The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Wabi-sabi, 2024-03-17 09:10:21

Văn học địa phương

Văn học địa phương

STEM ĐỒ DÙNG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG ĐỒNG NAI


LỜI NÓI ĐẦU Văn học Đồng Nai chủ yếu thuộc thể loại văn học dân gian với đa phần là các câu ca dao tục ngữ,... mang đậm dấu ấn văn hóa của các dân tộc anh em sinh sống trên mảnh đất này. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, văn học Đồng Nai đã không ngừng phát triển khi xuất hiện thêm thể loại văn học viết và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam. Với mong muốn giới thiệu đến bạn đọc một cách toàn diện về dòng chảy văn học của mảnh đất này, chúng tôi cho ra mắt cuốn sách “Văn học Đồng Nai”. Cuốn sách là kết quả của quá trình nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn cẩn thận của đội ngũ tác giả, nhà nghiên cứu tâm huyết. Cấu trúc và nội dung sách gồm 2 phần: Phần 1: Văn học dân gian Đồng Nai: khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành và các tác phẩm tiêu biểu. Phần 2: Văn học viết Đồng Nai: khái niệm, đặc điểm, quá trình phát triển và các tác phẩm tiêu biểu Hy vọng rằng cuốn sách "Văn học Đồng Nai" sẽ là một nguồn tài liệu hữu ích và bổ ích cho bạn đọc. Cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về mảnh đất và con người Đồng Nai, cũng như khám phá những giá trị độc đáo của văn học Đồng Nai. Trân trọng! Ban biên soạn 1


PHẦN 1 Văn học dân gian BÀI 1: VĂN HỌC DÂN GIAN ĐỒNG NAI....................................................3 BÀI 2: CA DAO VỀ THIÊN NHIÊN XỨ SỞ VÀ SINH HOẠT XÃ HỘI...........9 BÀI 3: SỰ TÍCH THÁC TRỊ AN.................................................................11 BÀI 4: SỰ TÍCH CHÀNG ÚT NÀNG SEN..................................................16 123-456-7890 reallygreatsite.com S T E M Hình ảnh: thác Trị An 2


BÀI 1 1. Khái niệm văn học dân gian Văn học dân gian chính là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ. Có thể phân loại văn học dân gian theo 2 cách sau: - Xét về phương thức biểu diễn (hay hình thức diễn xướng), có thể chia văn học dân gian thành bốn loại hình: + Loại hình nói (luận lí): tục ngữ, câu đố. + Loại hình kể (tự sự): các loại truyện kể dân gian như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười. + Loại hình hát: ca dao, đồng dao, hát ru. + Loại hình diễn: tuồng, chèo, cải lương, múa rối. - Xét về phương diện thể loại, có thể chia văn học dân gian thành ba thể loại: I. VĂN HỌC DÂN GIAN VĂN HỌC DÂN GIAN ĐỒNG NAI Văn học dân gian Đồng Nai là một bức tranh đa sắc về cuộc sống của con người nơi đây, từ những phong tục tập quán, tín ngưỡng, đến những ước mơ, khát vọng và cả những bài học đạo đức sâu sắc. Mỗi câu chuyện, bài ca, câu tục ngữ đều mang theo âm hưởng riêng biệt, thể hiện trí tuệ, sự sáng tạo và tinh thần lạc quan của người dân Đồng Nai. “ “ 3


+ Truyện cổ dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười. + Thơ ca dân gian: ca dao, tục ngữ, câu đố, hát ru, đồng dao. + Sân khấu dân gian: chèo, tuồng, cải lương, múa rối. - Ngoài ra còn có một số những thể loại độc đáo có trong kho tàng văn học dân gian như: sử thi hay trường ca (Đẻ đất đẻ nước của người Mường, Đam San của người Ê Đê, Sing Nhã của người Gia Rai,...), hoặc truyện thơ (Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái,...) Câu hỏi: Em biết hãy chia sẻ cho các bạn một số tác phẩm văn học dân gian nổi tiếng mà em biết. 2. Các đặc trưng của văn học dân gian a) Văn học dân gian là những sáng tác ngôn từ mang tính tập thể - truyền miệng - Tính tập thể: Văn học dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ qua những thời gian và không gian khác nhau. - Tính truyền miệng: Văn học dân gian ra đời khi chưa có chữ viết. văn học dân gian là loại hình nghệ thuật diễn xướng. - Tính dị bản: Do tính tập thể và tính truyền miệng quy định.văn học dân gian có nhiều dị bản. b) Tính nguyên hợp của văn học dân gian Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp cả về nội dung lẫn hình thức phản ánh khiến cho nó không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn là một hiện tượng văn hoá. - Về nội dung, tác phẩm văn học dân gian phản ánh nhiều phương diện khác nhau của đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội. - Về hình thức, khác với tác phẩm văn học viết chỉ được diễn đạt bằng phương tiện ngôn ngữ, tác phẩm văn học dân gian, ngoài việc sử dụng phương tiện chính là ngôn ngữ, còn sử dụng thêm vài phương tiện khác nữa như âm nhạc, vũ điệu, động tác. c) Tính quốc tế và tính dân tộc - Tính quốc tế: văn học dân gian các dân tộc trên thế giới có những điểm chung. 4


- Tính dân tộc: văn học dân gian của dân tộc nào in đậm bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Câu hỏi: em hiểu tính quốc tế và tính dân tộc của văn học dân gian là như thế nào? Hãy nêu ví dụ cho cách hiểu của em nhé! II. VĂN HỌC DÂN GIAN ĐỒNG NAI 1. Sự hình thành và các đặc trưng Văn học dân gian ở Đồng Nai được hình thành trong quá trình tích hợp, cộng sinh của người Việt gốc Trung bộ, Bắc bộ với người Hoa nhập cư và các cư dân bản địa, phản ánh và cải biến theo sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Qua hơn 300 năm hình thành và phát triển, văn học dân gian nơi đây dù xuất hiện muộn nhưng vẫn có những đặc trưng độc đáo riêng. Có thể nói, sắc thái nổi bật của văn học nghệ thuật truyền thống của Đồng Nai là: có sự tích hợp, hỗn dung nhiều nhân tố của các hệ văn hóa từ Bắc - Trung - Nam, nhập cư - bản địa, Đông - Tây, truyền thống - hiện đại, thích ứng nhanh nhạy với cái mới; rộng mở trong giao lưu; hài hòa trong nếp sống; nhân nghĩa trong lối ứng xử, tiến bộ nhanh với khoa học kỹ thuật mà không xa cội, quên nguồn. Câu hỏi: Theo em, sự hỗn dung nhiều yếu tố đó có làm mất đi chất nghệ thuật văn học dân gian riêng của vùng đất Đồng Nai không? 2. Các thể loại tiêu biểu a) Tục ngữ, phương ngôn Hiện chưa có đầy đủ tài liệu để có thể nói về tục ngữ, phương ngôn của đồng bào các dân tộc Mạ, Châu Ro, Stiêng ở địa bàn Đồng Nai. Nhóm dân tộc này chưa có chữ viết, cho nên kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống và tập quán xã hội ắt được truyền đời chủ yếu qua lời nói ngắn gọn, có vần điệu dễ nhớ hình thành tục ngữ, phương ngôn trong kho tàng văn hóa dân gian địa phương. Ví dụ như người Châu Ro họ truyền nhau kinh nghiệm quan sát tự nhiên để đoán định thời tiết: "Ray nhim Đaq Gung char” hoặc "Gungchar Daq nhim Ray” (nghĩa là cây anh (to) ven sông Ray 5


khóc cây em (cỏ tranh) ở núi Chứa Chan là vào mùa mưa). Cũng vậy, họ thấy ếch kêu, ve kêu, đuôi kỳ đà đen đều, đầu tắc kè chuyển màu xanh, xướng ếch chuyển màu đen... thì tiết trời sắp có mưa. Trong ứng xử xã hội, người Châu Ro khuyên nhau giữ nếp sống "làm em chịu lành làm anh chịu cả", và ứng xử chừng mực: "vui cười quá đáng thì sống trước mắt, chết sau lưng”... Người Việt ở Đồng Nai kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha ông ở nguyên quán cho nên kho tàng tục ngữ, phương ngôn về kinh nghiệm sản xuất, qui tắc ứng xử ít có khác lạ so với xứ Bắc, xứ Trung. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm sống hình thành từ cuộc sống cụ thể ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng được truyền miệng qua bao thế hệ. Đó là những kinh nghiệm trong việc sản xuất từ việc dự báo thời tiết, mùa vụ đến việc chọn giống nuôi trồng. Nhiều khi, tục ngữ phương ngôn Biên Hòa - Đồng Nai khái quát một hiện tượng xã hội, một sự kiện lịch sử để dễ nhớ. Ví dụ: để nhắc về thầy võ ở Tân Khánh (trước thuộc Tân Uyên, Biên Hòa) diệt cọp thì có câu “Cọp Bàu Long Võ Tòng Tân Khánh”; hay nói về quan hệ tương xứng giữa hai miền thì có câu “Gái Đồng Nai trai Thuận Hóa”, hoặc lưu ý những mối hiểm nguy thì có câu “Cọp Biên Hòa, ma Rừng Sác”,... b) Ca dao Trong vốn văn hóa dân gian của người Việt, vùng đất Đồng Nai được nhắc đến trong nhiều ca dao. Cảnh quan Đồng Nai được miêu tả qua nhiều câu ca dao như: - Khó khăn, hiểm trở: "Đồng Nai xứ sở lạ lùng / Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um",... - Hứa hẹn, trù phú: "Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai / Ai về xin nhớ cho ai theo cùng",... - Nước ngon, gạo nhiều: "Đồng Nai gạo trắng nước trong / Ai đi đến đó thời không muốn về",... - Sông Đồng Nai: "Đồng Nai nguồn mọi cao sang / Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm",... - Danh xưng Đồng Nai: "Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai",... 6


