The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Bản tin Gia Định quận Bình Thạnh, 2022-08-06 00:18:33

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Keywords: LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ban Chấp hành ĐẢNG BỘ QUẬN Bình thạnh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LỊCH SỬ
TRUYỀN THỐNG
CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN
QUẬN BÌNH THẠNH

(1930 - 2015)

Lời giới thiệu


Quận Bình Thạnh - thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 6
năm 1976. Bình Thạnh là tên gọi gộp chung hai địa danh Bình Hòa và
Thạnh Mỹ Tây - trung tâm của tỉnh Gia Định trước năm 1975, một
vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng. Lịch sử truyền thống
của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh là một bộ phận của Lịch sử
Đảng bộ và Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của quận Bình Thạnh xưa và nay.
Việc biên soạn Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình
Thạnh có ý nghĩa rất quan trọng giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
trong quận hiểu được những chặng đường lịch sử vẻ vang mà Đảng bộ và Nhân
dân quận Bình Thạnh đã đi qua, đặc biệt trong việc giáo dục truyền thống cho các
thế hệ mai sau. Đồng thời giúp cho Đảng bộ rút ra những bài học kinh nghiệm
quý báu để vận dụng trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
của quận.

Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc biên soạn Lịch sử truyền thống
của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh nên Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ lần
thứ 5 khóa VII ngày 25 tháng 3 năm 1997 đã ban hành Nghị quyết chỉ đạo biên soạn và
xuất bản cuốn sách Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình
Thạnh (1930 - 2005). Sau 15 năm phát hành, cuốn sách đã trở thành tài liệu chính thức
để giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong quận. Đồng thời, Ban Chấp
hành Đảng bộ quận cũng nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các đồng chí
lão thành cách mạng cùng bạn đọc trong và ngoài quận.

Nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930 -
03-02-2020), 75 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng

3

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02-9-1945 – 02-9-2020), 130 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2020), 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020), 45 năm thành lập quận
Bình Thạnh (tháng 6-1976 – tháng 6-2021) và Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Bình
Thạnh lần thứ XII (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI (nhiệm
kỳ 2015 - 2020) quyết định tái bản và viết bổ sung cuốn sách Lịch sử đấu tranh, xây
dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2005).

Cuốn sách Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh
(1930 - 2015) được biên soạn trên cơ sở kế thừa toàn bộ nội dung của cuốn sách Lịch
sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2005), bổ
sung thêm lịch sử 10 năm (2005 - 2015) tương ứng với hai kỳ Đại hội Đảng bộ quận
lần thứ IX và lần thứ X; trong cấu trúc của cuốn sách có phân thành hai thời kỳ lịch
sử là: Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1975) và Thời kỳ xây dựng xã hội
chủ nghĩa (1975 - 2015).

Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2015)
là những trang sử hào hùng trong đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1975) và xây
dựng xã hội chủ nghĩa (1975 - 2015) của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh. Mỗi
thời kỳ lịch sử đều để lại dấu ấn chiến công, thành tựu và cả những trăn trở, suy tư.
Nhưng tất cả đều đáng quý, đáng trân trọng.

Ban Chấp hành Đảng bộ quận Bình Thạnh khóa XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020)
trân trọng giới thiệu cuốn sách đến các đồng chí lão thành cách mạng, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân trong quận cùng bạn đọc xa gần.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
QUẬN BÌNH THẠNH

4

BÌNH THẠNH
VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI

và TRUYỀN THỐNG



I. VÙNG ĐẤT BÌNH THẠNH

Ở về phía Đông Bắc Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, lịch sử hình
thành và phát triển của vùng đất Bình Thạnh gắn liền với quá trình hình thành và
phát triển của thành phố.

Nhìn trên bản đồ thành phố Hồ Chí Minh, vùng đất Bình Thạnh có thế đất
xuôi dần về phía Nam. Ở khu vực trung và tây của quận có địa hình cao với dạng gò
lồi lõm, đường sá đổ dốc, mùa mưa nước chảy tràn như thác lũ; khu vực phía đông
có địa hình trũng thấp, luôn bị nước tràn do triều cường nên phải đắp đê; khu vực
hạ nam tương đối bằng phẳng.

Sông Sài Gòn là ranh giới tự nhiên giữa quận Bình Thạnh với thành phố Thủ
Đức về phía Đông Bắc; ở phía Nam, quận Bình Thạnh và Quận 1 cách nhau bởi con
rạch Thị Nghè; về phía Tây - Tây Bắc, quận Bình Thạnh giáp với quận Phú Nhuận,
quận Gò Vấp và Quận 12 tạo thành thế liên hoàn giữa ba địa phương mà xưa kia
đã có thời được gọi chung là “xứ Gò Vấp” hay “miệt Gò Vấp”.

Cũng như các quận, huyện khác ở thành phố Hồ Chí Minh, khí hậu ở quận
Bình Thạnh mang nét đặc trưng của khí hậu Đông Nam Bộ, nằm hoàn toàn trong
vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo nên nhiệt độ có tính ổn định, không quá
nóng và rét, chỉ cảm thấy lạnh từ giữa khuya cho đến hừng sáng. Nhiệt độ không
khí bình quân năm là 27 độ C, cao nhất lên đến 40 độ C (tháng 8 năm 1992) thấp
nhất là 13,8 độ C (tháng 1 năm 1937), độ ẩm bình quân năm là 79,5%. Lượng
mưa trung bình năm đạt 1.979 mm với số ngày mưa trung bình năm là 154 ngày.
Sông Sài Gòn bao quanh mạn đông bắc đã biến vùng Thanh Đa - Bình Quới
thành một bán đảo xinh đẹp, đồng thời tạo nên sự trong lành cho môi trường và
khí hậu nơi đây.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, từ thời nhà Nguyễn cho đến năm 1975, Bình
Thạnh chỉ là một vùng ven đô, được xem là vành đai đỏ bảo vệ cho các cơ quan đầu

7

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

não của chính quyền thực dân đế quốc ở trung tâm thành phố. Sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, Bình Thạnh trở thành một quận
ven nội thành với diện tích tự nhiên là 2.078,6 ha, trong đó diện tích nông nghiệp
chiếm gần 44% (900 ha) và 15,3% diện tích là ao hồ, sông rạch. Tuy nhiên với quá
trình đô thị hóa, cùng với sự phát triển ngày một đi lên của thành phố, diện tích
đất nông nghiệp ngày một giảm xuống: năm 1995 còn 24% (khoảng 500 ha) và hiện
nay còn 12,6% (262,9 ha) theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2019.

Quận Bình Thạnh là đầu mối gặp gỡ của các quốc lộ và tỉnh lộ: Quốc lộ 1
Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh đi ra Bắc và xuống miền Tây Nam bộ, Quốc lộ
13 đi Bình Dương sang Campuchia. Sông Sài Gòn - một trong những con sông
lớn của hệ thống sông Đồng Nai và nhiều sông nhỏ khác đã tạo địa giới tự nhiên
giữa Bình Thạnh với thành phố Thủ Đức, Quận 12, làm cho vùng đất này có vị
trí quan trọng, là cửa ngõ đi vào nội thành từ hướng đông bắc. Sông Sài Gòn ăn
thông ra biển, trải dài ở mạn đông bắc của vùng đất Bình Thạnh ngày nay chính
là thủy đạo quan trọng mà các thế hệ lưu dân người Việt từ biển ngược dòng vào
khai phá, định cư ở những vùng đất cao hai bên bờ sông, trong đó có những khu
vực thuộc Bình Thạnh ngày nay. Cùng với sông Sài Gòn, các kinh rạch: Thị Nghè,
Cầu Bông, Văn Thánh, Hố Tàu, Thủ Tắc, Vàm Thuật,... đã tạo thành một hệ thống
đường thủy đáp ứng lưu thông cho xuồng ghe nhỏ đi sâu vào các khu vực trên
khắp địa bàn Bình Thạnh, thông thương với các địa phương thuộc Sài Gòn - Gia
Định cũng như các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Cuối thế kỷ XIX, rạch Thị
Nghè còn khá rộng, nước trong suốt “hây hây tờ quyến trải” và chảy thông. Trên
rạch Thị Nghè ghe tải cỡ nhỏ dễ dàng di chuyển tới tận thượng nguồn (khu vực
chợ Ông Tạ - quận Tân Bình) để trao đổi buôn bán. Chính vì vậy Bình Thạnh là
một trong những khu vực sớm quy tụ dân cư đến sinh cơ lập nghiệp trong buổi
đầu khai phá vùng đất phương Nam.

