The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Văn Bút Vùng Tây Nam Hoa Kỳ
HƯƠNG XUÂN NGỌT NGÀO

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2022-01-26 16:18:00

Văn Bút Vùng Tây Nam Hoa Kỳ HƯƠNG XUÂN NGỌT NGÀO

Văn Bút Vùng Tây Nam Hoa Kỳ
HƯƠNG XUÂN NGỌT NGÀO

THƯ XUÂN

VBVNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ

Kính gửi :
Quý vị Văn Thi Hữu Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và Quý Thân Hữu ngoài VBVNHN
Mùa Xuân đang về, Ban Đại Diện và các Hội viên Văn Bút VNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ, chúng
tôi hân hạnh Ra Mắt sách điện tử E-Book số 2 mừng Xuân Tân Sửu 2021 .
Kính chúc toàn thể quý Vị :
Năm mới 2021 được dồi dào sức khỏe, hạnh phúc ,
gặp nhiều may mắn trong cuộc sống .

Một mùa Xuân nữa xa Quê Hương
Hải Ngoại mây mờ phủ khói sương
Mỹ Quốc trời vương sầu thế sự
Tìm trang E-Book mở lòng thương (ĐDP)

Kính thưa
*Quý Văn Hữu tân Chủ Tịch Cung Thị Lan, cựu CT Dương Thành Lợi và Ban Chấp Hành
VBVNHN Trung Ương.
*Quý Văn Thi Hữu VBVNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ.
*Quý Văn Hữu Chủ Tịch và quý VH Hội viên các Vùng Đông Bắc HK,Đông Nam HK, Nam HK.
*Quý Thân Hữu tại Canada, Úc Châu, Âu Châu, Đức quốc .

Thưa quý vị
Ebook số 1 chủ đề Nắng Hạ Mưa Thu , đã xuất bản vào mùa Hè 2020 được các độc giả gửi lời
chúc mừng khen ngợi, chúng tôi rất cảm kích. Cám ơn quý vị .
Nay Ebook số 2 Xuân Tân Sửu 2021 với chủ đề Hương Xuân Ngọt Ngào được thành hình do các
tác giả Văn thi hữu gửi tác phẩm và sự trợ giúp của Mr. Đông Đào với cô Erlinda Thùy Linh,
chân thành cám ơn quý thân Hữu .
Trong trái tim của mỗi người chúng ta đều biết Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là Quê hương thứ hai
của những người tị nạn CS đi tìm tự do. Chúng ta được định cư sinh sống nơi đây vốn là tôn
trọng Hiến Pháp, bảo vệ nhân quyền, và chúng ta vẫn giữ niềm tự hào là một công dân Mỹ, luôn
có nguồn cảm hứng hướng thượng với niềm tin vào Sự Thật như các Tổ phụ di dân xưa từ thời
lập Quốc : “ In God We Trust “.
E-Book số 2 là món quà tinh thần của VBVNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ gửi biếu quý độc giả bốn
phương thân mến dịp mừng Xuân 2021 nơi Hải Ngoại.
Một lần nữa kính chúc quý vị và bảo quyến :

Năm mới An Khang- Thịnh Vượng .

Trân trọng kính chào.

Ban Đại Diện VBVNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ :

Đình Duy Phương Chủ tịch .
Đinh Mộng Lân Phó Chủ tịch nội vụ
Huỳnh Nguyệt Ngân Phó Chủ tịch ngoại vụ
Lê Nguyễn Nga Tổng Thư ký
Võ Ngọc Hoa Thủ quỹ

Erlinda Thuỳ Linh Phó Chủ tịch VBVNHN Trung ương . Trưởng Ban Biên Tập và kỹ thuật trang
E-Book VBVNHN Vùng Tây Nam Hoa Kỳ .

Ban Đại Diện Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Tây Nam Hoa Kỳ:

* Nhà Thơ Đình Duy Phương - Chủ Tịch
* Nhà Thơ Huỳnh Nguyệt Ngân- Phó Chủ Tịch Ngọai Vụ
* Nhà Văn Đinh Mộng Lân - Phó Chủ Tịch Nội Vụ
* Nhà Văn Lê Nguyễn Nga - Tổng Thư Ký
* Nhà Văn Võ Ngọc Hoa - Thủ Quỹ.

Cố Vấn

* Nhà Văn Dược Sĩ Vũ Văn Tùng
* Nhà Văn Luật Sư Nguyễn Văn Giỏi
* Nhà Văn Trần Đức Hân ( TranDuc Han Prudence )
* Văn Hữu Huỳnh Kim

Tác Giả Và Tác Phẩm

1/ NGUYỆN CẦU ĐẦU XUÂN Lê Nguyễn Nga
2/ MAI ĐÀO VÀ EM Erlinda Thuỳ Linh
3/ CHÀO MỪNG XUÂN MỚI Vũ Thuỳ Nhân
Nguyễn Thị Mắt Nâu
4/ CÀNH MAI MÃN GIÁC Đinh Duy Phương
5/ DIỄM XUÂN Huỳnh Nguyệt Ngân
6/ BAO GIỜ XUÂN HẾT LẠC BỜ ? Trang Ngọc Kim Lang
7/ XUÂN LẬP CÔNG Đinh Mộng Lân
8/ XUÂN THA HƯƠNG Nhật Quang Hồ Phi
9/ NGÀY CUỐI NĂM
10/ NGUYỆN CẦU Lê Anh Dung
11/ LÀM SAO CÓ SỨC KHOẺ VÀ SỐNG LÂU Vũ Tuyết Yên .
12/ MỘT GÁNH TRANG THƠ, Bông Điên Điển
13/ QUẠNH QUẼ TÌNH QUÊ Lê Mỹ Luân
14/ VÒNG TAY CỦA MẸ Trang Ngọc Kim Lang
15/ CÁNH CHIM HẢI ÂU Bông Điên Điển
16/ XUÂN TẶNG Erlinda Thuỳ Linh
17/ Đối Chiếu Lời Phật Thích Ca Huỳnh Kim.
18/ MÙA XUÂN XA XỨ Lê Mỹ Luân
19/ CHẲNG CÓ NGHĨA GÌ
20/ XUÂN XA QUÊ HƯƠNG Lê Anh Dung
Lê Nguyễn Nga
21/ CON DÂU Diễm Châu ( CĐS )
22/ MƯA...MƯA...MƯA ...MƯA Vũ Thuỳ Nhân
23/ NHÌN LẠI DĨ VÃNG Trần Đức Hân
24/ TRỞ LẠI MÙA XUÂN Đinh Duy Phương
25/ HẸN LẠI TẾT SAU Trần Năng Khiếu
26/ GIÓ ĐÔNG XUÂN Lê Nguyễn Nga
Trang Ngọc Kim Lang
27/ CHUNG TÌNH Bông Điên Điển
28/ HOA XUÂN GẶP BUỚM TRẦN GIAN Nhật Quang Phi Hồ
29/ THƯƠNG QUÊ Lê Nguyễn Nga
30/ XUÂN ĐẾN LÀM CHI Đinh Duy Phương
31/ NGƯỜI ÔNG Võ Ngọc Hoa
32/ LỆ XUÂN Lê Mỹ Luân
33/ CÁNH BUỚM NGÀY XUÂN Trang Ngọc Kim Lang
34/ THƠ XUÂN XUỚNG HOẠ Nhật Quang Phi Hồ
35/ GỬI BẠN QUÊ HƯƠNG Erlinda Thuỳ Linh
36/ CÁM ƠN XUÂN Đinh Duy Phương
37/ BÓNG CHIỀU XUÂN Võ Ngọc Hoa
38/ NHƯ Ý Nhật Quang Hồ Phi
39/ CHÚC MỪNG NĂM MỚI
40/ TRỐN DICH COVID LeTamAnh



Mai Đào và Em

Nhà ai có cội Mai Đào
Cho em gõ cửa xin vào được không?
Tết này em mặc áo bông
Tô thêm chút phấn ửng hồng má xuân
Tóc buông những sợi ân cần
Ước gì ai tặng hoa xuân...em cài
Cho đời đẹp mãi ngày mai
Cho tình yêu ở lâu dài...thủy chung
Nếu thương...mời ngắm hoa cùng
Còn yêu...sợ muỗi giăng mùng...làm thơ
Thơ tình yêu đẹp như mơ
Tặng nhau năm tháng đợi chờ là đây...

Mai Đào và Em...
02/16/2018 8:27AM

Erlinda Thuỳ Linh

CHÀO MỪNG XUÂN MỚI****
Vũ Thùy Nhân.

Xuân đang về giữa Nhân gian,
Nhân loại vui sướng hân hoan đón chào
Hoa Xuân tươi đẹp biết bao,
Tưng bừng khoe sắc, ngạt ngào tỏa hương...
Nhiều nơi hoa bị...dập vùi...
Thiên nhiên ...ngơ ngác, loài người giết nhau,
Chiến tranh xuất hiện bởi đâu !?
Phải chăng vì cứ gườm nhau tranh quyền!?
Cầu xin khắp chốn Bình yên,
Để cùng chiêm ngưỡng Thiên nhiên nhiệm mầu,
Mọi người muôn Nước thương nhau...
Không sống tan tác...biết đâu là nhà !?
Bỏ lại mồ mả ông cha...
Để đi lánh nạn, tránh xa bom....mìn...
Thiên nhiên vẫn đẹp vẫn xinh,
Vẫn hoa nở rộ, lung linh trên cành,
Núi vẫn thắm, biển vẫn xanh,
Nhân loại nhiều Nước An bình đón Xuân,
Mai, đào tươi nở rung rinh...
Người Việt vẫn gói bánh chưng, bánh dầy,
Đón Xuân rộn rã tiếng cười
Pháo Xuân vẫn nổ vang Trời mừngXuân,
Xin Trời ngăn lại chiến tranh,
Để cùng chào đón thiên nhiên diệu kỳ,
Xuânvề đất trời hoan hỷ...
Gió Xuân thủ thỉ, dịu êm... dạt dào...
Hương Xuân đầm ấm biết bao,
Nàng Xuân đài các đến trao ân tình...
Cầu xin ngưng lạichiến tranh,
Thế giới được sống Anh bình thương nhau,
Cầu cho NướcViệt đổi mầu...
Không cònkhổ cực tủi đau nho.c nhằn,
Trời thươngchuyển "dữ" hoá "lành"...
Người người muôn Nước tươi cười đón Xuân,
Không người chạy trốn chiến tranh,
Nhưng cùng xum họp đón Xuân vui vầy.
Trời cao xin khấng nhậm lời,
Ban cho Xuân mãi thắm tươi mọi nhà...
Nhân thế vui sống chan hoà,
Nụ cười tươi đẹp như là MÙA XUÂN.!

CALI. XUÂN …….

CÀNH MAI MÃN GIÁC - NHẤT CHI MAI (1052-1096)

Tác giả : Nguyễn Thị Mắt Nâu

=Nhắc đến hoa mai nhớ quê nhà / Cánh vàng rực
rỡ lòa xòa trước sân/
Màu hoa tươi đẹp vô ngần/ Cành mai Mãn Giác
hương xuân đậm đà//.
Hình ảnh hoa mai vàng rực rỡ, cộng với màu hồng đỏ
tươi của xác pháo nổ tung vương ngòai ngõ... chỉ nghĩ
đến thôi, cũng thấy lòng rạo rực pha chút ngậm ngùi, vì
ký ức ấy chẳng bao giờ có lại... Và nghe đâu đây dòng
nhạc của một thời chinh chiến, lòng rưng rưng buồn, chín nẫu ruột gan
Người ta hình dung những cánh mai rừng nở muộn, người lính trận xa nhà hiu hắt
ngẩn ngơ thầm nhắc "Đồn anh đóng ven rừng mai, nếu mai không nở, anh đâu biết
xuân về hay chưa".
Hay nỗi bâng khuâng của người em gái hậu phương thẫn thờ nhìn hoa mai trước
nhà hé nụ mà thì thầm "Mỗi lần hoa mai vàng trước ngõ, là tim em mong nhớ xuân này
chàng có về" ... Và chờ đợi là nỗi niềm liên hệ tới thời gian.
=Lời ca thời chiến não nề/ Tâm tình vơ vẩn lê thê giọng sầu/
Mai vàng năm cánh về đâu/ Tình anh lính chiến một màu chơ vơ//
Thời gian cho người ta cảm nghĩ: sẽ quá chậm khi chờ đợi. Sẽ quá nhanh khi sợ
hãi điều gì. Sẽ quá dài khi nôn nóng. Và quá ngắn khi đang hưởng thụ ...
Nhưng nếu biết trải lòng thì thời gian là vĩnh cửu.
Hình tượng năm xưa, cho trái tim váng vất, se sắt não nề chùng lại - Và tất cả
những cảm xúc ấy, cũng chỉ là quá khứ.
Hoa Mai, một loài hoa đặc biệt, khoe sắc trong tiết trời quang đãng ấm áp.
Hoa mai được người Việt yêu quí, nhất là người dân miền nam, họ xem hoa mai
như bạn thân, không thể thiếu vào dịp tết cổ truyền.
=Nhớ mai lòng thấy rưng rưng/ Hoa khoe sắm thắm tưng bừng vào xuân
NGoài kia pháo nổ vang rân/ Lòng nghe xúc động mây tần ngần trôi/
Nhớ mai rưng rức một trời/ Cánh mai vàng thắm chơi vơi rộn ràng//.
Thấy mai là thấy tết, tết đến là thấy mai - Một tương quan gắn bó, trở thành biểu
tượng khó quên trong trí nhớ ray rứt buồn thương nhung nhớ.
Ngoài sự gắn bó của hoa mai với tết. Mai là hiện tượng vươn vai trở dậy sau giấc
ngủ co mình của những ngày dài se lạnh mùa thu và đông, để hồn nhiên cười xòe
trong màu nắng trong như hổ phách của mùa xuân đầy sức sống.
Nhìn sắc vàng tươi của hoa mai, người ta liên tưởng nó là bạn đồng hành trong
dịp xuân về, mang tươi vui, nguồn sống và thịnh vượng cho nhân loại.
= Hoa mai nở khiến lòng rạo rực/ Hoa mặc áo vàng tung cánh tròn tươi/
Hoa ngây thơ lặng lẽ mỉm cười/ Lòng thanh tịnh nhìn mai nhẹ nhàng đơn giản//
Và những yếu tố đó là cảm hứng cho thi nhân mặc khách, là nguồn rong chơi bất
tận của những tâm hồn đa cảm, đắm mình trong thiên nhiên cây cỏ hữu tình .
- Mai đơn giản và dung dị, đẹp nghiêm trang và được người xưa kính trọng.
- Mai nằm trong bộ tứ bình cao quí "Mai-Lan-Cúc-Trúc"
- Mai trong văn học cổ truyền, mai trong văn học Phật giáo,...
Có nhiều bài thơ cảm tác thường nhắc đến hoa mai.
= Người xưa kính trọng hoa mai/ Loài hoa thanh nhã lạc loài không hương/
Sắc vàng rực rỡ vô thường/ Bông mai năm cánh còn vương trên cành//

- Và cành mai gầy guộc thanh nhàn của thiền sư Mãn Giác đã xuất hiện trong bài kệ
"Cáo Tật Thị Chúng" mà rằng :
"Xuân khứ bách hoa mai/ Xuấn đáo bách hoa khai/
Sư trục nhãn tiền quá/Lão tòng đầu thượng lai/
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai".

Bài kệ được thi sĩ Võ Đình, dịch
"Xuân đi trăm hoa rải/ Xuân đến trăm hoa khai/
Xem chuyện đời trước mắt/ Tóc trên đầu đã phai/
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua vườn trước một cành mai".
- Và Ngô Tất Tố dịch:
"Xuân đi trăm hoa rụng/ Xuân đến trăm hoa cười/
Việc đời qua trước mắt/ Tuổi già trên đầu rồi/
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua xuân trước một cành mai".
=Thơ thiền bộc bạch một cành mai/ Dòng thời gian chảy cõi trần hoài/
Thời gian thoảng nhẹ như làn gió/ Tóc ở trên đầu bỗng nhạt phai//

---> Thiền sư Mãn Giác (1052-1096). Họ Nguyễn tên Trường, người xứ Lũng Chiền,
làng An Cách. Con của Trung Thư Viên Ngoại Lang Hoài Tố. Ham học, từ trẻ đã học
và thông hiểu về Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo. Được vua Lý Nhân Tông khen ngợi,
triệu vào cung và ban cho tên Hoài Tín. Sau đó xuất gia, thuộc dòng thiền vô ngôn
thông, thế hệ thứ 8. Vua Lý Nhân Tông và hoàng hậu mến trọng sư, cho xây một
cảnh chùa cạnh cung Cảnh Hưng để tham vấn về Phật học.