Ngoài ra, các câu ca dao còn nhắc đến nhiều địa danh ở tỉnh như: Sông Đồng Nai, thác Trị An, Bình Điện, Phú Xuân, núi Bửu Long,... Các câu ca dao chủ yếu có nội dung phản ánh cuộc sống di dân, khai khẩn đất hoang, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, sản vật địa phương, tình cảm yêu thương, gắn bó quê hương, phản ánh đời sống xã hội, tâm tư con người. Ca dao là nguồn tư liệu quý giá để tìm hiểu về vùng đất và con người Đồng Nai. Qua ca dao, chúng ta thấy được một Đồng Nai đầy sức sống, với những con người mạnh mẽ, kiên cường và giàu tình cảm. Câu hỏi: Hãy tìm hiểu một số câu ca dao giới thiệu các địa danh ở Đồng Nai. c) Truyện kể Vùng đất Đồng Nai lưu truyền nhiều truyện kể khác nhau, tuy nhiên hầu hết có thể sắp xếp theo các thể loại sau: - Truyện kể về quê hương, đất nước Đồng Nai. Ví dụ: Truyền thuyết về thác Trị An,... - Truyện kể về môi trường thiên nhiên. Ví dụ: Vì sao chim cút sống ở bụi - Truyện cổ Chơro,... - Truyện kể về nhân nghĩa. Ví dụ: Sự tích trái sầu riêng,... Câu hỏi: Em còn biết các truyện kể nào khác nữa không? Hãy nêu ví dụ nhé! 3. Đặc điểm và giá trị Nhìn chung, nội dung của văn học dân gian Đồng Nai gắn liền với lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của địa phương, phản ánh đời sống xã hội, con người Đồng Nai, thể hiện ước mơ, giá trị đạo đức của nhân dân. Mang các đặc điểm về nghệ thuật như: lời văn giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống, sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường, có nhiều mô típ, nhân vật quen thuộc. Truyện kể dân gian Đồng Nai là một kho tàng văn hóa vô cùng quý giá, góp phần làm phong phú thêm nền văn học dân gian Việt Nam. Mang lại các giá trị như: - Giá trị lịch sử: Giúp ta hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của địa phương. 7


- Giá trị nhân văn: Thể hiện ước mơ, giá trị đạo đức của nhân dân. - Giá trị nghệ thuật: Mang đậm tính dân gian, sáng tạo, độc đáo. Câu hỏi: Vì sao chúng ta phải bảo tồn và tiếp tục phát huy nền văn học dân gian? Trên cương vị là một học sinh, em có thể làm gì để giúp cho nền văn học dân gian Đồng Nai tiếp tục được lưu truyền? 8


BÀI 2 1. Bao phen quạ nói với diều Ngã ba Rạch Cát có nhiều cá tôm. 2. Đồng Nai gạo trắng nước trong Ai đi đến đó thì không muốn về. 3. Đồng Nai xứ sở lạ lùng Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um . 4. Ăn bưởi thì hãy đến đây Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành Ngon thơm mít mật, cam sành Biên Hoà có bưởi trứ danh tiếng đồn. 5. Trà Phú Hội, nước Mạch Bà Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân. Cá bui, sò huyết Phước An Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Rạch Nhum . 6. Ai ơi về Đại phố Châu Thăm núi Châu Thới, qua cầu Đồng Nai CA DAO VỀ THIÊN NHIÊN, XỨ SỞ ĐỒNG NAI CA DAO VỀ THIÊN NHIÊN XỨSỞ VÀ SINH HOẠT XÃ HỘI “ Câu hỏi: 1. Em biết gì về các địa danh được nhắc đến trong các câu ca dao? 2. Qua các câu ca dao được nhắc đến ở trên, em nhận thấy vùng đất Đồng Nai là vùng đất như thế nào? 3. Các câu ca dao trên thể hiện như thế nào về đặc điểm sáng tác văn học dân gian Đồng Nai? 4. Viết đoạn văn phân tích câu ca dao em thích nhất trong các câu ca dao trên. 9


1. Xay lúa giã gạo Đồng Nai Gạo trắng về ngài tấm cám về tôi. 2. Cao su khổ lắm ai ơi Dân phu thí xác cả ngày ngoài lô Còng lưng cạo mũ cơ hồ Tấm thân trâu ngựa, tội tù khổ sai. 3. Bán buôn thúng lủng, tràng hư Mãn mùa tính lại chẳng dư đồng nào. 4. Đố ai con rết mấy chân Cầu ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim. 5. Chiều chiều vịt lội cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng Vô rừng bứt một sợi mây, Đem về thắt gióng cho mày đi buôn Đi buôn đi bán không lỗ thì lời Đi ra cho thấy mặt trời, mặt trăng. CA DAO VỀ SINH HOẠT XÃ HỘI Ở ĐỒNG NAI Câu hỏi: 1. Qua các câu ca dao, em nhận xét như thế nào về cuộc sống của người dân Đồng Nai khi xưa? 2. Theo em, cảm xúc của tác giả dân gian trong các câu ca dao trên như thế nào? 3. Em có nhận thấy các mô típ quen thuộc được sử dụng trong các câu ca dao trên không? Hãy chỉ ra các mô típ đó. 4. Hãy chọn một câu ca dao em thích và viết đoạn văn phân tích. 10


BÀI 3 Ngày xưa ở vùng Đồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ chuyên sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Đứng đầu bộ tộc này là tù trưởng Xơ-ra-đi, tuy râu tóc đã bạc phơ nhưng ông còn rất khỏe mạnh. Xơ-ra-đi-na là con trai lớn của tù trưởng Xơ-ra-đi, được cha truyền nghề cung ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày Xơ-ra-đi-na có thể dễ dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời gây khủng khiếp ở vùng giáp sông Bé và sông Đồng Nai. Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Đồng Nai có nàng Điểu Du là trưởng nữ của tù trưởng Điểu Lôi, người Châu Ro. Điểu Du say mê tập tành phóng lao với chí hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Đạt Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện nghệ của Xơ-ra-đi-na gây được sự cảm mên trong lòng Điểu Du. Và Xơ-ra-đi-na cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về tài phóng lao ở miền thượng du con sông. Năm kia, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển giông, mây đen chao đảo trên vòm trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vô bờ. Bỗng một con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay Điểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy, lồng lộn, há miệng định nuối chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy hiểm may sao thuyền SỰ TÍCH THÁC TRỊ AN “ 11 SỰ TÍCH THÁC TRỊ AN


của Xơ-ra-đi-na vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm. Xơ-ra-đi-na và Điểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xơ-ra-đi và Điểu Lôi chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Xơ-ra-đi-na phải về ở rể bên đàng gái. Xơ-rađi cho con trai mình chiếc tù và, đồng thời căn dặn thêm: – Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp. Xơ-ra-đi-na lên con ngựa trắng tiến về miền thượng du. Đi một đạon đường, gặp con suối cạn, Xơ-ra-đi-na phải dìu ngựa qua các gộp đá lởm chởm. Đột nhiên từ trên cây cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xơ-ra-đi-na. Đó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xơ-rađi-na vừa hăm dọa: – Thần hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội … Xơ-ra-đi-na nào phải tay vừa. “Thần hổ” bị đánh ngã, bèn xông tới toan cướp ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh, chồm lên dữ dội. “Thần hổ” bị ngựa đá, phóng nhanh vào rừng. Đi thêm được một đỗi ngắn, Xơ-ra-đi-na thấy Điểu Du ra đón chàng ở bìa rừng. Đằng xa Điểu Lôi cũng vừa tới. Nhân lúc ngồi nghỉ, Xơ-ra-đi-na hỏi Điểu Du: – Vùng này có hổ không em? Điểu Du cười đáp: – Thằng thầy mo Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì em không ưng nó. Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đó, Xơ-ra-đi-na lên tiếng: – Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi. Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xơ-ra-đi-na: – Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì? Một lát, hắn nhìn Xơ-ra-đi-na cười nham hiểm: – Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng cái lá chót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Điểu Du cho anh. 12