Quận Bình Thạnh có vị trí thuận lợi về đường sông, đường bộ và nguồn
dự trữ đất đai phong phú... nên trong điều kiện đất nước hòa bình, nhất là từ
đầu thập niên 1990 đến nay, tuy chưa sánh bằng nhiều địa phương khác thuộc
thành phố Hồ Chí Minh nhưng nhờ xác định đúng hướng phát triển cho nền
kinh tế của quận “sản xuất - dịch vụ - du lịch - xuất nhập khẩu” trong đó dịch
vụ - du lịch là mũi nhọn nên bước đầu đã khai thác được tiềm năng và thế
mạnh của quận, tạo dựng được mạng lưới kết cấu hạ tầng kỹ thuật... Đây là xu
thế phát triển phù hợp với hướng phát triển của thành phố Hồ Chí Minh cho

8

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

đến những năm đầu thế kỷ XXI, đồng thời được đánh giá “là hướng phát triển
đúng đắn đối với Bình Thạnh với tư cách là một quận nội thành”(1).

Lịch sử địa lý hành chính của vùng đất Bình Thạnh ngày nay gắn liền với quá
trình hình thành và phát triển của lịch sử địa lý hành chính Sài Gòn - Gia Định -
thành phố Hồ Chí Minh.

Vào thời điểm chúa Nguyễn lập đồn thu thuế ở Bến Nghé và Sài Gòn (1623),
tuy chưa tìm thấy nguồn sử liệu nào cho biết tên của các thôn ấp lúc bấy
giờ ở thành phố nói chung và Bình Thạnh nói riêng, nhưng căn cứ vào danh
sách các thôn chép trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ghi trên
bản đồ do Trần Văn Học vẽ năm 1815, trên địa bàn Bình Thạnh ngày nay đã có
tên các thôn: Phú Mỹ, Bình Quới, Thạnh Đa, Bình Hòa và Thới Hòa (là vùng Bà
Chiểu, ngã năm Bình Hòa).

Đời Gia Long, chưa có xã Bình Hòa, về sau từ Thái Hòa tách ra. Theo
Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, một trong số những
nguồn tài liệu xưa nhất nói về Gia Định, thì từ ngày đặt nền tảng hành chính
đầu tiên đến năm Gia Long thứ 7 (1808), trên địa bàn trấn Phiên An
trong đó có vùng đất Bình Thạnh ngày nay không có sự thay đổi nào về cơ
sở hành chính. Đồng thời, theo Địa chí tỉnh Gia Định năm 1902 thì Hạnh
Thông xã (thuộc Gò Vấp ngày nay) đã được thành lập từ năm 1698. Như vậy,
trên phần đất là quận Bình Thạnh ngày nay (mà lúc bấy giờ là thuộc quận Gò
Vấp) chắc chắn đã có một số xã, thôn trực thuộc huyện Tân Bình. Do đó
chúng ta có thể phỏng đoán các tên xã, thôn mà Trịnh Hoài Đức ghi trong
Gia Định thành thông chí đã có từ thời Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào
Nam kinh lược và thiết lập đơn vị hành chính năm 1698, trừ thôn Bình
Hòa. Năm 1802 vua Gia Long (Nguyễn Ánh) bãi bỏ Gia Định kinh, “cải Gia Định
phủ làm Gia Định trấn”. Gia Định trấn gồm có các dinh: Phiên Trấn, Trấn
Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn và trấn Hà Tiên.

Năm 1808, do địa thế Gia Định rộng lớn, Gia Định trấn được đổi làm Gia
Định thành, dinh Phiên Trấn đổi làm trấn Phiên An. Các đơn vị hành chính trong
trấn đều được nâng cấp và thay đổi: huyện Tân Bình đổi làm phủ Tân Bình, thuộc

1. Phát biểu của đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Phó Bí thư Thành ủy - Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Bình Thạnh lần thứ VII (1991).

9

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

sự quản trị của trấn Phiên An; cấp tổng đổi thành cấp huyện. Phủ Tân Bình cai
quản 4 huyện. Trong đó hai huyện Bình Dương và Tân Long bao gồm đại bộ phận
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, gồm cả vùng đất Bình Thạnh. Riêng
huyện Bình Dương chia làm hai tổng: Bình Trị và Dương Hòa.

Năm 1832, Gia Định thành giải thể. Trấn Phiên An đổi ra tỉnh Phiên An. Tỉnh
Phiên An chia ra hai phủ: phủ Tân Bình và phủ Tân An. Phủ Tân Bình quản lý hai
huyện: huyện Bình Dương và huyện Tân Long. Huyện Bình Dương chia làm hai
tổng: tổng Bình Trị và tổng Dương Hòa. Các thôn Thạnh Đa, Phú Mỹ, Bình Quới,
Thới Hòa và Bình Hòa thuộc quận Bình Thạnh ngày nay nằm trong tổng Bình Trị -
huyện Bình Dương - phủ Tân Bình - tỉnh Phiên An.

Năm 1836 dưới triều Minh Mạng, công cuộc đo đạc ruộng đất, lập địa bạ cho
các xã thôn trên toàn lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh được tiến hành. Địa bàn và tên gọi
các thôn trên địa bàn quận Bình Thạnh không thay đổi, nhưng lại được sắp xếp vào
các tổng mới thành lập. Các thôn Bình Quới, Phú Mỹ, Thạnh Đa thuộc tổng Bình
Trị Thượng; thôn Bình Hòa và Thới Hòa thuộc tổng Bình Trị Hạ. Trước đó, năm
1832 để tỏ rõ việc trọng nông, vua Minh Mạng cho lập một đền thờ thần Tiên nông
ở thôn Phú Mỹ.

Năm 1862, thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông. Đến năm 1867,
sau khi chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, chính quyền thực dân tiến hành chia lại ranh
giới hành chính và thay đổi địa danh. Ba tỉnh miền Đông được chia thành 16 hạt
tham biện (Inspection), trong đó phần đất quận Bình Thạnh ngày nay gồm các
làng Bình Quới Tây, Thạnh Đa, Phú Mỹ, Bình Hòa, Thới Hòa thuộc các tổng Bình
Trị Thượng và Bình Trị Hạ - huyện Bình Dương - hạt Sài Gòn.

Năm 1872, hạt Sài Gòn có 3 huyện, 16 tổng với 218 làng. Địa bàn Bình Thạnh
thuộc tổng Bình Trị Thượng với 4 làng Bình Hòa, Bình Lợi Trung, Bình Quới Tây,
Thạnh Đa.

