mỹ và thế giới,
là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là với
phong trào giải phóng dân tộc.

26

CHIẾN DỊCH

HỒ CHÍ MINH

27

IV.Phần đọc thêm

Nhận định……………………………………..
Liên hệ lịch sử địa phương…………………………….
Bà Nguyễn Thị Bình…………………………
Lời kết………………………………………………

28

Lời nhận định

Trước yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, dưới ánh sáng của Nghị
quyết Trung ương lần thứ 15 (01/1959) và Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ III (9/1960), cách mạng miền Nam đã chuyển hướng
chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với
đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là quyết định. Đảng ta đã
khẳng định được tài lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn hiệu quả đối với cách
mạng miền Nam nói riêng, Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ nói chung.

Có thể nói chiến tranh kháng chiến chống Mĩ đã để lại cho ta nhiều bài
học quý, chiến lược nổi bật. Đầu tiên, ta đã nhận định, đánh giá, dự báo
chính xác tình hình, diễn biến chiến tranh làm cơ sở chỉ đạo chuyển
hướng chiến lược cách mạng trong từng giai đoạn và cả cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau phong trào “Đồng khởi”, xét về mặt
chiến lược, tuy ta đang ở thế chủ động, đối phương đang ở thế bị động,
nhưng Đảng ta nhận định: “Chiến tranh sẽ mở rộng; cuộc chiến đấu sẽ
ác liệt, phức tạp; đấu tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời,
nhưng từ đây đấu tranh vũ trang đóng vai trò ngày càng quyết định”.

Thêm vào đó, sau hai cuộc tiến công chiến lược mùa khô, ta thấy rằng
lực lượng địch tuy lớn, nhưng về tư tưởng, tổ chức có vấn đề vì chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” vừa thất bại, từ đó ta phát động cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đánh đòn bất ngờ, tiêu hao,
tiêu diệt lực lượng lớn quân địch, buộc Mỹ phải xuống thang chiến
tranh, thay đổi chiến lược.

Nắm chắc được “quy luật leo thang chiến tranh”, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn Bộ đội Phòng không - không quân “Sớm muộn rồi đế quốc
Mĩ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải
dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy
nghĩ, chuẩn bị”. Chính vì thế, khi Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường

29

Lời nhận định

không bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 (chiến dịch Linebacker
II) thì Hà Nội đã sẵn sàng đánh trả, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên
không” (12/1972) vang dội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (01/1973).

Trước khi diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1975,
Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới, chú trọng
mối quan hệ Mỹ - ngụy và thống nhất: Mỹ không có khả năng can thiệp
trở lại để cứu nguy cho quân ngụy, nên ta quyết tâm giải phóng hoàn
toàn miền Nam.

Bên cạnh đó, Đảng đã chủ động, tích cực xây dựng lực lượng chính trị,
lực lượng vũ trang; mở rộng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng
chiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đồng chí Lê Duẩn viết:
“Phải gắn liền đấu tranh với xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của
ta. Đi sâu củng cố các tổ chức đảng, đoàn, các đội ngũ quần chúng cách
mạng, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu và lòng
tin vào thắng lợi cuối cùng”. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng trên con đường
giành lại hòa bình dân tộc. Mặt trận đã phát huy được sức mạnh tổng
hợp của các thành phần, lực lượng, tầng lớp nhân dân đấu tranh toàn
diện trên các lĩnh vực: quân sự, chính trị, ngoại giao, chống sự can
thiệp, viện trợ của Mỹ và đồng minh đối với ngụy quyền Sài Gòn. Cùng
với đó, ta chủ trương mở rộng căn cứ địa cách mạng - xây dựng hậu
phương vững chắc phục vụ kháng chiến

Ở chiến lược thứ ba, ta đã lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tiến hành
các đòn tiến công quân sự giành thắng lợi quyết định trên toàn chiến
trường miền Nam. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Cục miền
Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng, Quân giải phóng đã phát huy vai
trò nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân miền Nam
tiến hành nhiều hình thức đấu tranh; kết hợp đấu tranh trên cả ba mặt
trận: chính trị, quân sự và ngoại giao;... Quân giải phóng vừa xây dựng,