Thiền sư mất năm 44 tuổi, vua ban hiệu là Mãn Giác. Các sáng tác của sư không
còn, ngoài bài Cáo Tật Thị Chúng nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam.

Áng thơ của thiền sư Mãn Giác, được giới nhà thiền, cùng các văn nhân thưởng
lãm, ngưỡng mộ như một bài kệ, nói lên tính thanh tịnh nhàn hạ của đóa vô thường.
=Xuân đến hay đi hoa vẫn nở/ Hoa dẫu tàn nhưng vẫn ở trên cây/
Hoa mai một nhánh thân gầy/ Nhìn đâu đó chuyện cuộc đời xem rất nhẹ/
Sáng hôm sau vẫn một cành lặng lẽ / Một cành gày trong gió sớm còn đây//.

Cành mai Mãn Giác đi vào những tâm hồn thanh tịnh, cái đẹp của ý thơ nhẹ nhàng
hòa nhập trong vận hành của thiên nhiên, mỗi khi ngẩn ngơ bóc tờ lịch cuối cùng.

Đó cũng là dấu mốc thời gian ba trăm sáu mươi lăm lần của vòng quay trái đất,
trong đó là: hạnh phúc, vui tươi, thành đạt, tủi hờn, chán chường, thất vọng, lẫn cô
đơn...

Tất cả đều gác lại trước thềm của thời gian:
"Chuyện đời qua trước mắt/ Tóc trên đầu đã phai/
Bông hoa không rụng hết/ Vẫn năm cánh lạc loài".
=Thời gian gác lại bên thềm/ Có ai mà đếm bóng đêm nhạt mờ/
Hoa vàng thả giấc bơ vơ/ Qua đêm vẫn đó thẫn thơ ngoài sân//

Hoa mai cho cảm nhận về tiết xuân, về đâm chồi nẩy lộc, về thời gian và những
thăng trầm lặng lẽ, trong đó có vui buồn và có chờ đợi như trong thơ của Chế Lan
Viên "Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân lại gợi thêm sầu/
Với tôi tất cả là vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau".

Tâm hồn thi nhân là vậy, là cảm nhận dòng sinh diệt đang vận hành một cách
tùy thuộc vào guồng quay vô tận vay mượn đất trời

Cành mai Mãn Giác càng sâu lắng hơn trong guồng quay vũ trụ đuổi bắt, tuy quay
cuồng bất tận, nhưng tĩnh lặng, an nhiên tự tại .
=Gác lại bên thềm chuyện thời gian/ Nhân sinh vốn dĩ thật an nhàn/
Năm châu bốn bể người quên lãng/ Nên đã muộn phiền chốn trần gian//

TRong sâu lắng là tê buốt của cõi lòng, qua cách sử dụng ngôn từ , trước cảnh lạc
loài vô ngã trong sắc trời se lạnh, Mãn Giác thiền sư khẳng định: Sinh, trụ, hoại diệt,
rất nhẹ nhàng bình thản, chẳng có gì vướng bận. Sự đời trước mắt, dù qui luật có tang
thương, có biến đổi, cũng chỉ là một trò đùa dương thế xoay vần.

Sóng bể có dâng trào tung sủi bọt, rồi cũng xẹp xuống, lắng dần và trôi êm lặng
lẽ như lòng người sinh ký tử qui, sống là gửi, thác là về.

Xuân qua, hạ đến, Thu sang, đông tàn cứ thế. Đừng tưởng con người ra đì là kết
thúc.

Điều này thiền sư thể nghiệm qua mái tóc trên đầu. Qua thân thể bệnh tật, chuyện
gì rồi cũng qua. Cuộc đời vẫn tiếp diễn theo vòng quay đen trắng, qui luật của thiên
nhiên, sự sống tiếp diễn không bao giờ ngừng cả.
=Dòng sông nước chảy về nguồn/ Sủi tung bọt trắng cũng tuôn theo dòng/
Dòng đời dù có long đong/ Tà dương khuất bóng mây hồng gió đưa/
Cành mai sót lại trước sân chùa/ Sau đêm trừ tịch gió lùa qua song/
Nhẹ như một thoáng tơ lòng/ Gió bay vương vất dòng sông lặng lờ//.

Hay như cụ Nguyễn Du "Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng", dù đớn đau rồi cũng chẳng còn gì, chỉ như cơn gió trôi vào vô tận.

Giữa dòng đời mọi vật đều vô thường... nó biến đổi, nó đến nó đi, nó nở nó tàn, nó
cản ngăn hay nó triền tới, nó trước nó sau...nó lẳng lặng, trường tồn bất diệt.

Bài kệ của sư mãn Giác là một thông điệp tĩnh lặng lạc quan. Ngoài giá trị về thi ca,
bài thơ chỉ 6 dòng nói lên sở ngộ của bậc thiền sư, giữa dòng đời mọi vật đều vô
thường an nhiên tự tại.
=Sáu dòng thơ giản dị/ Mang tính cách vô thường/
Thông điệp nhẹ như sương/ Cành mai vàng vẫn đó//

Những cái tốt không biến mất , những cái xấu chẳng ra đi.
Thực tại là hiện hữu, thực tại là sự thật mà con người không thấy, do bị che khuất
bởi tướng sinh tướng diệt.
Nhưng thiền sư thấy hình ảnh mai nở trước sân, của thời điểm xuân tàn. Không chỉ
có mai nơi cảnh vật bên ngoài, mà còn hiện diện nhánh mai vàng rực rỡ trong tâm
thức, bất cứ nơi đâu, bất cứ không gian nào, thời gian nào... con người vẫn có điều kiện
nhìn cành mai ấy.
Nhất chi mai là niềm hy vọng, là cái tốt trên đời không thể mất.
Nó là sự tồn tại của các giá trị siêu việt trường tồn, chi phối cõi đời huyễn mộng.
=Cành mai nở rộ trong tâm/ Phất phơ trước gió của hồng trần/
Hoa có tàn đâu, hoa chẳng rụng / Màu vàng tươi thắm ở trước sân//
Về phương diện tu học, mùa xuân có đến ắt có đi - qui luật tuần hoàn của thiên
nhiên trời đất, vĩnh viễn tồn tại, vĩnh viễn mất đi, theo vòng sinh tử luân hồi.

Con người hay cảnh vật đều tuân theo qui luật bất di bất dịch này.
Muốn thoát khỏi bốn giai đoạn: Sanh, trụ, hoại diệt... người tu Phật giác ngộ để bản
thân thanh tịnh, bất sanh bất diệt.
=Cái gì có đến ắt có đi/ Con người cũng vậy có gì khác đâu/
Quy luật tạo hóa chuyển màu/ Cái vòng sinh tử từ lâu quay vòng//

Tiếp xúc với cảnh trần, tâm con người sinh phiền muộn, phiền não khổ đau, và muốn
thoàt khỏi cần áp dụng tứ lượng vô tâm: là Từ, là bi, là hỉ, là buông xả... khi vọng tâm
dứt sạch, thì đạt được cảnh giới vô tâm .
=Vô tâm là chẳng vọng tâm/ Tránh xa phiền não tình trần thảnh thơi/
Tránh xa đau khổ cuộc đời/ Thân tâm an lạc, mây trời thênh thang//

Trong tâm thiền, người ta nói đến 11 phước lành dành cho lòng từ bi gồm:
1. Khi ngủ được ngon giấc.
2. Khi thức giấc được bình an.
3. Ngủ không ác mộng.
4. Được loài người thuong yêu
5. Được loài vật yêu thương
6. Được chư thiên bảo hộ
7. Không bị tổn hại vì lửa, thuốc độc và vũ khí.
8. Dễ dàng tập trung ý nghĩ
9. Da dẻ, và gương mặt không buồn phiền
10. Khi chết tâm trí không hỗn loạn
11. Khi tái sinh được lên cõi trời hay các cõi tốt đẹp hơn.

Trở lại cành mai Mãn Giác tức nhất chi mai, cành mai duy nhất sau vườn, sau một
đêm trở dậy "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"

(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết. Tối qua sân trước một cành mai)
Cho thấy quy luật dời đổi tang thương trong vũ trụ chỉ là trò đùa đối với những ai
đứng ngoài sự vận hành và hiểu rõ từng chuyện cuộc đời trước mắt một cách linh hoạt
tự tại như Vạn Hạnh thiền sư đã từng thấy
- Thích Mật Thể dịch:
"Thân như bóng chớp chiều tà/ Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời/
Sá chi suy thạnh việc đời/ Thạnh suy như hạt suong rơi đầu cành "
- Nguyễn Gia Thiều có câu "Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng" ... Trong cuộc bể dâu, ngoài bộ mặt tang thương biến đổi của vô thường,
còn có sự vĩnh hằng an lạc của tâm thức và ngoại cảnh.
- Kiều của Nguyễn Du cũng bảo "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"....

Vậy tâm vui để ngoại cảnh không buồn.
= Một ngày qua đi là một ngày chẳng bao giờ có lại/
KHóc hay cười, khôn hay dại cũng vậy thôi/
Loanh quanh cũng hết một đời / Cuộc phù phiếm là dư âm vô vọng//.

Nhất chi mai là Mai màu hồng đỏ thường gặp ở miền Nam. Và Thiền sư Mãn Giác
đã viết thơ về mai như một bài kệ. Ông mượn hoa mai để nói lẽ vô thường. Mượn
xuân tươi đẹp đẽ để nói mùa đông lạnh lẽo. "Xuân đến trăm hoa nở/ Xuân đi trăm hoa
rơi/

Chuyện đời qua trước mắt/ Tóc trên đầu đã phai"...
Với thiền sư Mãn Giác, từ đời hoa đến đời người chẳng khác nhau là mấy. Cáo tật
thị chúng, mượn hình ảnh bông hoa nở muộn để nhắc người trần gian biết quí thời
gian hiện tại ngay trước mắt.
Trước khi viên tịch thiền sư cáo bệnh, đóng cửa phòng, tham thiền nhập định.
=Nhắm mắt tham thiền chốn bình yên/ Nhập định an nhiên rất dịệu huyền/
Mây treo lơ lửng trên đầu núi/ Giây phút trầm tư trước cửa thiền//

Có nhiều người gọi hoa mơ là hoa mai. Mai hay mơ được nhắc đến rất nhiều trong
thi ca Việt Nam: "Hỡi cô con gái hái mơ già/ Cô chửa về ư đường còn xa/ Quanh quẩn
rừng chiều chân lạc bước/ Hay cô ở lại về cùng ta"
- ChuMạnhTRinh thoát tục: "Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái/ Lững lờ khe suối cá
nghe kinh/ Thoảng bên tai một tiếng chày kình/ Khách tang hải giật mình trong giấc
mộng".
- Nhà thơ Quang Dũng "Càng mưa phùn càng gió lạnh/ Càng lạnh cùng hoa mai".
- Nguyễn Bính "Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi".
- Cụ Nguyễn Du "Cộng chỉ hoa mai báo tiêu tức/ Xuân tằng hà đáo di hương nhân",
tạm dịch " Cùng nhau chỉ hoa mai báo tin xuân/ Nhưng xuân có bao giờ đến với người
nơi đất khách".

=Đất khách bây giờ cũng có mai/ Mấy mươi năm cũ đã trải dài/
Nhớ nhung xao xuyến là vô tận/ Hoài cảm lòng ai vẫn miệt mài

Xuân trên đất khách bao giờ cũng buồn. Vì hương xuân xưa không còn nữa. Bài
hát nào đo:́ "Ngẫm xuân này ta nhớ xuân xưa/ Cùng hẹn nhau khi pháo giao thừa"..
Hẹn gì đây!? - Ôi chao là nhớ, nhớ lênh đênh, nhớ đến nghẹn lời. Có ai cùng tôi thả
lòng trôi nhớ nhung về cảnh cũ hay không?

Lạc vào rừng mai mùa xuân, thấy sắc vàng rực rỡ một góc rừng, vàng cả một triền
núi, xác hoa trôi theo suối, để thấy một dòng chảy sắc vàng rực rỡ di chuyển như
cảnh thần tiên và hương thơm lan tỏa khắp vùng.

= Mơ với mai tuy hai mà một/ Kiếp phù sinh tàn lụi với thời gian/
Đời buông trôi như một giấc mộng vàng/ Cuộc tao ngộ trăm năm tỉnh giấc//.

Nhiều thế kỷ qua. Người ta cảm ngộ và hoài cảm về dòng thơ Mãn Giác . Hình ảnh
cành mai duy nhất còn sau vườn khi tửởng rằng xuân đã tàn thì hoa cũng hết. Nhưng
không, nhất chi mai, cành mai duy nhất vẫn còn trong sương sớm khi xuân đã đi qua.
Cành mai duy nhất mang lại sức sống, cho lòng người ngẩn ngơ hoan lạc, trên tinh
thần vô ngã, vị tha. Cành mai trong mắt thiền sư không phải chỉ có khi xuân đến.

Thế sự thăng trầm - Bất sinh bất diệt, bất biến vô sinh, chân tâm tĩnh lặng Chẳng có
đến, chẳng có đi.

Hoa mai trân quí đẹp trang nghiêm được nguời xưa kính trọng, các thi hào thi
bá có những vần thơ thoát tục về Mai, một loài hoa đặc biệt của mùa xuân nhiệt đới.

Hoa mai mang ý nghĩa An bình, Hanh thông, Phát đạt. Là biểu tượng của may
mắn, của tốt đẹp, hoàn hảo, thịnh vượng, dung dị, nghiêm trang đứng đắn.

Nên khi xuân về, mỗi nhà chờ mong cây mai trong sân nở hoa vào sáng mùng
một Hay ít ra nở trong lọ lộc bình nơi phòng khách ... Để mong may mắn cho một năm
dài.

=Bây giờ ở Mỹ cũng có mai/ Cũng vàng rực rỡ chẳng kém ai/
Nhưng cánh không tròn như năm cũ/ Tha hương hồi tưởng chẳng hề phai//

Nguyễn Thị Mắt Nâu

DIỄM XUÂN

Đình Duy Phương

Lướt gió chim bằng tung cánh bay
Xuân sang mang đến ánh dương đầy
Muôn Hoa tươi thắm khoe màu sắc
Hương toả hồng đào thơm ngất ngây.

Trời cao lơ lửng giữa vòm cây
Lấp lánh hạt sương vương bóng mây
Tựa đoá kim cương lay dưới nắng
Đài hoa hé nụ bướm ong say

Say cảnh say tình say nước non
Thương Quê vời vợi thuở vàng son
Anh Đào rực rỡ chung vui Tết
Ngắm thế nhân cười Xuân ví von .

ĐDP

BAO GIỜ XUÂN HẾT LẠC BỜ

Xuân về hoa lá trở mình
Xuân nào cũng thấy bóng hình Quê hương

Cúc vàng vời vợi tiếc thương
Nhớ người hiền Mẫu miên trường cách xa

Chập chờn cánh bướm la đà
Bên cành Hồng thắm chan hòa tình thân

Dư âm ngày cũ xa dần
Lại mùa Xuân nữa lê chân vào đời

Gió đùa chi cánh hoa rơi
Cho thêm sợi tóc chơi vơi nắng chiều

Đóa Phù Dung đã mỹ miều
Phong Lan còn dệt bao nhiêu sắc màu

Mai về e ấp nụ chào
Nhìn em ta thấy ngạt ngào hương quê

Trước Đào rực rỡ xum xuê
Hạnh khoe oằn trái nghe mê mẩn lòng

Trúc thanh tao vẫn thong dong
Phải người quân tử chẳng mong danh quyền?

Là em như dáng vợ hiền
Hương nàng thoang thoảng Huệ tiên thưở nào

Sắt son còn đó dạt dào
Mùi thơm Vạn Thọ thắm màu thâm ân

Du Xuân làm rộn bước chân
Bâng khuâng chân bước, hồn phân phương nào?

Nắng Xuân hoa lá xôn xao
Như cùng tâm ý hỏi nhau bao giờ?

Bao giờ cho trọn ước mơ?
Bao giờ Xuân hết lạc bờ Quê Hương?