Từ năm 1874, tòa Tham biện của hạt Sài Gòn được chuyển về vùng Bình
Hòa, gọi là Tòa Bố nằm ở vị trí trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh hiện
nay. Cũng trong năm 1874, Pháp đổi tên hạt tham biện (Inspestion) thành địa hạt
(Arrondissement).

Năm 1876, Pháp phá khung hành chính “lục tỉnh”, chia thành 4 khu vực có
tính cách quân sự, trong đó khu vực Sài Gòn gồm 5 dinh hạt. Địa hạt Sài Gòn thuộc
Khu vực Sài Gòn. Năm 1885, địa hạt Sài Gòn đổi tên thành địa hạt Gia Định. Năm
1889, khu vực hành chính và quân sự bị bãi bỏ, tên địa hạt đổi thành tỉnh. Vùng đất

10

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Bình Thạnh ngày nay thuộc tỉnh Gia Định lúc bấy giờ. Năm 1910, tỉnh Gia Định
chia ra 18 tổng. Vùng đất Bình Thạnh ngày nay gồm các xã Bình Hòa, Bình Lợi
Trung, Bình Quới Tây, Thạnh Đa thuộc tổng Bình Trị Thượng; các xã Phú Mỹ, Phú
An thuộc tổng Bình Trị Trung.

Năm 1940, chính quyền thuộc địa Nam Kỳ lập ra cấp quận (gần như phủ
huyện xưa). Tỉnh Gia Định được chia ra làm 4 quận là Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ
Đức và Nhà Bè, với 16 tổng và 80 xã. Tổng Bình Trị Thượng thuộc quận Gò Vấp
với 8 xã trong đó vùng đất 2 xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây chính là vùng đất Bình
Thạnh ngày nay. Như vậy xã Bình Hòa trước đây vẫn được giữ lại tên gọi và địa
bàn, còn Thạnh Mỹ Tây là do các xã Thạnh Đa, Phú Mỹ, Phú An và Bình Quới Tây
nhập thành một xã lấy tên mới. Một vài tài liệu cho rằng năm 1929 xã Thạnh Đa
nhập với 2 xã Phú Mỹ và Phú An thành Thạnh Mỹ An. Đến năm 1934, Thạnh Mỹ
An lại nhập với Bình Quới Tây thành xã Thạnh Mỹ Tây; hoặc xã Thạnh Mỹ Tây là
do 3 xã Thạnh Đa, Bình Lợi Trung và Bình Quới Tây sáp nhập lại.

Ngày 11 tháng 5 năm 1944, chính quyền thuộc địa lại ra nghị định thành lập
tỉnh Tân Bình. Tỉnh Tân Bình mới lập này gồm 3 khu vực: khu vực Gia Định, khu
vực Thủ Thiêm và khu vực Nhà Bè. Hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây thuộc vào
khu vực Gia Định. Tỉnh lỵ đặt tại xã Phú Nhuận. Tòa Bố tỉnh Tân Bình đặt tại góc
đường Phan Đăng Lưu và Phan Đình Phùng ngày nay; còn bót Tân Bình nằm ở
khu vực cây xăng tại ngã tư Phú Nhuận hiện nay. Tỉnh Tân Bình thành lập chưa
được bao lâu thì Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, tỉnh Tân Bình bị giải
thể ngay sau đó.

Từ năm 1945 đến năm 1975 các đơn vị hành chính tiếp tục có nhiều thay đổi
ít nhất 10 lần từ tỉnh đến quận và xã.

Trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1953, cấp hành chính cơ sở được gọi
là hộ. Xã Thạnh Mỹ Tây trở thành Hộ 19, xã Bình Hòa thành Hộ 20. Từ năm 1953
đến năm 1959, Hộ 19 và Hộ 20 thuộc Quận 2.

Năm 1959, chính quyền ngụy Sài Gòn thực hiện một cuộc cải cách toàn diện
về mặt hành chính. Đô thành Sài Gòn được chia làm 8 quận vừa có nhiệm vụ cảnh
sát và hành chính, lại chia mỗi quận ra nhiều xã (thay cho hộ dưới thời Pháp). Địa
bàn Bình Thạnh lúc đó vẫn thuộc quận Gò Vấp với 2 xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Cấp hành chính dưới xã là ấp. Các ấp thuộc xã Bình Hòa được gọi là ấp Bác Ái và
đánh số thứ tự từ 1 trở đi; các ấp thuộc xã Thạnh Mỹ Tây được gọi là ấp Nhất Trí
cũng được đánh số thứ tự từ 1 trở đi. Tổ chức hành chính cơ sở này tồn tại cho đến
ngày 30 tháng 4 năm 1975.

11

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Sau ngày giải phóng, tháng 5 năm 1975, xã Bình Hòa đổi thành quận Bình
Hòa, xã Thạnh Mỹ Tây thành quận Thạnh Mỹ Tây. Ngày 04 tháng 5 năm 1976,
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh ra Chỉ thị 01-CT/TC-76 về việc sát nhập quận
và điều chỉnh, thành phố còn 3 cấp: thành, quận, cơ sở. Hai quận Bình Hòa và
Thạnh Mỹ Tây nhập lại làm một lấy tên là quận Bình Thạnh cho đến ngày nay.
Quận Bình Thạnh lúc đầu chia làm 28 phường, đánh số từ 1 đến 28.

Quyết định số 1470-HĐBT ngày 26 tháng 8 năm 1982 của Hội đồng Bộ
trưởng phân vạch lại địa giới một số phường của quận Bình Thạnh: giải thể
Phường 8 và Phường 20, sát nhập vào Phường 14 và Phường 18, hạ số phường
xuống còn 26 phường.

Ngày 27 tháng 8 năm 1988, Quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng lại một lần nữa điều chỉnh địa giới một số phường của quận Bình Thạnh.
Các Phường 9, 10 và 18 giải thể, tách địa bàn một số tổ dân phố nhập vào các
phường lân cận; đồng thời sáp nhập Phường 3 với Phường 4 thành Phường 3, hợp
nhất Phường 15 và Phường 23 thành Phường 15, nhập Phường 16 và Phường 17
thành Phường 17. Từ đó đến nay, quận Bình Thạnh bao gồm 20 phường: 1, 2, 3, 5,
6, 7, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 19, 21, 22, 24, 25, 26, 27 và 28.

II. CƯ DÂN, TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
Cư dân Bình Thạnh là một bộ phận của cư dân thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn gốc và sự phát triển của cư dân Bình Thạnh gắn liền với nguồn gốc và sự
phát triển của cư dân Sài Gòn - Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Cho đến nay vẫn chưa tìm thấy tư liệu cho biết một cách cụ thể là từ lúc nào
những cư dân Việt đầu tiên đến lập nghiệp ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng
như trên địa bàn Bình Thạnh. Nhưng, qua các sử liệu có liên quan đến thời điểm
những năm đầu thế kỷ XVII, đặc biệt với sự kiện chúa Nguyễn được vua Chân Lạp
cho lập đồn thu thuế thương chánh ở Sài Gòn - Bến Nghé vào năm 1623, hầu hết
các nhà nghiên cứu đều khẳng định từ đầu thế kỷ XVII lưu dân Việt đã có mặt ở
vùng đất này khá đông trước khi Nguyễn Hữu Cảnh thừa lệnh chúa Nguyễn vào
Nam lập nền hành chính đầu tiên (1698).