Hắn bẻ một nhánh quít rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay khiến nhánh quít run rẩy như gặp gió: – Nào, bắn đi! Dừng một phút, Xơ-ra-đi-na quát lớn. – Thần hổ, coi đây! Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xơ-ra-đi-na bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá chót. Mọi người reo hò hoan hỷ. Lễ cưới diễn ra trọng thể. Đâm trâu, rượu ngon, múa hát … dân làng ca ngợi đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối, kiếm cách trả thù. Năm sau Điểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm tã, Sang Mô nhân đó tung tin: “Điểu Du sanh ra ma quỉ, rồi sẽ có nạn mất mùa đói kém!” Do đồn nhảm Sang Mô bị Điểu Lôi quở phạt. Hắn càng oán giận. Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Điểu Lôi, Sang Mô đã sát hại tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén vào sau lưng. Rồi hắn cùng mười tên phản loạn khác kéo về suối Đạt Bo để giết luôn vợ chồng Xơ-ra-đi-na. Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xơ-ra-đi-na bỗng dưng bốc cháy. Xơ-ra-đi-na chỉ kịp hét lớn: “Có kẻ đốt nhà!” rồi ẵm con cùng Điểu Du thoát khỏi vùng lửa. Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mãi lo che chở cho con, Xơ-ra-đi-na bị thất thế. Còn Điểu Du sau một lúc chống cự cũng bị bọn Sang Mô bắt. Xơ-ra-đi-na xông tới cứu vợ. Đứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất. Bỗng một cái bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé thoát vào rừng. Sang Mô gào lên; – Đuổi theo, trừ diệt tiệt nòi! Nhưng bóng con ngựa trắng của Xơ-ra-đi-na chở Sang Mỵ trên lưng đã biến mất trong rừng. “Cho dù là em gái ta, cũng cứ bắn!”, tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ chồng Xơ-ra-đi-na quăng xuống một chiếc xuồng có chất lẫn một thứ nhựa cây dễ cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo 13


cuồng rượt theo và cứ nhắm vào xuồng của Xơ-ra-đi-na mà buông những phát tên lửa. Đến một bậc đá xuồng bị cản lại. Xơra-đi-na đã kịp tháo dây trói hai tay và rút tù và ra thổi một hồi dài. Hàng trăm người ở miền hạ du nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm ngùi trước cái chết đau đớn của Xơ-ra-đi-na và Điểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng chở Sang Mỵ có hai mũi tên cắm sâu. Nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xơ-ra-đi rồi ngã gục xuống ngựa. Xơ-ra-đi vuốt mắt Sang Mỵ. – Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta. Còn con ngựa trắng thì ngước đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy. Không thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác xoáy. Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho Xơ-ra-đi. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xơ-ra-đi xá tội. Còn Sang Mô thì bị trói chặt vào chỗ nó đã gây ra tội ác. Tù trưởng Xơ-ra-đi giương ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Bỗng ông hạ ná và hô một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng cái ná xuống dòng thác. Ông muốn cho đời sau hiểu rằng: mối hận thù phải được lấp bằng. Mọi người nên sống với nhau trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang Mỵ ông tha chết cho Sang Mô. Sang Mô rạp đầu lạy Xơ-ra-đi rồi ôm xác Sang Mỵ bước xuống xuồng, nước mắt lã chã. Từ đó người trong cùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An. Câu hỏi: 1. Em hãy tóm tắt câu chuyện trên. 2. Những chi tiết nào thể hiện tài năng của Xơ-ra-đi-na và Điểu Du? Lý do nào khiến cho hai người họ yêu nhau? 3. Thầy mo Sang Mô là nhân vật như thế nào? Thể hiện qua các chi tiết nào? 14


4. Suy nghĩ về hành động Sang My cứu con của Sora Đina - Điểu Du và cái chết của nàng. 5. Viết đoạn văn rút ra bài học mà em học được từ câu chuyện sự tích thác Trị An. 15


BÀI 4 Chàng tên là Út, ở làng trên, được cha truyền nghề thợ xoay. Nàng tên là Sen, ở làng dưới, kế nghiệp mẹ làm thợ chấm men. Cả hai đều hiền lành, chăm chỉ làm ăn, hoa tay khéo léo. Cả hai được xem là nghệ nhân nổi tiếng trong vùng gốm ven sông Đồng Nai. Chàng Út có thói quen in dấu ngón tay út vào sản phẩm của mình. Hàng gốm do chàng Út xoay được ưa chuộng, người ta đặt hàng đưa về làng dưới chấm men rồi vào lò. Nàng Sen vì tên là Sen nên thích tạo họa tiết chấm men thành búp sen xanh. Thấy có dấu ngón tay út in vào mặt hàng được xoay, tạo dáng xinh xắn, Sen cũng tinh nghịch in dấu ngón tay út mình vào bên cạnh. Lâu dần, dấu hai ngón tay út và búp sen xanh trở thành dấu hiệu của những hàng gốm được yêu thích, có giá, người ta tìm mua và bán đi khắp nơi. Một lần tình cờ gặp nhau, nhận ra sự gắn bó cần thiết cho nhau trong nghề nghiệp, chàng Út và nàng Sen kết duyên chồng vợ. Họ chung sức làm cho hàng gốm của mình ngày càng thêm đẹp, thêm độc đáo. Cuộc sống của họ cũng mỗi ngày mỗi khấm khá và hạnh phúc. Bỗng dưng binh đao nổi lên. Giặc dữ kéo đến tàn phá làng gốm. Đương lúc chàng Út đi chọn đất ở nơi xa, giặc kéo vào làng cướp bóc, bắt phụ nữ đưa về dinh trại bên kia sông, giở trò dụ dỗ, cưỡng hiếp. Nàng Sen cũng bị bắt. Nàng kháng cự nên bị giết, bị ném xác xuống sông. SỰ TÍCH CHÀNG ÚT NÀNG SEN “ 16 SỰ TÍCH CHÀNG ÚT NÀNG SEN


Được tin vợ bị bắt, chàng Út quyết vượt sông, tìm cách giải cứu. Giặc phát hiện, bắn tên giết chàng giữa dòng. Dòng sông quê hương thương đôi vợ chồng tài ba, chung thủy, dìu hai cái xác lại gần nhau, cùng trôi bên nhau. Lạ là máu họ tuôn ra không ngớt, hòa với ánh chiều rực rỡ, nhuộm đỏ cả dòng sông hàng mấy dặm. Sóng nước lại đưa máu thấm sâu vào đất hai ven bờ. Đất hóa đỏ thẫm, mịn và dẻo như quánh vào nhau không rời. Từ đó, thứ đất nhuyễn máu hai nghệ nhân tài ba và chung thủy trở thành đất làm gốm nổi tiếng cho đến bây giờ. (Trích Truyện dân gian Đồng Nai, Huỳnh Tới biên soạn, chỉnh lý, NXB Đồng Nai, 1994) Câu hỏi: 1. Có thể chia câu chuyện trên thành mấy phần? Đó là các phần nào? 2. Em hãy tóm tắt câu chuyện trên. 3. Điều gì đã khiến chàng Út và nàng Sen gặp gỡ, đồng cảm và yêu nhau? 4. Câu chuyện đã cho em biết gì về nghề làm đồ gốm ở Đồng Nai? 5. Em thấy kết thúc của câu chuyện này thế nào? Kết thúc này cho em bài học gì về xã hội? 6. Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ sau khi đọc truyện Chàng Út Nàng Sen 17


123-456-7890 reallygreatsite.com PHẦN 2 Văn học viết BÀI 5: VĂN HỌC VIẾT ĐỒNG NAI..........................................................19 BÀI 6: NHỚ BẮC - HUỲNH VĂN NGHỆ..................................................24 BÀI 7: KÒN TRÔ - LÝ VĂN SÂM.............................................................26 BÀI 8: MƯA THU NHỚ TẰM - BÌNH NGUYÊN LỘC...............................39 18


BÀI 5 1. Khái niệm văn học viết Văn học viết là thể loại văn học được trình bày và lưu trữ dưới dạng chữ viết, mang đậm dấu ấn riêng của tác giả, trái ngược với văn học dân gian được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Mặc dù ra đời khá muộn (khoảng thế kỉ X), văn học viết vẫn là một bộ phận không thể tách rời của kho tàng văn học Việt Nam, bởi nó không chỉ thừa hưởng những đặc tính vốn có của văn học dân gian, đặc trưng của văn học viết còn cho phép nó tách mình ra khỏi tính cộng đồng vốn có của văn học dân gian, dần khẳng định tính cá nhân trong các tác phẩm. Câu hỏi: Hãy liệt kê một số tác phẩm văn học viết mà em đã được học 2. Các đặc trưng của văn học viết a) Tính cá nhân Tính cá nhân được tìm thấy trong các tác phẩm văn học viết chính là một đặc trưng của văn học viết giúp ta phân biệt với văn học dân gian. Nếu văn học dân gian là tổng hòa của những trải I. VĂN HỌC VIẾT VĂN HỌC VIẾT ĐỒNG NAI Văn học viết Đồng Nai là một phần quan trọng trong nền văn học Đồng Nai, góp phần cho sự phong phú của văn học Việt Nam. Bộ phận văn học này hội tụ những giá trị văn hóa, lịch sử của con người Đồng Nai, góp phần giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn cho con người. Đến nay, văn học viết Đồng Nai đã có nhiều bước phát triển, với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng. Các tác phẩm này đã phản ánh đa dạng đời sống con người và quê hương Đồng Nai, từ vẻ đẹp thiên nhiên, con người đến nếp sống văn hóa, phong tục tập quán của người dân địa phương. “ “ 19


nghiệm đến từ một nhóm người, thì văn học viết được sáng tạo dựa trên trải nghiệm cá nhân của một hoặc một nhóm người cụ thể không đại diện cho cộng đồng. b) Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật Nhiều biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn học viết cũng là một đặc trưng của văn học viết. Để cốt truyện thêm hấp dẫn nhưng vẫn mang tính hiện thực, các tác giả văn học viết đã không còn ưa chuộng việc thêm thắt các yếu tố thần bí, phép thuật hay thần linh vào tác phẩm, thay vào đó, họ dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… để làm nổi bật tác phẩm của mình. Những thủ pháp được chọn để thể hiện sẽ nhấn mạnh mục đích của chúng. c) Thể hiện được những ý tưởng sâu xa Là sự kế thừa của văn học dân gian, nhiều tác phẩm văn học viết đã vay mượn những chất liệu tự nhiên, đơn sơ của văn học dân gian sau đó biến đổi và nâng cấp những giá trị đó thành quan điểm và tư tưởng của chính tác giả. Các tác phẩm văn học viết thường tập trung vào các đề tài về xã hội, con người, triết lí nhân sinh sâu sắc hơn so với văn học dân gian. Câu hỏi: Qua các kiến thức đã học, em hãy lập bảng so sánh đặc điểm văn học dân gian và văn học viết. II. VĂN HỌC VIẾT ĐỒNG NAI 1. Giai đoạn từ buổi đầu đến năm 1858: Đồng Nai lúc này là một vùng đất mới, dân cư thưa thớt, con người phóng khoáng, có sự hòa hợp của nhiều dân tộc. Lúc này, thành Gia Định: trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa Nam Bộ. Và cũng trong khoảng thời gian này, văn học viết Đồng Nai được hình thành. Các thành tựu tiêu biểu trong giai đoạn này: - Trịnh Hoài Đức: nhà văn hóa lớn nhất miền Nam. - Bình Dương thi xã: quy tụ nhiều tác giả nổi tiếng. - Gia Định tam gia tập: tập đại thành văn học Đồng Nai - Gia Định. Văn học dân gian trong giai đoạn này mang ba đặc điểm 20