30

phát triển lực lượng tại chỗ, vừa tiếp nhận lực lượng, vật chất, hậu
cần, kỹ thuật từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện, đồng thời phát
huy vai trò nòng cốt, xung kích tham gia chiến đấu trên toàn miền
Nam. Những trận đánh, chiến dịch tiến công, phản công quân sự và
hoạt động tác chiến chiến lược trên toàn chiến trường của Quân giải
phóng cùng các hoạt động đấu tranh ngoại giao, chính trị của Trung
ương và Mặt trận, đoàn thể địa phương, góp phần quyết định thực
hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược: đánh cho “Mỹ cút”, đánh cho
“ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuối cùng, với tầm nhìn vượt trước, Đảng ta đã nắm, tận dụng thời
cơ, lãnh đạo, chỉ đạo Quân giải phóng tổng tiến công chiến lược, kết
thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất. Theo Hiệp định Pari
(01/1973) quân Mỹ đang rút về nước, ta đã hoàn thành mục tiêu đánh
cho “Mỹ cút”. Tình hình trong nước lúc này, quân ngụy đang suy yếu,
lo chống đỡ các đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng, thế và lực
của cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện, đây là thời cơ để
kết thúc chiến tranh: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi
năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này”, cần phải kịp thời nắm lấy
để “hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho
cách mạng dân tộc, dân chủ... ngoài thời cơ này không có thời cơ nào
khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy
được, các thế lực xâm lược được phục hồi,... thì tình hình sẽ phức tạp
vô cùng”. Sau khi ta giành thắng lợi nhanh chóng, áp đảo quân địch,
Trung ương Đảng quyết định tận dụng thời cơ này, đẩy thời gian giải
phóng miền Nam vào năm 1975, sớm hơn so với quyết tâm ban đầu.
Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị chủ lực miền Bắc khẩn trương tăng
cường cho chiến trường miền Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ
đạo: “Một ngày bằng 20 năm, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo
bạo hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.”

31

Lời nhận định

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam nói chung
và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nói riêng để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý về tiến hành chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân
dân Việt Nam; nổi bật là bài học về tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng đối với Quân giải phóng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Bài học đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về
lý luận và thực tiễn, cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

33

Liên hệ lịch sử địa phương

Cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp (2-12-1956)

- Đôi nét về nhà lao Tân Hiệp: Nhà tù Tân Hiệp hay còn gọi là “Trung tâm
huấn chính” hoặc “Trung tâm cải huấn” Biên Hoà, xưa kia thuộc thôn Tân
Phong, tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, trấn Biên
Hòa, nay tọa lạc trên Quốc lộ 1, phường Tân Tiến, cách trung tâm thành
phố Biên Hòa khoảng 1km về hướng tây. Nhà lao Tân Hiệp là một trong
sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất Đông Nam
Bộ.
- Nguyên nhân: Trong thời kỳ này, nhiều chiến sĩ, đảng viên và những
người yêu nước bị địch truy tìm, giết hại hoặc giam cầm. Chính vì lẽ đó,
chủ trương của ta ở bên ngoài cũng như ở các nhà lao, trại giam… những
người yêu nước, những Đảng viên Cộng sản… đều có nguyện vọng tìm
thời cơ thuận lợi phá ngục trở về với đội ngũ.
- Diễn biến:
Ngày 02/12/1956, được sự nhất trí của liên Tỉnh ủy miền Đông, những
chiến sĩ cộng sản trong nhà lao Tân hiệp dưới sự chỉ đạo của đồng chí
Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - Phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng
chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát các đồng chí,
đồng bào yêu nước, sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm góc.
Đúng 17 giờ 50 phút, khi tên lính trực vừa đánh kẻng báo cho tù nhân vô
trại, thì tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp nơi. Các mũi xung kích
nhanh chóng tiến thẳng đến các mục tiêu đã được phân công.
Kết quả: Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 02/12/1956 diễn ra trong
vòng 40 phút, đã giải thoát được 462 cán bộ, thu được hơn 40 khẩu súng
các loại là nguồn nhân lực và vật lực quý báu bổ sung cho phong trào Đồng
khởi sau này.
Ý nghĩa: Cuộc vượt ngục Tân Hiệp là cuộc giải thoát kỳ diệu của những
người tù Cộng sản kiên trung bất khuất, mưu trí. Với tay không tấc sắt, các
tù nhân chính trị đã lập kế hoạch phản công từ trong lòng địch, nổi dậy phá
tan xiềng xích tìm về tự do. Đó là thứ “Vàng trong lửa”, là đỉnh cao của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, của nhân cách Việt Nam và của khí tiết Cộng

34

Liên hệ địa phương

sản. Sự kiện là một tiếng vang lớn lúc bấy giờ, trong tình hình cách mạng
miền Nam bị địch đàn áp, khủng bố nặng nề, sự kiện đã làm xôn xao cả
Lầu Năm góc. Đây là cuộc nổi dậy ngoạn mục của lực lượng tù chính trị,
cuộc vượt ngục tập thể lớn nhất, gan dạ nhất chưa từng có trong lịch sử
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta.