Lưu dân người Việt vào Đồng Nai, Gia Định lập nghiệp trong buổi đầu đi dọc
theo đường biển, đầu tiên là đổ bộ lên vùng đất Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay) khai
hoang, lập ấp, xây dựng cơ nghiệp, cùng sống với cư dân bản địa ở đây. Lâu dần
người đông đất hẹp, họ đi lần lên vùng Đồng Nai, rồi vào Gia Định. Vùng đất màu
mỡ nằm dọc hai bên bờ sông Tân Bình (sông Sài Gòn), trong đó vùng đất Bình

12

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Thạnh ngày nay với mạn Đông Bắc tiếp giáp sông Sài Gòn chắc chắn cũng là một
trong những địa điểm đầu tiên mà lưu dân chọn để dừng chân. Ngày nay, ở vùng
Xóm Gà, Bình Hòa vẫn còn vài nhánh họ xưa từ đời tằng tổ.

Những cư dân người Việt đầu tiên là những người nông dân nghèo rời quê
cha đất tổ đi tìm đất sống, là những người đi buôn lâu ngày rồi định cư luôn ở
vùng đất mới, là những vị chân tu đi tìm những nơi thanh tịnh để tu hành, là
những người có chí phiêu lưu muốn thử thời vận, những tội phạm trốn tránh
tầm nã của triều đình... Sau khi lập phủ Gia Định, chúa Nguyễn mới đẩy mạnh
công cuộc khai phá vùng đất phía Nam. Những người giàu có ở xứ Quảng Nam,
các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn được khuyến khích chiêu mộ lao
động vào Nam khẩn hoang. Từ đời Gia Long trở về sau, khi tổ chức hành chính
và quân sự nhà Nguyễn đã ổn định thì những tội đồ bị lưu đày vào Nam càng
nhiều. Những điền chủ đi khẩn hoang sẵn tiền của, lại dễ dàng giao thiệp với
quan lại địa phương đã thuê mướn những tù lưu, tù đồ đã mãn hạn để đưa đi
khai thác vùng đất mới. Chính vì vậy, trong thành phần cư dân lại có thêm
những người là tội nhân không trở lại xứ sở sau khi mãn án, những người nô tì
thuộc dân tộc ít người được điền chủ trả tự do và có cả những người Chân Lạp
đã sinh sống lâu đời trên các gò nổng cao rải rác khắp Nam bộ hoặc vừa được
chúa Nguyễn cho định cư ở đất Gia Định.

Năm 1679, việc chúa Nguyễn cho hai nhóm di thần nhà Minh vào định cư ở
Biên Hòa và Mỹ Tho đã đánh dấu sự hiện diện của một bộ phận người Hoa ở vùng
đất Nam bộ. Với sở trường về thương mại, những vùng đất giao thông thuận tiện
ven sông rạch đã sớm thu hút một bộ phận người Hoa chọn làm nơi lập nghiệp và
không ngừng bổ sung qua các thời kỳ lịch sử. Cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX,
sản xuất và giao lưu hàng hóa ngày càng phát triển, các chợ được hình thành như
chợ Thị Nghè, chợ Bà Chiểu, chợ Bình Hòa... càng đẩy nhanh quá trình tụ cư ở đây.

Dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng lại có thêm nhiều thành phần dân cư
từ các miền của đất nước (đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam bộ)
và cả từ nước ngoài tìm đến vùng đất Bình Thạnh ngày nay dừng chân xây dựng
quê hương thứ hai cho mình. Họ là những người nông dân thất cơ lỡ vận phải
bán thân vào làm công nhân đồn điền cho tư bản thực dân Pháp ở miền Nam; là
những người từ miền Bắc bỏ làng ra đi khi nạn mất mùa đói kém xảy ra, do chiến
tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và lan sang châu Á (1943 - 1945); là những người
dân Khmer, Chăm hiền lành rời bỏ những vùng quê miền Đông, miền Tây và
miền Trung Việt Nam về thành phố tìm kế sinh nhai và để tránh địch họa, thiên

13

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

tai; là những người yêu nước từ nhiều địa phương khác đến để cùng công tác và
chiến đấu với Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Đến thời miền Nam Việt Nam, trong đó có Sài Gòn - Gia Định đặt dưới
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, quá trình đô thị hóa ở Bình Hòa -
Thạnh Mỹ Tây diễn ra mạnh mẽ. Vùng Bà Chiểu của quận Bình Thạnh ngày nay trở
thành nơi tập trung các cơ quan đầu não hành chính, quân sự của tỉnh Gia Định và
là một trong ba thị trấn của tỉnh Gia Định: Thị Nghè, Bà Chiểu và Phú Nhuận. Dân
cư liên tục gia tăng. Do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống thực dân và đế quốc
xâm lược, một bộ phận dân cư từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông
Nam bộ và cả ở miền Trung, miền Bắc Việt Nam đã chạy về Bình Hòa - Thạnh Mỹ
Tây sinh sống. Đặc biệt là đợt di cư rầm rộ vào cuối năm 1954 theo mưu đồ chính
trị của chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa đến vùng đất Bình Hòa - Thạnh Mỹ
Tây một bộ phận đông đảo giáo dân từ miền Bắc. Bên cạnh đó, người nghèo không
chịu nổi cuộc sống đắt đỏ ở Sài Gòn cũng ra Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tìm kế sinh
nhai và định cư luôn ở đây.

Trên đà đô thị hóa, hai cụm dân cư phố chợ Bà Chiểu và Thị Nghè phát triển,
mở rộng dần phạm vi và tiến đến nối liền với nhau. Xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa được
thiết lập từ năm 1958 đã làm tăng thêm sức thu hút dân cư từ mọi miền đến đây
sinh cơ lập nghiệp. Những cánh đồng ruộng mênh mông, những khu đất sình lầy,
ngập nước dần dần được lấp đi để làm nơi cư trú hoặc biến thành ruộng vườn.
Hoạt động kinh tế của cư dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây chuyển mình dần từ nông
nghiệp sang các ngành thương mại, tiểu thủ công nghiệp, kỹ nghệ, dịch vụ... Hai
chợ Bà Chiểu, Thị Nghè ngày một phát triển, lại nằm trên cửa ngõ của Sài Gòn nên
hàng hóa đều thông qua hai chợ này để vào nội đô. Do vậy, Bình Hòa - Thạnh Mỹ
Tây đã trở thành vùng đô thị hóa khá nhanh. Mật độ dân cư ở các vùng chợ Bà
Chiểu, Thị Nghè, Bình Hòa ngày càng dày hơn, đồng thời những điểm quần cư mới
dọc theo các trục lộ giao thông cũng được hình thành như Xóm Gà, Cầu Sơn... Tuy
thế, thương mại ở đây chỉ là tiểu thương, quy mô không lớn, vốn liếng không dồi
dào vì các thương gia giàu có đều tập trung ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Sinh hoạt thương
mại chỉ giới hạn trong việc trao đổi ở địa phương, hàng hóa phần nhiều là nông
sản, hoa lợi từ các ruộng vườn, ao hồ quanh các khu vực cư trú. Chính vì vậy, bên
cạnh đại bộ phận nông dân thì ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn có những công
chức cấp thấp, thợ thuyền... bán sức lao động trong các hãng xưởng của chủ người
Pháp, người Hoa và cả người Việt ở Sài Gòn - Gia Định.