chính: phản ánh đời sống xã hội, con người Nam Bộ, mang quan điểm nhân đạo, vượt ra ngoài giáo điều Nho gia, đề cao tình cảm gia đình, quê hương, gắn bó với người dân.Ví dụ: Trịnh Hoài Đức: "Trọn đạo con là trọn đạo tôi", Gia Định Tam Gia: xem nhẹ lợi danh, yêu quê hương,... Văn học Đồng Nai giai đoạn đầu ghi dấu ấn với những tác phẩm giá trị, phản ánh tinh thần thời đại và đóng góp cho nền văn học chung. Câu hỏi: Em biết gì về văn học Đồng Nai những buổi đầu tiên? 2. Văn học viết từ năm 1858 - 1930: Đây là thời kì nước ta bước vào giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Văn học Đồng Nai giai đoạn kháng Pháp đã phát triển mạnh mẽ dòng văn học hiện thực. Các tác giả tiêu biểu có thể kể đến như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định,... Hầu hết các tác phẩm đều phản ánh cuộc sống kháng chiến của nhân dân. Các đặc điểm chính: - Hình ảnh quê hương Biên Hòa rõ nét, toàn diện và chân thực. - Nhân vật trung tâm gồm nghĩa quân và sĩ phu yêu nước gắn bó với nhân dân. - Quan điểm thẩm mỹ mới chủ yếu nói về Người anh hùng được đo bằng "hạo khí", "sự bất tử trong lòng dân", thổi làn gió mới vào các đề tài cũ với chất tráng ca, bi hùng ca, phá cách, tiếp tục phát triển, không chịu dừng lại ở giá trị cũ. Các tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này có thể kể đến như: - Văn tế có Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa,... - Thơ luật Đường có Bùi Hữu Nghĩa,... Văn học Đồng Nai giai đoạn kháng Pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân và đóng góp vào sự phát triển chung của văn học Việt Nam. Câu hỏi: Em hãy tìm và giới thiệu về một tác giả và tác phẩm nổi tiếng của tác giả đó trong giai đoạn này. 21


3. Giai đoạn từ 1930 đến nay: a) Giai đoạn 1930 - 1945: Vào giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thắp sáng hy vọng cho dân tộc, từ đó các tác phẩm đều như được khoác lên ánh sáng niềm tin. Ngoài ra, sau gần một thế kỉ cai trị, bên cạnh những bất cập, thực dân Pháp cũng mang lại niềm cảm hứng về văn hóa, giáo dục phương Tây, từ đó góp phần hình thành đội ngũ trí thức mới, tiếp thu các giá trị quan của phương Tây hiện đại. Thành tựu tiêu biểu: - Xuất hiện nhiều nhà văn với tư tưởng tiến bộ, hướng ngòi bút về nhân dân. - Huỳnh Văn Nghệ: thơ ca hiện thực ("Bà má bán cau", "Ổ gà cháy thành than", "Trốn học"...). - Lý Văn Sâm: sáng tác truyện đường rừng (Kòn Trô, Thần Ngư Động, Xác Mu Mi trên núi đá, Răng Xa Mát…) đăng trên báo “Tiểu thuyết thứ bảy” - "Văn đàn Sông Phố": nơi tập hợp các cây bút trẻ, yêu nước. b) Giai đoạn 1945 - 1975: Văn học trong giai đoạn này gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, phản ánh sự hy sinh, gian khổ và tinh thần quật cường của nhân dân. Các tác giả tiêu biểu: - Huỳnh Văn Nghệ: "con hùm xám" miền Đông, thơ ca hào hùng ("Nhớ Bắc” (1946), “Dòng sông xanh” (1948), “Tình Súng” (1952),...). - Lý Văn Sâm: tiếp tục viết về con người và cuộc sống kháng chiến (“Tàn một mùa thơ” (1947), “Qua bến lạnh” (1947), “Thèm một ngọn đèn” (1948),...). - Hoàng Văn Bổn: "nhà văn của Đồng Nai" ("Trên mảnh đất này", "Bông hường bông cúc", "Nước mắt giã biệt"...). - Nhiều tác giả khác: Trần Bạch Đằng, Nam Hà, Giang Nam, Chu Lai... c) Sau 1975: Sau chiến tranh, đội ngũ sáng tác Đồng Nai ngày càng phát 22


triển qua nhiều thế hệ. Các nhà văn trẻ trưởng thành, đạt nhiều giải thưởng văn học. Đồng Nai tiếp tục là nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Tác giả tiêu biểu: Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ, Cao Xuân Sơn, Tạ Nghi Lễ, Trương Nam Hương... Nhìn chung, văn học Đồng Nai giai đoạn 1930 - 1975 là một giai đoạn phát triển rực rỡ, đóng góp vào nền văn học hiện đại của đất nước. Các tác phẩm trong giai đoạn này đã phản ánh chân thực cuộc sống xã hội, con người và tinh thần yêu nước của nhân dân. Sau 1975, văn học Đồng Nai tiếp tục phát triển với nhiều tác giả và tác phẩm giá trị. Câu hỏi: Em có biết tác phẩm văn học nào của tác giả Đồng Nai được xuất bản hoặc được viết gần đây không? Hãy chia sẻ cho các bạn nhé! 23


BÀI 6 Ai về xứ Bắc ta đi với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng! Mà ta con cháu mấy đời hoang Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương. Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên Chinh Nam say bước quá xa miền Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên. Ai đi về Bắc xin thăm hỏi Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi Bao giờ mang trả kiếm dân ta Chiến khu D, 1946 NHỚ BẮC HUỲNH VĂN NGHỆ NHỚ BẮC HUỲNH VĂN NGHỆ “ 24


Câu hỏi: 1. Xác định bố cục của bài thơ và nêu nội dung từng phần. 2. Bài thơ nên được đọc với giọng điệu như thế nào ở mỗi khổ? Vì sao? 3. Chỉ ra những thần thoại, truyền thuyết được tác giả sử dụng trong bài thơ. Dụng ý của tác giả khi sử dụng những thần thoại, truyền thuyết ấy là gì? 4. Em nghĩ hình tượng con người đi mở cõi về phương Nam trong bài thơ này như thế nào? 5. Từ “nhớ” được lặp lại năm lần trong suốt bài thơ. Em nghĩ điều này có ý nghĩa như thế nào? 6. Hãy viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em khi đọc xong bài thơ. 25


BÀI 7 Phụng dừng ngựa lại dưới chân một trái đồi nhỏ để tìm phương hướng. Nàng nhìn quanh mình, chỉ thấy rừng cây trùng điệp chìm trong bóng tối mênh mang và ngửa mặt lên cao cũng vẫn một vòm trời chót vót tối om như địa ngục. Phụng bắt đầu thấy bối rối mặc dầu xưa nay nàng vẫn có tiếng là gan góc. Nàng bắt loa hú dài một tiếng: rừng sâu đem tiếng vang trả lại cho nàng. Thất vọng, Phụng thở dài lẩm bẩm một mình: - Bây giờ biết Lành và Đại ở đâu mà tìm? Hai anh ấy rồi cũng đến lạc lối như ta thôi. Khổ quá ! Đi săn mà gặp bước này thà ở nhà còn hơn ! Xa tít trong cái huyền bí của đêm rừng, mơ hồ có tiếng thác đổ. Phụng lắng tai nghe. Nàng nói một mình: - Phải rồi. Thác Mu-Mi cách đây không xa, mình cứ nghe ngóng và nhắm hướng thác đổ mà về thì đúng. Nàng thúc ngựa đi mau qua đám đế khô. Nhiều lần, nàng bị những cành cây như những cánh tay lực lưỡng chìa ra, gạt nàng suýt té xuống ngựa. Mãi đến khi gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, Phụng thấy mình vẫn còn lạc lõng giữa thâm khuya. Nàng mân mê đốc dao găm, giắt bên sườn tự nhủ: - Một liều, ba bảy cũng liều ! Súng, thì Lành và Đại mỗi người mang một cây. Số mạng ta đành gởi vào ngọn khí giới cỏn con này vậy ! Phụng cúi ôm cổ ngựa nằm dài trên mình nó, mặc cho nó muốn đưa đi đâu thì đưa. Tiếng thác đã tắt từ lâu không còn nghe rõ nữa… KÒN TRÔ LÝ VĂN SÂM KÒN TRÔ LÝ VĂN SÂM “ 26