( Được giải thưởng của Giáo Sư Lưu Trung Khảo
trong cuộc thi‘’ Thơ Xuân’’.Xuân Giáp Ngọ 2014 )

Bông Điên Điển

XUÂN LẬP CÔNG

Xuân nầy tôi chẳng thiết tha mua sắm
Nhịn miệng mình mà giúp biết bao người
Bạn níu kéo đi Shopping ,dối bảo lười...
Ăn ngon,mặc đẹp thôi thì...hẳn chậm !
Đồ đạc trưng bày mặc tình mà ngắm,
Hàng bán 'sale"đã đẹp giá lại hời,
Bao đám cưới,tiệc tùng chất giấy mời,
Thôi...đồ cũ đem ra chưng diện lại!
Nhiều cảnh khổ,trong lòng cứ nhớ mãi,
Một tiếng khen sang đẹp cũng bằng thừa,
Ở Mỹ nầy vật chất mấy cho vừa,
Gắng tiết kiệm,giúp thiên tai bão lụt.
Đã biết sông có khúc,người có lúc,
Gặp thiên tai,nhà cửa của tiền tan,
Đôi khi cả sanh mạng chẳng an toàn
Người đâu muốn mà trời cao đặt để.
Nhiều cảnh khổ ôi thôi,không xiết kể!
Bát cơm "Xiếu mẫu" lúc xưa kịp thời,
Tiếng thơm truyền tụng cho đến muôn đời,
Sao chẳng giúp đồng bào còn câu nệ?
Ta hãy cùng nhau ra tay đừng trễ,
Gây phong trào lớn nhỏ cũng hoan nghinh.
Đừng khép mình yên lặng phớt tĩnh nhìn
Hay phê phán làm thoái tam ,chán nản.
Xuân giúp người là xuân tràn thỏa mãn,
Xuân kiêng khem đồ cũ cũng đẹp xinh,
Quà cứu trợ là yến tiệc linh đình,
Xoa dịu nỗi đau đồng bào ruột thịt
Hội Liên Tôn hòa đồng không đối nghịch,
Bắt tay nhau tranh đấu cho nhân quyền,
Cộng đồng Thế giới hội hợp trền miên,
Già,trẻ gái,trai một lòng một ý.
Giới trẻ giở đây phải nhìn,phải nghĩ...
Cha Ông ta cực khổ biết bao đời
Mùa xuân chiến thắng vang dậy một thời,
Hãy góp sức cùng nhau giành lại Nước.
Ấy là điều hải ngoại làm cho được.
Khỏi phụ lòng Quóc nội luống chờ mong.
Thiên niên kỷ nầy Xuân phải lập công.
Về Cố Quốc mọi người tròn mơ ước....

TrangNgocKimLang

XUÂN THA HƯƠNG! (Thơ một vần)

Đinh Mộng Lân

Mẹ ơi! Con tha hương đến bao giờ hả mẹ?
Nào đâu con đường làng vào nhà mình ngã rẽ?
Nào đâu bờ tre nhà con tìm bắt chim sẻ?
Nào đâu ao trước, ao sau, thuyền buôn đậu mé?
Nào đâu cây dừa bờ ao, cần câu con để?
Nào đâu cây ổi, con trèo tìm trái vàng ké?
Nào đâu gồ chóc, sắn trước nhà mọc hoang phế?
Nào đâu nhà trên, nhà dưới, con ngủ dậy trễ?
Nào đâu sân trước, sân sau, con chơi chiều xế?
Nào đâu con sông Cái chạy sát nhà bề thế?
Mẹ ơi! Con tha hương đến bao giờ hả mẹ?
Thành phố Nam-Định những xe lịch bịch chạy lẹ,
Lò Đúc Hà Nội cây cối bên đường mát mẻ,
Sông Hồng Hà lớn tàu chạy không thấy bờ mé,
Ba mươi sáu phố phường con vẩn vơ ngấm nghé.
Mẹ ơi! Con tha hương đến bao giờ hả mẹ?
Miền Trung con lớn, sông Hàn, Ngũ-Hành đẹp đẽ,
Thành phố cổ Hội-An, sông Thu-Bồn nhỏ bé,
Hồ Tịnh-Tâm Huế, sông Hương gió lăn tăn nhẹ,
Trường Đồng-Khánh, Quốc Học bên nhau nhìn lặng lẽ,
Con ngồi ghế đá cô đơn cuộc đời buồn tẻ!
Nha-Trang sóng biển bờ Bạch Đằng đập vỡ té,
Hải Học Viện đủ loài sinh vật bơi lanh lẹ.
Cao -nguyên Dalạt thông rì rào, mưa phùn ướt lệ,
Viện Đại Học, hội trường Thụ-Nhân con vẫn ghé,
Công trường Hòa-Bình, café Tùng sinh viên chật ké.
Mẹ ơi! Con tha hương đến bao giờ hả mẹ?
Saigòn Xuân về, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, người vui vẻ,
Trường Luật Duy-Tân con đến lấy bài sao trễ?
Chỉ vì công việc hành quân xa xôi nên thế!
Thành phố trời ánh sáng, con từ giã hoa lệ,
Từ thủ đô đến thành phố đồng bằng quê mẹ
Con sang phà Mỹ-Thuận, bắc Cần Thơ chạy lẹ,
Lên xe đò gập ghềnh đi bụi bám cơ thể,
Quãng đường giống đoạn đường chiến binh ngoài trần thế
Cuối cùng xe dừng lại mũi Càmau đường cùng thế!
Thành phố trải dài đồng lầy muỗi mòng kêu ré,
Con trình diện Tiểu Khu xin lặn lội quê mẹ,
Mẹ thương con cho nhìn chiến tranh mọi cảnh thế!
Con yêu quê mẹ, tình con đóng chặt giữ thế...
Bây giờ con tha hương, mẹ nằm đâu hả mẹ?
Bắc, Trung, Nam con về đâu quê mình hả mẹ?
Đến bao giờ Tự Do Xuân về con gặp mẹ?
Bao giờ Tự Do Xuân về con đi gặp mẹ?
Mẹ ơi! Con tha hương đến bao giờ hả mẹ?

Người Việt-Nam

NGÀY CUỐI NĂM
Nhật Quang Phi Hồ

Năm tàn, Tết đến, dịch chưa qua,
Covid Chệt tung hại triệu nha,̀
Mưu diệt Năm Châu làm bá chu,̉
Tung tiền khắp chốn loạn tràn ra.
Quan quyền cao thấp mua muôn triệu,
Báo chí truyền hình mướn phịa ma.
Giàn dựng tay sai làm Tổng, Thủ,
Rước Tàu tràn chiếm khắp gần xa.

Phi Hồ (29 Dec 2020)

NGUYỆN CẦU

letamanh

Ta không đếm tháng ngày đã lâu
Cả một năm hai ngàn hai mươi
Ngày cũng như đêm chẳng suy tư
Trốn trong nhà như hàng đàng chuột
Cơn đại dịch tràn vào xuôi ngược
Nhân loại đắm chìm khắc khoải mê
Xác chết đếm hàng ngày
Dịch bệnh mỗi giờ mỗi khác
Trời Âu, Trời Tây, Trời Động xơ xác
Nhân sinh như ngừng thở chết im lìm
Lại còn thêm cuộc bầu cử ứ tim
Thiện và ác cò cưa đời tang tác
Vaccin đến khiến mơ niềm an lạc
Con Cô Vy Vũ Hán chưa chịu đầu hàng
Đón năm mới người vẫn chết tràn lan
Các bệnh viện không có giường cứu bệnh!
Hãy nhắm mắt cùng chung nhau cầu nguyện
Cho mặt trời vẫn chiếu sáng an lành!

letamanh 30-12-2020
Lê Anh Dũng

LÀM SAO CÓ SỨC KHOẺ VÀ SỐNG LÂU

Ds Vũ Tuyết Yên

Người Tây Âu thường ca tụng cách ăn uống của người dân đang sống tại
Miền Địa Trung Hải ( Mediterra - nean diet) bao gồm cả Pháp và Ý v....v....
Cách ăn uống của người ở đây đang được coi như khuôn thước mà người
tây phương khuyến cáo mọi người nên bắt chước để có sức khỏe và sống
lâu. Có sức khỏe và sống lâu là điều ai trong chúng ta cũng mong muốn.
Người Mỹ thích bơ sữa, thích thịt thà, và nhất là đồ béo (fats), thích đồ
ngọt. Nước ngọt, bánh ngọt. Cái gì cũng ngọt cả. French fries cũng như
hamburger gần như món ăn cơm bữa. Chính vì vậy đa số người Mỹ mập
và bụng bự là chuyện khó tránh khỏi. Trái với người Mỹ, người dân thuộc
Địa Trung Hải không thích đồ ăn mỡ màng, thích rau cỏ và những thứ có
nhiều fiber. Họ cũng hảo ngọt nhưng lựa đồ ngọt lấy từ thiên nhiên qua
cây cỏ. Bác sĩ Dimitrios Trichopoulos tại đại học Hardvard University ca
tụng thức ăn của dân địa Trung Hải là những sản phẩm tốt nhất cho con
người. Để ca tụng thực phẩm của người dân ở đây ông đã đưa ra hàng
trăm nghiên cứu khoa học. Điều hiển nhiên nhất ông cho hay thực phẩm
liên quan đến sức khỏe cũng như bệnh hoạn của người dân xứ này.
Vì thức ăn tốt nên số tử vong của những người ở đây giảm xuống đáng
kể. Ngoài ra thức ăn cũng làm giảm người bị mắc bệnh tim mạch, giảm
bệnh lú lẫn Alzheimer, chứng ung thư cũng giảm nhất là bệnh tiểu đường.
Nói chung những người sống ở đây có một sức khỏe tốt hơn đối với nhiều
quốc gia khác, nhất là Mỹ châu.
Các nhà khoa học cũng xác nhận là việc ăn uống hay thực phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến bệnh hoạn và sức khỏe của con người. Tuy nhiên,
nếu chỉ nhìn vào những thực phẩm ăn uống không thôi thì cũng không thể
xác nhận chắc chắn hoặc đoán chắc thực phẩm nào có lợi và thực phẩm
nào có hại. Chính vì vậy chúng ta cũng đừng lo lắng quá và tất cả đổ vào
thực phẩm cả.
Nhưng điều quan trọng ở đây thử tìm hiểu xem người dân tại địa Địa
Trung Hải có cung cách sống ra sao. Từ đấy ta có thể rút tỉa những kinh
nghiệm cần thiết để biết đâu là lợi và đâu là hại.
Một câu hỏi được đặt ra tại sao các nhà khoa học đã chăm chú để nghiên
cứu về đời sống của dân Địa Trung Hải?

Vào thế kỷ thứ 20 các nhà khoa học đã nhận thấy rằng những người
sống ở vùng Địa Trung Hải sống lâu hơn những người ở nơi khác
trên thế giới. Mặc dù tỉ số hút thuốc của dân ở đây rất cao và những
cơ quan chăm sóc sức khỏe không có khả năng cao hơn những nơi
khác. Thế mới lạ.
Một trong số nghiên cứu đã được mệnh danh là nghiên cứu đầu tiên
trong số 7 quốc gia ( Seven Countries Study) đã được thực hiện vào
năm 1970 tại Hi Lạp. Tại đây số người bị ung thư, bệnh tim mạch thấp
hơn sáu quốc gia khác gồm Hoa Kỳ, Phần Lan, Hà Lan, Ý Đại Lợi,
Yugoslavia và Nhật Bản. Trước Đệ Nhị Thế Chiến số người bị bệnh
tim mạch và u bướu tại Hoa Kỳ ba lần nhiều hơn là Hy Lạp cũng như
Ý Đại Lợi. Nước Ý có tỉ số thấp gần bằng Hy Lạp vì ở đây họ có nếp
sống gần giống như Hi Lạp vậy.
Một nghiên cứu khác cũng cho thấy số người ở Hy Lạp ít bị chứng
cao huyết áp và bệnh tiểu đường. Theo bác sĩ Trichopolous cho biết
cái phong tục đã có từ lâu là người ở đây thuộc Địa Trung Hải, trong
thung lũng trồng cây olive, họ có thói quen dùng những sản phẩm lấy
từ cây cối mọc một cách tự nhiên và ngẫu nhiên và họ cũng không
ngờ đó là những sản phẩm tốt cho sức khỏe mà họ không hề biết.
Thật sự mà nói theo bác sĩ Artemis Simopolous, chủ tịch của Center
for Geneatics, Nutrition và Health, một Tổ chức vô vị lợi tại
Washington D.C. danh từ ăn uống theo kiểu người Địa Trung Hải
không chỉnh hay không đúng hẳn vì nên hiểu rằng Địa Trung Hải là
một vùng rộng lớn có rất nhiều nước. Mỗi nơi đều có những nếp
sống, văn hóa tập quán và sinh hoạt ăn uống khác biệt và riêng rẽ chứ
không thuần nhất như ta tưởng. Trong đó phải kể đến cả Ý Đại Lợi
hay Pháp quốc. Tại hai nơi này rượu vang là sản phẩm hết sức là
thông dụng. Chính vì vậy nên các nhà khoa học và nghiên cứu phải
đồng ý rằng ngay trong một quốc gia những người này ăn uống cũng
không giống nhau.
Thực phẩm của người miền Địa Trung Hải là những sản phẩm ít mỡ
màng nhưng đôi khi cũng rất mỡ màng. Điều này có nghĩa là họ
không giống Hoa Kỳ đa số mọi người luôn luôn thích mỡ màng như
bơ sữa không thể thiếu hằng ngày. Người dân Địa Trung Hải uống
rượu điều độ, ăn rất nhiều rau cỏ trái cây, đậu hạt và nhất là cá thì họ
ăn rất nhiều nhưng lại ít ăn thịt thà. Nghiên cứu đã được làm dựa vào
đa số quần chúng cho thấy người trong Địa Trung Hải có sức khỏe tốt
và sống lâu.
Những nghiên cứu đã được các khoa học gia thuộc Harvard School of
Public Health, World Health Organization, Oldways Preservation và
Exchange Trust, đây là một tổ chức bất vụ lợi chuyên nghiên cứu về
công việc ăn uống của người dân. Công cuộc nghiên cứu mới nhất đã
được cập nhật hóa vào năm 2008 và đã được ghi nhận bởi Mayo
Clinic và Cleverland Clinic.

Một vấn đề được đặt ra liệu tất cả những gì nghiên cứu thu lượm được
đều đóng góp vào lợi ích theo kiểu cách của người Địa Trung Hải hay
chăng? Mọi người tham dự vào công cuộc nghiên cứu đều đồng thuận
rằng những gì thu lượm được chứng tỏ lợi ích theo kiểu ăn uống này.
Không có một khía cạnh nào chứng tỏ nổi bật rằng ăn thức ăn này có
giá trị cao hơn thức ăn kia. Tóm lược ý kiến qua nghiên cứu muốn nói
rằng ăn rau nhiều có giá trị cao hơn ăn cá trong việc đỡ gây tật bệnh và
sức khỏe. Tất cả muốn nói rằng thứ nào nên tránh và thứ nào nên ăn.
Tất cả những thứ họ đang ăn có thể giúp phần vào việc giảm các bệnh
và tăng gia sức khỏe. Tuy nhiên theo nghiên cứu vào năm 2009 việc ăn
uống có sự khác biệt trước đây đã trình bày. Chẳng hạn uống rượu
vừa phải rất quan trọng (có đến 23.5% đồng thuận ), ăn ít thịt (16.6%),
ăn thật nhiều rau cỏ (16.2%), ăn thật nhiều trái cây và lúa gạo (11.2%)
ăn nhiều đồ không quá mỡ màng (10.6 % ), đậu hạt ( 9.7 %.). Cũng nên
nhắc những sản phẩm đồ biển không được nhắc nhở. Không rõ lý do
nào cá mú lại không được nêu ra. Theo bác sĩ Francisco Soft, một trợ
giáo sư và dinh dưỡng lâm sàng tại Đại Học Florence cho hay: cái
đáng chú ý là người thuộc Địa Trung Hải ăn mừng những sản phẩm
trên một cách đồng đều và không chú trọng vào một hay vài sản phẩm

không thôi.
Liệu công việc ăn uống của người Địa Trung Hải đúng hay sai?
+ Thực phẩm cây cỏ: 40%. Nghiên cứu cho thấy ăn uống nhiều sản
phẩm này giúp giảm số tử vong . Vắn tắt giúp sống lâu. Cây cỏ giúp
chống già nua vì đem lại chất antioxidants. Cây cỏ giúp người dùng
đem vào thực phẩm chất xơ, sợi fiber, chất carbohydrate. Cây cỏ giúp
tránh u bướu nơi đại tràng.
+ Rượu vang: uống rượu vừa phải cũng giúp giảm số tử vong. Theo
nghiên cứu của Reams về uống rượu có thể giúp chống lại chứng
bệnh tim đặc biệt là chứng thiếu máu cục bộ ( tạm dịch từ chữ
ischemic strokes) . Đây là chứng bệnh không đủ máu tuần hoàn trên
não bộ. Chúng tôi còn nhớ cụ bà sinh ra tôi bất thần bị méo mồm, hồi
đó chúng tôi chưa biết được lý do nguyên nhân vì sao nay mới biết đấy
là chứng thiếu máu cục bộ tại não gây ra. Rượu vừa phải cũng còn
chống lại bệnh tiểu đường.
Nghiên cứu cũng còn cho hay trong rượu vang có chất resveratrol có
thể giúp cho sức khỏe con người. Nơi loài vật tác dụng chất
resveratrol có khả năng chống lại ung thư hay còn gọi là u bướu nơi tế
bào. Nghiên cứu mới nhất cho thấy cách này cũng có khả năng làm
giảm huyết áp.