14

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Đến vùng đất mới này, từ những người “có vật lực” cho đến những người
“nghèo khổ xiêu tán” đều không thiếu trong hành trang của mình thứ “của cải tinh
thần”, đó là phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo... Chính vì vậy, Bình Thạnh
ngày nay là nơi hội tụ của nhiều sắc thái văn hóa khác nhau mà các cộng đồng cư
dân đã mang theo từ nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Ở Bình Thạnh có mặt gần như
đầy đủ những tôn giáo lớn hiện diện ở nước ta: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin
lành, Hồi giáo, Cao Đài. Ở quận Bình Thạnh ngày nay vẫn còn di tích những cơ
sở tín ngưỡng tôn giáo đã được xây dựng từ rất sớm như: chùa Sắc Tứ Tập Phước
(cuối thế kỷ XVIII), nhà thờ Thị Nghè (giữa thế kỷ XVIII), đình Bình Hòa (đầu thế
kỷ XIX). Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2019 thì 31,54% dân số của quận
là tín đồ của các tôn giáo, trong đó 20,25% dân số của quận là tín đồ Phật giáo,
10,45% dân số là tín đồ Thiên Chúa giáo. Song, dù có hay không theo tôn giáo nào,
hầu hết các gia đình đều lập bàn thờ ông bà, tổ tiên ở nơi trang trọng nhất trong
nhà. Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam mà lưu dân
đến Bình Thạnh luôn giữ gìn và phát huy suốt 3 thế kỷ qua.

Bên cạnh đó, từ khá sớm, các cơ sở văn hóa cũng được thành lập trên địa
bàn quận Bình Thạnh ngày nay: trường tỉnh học Gia Định được dựng lên vào năm
Minh Mạng thứ 5 (1824) ở địa phận thôn Phú Mỹ, Văn Miếu (đền Văn Thánh)
được dựng vào năm 1832 cũng ở xã Phú Mỹ để thờ Khổng Tử... Từ đó đã tạo điều
kiện để người dân ở vùng đất này giữ gìn truyền thống hiếu học của cha ông ta trên
vùng đất mới.

Vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây ngày càng thêm đông người và trở thành
vùng ngoại ô quan trọng, nối liền giữa nội đô với các địa phương miệt Gò Vấp, Hóc
Môn, Thủ Đức... Nhưng cho đến đầu thế kỷ XX, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn là
vùng đất rộng, thưa dân. Đất đai vẫn còn nằm trong tay bọn thực dân và được khai
thác để trồng cao su. Từ đầu đường Nguyễn Thiện Thuật ra tới đường Bạch Đằng
và từ ngã năm Bình Hòa đến cầu Băng Ky (Rạch Lăng) ngày nay là những vườn cao
su ngút ngàn của các chủ đồn điền người Pháp. Còn giới lao động nghèo tập trung
sống thành từng khu vực, đông đảo nhất là ở vùng Thị Nghè, Bà Chiểu. Tuy nghề
nghiệp, mức sống khác nhau, song cũng như các lớp cha ông, họ tự nguyện tham
gia vào các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương, viết nên những
trang sử oanh liệt của địa phương và thành phố.

Với quá trình hình thành, phát triển hơn 3 thế kỷ, trên vùng đất Bình Thạnh
ngày nay đã có 21 dân tộc khác nhau cùng hội tụ về sinh sống, lập nghiệp, trong
đó chiếm đa số là người Kinh, người Hoa, Khmer và Chăm. Theo kết quả Tổng

15

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

điều tra dân số năm 2019, trong tổng số 499.164 cư dân ở Bình Thạnh, người Kinh
chiếm 98,73%; người Hoa đứng thứ hai, chiếm 0,89%.

Các sự kiện văn hóa quan trọng diễn ra trong hơn 300 năm qua trên vùng
đất Bình Thạnh ngày nay và các vùng lân cận đã cho thấy tầm quan trọng của vùng
đất cửa ngõ này cũng như tính cách của cư dân ở đây đã được định hình trong quá
trình đấu tranh khắc phục những trở ngại từ thiên nhiên, chiến đấu với giặc ngoại
xâm để bảo vệ quê hương Tổ quốc.

Chưa thấy sử liệu nào ghi chép rõ ràng về thời gian thành lập vùng đất Bình
Thạnh ngày nay. Nhưng với sự kiện năm 1736, vua Chân Lạp là Nặc Tha vì nội
chiến phải lưu vong đã được chúa Nguyễn cho đến định cư ở đất Gia Định, tại một
khu đất bên hữu ngạn sông Bình Trị (sông Sài Gòn) thì vùng đất Bình Thạnh ngày
nay chắc chắn đã đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn từ khoảng 3 thế kỷ trước.
Khi đó, để việc liên lạc giữa vùng đất này với vùng đất thị tứ cũng như giữa chính
quyền sở tại với Nặc Tha được dễ dàng, chúa Nguyễn đã cho bắc một cầu gỗ qua
sông gọi là cầu Cao Miên, ngày nay là cầu Bông.

Đến thế kỷ XVIII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, cư dân đã đến khai khẩn
và định cư khá đông tại vùng đất bên hữu ngạn sông Bình Trị và dọc theo các con
rạch. Thống suất Nguyễn Cửu Vân có người con gái tên là Nguyễn Thị Khánh sau
khi lấy chồng đã đến khai khẩn vùng đất mé sông Bình Trị. Chồng của bà Nguyễn
Thị Khánh là một ông Nghè làm thư lại trong thành Gia Định. Theo Đại Nam nhất
thống chí, bà Nghè vì thương chồng cũng như dân trong vùng vất vả mỗi khi phải
đợi đò qua sông, qua rạch nên đã bỏ tiền huy động dân công bắc một cầu gỗ qua
rạch. Từ đó cầu có tên gọi là cầu Thị Nghè.

Trong khoảng thời gian này, lưu dân người Việt đủ mọi tầng lớp vẫn tiếp
tục tìm đến định cư tại vùng đất cao ráo, hữu tình bên hữu ngạn rạch Thị Nghè.
Trong đoàn người di cư có cả các nhà sư đi tìm nơi yên tĩnh để tu hành. Chùa Sắc
Tứ Tập Phước (tọa lạc trên đường Phan Văn Trị - Phường 11 ngày nay) là một
trong những di tích còn lại hiện nay ghi nhận sự hiện diện của những thiền sư
dòng Chúc Thánh trên đất Bình Thạnh từ những năm đầu thế kỷ XVIII (thời chùa
Nguyễn Phúc Khoát).

Vào năm 1748, con đường Thiên Lý ra phía Bắc được khai mở nối lỵ sở Gia
Định với các tỉnh phía Bắc. Con đường này được xây dựng dưới sự chỉ huy của

16

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Nguyễn Hữu Doãn. Ông cho giăng dây, vạch đường thẳng, hễ gặp chỗ bùn lầy thì
đắp cây và đất, gặp mương ngòi thì gác cầu, tạo thành một con đường thẳng tắp nối
liền trung tâm lỵ sở Gia Định băng qua rạch Cầu Sơn cho đến bến đò Bình Đông.
Đó là con đường Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày nay, chạy từ thành phố qua cầu Thị Nghè,
vùng Hàng Xanh, Cầu Sơn rồi rẽ qua Thanh Đa, Bình Quới. Đây là con đường được
mở sớm nhất trong hệ thống đường liên tỉnh của Nam bộ vì mãi đến năm 1818
đường Thiên Lý đi về phía Tây mới được xây dựng. Khi ấy con kênh Thanh Đa chưa
được đào và do đó cũng chưa có cây cầu Kinh, vì thế con đường Thiên Lý trở thành
con đường huyết mạch trong giao thông, nối liền Gia Định với vùng Đông Nam bộ,
Trung bộ và kinh đô Phú Xuân.