Cuộc tiến công vào Nhà Xanh (1959) - trận đánh Mỹ đầu tiên trên
chiến trường miền Nam.

- Đôi nét về Nhà Xanh: Tọa lạc trong khuôn viên Trường Cao đẳng Kỹ
thuật Đồng Nai, phường Thống Nhất, TP. Biên Hòa, Di tích Nhà Xanh
được xây dựng vào năm 1907. Toàn bộ khung kiến trúc được xây bằng vật
liệu kiên cố, mái lợp ngói móc vảy cá, sơn tường toàn màu xanh nên người
dân địa phương đặt tên là Nhà Xanh.
- Hoàn cảnh: Vào lúc này, khi luật 10/59 "đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp
luật" được ban hành, phong trào cách mạng được xem như "bị dìm trong
biển máu". Đế quốc Mỹ đã lộ rõ bản chất xâm lược ở miền Nam Việt Nam
- Diễn biến: 19 giờ ngày 7-7, phân đội đặc công hóa trang lính đi tuần từ
Gò Me tiến về khu cư xá. Sau khi diệt tên gác cổng, phân đội chia làm ba
mũi (mỗi mũi 2 đồng chí) tấn công vào khu biệt thự. Cuộc tấn công diễn
ra chớp nhoáng khiến những cố vấn quân sự Mỹ trong khu biệt thự trở tay
không kịp. Đội biệt động thị xã Biên Hòa kịp thời phối hợp khống chế kho
súng và trại gia binh. Lực lượng cách mạng ta đã diệt hai cố vấn Mỹ là
thiếu tá Bael Buis và trung sĩ Chester Osmand, bắn bị thương đại úy
Howard B. Boston.
- Ý nghĩa: Di tích Nhà Xanh là nơi ghi dấu ấn đậm nét sự can thiệp của đế
quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, đồng thời đây còn là di tích thể hiện
tinh thần, ý chí cách mạng táo bạo, quả cảm của quân dân Biên Hòa - Đồng
Nai trong công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Đây còn là trận
đánh đầu tiên của quân dân ta vào quân đội Mỹ trên chiến trường miền
Nam, mở đầu cho hàng loạt thắng lợi của quân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước

35

nghĩa anh hùng cách mạng, của nhân cách Việt Nam và của khí tiết
Cộng sản. Sự kiện là một tiếng vang lớn lúc bấy giờ, trong tình hình
cách mạng miền Nam bị địch đàn áp, khủng bố nặng nề, sự kiện đã
làm xôn xao cả Lầu Năm góc. Đây là cuộc nổi dậy ngoạn mục của lực
lượng tù chính trị, cuộc vượt ngục tập thể lớn nhất, gan dạ nhất chưa
từng có trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta.

Sân bay Biên Hòa (1964)

Những năm 20 của thế kỷ XX, thực dân Pháp đã chiếm một khu vực
đất giáp ranh hai xã Tân Phong và Bình Trước xây dựng một sân bay
loại nhỏ, gọi tên là sân bay Tân Phong, nay thuộc xã Tân Triều, huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Hoàn cảnh: Ngày 10 tháng 10 năm 1964, Quân ủy quân sự Trung
ương chỉ thị mở đợt hoạt động mùa khô 1964 – 1965 trên khắp chiến
trường miền Nam.
Diễn biến:
23 giờ 30 đêm 31 tháng 10 năm 1964, pháo cối ta bắt đầu cấp tập bắn
vào sân bay.Chỉ trong vòng 15 phút gần 130 quả đạn cối rơi gọn và
chính xác xuống các mục tiêu, phá hủy 59 máy bay, trong đó có 21
máy bay B57, loại máy bay tối tân của Mỹ lúc bấy giờ mới đưa từ
Philipin chuẩn bị gây tội ác ở miền Bắc, 11 máy bay AD6, 1 máy bay
do thám (U2), diệt và làm bị thương 253 tên địch, thiêu hủy và nổ
tung hoàn toàn 2 kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát và 18 căn
trại lính. Địch không kịp phản ứng, ta rút về căn cứ an toàn. Ta đã gây
tổn thất nặng nề cho về lực lượng lẫn cả phương tiện của quân Mĩ-
Ngụy.
Ý nghĩa: Đây là một trận đánh táo bạo, bất ngờ. Lần đầu tiên, pháo
binh Miền đã tận dụng yếu tố bí mật, kết hợp với lực lượng địa
phương và phong trào quần chúng, mở đầu hàng loạt trận pháo kích
vào các mục tiêu chiến lược quan trọng của Mỹ - ngụy.