Nói đến điều hay thì cũng phải nói đến cái hại dù là uống rượu vang
vừa phải cũng có thể gây ra u bướu nơi vú và Đặc biệt với đàn bà
mang thai cũng có thể gây hư hoại bào thai và khi sinh đẻ có thể gây
khuyết tật cho đứa trẻ. Theo Bộ Canh Nông Hoa Kỳ cảnh báo người
uống rượu vừa phải sẽ có thói quen và dần dần tăng lượng uống cho
đỡ thèm. Và từ đấy trở thành nghiện rượu. Cũng Theo Bộ Canh Nông
Hoa Kỳ những ai quá sáu mươi lăm tuổi không nên uống quá hai ly
rượu vang trong một ngày. Vậy khi uống rượu vang phải biết cái lợi
mà cũng có cái hại.
+ Mỡ màng: vào trước những năm 1960, lượng calories do mỡ được
coi như ở mức 28% và đặc biệt ở Ý Đại Lợi là 40% , ở Hy Lạp là 30%.
Ngày nay lượng calorie được chấp nhận cao hơn có nghĩa là người
vùng Địa Trung Hải ăn nhiều mỡ màng hơn. Tuy nhiên lượng mỡ căn
bản của người ở đây đều là sản phẩm đơn không bão hòa tạm dịch
từ monounsaturated . Họ dùng loại mỡ căn bản lấy từ dầu Olive. Dầu
Olive cho mỡ . Đa số mỡ màng mà người ở xứ này thường dùng là
mỡ đơn không bão hòa. Người Mỹ dùng mỡ màng đều là loại mỡ bão
hòa (saturated) . Mỡ bão hòa đến do thịt thú vật kể cả gà vịt.
Mỡ bão hòa là nguồn gốc gây ra cholesterol. Lượng cholesterol cao
gây bệnh tim mạch, tiểu đường loại hai. Trái lại, lượng mỡ đơn không
bão hòa lại giúp người dùng kiểm soát được insulin trong máu và cả
lượng đường trong máu nữa.
Cái đặc biệt của loại mỡ từ dầu Olive này không những tốt và không
tạo nhiều cholesterol dễ gây ra làm nhỏ lòng động mạch, cản trở lưu
thông máu nhưng đồng thời vẫn cung cấp nhiều calories như
thường.
Phải chăng người dân Địa Trung Hải họ tin tưởng vào dầu mỡ mang
đến từ dầu Olive hay chăng? Kể từ năm 2008 trở đi. họ cũng đã nghĩ
rằng ăn uống kiêng khem là cần thiết nhưng vấn đề tập thể dục, thể
thao hay chạy hoặc đi bộ là cũng cần thiết.
Để kết luận chúng ta muốn có sức khỏe cần ăn uống cẩn thận và
cũng đừng quên phải giữ gìn cơ thể mạnh khỏe qua phương pháp
tập thể dục hay những phương thức xét rằng cần thiết cho đời sống.
Ăn uống, sống khỏe, sống mạnh là điều cần thiết.
Kính chúc quý độc giả nào đã đọc bài viết này cũng sẽ sống lâu trăm
tuổi . Cổ nhân ta thường nói ai trong chúng ta cũng mong sống lâu,
giầu bền có phải không ạ!
Vũ Tuyết Yên

Một Gánh Trang Thơ

Một gánh trang thơ đẹp cuộc đời
Đẹp như dáng đứng Mẹ hiền ơi!
Thu về nơi ấy khung trời...hạ
Ngàn dặm hồn quê mãi tuyệt vời.

Bông Điên Điển

Quạnh quẽ tình quê

Lê Mỹ Luân

Buổi sáng nắng hồng vương ngọn cây.
Bầy chim ríu rít vui xum vầy.
Phố xá tưng bừng mùa xuân mới.
Ngổn ngang tâm sự nỗi vơi đầy.

Thấm thoát bao năm đã trôi qua.
Thời gian chai đá kẻ xa nhà.
Bỗng dưng nhìn cánh mai vàng nở.
Chợt nhớ ngày nao, dạ xót xa.

Đất nước chìm trong cuộc đổi đời.
Con người, cuộc sống vẫn chơi vơi.
Chị hỏi, không về thăm chốn cũ?
Về chi, để buồn lắm chị ơi.

Cành đào vừa điểm mấy nụ hoa.
Nhang tươi mới thắp, khói chan hoà.
Bỗng nghe thoang thoáng bài ca cũ.
Chạnh nỗi tình quê, mắt nhạt nhòa.

Lê Mỹ Luân

VÒNG TAY CỦA MẸ

tác giả Trang Ngọc Kim Lang .

Ở Mỹ cứ mỗi năm vào tháng 5 có ngày lễ Mother's day tức là ngày của các bà mẹ.Ý
nghĩa ngày lễ này nhắc ta luôn nghĩ đến đấng sanh thành, người đã cưu mang ta 9
tháng 10 ngày mang nặng đẻ đau,suốt đời hy sinh cho con.Lúc nào mẹ cũng muốn cho
con mình được sung sướng;ví thế ngưới mẹ lụôn được tôn vinh ở một ngôi vị xứng
đáng.

Từ lúc thọ thai người phụ nữ đã biểu hiện tình thương của mình qua những việc
làm: nào là phải hoạt động như thế nào để bảo vệ thai nhi được an toàn,phải ăn
uống thế nào để con sanh ra được khỏe mạnh. Chuẩn bị các thứ cho đứa trẻ được
đầy đủ mọi nhu cầu.

Tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình mà người mẹ mua sắm: may từ cái gối,cái
chăn,đan từ cái nón,cái áo v.v...mũi kim,đường chỉ đã chuyển tất cả tình thương vào
đó cho đứa con sắp chào đới.Tiếng khóc tu-oa phát ra từ tay cô mụ đỡ đã khiến người
mẹ sung sướng đến quên hết từng cơn đau đớn lúc chuyển bụng trước khi sanh và
mong muốn nhìn mặt đứa bé ngay bất luận trai hay gái.

Khi nuôi con từ một trò chơi nhỏ con học làm được cũng khiến mẹ vui sướng. Con
ấm đầu đau ốm mẹ thắt ruột thắt gan ngồi đứng không yên,van vái cho con chóng
khỏi. Con lớn lên lo cho con ăn học,dạy dỗ nên người,dĩ nhiên bên cạnh mẹ cũng có
cha. Có nhiều bà mẹ khi sanh con ra chồng qua đời và ở vậy suốt đời lo cho con và
xem sự thành công của con là niềm an ủi của mình.
Con hiếu thảo là phần thưởng cho mẹ, gặp con cứng đầu, bất hiếu người mẹ đau khổ
biết bao nhiêu ! Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống, mẹ không bao giờ bỏ con được.
Gặp hoàn cảnh thế nào,mẹ cũng là điểm tựa an lành, một vòng tay ấm áp sẵn sàng để
con ngã vào lòng khi bị đời bạc đãi hất hủi.
Người phụ nữ cũng có sức chịu đựng dẻo dai và đức tính hy sinh; nếu con vô tình
chạy theo danh lợi tiền tài chà đạp lên sự đau khổ của mình, người mẹ cũng cam tâm
chịu đựng không hề oán trách con.

Sau ngày 30-4-75 Cộng sản vào chiếm miền Nam,những đứa con bị đi tù
đày, các bà mẹ bây giờ
phải lo phụ con dâu tảo tần nuôi ccn, giữ cháu. Có nhiều gia đình vì hoàn cảnh
gia đình không còn con dâu, người mẹ phải hai vai gánh vác:vừa nuôi con trong
lao tù, vừa dưỡng dục lũ cháu cho được âm thân,nên người thay cho cha
chúng.
Rồi bây giờ qua Mỹ có hoàn cảnh được sung suớng,lảnh tiền trợ cấp đủ sống,
đáng lý thảnh thơi tuổi già nhưng vẫn ở với con để chăm sóc việc nhà, cơm
nước, giữ cháu ít nghĩ đến thú vui riêng của mình. Nhiều tấm gương hy sinh
cho con rất cảm động, chẳng hạn như hai mẹ con béElian ở nước C.sản Cuba
vượt biên qua Hoa Kỳ. Tàu bị chìm giữa biển. Bà mẹ có cái phao đã hy sinh
đặt con mình lên đó chờ tàu khác cứu và người mẹ đã chìm sâu vào biển lạnh
để con mình được cứu sống. Còn biết bao gương hy sinh không bút mực nào
tả hết được.
Trong xã hội đủ mọi hòan cảnh,đủ mọi hạng người. Có những đứa con dầu cha
mẹ tuổi già có sanh chứng dở tật cũng hết lòng chìu chuộng chăm sóc.Ngược
lại cũng có gia đình cha mẹ hết lòng lo lắng chăm sóc con nhưng gặp phải đứa
con ngỗ nghịch bất hiếu cũng đành tủi hận khóc thầm, chỉ còn biết cầu nguyện
cho con mình sớm được khai tâm tỉnh thức nhân ra lẽ hiếu đạo để theo.

Ngày Mother's day đầy ý nghĩa thay! Hằng ngày đài phát thanh ra rả
những bài văn,bài thơ, bản nhạc hay, để tạ ơn Mẹ.bSách báo kể chuyện về Mẹ
cũng nhiều,với mục đích gợi lại trong tâm trí những người con phải chạnh lòng
nghĩ đến công ơn trới biển của Mẹ mình nói riêng và các bậc sanh thành khác
nói chung.
Bài thơ sau đây đã nói lên sự tận tụy hy sinh của người Mẹ,và niềm hảnh diện
khi thấy con cháu hiển đạt thành danh:

Con đã lớn,bây giờ có cháu,
Mới lọt lòng trông kháu biết bao.
Lửng lơ như mới ngày nào
Bây giờ con đó,cháu nầy giống nhau.
Thế mới biết khổ đau của Mẹ
Cực khổ gì cũng nhẹ như bông,
Suốt đời tận tụy môt lòng,
Nuôi con khôn lớn những mong nên người.
Con khỏe mạnh nụ cười luôn nở,
Con ấm đầu trăn trở chẳng yên,
Lo lớn lo nhỏ triền miên,
Có con mới biết mẹ hiền công lao.
Dù khổ nhọc thế nào đi nữa,
Cũng gánh gồng đi giữa cuộc đời.
Cho con cho cháu thảnh thơi,
Con đàn,cháu đống số lời của ta!

TrangNgocKimLang

CÁNH CHIM HẢI ÂU

Tác giả Bông Điên Điển

(Thương gởi các Anh )
Tôi chợt thức bình minh cùng ló dạng

Mây ngừng trôi, từng phiến nhạt mỏng manh
Trời vào Thu, những vạt nắng vàng hanh
Lá trên cành như còn đang say ngủ

Nghe Quê Hương niềm đau đang ấp ủ
Nghe nhung nhớ, buồn vây phủ còn đây
Nơi chôn nhau, cắt rún bị xới cày
Bao chiến sĩ vương tù đày không án

Đếm thời gian bằng trăng lên, ánh sáng
Hằng bao năm mang phải kiếp sống hờ
Ngày trở về, tôi lạc lõng bơ vơ
Mái ấm đó! Giờ đây“sao vàng”phủ

Còn đâu nữa! Những tên đường xưa cũ
Những phố phường ủ rũ lịm hồn tôi
Người thân yêu nay cũng đã xa rồi
Chỉ còn lại trái tim côi rữa mục.

Tôi bất lực trước Quê hương thổn thức
Trước máu đào rên siết phải lặng căm
Vẫn thương nhớ Đà Lạt thưở xa xăm
Màu áo trắng Quân trường! Đầy tâm huyết

Lòng dâng lên bao nỗi buồn da diết
Mây giăng sầu tiễn biệt một người đi
Lá Thu rơi chào vẫy buổi phân kỳ
Nghe nước mắt dâng mi thân chiến bại

Tạm giã biệt những gì tôi ưu ái
Phải đành cam mượn tạm“cánh Hải Âu”
Mang thương đau trải khắp nửa vòng cầu
Đau còn đó với tích thương“Quốc hận”

Có những lúc tôi cùng mây vơ vẩn
Bâng khuâng buồn theo kỷ niệm còn vương
Khúc đàn xưa tan vỡ những cung thương
Chỉ còn lại chút hương thừa tro bụi.

Bông Điên Điển
Virginia. Richmond tháng 09/1994

Xuân tặng

Xuân có đến rồi đi Xuân vẫn thế!
Vẫn dịu dàng vẫn tươi thắm màu hoa
Vẫn rộn ràng giai điệu Đoản xuân ca
Vẫn tha thiết say Xuân và Tuổi trẻ
Vẫn nâng chúc Ly rượu mừng người nhé!
Vẫn Đầu năm câu chuyện ngóng Tình quân
Vẫn xinh hoài những Cánh thiệp đầu Xuân
Vẫn lơi lả Xuân yêu thương nồng cháy
Vẫn Thì thầm mùa Xuân- Chiều Xuân ấy
Vẫn hỏi lòng Em đã thấy Xuân chưa?
Vẫn mơ màng Xuân mộng nét xuân xưa
Vẫn Cánh bướm vườn Xuân đầy hương sắc
Vẫn nô nức Đón Xuân đùa lí lắc
Vẫn thả hồn bay bỗng Mộng chiều xuân
Vẫn trẻ hoài như Khúc hát Thanh xuân
Vẫn yêu dấu một Mùa xuân của Mẹ
Vẫn yêu lắm Cảm ơn người lính trẻ
Vẫn Đầu xuân lính chúc giữa phong sương
Vẫn Xuân này con không về Mẹ thương
Vẫn buồn bã Xuân tha hương viễn xứ...
Thôi cứ tặng cho nhau lời tình tứ
Tặng yêu thương tặng nhung nhớ nụ hôn
Tặng nụ cười bình minh tới hoàng hôn
Tặng tất cả...Chúc xuân tràn hạnh phúc...

Xuân tặng...
03/20/2020 12:05PM
Erlinda Thuỳ Linh

Huỳnh Kim

ĐỐI CHIẾU LỜI PHẬT THÍCH CA ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO

---oOo---
Nếu đọc giáo thuyêt chỉ một tôn giáo của mình, không chịu nghiên cứu và không biết đối
chiếu giáo thuyết của các tôn giáo khác, dầu có đọc qua không biết bao nhiêu triệu ngàn
lần, rách không biết bao nhiêu quyển kinh của Phật Giáo và của các tôn giáo khác, cũng
không biết Đức Phật Thích Ca nói cái gì và nói về ai? Phàm chẳng những chịu khó
nghiên cứu giáo lý của các tôn giáo và phải biết đối chiếu, để so sánh với nhau mới có thể
biết rõ chân lý về các tôn giáo. Nhưng cũng phải có duyên với các đấng thiêng liêng, mới
biết lời các Ngài nói xa. Phàm có duyên với các Ngài, phải là người trung kiên, nghĩa khí,
chứ không phải là người có chiếc áo người tu bất cứ một tôn giáo nào. Vì là đấng thiêng
liêng, luôn công bằng đối với chúng sanh. Bởi đó, chúng tôi mới có sự đối chiếu lời của
Đức Phật Thích Ca với các tôn giáo, để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo như sau: Sau 45 năm chu
du thuyết Đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ, một ngày nọ Đức Phật Thích Ca kêu Ngài Ananda
và chúng tỳ kheo lại nói:" Còn ba tháng nữa Ta nhập diệt tịch”. Ngài Ananda khóc quẹt
nước mắt hỏi: Thế Tôn nhập diệt tịch còn ai giáo hóa chúng con?
1/- Đức Phật Thích Ca đáp: Ta không phải Đức Phật đầu tiên giáng thế, cũng không phải
Đức Phật cuối cùng, khi cần sẽ có một Đức Phật khác giáng thế trên thế giới, một vị chí
tôn, trí tuệ, hành vi đạo đức đem lại điềm lành, biết rõ vũ trụ.
Trong Đạo Đức Kinh cũng nói “Cái đạo có thể phổ diễn được, nhưng không phải là cái
đạo bất diệt Huỳnh Kim đối chiếu: Nếu hiểu theo lời Đức Phật Thích Ca và Đạo Đức Kinh
nói, thì mỗi thời kỳ loài người biến đổi, đảo điên, là có một vị thiêng liêng giáng thế mở
Đạo, dạy đời, đến thời kỳ khác thì có một ị khác, chứ không phải một Đạo của Giáo Chủ
đầu tiên giáng thế, mà còn phù hợp mãi mãi với muôn ngàn thế kỷ sau với loài người
được. Nhìn lại lịch sử từ khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch đến đầu thế kỷ 20 và mãi
đến năm 2020, hình như chưa nghe vị nào giáng thế kể cả các vị Thiền Sư đến 33 đời Tổ
trong Đạo Phật Thích Ca, cũng không ai biết về Ma, Quỉ, Súc Sanh tu hành được đắc Đạo,
như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết như sau

…” Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu, Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc Sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.