Năm 1772, thành phố lần đầu được quy hoạch sơ bộ bằng việc quan Điều
khiển Nguyễn Cửu Đàm cho đắp Lũy Bán Bích. Năm 1790 (18 năm sau) thành Bát
Quái được xây dựng để lập Gia Định kinh. Cửa phía Đông của thành Bát Quái (cửa
Cấn Chỉ) được mở ngay con đường Thiên Lý ra Bắc và một con lộ được mở từ giữa
kinh thành đi lên phía Bắc qua cầu xóm Kiệu (Cầu Kiệu), qua Phú Nhuận lên Gò
Vấp rồi qua cầu Bông quay về vùng Đất Hộ (Đa Kao). Vùng đất Bình Thạnh lúc này
nằm sát ngoại thành ở về phía Bắc - Đông Bắc của thành Bát Quái, chỉ cách thành
Bát Quái bằng con rạch Thị Nghè.

Trong suốt 12 năm (1776 - 1788), người dân ở đây đã chứng kiến sự xáo trộn
thay nhau làm chủ vùng đất này giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh với 8 trận đánh
lớn giữa hai bên. Năm 1779, trong một lần cùng tướng tá chạy trốn quân Tây Sơn,
Nguyễn Ánh đã đến tá túc tại chùa Sắc Tứ Tập Phước. Tương truyền, nhờ có vị sư
trụ trì cầu xin Đức Phật mà Nguyễn Ánh thoát nạn; về sau khi lên ngôi (1802), nhớ
đến ơn xưa nên Nguyễn Ánh đã sắc phong cho nhà chùa nên mới có tên
gọi “Sắc Tứ Tập Phước tự” (trước đó chùa có tên gọi là Tập Phước tự). Lúc bấy giờ
làng mạc, ruộng vườn ở các vùng phụ cận Sài Gòn bị đốt phá, bỏ hoang. Quá trình
tụ cư trên mảnh đất này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự tàn phá của chiến
tranh. Chính vì vậy, cho đến cuối thế kỷ XVII, đại bộ phận đất đai thuộc Bình
Thạnh ngày nay còn rất hoang vu, dân cư chỉ lác đác, trong đó có nhiều vùng
chưa được khai phá. Chỉ có các vùng quanh cầu Bông, Thị Nghè, Bà Chiểu đã khá
đông đúc dân cư. Đặc biệt ở vùng Thị Nghè, phố xá đã xuất hiện ở hai bên con
đườngĐTếnhitêhnờLiýT.ây Sơn làm chủ đất Gia Định, vùng Cầu Sơn được tướng Tây Sơn
là Nguyễn Trấn dự định chọn làm nơi dựng doanh trại để giữ Gia Định vì vùng
Cầu Sơn “nằm trên đường quan lộ Thiên Lý nối Hậu Giang với Thuận Hóa, giữa
vùng sông rạch thuận tiện giao thông ghe thuyền, xung quanh có sông Tân Bình

17

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

(Sài Gòn), sông Thị Nghè (trước là Nghi Giang) bao bọc”. Nguyễn Trấn dự kiến nơi
gò bằng thì lập phố chợ, cho dời cả dân Sài Gòn đến ở vùng này. Nhưng dự án này
không thực hiện được vì sau này nội bộ anh em Tây Sơn có sự bất hòa, Nguyễn
Trấn theo lệnh của Nguyễn Nhạc rút quân về để yểm trợ.

Với vị trí thuận lợi là vùng đất ven rạch Nghi Giang khá cao ráo nên không chỉ
có thứ dân mà các quan chức làm việc trong nội thành cũng đã ra vùng đất thuộc
Bình Thạnh ngày nay khai đất, lập vườn sinh sống hoặc chọn nơi đây làm nơi an
táng. Chính vì vậy, trên một khu vực vòng cung khá dài từ Phú Nhuận - Gò Vấp -
Bình Thạnh ngày nay chúng ta còn thấy có nhiều lăng mộ của một số quan tướng
thời nhà Nguyễn như: Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Tánh...
Khi giữ chức Tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt đã từng có một vườn hoa ở
ngoài thành Gia Định - khu vục cầu Cao Miên (lúc ấy tên cầu được dân gian đổi tên
thành cầu Hoa, sau đó đọc trại là cầu Bông vì kỵ húy bà Hồ Thị Hoa – người vợ đầu
tiên của vua Minh Mạng). Năm 1832, Lê Văn Duyệt mất, được an táng tại xã Bình
Hòa trên một vùng đất cao thượng du Nghi Giang (góc đường Đinh Tiên Hoàng -
Phan Đăng Lưu ngày nay). Cũng vậy, Giám thành sứ khâm sai chưởng cơ Trần Văn
Học mất năm 1837 cũng được an táng tại xã Bình Hòa trong thửa đất của ông Ngô
Văn Đức, về sau được dời đến hoa viên trước trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định
(nay là khu vực Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ trước trường Đại học Mỹ thuật).

Sau khi Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt mất (1832), Lê Văn Khôi -
con nuôi của Lê Văn Duyệt do bất bình đã dấy binh chiếm thành Bát Quái, chống
lại triều đình. Chính nhờ hệ thống giao thông đường thủy quan trọng là sông Sài
Gòn cùng với các kinh rạch và lợi dụng vị trí cửa Tây thành Gia Định mở ra ở
phía cầu thứ hai và thứ ba của rạch Thị Nghè (tức cầu Bông và cầu xóm Kiệu) mà
trong cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi năm 1835, nông dân ở quanh thành đã táo
bạo lợi dụng các kênh rạch chằng chịt của sông Thị Nghè mà họ rất thông thạo để
cung cấp các nhu yếu phẩm cho quân lính của Lê Văn Khôi vào lúc đêm tối, bất
chấp các đơn vị thủy binh của quân triều đình đóng trên sông. Quân triều đình
phải điều động thủy, bộ, tượng binh đối phó với cuộc nổi dậy do Lê Văn Khôi lãnh
đạo. Trương Minh Giảng đem đại quân và voi tới bến Bình Đồng (Thanh Đa -
Bình Quới) lên bờ theo đường Thiên Lý tiến đóng ở phía Bắc cầu Cao Miên. Bộ
binh do Trương Minh Giảng chỉ huy đã đánh nhau với quân của Lê Văn Khôi ở
xã Bình Hòa và chiếm cầu Cao Miên. Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi thất bại, năm
1836 vua Minh Mạng đã ra lệnh phá bỏ thành Bát Quái (thành Quy) để xây dựng
lại thành mới có tên gọi là thành Phụng.

18

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Cũng trong năm 1836, Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế được cử vào
Nam thực hiện việc đo lại ruộng đất và lập địa bạ. Địa bạ các thôn xã bấy giờ
cho thấy thôn Bình Hòa tuy mới lập dưới triều Gia Long nhưng có diện tích
khá lớn. Ruộng đất thực canh 216 mẫu 7 sào 3 thước, trong đó ruộng xấu điền tô chỉ
bằng 1/4 ruộng tốt thảo điền. Đất thổ cư hơn 28 mẫu với 75 sở chủ. Vùng đất phì
nhiêu này thu hút nông dân ở các vùng lân cận đến đây định cư và khá nhiều lao
động, nhất là từ vùng Phú Nhuận đến làm thuê, khiến cho vùng Bình Hòa đã
nhanh chóng phát triển để trở thành một xã có đông dân hơn các xã, thôn khác.
Ruộng ở thôn Phú Mỹ có trên 52 mẫu, ngoài ra còn có 3 mẫu dùng làm ruộng tịch
điền (ngày mùng 5 Tết hằng năm, Tổng trấn Lê Văn Duyệt đều đến cử hành lễ tịch
điền tại đây), đất thổ cư trên 38 mẫu. Thôn Thạnh Đa có 124 mẫu ruộng. Còn thôn
Bình Quới Tây thì có 239 mẫu. Gia cư hai thôn Thạnh Đa và Bình Quới nằm trên
các gò đồi, chiếm diện tích không nhiều. Từ đó ta có thể hình dung được rằng, hiện
tượng quần cư tại thôn Phú Mỹ và Bình Hòa lúc bấy giờ đông hơn hai thôn Thạnh
Đa và Bình Quới Tây. Từ năm 1848 đến năm 1857, dưới thời Tự Đức, phương
thức đồn điền lập ấp của Nguyễn Tri Phương đã góp phần tích cực vào sự phát
triển của vùng đất Sài Gòn - Gia Định nói chung và vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ
Tây nói riêng.