Phụng tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên một chiếc giường tre lót nệm cỏ. Một người đàn ông khoanh tay im lặng bên giường nhìn nàng. Phụng nghe nơi trán mình ê ê liền đưa tay lên định xem xét. Người đàn ông, nãy giờ vẫn ngồi bên, ngăn tay mình, lễ phép nói: - Thưa bà, bà đừng động mạnh, máu ra nhiều. Bà để yên nửa giờ, ngải sẽ hàn bớt vết thương và ngăn không cho máu chảy ra nữa. Giờ, bà cứ nằm tĩnh dưỡng đừng lo ngại gì hết ! - Nhưng, thưa ngài, Phụng hỏi, tôi muốn biết hiện giờ tôi đang ở đâu? Nàng vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn người đàn ông từ đầu đến chân. Gã còn trẻ lắm. Mặt tròn, mắt sáng, đôi môi lúc nào cũng dành sẵn một nụ cười. Màu da ngâm ngâm đen, láng như đồng, tỏ rằng gã có rất nhiều sức mạnh. Gã mặc theo kiểu những người đi săn: đầu đội nón vành lớn, chân đi ủng da đen. Trông gã oai nghi, hùng dũng lắm. Gã biết Phụng đang tò mò ngắm mình liền ngồi thẳng lên nhìn lại Phụng. Bốn luồng nhỡn tuyến vừa gặp nhau đã vội tránh nhau. Nghe Phụng hỏi, gã mỉm cười, hỏi lại Phụng: - Bà có nghe người ta nói đến tên Kòn-Trô lần nào không? Phụng ngạc nhiên, trả lời: - Có! Tôi vừa tới đây đã nghe người ta nói ở vùng này có một tướng cướp lợi hại tên là Kòn-Trô thường hay đón ô-tô du khách để đoạt tiền, hoặc bắt cóc người ta. Nhưng thưa ngài, tại sao ngài lại hỏi tôi câu ấy? - Vậy thì bà hiện đang nằm trong đại trại của Kòn-Trô. Phụng đứng phắt lên, trợn mắt: - Ngài là... Kòn-Trô? Người đàn ông cũng đứng theo lên, gật đầu: - Vâng! Phụng hãi hùng liếc mắt nhìn quanh để tìm một sự cầu cứu. Trong mắt nàng, Kòn-Trô đứng chắn ngang như một pho tượng đá. Không kịp nghĩ ngợi, nàng nhảy tới một bước, rút dao găm đâm vào ngực Kòn-Trô một nhát. 27


Kòn-Trô né mình sang một bên, đưa hai tay ra đỡ. Phụng đang lỡ đà gần ngã sấp. Chàng nói với Phụng, giọng trách móc: - Sao bà lại định giết tôi? Cái tiếng nói nhẹ nhàng ấy làm dịu cơn hăng tiết của Phụng. Nàng nói: - Tôi không định hại ngài, nhưng mà... tôi cần phải nghĩ đến sự giải thoát, thưa ngài! - A, ra chỉ có thế mà bà định đổi ơn làm oán. Tôi đem bà từ hố sâu lên, tìm ngải đắp vết thương của bà và chỉ còn đợi bà tỉnh lại là tôi sẽ đưa bà ra khỏi rừng này. Tôi có cầm bà ở đây đâu? Phụng xem Kòn-Trô không dữ tợn như người ta tưởng, nên lòng cũng bớt lo. Lại nghe chàng nói năng lịch thiệp thì nàng không tin rằng con người ấy là một kẻ đã từng cướp của giết người. Thấy Phụng ra chiều tư lự, Kòn-Trô nói với nàng: - Bà hãy yên lòng đừng nghĩ xa xôi gì hết. Tùy bà muốn đi lúc nào cũng được, hay bà ở đây tôi cũng sẵn sàng tiếp đãi bà như một quí khách. Bây giờ xin mời bà ra trại ngoài dùng bữa sáng với tôi rồi sẽ đưa bà đi viếng những vùng quanh đây. Trong trại tôi có rất nhiều ngựa tốt. Phụng nghe ruột đói như cào, liền mạnh bạo bước theo KònTrô ra trại ngoài, ánh nắng một buổi hè, tươi vàng như một màu sơn mới, chan hòa khắp cảnh lâm tuyền. Hai con ngựa song song đi bước một trên triền đồi. Phụng hỏi Kòn-Trô: - Núi này là núi gì? - Núi Klìu-bo (cọp trắng) hay Bạch-hổ-sơn cũng thế. Bà trông nó giống hình một con cọp ngồi rình mồi không? Phụng gật đầu, nói với Kòn-Trô: - Ta lên đồi chơi. Hai người xuống ngựa, trèo lên đồi. Lên tới đỉnh Phụng mệt ngất tựa mình vào một thân cây. Kòn-Trô lấy nón quạt mát cho Phụng. Ve sầu ra rả trên các ngọn cây cao. Tiếng chim chóc vui ca trong nắng hạ. Phụng chóa mắt dòm khắp bốn phía. Hơn sáu chục cái nhà sàn giống nhau vây tròn lấy trái núi. 28


Kòn-Trô nói với Phụng: - Bọn thủ hạ của tôi hơn một trăm người đều sống chung với nhau trong những căn trại ấy. Họ toàn một giống mọi Châu-Mạ (Tcau-Ma) gan dạ và đanh thép. Tôi dùng họ rất được việc mà họ rất trung thành với tôi. Tôi bảo chết, họ chết. Tôi bảo sống, họ sống. Họ thương tôi và kính trọng tôi như cha. Bà nghĩ còn lòng thương nào khăn khít hơn lòng thương của những kẻ vô gia cư, không cha, không mẹ, thân thế và cuộc đời gần giống in nhau. Không cần phải cắt máu ăn thề mà họ cũng ăn ở với nhau một niềm chung thủy. ấy cũng bởi sự chung đụng trường niên nó gây cho bọn họ cái dây đoàn thể bền bĩ, không ai có thể cắt đứt được. Ở đây, không có sự phản bội, không có sự man trá, không có sự ghen tị nó làm cho người ta phải cực lòng lo nghĩ về nhau. Tâm hồn họ đã hòa hợp cùng cỏ cây hoang dại. Phụng ngắt lời: - Nhưng sao tên ngài lại là Kòn-Trô? Kòn-Trô cười: - À, cái đó lại khác. Nguyên bản dân Tcau-Ma thấy tôi khỏe và gan lì nên gọi là Kòn-Trô. Kòn có nghĩa là con, Trô là ông trời, nghĩa là con của trời sinh ra không biết sợ gì hết. Phụng mỉm cười nhìn Kòn-Trô: - Còn tên thật của ngài? Kòn-Trô nhíu mày, thở ra: - Bà hỏi đến tên tôi tức là bà muốn tôi nhắc lại cái quá khứ đẫm máu khiến cho tôi ngày nay phải chịu sống lẩn lút cùng cỏ cây hoang vu, xa lánh hẳn loài người. Bao nhiêu lạc thú êm đềm của tuổi trẻ, bao nhiêu hoài bão của một trái tim thiếu tráng đành chôn trong góc núi, xó rừng này. Phụng thương hại, hỏi: - Ngài có thể nào cho tôi nghe cái dĩ vãng kia, không? Kòn-Trô xua tay: - Thưa bà, tôi xin bà điều ấy. Cái dĩ vãng của một tên cướp có gì là đẹp đẽ? Hai người im lặng, nhìn xuống ruộng ngô rải rác quanh đồi. Kòn-Trô chỉ một bọn mọi đang lúi húi dưới những nương khoai 29


xanh và nói với Phụng: - Bà coi! Bọn chúng tôi trồng khoai, cấy lúa, gieo bắp, gây riêng một thế giới phóng khoáng, xa hẳn gió bụi chốn thị thành. Chỉ vì một năm, gạo thua, lúa kém, chúng tôi mới phải ép lòng đón người giật của và cướp kho lương của ông đồn, tại đây. Từ đó, tiếng tăm Kòn-Trô nổi dậy một vùng. Nhưng chúng tôi chỉ báo động trong một năm ấy thôi, rồi thì cải ác, tùng thiện, trở về chốn cũ, cầm lại cái cày, quơ lại cái cuốc, sống một cuộc đời lương thiện như những kẻ nông dân. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại bị bao vây nhưng vì không thuộc đường lối nên trăm người vào đây, khó mà trở về cho đủ. Cuộc đời tôi từ đó càng ngày càng nặng tội, càng ngày càng lem luốc, càng ngày càng xa nhân loại. Người đời cho bọn tôi là một lũ quỉ sống, uống máu người không tanh… Có tiếng mõ tre nổi dậy từ trại này qua trại khác. Phụng hỏi Kòn-Trô: - Họ làm gì vậy? Kòn-Trô giảng: - Bọn Mọi đánh mõ gọi nhau về cho đủ mặt để ăn cơm trưa. Phụng lại hỏi: - Bao giờ thì Kòn-Trô đưa tôi về? - Lát nữa, tôi sẽ đưa bà ra khỏi nơi này. Hiện tôi đã cho người sửa soạn thắng yên cương hai con tuấn mã sung sức nhất và đem theo đồ ăn đường. Sáng ngày mai chúng ta sẽ tới thác Mu-Mi. Có tiếng gà gáy trưa nghe buồn rời rợi. Hai người lặng lẽ xuống đồi. Kòn-Trô nói với Phụng: - Bà có thể cho biết quý danh không? Phụng vui vẻ: - Thể-Phụng là tên tôi ! Kòn-Trô lẩm bẩm: - Thể-Phụng ! Thể-Phụng, cái tên đẹp quá… Rồi chàng hỏi luôn Phụng: - Chắc có lẽ ông nhà đang trông bà lắm ! Phụng cải chính: 30