2/- Đức Phật Thích Ca nói: Về việc giáng thế của Đức Phật Vị Lai, là vị chúa tể của
thiên thần và thế nhân, một vị lãnh đạo vô song của loài người.

Huỳnh Kim đối chiếu: Nhìn lại lịch sử, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch , chỉ mới
đến thế kỷ thứ BẢY, đạo sĩ Bà La Môn trà trộn trong hàng Tăng đồ, đem nhiều thuyết Ấn
Độ Giáo , cúng kiếng tinh tà, dị đoan mê tín, pha trộn giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca,,
làm cho hai tôn giáo không còn gì khác biệt nhau; đến thế kỷ thứ TÁM, Đạo Phật Thích Ca
suy đồi tuột dốc tận cùng tại Ấn Độ, là nơi xuất phát ra Phật Giáo, nên đã có hằng ngàn
người bỏ Đạo Phật Thích Ca, lũ lượt kéo nhau quay về Ấn Độ Giáo !...Đến 400 năm sau
Đạo Phât Thích Ca mới thoát ra khỏi khắp nước Ấn Độ, là nơi xuất phát Phật Giáo. Vì đạo
sĩ Bà La Môn cứ mãi kình chống Đạo Phật Thích Ca. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ MƯỜI, Đạo
Phật Thích Ca vẫn được truyền sang các quốc gia Châu Á như: Trung Hoa, Tây Tạng,
Mông Cổ, Triều Tiên, Nhựt Bổn và Việt Nam, gọi là “Phái Bắc Tông “, theo Đại Thừa. Khi
truyền sang qua phía Nam như: Miến Điện, Tích Lan, Miên, ThaiLand, Lào, thì gọi là “Phái
Nam Tông”, theo Tiểu Thừa. Truyền sang qua nhiều quốc gia, đương nhiên không tránh
khỏi sự sai trật, không biết vì ngôn ngữ bất đồng, từ chữ Phạn dịch sang chữ bản xứ, là
một việc làm đầy khó khăn, hoặc vì quan niệm riêng hay vì môn phái của dịch giả, mà mỗi
quốc gia phải chia ra nhiều phe phái, phe nào, phe nấy thờ đủ thứ tà thần, nào thờ Thần
Nữ, Thần Nam, thần Ma, thần Quỉ...phe nào cũng cho phe ta là đúng hơn phe khác. Cụ
thể: Chỉ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca cũng không nhất thiết được, như sau đây:
1/- Theo sách Chúng Thánh điểm ký, thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào năm 565 trước

công nguyên,
2/- Theo một số các nhà khảo cổ học phương Tây, thì nói sanh Đưc Phật vào năm 563
trước Công Nguyên.
3/- Theo Phật sử Tích Lan và quyết định của hội Phật Giáo thế giới thì nói sanh Đức Phật
vào năm 624 trước Công Nguyên.
4/- Theo Phật sử Tây Tạng, thì nói sanh Đức Phật vào năm 620 trước Công Nguyên.
5/- Theo bia ký ở Buddha- Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào
năm 623 trước Công Nguyên
6/- Việt Nam từ xưa tổ chức kỷ niệm Đản Sanh Đức Phật Thích Ca, hằng năm vào
ngày mùng 8 tháng tư âm lịch, sau 30 tháng 4 năm 1975 ra hải ngoại và khi Phật Giáo Hội
tại Miến Điện, đổi ngày Đản Sanh Đức Phật Thích Ca lại" ngày rằm tháng 4 âm lịch ", như
vậy chúng dân làm sao biết ngày nào đúng, ngày nào sai ? Mặc dầu Thái Tử Sĩ Đạt Ta là
con vua Tịnh Phạn, đương nhiên đã có gia phả lưu truyền , chứ đâu phải thứ dân ?. Hơn
nữa trong lịch sử có nói Thái Tử khi 7 tuổi, những thầy giáo giỏi nhứt trong xứ được mời
đến hoàng cung dạy cho Thái Tử. Tức nhiên, thời đó Ấn Độ đã có quốc văn, thì đã có gia
phả rồi, những vị kế thừa sao không lưu giữ, để " đến 400 năm sau Đức Phật Thích Ca đã
nhập diệt tịch mớt ghi chép lại " ( Trích sao y lời của tác giả Trịnh Văn Thanh ), làm sao
tránh khỏi tam sao thất bổn và làm gì gọi giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca là nguyên gốc
khi Ngài đang thuyết được; để so sánh với Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo
Hòa Hảo, Ngài tự tay viết lại quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, theo thể" Thi Phú Văn
Nho " có ẩn ý tiên tri thời cuộc Việt Nam và thời sự thế giới, trùng trùng, điệp điệp, còn giữ
được nguyên gốc; mà không có giáo thuyết của một tôn giáo nào kể cả của Đức Phật
Thích Ca cũng không giống được ?...
Chỉ nhìn vào Đản Sanh của Đức Phật Thích Ca và một số người tu xuất gia như Thích
Phước Tiến, Thích Thiện Huệ và những người trong Viện Phật Học Việt Nam, cũng đủ
cho chúng dân biết, giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca hiện nay không phải của Đức Phật
Thích Ca tự tay viết lại lam điểm cứ theo thể " Thi Phú Văn Nho "cũng không có tiên tri thời
cuộc bản xứ và thời sự thế giới nhiều và đặc biệt như quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ
của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo ?..

Khi vua cha mời về thăm Hoàng Cung, Đức Phật Thích Ca nói:" Nếu phụ nữ không
được phép xuất gia và sống trong pháp và luật của Ta, thì cuộc sống Thánh hạnh
của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu, Chánh pháp cao cả của Ta có thể duy
trì một ngàn năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh hạnh của
các đệ tử Ta sẽ không thể duy trì dài lâu , và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ
còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi."..Thể theo lời Đức Phật Thích Ca đã xác nhận như
trên, thì ngày nay là năm 2020, là đã trải qua mấy lần 500 năm rồi, quý vị tu xuất gia, như
Thích Phước Tiến, Thích Thiện Huệ, với những người trong viện Phật Học Sài Gòn hiện
nay, có biết đã trải qua mấy lần 500 năm chưa ? Chỉ sau khi Đức Thích Ca nhập diệt tịch,
mới đến thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ Tám, Đạo Phật Thích Ca suy đồi tuột dốc tận cùng tại
Ấn Độ, mãi đến cuối thế kỷ 19, trong Đạo Phật Thích Ca từ Thiền Sư đến 33 đời Tổ, không
ai ngăn chặc được ngọn thủy triều suy sụp của Đạo Phật Thích Ca?.
Với hoàn cảnh tà thần xuất hiện dẫy đầy, di đoan mê tin lan tràn khắp nơi, dân chúng thì
lập nhiều miếu thờ tà thần nhảm nhí khắp cùng làng thôn, như ở ranh đất nầy có miếu
thờ “ Ông Thổ Thần “ bằng cục đất, Ở đầu cầu kia có miếu thờ “ Ông Hổ “ bằng hình vẻ
con cọp, Ở gốc cây to có miếu thờ “ Ông Tà “ bằng cục đá, Ở bụi tre nọ có miếu thờ “
Ông Táo “ bằng mõ cà ràng bể , Ở mé sông có thẻ tre sơn vôi trắng “ ếm Bà Thủy “ để
nhà có con gái không mắc nàng dưới…
Đêm đêm, từ đầu làng đến cuối xóm, tiếng " Tù Và " thổi vang dội, báo tin có người bị bịnh
chết, vì nhà cầm quyền không có thuốc trị, để cùng nhau đi chôn người nầy vừa xong thì
kế người khác chết !..
Đúng như lời của Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda và chúng Tỳ Kheo mấy ngàn
năm xưa, Đức Huỳnh Giáo Chủ là “ Chúa tể của thiên thần và thế nhân “, mới diệt trừ
được tiệt gốc các loại tà thần, dị đoan mê tín
ấy.

Nhìn lại lịch sử tôn giáo, từ khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch, đến đầu thế kỷ 20 và
có thể nói mãi đến năm 2020, trong Đạo Phật Thích Ca, từ Thiền Sư đến 33 đời Tổ, kể cả
các vị nguyên thủ các quốc gia trên thế giới, cũng không có một vị nào bài trừ các vị tà
thần, dị đoan mê tín ấy dược tiệt gốc như Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo ? Cụ
thể, hiện nay ( 2020 ), các quốc gia trên thế giới và các quốc gia khoa học Tây Phương,
như Hoa Kỳ là một quốc gia khoa học phát triển vượt bực và văn minh nhứt thế giới,
nhưng các cửa hàng buôn bán hằng ngày vẫn còn bày bán công khai dẫy đầy quần ma,
áo quỉ, lầu kho xá phướn, tiền ma vàng mã, hình đầu lâu, hình nộm xương cốt ma quỉ.
Hằng năm dân chúng Hoa Kỳ lại tổ chức công khai kỷ niệm ngày lễ ma, quỉ toàn quốc, tối
từng đoàn người đi từ nhà gỏ cửa xin kẹo và mỗi nhà người Mỹ đều có treo hình đầu lâu,
hình nộm ma, quỉ, trước cửa hoặc chưng trong nhà, thông thường đầu tháng 9 mỗi năm
( ngày 4 tháng 9 ) là các chơ Mỹ có chưng bán hình ma, quỉ. Như thế, cả thế giới, từ khi
Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch mãi đến năm 2020, chỉ có Đức Huỳnh Giáo Chủ, Phật
Giáo Hòa Hảo, mới diệt trừ được tiệt gốc các loại tà thần, dị đoan mê tín ấy được tiệt
gốc.Như thế, Đức Huỳnh Giáo Chủ mới chính là chúa tể của thiên thần và thế nhân, đúng
y như lời của Đức Phật Thích Ca nói vậy..
7/- Đức Phật Thích Ca nói: Ngài ( Đức Huỳnh Giáo Chủ ) sẽ lấy Đạo Hiệu là “ PHẬT “.

Huỳnh Kim đối chiếu: Chữ Phật là ánh sang vô lượng, ánh sang quang huy chân
phúc của cảnh giác ngộ.

Đạo Hiêu là danh xưng của một tôn giáo thờ “ PHẬT “. Còn như “ Đạo Nho, Đạo Lão,
Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin Lành, Đạo Cao Đài, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương “ không có chữ
“ PHẬT “ ở trước như Đức Phật Thích Ca nói, thì đó chỉ là danh hiệu, chứ chưa phải Đạo
Hiệu là “ PHẬT “, như Đạo Hiệu “ Phật Giáo Hòa Hảo “ được

Huỳnh Kim
( Còn tiếp, xin mời vào Facebook: huynhkim.com xem biết rõ hơn )

Mùa xuân xa xứ

Giá lạnh tàn đông chẳng bóng hình.
Khoảnh vườn cây cỏ cảnh điêu linh.
Trời êm lờ lững mây bàng bạc.
Đất lặng mơ màng nắng lung linh.
Đường lên núi, tuyết rơi lãng đãng.
Lối xuống đồi, sương đọng rung rinh .
Lửa hồng củi ấm reo tí tách.
Chén rượu lâng lâng thỏa ý tình.

Lê Mỹ Luân

CHẲNG CÓ NGHĨA GÌ!

Hắn xách cần câu ra ngồi trên bệ đá. Những phiến đá không biết tự bao giờ có mặt
bên bờ vịnh, to có nhỏ có, màu xám xịt, những lớp rong phủ thời gian dày ra tung tăng
theo những đợt sóng vỗ bờ. Bên kia xa là cầu Golden Gate mờ ảo trong màng sương.
Đâu đây tiếng những con hải âu gọi nhau, thỉnh thoảng là tiếng gầm thét của những
chiếc phi cơ lên xuống phi trường...Hắn ngồi, hai chân duỗi ra phía trước, chiếc cần
câu để hờ trên đùi, một tay cầm lưỡi câu, tay kia bắt một miếng mồi móc vào theo
chiều cong của lưỡi câu. Nhìn qua nhìn lại, Hắn tự thỏa mãn với công trình móc mồi
của mình. Hắn lẩm bẩm: "Ngon đến nổi người còn muốn đớp chứ đừng nói là cá...!"
Hắn từ từ đứng lên, cầm cây cần, thả dây cước, lấy trớn... cuối cùng Hắn thả được con
mồi và dây câu ra xa. Hắn lấy tay trái quay nhẹ mấy vòng thả thêm giây câu. Có vẽ vừa
nhàn nhã, vừa tự mãn, Hắn huýt sáo miệng từ từ ngồi xuống phiến đá to.
Những con sóng miên man xô bờ, tiếng kêu như âm vang, như rầm rì, như réo gọi,
như gào thét, như than thở. Hắn hòa mình vào thứ âm thanh hỗn tạp ấy. Hắn nghĩ và
thích thú tự cho mình là một ngư ông an nhàn bên bờ vịnh San Fransico. Hắn lấy làm
bằng lòng rằng hắnlà người biết hưởng thú vui mà các cụ ngày xưa như Nguyễn
Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ thường ca tụng. Giữa xã hội xô bồ nầy,
Hắn vẫn " thảnh thơi thơ túi rượu bầu" thì rất hiếm... Sau khi tốt nghiệp ở Đại Học
Berkeley, Hắn có job ngay và làm việc liên tục từ ngày đó. Thứ bảy, Chúa nhật thường
thì Hắn lang thang khắp nẻo thị thành. Từ San Jose, San Fransico, Secramento. Thỉnh
thoảng mới mò về Nam Cali thăm cha mẹ.Tiền lương chẳng bao giờ thấy đủ. Trong
suốt mấy năm trời như thế, Hắn thấy chán và muốn một sự đổi thay. Hắn quen một
sinh viên gốc Hoa, co bé tóc đen dài, người mảnh mai dễ mến. Hắn vội vàng tỏ tình,
vội vàng hối cha mẹ đem trầu cau xin cưới cho Hắn! Hắn hối hả như thế vì Hắn muốn
từ giã những ngày lang thang, từ giã cảnh sống độc thân...Từ ngày Hắn có vợ, Hắn
bỗng nhiên trở thành ông cụ non. Ngày nghĩ, ngày lễ tết thường về thăm cha mẹ hoặc
xách cần câu...ra ngồi "thạch bàn".
Sáng nay, Hắn rũ vợ đi câu với Hắn. Cô vợ cáo bệnh ở nhà. Cô ta chẳng mấy thích
ngồi cả ngày ngoài nắng, nước da chẳng đẹp tí nào. Mà ngồi cầm cần câu, chờ cho cá
nó đớp lâu phát chán. Có nhiều khi từ sáng đến trưa chẳng được con nào mà còn mệt
lả ra...Hắn điện thoại rũ thằng bạn cùng sở cho có bạn. Nhưng thằng quỉ cũng làm
biếng thối thác. Thế là Hắn đành một mình ra ngắm trời mây!