Tháng 2 năm 1859, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh chiếm Sài
Gòn. Chiến hạm L’ Avalanche đã được điều động tiến vào rạch Thị Nghè để thực hiện
nhiệm vụ trinh sát hệ thống phòng thủ của lũy thành phía Bắc. Vì vậy mà rạch Thị
Nghè còn có tên gọi là rạch L’ Avalanche (L’ Aroyo D’Avalanche). Từ tháng 2 năm 1859,
khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, ngay từ những ngày đầu, Nhân dân Bình Hòa -
Thạnh Mỹ Tây cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã có mặt trong những trận
đánh ác liệt để bảo vệ vùng đất thân yêu của mình. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương
được cử vào Nam chỉ huy cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ông tăng cường
củng cố đại đồn Chí Hòa dài 3 cây số, rộng 1 cây số với 5 điểm tựa để hỗ trợ nhau và
có nhiều tiền đồn bao bọc bên ngoài; tâm điểm là phòng tuyến Chí Hòa cách Bình
Hòa - Thạnh Mỹ Tây hơn 1000 mét theo đường chim bay. Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây
nằm ở vị trị tiền đồn phía Đông Bắc của tuyến phòng thủ đó. Ở phía Đông, rạch Thị
Nghè chính là chiến lũy thiên nhiên hết sức quan trọng với hai nhóm chiến lũy và hai
pháo đài được xây dựng ở tả ngạn và hữu ngạn. Rạch Thị Nghè được quân Pháp chọn
là một trong những con đường quan trọng để thọc sâu đánh chiếm Đại đồn Chí Hòa
và Sài Gòn. Trong những ngày tháng diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt giữa quân ta và
liên quân xâm lược Pháp - Tây Ban Nha, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng
Nhân dân Phú Nhuận đã có mặt trong hàng ngũ nghĩa quân và đội ngũ hậu cần tiếp

19

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

tế lương thực cho quân triều đình. Những cánh quân Pháp dùng thuyền ngược rạch
Thị Nghè nhằm thực hiện việc tuần tiễu, điều tra và đánh phá công sự của ta đều bị
đánh lui với nhiều thiệt hại, điển hình như trận đánh vào đồn Phú Nhuận của địch
vào cuối năm 1860.

Đại đồn thất thủ, Gia Định hoàn toàn rơi vào tay của quân xâm lược Pháp,
triều đình Huế bất lực nhưng Nhân dân Gia Định vẫn tiếp tục chiến đấu chống
ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước. Sau khi triều đình Nguyễn ký
hòa ước giao 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp, cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia
Định và ba tỉnh miền Đông, hoạt động quấy rối quân Pháp của Nhân dân không
ngừng diễn ra trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Nổi bật là trận phục kích của
dân làng Phú Mỹ bắn trọng thương tên Harmand - đại úy hải quân Pháp khi hắn đi
tuần thám trên sông Thị Nghè vào năm 1860.

Trước sự nổi dậy phản kháng liên tục của Nhân dân ta, quân Pháp tăng cường
lực lượng phòng thủ, đặc biệt là ở khu vực cầu Thị Nghè - Cầu Bông. Trong Dự án
Sài Gòn thành phố 500.000 dân của trung tá công binh Coffyn ngày 30 tháng 4 năm
1862 trình bày về việc phòng thủ nêu rõ: “Về phía sông và rạch Bến Nghé, rạch Thị
Nghè, nội thành được bảo vệ bằng chính các sông rạch đó, ngoài ra còn bằng hai
đồn và hai pháo đài... Pháo đài thứ hai đặt ở điểm Nam của khoảnh đất chùa vua cũ
(tức Văn Thánh miếu, ở góc sông Sài Gòn với rạch Thị Nghè phía bên kia xưởng Ba
Son)”(1). Tiếp theo tháng 10 năm 1862, Phó đô đốc, Tổng tư lệnh quân Pháp Louis
Adolphe Bonard ký lệnh yêu cầu thực hiện: “quân số các đơn vị quân đội tại Sài Gòn
không được vượt quá số quân đồn trú tại 3 cầu trên rạch Thị Nghè”. Điều này cho
thấy tầm quan trọng của việc phòng thủ ở vùng đất cửa ngõ này. Giữa năm 1864,
P.Vial - một sĩ quan phụ tá đặc trách sự vụ bản xứ thuộc bộ tư lệnh quân viễn chinh
đã phải gửi thư yêu cầu quan phủ dùng các biện pháp cần thiết để bắt tất cả “những
kẻ lang thang sống dọc lũy thành cũ, gần rạch Thị Nghè... không để trốn thoát một
người nào có tham dự vào những vụ hỗn loạn vừa qua” và đề nghị tăng cường thêm
lực lượng canh giữ các cầu ở vùng Thị Nghè, cầu Bông, đồng thời hối thúc làng Phú
Mỹ lập thêm trạm gác trên lề đường lộ mới ở lối vào Thị Nghè để kiểm tra lối ra này
cả ngày lẫn đêm. Song mọi sự phòng bị của thực dân Pháp vẫn bị vô hiệu hóa trước
tinh thần phản kháng kiên cường của những người dân yêu nước.

Cùng với việc xây dựng hệ thống phòng thủ để bảo vệ thành phố, chính quyền
thực dân cũng đã không ngừng đẩy mạnh việc khai thác quy hoạch đất đai và xây

1. Trương Vĩnh Ký, (Nguyễn Đình Đầu dịch), Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, tr. 84.

20

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

dựng phố xá trên mảnh đất cửa ngõ này. Làng xóm mới được lập nên. Cầu, đường
được khai mở, tu sửa lại. Một ngôi làng mới đã được thành lập ở vùng đất giữa
cầu Bông và cầu Kiệu vào năm 1864 theo đề nghị của quan bố Sài Gòn là Boresse.
“Làng Đà Nẵng” ở vàm Thị Nghè được dời về phía cầu Bông để lấy chỗ xây dựng
xưởng Ba Son. Một con lộ mang tên Hoàng Gia dài 1200m cũng được lệnh phác
họa để khai mở giữa khu Văn Thánh và Cầu số 3 (cầu Kiệu) vào tháng 2 năm 1865...
nhiều hương lộ, tỉnh lộ cũng được xây dựng làm thay đổi cảnh quan của vùng Bình
Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Đất đai vẫn còn rộng và hoang vu sau trận chiến 1859, chính
quyền thực dân đã thực hiện chế độ khuyến khích khai thác đất đai vào việc trồng
cây công nghiệp bằng cách chia đất thành từng lô và định giá bán. Việc bán đất
được tổ chức hai tháng một lần. Những lô đất có đơn nộp đăng ký mua trước sẽ
được đưa ra đấu giá trên bến sông rạch Bến Nghé và Thị Nghè được xếp vào loại 3
với giá 15 quan 1 mét vuông. Vì vậy từ cuối thế kỷ XIX, Bình Hòa - Phú Nhuận - Gò
Vấp trở thành vùng đất để thực dân Pháp thử nghiệm trồng cây công nghiệp, nhất
là cao su. Những vườn cao su tươi tốt đã lần lượt mọc lên ở vùng ngã năm Bình
Hòa, đồng Ông Cộ cùng với những dinh thự và hệ thống đồn bót của các chủ đồn
điền người Pháp.