- Tôi chưa có chồng. Tôi có hai người bạn trai theo tôi, nhưng hồi hôm này, chúng tôi đã lạc nhau. Bây giờ có lẽ họ đang nóng tuột chờ tôi lắm. Kòn-Trô khen: - Thảo nào trông bà còn trẻ quá. - Kòn-Trô, anh nên gọi tôi bằng cô hay bằng em là hơn. Chúng ta còn trẻ không nên xưng hô khách sáo như vậy. Kòn-Trô thấy lòng mình nhẹ nhàng như mọc cánh. Đã năm năm nay mới có cơn gió lạnh thổi qua vườn lòng cằn cỗi của chàng. Nắng đã tắt từ lâu mà trời vẫn còn oi bức. Mặt trời khuất lần sau ngọn Klìu-bo. Bóng tối bắt đầu bao trùm sự vật: đứng gần nhau không trông rõ mặt người. Kòn-Trô nắm tay Thể-Phụng dẫn ra sân. Có tiếng ngựa hí lẫn trong tiếng người líu lo nói chuyện. Có tiếng sắt và thép chạm vào nhau. Người ta đang sửa soạn một cuộc viễn trình. Kòn-Trô quát to: - Sụt tròi ! (thắp đuốc chai lên) Tức thì tám ngọn đuốc lóe ánh sáng đỏ rực và nhả khói mù nghi ngút. Kòn-Trô rót một cốc rượu, mời Phụng: - Cô uống một chén rượu rừng cho ấm bụng. Phụng âu yếm nhìn chàng, mỉm cười: - Anh làm như thể đưa tôi ra ngoài quan ải ! Kòn-Trô buồn rầu nói với Phụng: - Có cuộc tống biệt nào mà không làm bằng nước mắt và có cảnh rẽ chia nào lại không có ly bôi? Cô uống chén rượu này gọi là chén rượu kỷ niệm buổi chia tay này vậy! Phụng đỡ cốc rượu, uống một hơi cạn. Mặt nàng hồng hồng, đẹp như tranh vẽ. Kòn-Trô hỏi một tên Mọi đứng gần đó: - Dòn ạ zầ? (Mấy giờ) - Pzao zà ! (Sáu giờ) Kòn-Trô quay qua, bảo Phụng: - Ta lên đường! 31


Hai người lên ngựa. Hai tên Mọi cầm đuốc đưa đường. Ra khỏi trại, bốn người cho ngựa phi nước lớn. Nửa giờ sau họ đã tới trảng tranh. Kòn-Trô nói với Phụng: - Truông này nhiều hổ lắm. Cô đi lên trước, để tôi giữ hậu cho. Phụng nhìn Kòn-Trô, mỉm cười tỏ vẻ cám ơn. Dưới ánh đuốc, chàng đẹp như những tay kợ mã thời xưa. Hết cây đuốc này, thay cây đuốc khác, đi đến nửa đêm thì tiếng thác Mu Mi nghe đã rõ. Phụng nói: - Tối hôm qua tôi cũng nghe tiếng thác đổ như đêm nay mà đi hoài không tới. - Là vì cô không thuộc lối ! Nhờ vậy mới có cuộc gặp gỡ hiếm có này: một cuộc kỳ ngộ đã đem lại cho lòng tôi biết bao cảm giác êm đềm.. Phụng thấy ngượng liền buông một câu hỏi bâng quơ: - Kòn-Trô ơi! Anh không nghĩ đến ngày quay về với cuộc đời lương thiện hay sao? Kòn-Trô buồn rầu không nói. Vẻ cảm động hiện rõ lên mặt. Lời nói của ai kia như thúc giục tấm lòng ham muốn trở lại với người đời. Phụng lại hỏi: - Anh định sống suốt đời ở đây, sao? Kòn-Trô thấp giọng: - Loài người họ có tha tôi đâu mà mong trở về với họ. Và, đối với pháp luật, tôi là một tên tử tù, con đường về không bao giờ còn mở cửa nữa rồi! Trời sắp sáng. Chim ngàn rộn rã lên đường. Kòn-Trô cho hai người Mọi trở về, còn mình thì theo Phụng tới thác Mu-Mi. Kòn-Trô chỉ một ngọn suối chảy ngang trước mặt, nói với Phụng: - Chúng ta cho ngựa xuống lội suối một quãng dài rồi sẽ lên đất. Làm thế cho lạc mất dấu ngựa của chúng ta. Lỡ có ai theo dấu cũng không đáng ngại. 32


Phụng khen: - Anh cẩn thận và mưu lược quá! Hai con ngựa đi bì bỏm dài theo dòng suối nhỏ. Gặp chỗ có đá nhiều, Phụng giật mình, mấy lần sắp ngã. Kòn-Trô đưa tay đỡ nàng. Hai ngựa giao kề. Phụng nằm gọn trong cánh tay Kòn-Trô. Nàng bẽn lẽn nói: - Không có anh, em té xuống ngựa rồi còn gì ! Kòn-Trô mạnh bạo: - Anh cũng ước sao em ngã nhiều lần như thế để anh được nâng đỡ tấm thân ngọc ngà của em. Những ngày sống của anh chỉ có nghĩa trên đoạn đường này thôi. Phụng làm thinh. Lòng nàng hiu hiu một cảm hoài nhè nhẹ. Nàng thấy mình chỉ thương hại Kòn-Trô thôi. Tuy nhiên, nàng cũng an ủi chàng: - Mùa hè năm sau, em sẽ tìm về đây thăm anh. Một năm có là bao! Kòn-Trô nhếch một nụ cười đau đớn: - Chừng ấy, biết anh có còn sống để chờ em không? Em nên nhớ rằng lúc nào anh cũng sống trong sự nguy hiểm. Người ta đã đánh giá mạng sống của anh rồi ! Hai người im lặng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tiếng thác đổ rầm rộ tưởng chừng như chuyển động cả đất trời. Trời sáng dần. Gà rừng gáy khắp nơi, báo hết đêm dài. Hai người giật cương ngựa leo lên bờ suối. Kòn-Trô cảm giác như mình ngồi trên ngựa không vững nữa. Trời sáng mau quá. Kòn-Trô không giữ được cảm động, ngùi ngùi ngâm lên như một người say rượu: Mais je demande en vain quelques moments encore, Le temps m'échappe et me fuit. Je dis à cette nuit: "Sois plus lente" et l'aurore Va dissiper la nuit..." Lamartine Rồi chàng ngửa mặt lên trời, cười sằng sặc. Phụng cảm động khuyên chàng: 33


- Anh nên can đảm lên ! Người anh hùng không nên để lòng mình dễ rung động như vậy. Kòn-Trô vẫn cười sằng sặc. Ra khỏi cửa rừng, Phụng mừng rỡ: - Thác Mu-Mi kia rồi ! Dưới ánh bình minh lộng lẫy, hằng ngàn tấn nước từ ngọn sông cao đổ xuống vực sâu làm thành những tiếng động kinh hồn. Phụng ghìm cương ngựa lại bên bờ thác. Nàng nhẹ nhàng nói với người bạn chung đường: - Đã tới lúc chúng ta phải xa nhau, hẳn rồi ! Giọng nàng thấp mãi xuống vì cảm động. Kòn-Trô mỉm cười, từ giã: - Thôi cô về đi ! Đã đến lúc mà tôi không còn theo cô được nữa. Giờ thì cô... em lên đường bình an. Phụng cúi đầu, không nói. Kòn-Trô ngậm ngùi rằng: - Rồi đây, năm tháng sẽ đi qua. Núi sẽ mòn. Sông sẽ cạn. Không có cái gì tồn tại dưới sức tàn phá âm thầm nhưng mãnh liệt của thời gian. Huống chi là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của hai người tuổi trẻ. Người ta rất dễ quên nhau… Phụng vẫn cúi mặt, im lời. Những loạt lá trổ đổ xuống ào ào phá tan sự im lặng giữa hai người. Bỗng Phụng ngẩng mặt lên chăm chú nhìn Kòn-Trô. Thiếu niên cảm giác như trái tim mình ngừng đập. Rút một chiếc khăn tay ở túi ra, rồi hái một đóa trang rừng gói vào trong, Phụng mỉm cười nhét vào tay Kòn-Trô để làm trọn một cử chỉ xã giao: - Đây ! Em chỉ có cái này làm kỷ niệm. Anh hãy giữ lấy nó đừng làm mất, em bắt thường đó !... Kòn-Trô đưa hoa lên mũi. Nước hoa tẩm trong chiếc khăn tay thoảng một mùi hương nhè nhẹ, thơm như mái tóc của một giai nhân. Lúc ấy đúng vào mùa hoa chai nở. Những cánh hoa li ti điểm trắng rừng xanh, lờ mờ như có một lớp tuyết phủ. Mặt trời đỏ chói, trồi lên sau ngọn Bạch-hổ-sơn; rực rỡ như một vầng hào quang tỏa quanh đầu đức Phật… Phụng ngước mắt nhìn trái núi. Ngọn Bạch-hổ-sơn hình như cũng đang nhìn nàng. Phụng nói: 34