Hắn đang lơ mơ nhìn những con chim hải âu ríu rít gọi nhau đậu trên phiến đá gần đó
thì chiếc cần giật lên suýt rời khỏi tay Hắn. Hắn hoàn hồn cầm chặt chiếc cần, tay kia
quay trục cước...Sức mạnh của con cá bị móc câu xem ra khá mạnh. Hắn tháo sợi
cước theo sức chạy của con mồi. Nó chạy ra xa thì Hắn thả giây, chạy vào thì Hắn
cuốn giây...Cứ thế không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu thời gian. Hắn vật
lộn với chiếc cần câu và con mồi đến toát mồ hôi. Có lúc hắn cảm tưởng là Hắn bị con
mồi kéo luôn xuống biển. Hắn bám vào phiến đá để khỏi trợt chân té theo những con
sóng phía dưới. Hắn cảm thấy mệt và khát nước. Giá mà có vợ Hắn thì vợ Hắn đã kéo
phụ một tay hay đem nước cho Hắn uống lúc nầy. Chiếc thùng to bằng nhựa màu
xanh có chứa bịch nước đá và mấy chai bia đang nằm phía dưới gần mép nước... Có
lúc Hắn muốn bỏ cuộc vì con mồi trì kéo, vật lộn với Hắn lâu như thế mà chưa thấy
mệt; còn Hắn, Hắn cảm thấy đắng miệng, tay mỏi, có đôi lúc cần câu suýt tuột khỏi tay
Hắn...
Cuối cùng thì con mồi cũng khuất phục trước sức phấn đấu dẻo dai của Hắn. Hơn
nữa, Hắn cũng rất khéo léo và tỏ ra thiện nghệ trong việc thả dây câu, kéo gần buông
xa theo sức chạy của con mồi. Khi Hắn thấy con mồi đã thực sự thấm mệt, không còn
sức chạy ra xa, không còn sức vùng vẫy nguy hiểm để đến nỗi đứt giây câu...Hắn mới
kéo nó vào bờ. Con mồi tuy đã mệt nhưng cho nó vào bờ cũng không phải dễ. Nếu nó
nhỏ và vừa tầm thì kéo lên gọn trơn như những lần trước. Đàng nầy, Hắn có cảm giác,
với sức nặng của nó, nếu đứng trên phiến đá mà kéo thì dây câu sẽ đứt. Hắn bèn vừa
thả dây theo con mồi, vừa đi lần xuống mép nước, nơi ít có đá. Khi Hắn xuống mép
nước, những đợt sóng tuy nhỏ nhưng cũng đủ làm khó hắn . Thỉnh thoảng con sóng
lớn ập đến, tung vào kẹt đá, nước tung tóe vào mặt, vào người Hắn. Áo quần ướt hết,
Hắn bám trụ hai chân vào cát, nhưng những đợt sóng liên tục làm cát xói khỏi chân.
Hai chân cứ thế chôn sâu dần xuống cát. Con vật cũng lì lợm lúc chạy nhanh ra xa, lúc
gầm gừ nặng nề từ ngoài theo sóng lướt nhẹ gần sát mép nước! Khi con mồi gần sát
Hắn, Hắn thấy nó dài gần một thước, màu xám trắng...Hắn vừa mừng vừa lo, không
biết mình có đủ sức đem nó lên khỏi mặt nước không hay...ngư ông lại bị đứt nhợ,
vênh râu ngồi bờ...thì tức lắm và cũng quê lắm!
Dịp may hiếm có đến với Hắn, một con sóng thật lớn từ ngoài đang chớp bọt trắng
chạy vào. Con mồi cùng lúc cũng dựa theo con sóng quay đầu hướng vô bờ. Hắn
quay dây câu thật nhanh, con mồi vừa bị dây kéo vừa bị sóng xô...nên nó không thể
nào quay ngược trở ra! Nó đã mệt rồi nên khi Hắn kéo dây câu căn thẳng, con sóng
đưa theo... Cuối cùng con mồi không còn cưỡng lại hai lực kéo và đẩy. Nó bị đưa luôn
lên bờ theo con sóng. Con sóng rút ra để lại con mồi nhảy dựng lên trên bãi cát. Lúc
nầy Hắn chưa biết làm sao, chưa kịp dự tính phải làm gì thì con mồi theo trớn nhảy
búng, nó có khuynh hường trôi xuống nước trở lại nếu có một đợt sóng to khác. Trí
thông minh vừa lóe ra trong trí Hắn, Hắn cởi chiếc áo đang mặc, chạy đến bên con
mồi, phủ lên nó và hai tay ôm cái đuôi lôi xa mặt nước. Nhờ có cái áo nên không bị
trơn bởi nhớt của con cá. Hắn vừa lôi vừa thở, con cá vừa tung vừa tận lực dãy giụa...
Đưa được con mồi xa mặt nước, Hắn mệt lã, ngồi phủ phục bên con mồi thở dốc, cổ
Hắn khô và rát. Bây giờ Hắn mới nhớ đến chiếc thùng nhựa. Hắn nhìn quanh và chạy
đến chỗ chiếc thùng . Hắn xách thùng đến gần con cá, vừa uống chai bia, vừa lấy con
dao trong thùng ra. Con cá đã hết vùng vẫy, nó vừa chết vì sức nóng mặt trời và sức
nóng của cát. Hắn suy nghĩ mông lung, nếu kéo được con cá về khoe với vợ và bạn bè
thì hay biết bao. Nhưng từ nơi câu đến chỗ để xe khá xa. Vã lại Hắn cũng chưa muốn
về. Hắn bèn dùng con dao kết thúc cuộc đời con cá ra làm nhiều khúc. Hắn đem từng
khúc xuống nước rửa cho sạch cát bám. Hắn thả vào thùng , sắp xếp ngay ngắn. Cuối
cùng Hắn rãi lên trên một lớp nước đá có đem theo sẵn. Hắn khóa thùng lại, mấy chai
bia còn đễ bên ngoài, Hắn xách bia và tìm cuốn sách. cuốn sách bỏ trong túi quần ướt
thảm thương trong những lúc

Hắn chiến đấu với con cá. Hắn lấy sách ra phơi và khui chai bia, uống một hơi để tự
thưởng cho mình . Hắn nghĩ , không còn phải câu làm gì, kiếm một chỗ thoáng và
đẹp, nhìn được trời mây...để vừa đọc sách, vừa uống bia, cho mình cái nhàn hạ
ngày chúa nhật và cũng để thưởng công vừa chiến thắng một trận chiến hết sức
gây cấn giữa người và cá cùng thiên nhiên...Hắn thỏa mãn, từ khi biết câu cá đến
giờ, đây là lần chiến thắng ngoài giấc mơ của Hắn. Hắn nhận định, có thể con cá
khoảng từ hai đến ba chục ký lô!
Say men chiến thắng, Hắn uống liên tục mấy lon bia, nhấm nháp với bánh mì
thịt...Cuốn sách chưa khô, Hắn dựa vào phiến đá lim dim ngủ. Trong giấc ngủ chập
chờn dưới ánh nắng mặt trời hòa với tiếng gào thét của sóng và thiên nhiên, Hắn
cảm giác như mình đang bay vào một cõi tiên. Hắn thấy một tiên nữ trong xiêm y
mỏng dánh đang tiến về phía Hắn. Nàng thỏ thẻ bên tai :
- Thần thiếp kính chào bệ hạ!

Hắn giật mình, không biết mình đã thành vua hồi nào, nghĩ rằng mình nghe lầm, hay
nàng chào ai. Hắn nhìn quanh, không đáp. Nàng lại nhõng nhẽo:
- Kìa, Bệ Hạ không yêu Thần thiếp sao mà không nhìn thiếp, không trả lời với thiếp?
Đây là vườn Lộc Uyển thuộc Tây Vương Mẫu. Vương Mẫu biết được ngày hôm nay
Bệ Hạ từ trần gian lên du thiên cung nên phái thần thiếp đến đây đón Bệ Hạ! Vương
Mẩu còn dặn thần thiếp là phải làm cho Bệ Hạ hài lòng, nếu không thần thiếp phải
chịu nạn đày xuống trần gian...
Hắn nhìn tiên nữ mơn mởn đào tơ, sắc nước hương trời, nước da trắng ngà, xiêm y
mỏng quấn quanh người lồ lộ một tòa thiên nhiên..."Ôi! Đúng là mình đang du tiên
cảnh, quả thật mình đang làm vua...Trời ơi! sao mà lạ thế!" Ở dương trần, thằng bạn
Hắn làm nghề thầy tử vi, chấm số cho Hắn, nói là Hắn sanh nhằm ngày xấu nên
tương lai không lấy gì khá! Lên voi thì lên tột đỉnh mà xuống chó thì chó cũng
chê...Ô! ä Vậy là mình đang lên voi tột đỉnh, mà lên như vầy sao có vẻ lạ quá. không
hiểu cách nào mình lên tới đây và làm vua...Ôi!..."
- Bệ Hạ vào đây, bên kia bờ suối là hàng cây đào tiên đang thời trái chín. Bệ Hạ có
nhớ lúc Tề Thiên Đại Thánh ở cung đình, biến thành con sâu ngủ trong trái đào sau
khi ăn hết bao nhiêu là trái quí. Ngủ mê đến nỗi khi trái đào bị hái rớt xuống, Tề
Thiên văng ra hiện nguyên hình...
- Tiên nữ ôi! Tôi làm vua hồi nào vậy? Hay là tôi đã chết và hồn vất vưởng lên
đây...xin Nàng cho tôi biết...!
- Bệ Hạ không chết, Bệ Hạ đang được thần thiếp phục dịch vì số của Bệ Hạ sẽ làm
vua...
- Sao nàng ngập ngừng, làm vua gì, có bao nhiêu thần dân, làm vua được bao lâu?
- Xin Bệ Hạ tha tội, Thiên cơ bất khả lậu mà! Chàng có khát nước không, thiếp xin
dâng đào tiên cho chàng thưởng thức!
Hắn nghĩ trong đầu: "Ôi! thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt!..." Hắn bạo dạn cầm
tay nàng, đưa môi hôn vào môi của nàng...Hai tay Hắn quờ quạng! Hai mắt Hắn
nhắm nghiền...Nhưng Hắn lại thấy khát nước kinh khủng.
- Nàng hãy cho ta uống nước, nàng hãy xít lại gần ta...sao nàng mờ ảo vậy, sao ta
không ôm nàng được, nàng vờn ta như thế là sao...Hỡi nàng tiên của Trẫm...
Hắn không nghe nàng trả lời, như mây bay khói lượn trước mặt Hắn. Hắn cố ngồi
dậy, đầu Hắn nhức nhối như búa bổ. Làm vua sao mà lạ như vầy, sao chưa ăn đào
tiên mà đầu lại nhức! Hắn lẩm bẩm tìm bóng dáng nàng tiên, cổ Hắn khát nước và
rát lên...

Hắn dụi mắt tỉnh giấc nồng. Uống hơi nhiều chất bia và cái nắng gắt làm Hắn du vào
một giấc mơ kỳ diệu hoang đường...Ôi! giá như giấc mơ là sự thật, giá cuộc đời như
giấc mơ! Hắn nghĩ đến nàng tiên với xiêm y mỏng dánh...Hắn nghỉ đến những trái
đào tiên... Một giấc mơ không bao giờ Hắn có thể quên... Hắn vươn vai đứng dậy,
vói tay lấy chai nước lã uống một hơi. Khi Hắn hoàn toàn tỉnh lại thì trời đã hơi xế
chiều. tứ bề vắng bóng người. Hắn chỉ thấy chim hải âu, sóng và trời mây với cái
nắng gắt giao mùa...Hắn nhớ đến cái cần câu, nhớ đến con cá bị chặt khúc trong
chiếc thùng màu xanh...Hắn nhìn quanh tìm kiếm...Hắn nhớ lúc bỏ cá vào thùng dưới
mép nước đàng kia, sau đó Hắn quên lôi chiếc thùng lên xa mặt nước. Bây giờ chiếc
thùng ai lấy mất, nó không còn chỗ củ nữa và nó ở đâu? Hắn nhìn quanh xem có
người nào hiện diện hay không. Nếu không thì ai đã lấy chiếc thùng có con cá to,
chiến lợi phẩm của Hắn!

Hắn chạy xuống mép nước quan sát, nhìn quanh, lượng giá và nheo mắt nhìn ra xa,
nơi những cơn sóng dập dìu tung tăng giỡn với gió...Trời về chiều, bóng dáng chiếc
cầu nổi tiếng thế giới chìm trong màng đục của hơi nước, vừa nhạt, vừa mờ trong
nền trời tưởng như không có thật. Hắn bổng để ý đến một chấm nhỏ trôi bềnh bồng,
lúc ẩn lúc hiện ngoài khơi. Định thần, Hắn cố gắng tập trung thị giác vào mục tiêu.
Hắn à lên một tiếng! Thì ra chiếc thùng thân yêu, bên trong là chiến lợi phẩm vô tiền
khoáng hậu của Hắn đã bị sóng lớn ập vào bờ lôi đi...Trời ơi! miếng ăn tưởng vào
miệng chắc như thế mà còn vuột khỏi tầm tay thì lạ thật.
Hắn cởi quần ngoài, chuẩn bị bơi ra khơi lấy lại chiếc thùng. Hắn cương quyết tiến
đến mép nước và thề quyết lấy lại cho được của đã mất. Hắn quyết tâm tiến lên
giống như một hiệp sĩ tuốt kiếm chiến đấu thề không lùi bước! Đến khi hai chân chạm
vào nước, con sóng ập vào...Hắn cảm thấy lạnh buốt tới xương, hai chân tê cóng ,
bắp thịt đùi nhói lên như hiện tượng vọp bẻ...Hắn thối lui ngồi xuống ôm đầu! Ngồi
như thế trong vòng mấy phút, Hắn tự nhủ," không thể chết lãng nhách vì chiếc thùng
khốn nạn ấy, hãy quên nó đi, hãy về vớ vợ, hỡi thằng khùng..."
Hắn đứng lên, uể oải thu dọn chiến trường, nào dao, nào chai bia, nào chiếc quần và
cái áo còn dính đầy nhớt cùng hơi hám của con cá...ma! Vừa đi Hắn vừa nhớ ra câu
chuyện mà lúc còn ở Việt Nam, ông nội Hắn, trong một lúc vui, đã kể cho cả nhà
nghe câu chuyện "chắc hay không chắc". Đó là một câu chuyện mà theo Hắn lúc đó,
nó chẳng hay ho gì: " Có một gia đình nọ, cha con cùng làm ruộng, người cha thì lúc
nào cũng tin tưởng tương lai và yêu đời. Người con thì hay nghi ngờ giống như Tào
Tháo. có hôm cày đất xong thì trời mưa, ông cha tuyên bố - chắc ăn rồi! Ông con nói
- chưa chắc! khi cha con rải giống xong và giống mọc lên đều, ông cha tuyên bố -
chắc ăn rồi! ông con lại nói - chưa chắc đâu cha! Khi lúa chín, cha con thu hoạch
đem về nhà, cha tuyên bố - chắc ăn rồi nhé! ông con cũng không chịu - chưa chắc
đâu! Khi lúa được thành gạo, gạo nấu thành cơm đem lên bàn, hai cha con ngồi
chuẩn bị ăn...Ông cha tuyên bố -giờ thì chắc chưa con? ông con nói - nhưng cũng
chưa chắc đâu cha! Ông cha tức quá lấy chân đá chiếc bàn, nồi cơm vằng ra bể nát
và cơm trộn với cát nằm vung vãi khắp nơi. Ông con đứng lên nói - Cha thấy không?
đến gần ăn vào bụng còn chưa chắc thì làm sao có cái gì trên đời nầy chắc được!"...
Hắn nghĩ đến đó bổng tức cười. Hắn cười to, cười vang,cười tối tăm mày mặt...tiếng
cười của Hắn to như thế nhưng tiếng sóng, tiếng gió và tiếng chim hải âu đã phủ lấp,
tiếng cười của Hắn giống như một nốt nhạc đệm theo dòng nhạc cuộc đời...nó cũng
không có nghĩa gì...không có nghĩa gì....!