35

Liên hệ địa phương

Trận Xuân Lộc

Vị trí Xuân Lộc là một vị trí chiến lược quan trọng vì là ngã ba của hai
Quốc lộ 1 và 20, cửa ngõ từ miền Trung, miền Cao nguyên vào Sài Gòn
chỉ cách nhau 80.
Hoàn cảnh: được diễn ra sau khi quân ta chiếm được Tây Nguyên.
Diễn biến:
+Giai đoạn 1: Ngày 9 tháng 4 năm 1975, 5 giờ 40, sau khi Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam pháo kích các mục tiêu trong thị xã trong vòng
một tiếng đồng hồ, sau đó các mũi bộ binh bắt đầu tiến công. Sau 5 ngày
tiến công, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không hoàn thành được
các mục tiêu đề ra.
+Giai đoạn 2:
Ngày 15 tháng 4, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chuyển hướng tấn
công. Pháo 130 ly bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên Hòa, không
cho máy bay từ đây yểm trợ Xuân Lộc.
Ngày 18 tháng 4, một phần lực lượng ở Xuân Lộc được bốc bằng trực
thăng về Biên Hòa - Trảng Bom lập phòng tuyến mớ
Bốn giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 1975, tại ấp Suối Cát, gần ranh giới
Long Khánh-Phước Tuy. Quân giải phóng bắt sống được 700 tù binh, tịch
thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh, trong đó có đại tá chỉ huy Tiểu
khu Xuân Lộc - Long Khánh.
Kết quả:
Chiến thắng Xuân Lộc của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh
sập "Cánh cửa thép" cuối cùng để tiến vào Sài Gòn. Xuân Lộc chính là yết
hầu của Sài Gòn
Ý nghĩa :Chiến thắng Xuân Lộc, làm suy sụp tinh thần kháng cự của binh
lính ngụy quân Sài Gòn; tạo ra thế và lực mới để quân và dân ta bước vào
trận quyết chiến trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975.

37

VIET NAM

Câu chuyện về Madame “Bình” – nữ Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao
đầu tiên của Việt Nam

37

“Khi đặt bút ký vào bản hiệp định
chiến thắng, nghĩ đến những đồng
bào, đồng chí ngã xuống - những
người không còn có thể biết được sự
kiện trọng đại này, mắt tôi bỗng nhòe
ướt… Đó có lẽ là kỷ niệm sâu sắc
nhất trong cuộc đời ngoại giao của

tôi”./.

Những năm tháng tham gia đàm phán ở Hội nghị Paris, hình ảnh “madam
Bình” theo cách gọi của giới truyền thông vẫn luôn gây ấn tượng mạnh với báo
chí phương Tây, bởi những lời phát biểu đầy thuyết phục, thông minh, lúc rắn
rỏi, khi dí dỏm làm cho thế giới nể trọng, nhân dân nức lòng. Trên bàn đàm
phán, mọi người đều nhận thấy Nguyễn Thị Bình là một người phụ nữ mềm
mại nhưng khéo léo và đầy bản lĩnh.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà được bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ
giáo dục Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Năm 1987, bà
được phân công làm Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp Hòa bình Đoàn kết hữu nghị với Việt Nam; đại
biểu Quốc hội các khoá VI, VII, VIII, IX, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Bà nghỉ hưu năm 2002. Hiện tại, ở tuổi 90, bà vẫn tham
gia hoạt động cho Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam.

Lời tâm sự của Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao đương thời cũng chính
là lời chung của biết bao đồng bào Việt Nam. Chiến thắng đã đến

với chúng ta , theo cách vinh quang và hiển hách nhất. Song ,
không gì là đủ để có thể bù đắp lại tất cả những mất mát tang
thương mà nhân dân ta phải chịu đựng . Đó là món nợ đời xương
39 máu , món nợ mãi trường tồn theo thời gian.

Vậy , Bà Nguyễn Thị Bình là ai ?

Thân thế

Bà tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại
tỉnh Sa Đéc (nay là Đồng Tháp). Tuy nhiên, nguyên quán của cha bà là
Cụ Nguyễn Đồng Hợi, lại ở Quảng Nam. Mẹ bà là bà Phan Thị Châu Lan,
là người con gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh.

Bước đầu sự nghiệp chính trị

Năm 1944, mẹ bà qua đời lúc bà mới 17 tuổi, bà theo gia đình trở về
nước và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh
viên học sinh như cứu tế và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp
tái chiếm Nam Bộ cuối năm 1945, cha bà ra chiến khu theo lời kêu gọi
của Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ . Riêng bà ở lại để chăm
sóc các em, vừa hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh
viên học sinh và phụ nữ. Lúc này, bà lấy bí danh là Yến Sa. Năm 1948,
bà được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1951, bà bị thực dân
Pháp bắt giam và bị tra khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn
Sài Gòn rồi khám Chí Hòa (1951-1953).
Năm 1954, bà ra tù và tham gia luôn vào phong trào hòa bình đòi thi
hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được
đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.