Năm 1874, vùng Bà Chiểu được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Gia Định, Tòa Bố
được dời về đây. Đoạn đường từ cầu Bông đến ngã ba Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên
Hoàng hiện nay được đặt tên là Avenue de l’Inspection, nhưng dân trong vùng
thường gọi là Hàng Thị vì hai bên đường có trồng nhiều cây thị.

Phong trào đấu tranh yêu nước của Nhân dân ta vẫn tiếp tục nổ ra như thách
thức mọi hoạt động tăng cường an ninh phòng thủ của thực dân Pháp. Năm 1885,
Đề Bường (Nguyễn Văn Bường) - một sĩ phu yêu nước có nhà ở ngay chân cầu xóm
Kiệu đã tập hợp nhân dân, kết hợp với lực lượng của Phan Công Hớn ở Hóc Môn
dự định tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn mà trước hết là nghĩa quân của Đề Bường
đánh qua cầu xóm Kiệu, đốt phá công sở, đồn bót giặc ở vùng Tân Định, đốt chợ
khu Đất Hộ (Đa Kao) rồi tiến thẳng về Sài Gòn. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ
Tây lúc bấy giờ thuộc Gò Vấp đã lập tức có mặt trong hàng ngũ những người nông
dân yêu nước sẵn sàng chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Nhưng cuộc khởi nghĩa
chưa kịp nổ ra theo dự định thì Đề Bường bị bắt.

Một mặt ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của Nhân dân ta, mặt khác thực
dân Pháp vẫn không ngừng đầu tư phát triển về giao thông ở Sài Gòn - Gia Định
để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa của chúng.

21

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Năm 1896, tuyến đường sắt nối Sài Gòn, Gia Định và Gò Vấp được khởi
công xây dựng. Năm 1897, kênh Thanh Đa được khởi đào, thu ngắn được 12km
tuyến đường thủy trên sông Sài Gòn. Kênh rộng 60m, dài 1,35km và sâu 6m nối
hai nhánh eo của sông Sài Gòn đến Phú An, là đường lưu thông thuận tiện cho
các tàu thuyền có trọng tải nhỏ, đồng thời biến bán đảo Thanh Đa thành một cù
lao có 4 mặt giáp với sông. Chính địa thế hiểm trở này đã tạo nhiều thuận lợi cho
phong trào đấu tranh yêu nước của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này. Vào đầu thế kỷ 20, khi phong trào “Hội kín“
đang phát triển mạnh ở Nam Kỳ, mà đặc biệt là “Hội kín Phan Xích Long” ở Sài
Gòn thì một tổ “Hội kín” đã được Bùi Văn Lê thành lập ở Bình Quới Tây thu hút
sự tham gia đông đảo của giới thợ thuyền và nông dân trong vùng. Các hoạt động
rải truyền đơn, tấn công những vị trí quan trọng của Pháp ở nội thành... của tổ
“Hội kín” này đã gây cho chính quyền thực dân nhiều khó khăn. Không chỉ ở Bình
Quới Tây, Nhân dân khắp nơi đều tích cực hưởng ứng phong trào đấu tranh của
“Hội kín Phan Xích Long”. Một chủ trại thợ khá lớn ở Bình Hòa tên là Tám Giàu
đã nhận lời chế tạo trái phá chuẩn bị cho kế hoạch khởi nghĩa của Phan Xích Long
vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng 2 âm lịch năm 1913 ở Sài Gòn. Cuộc khởi nghĩa
năm 1913 bị thất bại, Phan Xích Long bị bắt. Tổ “Hội kín” do Bùi Văn Lê đứng đầu
tham gia trận đánh Khám Lớn Sài Gòn (1916) để giải thoát cho Phan Xích Long,
nhưng việc không thành. Thực dân Pháp bắt và xử tử nhiều chiến sĩ và đồng bào
yêu nước.

Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thực hiện cuộc
“đại khai thác lần thứ nhất”. Năm 1902, cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn được
xây dựng. Năm 1903, đường tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp, Gò Vấp - Hóc Môn, Sài
Gòn - Chợ Lớn được xây dựng... Giao thông giữa Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây với các
vùng dân cư khác và trung tâm Sài Gòn ngày càng thuận lợi. Bấy giờ từ Sài Gòn đi
Bà Chiểu có thể qua các ngõ cầu Kiệu, cầu Bông hay cầu Thị Nghè. Những người
buôn bán nhỏ từ Hóc Môn, Gò Vấp đến vùng Bà Chiểu, Thị Nghè và những công
nhân viên chức sống tại Bình Hòa nhưng làm việc tại các công sở, hãng xưởng ở
Sài Gòn đã có điều kiện di chuyển dễ dàng hơn.

Đầu thế kỷ XX, số lượng công nhân ở Sài Gòn đã tăng lên đến 25.000 người.
Phong trào đấu tranh của công nhân đã xuất hiện song hình thức đấu tranh buổi
đầu còn lẻ tẻ, manh động. Từ năm 1920, tổ chức “Công hội bí mật” do đồng chí Tôn
Đức Thắng thành lập ở xưởng Ba Son đã sớm gây được ảnh hưởng sâu rộng trong
các tầng lớp Nhân dân Gia Định. Một bộ phận Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ

22

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)

Tây trước hết là những công chức, thợ thuyền làm việc ở xưởng Ba Son, hãng mỡ
Guyonnet và hãng dầu Phú Mỹ... đã tích cực tham gia vào tổ chức công hội và các
hoạt động đấu tranh do tổ chức Công hội bí mật phát động. Đồng thời, lúc này với
phong trào “vô sản hóa” những học trò ưu tú của Nguyễn Ái Quốc đã đem ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin đến với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân
dân lao động ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Trong hai năm 1925 và 1926, phong trào
bãi công, bãi thị, bãi khóa của công nhân Sài Gòn - Gia Định đấu tranh đòi thả cụ
Phan Bội Châu và đưa tang cụ Phan Chu Trinh - những chí sĩ cách mạng yêu nước
lại một lần nữa được đông đảo Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực hưởng
ứng với ý thức chính trị sâu sắc hơn.

Có thể nói, sự có mặt của mọi tầng lớp nhân dân ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây
trong các phong trào đấu tranh yêu nước diễn ra từ nửa đầu thế kỷ XIX cho đến đầu
thế kỷ XX đã tạo cơ sở xã hội cho phong trào đấu tranh cách mạng ở Bình Hòa -
Thạnh Mỹ Tây sau này dưới sự lãnh đạo của Đảng từ những năm 1930 đến khi
Cách mạng Tháng Tám thành công.

Trong lịch sử chống ngoại xâm và đấu tranh cách mạng của dân tộc, của nhân
dân thành phố, có những đóng góp, hy sinh lớn lao của các thế hệ cư dân Bình Hòa -
Thạnh Mỹ Tây. Đó là những con người cần cù, tiêu biểu cho đức tính cần cù, chịu
thương chịu khó, nhân hậu, thủy chung; tiêu biểu cho tinh thần nghĩa hiệp hào
phóng, bất khuất nhưng lãng mạn yêu đời cũng như tính năng động nhạy bén với
thời cuộc của người Việt Nam trên vùng đất mới Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây - Bình
Thạnh ngày nay.

23


Click to View FlipBook Version