Con Dâu

Cát Đơn Sa (Diễm Châu)

Từ khi chạy ra khỏi nước bằng đường biển, trong lòng bà Trang lúc nào cũng hoài
vọng về quê hương, nơi có xóm đình làng Rạch Cạn, vùng sông nước miền Nam đã
nuôi sống anh em bà trong thời thơ ấu, sau đó là con hẻm ở Biên Hoà, trước nhà ga
xe lửa của thời hoa niên…
Càng nhớ về tuổi trẻ, bà Trang càng bồi hồi nhớ thương… Bà không muốn nghĩ đến
điều nầy để lòng cứ day dứt mãi, nên ngồi vào bàn vặn máy computer lên, kiếm một
phim hài hước Việt Nam coi cho quên đời…
Bà Trang là người dễ tính, dễ quên… những khi buồn đời, bà cứ phim hài mà chúi
mũi vào, hay ra ngoài khu shopping dạo một vòng, nhìn người ta đông đúc qua lại,
thì bà có thể thoải mái ngay một cách dễ dàng…Nếu bà là người sống nội tâm chắc
là sẽ buồn khổ lắm!
Bởi vậy khi cu Tính ra trường, xin vào làm ở một hãng xa mẹ đến hàng ngàn cây số,
lúc đầu bà Trang cũng quýu cả người lên vì lo lắng! Từ nào tới giờ hai mẹ con sống
với nhau, nói đúng hơn là bà Trang coi thằng con là chỗ dựa tinh thần vững mạnh
mà sống, còn thằng Tính thì bám vào vòng tay mẹ hẳn nhiên, vì chung quanh nó đâu
còn ai thân thuộc mà bám! Hai mẹ con là điểm dựa tinh thần cho nhau…

Vậy mà thời gian trôi qua như bóng câu cửa sổ! Nhìn quanh thì bây giờ bà chỉ còn
mình ên đơn độc! Thằng Tính nay đã trưởng thành, đủ lông đủ cánh, có chí hướng
riêng. Bà không muốn cản trở sự nghiệp và đời sống của con… Bà chỉ biết nhắn nhủ:
- Con coi liệu mà kiếm vợ đi, lấy vợ Việt Nam nghe con…
Thằng nhỏ phản đối ngay, cái tính ương ngạnh như “má nó” lộ ra trước mắt:
- Lấy ai mà chẳng được hả mẹ! Con đâu có quen Việt Nam!
- Thì mẹ giới thiệu cho, bạn mẹ con cái họ thiếu gì… mấy người hay về Việt

Nam… con gái Việt nghe nói tụi nó cũng đẹp lắm…
- Thôi… lấy mấy người đó họ chỉ thích đi Mỹ thôi, ai họ cũng gật đầu chịu hết!

Ông già rụng rún cũng chịu luôn, con đẹp trai làm vậy mất giá!
Bà Trang bực mình vì thằng con hay cãi, hài hước không đúng lúc… chứ không phải
bực vì câu trả lời của nó, bởi những gì nó nói hoàn toàn đúng. Nhưng bà cũng trả lời:
- Đâu phải ai cũng như ai…
- Vậy chứ mẹ muốn con lấy ai?
Câu hỏi vặn lại của con làm bà Trang ú ớ! Bà chỉ muốn nó lấy vợ Việt Nam, chứ
không phải là muốn giới thiệu cô nào! Bà ít bạn, bên đây chỉ có mỗi người bạn tên
Hồng là thân, tính bà dù văn chương lai láng, nhưng con người lại đầy trách nhiệm,
cũng như sự thật thà không khách sáo… nên bà ngại nói mấy chuyện riêng tư gia
đình với người ngoài, nghe có vẻ kỳ kỳ làm sao!
Con bà cũng học hành danh phận đàng hoàng, lại còn trẻ, chưa cần phải lo chuyện vợ
con, bà chỉ nói trước phòng hờ…
- Trời… mẹ lo xa quá! Mẹ nhìn quanh đi, những người lớn tuổi mẹ quen đó… gia

đình họ Việt Nam mà con cái toàn nói tiếng Mỹ, có đứa còn không hiểu tiếng Việt
nữa là khác…
- Mẹ đâu biết, nhưng mẹ thích con dâu người Việt để nó nói được tiếng mẹ đẻ, rồi
con của con cũng biết tiếng Việt… tốt hơn là không biết!
Thằng Tính nó tìm đâu ra điều nầy mà đối đáp trơn tru! Quả không sai tý nào!
Nhưng bà Trang chẳng nói thêm, vì con bà nó không còn nhỏ và chịu nghe lời bà
như khi xưa… Nói cái gì nó cũng có vẻ “hiểu biết, chính xác, uyên thâm” hơn lập
luận của bà…
Thấy mẹ im, thằng Tính hơi thương:
- Con có bồ rồi… khi nào rảnh đưa nó lại thăm mẹ… không phải Mỹ đâu mà mẹ
lo…
Bà Trang mừng thầm, tính hỏi “Việt Nam hả con”… nhưng bà lại nói khác:
- Con sắp nhận việc rồi, thì đưa nó tới mau cho mẹ biết trước khi đi chứ…
Thế rồi hai mẹ con thoả thuận ngày giờ với nhau. Khi Tính đưa bạn gái tên Kim về
nhà giới thiệu cho mẹ, thì ra cô là người Ấn Độ!
- Cái thằng ham sắc!

Nhủ thầm trong bụng, nhưng bà Trang cũng công nhận cô Kim nầy khá đẹp. Bà nhớ thằng

Tính hay phê bình:
- Đàn bà Ấn Độ nổi tiếng đẹp trên thế giới...
Buổi tối trước khi đi ngủ, Tính hỏi:
- Mẹ thấy sao? Kim được không?
- Mẹ không ưa mùi cà ri!
Điều nầy bà nói thật nhưng làm cho Tính giận! Thuở nào tới giờ bà Trang không thích ăn cà ri
nị mấy, và bà cũng không quên mấy ông Ấn Độ bán vải ở Việt Nam thường có cái mùi nặng
nặng giống hôi nách, khó chịu làm sao!… Nhưng Tính thì khác hẳn! Nó thích ăn càri, còn biết
có bao nhiêu nhà hàng bán món Cà ri ngon, kể ra vanh vách cho mẹ nghe ra điều hứng thú
lắm!
Sự việc làm bà bất ngờ nhất là hai đứa nó cùng được một hãng nhận vào làm như nhau. Thế là
chúng có đôi có cặp bay đi phương trời xa, còn bà “già” cu ky một mình. Rồi theo tính toán
của chúng, một đám cưới sau đó được tổ chức ở Las Vegas, số người được mời là cỡ hai mươi,
bên vợ cũng chẳng ai thèm tới tham dự, nghe đâu họ phản đối con họ lấy chồng Việt Nam!
Cô dâu không có cha mẹ mình cũng vẫn tỉnh bơ, cười tươi như hoa bên đám bạn bè thân thiết.
Tính thì sắp xếp cho mẹ ngồi kế bên một anh bạn Việt Nam để mẹ nói chuyện. Bà Trang thấy
đám cưới gì đâu mà nhạt nhẽo, chỉ có bà là lớn tuổi nhất, nhưng tụi trẻ thì đắc ý, có vẻ hoan hỉ

là khác!

Con đã lấy vợ thì bà Trang phải tính cách khác. Bà không dại mà phản đối hay giận hờn ầm ĩ
như đa số các bà mẹ độc đoán... Làm quá thì mất dâu, mất cả con! Đám cưới của chúng dù
không làm cho bà nở mày nở mặt, thì ít ra cũng chẳng tốn của bà xu nào! Ngay cái vòng cẩn
hột xoàn bà có mỹ ý, tính làm quà cưới cho cô dâu, chúng cũng không màng…
- Bây không cần thì tao lại cất vào hộp thôi…!
Bà nghĩ khi “ván đã đóng thùng” thì làm cách khác. “Hướng” chúng về cội nguồn, tập cho
con dâu ăn những món Việt thuần túy, để không mất gốc. Tuy vậy, điều khó là chúng nó có ở
gần bà đâu!
Thế là những lần đi chợ sau đó, bà Trang hay mua vài thứ đồ khô trữ, lâu lâu ra bưu điện lấy
cái hộp nhỏ “priority” gởi cho con, kèm theo cái “recipes” nấu ăn, để con dâu thực tập.
Vừa đi vào chợ với bà Hồng, bà Trang lẩm bẩm:
- Thằng Tính thích ăn phở, gỏi cuốn, chả giò, bánh cuốn, cơm tấm bì sườn nướng chả trứng,

bún riêu…
- Sao nó thích nhiều món vậy!
Nghe bạn hỏi, bà Trang cười xoà:
- Ừa, từ nhỏ đến lớn mình nuôi nó, cho nó ăn thành quen, cái gì nó cũng thích…
- Thì mỗi lần bà gởi cho nó một món thôi, bày cho vợ nó nấu, gởi nhiều qúa vợ nó sẽ bị “tẩu

hoả nhập ma”…
- Có lý…
- Tui thấy chắc hơn nữa là bà bay qua thăm tụi nó, rồi nấu nướng tại chỗ thì “đối phương” sẽ

thấm đòn ngay… gởi kiểu nầy chắc gì chúng xài!
- Có lý luôn…

Bà Hồng hỏi tới:
- Chừng nào bà đi?
- Phải đi thôi… tui ghét đi máy bay, nhưng để “bảo tốn nòi giống”, tui phải… “hy

sinh đời mẹ để… sảnh sẹ đời con”…
Tiếng bà Hồng cười lớn:
- Gì vậy má! Người ta nói “hy sinh đời bố để củng cố đời con”!
- Biết rồi… nhưng làm thơ cũng cho trúng chữ chứ!
- Cái đó là “thơ” đó hả… Ờ… tui có ý kiến nầy.
- Gì nữa đây?
Bà Hồng rủ rê theo kiểu “tới luôn bác tài”:
- Bà có một thân một mình, sao không gia nhập “làng thơ” với tụi tui cho vui.
Bà Trang nheo mắt, hồi xưa trong lớp bà nổi tiếng văn hay chữ giỏi, bây giờ mới có
người gãi trúng chỗ ngứa khiến bà cảm thấy vui!… Lâu nay còng lưng ra nuôi con, bà
quên nghĩ tới sở trường của mình! Nhưng…
- Trời đất, dê thì ở đâu chẳng có, cần gì vô hội thơ mới gặp! Với lại thời nầy làm

như ăn phải “nấm độc” hay sao ấy, mấy “cha” có vẻ khác người, hổng thơ mộng
như hồi xưa!
- Đâu phải là đàn ông mới khác người, cả đàn bà cũng vậy…
Nghe bạn nói, bà Hồng cà rỡn:
- Chắc trong số đó có cả bà và tui?
- Không… ừ, mà biết đâu chừng mình cũng ăn phải “nấm độc” lúc nào mà không
hay!
- Tui có nghe nói cũng thích thích, nhưng sợ gặp mấy cha “dê” quá bà ơi!
Hai bà tán dóc đã đời rồi chia tay. Bà Trang về nhà mở lịch coi ngày nghỉ nào thuận
tiện, rồi gọi điện thoại báo tin cho con hay là mình sẽ qua thăm chúng vào một ngày
đẹp trời sắp tới.
Trong lúc chờ đợi, bà đi chợ mua những thứ đồ khô như bún khô, bánh phở, hoa hồi,
đinh hương, mấy cục gia vị làm bò kho, đường phèn, bánh tráng mỏng, bột gạo… cả
một gói bột ngọt nho nhỏ mà bà nhất quyết phải mang theo, vì chợ Mỹ không có bán.
Dĩ nhiên là bà Trang còn mua thêm mắm nêm, và một chai nước mắm thượng hạng,
giá tiền gần năm đồng, đem về quấn giấy chêm mấy lớp, rồi cột vào hai ba cái bao ny
long cẩn thận, nếu không may có bị bể hay đổ ra, thì còn có bao ny long chịu trận, chứ
mấy thứ nầy tụi ngoại quốc sẽ không chịu nổi mùi! Dù vậy, quấn bao kỹ lưỡng xong,
bà Trang lại lấy một cái hộp nhựa lớn đủ bỏ hai chai mắm vào, rồi đậy nắp lại…
- Ở trong nầy chắc, tụi bây sẽ không bể được.
Bà Trang hứng thú nhìn đống đồ mình vừa mới đóng gói. Bà nghĩ thương con ở xa, ăn
uống sẽ không được chăm chút từng thứ như khi còn ở với bà. Lòng bà mẹ nào cũng
thương yêu và lo lắng cho con, dù đứa con đó có già đầu đi chăng nữa, nhiều khi đi
ngoài đường người ta còn tưởng là hai chị em… nhưng dưới mắt người mẹ, con mình
lúc nào cũng bé bỏng!
- Tụi nó sẽ ăn được cả tháng là ít!

Chuyến đi nầy bà tính sẽ ở chơi với con hai tuần là đủ. Bà không thích bỏ nhà đi lâu quá.
Trong sân sau, bà có trồng những thứ cây, dù không phải qúy giá cho lắm, nhưng nếu tụi
nó thiếu nước mà ngủm, thì bà cũng tiếc hùi hụi!
Mới sáu tháng xa con, mà khi gặp lại thì con dâu đã có bầu! Cái bụng nó tròn quay nhô
cao sau làn vải áo. Thằng Tính thì cưng vợ đặc biệt, cái thằng khi ở nhà thì lười như hủi,
không bao giờ giúp mẹ thứ gì… vậy mà bây giờ cũng biết chăm sóc vợ, không để cho vợ
đụng tới cái gì, trừ buổi chiều nào sau bữa cơm, cũng phải đưa vợ đi dạo “hoạt động”
khoảng một tiếng đồng hồ. Đúng là “dại gái”! Thấy mẹ mang theo nhiều thùng bọng,
Tính ngạc nhiên:
- Cái gì mà nhiều vậy mẹ?
- Đồ ăn…
- Đồ ăn?
Ánh mắt của cô dâu có vẻ ngạc nhiên, khi nghe Tính giải thích, Kim cười:
- Tụi con vẫn ăn uống hàng ngày mà mẹ!
- Không, những thứ nầy là đồ ăn Việt Nam…
Rồi bà Trang giải thích thêm với con dâu:
- Đồ khô, mẹ mang theo để chỉ con nấu cho chồng ăn… mẹ hay nấu mấy thứ nầy…
- Ủa thức ăn Việt Nam không có đồ tươi hả mẹ? Ở đây nhiều nhà hàng Việt, Tính đưa

con đi ăn hoài…
Nghe vậy, bà Trang đã gắt:
- Đi ăn ngoài nhiều mỡ màng bột ngọt, độc hại lắm con ơi, ăn ở nhà lành hơn!
- Mẹ đừng lo, tụi nó nấu ngon lắm mẹ…
- Biết vậy, nhưng ăn ở nhà thì tiết kiệm tiền bạc và an toàn hơn con à…
- Tụi con có tiền mà mẹ!
Hai đứa nầy tiền lương gộp lại nghe nói cả hai trăm ngàn đô la một năm, nhưng không
phải vì vậy mà phung phí. Theo ý bà Trang, thì cái gì đáng mua hãy mua. Thấy chúng
tiêu xài mà bà xót cả ruột!
- Thế giới nầy người ta đói nhiều lắm, con biết không!
Biết mẹ sắp giảng mô ran, Tính nói lãng qua chuyện khác.
Kim không phải là một cô gái đảm đang như những cô gái con nhà Việt Nam giỏi giang.
Kim sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả chuyên về buôn bán mỹ phẩm bên Mỹ,
cách suy nghĩ và xử thế của Kim cũng y như Tính.
Gia đình của Kim dù ở Mỹ, nhưng theo xưa giống như các quốc gia Châu Á di dân…
Bởi vậy tới giờ, bên gia đình họ vẫn chưa chịu chấp nhận Tính là con rể trong nhà, mà
chỉ là miễn cưỡng.
Tính hy vọng sau khi Kim có con, thì tình trạng sẽ tốt đẹp hơn.
Tính không nói cho mẹ biết về tình trạng của gia đình bên vợ . Kim cũng đồng ý với
Tính là nếu ba má cô mà cứ xử thế như vậy, thì cô sẽ không thèm biết đến họ nữa! Bởi
vậy, không bao giờ bà Trang nghe hai đứa nhắc đến gia đình bên vợ, cũng không có một
cái hình nào của họ trong nhà… Nhưng thôi, chuyện con dâu đang có bầu cũng phải lo
từ đây là vừa…

Ngày đầu tiên, khi bà Trang mở cái kho chứa đồ ăn trong nhà chúng nó, thì bà thấy
ngay những hộp đồ khô gởi bưu điện của bà chẳng ai mở ra xem, còn nằm nguyên trong
đó. Bà thấy buồn buồn, cái buồn kéo dài ra cả buổi… Nhưng rồi bà lại phải cố quên để
cho không khí dễ thở:
- Kim, tới đây mẹ dạy cho mà nấu phở…
Kim đang vác cái bụng khá to so với thân hình nhỏ nhắn của cô, ì ạch đi tới chiếc ghế
sofa ngồi xuống, chứ không vào bếp với mẹ chồng:
- Con mệt… mẹ cứ làm một mình đi, chồng con thích ăn phở lắm, tuần nào cũng phải