- Suốt đường về, mắt em sẽ không rời ngọn núi tri kỷ này ! Rồi nàng nắm tay Kòn-Trô, nói nhỏ: - Thôi, em đi! Kòn-Trô giữ bàn tay Phụng trong tay mình một lúc lâu. Sau cùng chàng nói: - Em đi, kẻo muộn! Phụng giục ngựa quay đi để giấu sự cảm động. Bỗng Kòn-Trô, gọi với theo: - Thể-Phụng! Phụng dừng cương. Kòn-Trô gượng cười, hỏi: - Độ mấy giờ thì Phụng lên đường, về tỉnh? - Xế chiều nay ! Kòn-Trô đưa roi ngựa lên cao khỏi đầu, vẫy vẫy giọng luyến tiếc: - Chúng ta sẽ gặp nhau một lần chót ở cây số 90, ở đầu dốc lớn. Anh sẽ đón em ở đó, ba giờ chiều nay ! Phụng gật đầu. Con ngựa trắng chồm cổ lên cao hí dài một hồi rồi lao mình xuống triền hố… Bốn năm sau… Có một cặp vợ chồng trẻ tuổi đến viếng thác Mu-Mi đúng vào mùa trang nở. Bông trang rực rỡ nhuộm đỏ loáng rừng chạy dài theo hai bên bờ thác. Cành chai điểm trắng những hoa non nhỏ li ti, trông xa như tuyết phủ. Người vợ nằm tay chồng kéo ra bờ thác. Hai người đứng trên bờ đá cao dòm xuống vực. Những gộp đá khổng lồ, nằm gối lên nhau, bắt ngang con sông như một dãy trường kiều. Từng khối nước nặng nề trôi băng băng từ bực cao xuống bực thấp, tung khói sóng mịt mù. Thiếu phụ nói nhỏ vào tai chồng: - Ghê quá, mình ơi! Chồng chỉ rừng trang đỏ ối, âu yếm hỏi vợ: - Em có thích những đóa hoa kia không? Trông chúng nó rực rỡ như màu áo của em !... - Hoa gì vậy, mình? 35


- Trang rừng. Thiếu phụ châu mày, lẩm nhẩm, lập lại: - Trang rừng! Trang rừng, những đóa hoa có sắc nhưng không hương… Rồi như chợt nhớ ra điều gì, nàng giật mình chớp lia đôi mắt ướt. Lờ mờ trong dĩ vãng xa xăm, nàng mang máng sống lại cảnh "một đêm sương" của mùa hạ cũ. Hình ảnh một người trẻ tuổi đã đưa nàng qua những tấm rừng dày về thác Mu-Mi, bỗng hiện về trong trí nhớ. Niềm cảm xúc reo động trong quả tim non, sâu xa và thấm thía vô cùng. Có ai ngược về lối cũ của thời gian mà không thấy lòng mình bồi hồi rung động, khi dòng tư tưởng ngừng lại ở một quãng quá khứ đầy kỷ niệm? Thiếu phụ thì thầm: - Kòn-Trô ! người chồng vội hỏi: - Gì? Em vừa nhắc tới hai tiếng Kòn-Trô? Làm gì có Kòn-Trô nữa mà sợ ! Tên cướp rừng khét tiếng ấy đã bị người ta giết mất cách đây bốn năm, vào một buổi chiều mùa hạ… Thiếu phụ nắm lấy vai chồng, thất sắc: - Ai giết? Vì sao Kòn-Trô lại bị giết? Chồng trách vợ: - Mình lạ quá ! Cái chết của một kẻ cướp đã khiến mình quan tâm đến như thế kia, à? Người vợ cười ngất: - Ờ, lạ quá… Nàng lau mấy giọt mồ hôi đọng trên trán: nơi ấy lờ mờ một vết thẹo nhỏ. Nàng quay mặt giấu một tiếng thở dài nhè nhẹ... Nàng tươi cười dịu giọng nói với chồng: - Em muốn biết người ta làm cách nào giết được Kòn-Trô. Em nghe người ta nói nó giỏi võ và khỏe mạnh lắm, mà ! Chồng tát yêu vợ: - Có vậy mà cũng nóng nảy ! Thủng thỉnh anh kể chuyện cho mà nghe. Theo lời người ta thuật lại thì Kòn-Trô chết vì một người con gái đến nghỉ hè tại đây. Thiếu phụ biến sắc cúi đầu. Người chồng tiếp: 36


- Trong một cuộc đi săn lạc mất lối về, người nữ sinh ấy tình cờ lọt vào nội địa của Kòn-Trô. Nó tiếp đãi nàng rất mực tử tế và sau cùng lại đưa nàng về thác Mu-Mi. Vì quá nặng lòng trìu mến, nó còn hẹn với nàng rằng nó sẽ theo và tiễn nàng một lần chót trên đoạn đường về. Cũng bởi mạng nó đã cùn, nên mới khiến cô nữ sinh kia đem khoe chuyện ấy với hai người bạn học cùng lớp. Hai người kia lén đi báo tin cho ông đồn Chân-Mạ hay… Thiếu phụ rên lên một tiếng não nùng: - Bây giờ... mình mới rõ. - Mình nóng quá ! Yên ! Tôi nói cho mà nghe. Thế rồi, một viên quản đồn và hai mươi người lính võ trang đầy đủ, ra mai phục ở ven rừng. Đúng mười lăm giờ kém một khắc, Kòn-Trô lững thững cưỡi ngựa, ung dung đi vào giữa hai hàng súng. Một tiếng hô to. Hai mươi khẩu súng cùng nhả đạn, một lượt. Kòn-Trô bị đạn khắp mình, máu me tuôn ướt áo. Thiếu phụ rên rỉ: - Trời ơi ! Thế thì chết mất, còn gì? Người chồng lấy làm lạ, đăm đăm nhìn vợ. Thiếu phụ gượng giữ vẻ bình tĩnh vừa cười vừa hỏi chồng: - Nó chết chưa, mình? Chồng tiếp: - Kòn-Trô quả thật không thẹn với tên. Thật là một người anh hùng dũng mãnh. Tuy khắp người bị thương, nó cũng còn sức ngồi trở mặt ra phía đuôi ngựa, thúc chân một cái, con tuấn mã nhảy khỏi vòng vây. Con ngựa phi nước lớn. Nó ngồi trên mình con thú tinh khôn nhắm bắn ngã luôn năm người lính đồn rồi kiệt sức, rơi nhào xuống ngựa. Người ta xúm lại quanh nó. Nó nằm ngửa trên mặt lá ủ, mắt mở trừng trừng. Lúc người ta sắp khiêng nó đi thì nó xin nằm nán lại vài phút. Đến khi nghe tiếng kèn xe hơi của ai vọng lên ở xa xa, nó mỉm cười mấp máy đôi môi. Nó đưa một chiếc khăn tay đàn bà cho ông đồn và ra hiệu biểu đắp dùm mặt nó. Đem Kòn-Trô về đến đồn thì nó chết. Thiếu phụ nghe xong, hỏi chồng: - Ai kể cho mình nghe mà rành mạch dữ vậy? - Anh đọc báo. Độ ấy mình không đọc thấy cái tin ấy, sao? 37


- Không ! Lâu quá, em quên mất. Vả, em sơ ý không hay đọc những tin tức đổ máu. Em sợ lắm. Em buồn lắm. Người ta cứ tìm cách giết hại nhau mãi… Thiếu phụ ngước mắt lên. Núi Bạch-hổ đứng sững trong cõi mịt mù của khói ngàn xanh xám. Một miếng mây trắng quấn qua đầu đỉnh non xa như một bức khăn tang. Hình ảnh trái núi kia, trải bao nhiêu năm cách biệt, vẫn còn nguyên vẹn như tấm lòng không thay đổi của một người tri kỷ. Thiếu phụ chùi mắt, nói với chồng: Nắng hạ gay gắt quá làm em chói mắt, khó chịu. Mình coi đây ! Nước mắt em cứ ràn rụa ra mãi thế này! Chúng ta vào nhà "thủy tạ" nghỉ một lát, đi mình! Hai người quay đi. Sau lưng họ, tiếng thác vẫn rền rĩ mãi không thôi như lời ai than khóc một nỗi hận dài... (Sông Bé, mùa nắng, năm 1941) Câu hỏi: 1. Thiên nhiên miền Đông Nam Bộ được tác giả khắc họa như thế nào? 2. Hình tượng nhân vật Kòn Trô gợi cho em những suy nghĩ gì? 3. Tình cảm mà Kòn Trô dành cho Phụng và Phụng dành cho Kòn Trô khác nhau như thế nào? 4. Sau khi đọc xong tác phẩm, em thấy kết cục của nhân vật Kòn Trô có hợp lý không? 5. Qua truyện ngắn Kòn Trô, Lý Văn Sâm muốn gửi gắm điều gì cho bạn đọc? 6. Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc xong tác phẩm. 38


BÀI 8 Đi đường Trương Minh Giảng để ra ngoài đô thành, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt khách, đâm ra một con đường phố mới, chưa có tên, tạm gọi là Lộ 18. Bên phía tay mặt phố là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi đó, tục gọi là chợ Bà Y. Đó là xóm nhà của đồng bào Quảng Nam - Quảng Ngãi tới đây lập nghiệp từ lâu, kẻ trước người sau, từ hơn hai mươi năm nay. Người ta giới thiệu tôi với gia đình ông Y, mà tên của người vợ được lấy đặt tên chợ. Ông Y, là một bác thợ dệt, gốc ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào đây sanh sống từ những năm đói kém tiền chiến. Bác ta làm công cho một xưởng dệt Khách ở Chợ Lớn. Hôm tôi vào xóm Quảng Nam năm ấy, trời giữa thu như độ nầy. Mưa dầm không nặng hột cứ rơi mãi không thôi. Thế mà khi tôi bước vào nhà với một người bạn thì chúng tôi bắt chợt bác Y đang làm công việc gì đó ngoài sân. Chúng tôi phản đối lấy lệ khi bác bỏ làm để tiếp khách. Nhưng quả thật chúng tôi không buồn xem cho biết công việc của bác thuộc vào loại gì. Cũng như ở các ngoại ô xa khác, xóm nhà lá nầy khá nên thơ: sân cát, quanh nhà trồng tre sống mà những mụt măng gợi nhớ nhà quê. Tôi hỏi thăm bác Y về đời sống hằng ngày ở Quảng Nam, hỏi tên những cây mọc dựa đường, tên địa phương của dụng cụ nông nghiệp v..v. và xin bác đọc cho chép một mớ ca dao địa phương mà bác nhớ. MƯA THU NHỚ TẰM BÌNH NGUYÊN LỘC MƯA THU NHỚ TẰM BÌNH NGUYÊN LỘC “ 39