Trở thành nhà ngoại giao

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập.
Năm 1962, bà được điều trở lại miền
Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị
Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương
Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở mảng
đối ngoại, kiêm Phó Tổng thư ký Hội
Phụ nữ Giải phóng.

39

Năm 1963 bà sang Trung Quốc và được lãnh tụ Mao Trạch Đông tiếp.
Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải
phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm
1969, ông Trần Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà được rút về
nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam.
Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam được thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà
lại trở sang Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính
phủ lâm thời. Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc
họp báo tại hội nghị 4 bên tại Paris, với phong cách ngoại giao lịch lãm và
duyên dáng, được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu Madame Bình.
Khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, bà là người đại diện của Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký vào bản Hiệp định.
Lịch sử ngành ngoại giao Việt Nam ghi nhận bà Nguyễn Thị Bình là nữ bộ
trưởng đầu tiên.

Chức vụ trong thời bình

Sau sự kiện 30 tháng 4, bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976-1987), rồi
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung
ương Đảng (1987-1992). Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (03/1982-1986), Đại biểu Quốc hội từ
khoá VI đến khoá X (1976-2002).
Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục
trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức
vụ phó nguyên thủ[4] sau bà Nguyễn Thị Định - Phó Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước (tương đương Phó Chủ tịch nước hiện nay).
Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ
trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển
Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng
là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam
kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, bà được
Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

41

LỜI KẾT

Giống như cuộc đời của một con người, ai rồi cũng phải trải qua sinh
lão-bệnh-tử, để đất nước phát triển như ngày hôm nay, ông cha ta đã phải
chiến đấu để bảo vệ từng mảnh đất, miếng ruộng. Tưởng chừng như đất
nước đã được hòa bình sau khi ta kí kết Hiệp định Geneve nhưng một lần
nữa, đồng bào ta lại phải trải qua thêm 21 năm chiến đấu chống lại cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới có quy mô lớn, dài ngày nhất, ác
liệt nhất và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù vậy, nhân
dân đã thực hiện được mong ước thiết tha nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh,
đó là đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Như đại nhà văn
Nicolai Ostrovsky đã từng nói:

“ Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một
lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống
hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình,
để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta
đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng loài người....“

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) cho
rằng: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về
sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người,
và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một
sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".

Sau khi đọc đến đây, chúng tôi mong rằng các bạn đã hiểu thêm về
những công lao, chiến thắng, những chủ trương sáng suốt của Đảng ta cả
một thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Để từ đó, ta có thêm nhiều bài
học sâu sắc về lối tư duy, cách nắm bắt thời cơ, không chỉ để phục vụ cho
công cuộc chống đại dịch Covid 19 ngày nay mà còn là để bạn biết trân
trọng những gì ta đang có. Mong mỗi người trong chúng ta đều sống sao
cho thật trọn vẹn cuộc đời này.

41

Tài liệu tham khảo

https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB
%8B_B%C3%ACnh
Nhật ký Đặng Thùy Trâm ( trích dẫn )
Thép đã tôi thế đấy ( trích dẫn )
Sách giáo khoa Lịch Sử 12
Google.com.vn ( nguồn ảnh )
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1
%BB%87t_Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%
BB%8Bnh_Paris_1973
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%
BB%8Bnh_Gen%C3%A8ve,_1954
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8B
ch_H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_tr%C3%A0o_%C4%90%E
1%BB%93ng_kh%E1%BB%9Fi
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_
T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n

Trong quá trình thu thập tài liệu , in ấn….Nhà xuất bản không
tránh khỏi những sai xót không đáng có ,mong bạn đọc bỏ
qua. Mọi thắc mắc và góp ý xin gửi qua gmail :
[email protected]
Hoặc qua đường dây nóng :
0795178066
Xin chân thành cám ơn bạn !

42



“Khi đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng, nghĩ
đến những đồng bào, đồng chí ngã xuống - những
người không còn có thể biết được sự kiện trọng đại
này, mắt tôi bỗng nhòe ướt… Đó có lẽ là kỷ niệm sâu
sắc nhất trong cuộc đời ngoại giao của tôi”./.

Nguyễn Thị Bình.
“ Dân ta phải biết sử ta , cho tường gốc

tích nước nhà Việt Nam”
Chủ tịch nước Hồ Chí Minh

Giá : 47.000


Click to View FlipBook Version