đi ăn một lần…
- Mẹ đã nói ăn ở ngoài độc hại lắm….
- Không có đâu. Nhà hàng nầy họ được báo chí Mỹ viết bài khen quá trời… nếu mẹ

nói độc thì làm sao khách cứ đến nhiều vậy! Mà đâu thấy ai bị vô nhà thương!
Nghe Kim nói, bà Trang thấy bực quá nhưng… cũng đúng. Độc hại là khi về lâu về già
nó mới phản ứng, chứ có ai thấy liền đâu!
- Thì nó không làm mình chết bây giờ… có điều không tốt cho mình sau nầy… hồi

xưa đâu có ai biết mà nói cho mẹ hay như các con bây giờ!
Kim tròn mắt lên:
- Mẹ không biết nên mẹ ăn phở ở tiệm hoài phải không?
Bà Trang tưởng con dâu đồng thuận với mình, gật đầu:
- Chứ sao nữa, giờ mới thấy hối hận…
- Mà tới giờ mẹ vẫn đâu có sao…
Tức thì thôi. Nhưng bà Trang không thêm nói với con dâu lười biếng nầy nữa. Bà sẽ nói
riêng với thằng con mình…
Nhưng rồi một lúc sau, nghĩ lại bà thấy con nhỏ cũng có lý. Ngày xưa bà ăn uống tuồng
luông, bây giờ lớn tuổi rồi mới biết sợ… Dòng đời trôi chảy như thế, bà cấm chúng nó
làm gì…
Nhìn con dâu trong chiếc bụng bầu uể oải bà cũng ngán ngẫm, ngày xưa có bầu thằng
Tính bà còn tệ hơn thế nữa, là nằm vùi trên giường suốt ngày, cơ thể bà như không
giống với những người đàn bà bình thường khác, mà yếu đuối lạ lùng! Con Kim giống
bà ở điểm nầy, nhưng nó còn đi lại trong nhà hay shopping, còn bà thì không!
Nghĩ thế nên bà thông cảm cho dâu, cắm cúi o bế nồi phở thật ngon, để chúng còn
thưởng thức.
Ngồi vào bàn ăn, nhìn con trai vừa húp nước súp vừa khen ngon luôn miệng, con dâu
cũng y vậy, bà Trang cảm thấy bao nhiêu buồn phiền trôi cả… Bà khoái chí vì con cái
ăn uống tận tình, không bày đặt chê ỏng eo như một số “qúy tử” khác là bà vui rồi.
- Ai bày cho mẹ nấu phở vậy?
- Không ai hết, tự mẹ tìm tòi và nấu thôi… ăn thua là mình biết nêm nếm..
Tính khoe:
- Kim nó biết làm cá chiên dầm nước mắm ngon lắm mẹ.
- Thật không?
- Kim, ngày mai chiên cá “crunchy” cho mẹ ăn nha…

Con dâu cười toét miệng:
- OK, con thích món nầy lắm.
Ngày hôm sau, khi Tính đã đi làm, Kim thức dậy sớm hơn ngày thường, rồi sửa soạn
rồi đi chợ với mẹ chồng. Hai người đón xe điện cho tiện. Ngồi trên xe, Kim nói:
- Xe điện sẽ chạy qua một khu rừng thông đẹp lắm nên con thích đi là vậy, chút nữa

mẹ nhìn xem nhé.
- Con không đi làm sao?
Kim nhìn mẹ chồng, cười:
- Khi biết mẹ sắp qua chơi, con đã xin sở cho nghỉ nửa năm không ăn lương, nhân

tiện để dưỡng sức sanh đẻ luôn, nên mẹ đừng lo…
- Vậy sao!
Bà Trang bất ngờ khi nghe Kim nói… “thì ra chúng nó cũng sửa soạn để đón mình
chứ không vô tình quá như mình nghĩ”…. Bà thấy có cảm tình hơn với con dâu nầy.
Nhưng những câu hỏi về hai hộp đồ khô chúng không đụng tới… mà bà Trang thắc
mắc luẩn quẩn trong đầu. Bà muốn hỏi cho ra lẽ. Cuối cùng bà mở miệng:
- Sao mấy hộp đồ ăn mẹ gởi qua con không mở ra coi?
Kim ngạc nhiên:
- Hộp nào mẹ?
- Thì hai hộp mẹ gởi bưu điện đó.
- Ủa, có đồ ăn trong đó hả mẹ?
- Chứ con nghĩ là mẹ bỏ cái gì trong đó?
- Ồ… vậy mà anh Tính nói con là mẹ gởi sách dạy nấu ăn, mà chính mẹ cũng nói là

gởi sách mà! Con đâu biết chữ Việt mà đọc…
- Mẹ nói hồi nào?
- Thì con thấy trên hộp mẹ có ghi là “book” mà!
Nghe Kim nói, bà Trang chợt nhớ ra đúng vậy, chính bà là người ghi chữ đó, vì bà
nghĩ như vậy giá tiền cước phí sẽ rẻ hơn, có ai ngờ nếu dùng hộp của bưu điện, thì
tiền gởi giống nhau… Bà giả lơ không nhắc đến nữa, trong lúc Kim hồ hỡi:
- Lát về nhà con sẽ mở coi…
Hôm đó Kim đã chiên con cá thật dòn theo phương pháp của cô, dầm với nước mắm
tỏi ớt do Tính làm, và nhất là mớ rau muống luộc có màu xanh, tươi rói theo cách nấu
của Ba Tàu, như lời Kim thổ lộ.
Nước mắm tỏi ớt là do chính bà biên cho Tính một tờ giấy ghi cách làm, không ngờ
thằng nhỏ còn giữ, và thực hiện cũng ngon…
- Mời mẹ ăn cơm…
Con dâu mời bằng tiếng Việt ngọng nghịu, nhưng bà Trang rất vui lòng. Bà nghĩ :
“Thôi từ nay nhớ chúng thì mình cứ qua thăm, nấu cho chúng ăn, nó muốn học thì
học, không thì thôi, khỏi cần chỉ vẻ làm gì cho mệt… lâu ngày tự nhiên nó cũng biết”!
Bà âu yếm nhìn dâu:
- Nghe thằng Tính nói con nấu cà ri ngon lắm. Mai nấu cho mẹ ăn nghe…
Cát Đơn Sa (Diễm Châu)

MƯA....MƯA...MƯA....MƯA...

VŨ THÙY NHÂN.

Màn mưa mỏng nhẹ nhàng,
Trên hoa cỏ thênh thang,
Rồi mưa rơi nặng hạt,
Trầm bổng và rộn ràng...
Gieo vui như tiếng đàn,
Đầm ấm và hân hoan.
Những cung bậc nhỏ to,
Những âm thanh hài hòa...
Mưa...mưa...mưa...mưa...mưa...
Kim cương trên phiến lá,
Lóng lánh trên nụ hoa,
Dịu ngọt và thiết tha,
Mưa...mưa...mưa...mưa...mưa...
Lách tách trên mái nhà,
Ngân trong hồn đậm đà,
Dìu hồn vào cõi...xa..
*********************************

Nhìn Lại Dĩ Vãng

Văn học Việt Nam có hai ngữ vựng để tả thời gian đã qua: dĩ vãng và quá khứ. Khi
dùng ngữ vựng dĩ vãng, tác giả chỉ muốn diễn tả tâm tư tình cảm nuối tiếc những kỷ
niệm êm đẹp và thơ mộng đã qua, loại bỏ những lo lắng, vất vả, ưu phiền. Bài viết này
cũng có nội dung như vậy.
Tiêu sử Trần Đức Hân xin được tóm tắt ngắn gọn như sau: TĐH sinh ở Bắc-Việt, được
cha mẹ dẫn theo đoàn người di cư vào Nam-Việt năm 1954.

Như vậy, TĐH sinh ra và lớn lên ở miền Duyên Hải Bắc Việt. Ông bà hai bên đều có
một số ruộng tư điền. (Thời xưa hôn nhân thường do cha mẹ hai bên xếp đặt; yếu tố
“môn dăng hộ đối” rất quan trọng.) Riêng bên ngoại cho các con trai lên Hà-Nội học,
sau đó làm việc ở Hà Nội và Hải Phòng. (Có một cậu du học Pháp.) Con gái chỉ được
theo tiểu học ở trường làng; thế hệ đó là như vậy. Do đó mảnh dĩ vãng đầu tiên nằm ở
cánh đồng lúa của làng:

Ruộng Đồng sau Mùa Gặt
Rạ rơm lúa thóc xong rồi.
Những chiều rảnh rỗi ra chơi ngoài đồng.
Rung rinh tấm thảm mạ non.
Xa xa điểm trắng mấy con vạc trời.
Mục đồng vài trẻ thảnh thơi,
Thả trâu gặm cỏ, vui chơi tháng này.
Trời xanh lơ lửng áng mây;
Vi vu tiếng sáo; cao bay cánh diều.
Ắp đầy kỷ niệm rất nhiều,
Quê hương tiếng nói mến yêu cuộc đời.

Trong văn học ở thế kỷ trước ở Bắc-Việt, có một số thơ văn tả sáo diều. Diều phải lớn
mới mang được bộ sáo gồm từ 3 đến 5 cái to nhỏ khác nhau bay lên cao. Khi gió thổi
vào, chúng phát ra tiếng nhạc trầm bổng khác nhau, nhưng cũng có lúc cộng hưởng
(resonance) tạo nên cung điệu nhỏ to khác nhau nghe rất thơ mộng.
Vì có nhiều ruộng tư điền và biết rằng nếu ở lại sẽ bị “đấu tố” nên đại gia đình đã bỏ tất
cả ruộng vườn, nhà đất, trâu bò di cư rất sớm. Từ ngày vào Nam-Việt tới nay, tôi không
thấy nơi đâu có sáo diều nữa! Nhưng Nam-Việt có tiếng tiêu trong chiều vắng do nghệ
sĩ thổi. (Mỗi ống sáo diều cho một “note” duy nhất; ống tiêu do nghệ sĩ thổi lúc bịt lỗ này
khi mở lỗ kia cho “notes” cao thấp khác nhau.)

#2#
Mảnh dĩ vãng thứ 2 ở Nam-Việt. TĐH thi bằng Tiểu học, rồi học Trung học ở Sài-
Gòn, bắt đầu từ Đệ Thất (lớp 6). Các bạn đọc đã là học sinh, đã biết mỗi kỳ hè, đều
có sự chia ly giã từ của vài bạn học sẽ theo cha mẹ đi tỉnh khác, bạn học chuyền
nhau những cuốn lưu bút với những câu mến chúc tốt đẹp, nữ sinh thường ép thêm
vài cánh hoa màu sắc. Phượng nở và ve kêu, tôi đã từng nhìn ngắm và lắng nghe.
Sau di cư vào Nam hai năm, ba mẹ tôi và 4 đứa em đi tỉnh xa Sài-Gòn, tôi ở trọ nhà
ông chú họ. Đầu năm 1960, để đỡ gánh nặng cho cha mẹ, tôi đã tìm được nơi kèm
3 em tiểu học của một gia đình giàu ở khu gần Viện Đại Học Saì-Gòn cạnh Công
Trường Chiến Sĩ (sau 1963 là Công Trường Tháp Rùa), cũng rất gần trường Phân
Khoa Luật.
Việc kèm trẻ xong lúc 10 giờ tối, tôi ghi lại kỷ niệm này và tả Sài-Gòn thập niên đó

trong bài sau:

Sài-Gòn và Tôi
Đây Sài-Gòn,
Hòn ngọc Viễn-Đông.
Ngựa xe tấp nập.
Bán buôn sầm uất.
Phố phường khang trang.
Không dấu vết chiến tranh. (1)
Nhiều đường phố, công viên, trường học, dinh thự,
Vẵn còn tên bằng Pháp ngữ.

Rue Catinat, Avenue Bonard, jardin Bereau,

College Marie Curie . . . lycée Jean Jacques Russeau,
Lycée nơi ông hoàng Sihanouk của nước Cam-bốt,
Mấy năm sang đây du học.
Dinh Độc-Lập vẵn còn tên Dinh Norodom. (2)
Người Pháp ghi công,
Vì ông mời họ sang đô hộ,
Nước Cambodge bé nhỏ.
Saigon Cholon hai thành phố riêng biệt nhau,
Phát triển nối liền phải mười năm sau.
Ngoại ô còn ngựa chạy lọc cọc,
Kéo xe trông cực nhọc.
Ngã ba Ông-Tạ một làng ven đô,
Còn gốc tre dùng để cột bò.
Bên kia khu ngựa đua Phú-Thọ,
Những bìa vườn cao-su cổ thụ.
Khu trường Nguyễn-Trãi còn là dải đất hoang,
Ven bờ sông đứng trơ chỉ có mấy kho hàng.
Vùng Xóm-Chiếu quanh nhà thờ Khánh-Hội,
Nhiều ao hồ dấu vết của ruộng cói.
Vùng đại học Minh-Đức ruộng rau muống vẫn còn,
Khu đại học Vạn-Hạnh cũng chẳng khác hơn.
Bên Thị-Nghè qua Viện Dưỡng-Lão,
Góc ruộng dài đứng chơ vơ nhà máy xay gạo.
Ruộng lúa chạy dài tới ngã ba Hàng-Sanh
Mùa nắng ruộng khô, con nít làm sân đá banh.

Từ cầu Tân-Định, một chín năm tám, vào tháng cuối,
Xe GMC bắt đầu đổ đất đỏ trên ruộng, rạch dừa nước.
Xuyên ruộng đồng xa lộ khởi công,
Xây cầu qua mấy nhánh sông.
Trước đó muốn ra Cap-Saint-Jacques tắm biển, (3)
Phải qua Thủ-Đức, vòng Biên-Hòa thật bất tiện.
Sài-Gòn mừng nghi lễ Pháp trả Độc-Lập cho nước ta.
Thành lập, chào đón chính thể Cộng-Hòa.
Cuối tuần trên các công viên ban kèn đồng hòa nhạc,
Buổi chiều, rạp lộ thiên các nghệ sĩ diễn kịch, ca hát.
Riêng tôi, một học sinh sống xa mẹ cha,
Nhiều tối kèm trẻ ở khu nhà giàu tư gia.
Mười giờ ra về thanh vắng,
Hàng cây me và cây dầu cao hai bên đường làm bạn.
Bên bóng đèn điện, những con dế lượn quanh,
Radios nhà ai, văng vẳng ngâm thơ “Tao-Đàn”.
Thỉnh thỏang có người cỡi xe ngược chiều vội vã.
Hay đôi tình nhân dìu dắt nhau trên lề thong thả.
Miền Nam thanh bình. (4)
Sài-Gòn đẹp xinh.
Chú thích: (1) Chiến tranh Việt-Nam phần I (1945 – 1954). (2) Norodom Sihanouk
vua Cambodge. (3) Vũng Tàu. (4) Chiến tranh VN phần II sau mấy năm thanh bình
này. Tuy nó bắt đầu từ đại hội người cộng sản ở Bắc Việt giữa năm 1959, nhưng
cuối năm 1960 mới lập được nhóm công cụ giải phóng và ra mắt trong rừng sâu
ngày 20 – 12 – 1960; chiến tranh VN phần II trong vài năm đầu là khủng bố với
nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các vụ nén lựu đạn vào ban nhạc kèn đồng
và sân khấu như được tả trong bài thơ trên. Các cuộc trình diễn miễn phí này không
còn nữa.

#3#
Trong tám bộ môn Văn-Học và Nghệ Thuật (thơ văn, âm nhạc, kịch nghệ, khiêu vũ,
hội họa, đêu khắc, điện ảnh, và nhiếp ảnh), thì âm nhạc có khả năng tạo rung cảm
và lưu trữ trong tâm hồn khán thính giả bền lâu nhất. Lúc tôi 17 tuổi, một bạn rủ tôi
gia nhập nhóm ca hát gồm 7 nam sinh. Họ có sẵn trống và đàn. Mỗi tuần tụ họp
nhau vào một buổi chiều lâu khoảng 3 tiếng đồng hồ để đàn hát vui vẻ. Duy nhất chỉ
có nước lạnh giải khát, không có gì khác nữa.
Đại đa số con người thích nghe hát. Dĩ nhiên chỉ thích những bài hợp tâm hồn mình.
Ai “biết ca” mà được hát có trống nhịp có đàn đệm thì sự thích thú gấp hơn nhiều
lần.
(Theo tôi nhận biết, thế hệ trước tôi khoảng 10 tuổi trở lên quen hát những bài ca
tiền chiến như Hòn Vọng Phu, Đêm Thu, Giọt mưa Thu, Đêm Đông, vân vân. Họ
cũng hát những bài có nội dung lãng mạn nhưng rất kín đáo như Thiên Thai, Tiếng
Sáo Thiên Thai, Dứt Đường Tơ, Suối Mơ, Trăng Mờ Bên Suối, Cây Đàn Bỏ Quên,

vân vân.)


Click to View FlipBook Version