Bác Y lơ đãng trả lời, tỏ ra không phải không trọng khách nhưng bực bội về những đề tài bác không thích. Được dịp tiếp xúc với thợ kỹ nghệ, tôi khá sành tâm lý họ. Phần đông thích nói chuyện nghiệp đoàn, chuyện giải trí ở châu thành, hoặc khoe nhà máy. Nếu lúc đó tôi hỏi bác ta xưởng bác sản xuất mấy vạn khăn lông mỗi tháng chắc bác ta nồng nhiệt trả lời, kể ra hằng tá chi tiết rất khô khan. Nên chi tôi không ngạc nhiên và thất vọng lắm về vẻ lạnh lạt của bác. Cuộc “phỏng vấn” đã chấm dứt, nhưng trời cứ mưa hoài, nên chúng tôi ngại ra về. Ngồi nhìn giọt tranh mãi cũng chán, nên tôi lén quan sát người chủ nhà hà tiện lời kia. Bỗng tôi sực nhớ một cử chỉ của bác ta mà tôi bỏ qua từ lúc khởi đầu nói chuyện: là mắt bác luôn luôn nhìn ra góc trái sân nhà và không bao giờ rời chỗ đó ra. Chà, bậy quá, tôi nghĩ thầm. Té ra bác ta có một công việc quan trọng nơi đó mà phải bỏ dở vì mình. Tôi nhìn theo chỗ ngó của bác Y. Qua những làn mưa tro trắng đục, tôi thấy lơ thơ vài bụi sả đang ngã nghiêng trước gió. Phía sau mấy bụi sả là một cây dâu già, to bằng cây ổi bốn năm tuổi. Nước mưa thoát ra đường mòn trước nhà do góc rào đó và mài khuyết đất quanh gốc dâu. Một cái mương nhỏ đang đào dở chừng để xuyên tạc đường nước, bấy giờ đã bể bờ và nước lại trở về đường cũ. Thì ra hồi nãy bác Y đang bận cứu cây dâu, chừng như quí lắm nên bác ta mới dầm mưa mà làm việc và hiện đang sốt ruột trông thấy. - Cây dâu nầy bác trồng à ? - Dạ, trên mười năm rồi! - Để làm gì, rơ miệng cho các cháu? Ta có tục tẩy lưỡi trẻ con bằng lá dâu vì thứ lá nầy nhám. - Dạ không, tôi không có con. - Vậy để đuổi tà ma? Bác Y mỉm cười: - Tôi không sợ ma quỉ cho lắm. Mặt bác Y giãn ra, bớt vẻ băn hăn bó hó. 40


- Chớ bác trồng dâu làm gì ? - Để cho nó giống làng tôi. Trong Nam nầy, ít khi tôi được thấy cây dâu lắm, nhứt là ở Sài Gòn. - Ngoài bác, người ta trồng dâu nuôi tằm hả? Nghe nói tiếng "tằm", mắt bác Y bỗng sáng lên rồi ươn ướt. Tôi chợt hiểu bác ta, kéo ghế ngồi xít lại gần bác rồi hỏi thêm, giọng cố thân mật: - Cây dâu khiến tôi nhớ tằm. Có phải để… Bác Y bẽn lẽn như con gái bị người ta đoán trúng tim đen, nhưng lại sung sướng đến mọc óc trên da mặt. Bác quên tôi là người lạ, nắm lấy tay tôi, nói một thôi không ngớt: - Những ngày trời ủ dột như vầy, tôi nhớ nhà thì ít mà nhớ tằm sao mà như nhớ người tình nhơn đầu. Tôi nhớ “hén” lạnh, tôi nhớ “hén” đói vì dâu ướt át suốt ngày, khó tìm ra dâu ráo cho “hén ăn”. Bác Y nói đến con tằm mà y như người ta nói đến một người bạn, dùng tiếng “hắn” để kêu nó, và cái giọng Quảng Nam biến hắn ra hén, nó bùi ngùi làm sao buổi trưa hôm đó. - Nên tôi trồng cây dâu nầy, bác Y tiếp, để sáng sáng, chiều chiều ra nhìn lá mà nhớ hén. Nhiều đêm, nằm vừa thiu thiu ngủ là tôi nghe văng vẳng tiếng rào rào, ngỡ hén đang ăn lên, tôi vụt ngồi dậy rờ quanh thì không có gì hết. Buồn quá tôi thắp cây đèn dầu, chạy ra sân soi vào lá với hy vọng hão huyền tìm gặp một con tằm hoang. Lạ thật! Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, tằm vẫn ở hoang chớ phải không thầy? Nhưng sao bây giờ không có tằm hoang nữa. Tôi trồng cây dâu nầy mười năm, mỗi đêm mỗi trông đợi mà không bao giờ gặp tằm hoang cả. Lúc ấy từ nhà ai ngoài sau, vọng đưa ra tiếng hát ru con. Tiếng ấy hát rằng: Ù... Ơ... Em tôi buồn ngủ buồn nghê, Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi. Nghe hát, bác Y chụp nói: - Thầy có thấy tằm “hén” chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo và nó dễ thương làm sao! Hén ngủ “thức lớn” rồi hén thức chơi với 41


mình suốt bảy ngày, rồi hén “chộ”. Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả nong đều chín đỏ như người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu huyết lại để chuẩn bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu! À, thầy nên chép câu ca dao nầy mà hồi nãy tôi quên: Thương tằm cổi áo bọc dâu, Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình. Con tằm hén giống như đứa con èo uột. Hén hay đau ốm lắm. Mình cực khổ với hén hết sức mà lắm khi hén bạc tình, hén lăn ra chết ráo nạo từ nong nầy qua nong khác. Mà có lẽ cũng vì hén như hũ mắm treo đầu giàn như vậy nên mình thương hén càng nhiều chăng? Mà thầy ôi, bạc tình chính là tôi, chớ không phải tằm đâu. Tôi đã bỏ tằm, vô trong nầy... người bạn tôi có lỗi gì đâu. Bấy giờ tôi mới hiểu thấu đáo con người đó. Đây là một anh thợ tiểu công nghệ miễn cưỡng trở thành một anh thợ kỹ nghệ nên cứ bùi ngùi nhớ xưa. Và quả anh ta lòng không khô héo như tôi đã ngỡ. Người thợ tiểu công nghệ rất thương nghề vì chính hắn làm lấy mọi công việc. Bác Y đã khó nhọc để tằm, bền chí ươm tơ nên bác thương nhớ tằm là phải lắm. Bác Y lại tiếp: - Tơ mà nó vô tới Sài Gòn thì mùi tằm không còn được bao nhiêu. Tôi ưa hít tơ lắm, như là hít áo của một người yêu để nhớ hơi, mà tơ ở đây, hít đến mệt phổi cũng không nghe hơi hám gi. Mưa đã dứt. Người bạn tôi đã nhiều lần ngáp dài giữa câu chuyện “con tằm đỏ chín” nầy nên đứng dậy kiếu về. Tôi siết chặt tay bác Y nhưng chắc lòng tôi thương bác không bằng bác nhớ tằm. Ra đến ngoài, bác còn hỏi tôi: - Chắc thầy cũng thương tằm lắm phải không? Tôi nhìn mặt thầy thì đoán biết. - Phải, tôi nói láo bừa, tôi thương tằm lắm. Bà nội tôi ngày xưa có để tằm mà! Thu 1956 42


Câu hỏi: 1. Vì sao sống ở đô thành bác Y lại nhớ tằm (nhớ nghề cũ, nhớ đến loài con vật từng thân thiết, nhớ quê hương bản quán,...) ? 2. Qua truyện ngắn “Mưa thu nhớ tằm”, Bình Nguyên Lộc muốn gửi gắm điều gì đến với bạn đọc? 3. Nghệ thuật kể chuyện của nhà văn có điểm nào đặc sắc? 4. Nêu nhận xét về ngôn ngữ của tác phẩm (của người kể chuyện, của nhân vật,...). Có mấy lớp ngôn từ địa phương trong truyện ngắn ? 5. Hãy viết đoạn văn ngắn (8 - 10 dòng) về ý nghĩa mà em rút ra được khi đọc tác phẩm. 43


TÀI LIỆU THAM KHẢO https://pqt.edu.vn/tai-lieu-giao-duc-dia-phuong-tinh-dongnai.html? fbclid=IwAR3rBKAT8YH5hPVxZfzoydiR1HYIyPXYEGE3HKRGlMIdPy jLUCVznLC3hWY https://123docz.net/document/8341538-dongnai-van-hoc-dia-phuong-phan-1.htm https://daihoctantrao.edu.vn/media/files/gavh.pdf https://tailieu.vn/doc/dong-nai-van-hoc-dia-phuong-phan-1- 1756376.html#google_vignette http://thpt-thongnhat.edu.vn/tintuc-su-kien/hoat-dong-chuyen-mon/tai-lieu-tham-khao-de-dayva-hoc-mon-giao-duc-dia-phuong-dong-nai-phan-van-11-tu-ngay6.11.2023.html http://tuyengiao.dongnai.gov.vn/Documents/H%C6%AF%E1%BB% 9ANG%20D%E1%BA%AAN%20GI%E1%BA%A2NG%20D%E1%BA%A0 Y.pdf 44


Click to View FlipBook Version